BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH --------------------- Nguyễn Thị Kim Hằng
Chuyên ngành : Lịch sử thế giới Mã số
: 60 22 50
LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGÔ MINH OANH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2009
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự nhiệt tình giúp đỡ của Ban Giám Hiệu Trường Đại học Sư
Phạm TP.HCM, Phòng Khoa học Công nghệ - Sau Đại học cùng tập thể Thầy, Cô khoa Lịch sử.
Đặc biệt, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS. Ngô Minh Oanh, thầy đã dành
nhiều thời gian và tận tình hướng dẫn tôi từ lúc bắt đầu cho đến khi hoàn thành luận văn.
Cảm ơn gia đình và bạn bè đã hỗ trợ vật chất cũng như đã làm chỗ dựa tinh thần cho tôi
trong suốt thời gian tôi học tập và thực hiện luận văn.
Xin chân thành cảm ơn!
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, thế giới đang có nhiều diễn biến sâu sắc và phức tạp như hiện nay,
nghiên cứu cục diện chính trị quốc tế không thể không nghiên cứu địa-chính trị, nghĩa là nghiên cứu sự
biến đổi chính trị trong những quy mô không gian địa lý nhất định với tất cả sự tác động qua lại giữa
hai nhân tố đó. Cụ thể là việc xác định các nước láng giềng, các khu vực có vị trí trọng yếu với những
ý đồ và chiến lược có thể là đối tác quan hệ hoặc là đối tượng đấu tranh ... luôn là vấn đề có ý nghĩa hết
sức quan trọng đối với việc hoạch định chiến lược đối ngoại của mỗi quốc gia sao cho phù hợp với tình
hình thế giới và khu vực, để phục vụ kịp thời mục tiêu phát triển đất nước. Đặc biệt là sau Chiến tranh
lạnh, địa-chính trị đã được sử dụng phổ biến hơn để phân tích các vấn đề toàn cầu và khu vực.
Mỹ là một cường quốc có ảnh hưởng lớn trên trường quốc tế và đang ra sức củng cố vị trí siêu
cường, mưu đồ giữ vai trò chi phối và làm bá chủ thế giới. Mỹ cũng là một trong những nước thành
công nhất trong việc nghiên cứu và vận dụng khoa học địa-chính trị: bắt nguồn từ nhân tố địa lý để
khảo sát, phân tích mối quan hệ chính trị quốc tế, từ đó xác định chiến lược an ninh và phát triển quốc
gia. Chiến lược toàn cầu của Mỹ là sự vận dụng nội dung của các học thuyết địa-chính trị, đó là: lợi ích
an ninh quốc gia không tách rời khỏi các hoạt động chính trị và trong mỗi một thời kỳ lịch sử, trên bản
đồ chính trị quốc tế thường có một trung tâm chiến lược mà nếu nước nào khống chế được trung tâm
đó thì sẽ chi phối được toàn bộ thế giới. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, mục tiêu địa-chính trị của Mỹ
chủ yếu nhằm vào đối tượng chiến lược toàn cầu là Liên Xô và châu Âu là “cấu trúc nền” của chính trị
quốc tế. Châu Âu là nơi giới lãnh đạo của cả Mỹ lẫn Liên Xô coi là có ý nghĩa hàng đầu đến sự sống
còn của quốc gia mình. Sau Chiến tranh lạnh, thực tế cạnh tranh địa-chính trị giữa các nước lớn cho
thấy: đại lục Âu - Á đang trở thành “cấu trúc nền” của chính trị quốc tế đầu thế kỷ XXI. Mục tiêu chiến
lược đối ngoại của Mỹ là tiếp tục xác lập và duy trì vai trò lãnh đạo đối với thế giới.
“Yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay” là một
vấn đề thời sự, việc tiến hành nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện vấn đề này là một việc làm
cần thiết và có ý nghĩa sâu sắc, góp phần phục vụ cho công việc giảng dạy, học tập, nghiên cứu lịch sử
thế giới hiện đại của sinh viên và học sinh.
Với ý nghĩa khoa học và thực tiễn to lớn đó, chúng tôi thấy rằng vấn đề “yếu tố địa-chính trị
trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay” là đề tài đầy lý thú và đem lại
những kết quả hữu ích. Do đó, chúng tôi đã mạnh dạn chọn vấn đề này làm đề tài nghiên cứu cho luận
văn tốt nghiệp cao học của mình.
2. Lịch sử vấn đề
Trong những năm gần đây, khái niệm “địa-chính trị” thường được đề cập nhiều trong các công
trình nghiên cứu về quan hệ quốc tế. Đó là vì quá trình nghiên cứu về chính trị thế giới hiện nay vẫn
dựa trên việc phân tích tình hình ở các khu vực, các quốc gia. Sau Chiến tranh lạnh, Mỹ trở thành siêu
cường duy nhất. Để bảo vệ địa vị bá chủ của mình, Mỹ muốn xây dựng trật tự thế giới đơn cực dưới sự
chỉ đạo của Mỹ bằng cách bảo vệ cho được vai trò chủ đạo trong đời sống chính trị ở lục địa Âu - Á.
Vì vậy, “yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay” được
nhiều nhà nghiên cứu quan tâm và đã có nhiều công trình nghiên cứu của các học giả trong và ngoài
nước với nhiều góc độ, phạm vi phân tích và đánh giá khác nhau.
Năm 1993, John Rennie Short có công trình nghiên cứu “An Introduction to Political
Geography” mang tính lý luận về địa-chính trị của trật tự thế giới, địa-chính trị của nhà nước, địa-chính
trị của sự tham dự. Tác giả phân tích trật tự thế giới được hình thành từ sự phát triển không đều trong
vòng xoáy tư bản chủ nghĩa, thể hiện ở trật tự Bắc - Nam: giữa những nước giàu và nước nghèo, cuộc
đối đầu Đông - Tây: giữa hai khối xã hội chủ nghĩa (XHCN) và tư bản chủ nghĩa (TBCN), sự phát
triển và tiêu vong của Liên bang Xô viết, sự nổi lên của những trung tâm quyền lực mới tạo nên một
thế giới đa cực. Trong chương địa-chính trị của nhà nước, nội dung đáng chú ý là mối liên hệ giữa nhà
nước và trật tự thế giới, phạm vi của mỗi quốc gia, tình trạng căng thẳng giữa các quốc gia - dân tộc
hàm chứa quan điểm của mỗi quốc gia dân tộc và nhà nước được nghiên cứu với tư cách là thực thể
trong không gian. Yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ được tác giả đề cập nhằm
minh họa cho những lý luận, chưa phải là một hệ thống nghiên cứu toàn diện, chuyên biệt.
Năm 2000, Nguyễn Thế Lực, Nguyễn Hoàng Giáp có bài “Khái quát lịch sử phát triển tư tưởng
địa-chính trị thế giới” đăng trên tạp chí Khoa học Chính trị. Bài viết định nghĩa “địa-chính trị là khoa
học nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố địa lý và chính trị” [47, tr.13]. Tư tưởng về
địa-chính trị đã có từ rất lâu đời, ngay khi có sự xuất hiện các nhà nước quốc gia-dân tộc, nhưng phải
đến nửa sau thế kỷ XIX, địa-chính trị mới trở thành một khoa học độc lập. Các tác giả đã chia quá trình
phát triển tư tưởng địa-chính trị thành các giai đoạn chủ yếu sau: giai đoạn từ thế kỷ XIX đến chiến
tranh thế giới thứ nhất, giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, giai đoạn từ sau chiến tranh thế
giới thứ hai đến nay. Bài viết tập trung vào các nhà tư tưởng địa-chính trị nổi tiếng như Alfred Thayer
Mahan với luận điểm “việc kiểm soát quyền lực trên biển là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với quyền
lực quốc gia, những quốc gia có lối vào trên biển dễ trở thành cường quốc hơn các quốc gia trên bộ”,
Halford Mackinder với quan điểm nổi tiếng: “Ai chiếm được vùng Đông Âu thì sẽ chiếm được vùng
đất trung tâm (hàm ý nói về nước Nga); ai nắm được vùng đất trung tâm sẽ chỉ huy được hòn đảo của
thế giới (đại lục Á - Âu); ai nắm được hòn đảo của thế giới sẽ chi phối được cả thế giới” và Saul Cohen
với bản thiết kế về một thế giới được phân chia thành các khu vực địa-chiến lược dưới áp lực của các
siêu cường, trong đó đặc biệt nhấn mạnh tầm quan trọng địa-chiến lược của hai lãnh địa đối với Mỹ, đó
là: lãnh địa mậu dịch hàng hải hướng ngoại (Tây Âu, châu Phi, các nước châu Mỹ) và lãnh địa lục địa
hướng nội (Liên Xô trước đây, Trung Quốc). Tuy nhiên, các tác giả chưa đề cập đến thuyết “Vùng rìa”
(Rim Land) của Nicholas John Spykman, thuyết “Sức mạnh trên không” (Air Power) của Alexander
Procofieff de Seversky.
Năm 1996, NXB Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách “Sự đảo lộn của thế giới địa chính trị
thế kỷ XXI” của Maridon Tuareno do Nguyễn Văn Hiến dịch. Bà Maridon Tuareno là một chuyên gia
có uy tín ở Pháp về các vấn đề chiến lược và quan hệ quốc tế, đã từng làm cố vấn về các vấn đề chiến
lược và quốc phòng cho thủ tướng Pháp Misen Rôca trong những năm 1988 - 1991. Cuốn sách cho ta
một bức tranh sinh động và chi tiết về những thay đổi diễn ra trên thế giới sau khi Chiến tranh lạnh kết
thúc, và những thay đổi ấy được phân tích rất cặn kẽ trong bối cảnh lịch sử và bối cảnh khu vực của
chúng. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất một lý thuyết về quan hệ quốc tế hiện đại mà chúng ta không thể
đồng tình: theo bà, với sự chấm dứt của “trật tự Yanta”, thế giới sẽ là một thế giới chịu sự chi phối của
châu Âu, của sức mạnh và các giá trị của châu Âu.
Năm 2004, NXB Chính trị quốc gia xuất bản cuốn sách “Nước Mỹ nửa thế kỷ chính sách đối
ngoại của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh” của Thomas J. McCormich do Thùy Dương dịch.
Trọng tâm của chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong và sau Chiến tranh lạnh là thực hiện kế hoạch bá
quyền Mỹ. Chiến tranh lạnh là một phần của kế hoạch bá quyền, một phần quan trọng trong kế hoạch
đó là việc ngăn chặn và chế ngự Liên Xô, việc ràng buộc nước Anh vào một “mối quan hệ đặc biệt”,
việc kiềm chế Đức và Nhật Bản, cũng như việc kiềm chế chủ nghĩa dân tộc cách mạng ở Thế giới thứ
ba bằng “củ cà rốt và cây gậy” cũng chỉ là một phần của nhiệm vụ này. Mặc dù Chiến tranh lạnh đã kết
thúc song Chính phủ Mỹ vẫn tin rằng cấu trúc của chủ nghĩa tư bản toàn cầu đòi hỏi phải có một trung
tâm bá quyền để đặt ra và cưỡng chế thi hành các luật lệ quốc tế của chủ nghĩa tư bản tự do, và chỉ Mỹ
mới có sức mạnh để đóng vai trò đó.
“Bàn cờ lớn” là tác phẩm tiêu biểu của Zbigniew Brzezinski về địa-chính trị thế giới, mô tả và
lý giải chiến lược toàn cầu của nước Mỹ trong thế kỷ XXI dưới lăng kính lợi ích chính trị và khả năng
duy trì vị trí siêu cường của quốc gia này. Theo Brzezinski, trên “bàn cờ lớn” đó, lục địa Âu - Á là nơi
sẽ diễn ra những tranh chấp chủ yếu và chính tại nơi đó, Mỹ sẽ khẳng định được vị trí lãnh đạo thế giới
của mình. Vì vậy, đảm bảo vị trí lãnh đạo của Mỹ trong NATO, mở rộng tổ chức này về địa lý và
phạm vi tác chiến, duy trì sự hiện diện quân sự và ảnh hưởng tuyệt đối của Mỹ tại các khu vực then
chốt như Trung Đông, Viễn Đông (Nhật Bản và Hàn Quốc), tăng cường xâm nhập những địa bàn chiến
lược then chốt (Trung Á, Đông Nam Á) sẽ là những bước đi mang tính “chiến thuật” nhằm đảm bảo
không một đối tượng nào có thể nổi lên tranh giành quyền lãnh đạo thế giới của Mỹ. Tuy nhiên, trong
cuốn sách này, Brzezinski đã đánh giá chưa đúng vai trò của Trung Quốc, tuyệt đối hóa vai trò của Mỹ
trong trật tự thế giới ngày nay. Brzezinski đã gọi tên bàn cờ lớn là “bàn cờ Âu - Á” để giới hạn không
gian mô tả của mình. Sự quá chú trọng đến khu vực Âu - Á đã khiến cho quan điểm về thế giới mới
của Brzezinski thiếu đi tính toàn diện, dù không hẳn là phiến diện. Cho dù vai trò của lục địa Âu - Á
trong việc hình thành trật tự thế giới có lớn đến mức nào thì cũng không thể xem nhẹ các khu vực khác
(châu Phi, châu Mỹ).
Năm 2003, Viện Thông tin Khoa học xã hội xuất bản công trình nghiên cứu “Khủng bố và
chống khủng bố với vấn đề an ninh quốc tế”. Trong công trình, các tác giả đã đưa ra định nghĩa về
khủng bố: “Khủng bố là những hành vi bạo lực không tuyên bố nhằm vào những mục tiêu không được
trang bị các phương tiện quân sự hoặc không được báo trước để tự bảo vệ mình, nhằm mục đích gây
sức ép đối với nhà cầm quyền về mặt chính trị” [80, tr.24], đồng thời phân tích nguyên nhân của chủ
nghĩa khủng bố nằm ở mối quan hệ giữa nhà nước với dân chúng, giữa những người cai trị với người
bị cai trị, giữa khu vực trung tâm và khu vực ngoại vi, vì vậy xây dựng tốt các mối quan hệ này sẽ có
cơ hội loại trừ được chủ nghĩa khủng bố. “Vụ chấn thương ngày 11/9 đòi hỏi phải thực hiện nhiều công
việc tái cơ cấu về mặt địa-chính trị và thể chế”, cụ thể là Mỹ cần “tập hợp rộng rãi các quốc gia thành
một mặt trận hợp tác linh hoạt chống khủng bố; trợ giúp về mặt kinh tế, chính trị, quân sự để ổn định
khu vực cho vùng Trung Đông, Trung Á, thậm chí cho cả Đông Nam Á; khuyến khích dân chủ hóa đối
với các chế độ bị nhiều nước phản đối đồng thời với cả những nước phương Tây ủng hộ họ; cuối cùng
cần hợp nhất dân nhập cư đến phương Tây đang ngày càng gia tăng do logic toàn cầu hóa” [80, tr.154-
155]. Thông qua cuộc chiến chống khủng bố, Mỹ đã củng cố được vị trí địa-chính trị của mình.
Năm 2003, Nguyễn Đình Luân có bài nghiên cứu “Tìm hiểu logic địa-chính trị trong chiến lược
đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh” đăng trên tạp chí Nghiên cứu quốc tế. Bài viết phân tích tầm
quan trọng của địa-chính trị trong ván bài của các nước lớn, làm rõ khái niệm “cấu trúc nền” và các
“cửa ô” của cơ cấu địa-chính trị đầu thế kỷ XXI. Quan trọng nhất là Nguyễn Đình Luân đã có những
nhận định về các tính toán địa-chính trị của Mỹ, cụ thể như việc Iraq tiến công Kuwait tạo cơ hội cho
Mỹ đóng quân lâu dài ở Trung Đông, quá trình Đông tiến của NATO với mục tiêu vẽ lại bản đồ địa-
chính trị ở châu Âu, khủng hoảng Balkan và cuộc chiến Kosovo với ý đồ khống chế bán đảo Balkan,
sự kiện 11/9 và cuộc chiến chống khủng bố với mục tiêu biến “nguy cơ” thành “thời cơ” tiến quân vào
Trung Á, thay đổi bàn cờ chính trị ở Trung Đông, trở lại Đông Nam Á về quân sự. Bài viết cũng đề cập
đến những tác động và giới hạn chiến lược của Mỹ. Giá trị tham khảo của bài viết là rất lớn, tuy nhiên
do số lượng trang của bài nghiên cứu còn hạn chế - chỉ 13 trang nên cần bổ sung những nội dung chi
tiết, cụ thể làm sáng tỏ những nhận định trên.
Năm 2005, Hồ Châu có bài viết “Chiến lược Á - Âu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh - nhìn từ
góc độ địa-chính trị” đăng trên tạp chí Nghiên cứu châu Âu. Như tên của bài viết, nội dung chính được
đề cập ở đây là sự phân tích chính sách của Mỹ đối với lục địa Âu - Á sau hơn 10 năm Chiến tranh
lạnh kết thúc dưới góc nhìn địa-chính trị. Bài viết nêu rõ: “Điều quan trọng nhất để tìm kiếm vai trò bá
chủ thế giới chính là làm sao để khống chế và giữ vai trò chủ đạo trong các công việc tại lục địa Á -
Âu” [7, tr.19]. Từ đó Mỹ đã hình thành một chiến lược quan trọng khác là ngăn chặn bất kỳ nước lớn
hoặc một liên minh nào khác ở châu Âu có khả năng vươn lên loại bỏ hoặc đe dọa gạt Mỹ ra khỏi lục
địa Âu - Á. Trọng tâm trong hoạt động đối ngoại của Mỹ là khống chế châu Âu đặc biệt là Tây Âu, mở
rộng NATO, tăng cường sức mạnh quân sự ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, gia tăng ảnh hưởng
ở các khu vực Trung Đông, Trung Á và Nam Á. Bài viết chủ yếu đề cập đến các quan hệ Mỹ - Liên
minh châu Âu, quan hệ Mỹ - Nhật, quan hệ Mỹ - Ấn Độ; quan hệ Mỹ - Nga chỉ điểm vài nét quanh vấn
đề các nước SNG, khu vực Trung Á, chưa nói đến quan hệ cạnh tranh giữa Mỹ và Trung Quốc trong
khu vực châu Á - Thái Bình Dương và một số vấn đề khác như vấn đề Kosovo, vấn đề hạt nhân trên
bán đảo Triều Tiên v.v...
Năm 2006, John Bellamy Foster có bài nghiên cứu “The New Geopolitics of Empire” đăng trên
tạp chí Monthly Review. Bài viết phân tích những tư tưởng địa-chính trị của Mackinder, Haushofer,
Spykman và ảnh hưởng của nó đến chính sách đối ngoại của các cường quốc Anh, Đức, Mỹ và lịch sử
thế giới. Cụ thể là địa-chính trị của “hòa bình kiểu Mỹ” là nội dung của yếu tố địa-chính trị trong chiến
lược toàn cầu của Mỹ thời kỳ Chiến tranh lạnh và “địa-chính trị mới” giai đoạn sau Chiến tranh lạnh
“đã di chuyển từ vùng đến phạm vi toàn cầu”. Mục tiêu địa-chính trị xuyên suốt trong chiến lược toàn
cầu của Mỹ là ngăn chặn sự xuất hiện của bất cứ một nước hay liên minh nào chống lại uy quyền tối
cao trên phạm vi toàn cầu của Mỹ. Foster cũng khẳng định sự thất bại của địa-chính trị đế quốc và trật
tự đơn cực của Mỹ, đồng thời tìm kiếm sự hòa bình ở một thế giới công bằng của chủ nghĩa xã hội.
Qua vài nét mang tính tổng quan như trên cho thấy vấn đề “yếu tố địa-chính trị trong chiến lược
toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến nay” hết sức rộng lớn và phức tạp, cần được tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung và hoàn thiện.
3. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian, luận văn nghiên cứu yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau
Chiến tranh lạnh (12/1989) đến nay (5/2008).
- Về không gian nghiên cứu của vấn đề, chủ yếu ở châu Âu, châu Á - những khu vực địa-chính
trị trọng tâm của thế giới, châu Phi và châu Mỹ được đề cập ở mức độ hạn chế.
- Về nội dung nghiên cứu, bên cạnh những nét khái quát về địa-chính trị và yếu tố địa-chính trị
trong lịch sử nước Mỹ giai đoạn trước và trong Chiến tranh lạnh, luận văn chủ yếu trình bày yếu tố địa-
chính trị trong chính sách đối ngoại của Mỹ với các khu vực và trong sự tham dự của Mỹ vào các sự
kiện và vấn đề tiêu biểu.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng tôi
đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu chuyên ngành và liên ngành sau đây:
- Luận văn sử dụng phương pháp lịch sử nhằm tái hiện lại bức tranh sinh động về sự vận dụng
yếu tố “địa-chính trị” trong việc thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ ở các khu vực chủ yếu trên thế
giới từ sau Chiến tranh lạnh (12/1989) đến nay (5/2008).
- Chúng tôi sử dụng phương pháp logic để lý giải những tính toán địa-chính trị của Mỹ, phát
hiện ra mục đích của việc vận dụng yếu tố “địa-chính trị” là nhằm tìm kiếm những nguồn lực kinh tế
cho sự sinh tồn và phát triển quốc gia, củng cố và giữ vững địa vị bá quyền của Mỹ.
- Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng các phương pháp liên ngành như phương pháp nghiên cứu
quan hệ quốc tế nhằm tìm hiểu các sự kiện, các vấn đề quốc tế; phương pháp khu vực học nghiên cứu
mối quan hệ giữa Mỹ và các khu vực; và sử dụng những kiến thức của địa-văn hóa, địa-kinh tế… nhằm
hiểu rõ nguồn gốc của các vấn đề quốc tế có liên quan đến chiến lược toàn cầu của Mỹ.
5. Đóng góp của luận văn
- Luận văn trình bày một cách tương đối đầy đủ, hệ thống và toàn diện về vấn đề địa chính trị
nói chung và yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ nói riêng từ sau Chiến tranh lạnh
đến nay, góp phần lấp đầy khoảng trống này trong nghiên cứu lĩnh vực địa chính trị.
- Phục dụng bức tranh toàn cảnh về sự vận dụng yếu tố “địa-chính trị” trong việc giải quyết
những vấn đề quốc tế, thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ ở các khu vực chủ yếu ở trên thế giới từ
sau Chiến tranh lạnh đến nay.
- Kết quả nghiên cứu đạt được phục vụ cho việc học tập, nghiên cứu, giảng dạy và những ai
quan tâm đến khoa học địa-chính trị, cũng như vận dụng tư tưởng địa-chính trị trong chiến lược toàn
cầu của Mỹ.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung chính của luận văn được
kết cấu thành 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về địa-chính trị và yếu tố địa-chính trị trong lịch sử nước Mỹ giai đoạn
trước và trong Chiến tranh lạnh
Chương 2: Yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh đến
nay
Chương 3: Yếu tố địa-chính trị trong sự tham dự của Mỹ vào các sự kiện và vấn đề tiêu biểu
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐỊA-CHÍNH TRỊ VÀ YẾU TỐ ĐỊA-CHÍNH TRỊ TRONG LỊCH SỬ
NƯỚC MỸ GIAI ĐOẠN TRƯỚC VÀ TRONG CHIẾN TRANH LẠNH
1.1. Khái quát về địa-chính trị
1.1.1. Khái niệm
Trong những năm gần đây, khái niệm “địa- chính trị” (geopolitics) thường được đề cập nhiều
trong các công trình nghiên cứu về quan hệ quốc tế. Thuật ngữ “địa-chính trị” được sử dụng lần đầu
tiên vào năm 1899 với tên tuổi của Rudolph Kjellen (1864-1922) - nhà địa lý học Thụy Điển. Năm
1905, Kjellen sử dụng thuật ngữ này nhằm biểu thị “khoa học của một quốc gia với tư cách là một
vùng trong không gian”. Quan niệm này của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng địa-chính trị của
Friedrich Ratzel (người Đức). Kjellen quan niệm quốc gia như một cơ thể sống và có một quyết tâm
sống mãnh liệt. Năm 1917, Kjellen đã nêu lên định nghĩa về địa-chính trị: đó là khoa học coi quốc gia
là một tổ chức về mặt địa lý hay là một hiện tượng trong không gian. “Tổ chức” này bị ràng buộc với
cuộc đấu tranh không bao giờ kết thúc để có được các nguồn lực cần thiết cho sự sống, trong đó lãnh
thổ là cái quan trọng nhất.
Mở rộng lãnh thổ vì vậy luôn là mục tiêu của mỗi quốc gia nhằm tìm kiếm nguồn lực kinh tế, tài
nguyên thiên nhiên cho sự sinh tồn và phát triển quốc gia. Hệ thống thuộc địa của các đế quốc Anh,
Pháp, Mỹ ... vào cuối thế kỷ XIX - giữa thế kỷ XX cũng là nhằm tận dụng nguồn nguyên nhiên liệu,
nhân lực, thị trường tiêu thụ của thế giới để đáp ứng nhu cầu phát triển của những nước này. Trước
thành công của phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới nửa sau thế kỷ XX, chủ nghĩa thực dân có
sự thay đổi tinh vi về mặt hình thức. Các cường quốc tìm cách gây ảnh hưởng về kinh tế, chính trị ở
những nước nhỏ yếu hơn nhằm thu hút những nguồn lực tài nguyên thiên nhiên, chất xám phục vụ cho
những mục tiêu tăng trưởng của quốc gia, biến những nước nhỏ thành những công cụ, phương tiện để
thực hiện sự bá quyền.
Vị trí địa lý là yếu tố trọng yếu của địa-chính trị gồm các khía cạnh chính là vị trí địa lý tự
nhiên, vị trí địa lý giao thông, vị trí địa lý quốc phòng. Vị trí địa lý, đặc biệt là vị trí giao thông và vị trí
quốc phòng có ý nghĩa xác định tầm quan trọng của một quốc gia trong quan hệ với các nước khác và
giữa các nước khác với nhau, đặc biệt là giữa các cường quốc.
Trong lịch sử, Thái Lan đã biết tận dụng vị trí địa lí để làm trái độn giữa các cường quốc. Thái
Lan nằm giữa các vùng thuộc địa của Anh và Pháp. Phía Đông là Đông Dương - thuộc địa của Pháp,
phía Tây là Mianma - thuộc địa của Anh. Lợi dụng vị trí nước “đệm” và mâu thuẫn giữa hai thế lực
Anh và Pháp, Thái Lan đã thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo (chính sách ngoại giao cây tre),
cho tư bản nước ngoài được phép đầu tư kinh doanh, cắt nhượng một số vùng đất phụ thuộc (vốn là
lãnh thổ của Campuchia, Lào, Mã Lai). Kết quả Thái Lan trở thành vùng trung lập, cơ bản giữ được
chủ quyền đất nước, không lệ thuộc hẳn vào nước nào.
Chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với quan hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và
các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề trung tâm đó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà
nước. “Chính trị là sự phản ánh tập trung của kinh tế” nên cạnh tranh địa-chính trị luôn có nội hàm
kinh tế xác định như vấn đề năng lượng chẳng hạn, nhưng chính trị có tính độc lập tương đối. Chính trị
có quy luật riêng. Một nước Nhật Bản mạnh về kinh tế (là nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới) nhưng
vẫn là “chú lùn về chính trị”. Về phương diện kinh tế, cả Trung Quốc và Nga đều thua xa Mỹ nhưng
vẫn có vai trò chính trị lớn trên thế giới. Chính trị quốc tế là cuộc đấu tranh giành quyền lực và quyền
lực được xác định trong mối quan hệ với lợi ích: ai giành được cái gì, được bao nhiêu, khi nào và bằng
cách nào [46, tr.25-26].
Trên thực tế, giữa địa lý và chính trị có quan hệ nhân quả; nói cụ thể hơn, địa lý thường ảnh
hưởng đến các quyết định chính trị và ngược lại, quyền lực chính trị có ảnh hưởng đến địa lý. Việt
Nam là một nước nhỏ, giàu tài nguyên lại ở sát nách một nước Trung Quốc khổng lồ nên đã được
Trung Quốc đặc biệt quan tâm. Trung Quốc đã từng thống trị nước ta đến cả ngàn năm và còn nhiều
lần xâm lăng nhưng đã bị quân dân ta đánh bại. Sự quan tâm ấy đến nay vẫn tồn tại vì Việt Nam nằm
trên trục giao thông của nhiều nước và do đó, chiếm một vị trí đặc biệt về quân sự, chính trị và kinh tế
tại Đông Nam Á và, lẽ dĩ nhiên, Việt Nam luôn nằm trong chiến lược bành trướng của Trung Quốc.
Trung Quốc có tham vọng trở thành cường quốc thế giới và lãnh đạo khu vực, do đó Trung Quốc
tăng cường khống chế biển Đông và gây ảnh hưởng ở Đông Nam Á. Đối với Trung Quốc, biển Đông
có tầm quan trọng sống còn: 80% dầu lửa nhập khẩu của Trung Quốc cũng như phần lớn hàng
hóa thông thương giữa Trung Quốc với châu Âu và Trung Đông đi qua đây.
Địa-chính trị chủ yếu bàn về mối quan hệ giữa chính trị và các nhân tố mang tính chất địa lý,
các hình thức tập hợp lực lượng và các chiến lược (quân sự và chính trị) theo một quan điểm mang tính
địa lý. Ví dụ các nhà địa-chính trị cổ điển như Mahan, Mackinder thường phân biệt cường quốc đại
dương như Anh, Mỹ với cường quốc lục địa như Nga, Trung Quốc. Từ đó hình thành nên bản đồ địa-
chính trị thế giới phục vụ cho chính sách đối ngoại của Anh và Mỹ với những khái niệm “heartland”
của Mackinder, “rimland” của Spykman...
Tài nguyên địa-chính trị của một nước là sự kết hợp của địa thế, tài nguyên thiên nhiên
và tài nguyên nhân văn của nước đó với những vận hội mà cục diện chính trị và kinh tế quốc tế mở
ra cho nước đó. Tài nguyên địa-chính trị của một khu vực là những lợi thế có được do địa lý - cả tự
nhiên lẫn nhân văn - của khu vực đó trên bản đồ chính trị quốc tế [38, tr.18]. Tài nguyên địa-
chính trị có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với vận mệnh của một nước. Người ta thường nghĩ một
nước giàu có là nhờ khoáng sản phong phú hoặc dân cư cần cù nhưng trong nhiều trường hợp,
chính tài nguyên địa chính trị là yếu tố có tầm quan trọng số một trong việc quyết định sự phồn
thịnh của một quốc gia. Hai ví dụ tiêu biểu là Hồng Kông và Singapore và một phản ví dụ là Congo
(Kinshasa). Congo Kinshasa là nước rất giàu tài nguyên khoáng sản, với trữ lượng kim cương và
nhiều loại quặng quý khác đứng hàng đầu thế giới, nhưng cho đến nay vẫn là một trong những
nước nghèo nhất trên địa cầu. Trong khi đó thì Hồng Kông và Singapore đều không có chút tài
nguyên thiên nhiên gì, ngoài một vị trí trung chuyển rất thuận lợi trên con đường biển nối giữa Ấn
Độ Dương với Thái Bình Dương (Singapore) và một vị trí vừa trung chuyển trên con đường giao
thương nói trên vừa là cửa ngõ của thế giới vào Trung Quốc (Hồng Kông).
Đặc điểm địa-chính trị của mỗi quốc gia thay đổi theo trình độ phát triển và bối cảnh chung của
khu vực và thế giới. Thí dụ, cùng với sức ép của toàn cầu hóa và sự leo thang của khủng bố bạo lực, sự
trỗi dậy của Trung Quốc, Ấn Độ và gia tăng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, trước hết là Mỹ -
Trung ở Đông Nam Á đã và đang làm thay đổi sâu sắc môi trường địa - chính trị khu vực này. Xét tầm
với của các nước lớn hiện nay và trong tương lai gần thì Việt Nam có thể trở nên quan trọng hơn đối
với ba nước là Trung Quốc, Mỹ và Nhật Bản; trong tầm trung và dài hạn, Việt Nam còn có khả năng
nằm trong bàn cờ chiến lược của cả Nga và Ấn Độ. Sự cạnh tranh chiến lược trên đang làm tăng vị thế
địa-chính trị của Việt Nam. Việt Nam có thể trở thành “đầu mối” của các nỗ lực hợp tác và liên kết
kinh tế cho khu vực và thế giới với tư cách là “cửa ngõ” ra biển cho vùng Tây Nam của Trung Quốc,
Lào, Campuchia và miền Bắc Thái Lan, và “đầu cầu” trên đất liền, trên biển và trên không giữa Đông
Bắc Á và Đông Nam Á, giữa Thái Bình Dương và Ấn Độ Dương, giữa Âu - Mỹ và các nước trong khu
vực [47, tr.67].
Bán kính vùng ảnh hưởng của địa-chính trị có xu hướng mở rộng trong xu thế toàn cầu hóa
đang diễn ra mạnh mẽ. Với tốc độ tăng trưởng cao liên tục trong hơn 20 năm qua của Trung Quốc, các
nhà lãnh đạo Trung Quốc cho rằng giờ đây “chiếc chổi” của Trung Quốc đã đủ dài để quét khắp thế
giới, mở rộng phạm vi ảnh hưởng địa-chính trị của Trung Quốc và xây dựng được những cơ sở chiến
lược cung cấp năng lượng và nguyên vật liệu cho Trung Quốc. Chiến lược “Một vòng ba tuyến” thể
hiện tầm ảnh hưởng của Trung Quốc. “Một vòng” là các nước láng giềng xung quanh, hình thành vành
đai gần thông qua hợp tác Trung Quốc - ASEAN, quan hệ giữa Trung Quốc với các nước Trung Á,
Mông Cổ, CHDCND Triều Tiên, Nga..., tiếp đó là ba trọng điểm phân bố thành “ba tuyến” ở ba châu
lục: Nam Mỹ, châu Đại Dương và châu Phi. Đây là điều rất quan trọng đảm bảo cho sự phát triển trong
tương lai của Trung Quốc.
Từ lý thuyết về địa-chính trị, có thể vận dụng hai khái niệm là “cấu trúc nền” và “cửa ô” để mô
tả trung tâm địa - chính trị và các vị trí chiến lược then chốt, nơi các cường quốc thường cạnh tranh,
kiềm chế lẫn nhau để giành được vị thế tối ưu trong việc chi phối khu vực hoặc cả thế giới. Hai khái
niệm này có mối quan hệ qua lại với nhau. Nhìn vào bản đồ chính trị thế giới có thể thấy các vị trí “cửa
ô” đó là:
+ Ba bán đảo: Ban Căng, Triều Tiên, Đông Dương.
+ Hai “trung”: Trung Đông và Trung Á.
Có một sự trùng hợp ngẫu nhiên là 3 vị trí chiến lược: Trung Đông, Trung Á, bán đảo Đông
Dương, ngoài tầm quan trọng về giao thông chiến lược, đều là những khu vực có trữ lượng dầu lửa và
khí đốt lớn nhất thế giới (vùng Vịnh, biển Caspian và biển Đông).
Theo Jefferey Park, tác giả cuốn “Tư tưởng địa-chính trị phương Tây thế kỷ XX”, địa-chính trị
học nghiên cứu hiện tượng không gian địa lý của một quốc gia hoặc khu vực, chỉ ra cơ sở địa lý đối với
thực lực và ảnh hưởng chính trị của quốc gia hoặc khu vực đó. Địa-chính trị học khảo sát hoạt động
của đất nước trong bối cảnh lãnh thổ, khu vực, tài nguyên thiên nhiên, phân bố nhân khẩu, hoạt động
kinh tế, cơ cấu chính trị - quyền lực.
Như vậy, “địa-chính trị là khoa học nghiên cứu về mối quan hệ biện chứng giữa các yếu tố địa
lý và chính trị. Mục đích của nó là nhằm luận giải các quan hệ quốc tế dựa trên các yếu tố địa lý, tức là
nghiên cứu các thực thể, quá trình, xu hướng cũng như sự phân bố quyền lực chính trị trên phạm vi địa
lý và trong thời điểm lịch sử cụ thể” [47, tr.13].
Ngoài khái niệm quen thuộc “địa-chính trị”, ngày nay người ta còn nhắc đến khái niệm “chính
trị dầu lửa” (petropolitics) vì giá dầu cao đang chi phối mạnh mẽ đến chính trị và ngược lại chính trị
cũng đang tác động đến giá dầu.
Địa-chính trị có mối quan hệ gần gũi với địa-văn hóa, địa-kinh tế, cả ba đều thuộc địa lý nhân
văn. Địa-văn hóa là khoa học nghiên cứu, tìm hiểu những đặc thù về văn hóa của các dân tộc do sự tác
động và ảnh hưởng qua lại giữa môi trường tự nhiên và văn hóa tạo nên. Chẳng hạn môi trường tự
nhiên Đông Nam Á có núi, sông, đồng bằng, chịu ảnh hưởng chủ yếu của gió mùa nên nền văn hoá
Đông Nam Á có bản sắc riêng. Đó là một phức thể văn hóa của các cư dân thuộc nền văn minh nông
nghiệp lúa nước với ba yếu tố: văn hóa núi, văn hóa đồng bằng và văn hóa biển, trong đó văn hóa đồng
bằng tuy có sau nhưng lại đóng vai trò chủ đạo. Văn hóa Đông Nam Á có nền nông nghiệp lúa nước do
điều kiện môi trường và sự lựa chọn của cư dân ở đây. Chính vì vậy, nghề trồng lúa nước kết hợp với
chăn nuôi, làm vườn, đi biển đánh cá là một đặc điểm tiêu biểu của người dân Đông Nam Á. Địa-kinh
tế là khoa học nghiên cứu các đặc điểm địa lý ảnh hưởng đến tiến trình phát triển kinh tế của một vùng,
một quốc gia, thậm chí một khu vực. Chẳng hạn, đặc điểm địa lý khu vực Địa Trung Hải tạo ra thế
mạnh để phát triển vận tải biển và thương nghiệp của các quốc gia ở khu vực này.
Yếu tố địa-văn hóa, địa-kinh tế là nguồn gốc nảy sinh các vấn đề địa-chính trị. Ví dụ như xung
đột sắc tộc, xung đột tôn giáo giữa người Albania theo Hồi giáo và người Serbia theo Chính thống giáo
đã dẫn đến sự ly khai của Kosovo ra khỏi Serbia; hay các mỏ dầu ở vùng Trung Đông là nguồn gốc của
sự can thiệp thường xuyên của các thế lực bên ngoài vào khu vực này và đã biến Trung Đông thành
“thùng thuốc súng”.
1.1.2. Khái quát lịch sử phát triển tư tưởng địa-chính trị thế giới
Với tư cách là một môn khoa học độc lập, địa-chính trị đã ra đời tại các nước phát triển Âu-Mỹ
vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, sau đó phát triển mạnh mẽ trên thế giới đến giai đoạn chiến tranh
thế giới thứ hai. “Người được coi là cha đẻ của địa- chính trị học là một lý thuyết gia người Mỹ - ông
Alfred Thayer Mahan (1840-1914)” [47, tr.13]. Alfred Thayer Mahan được giới khoa học đánh giá là
một nhân cách và tài năng đa dạng đặc biệt. Ông vừa là cố vấn của Tổng thống Mỹ, quan hệ thân thiết
với quan chức Anh, vừa là nhà sử học, nhà cải cách hải quân, là nhà thần học. Mahan được xem là
“nhà truyền giáo” về quyền lực đại dương với tác phẩm nổi tiếng “The enfluence of sea power upon
history” (Ảnh hưởng của quyền lực đại dương trong lịch sử) (1890) được coi là kinh điển của địa-chính
trị học. Trong cuốn “The enfluence of sea power upon history”, Mahan một mặt phân tích tác động của
việc kiểm soát các vùng biển, lãnh hải (nhất là các vùng hẹp) đối với đường giao thông biển của các
quốc gia; mặt khác ông cũng nghiên cứu về sự lớn mạnh của đế chế Anh với tư cách là một quốc gia
hải đảo. Khái niệm cơ bản được ông sử dụng là “các vùng biển và quyền lực quốc gia”. Theo ông có
sáu điều kiện khiến cho một quốc gia phát triển được sức mạnh trên biển của mình, đó là:
1. Vị trí địa lý đối với biển của quốc gia đó
2. Những đặc trưng địa chất của lãnh thổ quốc gia trong tương quan với các đại dương, chiều
dài bờ biển, số lượng hải cảng, độ sâu của nước và địa hình che chắn các hải cảng
3. Chiều rộng của lãnh thổ quốc gia và tương quan giữa địa lý địa chất và địa lý nhân văn
4. Dân số
5. Có hay không truyền thống thương mại trong bản tính dân tộc
6. Đặc trưng của lãnh đạo quốc gia, thiên về một quốc gia chuyên chế (như Tây Ban Nha) hay
dân chủ (như Anh, Mỹ) [30, tr.142].
Công trình lý luận này đã gây ảnh hưởng lớn đến tư duy của vua Phổ Wilhelm II. Ông vua hiếu
chiến này hết lời ca ngợi và áp dụng vào chiến lược hải quân của mình.
Như vậy, nội dung của thuyết “Sức mạnh trên biển” của Mahan là: việc kiểm soát quyền lực
trên biển là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với quyền lực quốc gia, là tiêu chí và nhân tố cơ bản đối với
sự giàu mạnh và phồn vinh của một quốc gia, những quốc gia có lối vào trên biển dễ trở thành cường
quốc hơn các quốc gia trên bộ. Có thể nói, ai khống chế được biển sẽ trở thành cường quốc thế giới.
Vấn đề then chốt để khống chế biển là chiếm giữ các eo biển và khống chế các tuyến hàng hải quan
trọng huyết mạch. Tư tưởng này của Mahan có ảnh hưởng rất lớn đối với các lý thuyết địa-chính trị sau
này.
Người có sự mô tả rõ ràng và tương đối phong phú về thế giới dưới góc độ địa - chính trị là nhà
địa lý học người Anh - Sir Halford Mackinder (1861-1947). Mackinder không chỉ là một nhà địa lý
học, ông còn là nhà kinh tế học và một chính trị gia. Ông bắt đầu phát triển những tư tưởng địa-chính
trị năm 1904 với bài viết: “The Geographical Pivot of History” (Mấu chốt địa lý của lịch sử). Ông đã
nêu ra tư tưởng về “trục quay địa lý của lịch sử”. Ông cho rằng, trái đất là một hệ thống đóng, trong đó
sự thay đổi trên một bộ phận của hệ thống này sẽ làm thay đổi sự cân bằng của các mối quan hệ trên
tất cả các phần còn lại. Trong bài viết này, Mackinder đã thể hiện mối quan hệ giữa 3 yếu tố địa lý -
kỹ thuật - chính trị của một quốc gia, sự phát triển của 3 yếu tố ấy sẽ đem lại quyền lực trên đất liền
chứ không phải trên biển như Mahan quan niệm.
Mackinder rất quan tâm tới sự chi phối về mặt địa lý, đặc biệt là quyền lực của đất và quyền lực
của nước (biển và đại dương). Nét đặc sắc trong cách nhìn của ông là không chia lịch sử theo thời
gian, mà theo các khái niệm không gian, nghĩa là theo cách nhìn không gian hóa lịch sử với những
chuyển hóa bên trong hết sức sinh động. Dưới con mắt của ông, trái đất hiện ra như là một không gian
duy nhất, thống nhất và đã được chiếm lĩnh, là một hệ thống khép kín. Ông dự báo rằng thời của
cường quốc hải quân (như nước Anh) đã hết, và thế giới bắt đầu kỷ nguyên cường quốc lục địa.
Mackinder đã viết trong “Democratic Ideals and Reality” (Tư tưởng dân chủ và sự thực) (1919) là
“những cuộc chiến tranh lớn trong lịch sử là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp của sự phát triển không
đều của các quốc gia” và “sự phát triển của các đế quốc cần đến yếu tố địa-chính trị” [87, tr.1-2].
Mackinder là tác giả của luận điểm vùng đất trung tâm (heartland). Ông đã dành trọn cuộc đời
hoạt động học thuật và chính trị của mình cho mục tiêu bảo vệ vị trí cường quốc của nước Anh trước
nguy cơ Mỹ, Đức, Nga lớn mạnh. Theo ông, Trung Á là pháo đài quyền lực trong nền chính trị toàn
cầu. Pháo đài ấy trở thành bất khả xâm phạm trước sức tấn công của các cường quốc biển bởi nó được
bảo vệ bởi hai vành đai: vành đai bên trong là các nước Đông Âu và vành đai bên ngoài là các không
gian Á - Phi - châu Mỹ. Vai trò chiến lược sống còn của vùng đất trung tâm được Mackinder khái quát
trong công thức: “Ai khống chế Đông Âu, sẽ làm chủ vùng đất trung tâm (vùng Trung Á). Ai làm chủ
vùng đất trung tâm, sẽ cai quản hòn đảo của thế giới (đại lục Âu - Á - Phi). Ai cai quản hòn đảo của
thế giới Âu - Á - Phi sẽ bá chủ toàn cầu” [87, tr.186].
Mackinder muốn dùng sơ đồ chiến lược này để chỉ ra con đường làm bá chủ thế giới cho nước
Anh. Nhưng lập luận của ông lại rất “hợp khẩu vị” của nước Đức, cho nên nó đã bị các nhà địa-chính
trị Đức lợi dụng, xây dựng thành cơ sở lý luận của chiến lược bành trướng phát xít.
Quan điểm địa-chính trị của người Đức vào những năm 20 của thế kỷ XX đặc biệt nhấn mạnh tới
yêu cầu về không gian lãnh thổ của một quốc gia. Karl Haushofer (1869-1946) là nhà địa-chính trị nổi
tiếng của nước Đức, từng phục vụ trong quân đội với cấp bậc thiếu tướng trước khi giảng dạy tại Đại
học Munich vào năm 1919. Haushofer có mối quan hệ thân thiết với Hitler và phục vụ Hitler với tư
cách là cố vấn quân sự. Từ năm 1924, Haushofer đã sáng lập ra tạp chí chuyên ngành về địa-chính trị
với tên gọi “Zeitschirift Fiir Geopolitik”, trong đó đăng nhiều bài bào chữa và khuyếch trương cho
chính sách dân tộc cực đoan, cũng như hành động xâm chiếm lãnh thổ đầy tội ác của chủ nghĩa phát xít
Đức. Ông đã đưa ra khái niệm “không gian sinh tồn” quốc gia và nhìn thế giới dưới góc độ có một
vùng đất trung tâm (nước Đức) và các khu vực liên quan. Từ đó, ông ta cho rằng nước Đức là một tổ
chức quan trọng sống còn được thiên phú cho cái quyền tự nhiên đi bành trướng xâm lược, thống trị
các dân tộc khác. Có thể nói, lý thuyết địa-chính trị của Haushofer lúc ấy đã trở thành nền móng về mặt
tri thức, cung cấp cơ sở lý luận cho việc phát xít hóa nước Đức và là công cụ tuyên truyền cho cuộc
chiến tranh nhằm chia lại thế giới của nước Đức quốc xã.
Nicholas John Spykman có thể được xem là học trò và nhà phê bình của cả hai nhà địa chiến
lược Alfred Mahan và Halford Mackinder. Spykman (1893-1943) là một nhà địa chiến lược người Mỹ
gốc Hà Lan, là “cha đẻ của thuyết bao vây khoanh vùng”. Ông là một trong những nhà sáng lập trường
phái chủ nghĩa hiện thực cổ điển trong chính sách đối ngoại của Mỹ. Spykman từng là Viện trưởng
Viện nghiên cứu quốc tế Đại học Yale. Một trong những quan tâm hàng đầu của ông là tạo cho sinh
viên cách học địa lý. Ông quan niệm không thể tiếp cận khoa học địa-chính trị nếu không có những
hiểu biết về địa lý.
Spykman nổi tiếng với hai cuốn sách viết về chính sách đối ngoại là “America’s Strategy in
World Politics” và “The Geography of the Peace”. Trong “America’s Strategy in World Politics”, xuất
bản năm 1942, ông cho rằng chủ nghĩa biệt lập, dựa vào đại dương để bảo vệ nước Mỹ đã đến lúc kết
thúc. Mục đích của ông là ngăn chặn sự rút lui của Mỹ sau chiến tranh tương tự như chính sách của Mỹ
sau chiến tranh thế giới thứ nhất. Chính sách của Mỹ phải là “chỉ huy việc ngăn chặn bá quyền”. Thực
tế cho thấy quan điểm này chỉ nhằm khuyến khích sự mở rộng phạm vi thống trị của đế quốc Mỹ.
“The Geography of the Peace” được xuất bản một năm sau khi ông mất. Trong đó, ông trình bày
quan điểm địa chiến lược của ông là sự cân bằng quyền lực ở châu Âu ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh
nước Mỹ. Vì vậy, Mỹ cần đảm bảo việc ngăn chặn Liên Xô thiết lập quyền lãnh đạo quanh vùng rìa
châu Âu. Ông cho rằng trong nghiên cứu chính sách đối ngoại, cần chú ý trước tiên đến vị trí địa lý của
nước đó. Địa lý chính trị cần xây dựng một bản đồ các cường quốc theo khu vực và thời gian nhất
định. Xuất phát từ quan điểm sùng bái bạo lực, ông tin rằng nền hòa bình thế giới phải dựa vào công cụ
bạo lực mà chỉ các cường quốc mới đủ sức đảm trách.
Spykman nổi tiếng với học thuyết “vùng rìa”. Vùng rìa là vùng đệm giữa sức mạnh vùng trung
tâm và sức mạnh đại dương, an ninh của vùng rìa lệ thuộc vào sự chống đỡ từ hai luồng sức mạnh.
Theo Spykman, vùng rìa chia thành 3 vùng: vùng đất ven biển ở Châu Âu, vùng sa mạc Arabia - Trung
Đông, vùng chịu ảnh hưởng gió mùa Châu Á. Tầm quan trọng của vùng rìa căn cứ vào số lượng nhân
khẩu, tài nguyên thiên nhiên và sự phát triển công nghiệp. Vùng rìa có ý nghĩa quyết định trong việc
kiềm chế vùng trung tâm. Spykman cho rằng bằng việc kiểm soát vùng rìa của châu Âu, Trung Đông,
châu Á - Thái Bình Dương, nước Mỹ có thể hạn chế sức mạnh của vùng trung tâm Âu - Á. Vì vậy,
nước Mỹ cần xây dựng nền móng hải quân và không quân ở Bắc Atlantic và toàn bộ Thái Bình Dương
nhằm bao vây đại lục Âu - Á. Ông nhận xét: “Sức mạnh to lớn của nước Nga Xô viết không đủ để
chống lại một vùng rìa thống nhất dưới sự lãnh đạo của Mỹ, và sự tồn tại của vùng rìa đó sẽ đem đến
cho Mỹ một uy quyền toàn cầu” [91, tr.57]. Vì vậy, Spykman kết luận “Ai kiểm soát vùng rìa sẽ khống
chế được lục địa Âu - Á, ai khống chế được lục địa Âu - Á sẽ làm chủ vận mệnh của thế giới” [91,
tr.43].
Một học thuyết địa-chính trị quan trọng nữa là thuyết “Sức mạnh trên không” (Air Power) của
Alexander Procofieff de Seversky. Seversky (1894-1974) là người Mỹ gốc Nga đi đầu trong lĩnh vực
hàng không, đồng thời là một nhà phát minh và là người ủng hộ sức mạnh trên không với luận điểm:
lực lượng nào khống chế được bầu trời, giành ưu thế trên không thì sẽ đạt được thắng lợi. Thuyết “Sức
mạnh trên không” được Seversky trình bày qua tác phẩm “Victory Through Air Power” xuất bản năm
1942, sau sự kiện Trân Châu cảng và sự tham gia của nước Mỹ vào chiến tranh thế giới thứ hai.
Seversky cho rằng sự phát triển nhanh chóng về phạm vi và sức mạnh tấn công của không quân dẫn
đến một điều chắc chắn là nước Mỹ sẽ bị đặt vào tình trạng nguy hiểm của sự phá hủy từ trên không.
Vì vậy, nước Mỹ cần chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc chiến xuyên đại dương và phải trở thành nước
thống trị sức mạnh trên không. Seversky biện luận cho việc phát triển ngay lập tức những máy bay
ném bom tầm xa (khoảng 3000 dặm hoặc hơn), đặc biệt là những máy bay ném bom xuyên lục địa có
khả năng bay từ Mỹ đến tấn công trực tiếp Đức và Nhật mà không cần phải tiếp thêm nhiên liệu.
Nhà làm phim nổi tiếng Walt Disney đã đọc “Victory Through Air Power” và cảm thấy thông
điệp của tác phẩm rất có ý nghĩa đến mức Walt Disney đã tự bỏ tiền làm bộ phim điện ảnh mang tên
tác phẩm. Bộ phim đã thể hiện chính xác tư tưởng của Seversky và thu hút sự quan tâm chú ý của các
quan chức Chính phủ. Seversky là một trong số những người ủng hộ việc thành lập Bộ tư lệnh không
quân năm 1946 và phát triển máy bay B-36 và B-47. Seversky tiếp tục quảng bá những ý tưởng cải tiến
các loại vũ khí và máy bay, đáng chú ý là năm 1964, máy bay một người lái đã được chế tạo.
Như vậy, nội dung chính của các học thuyết địa-chính trị trên đó là: “lợi ích an ninh quốc gia
không tách rời khỏi các hoạt động chính trị và trong mỗi một thời kỳ lịch sử, trên bản đồ chính trị quốc
tế thường có một trung tâm chiến lược mà nếu nước nào khống chế được trung tâm đó thì sẽ chi phối
được toàn bộ thế giới” [46, tr.26].
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, địa-chính trị gần như bị lãng quên do ảnh hưởng của sự căm
ghét chủ nghĩa phát xít Đức tại các nước phương Tây. Địa-chính trị không còn được ưa thích như trước
và đã mất tính cách chính thống vì đã bị các lý thuyết gia quốc xã Đức sử dụng để tạo ra một học
thuyết đề cao chủ nghĩa bành trướng (expansionism) dựa trên khái niệm Lebensraum (không gian sinh
tồn) và Social Darwinism (xã hội tiến hóa luận, căn cứ theo học thuyết Darwin).
Thuật ngữ địa-chính trị được hiểu theo nghĩa tiêu cực, các thuyết địa-chính trị là học thuyết
chính trị xuyên tạc các tư liệu của khoa học địa lí để luận chứng cho chính sách đối ngoại của chủ nghĩa
đế quốc nhằm bành trướng và thống trị thế giới, và bị loại ra khỏi danh mục các môn khoa học chính
trị.
Phải đến thập kỷ 60 của thế kỷ XX, địa-chính trị mới bắt đầu được chú ý trở lại và dần dần được
phát triển theo quan điểm của những nhà tư tưởng Mỹ, tiêu biểu trong số đó là Saul Cohen. Do có nhận
thức sâu sắc rằng những vấn đề địa - chính trị là cực kỳ quan trọng, nên Cohen đã cố gắng duy trì
nghiên cứu thế giới từ góc độ địa-chính trị và ông đã khuyến cáo các chính trị gia không được xem
thường hoặc phủ nhận các vấn đề đó. Trong tác phẩm “Geography and Politics in a World Divided”
xuất bản năm 1963, Cohen đã đưa ra bản thiết kế về một thế giới được phân chia thành các khu vực
địa- chiến lược dưới áp lực của các siêu cường. Khái niệm khu vực địa-chiến lược do Cohen đưa ra
được dùng để chỉ một không gian quyền lực với quy mô toàn cầu. Hai khu vực địa chiến lược đều nằm
ở bán cầu Đông. Khu vực thứ nhất, thuộc thế giới hải đảo phụ thuộc thương mại, bao gồm Tây Âu, Bắc
Âu, Nam Âu, Trung Đông và Bắc Phi. Khu vực thứ hai, thuộc thế giới lục địa Á - Âu, là dải đất mênh
mông trải dài từ Đông Âu sang khắp toàn bộ vùng đất trái tim. Ngoài ra, còn hai khu vực địa chiến
lược tiềm tàng là Nam Á và Đông Nam Á. Từ khu vực địa-chiến lược, Cohen chia nhỏ thành các khu
vực địa-chính trị. Khái niệm khu vực địa-chính trị được Cohen dùng để chỉ các không gian quyền lực
với quy mô khu vực. Các khu vực địa chính trị trên thế giới gồm có: Trung Á (nằm trong khu vực địa
chiến lược thứ hai), Nam Thái Bình Dương, châu Phi Nam Sahara, Bắc Mỹ - Trung Mỹ - Caribe và
Nam Mỹ. Kẹp giữa hai khu vực địa chiến lược là hai khu vực vành đai xung yếu là Trung Đông và
Đông Nam Á. Sau đó, Cohen bổ sung thêm vành đai xung yếu thứ ba là vùng Đông Bắc khu vực châu
Phi Nam Sahara. Những vành đai xung yếu là những không gian chính trị chứa đựng nhiều nhân tố mất
ổn định tiềm tàng và đều là nơi tranh chấp giữa các cường quốc thế giới. Các siêu cường cạnh tranh
nhau để có được các nước trong khu vực địa chính trị gắn bó, trung thành với mình. Theo Cohen, các
quốc gia có quyền lực lớn ngày càng đóng vai trò quyết định trong những vấn đề toàn cầu.
Một nhà nghiên cứu địa-chính trị nổi tiếng nữa của Mỹ là Zbigniew Brzezinski, sinh ngày
28/3/1928 tại Ba Lan, từng là Cố vấn An ninh Quốc gia dưới thời của Tổng thống Mỹ Jimmy Carter
(1977-1981), hiện là giáo sư về chính sách đối ngoại của trường Nghiên cứu Quốc tế cao cấp Paul
H.Nitze thuộc Đại học Johns Hopkins ở Washington D.C. Đóng góp của Brzezinski cho khoa học địa-
chính trị chính là việc đưa ra ý tưởng về bàn cờ chính trị Âu-Á, một lần nữa đề cao ý nghĩa “xương
sống”của lục địa Âu - Á trên bản đồ chính trị thế giới.
Âu - Á là lục địa lớn nhất toàn thế giới và là trục địa chính trị. Một cường quốc thống trị được
lục địa Âu - Á sẽ kiểm soát được 2 trong số 3 khu vực tiên tiến nhất và có năng lực sản xuất nhiều nhất
về kinh tế. Kiểm soát được lục địa Âu - Á sẽ gần như tự động đưa châu Phi vào lệ thuộc, làm cho Tây
bán cầu và châu Đại Dương trở thành ngoại vi về địa chính trị đối với lục địa trung tâm của thế giới.
Khoảng 75% dân số thế giới sống ở lục địa Âu - Á và hầu hết của cải vật chất thế giới cũng ở nơi đay,
bao gồm cả doanh nghiệp lẫn tài nguyên dưới lòng đất. Âu - Á chiếm khoảng 60% GNP và khoảng ¾
nguồn năng lượng đã được biết của thế giới. Lục địa Âu - Á cũng là khu vực của hầu hết các nước có
chủ quyền và năng động về chính trị của thế giới. Hầu hết các cường quốc hạt nhân công khai và bí
mật của thế giới đều ở lục địa Âu - Á. Tất cả những nước có khả năng thách thức tiềm tàng về chính trị
và kinh tế đối với vị thế đứng đầu của Mỹ đều là các nước Âu - Á. Gộp cả lại thì sức mạnh của Âu - Á
mạnh hơn sức mạnh của Mỹ rất nhiều. May mắn cho Mỹ, lục địa Âu - Á quá lớn, không thể là một
thực thể chính trị duy nhất. Do vậy, Âu - Á là bàn cờ mà ở đó cuộc tranh giành vị thế đứng đầu thế giới
diễn ra [5, tr.38-39].
Brzezinski đã chỉ ra chính xác những điểm nóng trên thế giới, những lỗ hổng “chính trị” có thể
gây nên tình trạng bất ổn, đe dọa hòa bình khu vực và quốc tế. “Khoảng trống đen” tại lục địa Âu-Á
sau khi Liên Xô tan rã là một phát hiện mới của Brzezinski. Trong cuốn “The Grand Chessboard” (Bàn
cờ lớn - 1997), ông nhìn từ góc độ an ninh toàn cầu và quyền lợi của Mỹ để đặt ra bốn khu vực: châu
Âu là đầu cầu dân chủ (Democratic Bridgehead); Nga là Hố đen (Black Hole), khu vực Caucases và
Trung Á là vùng Balkan mới, hàm ý hỗn loạn, của lục địa Âu-Á (Eurasia) và Đông Á là mỏ neo. Mỹ
cần có những chính sách phù hợp để xây dựng trật tự thế giới đơn cực trong đó Mỹ nắm quyền chi phối
quan hệ quốc tế.
Trong thế giới toàn cầu hóa, cạnh tranh địa chiến lược đang điễn ra đồng thời trong 5 không
gian chiến lược là: Tam lục địa liên kết Á - Âu - Phi; Tam đại dương liên hoàn là Ấn Độ Dương - Thái
Bình Dương - Đại Tây Dương, không gian trái đất, không gian vũ trụ và không gian thông tin. Hạm
đội hải quân là thành quả của thế kỷ XIX và vũ khí hạt nhân là sản phẩm của thế kỷ XX vẫn tiếp tục
được sử dụng như công cụ chủ yếu để bành trướng ảnh hưởng và răn đe trong cạnh tranh địa chiến
lược ở thế kỷ XXI. Ngày nay, địa-chính trị chịu tác động rất lớn từ vấn đề hạt nhân, từ cuộc cách mạng
khoa học-công nghệ và từ nền kinh tế thị trường. Với những tiến bộ vượt bậc của cách mạng truyền
thông và thông tin, các tham số về không gian và thời gian dường như không còn nguyên giá trị trong
so sánh lực lượng quốc tế. Không gian và thời gian đã bị rút ngắn bởi hệ thống vệ tinh không gian cũng
như những phương tiện đạn đạo ngày càng hiện đại và chuẩn xác. Lý luận địa-chính trị hiện đại lập
luận rằng lực lượng nào khống chế được không gian sẽ khống chế được hành vi của mọi chủ thể trên
Trái đất. Kiểm soát khoảng không vũ trụ hoặc ít nhất là đảm bảo cho mình một khả năng tiếp cận với
vũ trụ giờ đây đang là yêu cầu cấp thiết của mọi quốc gia nếu họ mong muốn ít ra là được tồn tại theo
cách của riêng mình.
Chiến tranh lạnh kết thúc, hệ thống XHCN ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trật tự thế giới hai
cực tan rã đã làm biến đổi sâu sắc bản đồ địa - chính trị thế giới. Sự thay đổi tương quan so sánh lực
lượng giữa các nhóm nước, các khu vực và các châu lục diễn ra nhanh chóng, diễn biến quá trình hợp
tác và đấu tranh trên thế giới rất phức tạp. Thực tế, nhiều nhà hoạch định chính sách trên thế giới
thường xuyên sử dụng các tri thức khoa học địa-chính trị để phân tích các vấn đề toàn cầu và khu vực...
Chính điều này đã làm tăng giá trị và tính phổ biến của môn khoa học này. Trong đó, Mỹ là nước thành
công trong việc nghiên cứu và vận dụng yếu tố địa-chính trị phục vụ cho chiến lược toàn cầu của Mỹ.
1.2. Ảnh hưởng của yếu tố địa lý trong lịch sử nước Mỹ giai đoạn trước Chiến tranh lạnh (1783 -
1947)
1.2.1. Vị trí địa lý của nước Mỹ
Mỹ là một trong những quốc gia đa dạng chủng tộc nhất trên thế giới, do kết quả của những
cuộc di dân đến từ nhiều quốc gia khác trên thế giới. Quốc gia được thành lập ban đầu với mười ba
thuộc địa của vương quốc Anh nằm dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Sau khi giành độc lập từ sự bảo
hộ của Anh, đầu thế kỷ XIX, Mỹ bắt đầu chú trọng vào việc bành trướng quốc gia thông qua “ngoại
giao điền thổ”. Lợi dụng lúc Napoleon rất cần tiền để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh với Anh, Mỹ đã
mua toàn bộ vùng Louisiana từ tay Pháp (1803). Cuộc mua bán ngoạn mục này đã làm cho diện tích
của Mỹ tăng lên gấp đôi. Tiếp theo là các vụ mua bán khác, gây chiến tranh, sáp nhập nhằm mở rộng
lãnh thổ: mua lại Florida từ Tây Ban Nha (1819), sáp nhập Texas (1845). Hiệp ước Oregon với Anh
năm 1846 đưa đến việc Mỹ kiểm soát vùng mà ngày nay là Tây Bắc Mỹ. Chiến thắng của Mỹ trong
chiến tranh Mexico - Mỹ năm 1848 đưa đến việc Mexico nhượng lại California và phần nhiều những
vùng đất mà ngày nay là Tây Nam Mỹ. Nội chiến nước Mỹ (1861-1865) kết thúc chế độ nô lệ tại nước
Mỹ, ngăn ngừa một sự chia xé quốc gia và góp phần gia tăng đáng kể quyền lực của Chính phủ liên
bang. Năm 1867, tranh thủ cơ hội khi Nga đang gặp khó khăn về tài chính, Mỹ cũng đã nhanh chóng
mua lại toàn bộ vùng Alaska rộng lớn từ Nga với cái giá rẻ khó tưởng tượng - 7,2 triệu USD. Vùng đất
này có vị trí hết sức quan trọng trong việc bố trí chiến lược toàn cầu của Mỹ thời kỳ Chiến tranh lạnh
và cả hiện nay. Việc mua Alaska năm 1867 từ Nga đã hoàn thành việc mở rộng nước Mỹ trên lục địa.
Như vậy, có thể thấy chỉ trong hơn nửa đầu thế kỷ XIX, bằng “ngoại giao điền thổ” và chiến tranh thôn
tính, các chính quyền kế tiếp nhau của Mỹ đã nhanh chóng mở rộng lãnh thổ, tạo cho Mỹ một vị thế
địa-chiến lược mới trên bản đồ địa-chính trị quốc tế so với nước Mỹ thuở lập quốc.
Hiện nay, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ là một cộng hòa lập hiến liên bang gồm có 50 tiểu bang và
một quận liên bang. Quốc gia này nằm gần như hoàn toàn trong Tây bán cầu: 48 tiểu bang lục địa và
Thủ đô Washington nằm giữa Bắc Mỹ; giáp Thái Bình Dương ở phía tây, Đại Tây Dương ở phía đông,
Canada ở phía bắc và Mexico ở phía nam. Tiểu bang Alaska nằm trong vùng tây bắc của lục địa Bắc
Mỹ, giáp với Canada ở phía đông. Tiểu bang Hawaii nằm giữa Thái Bình Dương. Mỹ cũng có 14 lãnh
thổ hay còn được gọi là vùng quốc hải rải rác trong vùng biển Caribbe và Thái Bình Dương.
Với 3,79 triệu dặm vuông (9,83 triệu km²) và trên 300 triệu dân, nước Mỹ là quốc gia lớn hạng
ba về tổng diện tích (sau Nga và Trung Quốc) và dân số (sau Trung Quốc và Ấn Độ). Tài nguyên thiên
nhiên của Mỹ rất đa dạng và phong phú: than đá, đồng, chì, molybden, phốt phát, uranium, bô xít,
vàng, quặng sắt, thuỷ ngân, nicken, muối kali, bạc, tungsten, thiếc, dầu lửa, khí tự nhiên, gỗ.
Nước Mỹ nằm giữa hai đại dương đông tây mênh mông - Thái Bình Dương và Đại Tây Dương.
Phía Bắc giáp giới với Canada, một nước có cùng văn hóa Anglo-Saxon, giàu có, chỉ có hơn 20 triệu
dân, thân thiện với Mỹ. Phía Nam là Mexico - một nước nghèo, hoàn toàn lệ thuộc vào kinh tế Mỹ. Với
vị trí địa lý như vậy, người Mỹ không hề bị đe dọa bởi cường quốc láng giềng nào như nhiều nước
khác. Ảnh hưởng của vị trí địa lý đó đối với người dân của Mỹ cũng có một tầm quan trọng lịch sử:
chủ nghĩa biệt lập trở thành nét cơ bản trong đường lối ngoại giao của Mỹ từ khi lập quốc đến trước
chiến tranh thế giới thứ hai và vẫn còn tồn tại đến ngày nay.
“Nước Mỹ nằm ở Tây bán cầu, dưới góc độ địa-chính trị, nước Mỹ chỉ là một hòn đảo trên bờ
của lục địa Âu - Á. Nếu muốn làm bá chủ thế giới, bắt buộc Mỹ phải vượt đại dương để có mặt ở lục
địa Âu - Á, khống chế và giữ được vai trò chủ đạo ở lục địa này” [7, tr.20].
1.2.2. Ảnh hưởng của yếu tố địa lý trong lịch sử nước Mỹ giai đoạn trước Chiến tranh lạnh
(1783 - 1947)
1.2.2.1. Mỹ là cường quốc trên biển
Vị trí địa lý đã góp phần quy định đặc điểm của Mỹ là một cường quốc trên biển. Thực tế, Mỹ
đã thông qua ưu thế về biển để có thể phát huy sức mạnh vượt ra ngoài lãnh thổ quốc gia, thực hiện vai
trò bá quyền trên thế giới. Chiến tranh Tây Ban Nha - Mỹ năm 1898 đã đánh dấu một bước ngoặt trong
lịch sử nước Mỹ. Sau trận chiến này, Mỹ nắm hoàn toàn quyền kiểm soát các đảo trong vùng biển
Caribe và Thái Bình Dương. Theo Hiệp định hòa bình được ký kết ngày 10/12/1898, Cuba thuộc
quyền kiểm soát tạm thời của Mỹ trước khi quốc đảo này giành độc lập. Ngoài ra, Tây Ban Nha cũng
nhượng lại Puerto Rico và Guam thay cho các đền bù thiệt hại do chiến tranh và nhượng lại cho Mỹ
quần đảo Phillipines để đổi lấy 20 triệu USD.
Can thiệp của Mỹ trong khu vực Thái Bình Dương không chỉ giới hạn ở quần đảo Phillipines
mà còn mở rộng đến quần đảo Hawaii. Năm 1893, vương quyền của vương quốc Hawaii Thái Bình
Dương bị lật đổ trong một cuộc đảo chính do cư dân người Mỹ lãnh đạo. Hawaii trở thành một lãnh thổ
độc lập trên danh nghĩa cho đến cuộc chiến giữa Tây Ban Nha và Mỹ năm 1898, khi đó với sự hậu
thuẫn của Tổng thống McKinley, Quốc hội đã phê chuẩn hiệp định sáp nhập. Năm 1959, Hawaii trở
thành bang thứ 50 của Mỹ.
Ở một góc độ nào đó, đặc biệt là trong trường hợp của Hawaii, các lợi ích kinh tế đóng vai trò
lớn trong việc bành trướng của Mỹ nhưng đối với các nhà lập pháp đầy thế lực như Roosevelt, Thượng
nghị sỹ Henry Cabot Lodge, Ngoại trưởng John Hay và đối với các nhà chiến lược nhiều ảnh hưởng
như Đô đốc Alfred Thayer Mahan, mục đích chính là vị trí địa lý. Đối với họ, lợi ích lớn nhất của việc
chiếm được Hawaii chính là Trân Châu cảng (Pearl Harbor) - nơi sẽ là căn cứ hải quân chiến lược của
Mỹ tại trung tâm Thái Bình Dương. Quần đảo Phillipines và Guam cũng là nơi đặt hai cơ sở khác tại
Thái Bình Dương - Wake Island, Midway và American Samoa. Puerto Rico là bàn đạp quan trọng tại
khu vực Caribe - nơi đang có vị trí ngày càng quan trọng khi Mỹ đang toan tính về một kênh đào của
khu vực Trung Mỹ.
Sau cuộc chiến với Tây Ban Nha, nước Mỹ bắt đầu quan tâm đến việc xây dựng một kênh đào
bắc ngang eo biển Panama, là con đường huyết mạch nối giữa Thái Bình Dương và Đại Tây Dương, vì
là một thế lực tại vùng biển Caribe và Thái Bình Dương, nước Mỹ thấy ở con kênh đào không chỉ lợi
ích về kinh tế mà nó còn là phương tiện giúp chuyên chở tàu chiến từ đại dương này sang đại dương
khác nhanh hơn. Vào thời điểm chuyển giao thế kỷ đó, nước Panama ngày nay chỉ là một tỉnh ở phía
bắc của Colombia. Khi chính quyền Colombia năm 1903 từ chối phê chuẩn hiệp định cho Mỹ quyền
xây và quản lý con kênh, một nhóm người Panama với sự giúp đỡ của lính thủy đánh bộ Mỹ đã nổi dậy
và tuyên bố độc lập cho Panama. Ngay lập tức quốc gia mới ly khai này được Tổng thống Theodore
Roosevelt công nhận. Theo điều khoản của hiệp định được ký vào tháng 11 năm đó, Panama trao cho
Mỹ quyền thuê vĩnh viễn dải đất rộng 16 km (Khu vực kênh đào Panama) nằm giữa Đại Tây Dương và
Thái Bình Dương để được nhận 10 triệu USD và khoản lệ phí 250.000 USD mỗi năm. Colombia cũng
nhận được 25 triệu USD như một phần tiền đền bù. Ngày 15/8/1914, kênh đào Panama chính thức
được khai thông ngay khi chiến tranh thế giới thứ nhất vừa bùng nổ. Con kênh này có chiều dài gần 80
km, chạy từ thành phố Panama bên bờ Thái Bình Dương tới Colon bên bờ Đại Tây Dương. Sự ra đời
của nó là một cuộc cách mạng trong giao thông đường biển của thế giới. Hải trình từ Thái Bình Dương
sang Đại Tây Dương và ngược lại đã được rút ngắn xuống hàng chục nghìn km. Mỹ là nước có lưu
lượng tàu thuyền đi qua kênh đào Panama nhiều nhất thế giới: ước tính 12% số hàng hóa, đặc biệt là
dầu mỏ, vận chuyển bằng đường biển của Mỹ đã đi qua đây. Ngày 7/9/1977, tổng thống Mỹ, Jimmy
Carter đã cùng người đồng nhiệm Panama - Omar Torrijos ký kết một hiệp định mới. Hiệp định này
thừa nhận chủ quyền của Panama tại vùng kênh đào và cam kết chuyển giao kênh đào này trở lại cho
Panama vào ngày 31/12/1999.
1.2.2.2. Học thuyết Monroe - “châu Mỹ của người Bắc Mỹ”
Nằm ở khu vực châu Mỹ, mục tiêu bành trướng ảnh hưởng đầu tiên của Mỹ là các nước châu
Mỹ Latinh. Vào những thập niên đầu tiên của thế kỷ XIX, miền Trung và Nam Mỹ đã hướng về cách
mạng. Cho tới năm 1822, dưới sự lãnh đạo tài tình của Simon Bolivar, Francisco Miranda, José de San
Martin và Miguel Hidalgo, tất cả khu vực nói tiếng Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ở châu Mỹ - từ
Argentina và Chile ở miền Nam tới Mexico ở miền Bắc - đều đã giành được độc lập. Nga, Phổ và Áo
đã thiết lập Liên minh Thần thánh để bảo vệ họ trước các cuộc cách mạng. Bằng việc can thiệp vào
những nước nơi phong trào của quần chúng đang đe dọa chế độ quân chủ, liên minh này - có sự tham
gia của Pháp thời hậu Napoleon - đã hy vọng có thể ngăn chặn cách mạng lan rộng. Khi Liên minh
tuyên bố ý định muốn phục hồi các thuộc địa cũ của Tây Ban Nha thì người Mỹ bắt đầu lo âu.
Tháng 12/1823, khi biết hải quân Anh sẽ bảo vệ châu Mỹ Latinh chống lại Liên minh Thần
thánh và Pháp vì lợi ích thương mại của Anh, Tổng thống Monroe (nhiệm kỳ 1817-1825) đã nhân dịp
gửi thông điệp hàng năm tới Quốc hội công bố những điều mà sau này người ta gọi là Học thuyết
Monroe - chối từ chấp nhận bất cứ một sự mở rộng thống trị tiếp theo của châu Âu ở các nước châu
Mỹ:
Các nước lục địa châu Mỹ... từ nay trở đi không thể được coi là đối tượng của thực dân hóa
trong tương lai do bất cứ một cường quốc châu Âu nào tiến hành.
Chúng ta phải coi bất kỳ toan tính nào về phần họ nhằm mở rộng hệ thống [chính trị] của họ tới
bất cứ bộ phận nào của bán cầu này đều là nguy hiểm đối với hòa bình và an ninh của chúng ta.
Chúng ta đã không can thiệp và sẽ không can thiệp vào những thuộc địa hay các xứ phụ thuộc
nào của bất cứ cường quốc châu Âu nào. Nhưng với những Chính phủ đã tuyên bố nền độc lập của
mình và bảo vệ nền độc lập ấy và được chúng ta thừa nhận thì chúng ta phải coi bất kỳ một sự can
thiệp nào nhằm mục đích áp chế họ hay kiểm soát số phận của họ bằng bất kỳ phương thức nào do bất
cứ cường quốc châu Âu nào thực hiện đều thể hiện khuynh hướng thù nghịch đối với nước Mỹ.
Học thuyết Monroe đã thể hiện tinh thần đoàn kết với các nền cộng hòa mới giành độc lập ở
châu Mỹ Latinh. Những dân tộc này đã công nhận tầm quan trọng của quan hệ chính trị với Mỹ bằng
việc thiết lập các hiến pháp mới của mình theo mô hình của Bắc Mỹ xét trên nhiều phương diện. Thực
chất nội dung “châu Mỹ của người châu Mỹ”của học thuyết Monroe là “châu Mỹ của người Bắc Mỹ”,
để biện minh cho hành động bành trướng ở Tây bán cầu trong lúc Mỹ chưa đủ lực để vươn xa hơn.
Vào thời kỳ này, Mỹ còn yếu hơn rất nhiều cả về thế và lực so với các cường quốc khác ở châu Âu mà
đặc biệt là so với Anh và Pháp, vì vậy Mỹ chỉ có thể thực hiện chính sách mở rộng lãnh thổ ở “sân
nhà” là chủ yếu, chứ chưa thể bành trướng ảnh hưởng ở châu Âu. Do đó, về thực chất, học thuyết
Monroe không phải là một thứ chủ nghĩa biệt lập thuần túy mà là luận thuyết phân chia khu vực ảnh
hưởng, phân chia thị trường. Đây cũng là học thuyết chống lại mọi sự can thiệp của các cường quốc
châu Âu vào Bắc và Nam Mỹ, và việc Bắc Mỹ can thiệp vào châu Âu. Từ đây có thể thấy là không
phải Mỹ muốn biệt lập, không có tham vọng dính líu gì tới bên ngoài mà thực chất Mỹ muốn ngăn cản
các cường quốc châu Âu, không cho họ bành trướng ảnh hưởng và buôn bán ở lục địa châu Mỹ vì Mỹ
coi đây là “sân sau” tự nhiên, là khu vực ảnh hưởng của riêng Mỹ. Mỹ đã tuân thủ chiến lược biệt lập
theo học thuyết Monroe cho đến trước chiến tranh thế giới thứ hai.
Haushofer - nhà tư tưởng địa-chính trị lỗi lạc người Đức - trong khi nghiên cứu nước Mỹ đã
nhận định đây là đất nước đã sử dụng thành công nhất địa-chính trị trong khu vực của nó; học thuyết
Monroe đã quy định sự thống trị của nước Mỹ ở châu Mỹ latinh và không phải chịu sự cạnh tranh của
bất cứ sức mạnh nào [85, tr.3].
Mỹ liên tục có những hành động can thiệp tại các khu vực của châu Mỹ La-tinh. Trong khoảng
thời gian giữa năm 1900 và 1920, Mỹ đã tiến hành sáu vụ can thiệp dai dẳng tại sáu nước ở phía Tây
bán cầu - trong đó nổi bật là Haiti, Cộng hòa Dominica và Nicaragua. Washington đã đưa ra hàng loạt
các lời biện minh cho các hành động can thiệp này như: để thiết lập ổn định chính trị và Chính phủ dân
chủ, để tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho Mỹ (thường được gọi là chính sách ngoại giao USD), để
duy trì tuyến đường biển nối với kênh đào Panama và thậm chí là để tránh cho các nước châu Âu khỏi
việc đòi nợ bằng vũ lực. Năm 1867, Mỹ đã ép Pháp phải rút quân đội ra khỏi Mexico. Tuy nhiên, nửa
thế kỷ sau, trong một phần của chiến dịch sai lầm nhằm đàn áp cuộc nổi dậy của người Mexico và
ngăn chặn các cuộc đột kích vào lãnh thổ của Mỹ, Tổng thống Woodrow Wilson đã cử 11.000 quân tới
vùng phía bắc của Mexico trong một nỗ lực không thành nhằm vây bắt thủ lĩnh nổi loạn Francisco
Pancho Villa.
Những năm 20 của thế kỷ XIX, Mỹ vẫn tiếp tục chính sách bành trướng nhưng để làm yên lòng
các nước Mỹ La-tinh, trong hội nghị liên Mỹ (năm 1928) tại La Habana, Bộ Ngoại giao Mỹ ra sức giải
thích rằng học thuyết Monroe không có nghĩa là đặt châu Mỹ dưới sự thống trị của Mỹ mà chỉ nhằm
đặt toàn châu Mỹ ra ngoài tầm tham vọng của châu Âu. Chính quyền sau này của Herbert Hoover
(1929-1933) và Franklin D. Roosevelt (1933-1945) bác bỏ quyền can thiệp của Mỹ ở châu Mỹ Latinh.
Đặc biệt, chính sách láng giềng thân thiện của Roosevelt năm 1934 dù không thể xóa hết các căng
thẳng giữa Mỹ và châu Mỹ Latinh đã giúp giảm bớt thái độ thù địch với các hành động can thiệp và
đơn phương trước đây của Mỹ trong khi vẫn đảm bảo được sự bành trướng của tư bản Mỹ ở khu vực
này.
1.2.2.3. Biệt lập - tránh khỏi tổn thất chiến tranh, cơ hội phát triển vượt bậc
Vị trí địa lý đã dẫn đến việc hình thành quan điểm biệt lập truyền thống của nước Mỹ. Lần đầu
tiên lập trường trung lập tuyệt đối bị vi phạm khi Mỹ tham gia vào chiến tranh thế giới thứ nhất. Tuy
nhiên sau đó, Mỹ lại rút vào chủ nghĩa biệt lập bản năng của họ khi từ chối gia nhập vào Hội Quốc
Liên, dù tổ chức này chính là sáng kiến của vị Tổng thống Mỹ Wilson. Trước nguy cơ của cuộc chiến
tranh thế giới thứ hai, Mỹ đã tuyên bố trong bất kỳ tình huống nào cũng không giúp đỡ bất kỳ quốc gia
nào dính líu đến cuộc xung đột. Đạo luật Trung lập được ban hành dần dần theo từng phần từ năm
1935 đến năm 1937, trong đó, cấm buôn bán hay cung cấp vũ khí cho các quốc gia tham chiến, yêu cầu
phải trả tiền mặt cho tất cả các hàng hóa khác và cấm các tàu buôn treo cờ Mỹ chuyên chở các hàng
hóa này. Mục đích là ngăn ngừa mọi sự can dự của nước Mỹ vào một cuộc chiến ở nước ngoài bằng
bất cứ giá nào.
Nhờ vị trí địa lý tương đối biệt lập, nằm cách xa đại lục Âu - Á - Phi, nước Mỹ hầu như không
bị tổn thất trong hai cuộc chiến tranh thế giới, nhờ vậy có điều kiện tăng cường sức mạnh kinh tế và
chính trị trên trường quốc tế. Chiến trường chính của cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất diễn ra ở châu
Âu, vì thế các cường quốc châu Âu đều bị suy yếu. Hai nước tư bản lâu đời Anh và Pháp tuy chiến
thắng nhưng nền kinh tế bị kiệt quệ sau chiến tranh và trở thành con nợ của Mĩ. Trong khi đó cường
quốc ở ngoài châu Âu như Mỹ không bị tàn phá bởi chiến tranh, đã vươn lên nhanh chóng, vượt qua
nhiều nước tư bản ở châu Âu. Tương quan lực lượng giữa các cường quốc thay đổi rõ rệt, ngày càng
bất lợi cho các nước tư bản châu Âu vốn chiếm vị trí trung tâm trong thế giới TBCN trước đây.
Thắng lợi của Mỹ trong hội nghị Washington 1921-1922 là dẫn chứng hùng hồn nhất cho ưu thế
đang lên của Mỹ. Hội nghị Washington họp từ 12/1921 đến 2/1922 là hội nghị về hạn chế hải quân và
phân chia ảnh hưởng của các nước lớn sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đối với vùng Thái Bình
Dương và Viễn Đông. Có 9 nước tham dự hội nghị, gồm Mỹ, Anh, Pháp, Nhật, Italia, Bỉ, Hà Lan, Bồ
Đào Nha, Trung Quốc. Kết quả Hội nghị Washington 1921 - 1922 đạt được 3 văn kiện chính:
1. Hiệp ước 4 nước lớn (Mỹ, Anh, Pháp, Nhật), kí ngày 3/12/ 1921, quy định cùng nhau bảo vệ
thuộc địa của 4 nước ở Thái Bình Dương và xóa bỏ liên minh Anh - Nhật (thành lập từ 1902 nhằm
chống lại Mỹ)
2. Hiệp ước 5 nước lớn (Mỹ, Anh, Nhật, Pháp, Italia) kí ngày 6/2/1922, quy định trọng tải chung
của các chiến hạm Mỹ, Anh, Nhật, Pháp, Italia theo tỉ lệ 5 - 5 - 3 - 1,75 - 1,75. Quy định này có lợi cho
Mỹ vươn lên ngang hàng cùng với Anh. Đồng thời, Anh và Nhật cam kết không thành lập những căn
cứ hải quân mới, không xây dựng công sự trên các đảo của thuộc mình ở Thái Bình Dương
3. Hiệp ước 9 nước về vấn đề Trung Quốc, kí ngày 6/2/1922, quy định các nước kí hiệp ước
tuyên bố tôn trọng chủ quyền, tính bất khả xâm phạm về lãnh thổ và hành chính của Trung Quốc,
nhưng các nước này (Mỹ, Anh, Nhật, Pháp, Italia, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha) đều có quyền bình đẳng
trong quan hệ với Trung Quốc và tôn trọng quyền lợi của nhau trên nguyên tắc “mở rộng cửa Trung
Quốc”.
Hội nghị Washington 1921-1922 đã thiết lập “trật tự mới” có lợi cho việc củng cố vị trí của Mỹ
ở châu Á - Thái Bình Dương nói riêng và trên toàn thế giới nói chung.
Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) là cuộc chiến có quy mô lớn nhất trong lịch sử nhân
loại. Các chiến sự đã xảy ra tại Đại Tây Dương, châu Âu, Bắc Phi, Trung Đông, Địa Trung Hải, Thái
Bình Dương, Đông Á và Đông Nam Á. Chiến tranh thế giới thứ hai đánh dấu bước nhảy vọt của nền
kinh tế Mĩ, nhờ buôn bán vũ khí cho các nước Đồng minh châu Âu và do chiến tranh không lan đến đất
nước Mỹ. Kinh tế Mỹ phát triển mạnh: công nghiệp chiếm 56,5% tổng sản lượng công nghiệp thế giới;
nông nghiệp bằng hai lần 5 nước Anh, Pháp, CHLB Đức, Italia, Nhật cộng lại; nắm 50% số lượng tàu
bè đi lại trên biển, ¾ dự trữ vàng thế giới, chiếm 40% tổng sản phẩm kinh tế thế giới… Trong khoảng
hai thập niên đầu sau chiến tranh, Mỹ là trung tâm kinh tế, tài chính giàu mạnh duy nhất của thế giới.
Cũng từ đó đánh dấu giai đoạn mới trong cố gắng vươn lên chiếm vị trí bá quyền thế giới của Mỹ, mặc
dù đôi khi nó bị khuynh hướng “chủ nghĩa biệt lập” kìm hãm. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nước
Mỹ đã có ảnh hưởng lớn chi phối các công việc toàn cầu. Là người chiến thắng trong cuộc chiến tranh
thế giới, lại không bị tàn phá bởi chiến tranh, cả dân tộc Mỹ tin tưởng vào sứ mạng quốc gia trong cả
chính sách đối nội và đối ngoại. Những người lãnh đạo Mỹ muốn duy trì cấu trúc dân chủ mà họ đã
bảo vệ và muốn chia sẻ rộng rãi những lợi ích của sự thịnh vượng. Với họ, như Henry Luce, chủ bút
tạp chí Time, đã nói, giai đoạn này là thế kỷ của nước Mỹ.
1.3. Yếu tố địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ thời kỳ Chiến tranh lạnh (1947 - 1989)
1.3.1. Mục tiêu địa-chính trị trong nội dung chiến lược toàn cầu của Mỹ
Các nhà lãnh đạo Mỹ tin rằng sự biệt lập về chính trị của Mỹ khỏi châu Âu sau chiến tranh thế
giới thứ nhất đã là một sai lầm lớn, sai lầm mà có lẽ đã góp phần vào sự nổi lên của Hitler và gần như
gây ra kết quả là sự thống trị lục địa này bởi một quốc gia duy nhất và thù địch với Mỹ, có thể đe dọa
đến an ninh quốc gia của Mỹ. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các lực lượng Xô viết đã hiện diện trên
một nửa lục địa và khi những người cộng sản đang mạnh lên ở Pháp, Italia và quan trọng nhất là ở Đức
thì những nhà hoạch định chính sách của Mỹ lại có lý do để lo ngại.
Năm 1942, trong tác phẩm “America’s Strategy in World Politics”, Spykman cho rằng Mỹ nên
có những tính toán khôi phục nước Đức sau chiến tranh thế giới thứ hai để làm đối trọng với sức mạnh
của Liên Xô. Spykman dự đoán sự lớn mạnh của Trung Quốc sẽ trở thành sức mạnh thống trị ở châu
Á, vì vậy Mỹ nên giao trách nhiệm phòng thủ cho Nhật. Mỹ cần sự cân bằng sức mạnh ở châu Âu hơn
là một châu Âu hợp nhất. Sự cân bằng sức mạnh sẽ mang lại hòa bình và an ninh cho châu Âu dưới sự
kiểm soát của Mỹ. Spykman đề cao vai trò của sự cân bằng sức mạnh đối với hòa bình và an ninh thế
giới.
Sự cân bằng sức mạnh không phải là món quà của Chúa cũng không phải là tình trạng ổn định
vốn có. Nó xảy ra do sự can thiệp chủ động của một nhà nước, do quá trình hoạt động của các lực
lượng chính trị. Các nhà nước không thể thụ động đợi chờ những giai đoạn huy hoàng dưới ảnh hưởng
của sự cân bằng sức mạnh đem lại hòa bình và an ninh. Nếu các nhà nước muốn tồn tại, họ cần sẵn
lòng bước vào cuộc chiến để gìn giữ sự cân bằng sức mạnh chống lại sức mạnh âm mưu giành bá chủ
trong từng thời kỳ cụ thể [90, tr.48].
Chịu ảnh hưởng của học thuyết địa-chính trị của Mackinder, các nhà hoạch định chính sách Mỹ
xác định vị thế đứng đầu thế giới của Mỹ phụ thuộc trực tiếp vào việc ưu thế ấy được giữ vững trong
bao lâu, có hiệu quả như thế nào ở lục địa Âu - Á. Năm 1943, Mackinder viết bài “The Round World
and the Winning of the Peace” trên tạp chí Ngoại giao, khẳng định “lãnh thổ nước Nga Xô viết là
tương đương với vùng đất trung tâm” và chứng minh nước Nga Xô viết làm chủ vùng đất trung tâm là
mối nguy hiểm lớn cho bất cứ nỗ lực thống trị thế giới nào. Vì vậy, thắng lợi của Mỹ gắn liền với việc
chống lại Liên Xô.
Các bài phát biểu trước dân chúng của cả hai phe đã châm ngòi cho cuộc Chiến tranh lạnh. Năm
1946, Stalin đã tuyên bố rằng hòa bình thế giới là điều không thể có nếu vẫn còn tồn tại hình thức phát
triển TBCN trong nền kinh tế thế giới. Cựu Thủ tướng Anh Winston Churchill đã trình bày bài diễn
văn ấn tượng của mình ở Fulton, Missouri, cùng sự góp mặt của Truman trên khán đài. Ông nói, từ
Stettin ở Baltic đến Trieste ở Adriatic, một tấm màn sắt đã buông xuống chắn ngang châu lục. Ông
tuyên bố rằng Anh và Mỹ cần phải cùng nhau chống lại mối đe dọa từ Liên Xô.
Chính sách ngăn chặn Liên Xô đã trở thành chính sách của Mỹ trong những năm hậu chiến
tranh. George Kennan, quan chức cao nhất của Đại sứ quán Mỹ ở Moscow đã xác nhận một quan điểm
mới trong một bức điện dài gửi tới Bộ Ngoại giao Mỹ năm 1946. Sau khi trở về Mỹ, ông đã trình bày
kỹ hơn những phân tích của mình trong một bài báo được đăng tải dưới chữ ký X trong tờ tạp chí có uy
tín lớn Foreign Affairs. Chỉ ra cảm giác truyền thống về sự không an toàn của nước Nga, Kennan đã
biện luận rằng Liên Xô sẽ không thay đổi lập trường của họ dù trong bất kỳ tình huống nào. Ông viết,
Moscow đã tin tưởng một cách cuồng tín rằng bắt tay với nước Mỹ sẽ không thể đem lại sự ổn định, họ
muốn rằng sự hài hòa bên trong xã hội Mỹ sẽ bị phá vỡ, áp lực của Moscow nhằm mở rộng quyền lực
của mình buộc phải bị ngăn lại bằng một chính sách kiên quyết và cảnh giác nhằm ngăn chặn xu hướng
bành trướng ảnh hưởng của Liên Xô.
Lúc đầu, học thuyết về Chính sách ngăn chặn được áp dụng ở vùng đông Địa Trung Hải. Đầu
năm 1946, Mỹ yêu cầu Liên Xô phải rút quân khỏi phía Bắc Iran, phần lãnh thổ mà Liên Xô đã chiếm
đóng trong chiến tranh. Mùa hè năm đó, Mỹ đã tỏ rõ sự ủng hộ Thổ Nhĩ Kỳ chống lại những đòi hỏi
của Liên Xô trong việc kiểm soát vùng eo biển giữa biển Đen và Địa Trung Hải. Vào đầu năm 1947,
chính sách của Mỹ kết tinh khi Anh thông báo với Mỹ rằng họ không còn khả năng tiếp tục ủng hộ
Chính phủ Hy Lạp chống lại sự bành trướng mạnh mẽ của cộng sản nữa. Trong một bài diễn văn hùng
hồn trước Quốc hội, tổng thống Truman (nhiệm kỳ 1945-1953) đã tuyên bố “Tôi tin rằng Hoa Kỳ phải
có một chính sách ủng hộ các dân tộc tự do đang đấu tranh chống lại sự bành trướng từ các nhóm thiểu
số có vũ trang hay từ những áp lực bên ngoài”, thực chất là chống lại Liên Xô và ảnh hưởng của chủ
nghĩa cộng sản. Các nhà báo nhanh chóng gọi bài phát biểu này là Học thuyết Truman. Học thuyết
Truman là “lời tuyên bố rằng phạm vi ảnh hưởng thực sự của Mỹ không phải là Tân thế giới mà là cả
thế giới, là lời thừa nhận khéo léo về “chính sách ngăn chặn” của Kennan đưa ra trước đó 1 năm” [48,
tr.169].
Học thuyết Truman đã mở ra một thời kỳ mới trong nền ngoại giao Mỹ: kể từ nay, giới cầm
quyền Mỹ - dù thuộc đảng Dân chủ hay đảng Cộng hòa - sẽ từ bỏ hẳn xu thế biệt lập và dứt khoát chọn
chủ nghĩa toàn cầu cho nền ngoại giao nước mình. Với học thuyết Truman, Mỹ sẽ đảm nhiệm vai trò
“sen đầm quốc tế” chống cộng sản để bảo vệ trật tự thế giới theo cách Mỹ quan niệm. Nội dung của
học thuyết Truman “được duy trì như là nền tảng cho việc hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ cho
đến đầu thập niên 1990” [19, tr.27].
Học thuyết Truman chịu ảnh hưởng của các tư tưởng địa-chính trị, cụ thể là tư tưởng của James
Burham. James Burham (1905 - 1987) là một nhà chính trị phái tả xuất chúng, ông đóng vai trò quan
trọng trong việc phát triển yếu tố địa-chính trị đối kháng với chủ nghĩa cộng sản trong thời kỳ Chiến
tranh lạnh. “The Struggle for the World” - tác phẩm nổi tiếng của James Burham được ví như quả bom
tấn chống lại ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản thời hậu chiến. Burham cho rằng, “có một sự thật
hiển nhiên của địa-chính trị là bất kỳ sức mạnh nào thành công trong việc kiểm soát vùng trung tâm
Âu - Á và vùng rìa phía ngoài của nó, sức mạnh đó chắc chắn sẽ kiểm soát toàn bộ thế giới. Kế thừa
quan điểm của Mackinder, Burham khẳng định Liên Xô đã nổi lên là một đế quốc vùng trung tâm với
dân số đông, được tổ chức về mặt chính trị; lực lượng quân sự hùng mạnh, là mối đe dọa đối với hòn
đảo của thế giới và vì vậy cũng là sự nguy hiểm cho toàn bộ thế giới” [85, tr.1]. Thực tế, Liên Xô là
đối thủ duy nhất cản trở tham vọng bá chủ thế giới của Mỹ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh. Henry Luce
đã tích cực ủng hộ “The Struggle for the World” trên tạp chí Time và thuyết phục trợ lý tổng thống
Truman - Charles Ross đưa tác phẩm này cho Truman đọc. Kết quả là năm 1983, tổng thống Ronald
Reagan đã trao tặng cho James Burham huy chương tự do của tổng thống (Presidential Medal of
Freedom) vì ông đã tác động một cách sâu sắc đến cách nước Mỹ nhìn nhận nó và thế giới.
Năm 1950, Mỹ đã xác định rõ ràng mục tiêu phòng thủ của mình. Hội đồng An ninh Quốc gia
(NSC) - một diễn đàn trong đó Tổng thống, các thành viên Nội các và các thành viên hành pháp xem
xét các vấn đề an ninh quốc gia và chính sách đối ngoại - đã tiến hành rà soát toàn bộ chính sách đối
ngoại và quốc phòng của Mỹ. Văn kiện mang tên NSC 68 của diễn đàn này đã ghi nhận một phương
hướng mới trong chính sách an ninh của Mỹ. Dựa trên giả định rằng Liên Xô có một nỗ lực cuồng tín
nhằm kiểm soát mọi Chính phủ ở bất kỳ nơi nào có thể, văn kiện này đã giao phó cho nước Mỹ một
nhiệm vụ trợ giúp các quốc gia đồng minh ở bất kỳ nơi nào trên thế giới đang bị Liên Xô đe dọa. Sau
khi cuộc chiến tranh Triều Tiên nổ ra, Truman đã phê chuẩn văn kiện này. Mỹ tiếp tục tăng chi tiêu
cho quốc phòng một cách mạnh mẽ chưa từng có.
Eisenhower (1953 - 1961) có chung quan điểm cơ bản với tổng thống tiền nhiệm Truman về
chính sách đối ngoại của Mỹ. Eisenhower cũng nhận thức được rằng chủ nghĩa cộng sản là một lực
lượng vững chắc đang đấu tranh giành ưu thế trên trường quốc tế. Vị Tổng thống mới Eisenhower và
Ngoại trưởng John Foster Dulles đã chỉ rõ rằng chính sách ngăn chặn chưa được triển khai đầy đủ
nhằm ngăn ngừa sự bành trướng của Liên Xô và cần phải có một chính sách tự do tích cực hơn nữa để
giải phóng các dân tộc đang bị cộng sản khống chế. Năm 1957, Eisenhower tuyên bố Học thuyết
Eisenhower, trong đó nói lên rằng Mỹ sẵn sàng dùng vũ trang để bảo vệ nền tự chủ của một quốc gia
hay một nhóm quốc gia ở Trung Đông trước sự đe dọa của các thái độ thù nghịch.
Tổng thống Kennedy (1961 - 1963) nhậm chức đã cam kết sẽ tiếp tục cuộc Chiến tranh lạnh một
cách mạnh mẽ, ông không những chỉ muốn dừng lại ở việc xây dựng và phát triển kho vũ khí, mà ông
còn muốn sử dụng kho vũ khí này để đẩy lùi bước tiến của cộng sản trên toàn thế giới. Xương sống của
chủ thuyết Kennedy là kế hoạch chống phản loạn (Counter-Insurgency Plan, viết tắt là CIP; thường
được gọi là chiến tranh đặc biệt). “Chiến tranh đặc biệt” là loại hình chiến tranh xâm lược thực dân
mới, một trong ba hình thức chiến tranh (đặc biệt, cục bộ, tổng lực) được đề ra phù hợp với chiến lược
quân sự toàn cầu “phản ứng linh hoạt”.
Lyndon B. Johnson (1963 - 1969) tăng cường tập trung vào cố gắng của quân đội Mỹ ở Việt
Nam. Ông ta tin chắc chắn rằng Mỹ phải có một sự cố gắng đáng kể trong việc chặn đứng sự bành
trướng của chủ nghĩa cộng sản bằng cách làm đậm mối nguy cộng sản đối với tình hình an ninh thế
giới và biện hộ cho những tổn hại không thể che đậy tại Việt Nam.
Richard Nixon (1969 - 1974) đề ra Học thuyết Nixon với ba nguyên tắc: một là “tập thể tham
gia”, hai là “sức mạnh của Mỹ”, ba là “sẵn sàng thương lượng”. Theo Nixon, thực hiện ba nguyên tắc
này là nhằm đạt những mục tiêu sau đây: giảm bớt các “cam kết quốc tế” của Mỹ; đòi hỏi các đồng
minh “chia sẻ trách nhiệm” với Mỹ, cùng chống lại sự bành trướng của cộng sản trên toàn thế giới;
chiến tranh chống Cộng ở quốc gia nào thì người của quốc gia đó tiến hành là chính; trong tiến trình
chiến tranh chống Cộng, nếu cần thiết chúng ta chấp nhận thương lượng với đối phương nhằm chiến
thắng trong hòa bình.
Gerald Ford (1974 - 1977) là vị Tổng thống không gây hiềm khích. Ông và Ngoại trưởng Mỹ
lúc đó là Henry Kissinger thực hiện chính sách giảm bớt căng thẳng trong quan hệ với các nước. Trong
lúc ở cương vị Tổng thống, Gerald Ford đã cố gắng hết sức để giữ vững sức mạnh và hình ảnh cho
nước Mỹ ở nước ngoài sau khi Mỹ rút khỏi Việt Nam và Campuchia, ông đã đứng trung gian để có
một cuộc ngưng bắn tạm thời giữa Israel và Ai Cập, và đã ký các hiệp định hạn chế vũ khí hạt nhân với
Liên Xô.
Carter (1977 - 1981) tích cực tranh đấu cho nhân quyền trên qui mô toàn cầu và xem nhân
quyền là tâm điểm cho chính sách đối ngoại của Chính phủ ông. Chính phủ Carter đã đạt được các
thành tựu như Thỏa ước kênh đào Panama, Hòa ước trại David, Hiệp ước SALT II với Liên Xô và việc
thiết lập bang giao đầy đủ với Trung Quốc. Tuy nhiên với vụ khủng hoảng con tin tại Iran, Mỹ chứng
kiến ảnh hưởng của mình bị suy giảm trên trường quốc tế.
Tổng thống Regan (1981 - 1989) kế nhiệm theo đuổi chính sách hòa bình thông qua sức mạnh.
Trong mối quan hệ với Liên Xô, Regan tuyên bố rõ ràng thái độ đối nghịch của mình đối với quốc gia
này. Trong nhiệm kỳ đầu của Reagan, Chính phủ của ông đã chi những khoản tiền lớn chưa từng có
cho việc tăng cường lực lượng vũ trang, bao gồm việc chuyển các tên lửa hạt nhân tầm trung đến châu
Âu để đối phó lại việc Liên Xô triển khai các tên lửa tương tự. Vào ngày 23/3/1983, trong một cuộc
tranh luận chính sách nảy lửa nhất trong suốt hai nhiệm kỳ tổng thống của mình, Reagan đã công bố
chương trình nghiên cứu về Sáng kiến phòng thủ chiến lược (SDI) nhằm tìm ra các công nghệ tiên tiến
như tia laser và các đầu đạn tên lửa năng lượng cao để phòng ngự chống lại các tên lửa đạn đạo xuyên
lục địa. Mặc dù nhiều nhà khoa học đã tỏ ý nghi ngờ tính khả thi về mặt công nghệ của SDI và các nhà
kinh tế đã chỉ ra các khoản chi phí vô cùng lớn, song Chính phủ vẫn tiếp tục triển khai dự án này.
Như vậy, Chiến tranh lạnh là một cuộc đối đầu về ý thức hệ, kinh tế và địa-chính trị giữa hai
phe: chủ nghĩa cộng sản và chủ nghĩa tư bản sau Thế chiến thứ hai. Liên Xô trở thành đối thủ địa-chính
trị chủ yếu của Mỹ, và mục tiêu địa-chính trị chủ yếu trong nội dung chiến lược toàn cầu của Mỹ thời
kỳ Chiến tranh lạnh (1947 - 1989) là ngăn chặn những ảnh hưởng của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản.
1.3.2. Yếu tố địa-chính trị trong quá trình thực hiện chiến lược toàn cầu của Mỹ
Spykman cho rằng cuộc chiến ở lục địa Âu - Á giữa đế quốc vùng trung tâm (Liên Xô) và đế
quốc vùng biển (Mỹ) là để ngăn cản bất kỳ sức mạnh nào khống chế vùng rìa. Theo chủ trương của
Spykman, Mỹ đã thực hiện chính sách “cân bằng lực lượng” nhằm tạo ra những tiền đồn của chủ
nghĩa tư bản chống lại Liên Xô và các nước XHCN.
Trong tác phẩm “The Geopolitics of the Nuclear Era: Heartland, Rimlands, and the
Technological Revolution”, Colin Gray cũng nhận xét, nhìn ở góc độ địa-chính trị: “Chiến tranh lạnh
về bản chất là cuộc chiến giữa đế quốc đại dương Mỹ và đế quốc vùng trung tâm Liên Xô... vì sự kiểm
soát hay phủ nhận phạm vi ảnh hưởng của đối phương đối với những vùng rìa ở châu Âu, châu Á,
châu Phi” [86, tr.14].
Ở châu Âu, khu vực Đông Âu đã nằm trong vòng ảnh hưởng của Liên Xô. Sau khi được Liên
Xô giúp đỡ đánh bại phát xít Đức giành độc lập, các nước Đông Âu đã thành lập các Nhà nước dân
chủ nhân dân, tiến hành cải cách ruộng đất, quốc hữu hóa các xí nghiệp lớn của tư bản trong và ngoài
nước, củng cố vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Các nước cộng hòa nhân dân Đông Âu ra đời làm
thay đổi cục diện châu Âu sau chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội từ phạm vi một nước trở
thành một hệ thống.
Liên Xô ý thức rất rõ vai trò của vùng rìa (các nước Đông Âu) trong việc bảo đảm an ninh của
vùng trung tâm (Liên Xô). Khu vực Đông Âu đóng vai trò quan trọng như một vùng đệm phòng thủ,
một sự thật đã được chứng thực năm 1939 khi Liên Xô chinh phục và thu hút các nước cộng hòa Baltic
và một phần ba diện tích của Ba Lan ở phía đông. Trong thời gian chiến tranh thế giới thứ hai, tất cả
các nước Đông Âu hoặc bị Đức Quốc xã chiếm đóng để rồi trở thành nơi phát xuất của các đạo quân
Đức Quốc xã, hoặc trở thành chư hầu của Đức Quốc xã và phụ trợ cho cuộc chiến tranh xâm lược của
nước này vào Liên Xô. Miền đồng bằng phía bắc của Phần Lan là con đường tự nhiên để tiến công
sang Liên Xô và đã từng được sử dụng trong Wehrmacht năm 1941. Đường bờ biển của Rumani và
Bungari đối diện với Liên Xô qua biển Đen. Cả hai nước này đã liên minh với phát xít Đức và vùng
đồng bằng sông Danube của Rumani, trở thành bàn đạp để tấn công vào tây nam Liên Xô. Vì vậy, Liên
Xô cần bảo vệ sự kiểm soát của mình ở Đông Âu bằng cách in dấu “chủ nghĩa xã hội”, xây dựng một
hệ thống các nước XHCN Đông Âu thành lá chắn bảo vệ biên giới phía tây của Liên Xô khỏi một cuộc
chiến tranh xâm lược khác phát xuất từ Đức (hay bất kỳ cường quốc nào khác). “Chính sách của Nga ở
Đông Âu gợi nhắc một chính sách truyền thống của Mỹ đối với vùng Caribe” [48, tr.150].
Mỹ đã thất bại trong việc ngăn chặn Liên Xô kiểm soát Đông Âu, vì vậy buộc phải đối mặt
nguy cơ Liên Xô làm chủ cả châu Âu vì “Đông Âu là nguồn cung cấp thực phẩm, nguyên liệu thô và
thị trường lâu năm cho Tây Âu, và như vậy nó đóng vai trò quan trọng đối với sự phục hồi của Tây
Âu, ngoài ra Liên Xô đã có mối quan hệ chính trị và ý thức hệ với một số đảng chính trị và công đoàn
ở Tây Âu và có sức mạnh quân đội đáng kể làm cho châu Âu tự động phải quan tâm đến nó” [48,
tr.138].
Sự tồn tại của Liên Xô làm cho nhiệm vụ của Mỹ trong tái thiết châu Âu và hòa nhập châu Âu
vào một thị trường thế giới tự do trở nên phức tạp hơn. Nỗ lực của Mỹ nhằm “ngăn chặn” sức mạnh
Xô viết trong phạm vi những đường biên giới sau chiến tranh của nó bao gồm hai giai đoạn rõ ràng: nỗ
lực tức thì tái thiết châu Âu về mặt kinh tế và chính trị, và do đó tăng cường khả năng và sự hăng hái
của châu Âu chống lại những thành tựu tiếp theo của Liên Xô; sau đó là duy trì kỷ nguyên hạt nhân và
sự tin cậy của những lời hứa bảo vệ các đồng minh châu Âu của Mỹ. Hai sáng kiến “kế hoạch
Marshall” và “NATO” đã chứng tỏ quyết tâm của Mỹ trong việc tái thiết và bảo vệ phần châu Âu phi
cộng sản.
Kế hoạch Marshall (được Quốc hội Mỹ thông qua đầu năm 1948) cung cấp những khoản viện
trợ kinh tế khổng lồ nhằm hỗ trợ cho việc phục hồi các nước Tây Âu bị tàn phá sau chiến tranh. Nhìn
chung, đây là một trong số những sáng kiến ngoại giao thành công nhất của Mỹ trong lịch sử. Vì rất
nhiều quốc gia trong khu vực này không ổn định về kinh tế và chính trị nên Mỹ lo sợ rằng các Đảng
Cộng sản địa phương được Moscow chỉ đạo sẽ lợi dụng chiến công chống quân Quốc xã của mình để
giành quyền lực, nay với kế hoạch Marshall, Mỹ có thể yên tâm về ảnh hưởng của mình ở Tây Âu.
Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO), được thành lập năm 1949, với sự tham gia của
Mỹ và 11 quốc gia khác Canada, Bỉ, Anh, Đan Mạch, Pháp, Ireland, Ý, Luxembourg, Hà Lan, Na Uy,
Bồ Đào Nha. NATO là sự phản ứng lại ưu thế quân sự truyền thống của Liên Xô ở châu Âu. Sự thống
trị của Liên Xô ở Đông Âu, và đặc biệt là cuộc đảo chính ở Tiệp Khắc đã báo động cho các nước
phương Tây. NATO là liên minh quân sự thời bình đầu tiên trong lịch sử nước Mỹ mà quyền lực của
nó vượt ra khỏi địa phận Tây bán cầu. NATO đã chính thức ràng buộc nước Mỹ vào việc bảo vệ Tây
Âu thông qua “liên minh ràng buộc” với quy định nếu một quốc gia thành viên bị tấn công, thì phải coi
đó là cuộc tấn công chống lại tất cả các quốc gia thành viên khác, và do đó, phải được đáp trả bằng sức
mạnh thích hợp. Sự tham gia liên minh NATO có ý nghĩa lớn trong lịch sử nước Mỹ, chấm dứt chính
sách cô lập của Mỹ đối với các vấn đề châu Âu.
Liên Xô trả lời bằng cách thành lập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) năm 1949 và khối Hiệp
ước Warszawa năm 1955 nhằm tăng cường sự hợp tác giữa Liên Xô và các nước Đông Âu, từng bước
hình thành hệ thống các nước XHCN. Như vậy, sau chiến tranh thế giới thứ hai, ở châu Âu đã hình
thành thế đối lập cả về địa lý chính trị lẫn kinh tế giữa hai khối Đông Âu xã hội chủ nghĩa và Tây Âu
tư bản chủ nghĩa.
Nước Đức thời hậu chiến là một vấn đề đặc biệt. Mĩ chủ trương phải duy trì một nước Đức
tương đối mạnh để đối phó với phong trào cách mạng đang lên cao ở các nước châu Âu và âm mưu bá
chủ châu Âu của Pháp. Đó là chính sách “cân bằng lực lượng” ở châu Âu mà Mĩ rất ủng hộ. Đồng thời,
do vị trí đặc biệt của nước Đức hùng mạnh ở trung tâm châu Âu, cuộc đấu tranh giành ảnh hưởng giữa
Liên Xô với Mỹ và Anh ở đây đã diễn ra rất quyết liệt. Bộ ba Anh - Mỹ - Liên Xô đồng ý chia nước
Đức thành bốn vùng dưới sự kiểm soát và quản lý của Anh, Mỹ, Pháp và Liên Xô. Riêng vùng Berlin
cũng bị chia ra tương tự nhưng do vị trí của thành phố trong nước Đức nên vùng kiểm soát bởi liên
quân Anh - Pháp - Mỹ (Tây Berlin) bị nằm lọt thỏm bên trong khu vực do Liên Xô kiểm soát. Thành
phố Berlin bị chia làm hai phần và mâu thuẫn giữa quân đội chiếm đóng của ba nước phương Tây và
quân đội Liên Xô ngày càng sâu sắc, cùng với quan hệ giữa hai đồng minh thế chiến là Mỹ và Liên Xô
ngày càng xuống dốc. Berlin trở thành trung tâm của cuộc chiến giữa các cơ quan tình báo của cả hai
phe. Trong năm 1948, cuộc phong tỏa Berlin của Liên bang Xô viết là một trong những cuộc khủng
hoảng lớn đầu tiên của cuộc Chiến tranh lạnh. Cuộc phong tỏa Berlin kéo dài từ ngày 24/6/1948 đến
ngày 11/5/1949 (khủng hoảng Berlin lần 1) khi chính quyền Xô viết quyết định phong tỏa tất cả các
đường giao thông vận tải nối khu Tây Berlin. Cuộc bủa vây này gây ra sự thiếu hụt lương thực và đồ
tiêu dùng cho 2,5 triệu người ở Tây Berlin. Truman không muốn dùng sức mạnh quân sự để mở lại các
mối giao thông vào Tây Berlin mà ông cũng không muốn Tây Berlin rơi vào tay của Liên Xô, cho nên
Truman quyết định viện trợ cho Tây Berlin bằng cách thả hàng viện trợ xuống từ trên không. Trong
vòng 15 tháng, quân đội Anh và Mỹ cung cấp 200.000 chuyến bay cung cấp lương thực, nhiên liệu.
Mỗi ngày 13.000 tấn hàng hóa được viện trợ cho Tây Berlin. Tháng 5/1949, Stalin tháo bỏ lệnh phong
tỏa Tây Berlin, mở đầu cho cuộc đối đầu mới giữa khối Cộng sản và các nước phương Tây.
Sự thành lập nước Cộng hòa Liên bang Đức ở Tây Đức (5/1949) và nước Cộng hòa Dân chủ
Đức ở Đông Đức (10/1949) là kết quả của cuộc đấu tranh bất phân thắng bại giữa Mĩ, Anh với Liên Xô
trong cuộc tranh chấp ảnh hưởng ở Đức. Nước Đức trở thành trọng điểm đối đầu giữa hai phe trong
cuộc Chiến tranh lạnh. “Với vị trí chiến lược và tiềm năng rất lớn về kinh tế lẫn quốc phòng, Tây Đức,
dưới con mắt của các nhà hoạch định chính sách đối ngoại phương Tây, giữ vai trò có tính chất quyết
định trong chính sách “ngăn chặn” chủ nghĩa cộng sản [17, tr.29]. Logic phát triển của cái nhìn này là
kết nạp Tây Đức vào NATO với tư cách là một thành viên đầy đủ và có chủ quyền. Năm 1954, Mỹ tái
vũ trang Cộng hòa Liên bang Đức để tăng cường sức mạnh quân sự của NATO, biến Tây Đức thành
một tiền đồn đối đầu với Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu.
Các cuộc khủng hoảng Berlin (lần 1 từ tháng 6/1948 đến tháng 5/1949, lần 2 vào tháng 8/1961)
là sự đối đầu quyết liệt nhất giữa Liên Xô và Mỹ trong thời gian hậu chiến ở châu Âu. Về mặt hình
thức, Berlin mang thể chế của một thành phố phi quân sự đối với quân đội Đức, đồng thời cũng là một
thành phố độc lập so với cả hai quốc gia Đức - những điều thật ra không còn giá trị trong thực tế. Trên
nhiều phương diện, Tây Berlin gần như mang thể chế của một tiểu bang, thí dụ như việc có đại diện
(nhưng không có quyền bỏ phiếu) trong Quốc hội Liên bang Đức. Đông Berlin trở thành thủ đô của
nước Đông Đức. Khi cuộc Chiến tranh lạnh leo thang, biên giới giữa hai phần nước Đức đã trở thành
biên giới giữa Hội đồng tương trợ kinh tế và Cộng đồng châu Âu, giữa khối NATO và khối Warszawa,
tức là giữa hai thế lực khác nhau về tư tưởng chính trị, kinh tế và văn hóa, đã chính thức đối mặt thù
địch nhau trong cuộc Chiến tranh lạnh. Từ khi Đông Đức được thành lập, người Đông Đức chạy sang
Tây Đức ngày càng nhiều. Bắt đầu từ năm 1952, biên giới giữa hai nước Đức được bảo vệ bằng hàng
rào và có lực lượng canh phòng. Một khu vực cấm dọc theo biên giới có chiều ngang 5 km được thành
lập, người dân chỉ được phép đi vào khi có giấy phép đặc biệt - thông thường là chỉ cho những dân cư
trong vùng. Ngược lại, ranh giới của các khu vực chiếm đóng giữa Tây Berlin và Đông Berlin lại vẫn
còn bỏ ngỏ, vì thế mà gần như không thể kiểm soát được và trở thành một lỗ hổng để người dân chạy
qua Tây Berlin. Từ năm 1949 cho đến năm 1961, khoảng 2,6 triệu người đã rời bỏ Đông Đức và Đông
Berlin, trong số đó vẫn còn 47.433 người chạy trốn chỉ riêng trong hai tuần đầu của tháng 8/1961.
Ngoài ra Tây Berlin cũng là cửa ngõ đi đến phương Tây cho nhiều người Ba Lan và Tiệp Khắc. Vì
những người này thường là những người trẻ tuổi và được đào tạo tốt nên việc di dân này là mối đe dọa
cho sức mạnh kinh tế của Đông Đức và cuối cùng là cho sự tồn tại của quốc gia này. Thêm vào đó
khoảng 50.000 người dân Đông Berlin tuy hằng ngày làm việc ở Tây Berlin nhưng lại sinh sống và cư
ngụ dưới những điều kiện rẻ tiền hơn ở Đông Berlin hay ở những vùng ngoại thành Berlin. Ngoài ra,
nhiều người ở Tây Berlin và người Đông Berlin nhưng làm việc tại Tây Berlin đã dùng tiền Mark
Đông Đức được đổi với giá rẻ trên thị trường ngoại tệ chợ đen - tỷ giá hối đoái thời điểm đấy là 1:4 -
để mua lương thực thực phẩm tương đối rẻ và các hàng hóa tiêu dùng cao cấp ít ỏi ở Đông Berlin. Qua
đó hệ thống kinh tế theo chế độ kinh tế kế hoạch của Đông Đức lại càng suy yếu đi. Tháng 8/1961,
Bức tường Berlin được xây dựng để bảo vệ nước Đông Đức chống lại việc “di dân, xâm nhập, gián
điệp, phá hoại, buôn lậu, bán tống bán tháo và gây hấn từ phương Tây”. Bức tường này là một trong
những biểu tượng nổi tiếng nhất của cuộc Chiến tranh lạnh và của việc chia cắt nước Đức.
Trong khi tìm cách ngăn ngừa hệ tư tưởng cộng sản đang lan tràn ở châu Âu, Mỹ cũng phản ứng
lại những thách thức tại nhiều khu vực khác trên thế giới. Ở Đông Bắc Á, người Mỹ lo ngại những
bước tiến của Mao Trạch Đông và Đảng Cộng sản Trung Quốc. Tháng 10/1949, cách mạng Trung
Quốc thắng lợi, nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời. Khi Mao Trạch Đông tuyên bố rằng chế độ
mới của Trung Quốc sẽ ủng hộ Liên Xô để chống lại đế quốc Mỹ thì rõ ràng là chủ nghĩa cộng sản đã
phát triển rộng rãi ngoài tầm kiểm soát của Mỹ, chí ít cũng là ở châu Á. Với sự hiện diện của Trung
Quốc - một đất nước rộng lớn, đông dân, có tiềm năng kinh tế, chính trị; tiềm lực của hệ thống XHCN
đã tăng lên vượt bậc. Cả Liên Xô và Mỹ đều nhận thấy sức mạnh và tầm quan trọng của Trung Quốc
trong khối XHCN, nhất là sau cuộc chiến tranh Triều Tiên (Trung Quốc đã cử một lực lượng lớn quân
chí nguyện sang Triều Tiên, đẩy liên quân do Mỹ đứng đầu vào thế giằng co ở khu vực gần vĩ tuyến
38).
“Việc Mỹ can thiệp vào chiến tranh Triều Tiên (1950-1953) là ví dụ đầu tiên về việc áp dụng
chiến lược ngăn chặn ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương” [81, tr.130]. Triều Tiên trở thành một
điểm nóng trong cuộc Chiến tranh lạnh, là nơi mà Mỹ đã thực sự chống lại chế độ Cộng sản và đã dẫn
tới một cuộc chiến tranh giới hạn qua đó cả hai phe TBCN và XHCN đều cố gắng giới hạn các loại vũ
khí sử dụng, các địa điểm giao tranh và cố tránh một cuộc chiến nguyên tử toàn diện. Cả hai phe đều
cảm nhận những rủi ro của Chiến tranh lạnh là rất lớn. Ý thức được về sự ưu tiên dành cho châu Âu,
Chính phủ Mỹ đã quyết định ngừng đưa quân tới Triều Tiên và sẵn sàng đồng ý với hiện trạng trước
chiến tranh. Ngày 27/7/1953, Hiệp định đình chiến ngăn chặn cuộc xung đột quốc tế trên quy mô lớn
hơn ở khu vực đã được ký kết ở Panmanchem (Bàn Môn Điếm) với sự tham gia của đại diện hai miền
Triều Tiên và đại diện của 3 nước Mỹ, Liên Xô, Trung Quốc. Theo Hiệp định, vĩ tuyến 38 được lấy
làm ranh giới quân sự giữa hai miền Nam - Bắc; một khu phi quân sự rộng 4 km sẽ ngăn cách quân đội
hai bên. Kết cục của cuộc chiến tranh kéo dài 3 năm là sự nghi kỵ và thù địch lẫn nhau giữa hai miền
Triều Tiên ngày càng tăng, gây trở ngại lớn cho việc tổ chức đối thoại và hòa giải. Nhưng đồng thời,
việc ký kết Hiệp định cũng chứng tỏ sự can thiệp quân sự của Mỹ đối với bán đảo Triều Tiên bị thất
bại. Một sự cân bằng quyền lực tạm thời ở Đông Bắc Á được thiết lập.
Sau cuộc chiến tranh Triều Tiên, Mỹ thực hiện chính sách kiềm chế quân sự, cô lập ngoại giao
và cấm vận kinh tế chống CHDCND Triều Tiên. Năm 1953, Mỹ và Nam Triều Tiên đã ký một hiệp
ước an ninh chung. Ngoài ra, Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và đóng một lực lượng quân sự lớn ở Nam
Triều Tiên. Để thực hiện chính sách kiềm chế chủ nghĩa cộng sản ở khu vực Đông Bắc Á, Mỹ đã xây
dựng một dây chuyền hiệp định an ninh song phương và đa phương với Đài Loan, Australia, New
Zealand; đồng thời Mỹ còn tích cực thuyết phục Nam Triều Tiên và Nhật Bản cải thiện quan hệ với
nhau. Trước hành động đó, Liên Xô và Trung Quốc đã ký Hiệp ước phòng thủ chung song phương với
CHDCND Triều Tiên (1961). Mặc dù sau đó, mâu thuẫn Xô - Trung ngày càng tăng, nhưng về cơ bản,
hệ thống chiến lược hai cực vẫn chi phối tình hình ở bán đảo Triều Tiên.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ giúp Nhật tiến hành cải cách, biến nước này trở thành một
cường quốc kinh tế và một đồng minh của Mỹ trong chiến lược “ngăn chặn hoạt động bành trướng của
chủ nghĩa cộng sản Xô viết” ở Đông Bắc Á và trên phạm vi toàn cầu. Đánh giá về ý nghĩa của Nhật
Bản trong hệ thống ngoại vi mà bộ trưởng Ngoại giao Dean Acheson đã xác định ngày 12/1/1950, nghị
quyết của Hội đồng An ninh quốc gia Mỹ đã viết: “Trong trường hợp xảy ra một cuộc chiến tranh toàn
cầu, các khả năng của Nhật có ảnh hưởng rất lớn, tích cực hay tiêu cực, tùy thuộc vào việc nó ngả theo
phe nào”. G.Kennan đã xuất phát từ kinh nghiệm của thời Chiến tranh Thái Bình Dương để cho rằng
người Mỹ sẽ vẫn cảm thấy an toàn trước một Trung Quốc thù địch và một Nhật Bản thân hữu; điều này
có nghĩa là nền an ninh của Mỹ sẽ bị đe dọa bởi một viễn cảnh, trong đó Trung Quốc là nước thân hữu
và Nhật là nước thù địch. Thắng lợi của cộng sản trên toàn Hoa Lục sẽ là áp lực đè nặng lên Nhật và
nếu Nhật không trụ nổi, khả năng xấu nhất sẽ xảy đến cho quyền lợi của Mỹ ở Viễn Đông: một Trung
Quốc thù địch và một Nhật Bản cũng thù địch [18, tr.77]. Với Hiệp ước An ninh Mỹ - Nhật (1951) có
nội dung chấp nhận cho Mỹ đóng quân và xây dựng căn cứ quân sự trên đất Nhật, ở Đông Bắc Á đã
xuất hiện liên minh thứ hai: liên minh Mỹ - Nhật làm đối trọng với liên minh Xô - Trung. Trong thập
niên 60 của thế kỷ XX, liên minh quân sự Mỹ - Nhật đã trở thành chỗ dựa chính cho các hoạt động đối
ngoại và quân sự của Mỹ trong vùng châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là trong cuộc chiến tranh trên
bán đảo Đông Dương.
Bán đảo Đông Dương là vị trí then chốt có tầm chiến lược quan trọng trên bản đồ chính trị thế
giới, là khu vực có trữ lượng dầu lửa và khí đốt lớn của thế giới (biển Đông). Đông Dương (Việt Nam,
Lào, Campuchia), vốn là thuộc địa của Pháp từ trước chiến tranh thế giới thứ hai, là một chiến trường
khác của Chiến tranh lạnh. Nỗ lực của nước Pháp nhằm tái lập ách thống trị đã vấp phải sự phản kháng
của Hồ Chí Minh, một người cộng sản Việt Nam, lãnh tụ phong trào Việt Minh trong cuộc chiến tranh
du kích chống lại ách cai trị của thực dân Pháp. Cả Truman và Eisenhower đều muốn duy trì sự ủng hộ
của Mỹ đối với nước Pháp nhằm thực thi chính sách ngăn chặn ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản ở
châu Âu nên đã cung cấp cho nước Pháp nhiều sự trợ giúp về kinh tế, tạo điều kiện thuận lợi cho việc
tham chiến của Pháp ở Việt Nam. Vào giữa mùa hè, sau tuyên bố ngày 1/5/1950 của Truman về viện
trợ của Mỹ cho Pháp, Mỹ đã gửi một phái đoàn quân sự tới Việt Nam. Vào cuối nhiệm kỳ của Truman
năm 1952, Mỹ đã chi trả 60% chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương. Tới thời điểm Hội nghị
Genève năm 1954, viện trợ quân sự từ chính quyền mới của Eisenhower đã chiếm gần 80% tổng chi
phí cho cuộc chiến tranh thực dân của Pháp. Song Pháp đã thất bại hoàn toàn vào tháng 5/1954 tại
Điện Biên Phủ. Tại hội nghị quốc tế Genève (7/1954), Hiệp định Genève được ký với nội dung: Pháp
công nhận nền độc lập của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia và rút quân khỏi Đông Dương.
Sau khi Pháp kết thúc vai trò ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản ở Đông Dương, Mỹ đã thành lập Tổ
chức Hiệp ước Đông Nam Á (SEATO) là một liên minh của các quốc gia gồm Australia, Pháp, Anh,
New Zealand, Pakistan, Philippines, Thái Lan và Mỹ nhằm mục đích phòng thủ và hợp tác kinh tế ở
Đông Nam Á và khu vực Thái Bình Dương. Giống như Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
(NATO), liên minh SEATO được lập ra để ngăn chặn sự lan tràn của chủ nghĩa cộng sản, nhưng không
giống như NATO, hiệp ước của SEATO không ràng buộc các quốc gia thành viên giúp đỡ lẫn nhau
chống lại một đe dọa quân sự. SEATO đã phê chuẩn nỗ lực quân sự của Mỹ tại Việt Nam và nhiều
quốc gia thành viên SEATO đã gửi quân đến Việt Nam. Do bị thuyết phục rằng sự sụp đổ của miền
Nam Việt Nam có thể dẫn tới sự thất bại của Myanmar, Thái Lan và Indonesia theo học thuyết domino
nên Eisenhower đã ủng hộ Ngô Đình Diệm từ chối tiến hành tổng tuyển cử vào năm 1956 và đã biến
miền Nam Việt Nam thành một chính quyền tay sai cho Mỹ.
Thực chất, nguyên nhân dẫn tới sự dính líu của Mỹ ở Việt Nam là quyết tâm của người Mỹ
trong việc xây dựng lại nước Nhật Bản thông qua chính sách chủ nghĩa khu vực về kinh tế, Nhật Bản
có được những thị trường giàu lợi nhuận và nguồn nguyên liệu thô giá rẻ ở vùng vành đai châu Á, bao
gồm cả Đông Nam Á. Vào năm 1955, khi Mỹ vứt bỏ các hiệp định Genève và tái khẳng định cam kết
của mình ở Việt Nam, lý do đưa ra là: Sự hợp tác của Nhật Bản với Mỹ sẽ chịu tác động to lớn từ khả
năng của Nhật trong việc tiếp cận được các thị trường, nguồn lương thực và nguyên liệu thô truyền
thống ở Đông Nam Á. Xét trong bối cảnh này, các mục tiêu của Mỹ liên quan tới Đông Nam Á và các
mục tiêu của Mỹ liên quan tới Nhật Bản là không thể tách rời... Việc mất Đông Nam Á vào tay thế giới
phương Tây chắc chắn sẽ buộc Nhật Bản phải đi tới thỏa hiệp cuối cùng với những khu vực do cộng
sản kiểm soát tại châu Á [48, tr.247-248].
Vì thế, Mỹ đã dựng lên chính quyền Ngô Đình Diệm, âm mưu chia cắt lâu dài Việt Nam, biến
miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của Mỹ ở Đông Dương và Đông
Nam Á. Việt Nam đã trở thành điểm nóng trong chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm đẩy lùi phong trào
giải phóng dân tộc và làm suy yếu phe XHCN. Thập niên 1960, Mỹ thực hiện chính sách “phản ứng
linh hoạt”, không gây chiến với Liên Xô và hệ thống XHCN nhưng dùng chiến tranh dưới mức thông
thường đối phó với xu hướng cộng sản ở các nước mới giành độc lập. Chiến lược “Chiến tranh đặc
biệt” (1960 - 1965) là hình thức chiến tranh xâm lược thực dân kiểu mới, được tiến hành bằng quân đội
tay sai, dưới sự chỉ huy của hệ thống cố vấn Mỹ, dựa vào vũ khí, trang bị kỹ thuật, phương tiện chiến
tranh của Mỹ, được tiến hành thí điểm ở Nam Việt Nam nhằm chống lại phong trào cách mạng của
nhân dân Việt Nam nhưng không thành công. Kế hoạch Staley - Taylor, bình định miền Nam trong 18
tháng và kế hoạch Johnson - Mac Namara bình định miền Nam có trọng điểm trong hai năm (1964 -
1965) không thực hiện được. Từng mảng lớn “Ấp chiến lược” - “xương sống” của chiến tranh đặc biệt
bị phá vỡ. Mỹ buộc phải chuyển sang chiến lược “chiến tranh cục bộ” ở miền Nam, đồng thời tiến
hành chiến tranh phá hoại bằng không quân, hải quân ở miền Bắc (giữa 1965 đến 1968). Chiến lược
“chiến tranh cục bộ” có sự tham chiến trực tiếp của lính Mỹ ở Việt Nam cùng với quân đồng minh và
quân đội Sài Gòn với phương tiện chiến tranh hiện đại. Quân số lúc cao nhất lên đến 1,5 triệu (Mỹ hơn
0,5 triệu). Tuy vậy, các cuộc hành quân “tìm diệt” và “bình định” của Mỹ nhằm phá hủy cơ quan đầu
não và lực lượng kháng chiến Việt Nam đã thất bại. Mùa xuân 1968, trên cơ sở nhận định so sánh lực
lượng đã thay đổi có lợi cho Việt Nam và lợi dụng thời cơ cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ, quân đội Việt
Nam đã tiến hành cuộc tổng tiến công và nổi dậy nhằm tiêu diệt bộ phận quan trọng quân Mỹ và quân
đồng minh, đồng thời đánh đòn mạnh vào chính quyền Sài Gòn. Sự kiện Tết Mậu Thân 1968 của Việt
Nam như “một đòn sét đánh” đối với đế quốc Mỹ, làm choáng váng cả nước Mỹ và chấn động dư luận
thế giới. Trong bối cảnh đó, Richard Nixon thuộc Đảng Cộng hòa đã thắng cử sát nút với kế hoạch đưa
Mỹ thoát khỏi cuộc chiến tranh và thiết lập lại luật pháp và trật tự trong nước Mỹ. Mỹ tiến hành chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1973) với quân đội Sài Gòn là lực lượng chủ yếu, có sự phối
hợp của hỏa lực và không quân Mỹ, vẫn do cố vấn Mỹ chỉ huy, thực chất là tiếp tục thực hiện âm mưu
“dùng người Việt đánh người Việt”, để giảm xương máu người Mỹ trên chiến trường. Chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh” được đề ra nhằm từng bước chuyển trách nhiệm tiến hành chiến tranh cho
chính quyền và quân đội Sài Gòn để Mĩ có thể rút dần quân về nước nhưng vẫn giữ được Nam Việt Nam
trong quỹ đạo của Mĩ, tuy nhiên mục đích này là không tưởng. Sau thất bại của cuộc tập kích bằng máy
bay chiến lược B52 vào Hà Nội và Hải Phòng trong 12 ngày đêm tháng 12/1972, Mỹ phải ký Hiệp định
Paris (27/1/1973), cam kết tôn trọng độc lập, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt
Nam; phải rút quân và cam kết không dính líu về quân sự hoặc can thiệp về chính trị đối với Việt Nam.
Mùa xuân năm 1975, Bắc Việt Nam đã giành được quyền kiểm soát trên toàn bộ đất nước. Cuộc chiến
tranh Việt Nam là một thất bại to lớn của đế quốc Mỹ. Cuộc chiến tranh này cũng chấm dứt sự đồng
thuận trong chính sách đối ngoại của Chiến tranh lạnh và khiến nhiều người Mỹ lo ngại về những hành
động khác nữa của dân tộc họ tại nước ngoài.
Trong nỗ lực ngăn chặn Liên Xô và làm suy yếu sức mạnh của khối XHCN, Mỹ đã tìm cách cải
thiện quan hệ với Trung Quốc. Nixon nhận thấy có thể lợi dụng mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung
Quốc để liên kết với Trung Quốc chống Liên Xô, đồng thời giảm bớt những khó khăn khi rút khỏi cuộc
chiến Việt Nam. Mỹ đã bắt tay với Trung Quốc ký bản Thông cáo chung Thượng Hải 1972 với nội
dung: cả hai nước đều không mong muốn tìm kiếm ưu thế bá chủ tại khu vực châu Á - Thái Bình
Dương hay bất kỳ khu vực nào khác trên thế giới; cả hai đều phản đối nỗ lực của bất kỳ quốc gia nào
hoặc nhóm quốc gia nào khác muốn thiết lập địa vị bá chủ ấy. Tuy Trung Quốc và Mỹ không nêu đích
danh nước âm mưu bá quyền là Liên Xô nhưng đã hàm ý rõ sự chia sẻ ý đồ ngăn chặn Liên Xô vì
những lợi ích riêng của mình.
Những xung đột trong Chiến tranh lạnh cũng xảy ra ở Trung Đông. Tầm quan trọng chiến lược
của khu vực này với tư cách là một nguồn cung cấp dầu mỏ đã khiến Mỹ tìm mọi cách đẩy các đơn vị
quân đội Xô viết ra khỏi Iran năm 1946. Hai năm sau đó, Mỹ chính thức thừa nhận nhà nước Israel chỉ
15 phút sau khi nước này tuyên bố thành lập ngày 15/5/1948 (theo nghị quyết 181/II thông qua ngày
29/11/1947 của Liên hợp quốc với nội dung chấm dứt sự bảo hộ của Anh đối với Palestine, chia
Palestine thành 2 quốc gia cho người Do Thái và cho người Palestine, nhưng duy trì liên minh kinh tế
giữa hai nước). Tuy nhiên, một số nước Arabia đã bác bỏ Nghị quyết chia cắt 181/II và tuyên bố chiến
tranh chống Israel.
Qua 4 cuộc chiến tranh (1948-1949, 1956, 1967 và 1973), Israel chiếm đóng toàn bộ phần đất
chia cho Nhà nước Palestine (theo Nghị quyết 181), Đông Jerusalem, cao nguyên Golan của Syria,
Nam Liban và bán đảo Sinai của Ai Cập (đã được Israel trao trả theo Hiệp định Camp David ký năm
1979). Thắng lợi của Israel có sự giúp đỡ quan trọng của Mỹ. Mỹ đã giúp Israel chống lại người
Arabia vì Mỹ cần đến Israel làm tiền đồn để trấn giữ túi dầu ở Trung Đông.
Năm 1951, một Chính phủ tiến bộ được thành lập ở Iran do Mossadegh làm Thủ tướng. Iran tiến
hành quốc hữu hóa ngành công nghiệp dầu, điều này ảnh hưởng đến quyền lợi của Anh, hai bên nảy
sinh tranh chấp. Mỹ đứng ra dàn xếp cuộc tranh chấp Iran - Anh vì không muốn xung đột sẽ tạo thuận
lợi cho Liên Xô mở rộng ảnh hưởng ở Trung Đông và muốn giành quyền lợi trong hoạt động mua bán
dầu ở Iran. Năm 1953, Mỹ làm đảo chính lật đổ Mossadegh đưa Pahlavi trở lại cầm quyền, lập nên
chính quyền thân Mỹ. Tháng 3/1959, Iran và Mỹ ký Hiệp định phòng thủ chung. “Kết cục của vụ dầu
lửa Iran cho thấy Mỹ là người được hưởng lợi nhiều nhất: từ chỗ không có quyền lợi gì đáng kể ở Iran,
Mỹ đã trở thành ngang hàng với Anh trong hoạt động mua bán dầu vốn là độc quyền của Anh từ lâu
nay. Thêm nữa, ảnh hưởng chính trị và ngoại giao của Mỹ ở Iran nói riêng và ở Trung Đông nói chung
cũng tăng lên rất nhiều” [19, tr.138].
Một trong những sự kiện quan trọng đối với việc ngăn chặn ảnh hưởng của Liên Xô và tăng
cường thế lực của Mỹ là cuộc khủng hoảng kênh đào Suez ở Ai Cập năm 1956. Vai trò địa-chính trị
quan trọng của Ai Cập xuất phát từ vị trí chiến lược của nó: là một quốc gia liên lục địa nằm ở phía bắc
châu Phi, Trung Đông và tây nam châu Á, họ sở hữu một cầu nối lục địa (eo đất Suez) giữa châu Phi
và châu Á, và một cầu nối đường thủy (kênh Suez) nối giữa biển Địa Trung Hải và Ấn Độ Dương
thông qua biển Đỏ. Kênh đào Suez (thuộc Ai Cập) là kênh giao thông nhân tạo chạy từ phía Bắc tới
phía Nam đi ngang qua eo Suez tại phía Đông Bắc Ai Cập, nó nối Địa Trung Hải với vịnh Suez, một
nhánh của biển Đỏ. Kênh đào cung cấp một lối đi tắt cho những con tàu đi qua cảng Châu Âu - Châu
Mỹ đến những cảng phía Nam Châu Á, cảng phía Đông Châu Phi và Châu Đại Dương và ảnh hưởng
trực tiếp, sâu sắc đến ngành vận tải thế vì cho phép hàng hóa đi vòng quanh thế giới trong một thời
gian kỷ lục.
Ngày 26/7/1956, Tổng thống Ai Cập Gamal Abdel Nasser quyết định quốc hữu hóa công ty
kênh Suez, đụng chạm đến quyền lợi của hai nước Anh, Pháp về quyền sở hữu công ty kênh Suez,
đồng thời có nguy cơ ảnh hưởng đến việc vận chuyển dầu hỏa từ Trung Đông về châu Âu. Anh, Pháp
bí mật họp với Israel và một kế hoạch được đưa ra, mang tên “Chiến dịch Ngự lâm quân” (Operation
Musketeers). Tháng 10/1956, Israel tràn qua chiếm dải Gaza, bán đảo Sinai và mau chóng tiến quân
đến kênh Suez. Như đã thỏa thuận, Anh, Pháp đề nghị đưa quân qua để làm trái độn nhưng Nasser từ
chối. Lấy cớ để bảo vệ quyền lợi kênh Suez với ý đồ lật đổ Nasser, liên quân Anh - Pháp ồ ạt tấn công
Ai Cập và nhanh chóng chiếm đóng vùng kênh Suez.
Về mặt quân sự thì liên quân Anh - Pháp đã thành công chiếm được các mục tiêu nhưng về mặt
chính trị thì lại là một thảm họa. Mỹ, Liên Xô và hầu hết các quốc gia thuộc thế giới thứ ba lên án
mạnh mẽ hành động xâm lăng này. Mỹ dọa sẽ bán tháo đồng tiền pound sterling nếu Anh không rút
quân. Thủ tướng Anh Eden buộc phải từ chức và tháng 3/1957, liên quân Anh - Pháp rút quân ra khỏi
vùng kênh Suez.
Mặc dù vụ khủng hoảng kênh đào Suez nhanh chóng bớt căng thẳng, nhưng nó đã tác động sâu
sắc tới sự cân bằng quyền lực ở Trung Đông và trách nhiệm mà Mỹ đảm nhận ở khu vực này. Cuộc
khủng hoảng làm tổn hại nặng nề uy tín của Anh và Pháp trong các nước Arabia, khiến quyền lực
truyền thống của các cường quốc này ở khu vực suy giảm. Ngược lại, Nasser không chỉ vượt qua thử
thách mà còn tăng thêm uy tín trong nhân dân Arabia với tư cách một nhà lãnh đạo dám chống lại các
đế chế châu Âu và vẫn tồn tại sau cuộc tấn công quân sự của Israel. Những chế độ thân phương Tây
còn lại trong khu vực có vẻ dễ bị tổn thương trước những cuộc nổi dậy theo tư tưởng Nasser. Các quan
chức Mỹ sợ rằng sự có mặt của Liên Xô với uy tín được khẳng định trong mắt người dân Arabia bằng
sự ủng hộ chính sách quốc hữu hóa kênh Suez, lời đe dọa sử dụng tên lửa chống Anh và Pháp và lời
hứa hẹn giúp Ai Cập xây đập Aswan, cùng với việc Liên Xô mượn uy tín của Tổng thống Ai Cập
Nasser, tiếp cận các nước như Iraq, Syria nhằm tranh giành ảnh hưởng với Mỹ sẽ làm suy yếu thế lực
của Mỹ ở Trung Đông.
Để đối phó với những hậu quả này của cuộc chiến tranh Suez, đầu năm 1957, Tổng thống đã
tuyên bố học thuyết Eisenhower, một chính sách an ninh khu vực lớn cho vùng Trung Đông. Được đề
xuất vào tháng 1 và được Quốc hội thông qua tháng 3/1957, học thuyết cam kết Mỹ sẽ đóng góp viện
trợ kinh tế và quân sự, và nếu cần thiết sử dụng vũ lực để kiềm chế chủ nghĩa cộng sản ở Trung Đông.
Để thực hiện kế hoạch này, đặc phái viên của Tổng thống James P. Richards đã đi thị sát khu vực, phân
phát hàng chục triệu USD viện trợ kinh tế và quân sự cho Thổ Nhĩ Kỳ, Pakistan, Iraq, Saudi Arabia,
Liban và Libi.
Cuộc khủng hoảng kênh đào Suez đã lôi kéo Mỹ can dự một cách thực chất, quan trọng và lâu
dài ở Trung Đông. Mặc dù chưa bao giờ được chính thức viện dẫn, song học thuyết Eisenhower đã
định hướng cho chính sách đối ngoại Mỹ trong ba sự kiện. Mùa xuân năm 1957, Tổng thống đã phân
phát viện trợ kinh tế cho Jordani và đưa tàu hải quân Mỹ đến Đông Địa Trung Hải để giúp Vua
Hussein trấn áp cuộc nổi dậy của các sĩ quan quân đội thân Ai Cập. Cuối năm 1957, Eisenhower
khuyến khích Thổ Nhĩ Kỳ và các nước thân thiện khác xâm nhập vào Sirya, không cho chế độ cấp tiến
ở đó củng cố quyền lực. Cuối cùng, khi cuộc cách mạng bạo động ở Baghdad 7/1958 đe dọa châm ngòi
những cuộc nổi dậy tương tự ở Liban và Jordani, Eisenhower đã ra lệnh cho binh lính Mỹ chiếm đóng
Liban và chuyển viện trợ cho lực lượng của Anh đang chiếm đóng Jordani. Những biện pháp này -
những biện pháp chưa có tiền lệ trong lịch sử chính sách của Mỹ ở các nước Arabia - thể hiện rõ quyết
tâm của Eisenhower đảm nhận trách nhiệm bảo vệ những lợi ích của phương Tây ở Trung Đông.
Bước vào thập kỷ 70 của thế kỷ XX, Mỹ có ưu thế nhất ở Trung Đông. Chính phủ Nixon lúc ấy
đã thay đổi cách làm trước đây - chỉ ủng hộ Israel, làm phật lòng các nước Arabia rộng lớn - và cuối
cùng đã thúc đẩy được Tổng thống Ai Cập Xarat thay đổi chính sách dựa vào Liên Xô, nay ngả theo
Mỹ. Sau đó, Tổng thống Carter đóng vai trò vừa là người tham dự vừa là trung gian hòa giải, đã thuyết
phục được Tổng thống Ai Cập Anwar Al-Sadat và Thủ tướng Israel Menachem Begin kết thúc cuộc
chiến tranh kéo dài suốt 30 năm giữa hai quốc gia này. Hai nhà lãnh đạo này đã đến Mỹ để ký Hiệp
ước Hòa bình tại Nhà Trắng vào tháng 3/1979.
Tại Iran vào những năm 1970, Mỹ đã trở thành một người huấn luyện và cố vấn cho cả quân đội
Iran lẫn lực lượng cảnh sát mật khét tiếng của nước này (SAVAK); Mỹ cũng bán nhiều vũ khí cho Iran
(đổi lấy những đồng đôla dầu lửa) hơn bất kỳ nước nào khác trên thế giới, đào tạo hàng nghìn sinh viên
Iran tại các trường đại học Mỹ, và là một người cổ vũ lớn nhất của Quốc vương (Shah) của nước này.
Để đổi lại, Iran dưới sự cai trị của Shah đã đóng vai trò như một mô hình biểu trưng cho thế giới Hồi
giáo, nhận được phần thưởng từ sự hiện đại hóa kiểu TBCN trong khi ngăn chặn sự bành trướng của
Nga, kiểm soát động thái của Iraq và nói chung là đóng vai trò cảnh sát tại Vịnh Ba Tư [48, tr.443].
Chuyến thăm chính thức của Nixon đến Tehran năm 1972 đã dẫn đến một lời mời đối với Nhà
vua trong việc sử dụng những khối lượng đôla từ dầu mỏ vô hạn định của mình để mua vũ khí công
nghệ cao của Mỹ. Mối liên kết với Iran vững chắc hơn bao giờ hết cho đến khi cuộc cách mạng nổ ra
vào năm 1979, nhằm buộc Quốc vương phải từ bỏ quyền lực và sau đó ngăn cản bất kỳ hành động có
thể có nào của Mỹ trong việc đưa ông ta trở lại vị trí quyền lực. Ngày 11/2/1979, phong trào Hồi giáo
do Giáo chủ Ayatolah Khomeini lãnh đạo đã lật đổ chế độ quân chủ Pahlavi, thành lập chế độ Cộng
hòa đầu tiên ở Iran và đổi tên nước thành nước Cộng hòa Hồi giáo Iran (1/4/1979).
Cách mạng Iran 1979 là thất bại to lớn nhất trong chiến lược của Mỹ ở vịnh Persic. Sau sự kiện
cách mạng Iran, tình hình Trung Đông tiếp tục tỏ ra khó khăn hơn nhiều. Sự xuất hiện các lực lượng
quân đội Mỹ ở Liban nơi Mỹ đang cố gắng giúp đỡ một Chính phủ thân phương Tây nhưng lại tỏ ra
yếu đuối và ôn hòa, đã có một kết cục bi thảm khi 241 lính thủy đánh bộ Mỹ đã chết trong một cuộc
đánh bom khủng bố tháng 10/1983. Tháng 4/1986, các máy bay thuộc lực lượng hải quân và không
quân Mỹ đã tiêu diệt các mục tiêu ở Tripoli và Benghazi của Libi nhằm trả đũa các cuộc tấn công của
Libi.
Afghanistan là tiêu điểm của cuộc đối đầu Mỹ - Xô trong giai đoạn cuối của cuộc Chiến tranh
lạnh ở châu Á. Từ 1919 đến 1973, Afghanistan theo chế độ quân chủ. Tháng 4/1978, Đảng Dân chủ
Nhân dân Afghanistan được Liên Xô giúp đỡ tiến hành cách mạng Saur (Tháng Tư), thành lập Chính
phủ Cộng hòa Dân chủ Afghanistan. Sau một loạt những sáng kiến cải cách của Tổng thống Taraki với
mục tiêu “nhổ rễ chế độ phong kiến” như cải cách ruộng đất, cải cách giáo dục và tăng quyền tự do cho
phụ nữ, xã hội nông thôn Afghanistan phần lớn vẫn tuân theo truyền thống xem đó là hành động tấn
công đạo Hồi và những cuộc nổi dậy mang đầy tính bạo lực chống lại phong trào cải cách đã nổ ra vào
năm 1978. Tháng 3/1979 tại Herat, quân lính Afghanistan dưới sự chỉ huy của Ismail Khan đã làm
binh biến và thảm sát khoảng 100 cố vấn Xô viết. Theo tinh thần của hiệp ước hữu nghị và hợp tác
song phương ký giữa Moscow và Kabul tháng 12/1978 cho phép quân đội Xô viết triển khai trong
trường hợp có sự yêu cầu từ phía Cộng hòa Dân chủ Afghanistan, tháng 12/1979, Liên bang Xô viết đã
triển khai Quân đoàn 40 theo yêu cầu chính thức của Chính phủ Cộng hòa Dân chủ Afghanistan. Chính
phủ Afghanistan (thân Liên Xô) hy vọng quân đội Xô viết giúp đỡ tăng cường an ninh và gia tăng tính
hiệu quả của cuộc chiến chống quân Mujahideen. Khi Liên Xô đưa quân vào Afghanistan, tình hình
tiếp tục diễn biến phức tạp. Tương tự nhiều phong trào chống cộng ở thời điểm đó, quân phiến loạn
nhanh chóng có được sự ủng hộ từ phía Mỹ, ngoài ra còn được sự hậu thuẫn của Pakistan và các quốc
gia Hồi giáo khác. Như cựu giám đốc CIA và Bộ trưởng Quốc phòng Robert Gates đã viết trong cuốn
hồi ký “From the Shadows” (Từ những bóng tối), các cơ quan tình báo Mỹ đã bắt đầu giúp đỡ phe đối
lập tại Afghanistan 6 tháng trước khi quân đội Xô viết triển khai. Tổng thống Mỹ Jimmy Carter đã xem
cuộc tấn công xâm nhập Afghanistan của Xô Viết là “mối đe dọa nghiêm trọng nhất tới hòa bình kể từ
sau Thế chiến thứ hai”, cuộc “xâm lược Xô viết” không thể được coi là hành động riêng biệt nhằm gây
ảnh hưởng địa lý hạn chế mà có thể coi là một mối đe dọa cho vùng vịnh Persic. Mỹ rất e ngại quân số
đông đảo của Xô viết cũng như khoảng cách địa lý gần gũi với khu vực vùng Vịnh nhiều dầu mỏ.
Ngày 3/7/1979, Tổng thống Jimmy Carter đã ký một chỉ thị cho phép CIA tiến hành các chiến dịch
tuyên truyền bí mật chống lại chính quyền cộng sản thân Liên Xô. Trong một cuộc phỏng vấn năm
1998 với tờ Le Nouvel Observateur, cố vấn của Tổng thống Carter là Zbigniew Brzezinski nhớ lại:
“Chiến dịch bí mật đó là một ý tưởng tuyệt vời. Nó xui khiến người Xô viết tiến vào cái bẫy
Afghanistan...” [...] “Ngày người Xô viết chính thức tràn qua biên giới, tôi đã viết cho tổng thống
Carter. Hiện chúng ta đã có cơ hội để trao cho Liên bang Xô viết cuộc Chiến tranh Việt Nam của họ”.
Tới giữa năm 1987, Liên bang Xô viết thông báo việc rút quân. Sibghatullah Mojaddedi được lựa chọn
làm lãnh đạo Nhà nước Hồi giáo lâm thời Afghanistan, trong một nỗ lực nhằm lên tiếng chống lại chế
độ Kabul được Moscow hậu thuẫn. Mojaddedi, với tư cách lãnh đạo Chính phủ lâm thời Afghanistan,
đã gặp gỡ với Tổng thống Mỹ khi ấy là George H.W. Bush, đây được coi là một thắng lợi ngoại giao
quan trọng của phe Hồi giáo Afghanistan. Tháng 4/1988, Hiệp định Geneve về giải quyết vấn đề
Afghanistan được ký kết, theo đó Liên Xô sẽ rút quân khỏi Afghanistan và ngày 15/2/1989, việc rút
quân đã được hoàn thành.
Châu Phi nằm ở bậc thang cuối cùng trong các ưu tiên chiến lược của Mỹ trong thời Chiến tranh
lạnh. Người Mỹ cũng như người Nga xem những quốc gia của lục địa này như là phạm vi hoạt động và
chiến địa phụ. Ý nghĩa không đáng kể đối với châu Phi trong chính sách của Mỹ rõ rệt đến mức tương
phản hẳn với các khu vực còn lại của thế giới và ít nhất cũng chứng tỏ từ việc chẳng hề có một bộ chỉ
huy nào chuyên trách lục địa Đen. Cả ba bộ chỉ huy với nhiệm vụ chính tại châu Âu, Trung Đông và
Thái Bình Dương chia nhau đảm trách châu Phi. Bộ chỉ huy vùng Trung Đông đặt trên chiếc Sừng Phi
châu tiện thể phụ trách luôn Ai Cập, Eriteria, Sudan, Ethiopia, Djibuoti, Somalia và Kenya; Bộ chỉ huy
Thái Bình Dương kiêm nhiệm Madagascar và Seychelles; phần còn lại thuộc về Bộ chỉ huy châu Âu.
Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, sự đối đầu, tranh giành ảnh hưởng giữa Liên Xô và Mỹ ở khu
vực châu Phi chủ yếu tập trung vào các điểm nóng như Angola, Mozambique, Ethiopia... Trong khi
Liên Xô coi trọng ảnh hưởng chính trị hơn lợi ích kinh tế, thì Mỹ chú trọng cả mục đích chính trị, kinh
tế, quân sự. Các mâu thuẫn Chiến tranh lạnh giữa Mỹ và Liên Xô cũng đóng vai trò trong sự bất ổn
chính trị ở châu Phi. Khi các quốc gia này giành được độc lập, thông thường nó sẽ nghiêng về một
trong hai siêu cường. Nhiều nước ở Bắc Phi nhận sự trợ giúp quân sự của Liên Xô, trong khi nhiều
nước ở Trung và Nam Phi đã được Mỹ hỗ trợ. Trong thập niên 1970, căng thẳng chính trị leo thang do
các quốc gia mới giành độc lập như Angola và Mozambique nghiêng về phía Liên Xô còn vùng Tây và
Nam Phi tìm kiếm sự ngăn cản ảnh hưởng của Xô viết.
Angola là một trong những điểm đối đầu xung đột Đông - Tây thời kỳ Chiến tranh lạnh. Angola
từ thế kỷ XV đã trở thành thuộc địa của Bồ Đào Nha. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, nhiều phong
trào giải phóng Angola ra đời: Phong trào Nhân dân Giải phóng Angola (MPLA), Liên minh Dân tộc
vì Độc lập hoàn toàn của Angola (UNITA), Mặt trận Dân tộc Giải phóng Angola (FNLA), trong đó
tiêu biểu nhất là MPLA thu hút được rộng rãi thành phần trí thức, công nhân, nông dân, không phân
biệt bộ tộc, màu da. Ngày 4/2/1961, MPLA dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Agostinho Neto đã phát
động cuộc đấu tranh chính trị và vũ trang trên toàn quốc chống thực dân Bồ Đào Nha. Các nước
XHCN và các nước châu Phi tiến bộ ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc do MPLA
lãnh đạo. Ngày 15/11/1974, Bồ Đào Nha ký Hiệp định Alvor với 3 Phong trào (MPLA, UNITA,
FNLA) qui định trao trả độc lập cho Angola ngày 11/11/1975. Vi phạm Hiệp định Alvor, được Mỹ,
Nam Phi và Zaire (hiện tại là Cộng hòa Dân chủ Congo) hỗ trợ, UNITA và FNLA mở cuộc tiến công
nhằm tiêu diệt MPLA. Chủ tịch MPLA A.Neto kêu gọi Liên Xô và Cuba giúp đỡ; quân tình nguyện
Cuba đã giúp lực lượng vũ trang Angola quét sạch quân UNITA, FNLA ra khỏi thủ đô Luanda, các
tỉnh và vùng kinh tế trọng yếu. Ngày 11/11/1975, MPLA tuyên bố độc lập, thành lập nước Cộng hòa
nhân dân Angola (nay là Cộng hòa Angola). Sau khi giành độc lập, Angola tuyên bố là quốc gia theo
cộng sản và Liên Xô là đồng minh. Angola thi hành đường lối đối nội, đối ngoại tích cực, kiên quyết
chống đế quốc, thực dân, phân biệt chủng tộc; nhiệt tình ủng hộ các phong trào giải phóng dân tộc ở
miền Nam châu Phi; dựa vào các nước XHCN, đặc biệt là Liên Xô và Cuba; tranh thủ quan hệ với
phương Tây. Mỹ, phương Tây, Nam Phi và một số nước châu Phi phản động ra sức giúp UNITA tiến
hành chiến tranh du kích chống phá cách mạng Angola. Những năm 80 của thế kỷ XX, do tác động của
hòa hoãn Xô - Mỹ, cuộc xung đột ở Tây Nam Phi đi vào giải pháp chính trị. Ngày 22/12/1988, Mỹ,
Nam Phi, Cuba và Angola ký kết Hiệp định Hòa bình về Tây Nam Phi, buộc Nam Phi phải rút quân
khỏi Nam Angola, trao trả độc lập cho Namibia gắn với việc rút toàn bộ quân tình nguyện Cuba khỏi
Angola. Việc thực hiện thành công Hiệp định hòa bình về Tây Nam Phi mở ra triển vọng giải quyết
vấn đề nội bộ của Angola trên sơ sở hòa giải, hòa hợp dân tộc, bầu cử tự do, dân chủ, có sự giám sát,
công nhận quốc tế.
Mozambique cũng là thuộc địa của Bồ Đào Nha. Ngày 25/6/1962, Mặt trận Giải phóng
Mozambique (FRELIMO) ra đời. Tháng 2/1977, tại Đại hội III, Mặt trận FRELIMO tuyên bố chuyển
thành Đảng Mặt trận Giải phóng Mozambique (FRELIMO) lấy chủ nghĩa Mác Lê-nin làm nền tảng tư
tưởng. Đảng FRELIMO đã lãnh đạo cuộc đấu tranh vũ trang của nhân dân Mozambique chống thực
dân Bồ Đào Nha, góp phần lật đổ chính quyền phát xít Bồ Đào Nha (25/4/1974). Chính quyền mới Bồ
Đào Nha ký hiệp định Lusaka (7/1974) công nhận quyền độc lập của Mozambique. Ngày 25/6/1975,
Chủ tịch FRELIMO, Samora Machel tuyên bố thành lập nước CHND Mozambique (nay là CH
Mozambique). Liên Xô và các nước XHCN đã tích cực giúp Mozambique về quân sự, chính trị và
phần nào về kinh tế. Mỹ, phương Tây, Nam Phi giúp đỡ, huấn luyện lực lượng đối địch Đảng Phong
trào kháng chiến Mozambique (RENAMO) thành công cụ chống chủ nghĩa cộng sản ở Mozambique,
tiến hành cuộc chiến tranh phá hoại, ngăn chặn sự ủng hộ của FRELIMO đối với Đảng Đại hội dân tộc
Phi (ANC). Từ 1990, FRELIMO điều chỉnh chính sách, chuyển hướng theo trào lưu xã hội dân chủ.
Trong nước, Mozambique tiến hành cải cách chính trị, chấp nhận đa đảng (8/1990), dân chủ hóa xã hội
sâu rộng trong nhân dân.
Ethiopia có vị trí trung tâm ở Vùng Sừng, cửa ngõ của khu vực Đông phần châu Phi. Đầu năm
1974, nhân dân Ethiopia do Mengistu H. Mariam đứng đầu đã nổi dậy làm cách mạng lật đổ chế độ
quân chủ H.Selassie. Ngày 12/9/1974, Chính phủ mới ra đời. Năm 1984, Đảng Lao động Ethiopia
được thành lập. Năm 1987, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Ethiopia ra đời. Chính quyền Mengistu
tuyên bố đi theo hướng XHCN. Ethiopia có quan hệ với Liên Xô và các nước XHCN khác. Trong thời
kỳ quan hệ Xô - Trung căng thẳng, Ethiopia đứng về phía Liên Xô. Ethiopia đã từng là quan sát viên
của Hội đồng tương trợ kinh tế SEV với Lào, Triều Tiên, Nam Tư và Angieri. Sau khi Liên Xô và các
nước XHCN Đông Âu sụp đổ, Ethiopia cũng thay đổi hệ thống chính trị, thực hiện đa nguyên đa đảng
về chính trị, áp dụng nền kinh tế thị trường.
Mỹ cũng quan tâm đến việc ngăn chặn chủ nghĩa cộng sản và củng cố ảnh hưởng của Mỹ ở
châu Mỹ. Tháng 10/1962, cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba xảy ra trong hoàn cảnh Chiến tranh lạnh
đang ở giai đoạn cao trào, làm tình hình thế giới lúc đó trở nên cực kì căng thẳng đến mức suýt nữa
bùng nổ một cuộc chiến tranh hạt nhân. Không có thành lũy kẻ thù nào gây ra nỗi lo lắng nhiều hơn
cho các chuyên gia an ninh của Mỹ hơn là Fidel Castro của Cuba, một đất nước chỉ cách nước Mỹ hơn
100 dặm. Ngày 16/4/1961, Fidel Castro tuyên bố tính chất XHCN của cách mạng Cuba. Ngày
17/4/1961, hơn 1.500 lính đánh thuê được Mỹ trang bị và huấn luyện đã liều lĩnh đổ bộ vào vịnh Con
Lợn (Bay of Pigs). Mục tiêu của chúng là chiếm một bộ phận lãnh thổ Cuba, lật đổ chính quyền của
Fidel Castro. Từ khu vực chiếm đóng này sẽ tiến hành các cuộc hành quân, tạo ra một cuộc nội chiến
để Mỹ lấy cớ can thiệp trực tiếp. Nhưng đến 19/4/1961, cứ điểm cuối cùng của quân đánh thuê đã bị
tiêu diệt, cuộc tấn công xâm lược đã thất bại hoàn toàn. Đây là thất bại quân sự đầu tiên của Mỹ tại Tây
bán cầu.
Sau sự kiện vịnh Con Lợn, Cuba đề nghị Liên Xô hỗ trợ và giúp đỡ về quân sự. Năm 1962, Liên
Xô bí mật chuyển nhiều thiết bị quân sự, trong đó có tên lửa chiến lược đến Cuba. Tháng 10/1962,
Tổng thống Kennedy bất ngờ vì tên lửa của Liên Xô chỉ cách lãnh thổ nước Mỹ vài chục km, “có thể
phóng cùng lúc 40 đầu đạn hạt nhân. Chỉ cần sau 2-3 phút, nhiều mục tiêu trên nước Mỹ sẽ bị tấn
công”. Ngày 22/10/1962, phía Mỹ đã phong tỏa Cuba và đặt quân đội trong tình trạng báo động,
125.000 thủy quân lục chiến và 90.000 bộ binh sẵn sàng tấn công Cuba. Ngày 23/10, Liên Xô phản
ứng lại khi lên án hành động đó của Mỹ và yêu cầu Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc vào cuộc. Quân
đội Liên Xô và Cuba cũng đã được đặt trong tình trạng báo động. Nhưng nhờ hành động tích cực của
cả hai bên và sự hòa giải của Liên hợp quốc mà thế giới thoát khỏi nguy cơ một cuộc chiến tranh hạt
nhân. Đến ngày 28/10, theo thỏa thuận đạt được giữa hai bên, Liên Xô chấp nhận tháo gỡ toàn bộ số
tên lửa của mình ở Cuba (đến tháng 12 việc này kết thúc). Mỹ cũng cam kết không tấn công Cuba
trong tương lai, đồng thời tháo dỡ một số căn cứ hạt nhân ở châu Âu (như ở Thổ Nhĩ Kì). Cuộc khủng
hoảng tên lửa đến đây kết thúc.
Mặc dù luôn bày tỏ thẳng thắn tinh thần chống cộng, nhưng chính quyền Reagan đã rất hạn chế
sử dụng trực tiếp các lực lượng quân sự ở châu Mỹ. Ngày 25/10/1983, các lực lượng quân đội Mỹ đã
đổ bộ lên đảo Grenada thuộc vùng biển Caribean sau lời kêu gọi giúp đỡ khẩn cấp của các nước láng
giềng. Hành động này diễn ra sau vụ ám sát Thủ tướng Grenada thuộc cánh tả do những thành viên
trong chính đảng thân Marxiste của chính ông tiến hành. Sau một thời gian ngắn giao chiến, các toán
quân Mỹ đã bắt giữ hàng trăm chiến binh Cuba, xây dựng lực lượng và ngăn chặn trợ giúp vũ khí từ
Liên Xô. Tháng 12/1983, những đơn vị chiến đấu cuối cùng của quân đội Mỹ đã rời Grenada, và đất
nước này đã tổ chức các cuộc bầu cử dân chủ một năm sau đó.
Với mục đích củng cố và tăng cường ảnh hưởng ở châu Mỹ, trong thập kỷ 1980 Mỹ đã trợ giúp
kinh tế và huấn luyện quân sự cho El Salvador khi các du kích nổi loạn đe dọa lật đổ Chính phủ nước
này. Mỹ cũng tích cực ủng hộ một Chính phủ được bầu lên một cách dân chủ nhưng những nỗ lực này
chỉ thành công phần nào. Sự trợ giúp của Mỹ đã giúp El Salvador ổn định Chính phủ, nhưng mức độ
bạo lực ở đất nước này vẫn không suy giảm. Chính sách của Mỹ đối với Nicaragua gây ra nhiều tranh
luận hơn. Mỹ đã trợ giúp chế độ độc tài tàn bạo của Somoza tại Nicaragua trong hơn 40 năm. Năm
1979, những người cách mạng tự xưng là các chiến sỹ Sandinista đã lật đổ chế độ Somoza cánh hữu và
thành lập một chế độ thân Cuba và Liên Xô. Mọi nỗ lực chấn chỉnh tại khu vực này đều đã thất bại, do
đó, chính quyền Mỹ đã chuyển sang ủng hộ lực lượng kháng chiến chống lại Sandinista hay còn gọi là
lực lượng Contras. Tuy nhiên, thất bại trên chiến trường, những lời chỉ trích vi phạm nhân quyền và
việc khám phá ra rằng các khoản tiền có được do bí mật bán vũ khí cho Iran đã được chuyển sang cho
lực lượng Contras đã làm suy giảm sự ủng hộ về chính trị trong Quốc hội đối với việc tiếp tục các
khoản trợ giúp quân sự này. Sau này, chính quyền của Tổng thống George H. W. Bush, người kế
nhiệm Reagan năm 1989 đã bãi bỏ bất kỳ sự ủng hộ nào nhằm giúp đỡ quân sự cho lực lượng Contras.
Chính phủ Bush cũng gây áp lực để tiến hành tuyển cử tự do và ủng hộ liên minh chính trị đối lập.
Liên minh này đã thắng cử với một kết quả bất ngờ gây nhiều sửng sốt, đánh bại những người
Sandinista vào tháng 2/1990.
Ở những khía cạnh nhất định, cuộc tranh giành giữa Mỹ và Liên Xô đã hoàn thành các giả
thuyết của các nhà địa-chính trị. Nó là sự đối đầu giữa một cường quốc biển đứng đầu thế giới, chi
phối cả Đại Tây Đương với cường quốc lục địa hàng đầu thế giới, khống chế trung tâm Âu - Á (với
khối Trung - Xô bao gồm một không gian gợi nhớ một cách nổi bật tầm vóc của đế quốc Mông Cổ).
Khía cạnh địa-chính trị rất rõ ràng: Bắc Mỹ chọi với Âu - Á, mà cả thế giới là vật tranh chấp. Kẻ thắng
sẽ thật sự thống trị thế giới. Trên lĩnh vực địa chính trị, cuộc xung đột chủ yếu diễn ra trên chính đất
đai lục địa Âu - Á. Khối Trung - Xô bao gồm hầu hết đất đai châu Á nhưng không kiểm soát được các
ngoại vi. Bắc Mỹ đã cố thủ thành công ở cả hai bên bờ cực Tây và cực Đông của đại lục địa Âu - Á.
Bảo vệ những tiền đồn lục địa ấy (tiêu biểu ở mặt trận phía Tây là phong tỏa Berlin, ở phía Đông là
chiến tranh Triều Tiên) là cuộc thử nghiệm chiến lược đầu tiên của cái được gọi là cuộc Chiến tranh
lạnh. Ở giai đoạn cuối của cuộc Chiến tranh lạnh, “mặt trận” phòng thủ thứ ba - phía Nam - xuất hiện
trên bản đồ Âu - Á. Liên Xô xâm nhập vào Afghanistan, buộc Mỹ phải phản ứng hai gọng kìm: trực
tiếp giúp lực lượng kháng chiến bản xứ ở Afghanistan làm sa lầy quân đội Xô viết và xây dựng các căn
cứ quân sự lớn của Mỹ ở vịnh Ba Tư ngằm ngăn chặn việc mở rộng ảnh hưởng chính trị hoặc quân sự
của Liên Xô. Nước Mỹ cam kết bảo vệ vùng Vịnh ngang bằng với lợi ích an ninh ở Tây và Đông lục
địa Âu - Á [5, tr.14-16].
Chương 2
YẾU TỐ ĐỊA-CHÍNH TRỊ TRONG CHIẾN LƯỢC TOÀN CẦU CỦA MỸ TỪ SAU
CHIẾN TRANH LẠNH ĐẾN NAY
2.1. Mục tiêu địa-chính trị trong nội dung chiến lược toàn cầu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh
đến nay (12/1989 - 5/2008)
2.1.1. Giai đoạn từ sau Chiến tranh lạnh đến thảm họa khủng bố nước Mỹ (12/1989 - 9/2001)
2.1.1.1. Hoàn cảnh lịch sử
Sự kết thúc của cuộc Chiến tranh lạnh kéo dài trong suốt nửa sau của thế kỷ XX, sự sụp đổ của
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu (1991) đã ảnh hưởng sâu sắc tới tình hình chính trị thế giới.
Cục diện hai siêu cường đứng đầu hai hệ ý thức tư tưởng đối trọng với nhau đã không còn. Thế giới chỉ
còn lại một siêu cường duy nhất là Mỹ. Vậy lịch sử sẽ đi về đâu, thế giới sẽ đi về đâu? Học giả
Maridon đã đưa ra nhận định: “…thế giới đang bị nổ tung. Có thể có ba con đường tiến hóa. Con
đường thứ nhất là con đường hài hòa thông qua sự truyền bá các giá trị của phương Tây, con đường
này xem ra ít có khả năng nhất. Con đường thứ hai là con đường đụng độ giữa các thế giới, mỗi thế
giới sẽ có nguyên tắc, luật lệ, logic, hoạt động của nó và khó mà thiết lập sự giao lưu giữa chúng với
nhau: lúc đó hai điều phải chọn là chiến tranh hoặc sự thờ ơ. Còn lại triển vọng thứ ba: triển vọng về
một thế giới biết điều hòa các lợi ích tập thể và các tính đồng nhất đặc thù. Thế giới này là khó thực
hiện nhất, cũng là đầy tham vọng nhất” [77, tr.19].
Cùng chia sẻ quan điểm thứ hai với Maridon Tuareno, Samuel Huntinton trong cuốn sách “Sự
va chạm của các nền văn minh thế giới” cũng cho rằng: “…tình trạng đối địch giữa các siêu cường sẽ
được thay thế bằng sự va chạm của các nền văn minh”; “…được khích lệ bởi hiện đại hóa, nền chính
trị toàn cầu đang được tái định hình trên cơ sở các dòng văn hóa. Các dân tộc và các quốc gia có các
nền văn hóa tương đồng thì nhóm lại với nhau. Các dân tộc và quốc gia có nền văn hóa khác nhau thì
tách nhau ra. Những mối liên kết được xác lập theo hệ tư tưởng và các mối quan hệ siêu cường quốc
đang nhường chỗ cho những mối liên kết dựa trên cơ sở văn hóa và văn minh. Các ranh giới chính trị
cũng được định hình lại để phù hợp với các ranh giới về văn hóa như dân tộc, tôn giáo và nền văn
minh. Các cộng đồng văn hóa đang dần dần thay thế các khối liên kết trong thời kỳ Chiến tranh lạnh,
và các phân giới sai lệch giữa các nền văn minh đang trở thành lý do chính của các cuộc xung đột trong
chính trị học toàn cầu”[23, tr.153].
Sau Chiến tranh lạnh, với sự tan rã của trật tự hai cực, tình hình thế giới đã có nhiều thay đổi.
Hòa bình thế giới được củng cố, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi rõ rệt, nhưng hòa bình ở nhiều
khu vực bị đe dọa, thậm chí ở nhiều nơi xung đột quân sự, nội chiến diễn ra ác liệt. Đó là các mâu
thuẫn về sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ... vốn bị che đậy dưới thời Chiến tranh lạnh nay bộc lộ
thành xung đột gay gắt. Phần lớn những mâu thuẫn, tranh chấp này đều có căn nguyên lịch sử, nên việc
giải quyết không thể nhanh chóng và dễ dàng. Chiến tranh lạnh chấm dứt cũng tạo nên môi trường cho
sự phát triển của các thế lực tôn giáo, nhất là đạo Hồi - một trong ba tôn giáo lớn của thế giới, có mặt
trong 75 nước với 1 tỷ tín đồ. Đạo Hồi đang hoạt động mạnh trong lĩnh vực chính trị thế giới, nhất là
chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan. Thế giới đạo Hồi được coi là nguồn phát triển vũ khí hạt nhân, chủ nghĩa
khủng bố, và ở châu Âu là những người nhập cư không được mong muốn. Tổng thư ký NATO tuyên
bố năm 1995 rằng: chủ nghĩa trào lưu Hồi giáo chính thống ít nhất cũng nguy hiểm như là chủ nghĩa
cộng sản trước đây với phương Tây. “Đạo Hồi chính là đối thủ toàn cầu của phương Tây” [23, tr.298].
Thế giới phát triển nhanh chóng theo hướng đa cực, tuy vậy cục diện đa cực chưa hẳn đã hình thành
mà đang trải qua thời kỳ quá độ từ Trật tự cũ để tiến tới một Trật tự mới. Thế giới ở trong tình hình
“một siêu cường, nhiều cường quốc”, đó là Mỹ và các nước Tây Âu (EU), Nhật Bản, Nga và Trung
Quốc.
Vào những năm 90 của thế kỷ XX, “Mỹ nổi lên không chỉ như một siêu cường độc nhất mà còn
là một quốc gia chiếm ưu thế mọi mặt trong lĩnh vực quyền lực và phạm vi ảnh hưởng vượt trội về
quân sự, kỹ thuật cao, thống trị 4 cơ cấu quyền lực: kinh tế, tài chính, thương mại và tri thức. Ưu thế
của Mỹ cũng lấy sức mạnh từ cái mà Joseph Nye gọi là “quyền lực mềm” của nó, có nghĩa là từ khả
năng ảnh hưởng đến các nước khác và hình thành nên đường lối hành động của các nước đó. Khả năng
này có được là do việc truyền bá văn hóa Mỹ qua các phương tiện thông tin đại chúng và do hấp lực
của hệ thống kinh tế và chính trị Mỹ [81, tr.259-260]. Lần đầu tiên trong lịch sử, Mỹ trở thành một đế
quốc toàn cầu, thực hiện vai trò sen đầm quốc tế và tác động mạnh mẽ đến tiến trình phát triển của thế
giới. Ưu thế của Mỹ đối với các quốc gia, dân tộc khác, dù là đồng minh hay đối thủ đều mang tính áp
đảo, bất kể trên lĩnh vực quân sự hay kinh tế. Đối diện với Mỹ những năm cuối thế kỷ XX là một nước
Nga bị suy yếu nghiêm trọng, một nước Nhật bị lâm vào suy thoái kéo dài, một Liên minh châu Âu
(EU) mất ổn định trong quá trình nhất thể hóa, một nước Ấn Độ vừa mới thoát khỏi giai đoạn trì trệ và
một nước Trung Quốc bắt đầu nổi lên, nhưng chưa thể lọt vào tốp các nước dẫn đầu thế giới. Mỹ đơn
phương hành động khi thấy cần thiết, phớt lờ những yêu cầu chính đáng của cộng đồng quốc tế; tự điều
chỉnh chính sách đối với các nước lớn nhằm phân tán, chia cắt các đối thủ, ngăn chặn mọi lực lượng có
thể trở thành đối trọng; vừa tỏ thái độ trịnh thượng, kể cả đối với đồng minh chiến lược chủ chốt, vừa
lôi kéo tranh thủ nhằm mục đích cột chặt họ vào cỗ xe do Mỹ cầm lái; quyết tâm hiện diện quân sự tại
nhiều khu vực trên thế giới, nhất là ở khu vực Trung Á, nhằm gạt bỏ ảnh hưởng của Nga, kiềm chế
Trung Quốc; can thiệp một cách bất hợp pháp vào công việc nội bộ các nước mà Mỹ cho là không
nghe lời và không đi theo Mỹ .
Tuy là cực duy nhất còn lại, nhưng tình hình thế giới lại không phải là thế giới một cực. Liên
minh châu Âu, Nga, Trung Quốc đều ủng hộ một thế giới đa cực trong đó họ là một cực và đều cực lực
phản đối trật tự thế giới một cực do Mỹ lãnh đạo. Về an ninh, tuy đối thủ của NATO trong thời Chiến
tranh lạnh là Khối Hiệp ước Warsawa đã tan rã sau sự sụp đổ của Liên Xô và Đông Âu nhưng NATO
ngày nay không phải không có đối thủ. Với sự hình thành và ngày một mở rộng của Tổ chức Hợp tác
Thượng Hải (SCO) với Trung Quốc và Nga làm hạt nhân bao gồm nhiều nước ở vùng Trung Á rộng
lớn và có tầm quan trọng chiến lược, trong tương lai, sự đối đầu giữa NATO và SCO sẽ là sự đối đầu
lớn nhất.
2.1.1.2. Mục tiêu địa-chính trị
Năm 1989, thế giới chuyển hướng sang một bước ngoặt mới mà nó chưa hề trải qua trong lịch
sử. Cuộc Chiến tranh lạnh kéo dài dai dẳng đã chính thức kết thúc. Sau khi Liên Xô và các nước
XHCN Đông Âu sụp đổ và thất bại của Iraq trong chiến tranh vùng Vịnh (1991), George Herbert
Walker Bush (1989-1993) vội vàng tuyên bố về “một trật tự thế giới mới” tức là trật tự thế giới một
cực, cực đó là Mỹ. Tổng thống Mỹ G.H.W.Bush đã đọc một bài diễn văn quan trọng trước Quốc hội
phản ảnh chính sách ngoại giao của Chính phủ Mỹ thời bấy giờ. Bài diễn văn nêu lên những toan tính
của nước Mỹ sau cuộc chiến tranh vùng Vịnh, không chỉ vậy nó còn mang một thông điệp lớn lao hơn
nữa. Bush bàn đến một khái niệm mới gọi là Trật tự thế giới mới - cái mà ông mô tả như là một nỗ lực
tái thiết hướng tới một thế giới đoàn kết toàn diện. “Ngày nay, chúng ta có thể thấy một thế giới mới
trong tầm ngắm. Một thế giới trong đó có một triển vọng về một trật tự mới”. Tuy nhiên, thực chất nội
dung của bài diễn văn đó chỉ nhằm thể hiện mong muốn của Mỹ là trở thành một “sen đầm quốc tế” -
một sức mạnh duy nhất thống lĩnh, kiểm soát tất cả các quốc gia toàn cầu.
Nhưng khẩu hiệu “trật tự thế giới mới” không phù hợp với tình hình nước Mỹ sau Chiến tranh
lạnh. Vấn đề quan tâm hàng đầu của nhân dân Mỹ lúc này không phải là những vấn đề đối ngoại mà là
các vấn đề nội bộ, đặc biệt là vấn đề kinh tế. Khi thời thế đã thay đổi, nhân dân Mỹ cũng muốn có sự
thay đổi vì cho rằng một người lãnh đạo thuộc thế hệ trẻ hơn sẽ thích hợp hơn G.H.W.Bush, một cựu
chiến binh của Chiến tranh lạnh. Đó là nguyên nhân dẫn đến việc thất cử của G.H.W.Bush và thắng cử
của Bill Clinton.
Là người được sinh ra sau chiến tranh thế giới thứ hai (năm 1946) và là tổng thống đầu tiên của
nước Mỹ trong thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, B.Clinton (1993-2001) có tham vọng để lại dấu ấn trong
lịch sử nước Mỹ bằng một chiến lược mới thay thế cho chiến lược “ngăn chặn” của thời kỳ Chiến tranh
lạnh. Ngày 27/9/1993, B.Clinton cho công bố chiến lược mới này trong diễn văn đầu tiên đọc trước
Đại hội đồng Liên Hợp quốc dưới cái tên là chiến lược “mở rộng dân chủ”. Ngày nay người ta gọi là
“Học thuyết Clinton”. Theo những người đã tham gia soạn thảo thì nội dung chủ yếu của chiến lược
“mở rộng dân chủ” tập trung vào 4 điểm:
1. Tăng cường các “nền dân chủ thị trường”.
2. Thúc đẩy và củng cố các nền dân chủ mới và các nền kinh tế thị trường ở nơi nào có thể.
3. Chống lại sự xâm lược và ủng hộ việc tự do hóa các Nhà nước thù địch với nền dân chủ.
4. Giúp nền dân chủ và các nền kinh tế thị trường bám rễ vào những khu vực có “mối quan tâm
nhân đạo lớn nhất”.
Trong phát biểu tại Liên hợp quốc, Clinton nói rõ : “Trong Chiến tranh lạnh chúng ta tìm cách
ngăn chặn mối đe dọa đối với sự sống còn của các thể chế tự do... Giờ đây chúng ta tìm cách mở rộng
tập hợp các quốc gia sống dưới các thể chế tự do đó”. Như vậy Mỹ đã chuyển từ chiến lược “ngăn
chặn” trong Chiến tranh lạnh sang chiến lược “mở rộng” và chuyển vai trò của Mỹ trên thế giới từ “sen
đầm quốc tế” sang “người lãnh đạo thế giới”.
Tháng 2/1995, Chính phủ Mỹ công bố “chiến lược dính líu và mở rộng” cho những năm 90 của
thế kỷ XX với mục tiêu bao trùm là “mở rộng cộng đồng các nền dân chủ thị trường”. Mỹ cũng tuyên
bố “tiếp tục có những cam kết đối với thế giới và sẽ hành động linh hoạt, đa phương khi có thể và đơn
phương khi cần thiết”. Để tiếp tục giành quyền lãnh đạo thế giới và ngăn chặn không cho bất kỳ quốc
gia nào có thể nổi lên thách thức vai trò của Mỹ, hoạt động ngoại giao của Mỹ theo học thuyết Clinton
chủ yếu tập trung vào 3 hướng: một là củng cố, nâng cấp và mở rộng hệ thống các Hiệp ước an ninh đã
có từ thời Chiến tranh lạnh; hai là Mỹ thúc đẩy việc hình thành một loạt các khu vực mậu dịch tự do
như NAFTA ở Bắc Mỹ, FTAA cho toàn châu Mỹ, TAFTA cho hai bờ Đại Tây Dương, APEC cho
Châu Á - Thái Bình Dương, WTO cho toàn thế giới v.v..., Mỹ tin rằng thông qua việc buôn bán tự do
sẽ dẫn đến việc tự do hóa nền chính trị của các nước và thông qua việc phát triển kinh tế sẽ dần dần tạo
ra một tầng lớp trung lưu, ngay cả ở những nước trước kia theo nền kinh tế bao cấp, tán thưởng những
giá trị dân chủ của Mỹ và phương Tây; ba là, thúc đẩy dân chủ và nhân quyền ra toàn thế giới và sử
dụng chiêu bài này để mặc cả với các nước muốn có đầu tư công nghệ và buôn bán với Mỹ.
Năm 1997, Clinton đã đưa ra Chiến lược an ninh quốc gia cho thế kỷ XXI của Mỹ. Mỹ khẳng
định: lợi ích quốc gia và nguồn lực hạn chế của Mỹ cho thấy sự cần thiết sử dụng vũ lực một cách lựa
chọn chỉ khi lợi ích sống còn của Mỹ bị đe dọa. Theo Bản báo cáo chiến lược an ninh quốc gia này,
những lợi ích quốc gia sống còn của Mỹ bao gồm:
1. Bảo vệ chủ quyền, lãnh thổ, và nhân dân Mỹ
2. Ngăn chặn sự nổi lên của các liên minh thù địch hay bá quyền khu vực
3. Bảo đảm tiếp cận không hạn chế đối với những thị trường chủ chốt, nguồn cung cấp năng
lượng và các nguồn lực chiến lược
4. Răn đe và đánh bại khi cần thiết các cuộc xâm lược chống đồng minh và bạn bè của Mỹ
5. Đảm bảo tự do hàng hải, đường sắt, vũ trụ và những đường giao thông huyết mạch
Như vậy, sau sự tan rã của Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, mục tiêu địa chính trị của Mỹ
trong thời kỳ Chiến tranh lạnh không còn nữa. Mục tiêu địa- chính trị mới của Mỹ là:
- ngăn cản sự xuất hiện của một bá chủ, ngăn cản bất cứ thách thức tương lai nào đối với vai trò
lãnh đạo thế giới của Mỹ.
- tiếp tục giữ vững và tăng cường lợi ích địa chính trị của Mỹ ở những vùng chịu ảnh hưởng của
Mỹ: châu Mỹ, châu Âu, châu Á... và tìm kiếm lợi ích địa-chính trị trên phạm vi toàn cầu.
2.1.2. Giai đoạn từ thảm họa khủng bố nước Mỹ đến nay (9/2001 - 5/2008)
2.1.2.1. Hoàn cảnh lịch sử
Nhiệm kỳ tổng thống của G.Bush đã có một sự xáo động lớn lao vào ngày 11/9/2001, khi nước
Mỹ bàng hoàng trước một cuộc tấn công khốc liệt nhất từ bên ngoài vào lãnh thổ nước Mỹ. Buổi sáng
hôm đó, những tên khủng bố Trung Đông đã đồng loạt bắt cóc bốn máy bay dân sự của Mỹ và sử dụng
hai chiếc máy bay trong số đó làm phương tiện liều chết phá hủy tòa tháp đôi của Trung tâm Thương
mại thế giới. Chiếc thứ ba đâm vào Lầu Năm Góc - trụ sở của Bộ Quốc phòng Mỹ nằm ngay tại ngoại
ô thủ đô Washington. Chiếc máy bay thứ tư, có thể là để đâm vào nhà Quốc hội Mỹ nhưng đã đâm
xuống vùng ngoại ô Pennsylvania do các hành khách trên máy bay đã đánh trả lại bọn không tặc. Đa số
người thiệt mạng là các công dân đang làm việc tại Trung tâm Thương mại, ước tính khoảng gần 3.000
người, nhiều hơn số thương vong mà Nhật Bản đã gây ra cho nước Mỹ trong trận chiến Trân Châu
cảng năm 1941. Tổn thất về kinh tế cũng rất nặng nề. Trung tâm thương mại bị phá hủy kéo theo một
vài tòa nhà bên cạnh cũng bị đổ sụp và các thị trường chứng khoán thì ngừng hoạt động trong nhiều
ngày. Hậu quả là cuộc suy thoái kinh tế vốn đã xuất hiện nay lại bị kéo dài lâu hơn nữa. Đó là một sự
kiện mới góp phần làm thay đổi bộ mặt của quan hệ quốc tế khi bước sang thế kỷ XXI này. “Vụ khủng
bố 11/9 là cái mốc chia lịch sử hiện đại ra thành hai thời kỳ trước và sau. Ngày 11/9 đã hoàn tất bước
quá độ từ cái thế giới đã định hình bằng sự kết thúc “chiến tranh lạnh” sang thế giới của thế kỷ mới -
thế kỷ XXI” [80, tr.223-224].
Cuộc tiến công của bọn khủng bố quốc tế vào New York và Washington vào tháng 9 thảm khốc
đã soi tỏ những nhân tố quan trọng nhất của đời sống quốc tế, đó là quan hệ Bắc - Nam bất bình đẳng
và sự khác biệt ghê gớm về mức sống, các khác biệt văn minh đặc biệt mạnh (xét theo mức độ tính
xâm hấn) là các nền văn minh Hồi giáo, Trung Hoa, Ấn Độ và tính chất dễ tổn thương của nước Mỹ.
Ngay sau khi nước Mỹ vừa bước ra khỏi tấn thảm kịch ngày 11/9, một người hoặc một nhóm
người nặc danh đã gửi đi các bức thư chứa đầy vi khuẩn bệnh than. Một số bức thư được gửi đến các
thành viên trong Quốc hội và các viên chức Chính phủ, các bức thư khác thì được gửi đến dân thường.
Không có quan chức nào bị nhiễm bệnh, nhưng đã có năm nạn nhân bị chết và một số người khác bị
ốm nặng. Vụ gửi thư này đã gây ra một làn sóng hỗn loạn trên toàn nước Mỹ, sau đó, nó đột ngột
ngừng lại như đã đột ngột xảy ra, và đến giờ vẫn là một điều bí hiểm.
Những sự kiện trên đã buộc Quốc hội phải thông qua Đạo luật Yêu nước ngày 26/10/2001. Đạo
luật này được đưa ra nhằm chống lại nạn khủng bố nội địa và trao cho Chính quyền Liên bang quyền
được truy bắt, bắt giữ và bỏ tù những tên khủng bố. Sau một thời gian do dự, Chính quyền Bush đã
quyết định ủng hộ việc thành lập một Bộ An ninh Nội địa mới có quy mô khổng lồ. Được phép thành
lập vào tháng 11/2002, có nhiệm vụ điều phối các hoạt động chống lại các cuộc tấn công khủng bố trên
nước Mỹ, Bộ An ninh Nội địa mới này là tổ chức hợp nhất của 22 cơ quan Liên bang. Ở nước ngoài,
chính quyền đã lập tức trả đũa lại thủ phạm gây ra các cuộc tấn công ngày 11/9.
Ba tháng sau vụ khủng bố, ngày 13/12/2001, Tổng thống Bush tuyên bố Mỹ đơn phương rút
khỏi Hiệp ước chống tên lửa đạn đạo (ABM), do Tổng thống Mỹ Nixon và Tổng bí thư Đảng cộng sản
Liên Xô Brezhnev ký từ năm 1972, để dọn đường cho việc triển khai Hệ thống phòng thủ tên lửa quốc
gia (NMD). Nước Nga phản đối kịch liệt quyết định của Mỹ và dọa sẽ rút khỏi các Hiệp ước cắt giảm
vũ khí tiến công chiến lược (START I và II). Trong suốt 30 năm, Hiệp ước ABM thực sự là hòn đá
tảng cho thế cân bằng lực lượng và cho an ninh quốc tế, nó ngăn không để xảy ra một sự đối đầu giữa
hai siêu cường hạt nhân lớn nhất thế giới là Mỹ và Liên Xô (sau đó là Nga). Nhiều nước cho rằng với
việc hủy bỏ Hiệp ước ABM, Mỹ đã mở đầu cho một cuộc chạy đua vũ trang mới và đưa thế giới quay
trở lại với tình trạng cực kỳ nguy hiểm của thời kỳ Chiến tranh lạnh.
Cuộc tấn công của chủ nghĩa khủng bố quốc tế vào nước Mỹ ngày 11/9/2001 và những hệ lụy
của nó đã làm thay đổi sâu sắc các mối quan hệ quốc tế nói chung, chính sách đối ngoại của các nước
lớn và cục diện quan hệ giữa họ nói riêng. Với tầm ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc, sự kiện “11/9/2001”
trở thành dấu gạch nối đậm nét phân biệt hai giai đoạn khác nhau không chỉ của thời kỳ “hậu Chiến
tranh lạnh” mà còn của quan hệ giữa các nước lớn.
Đối với Mỹ, sự kiện “11/9/2001” chẳng những gây ra những thiệt hại to lớn về người và của mà
còn tác động mạnh vào tâm lý, tình cảm và tinh thần của người Mỹ. Tuy nhiên, sự kiện này cũng là cơ
hội hiếm có để Mỹ ra sức lợi dụng nhằm thúc đẩy các lợi ích quốc gia, những lợi ích trên tất cả các
phương diện trải rộng khắp địa cầu của một siêu cường. Mỹ lấy Liên minh quốc tế chống khủng bố
làm ngọn cờ tập hợp lực lượng chống nguy cơ đe dọa an ninh chung. Nhưng, về thực chất, đây cũng là
một phương sách để Mỹ thâu tóm thế giới trong vòng cương tỏa của mình. Về phần mình, khi tham gia
Liên minh nói trên, các nước lớn khác cũng điều chỉnh chiến lược và chính sách đối ngoại nhằm đạt
những mục tiêu chiến lược sâu xa phù hợp với lợi ích của mình. Mục tiêu của các nước lớn ở Tây Âu
(trước hết là Pháp và Đức) là từng bước giảm dần sự lệ thuộc vào Mỹ về mặt an ninh, nhưng vẫn ra sức
củng cố, mở rộng NATO và EU để xây dựng một châu Âu “không chia cắt, dân chủ, hòa bình, ổn định
và vững mạnh cả về kinh tế lẫn chính trị - an ninh”. Nga đặt ra mục tiêu của mình là tái lập vị thế
cường quốc thế giới, ảnh hưởng quốc tế đã từng có; phát triển kinh tế ổn định, vững chắc, bảo đảm an
ninh và toàn vẹn lãnh thổ đất nước. Với Nhật Bản, đó là mục tiêu trở thành cường quốc chính trị tương
xứng với vị thế cường quốc kinh tế - tài chính vốn có, tức là tạo dựng được ảnh hưởng quốc tế lớn hơn.
Mục tiêu của Trung Quốc là “xây dựng toàn diện xã hội khá giả, đẩy mạnh sự nghiệp hiện đại hóa
XHCN, hoàn thành thống nhất Trung Quốc”.
2.1.2.2. Mục tiêu địa-chính trị
Sau khi G. Bush lên cầm quyền, tình hình thế giới và khu vực có những thay đổi, biến chuyển
quan trọng, tác động đến lợi ích của Mỹ ở khu vực này theo cả hai chiều thuận - nghịch. Một mặt, quan
hệ giữa Mỹ và các nước trong khu vực, dù là đồng minh hay đối tác, thậm chí đối thủ một thời, đều đã
được cải thiện đáng kể trên mọi bình diện. Mặt khác, nước Mỹ dưới thời Tổng thống G.Bush lại đứng
trước những thách thức lớn và mới về an ninh. Mỹ cho rằng sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, sự
phục hồi kinh tế nhanh chóng của Nga cùng chính sách quyết đoán của Tổng thống Putin trong cả đối
nội lẫn đối ngoại đều đang thách thức vai trò siêu cường thế giới duy nhất và lợi ích của Mỹ. Đặc biệt,
sự nóng lên của vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên, tác động của sự kiện “ngày 11/9/2001” và
của cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ phát động đến các nước Hồi giáo trong khu vực... đang làm gia
tăng các nguy cơ đe dọa đến lợi ích an ninh của Mỹ tại Đông Á. Những khó khăn và thách thức trên
buộc chính quyền của Tổng thống G.Bush có những điều chỉnh trong chiến lược và chính sách an ninh
đối với khu vực nhằm vừa tận dụng cơ hội và điều kiện thuận lợi do vị thế siêu cường thế giới duy nhất
mang lại, vừa đối phó với những nguy cơ mới xuất hiện.
Mục tiêu duy trì vị trí siêu cường duy nhất được thể hiện trong Chiến lược an ninh quốc gia của
Chính phủ Bush: “Lực lượng của chúng ta sẽ đủ mạnh để khuyên ngăn những kẻ địch tiềm tàng không
nên theo đuổi việc xây dựng quân đội với hy vọng vượt trội hay ngang bằng với sức mạnh của Mỹ”.
Tổng thống G.W.Bush chủ trương nước Mỹ phải “can dự khắp thế giới để mở rộng hòa bình”. Sự can
dự này theo “chủ nghĩa quốc tế đặc thù Mỹ”, dựa trên ba nguyên tắc trụ cột sau :
Một là: Sử dụng sức mạnh để phục vụ tối đa lợi ích quốc gia và bảo đảm an ninh tuyệt đối của
nước Mỹ. Các mục tiêu xúc tiến dân chủ, nhân quyền, chống độc tài... vẫn là bộ phận quan trọng trong
chính sách đối ngoại của Mỹ nhưng hoàn toàn phụ thuộc vào việc đáp ứng lợi ích quốc gia căn bản.
Và, theo Bộ trưởng ngoại giao Mỹ C.Pao-oen, đó là thước đo duy nhất để Mỹ can dự vào các vấn đề
quốc tế.
Hai là: Duy trì lâu dài địa vị siêu cường độc tôn của Mỹ. Muốn thế, Mỹ phải kiểm soát được lục
địa Âu - Á vì rằng, theo thuyết địa-chính trị, ai kiểm soát được lục địa này kẻ đó sẽ làm bá chủ thế giới.
Chính sách của Mỹ là sẵn sàng chống lại bất kỳ cường quốc nào hay nhóm nước nào đe dọa lợi ích của
Mỹ hay bạn bè của Mỹ ở khu vực này.
Ba là: Bảo đảm sự vượt trội vĩnh viễn về sức mạnh quân sự của Mỹ so với các nước khác.
Báo cáo đánh giá quốc phòng 4 năm một lần công bố ngày 30/9/2001 nêu lên thứ tự các khu
vực đáng quan tâm về an ninh là châu Á, Trung Đông, châu Âu và Tây bán cầu, vì châu Âu và Tây bán
cầu cơ bản trong trạng thái hòa bình, trong khi rất nhiều nhân tố không an toàn xuất hiện ở châu Á và
Trung Đông. Một vòng cung rộng từ Trung Đông tới Đông Bắc Á là khu vực không ổn định, trong đó
vùng ven biển Đông Á nhiều thách thức nhất. Về địa chính trị, báo cáo nêu rõ châu Á là trọng điểm an
ninh Mỹ quan tâm. Mỹ vẫn cảnh giác tại đây sẽ xuất hiện một cường quốc khu vực thách thức vị trí
chủ đạo của Mỹ. Nhưng về bố trí lực lượng quân sự ở châu Á, trọng tâm hiện nay không còn là Đông
Bắc Á, mà đã chuyển sang Đông Nam Á, Tây Nam Á và Trung Đông. Điều này chứng tỏ Mỹ đã tạm
thời đưa vấn đề đối phó với sự thách thức của đối thủ chiến lược xuống vị trí thấp hơn [41,
tr.34,135,179].
Về tổng thể, Mỹ đã có những điều chỉnh chiến lược lớn, đặc biệt trong giai đoạn cao điểm của
cuộc chiến chống khủng bố. Ngày 20/9/2002, Mỹ công bố Chiến lược an ninh quốc gia mới thay cho
Chiến lược an ninh quốc gia cam kết và mở rộng. Bản chiến lược mới này (còn được gọi là Chiến lược
đánh đòn phủ đầu, hay Chiến lược an ninh quốc gia thời chiến) có những điều chỉnh lớn sau:
1 - Chống khủng bố trở thành ưu tiên chiến lược hàng đầu
Đối với Mỹ, “chống khủng bố” ở khía cạnh nào đó đã thay thế mục tiêu “chống cộng” thời kỳ
“Chiến tranh lạnh”. “Chống khủng bố” trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng mới của Mỹ và là tiêu chí
để Mỹ phân định “bạn” hay “thù” của nước Mỹ.
2 - An ninh quân sự trở thành trụ cột số một
Trong Chiến lược an ninh quốc gia mới, với việc coi an ninh quân sự là ưu tiên số một, Mỹ đã
đưa ra học thuyết chỉ đạo hành động quân sự mới mang tên “Đánh đòn phủ đầu”. Học thuyết “đánh
đòn phủ đầu” mà mục tiêu không khác gì với Học thuyết “Ngăn chặn cộng sản” là xác lập sự lãnh đạo
thế giới của Mỹ. Đằng sau quyền lực chính trị là quyền lực kinh tế, quyền lực dầu lửa. Dù che đậy dưới
hình thức nào thì qua các “hành vi chính sách” vẫn thấy hiển hiện rõ rệt nền “chính trị giao thông và
dầu lửa” mà Mỹ đang theo đuổi một cách liên tục và nhất quán.
Trong quan hệ các nước lớn, Mỹ theo đuổi chính sách “cân bằng quyền lực”, tìm kiếm quan hệ
xây dựng với Trung Quốc nhưng cảnh giác trước việc nước này tăng cường tiềm lực quân sự, xây dựng
quan hệ chiến lược mới với Nga, tăng cường quan hệ với Ấn Độ, củng cố, mở rộng và cải tổ NATO,
củng cố đồng minh truyền thống.
3 - Hành động đơn phương để theo đuổi lợi ích
Điều này thể hiện cả trước lẫn sau khi xảy ra sự kiện “ngày 11/9/2001” và "hòa bình thông qua
sức mạnh, bằng sức mạnh” là phương cách mang tính xuyên suốt của Đảng Cộng hòa.
4 - Châu Á - Thái Bình Dương trở thành trọng điểm số một
Tổng thống G.Bush đã điều chỉnh chiến lược châu Á - Thái Bình Dương với mục tiêu là giữ cho
bằng được vai trò chi phối trật tự khu vực, không để xuất hiện một kẻ “bá quyền khu vực” có thể đe
dọa quyền lãnh đạo của Mỹ tại khu vực.
Qua gần 4 năm thực hiện Chiến lược “Đánh đòn phủ đầu”, tháng 3/2006, Mỹ lại công bố Chiến
lược an ninh quốc gia 2006 nhằm tập trung phân tích 9 nhiệm vụ thực hiện an ninh của Mỹ, thể hiện
trong 9 chương cụ thể, với những tiêu đề rất “ấn tượng” như “Bênh vực mạnh mẽ những khát vọng về
phẩm giá con người”, “Kéo dài chu kỳ phát triển bằng việc mở cửa các xã hội và xây dựng cơ sở hạ
tầng của nền dân chủ”... Tuy nhiên, tư tưởng xuyên suốt, hay mục tiêu, nội dung cơ bản trong bản
chiến lược này thì chẳng có gì thay đổi. Chiến lược An ninh quốc gia trong nhiệm kỳ II của Tổng
thống Bush thể hiện sự kế thừa bản Chiến lược 2002, đồng thời bổ sung một số điểm mới như sau:
+ Nhấn mạnh chính sách thúc đẩy dân chủ, nhân quyền
+ Khơi dậy kỷ nguyên mới tăng trưởng kinh tế toàn cầu
+ Đẩy mạnh hơn nữa chủ trương thúc đẩy phát triển ở các nước nghèo thông qua hợp tác kinh
tế, viện trợ và thúc đẩy dân chủ thực sự
+ Tiếp tục khẳng định chính sách đơn phương trong quan hệ với các nước và khu vực; coi Tây
bán cầu là tuyến đầu của an ninh quốc gia Mỹ, châu Phi đang nổi lên thành khu vực có tầm quan trọng
địa chiến lược và là ưu tiên cao của Mỹ, Trung Đông là trung tâm chú ý của thế giới; châu Âu là đồng
minh truyền thống; đặc biệt, Mỹ thừa nhận vai trò toàn cầu của Trung Quốc, đồng thời kêu gọi nước
này cư xử có trách nhiệm, tiếp tục cải cách và mở cửa, thay đổi tư duy cũ (tăng cường quân sự không
minh bạch, tư duy trọng thương, ủng hộ vô nguyên tắc các quốc gia giàu tài nguyên nhưng thiếu trách
nhiệm trong nước và đối với quốc tế).
Sau sự kiện 11/9, mục tiêu chiến lược quan trọng nhất của Mỹ kể từ đầu thế kỷ thứ XXI được
xác định là đánh bại chủ nghĩa khủng bố quốc tế, mối đe dọa nghiêm trọng đến vị thế chính trị của Mỹ.
Khi chính quyền của Bush lên, các kế hoạch xây dựng một hệ thống phòng thủ chống tên lửa duy nhất
trên thế giới cũng được triển khai ngay. Kể từ nay, Mỹ sẽ là nước tự quyết định cái gì là thiện và cái gì
là ác trong thế giới của chúng ta. Sau khi thiết lập hệ thống lá chắn tên lửa, Mỹ có thể đánh vào bất kỳ
điểm nào trên trái đất mà không sợ bị đánh trả.
Mục tiêu địa-chính trị trong chiến lược toàn cầu của Mỹ từ thảm họa khủng bố nước Mỹ đến
nay là sự phát triển kế tiếp mục tiêu địa-chính trị của giai đoạn trước nhưng trong bối cảnh chủ nghĩa
khủng bố đang lan rộng, những mục tiêu đó được ẩn núp dưới chiêu bài chống khủng bố. “Từ thời
điểm Mỹ bị khủng bố đến nay, thời gian chưa là bao nhưng bản đồ địa-chính trị trên thế giới đã thay
đổi nhanh chóng. Có thể nói một cách chắc chắn rằng mục tiêu cuối cùng của chiến dịch toàn cầu
chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế là nhằm thiết lập sự kiểm soát không chỉ những khu vực lãnh thổ
mới, mà còn cả nguồn tài nguyên dồi dào ở khu vực đó” [42, tr.202-203]. Mỹ không muốn có một
cường quốc khác nổi lên gây phương hại đến bá quyền của Mỹ trên toàn cầu hoặc chặn đứng các kế
hoạch đơn phương của Mỹ nhằm thể hiện sức mạnh với thế giới. Báo cáo của Lầu Năm Góc nêu rõ:
“Chiến lược của chúng ta là cần phải ngăn chặn sự xuất hiện của bất kỳ một đối thủ cạnh tranh toàn
cầu tiềm tàng nào trong tương lai” [80, tr.288]. Bất cứ ai lên nắm quyền ở Mỹ cũng sẽ tiếp tục chính
sách “đảm bảo vị trí siêu cường số 1 của Mỹ trên thế giới” và sẽ sử dụng các biện pháp để thực hiện
mục đích này, bao gồm mở rộng NATO và xây dựng NMD.
Như vậy, mục tiêu địa-chính trị nhất quán của Mỹ sau thời kỳ Chiến tranh lạnh là “không cho
phép xuất hiện trên thế giới một đất nước có sức mạnh ngang bằng với Mỹ: nước Nga luôn được coi là
luôn sẵn sàng quay trở về với chủ nghĩa đế quốc theo kiểu Liên Xô, còn Trung Quốc thì bị coi là một
đối thủ cạnh tranh ngang hàng đáng sợ mới xuất hiện, cả hai nước này đều cần phải bị kiềm chế” [80,
tr.102]; đồng thời, Mỹ luôn tìm kiếm và mở rộng những lợi ích địa-chính trị trên phạm vi toàn cầu.
2.2. Yếu tố địa-chính trị trong chính sách đối ngoại của Mỹ với các khu vực
Sự tan rã của Liên Xô đã tạo ra cho Mỹ một lợi thế tạm thời. Là cực duy nhất còn lại, Mỹ ra
sức củng cố vị trí siêu cường, mưu đồ giữ vai trò chi phối bá chủ thế giới. “Mục tiêu chiến lược của
Mỹ là tìm kiếm bá quyền trên toàn thế giới và Mỹ không thể chấp nhận sự xuất hiện của bất cứ cường
quốc lớn nào trên lục địa châu Âu và châu Á có thể trở thành mối đe dọa cho địa vị hàng đầu của Mỹ”
[5, tr 196]. Ưu tiên hàng đầu trong chiến lược đối ngoại của Mỹ là đại lục Âu - Á.
2.2.1. Châu Âu
Châu Âu phía bắc giáp Bắc Băng Dương, phía tây giáp Đại Tây Dương, phía nam giáp Địa
Trung Hải và biển Đen. Châu Âu thuộc loại nhỏ thứ hai trên thế giới về diện tích, vào khoảng
10.600.000 km², và chỉ lớn hơn Úc. Xét về dân số thì nó là lục địa xếp thứ ba sau châu Á và châu Phi.
Châu Âu có một quá trình lịch sử xây dựng văn hóa và kinh tế tương đối lâu đời.
Châu Âu là châu lục phát triển nhất thế giới, là thị trường buôn bán đầu tư quan trọng và lâu đời
của Mỹ. Châu Âu có nhiều thành viên trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc như Anh, Pháp. Châu Âu
là đồng minh tự nhiên của Mỹ, cùng chia sẻ những giá trị chung, và về căn bản cùng thừa hưởng cái di
sản tôn giáo chung, cùng thực thi chính trị dân chủ như nhau, đây là đây là sợi dây quan trọng duy trì
và thắt chặt Liên minh Đại Tây Đương. Châu Âu còn là quê hương gốc của đại đa số người Mỹ.
Châu Âu là cái đầu cầu địa chính trị trọng yếu của Mỹ trên lục địa Âu - Á. Lợi ích địa chiến
lược của Mỹ ở châu Âu rất to lớn. Khác với mối liên hệ của Mỹ với Nhật, liên minh Đại Tây Dương
đang gắn chặt ảnh hưởng chính trị và sức mạnh quân sự của Mỹ trực tiếp vào lục địa Âu - Á. Ở giai
đoạn hiện nay của mối quan hệ Mỹ - Châu Âu, khi các nước đồng minh châu Âu còn phụ thuộc nhiều
vào sự bảo hộ của Mỹ về an ninh, thì bất kỳ sự mở rộng nào về phạm vi của Châu Âu cũng tức khắc
trở thành một sự mở rộng phạm vi ảnh hưởng trực tiếp của Mỹ. Ngược lại, nếu không có những mốt
liên hệ chặt chẽ xuyên Đại Tây Dương, thì vị thế hàng đầu của Mỹ ở lục địa Âu - Á sẽ mau chóng tàn
tạ. Quyền kiểm soát của Mỹ đối với Đại Tây Dương và khả năng mở rộng ảnh hưởng và sức mạnh của
Mỹ sâu vào lục địa Âu - Á sẽ bị hạn chế nghiêm trọng [5, tr.67- 68].
Châu Âu là “cấu trúc nền” của chính trị quốc tế. “Trong Chiến tranh lạnh, châu Âu là nơi giới
lãnh đạo của cả Mỹ lẫn Liên Xô đều coi là có ý nghĩa hàng đầu đến sự sống còn của quốc gia mình”
[17, tr.12]. Vì ý thức ưu tiên dành cho châu Âu, khi cuộc chiến tranh hai miền Triều Tiên mở rộng
thành cuộc xung đột vũ trang giữa Mỹ và Trung Quốc, chiến sự đã xảy ra ác liệt trong thế giằng co
giữa hai phía với những rủi ro có thể ảnh hưởng rất lớn đến tình hình châu Âu, Chính phủ Mỹ đã quyết
định ngừng đưa quân tới Triều Tiên và sẵn sàng đồng ý với hiện trạng trước chiến tranh.
Xu thế toàn cầu hóa càng làm gia tăng vai trò, vị trí địa chiến lược của châu Âu. Học thuyết địa-
chính trị của Mackinder đã gộp đại lục Á, Âu và Phi thành hòn đảo khổng lồ của thế giới, trong đó
không gian từ Đông Âu tới Siberi được xem là vùng đất trung tâm (heartland); và Đông Âu là cửa ngõ
vào vùng đất trung tâm đó. Mackinder cho rằng, ai khống chế được Đông Âu, sẽ tiến được vào vùng
đất trái tim để chế ngự hòn đảo thế giới và bá chủ địa cầu. Ngoài vai trò, vị trí địa chiến lược này, châu
Âu còn có tiềm lực lớn về kinh tế, chính trị và quân sự, thường xuyên tác động đến sự vận động của
thế giới. Đó là những cơ sở chủ yếu tạo ra cho châu Âu vị thế là khu vực then chốt quyết định chiến
tranh và hòa bình thế giới từ lịch sử cận đại đến nay. Bởi vậy, trong bối cảnh toàn cầu hóa với đầy yếu
tố bất trắc khó lường, Mỹ và các nước tư bản phát triển khác đặc biệt coi trọng việc thiết lập cục diện
an ninh xuyên Đại Tây Dương giữa Tây Âu và Bắc Mỹ.
Khu vực châu Âu là trọng điểm chiến lược toàn cầu của Mỹ thời kỳ Chiến tranh lạnh. Trong
thời gian 10 năm sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Mỹ vẫn coi châu Âu là trọng điểm chiến lược. Từ
khi Bush lên cầm quyền, đồng thời với tăng cường lực lượng ở châu Âu, Mỹ bắt đầu chuyển trọng tâm
chiến lược toàn cầu sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Sự chuyển hướng nhanh chóng trọng
điểm chiến lược toàn cầu của Mỹ là giải pháp mang tính chiến lược nhằm duy trì địa vị siêu cường
trong thế kỷ XXI. Sở dĩ Mỹ đưa ra quyết sách chiến lược mang ý nghĩa thời đại như vậy không phải vì
châu Âu không quan trọng đối với Mỹ, cũng không phải vì Mỹ không coi trọng châu Âu. Liên Xô đã
tan rã, Mỹ không còn đối thủ mạnh cạnh tranh toàn cầu. Sự suy yếu nghiêm trọng của Nga, tiến trình
ngả sang phương Tây đã khiến Nga không còn khả năng tạo mối đe dọa trực tiếp đối với Mỹ. Hơn nữa,
Mỹ có sức mạnh quân sự khống chế châu Âu. Thông qua NATO, Mỹ vẫn chi phối châu Âu cả về mặt
quân sự lẫn chính trị. Tiến trình Đông tiến của NATO đã đưa ngày càng nhiều quốc gia Trung Âu và
Đông Âu vào phạm vi của NATO, tăng cường mạnh mẽ ảnh hưởng của Mỹ đối với công việc châu Âu.
Mặt khác, khu vực châu Âu không còn là điểm nóng thách thức nghiêm trọng trên thực tế an ninh và
lợi ích toàn cầu của Mỹ. Với cách nhìn của Mỹ thì ngoài bán đảo Balkan, về cơ bản châu Âu ở trong
“trạng thái hòa bình”. Dù có mâu thuẫn xung đột ở khu vực bán đảo Balkan, ở Nam Tư cũ, thì cũng
không đủ để đe dọa an ninh Mỹ [41, tr.15]. “Mục tiêu địa chiến lược chính yếu của Mỹ ở châu Âu có
thể tóm tắt như sau; đó là phải củng cố, thông qua sự hợp tác xuyên Đại Tây Dương chân thực hơn, cái
đầu cầu của Mỹ trên lục địa Âu - Á, để cho một châu Âu đang mở rộng có thể trở thành một ván đà để
truyền bá vào lục địa Âu - Á cái trật tự dân chủ và hợp tác quốc tế” [5, tr.102].
Sau Chiến tranh lạnh, ở châu Âu xuất hiện hai đối thủ địa-chính trị tiềm năng quan trọng của
Mỹ là Nga và Liên minh châu Âu.
Với sự tan rã của Liên bang Xô viết, nước Nga đã thay chỗ cho Liên Xô, kế thừa phần lớn tiềm
lực kinh tế, khoa học - kỹ thuật, nhất là tiềm lực quân sự hùng hậu. Có thể nói, Nga vẫn là mối quan
tâm chiến lược hàng đầu của Mỹ. Một mặt là do vị trí địa-chính trị của Nga là nước có diện tích lớn
nhất thế giới, trải dài trên hai lục địa Âu và Á, vị trí địa lý của Nga án ngữ giữa các cường quốc Đại
Tây Dương và châu Á - Thái Bình Dương; mặt khác, Mỹ vẫn coi Nga là thách thức tiềm tàng lớn nhất
đối với những lợi ích quốc gia của họ, do Nga thừa hưởng tới 70% sức mạnh của Liên Xô trước đây,
nghĩa là kiểm soát một kho vũ khí hạt nhân khổng lồ, vẫn là thành viên thường trực của Hội đồng bảo
an Liên hợp quốc và vẫn đang có mục tiêu khôi phục lại ảnh hưởng của một cường quốc thế giới. Về
mặt địa-chính trị, Nga vẫn xem mình là một nước châu Âu và nói rõ các vấn đề châu Âu không thể giải
quyết mà không có tiếng nói của Nga. Mặt khác Nga phát triển mạnh quan hệ của mình sang phía
Đông mặc dù tính chất châu Á của Nga sau khi Liên Xô tan rã đã giảm nhiều do tất cả các nước cộng
hòa Trung Á đều trở thành các quốc gia độc lập, phần lãnh thổ còn lại duy nhất gắn liền Nga với châu
Á là khu vực Viễn Đông. Để bù lại sự mất mát về lãnh thổ châu Á, thời gian qua Nga đã ra sức củng cố
quan hệ với các nước Trung Á, Ấn Độ, Trung Quốc, Nam Triều Tiên, Đông Nam Á v.v... Vì thế, Mỹ
tỏ ra mong muốn hợp tác chặt chẽ với Nga trên mọi bình diện, đồng thời tìm mọi cách cản trở Nga
nâng cao vị thế quốc tế, và hạn chế những khu vực ảnh hưởng mà Nga thừa kế của Liên Xô (Trung
Đông, các nước SNG, Đông Âu, bán đảo Balkan...).
Những năm đầu sau khi Liên Xô sụp đổ, quan hệ Nga - Mỹ đạt tới thời điểm “trăng mật”, cả hai
nước đều đánh giá rất lạc quan mối quan hệ hai bên. Giữa hai nước liên tục diễn ra các cuộc tiếp xúc
cấp cao, hàng loạt văn kiện được ký kết, mà đỉnh điểm là Tuyên bố chung Nga - Mỹ 15/1/1994 tại
Moscow, khẳng định: “quan hệ Nga - Mỹ đã bước vào giai đoạn mới của quan hệ bạn bè chiến lược
“trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi” và “thừa nhận lợi ích quốc gia của mỗi nước”. Thực tế cả hai nước
hợp tác chặt chẽ không chỉ trong lĩnh vực chính trị-ngoại giao, mà cả trên lĩnh vực kinh tế-thương mại,
khoa học-kỹ thuật lẫn quân sự-an ninh... Nhưng thời kỳ “trăng mật” trong quan hệ Mỹ - Nga đã chấm
dứt nhanh khi Nga dần dần nhận ra những ảo tưởng trong việc có thể nhanh chóng thiết lập được quan
hệ đồng minh hay đối tác chiến lược với Mỹ nên Nga bắt đầu điều chỉnh chính sách đối ngoại theo
hướng độc lập hơn, cân bằng hơn ở cả hai hướng: châu Âu - Đại Tây Dương và châu Á - Thái Bình
Dương, trong đó việc tăng cường quan hệ hợp tác toàn diện với các nước thuộc Cộng đồng các quốc
gia độc lập (SNG) được coi là ưu tiên chiến lược đối ngoại số một. Sự điều chỉnh thực chất từ khi
V.Putin trở thành Tổng thống Nga năm 2000 và bắt đầu thực hiện một chính sách đối ngoại thực dụng
(hiểu theo nghĩa chú trọng hiệu quả thực tế). Quan hệ Mỹ - Nga ngày càng thể hiện rõ tính chất vừa
hợp tác, vừa cạnh tranh về lợi ích chính trị ở khu vực và va chạm về lợi ích toàn cầu.
Sau sự kiện 11/9, quan hệ Mỹ - Nga có những thay đổi, điều chỉnh với những nét mới nổi bật
nhất. Thậm chí người ta còn nói tới “bước ngoặt” trong quan hệ giữa hai nước lớn này sau sự kiện, tới
“cuộc cách mạng” trong nền ngoại giao Nga, và “sự lựa chọn mang tính lịch sử” của nước Nga. Sự
điều chỉnh chính sách đối ngoại của Tổng thống V. Putin không phải là hành động nhất thời, chỉ vì lợi
ích kinh tế trước mắt, mà có căn nguyên sâu xa của nó. Trên thực tế, sự kiện 11/9/2001 đã tạo cơ hội
cho Nga thực hiện ít nhất 3 mục tiêu đã đề ra từ lâu nhưng chưa thực hiện được, đó là: tiêu diệt tận gốc
lực lượng đòi ly khai ở nước Cộng hòa tự trị Chechnya; cải thiện quan hệ với Mỹ và các nước phương
Tây; xác lập lại tầm ảnh hưởng của Nga, như Liên Xô đã từng tạo ra trước đây, trong đời sống các
quan hệ quốc tế.
Về phần mình, Mỹ cũng điều chỉnh chính sách đối với Nga, chú trọng mặt hợp tác hơn vì những
lý do sau: thứ nhất, Mỹ nhận thức rõ hơn vai trò, vị trí quan trọng của nước Nga trong lĩnh vực quân sự
- an ninh quốc tế và ở khu vực Âu - Á; thứ hai, do nhu cầu tập hợp lực lượng chống khủng bố quốc tế;
thứ ba, do những nhượng bộ và thiện chí của Nga. Kết quả là, Nga và Mỹ đã tiến những bước khá dài
trong việc cải thiện quan hệ hai bên bằng việc ký kết một loạt văn kiện hợp tác, thỏa thuận song
phương.
Tuy nhiên, việc hai bên đạt được nhiều thỏa thuận, cam kết hoặc hứa hẹn chung không có nghĩa
là quan hệ Nga - Mỹ đã thay đổi về chất. Giữa hai nước vẫn tồn tại những mâu thuẫn không chỉ ở các
vấn đề mang tính chiến lược, như đa cực và đơn cực mà còn ở một số vấn đề cụ thể như thái độ đối với
Iraq, Iran hay cuộc “chiến tranh thép”... Trên thực tế, Mỹ vẫn không từ bỏ chính sách kiềm chế đối với
Nga bởi vì cân bằng toàn cầu về sức mạnh vốn nghiêng về phía Mỹ đã bị thách thức nghiêm trọng.
Ảnh hưởng chính trị toàn cầu và vai trò thống trị chiến lược của Mỹ sẽ chịu sức ép ngày càng gia tăng
do Moscow tự củng cố vị thế tại các khu vực chiến lược trên thế giới. Do không phải đối phó với
những khó khăn mà Mỹ đang phải đương đầu tại Iraq và Afghanistan, Nga đang tận hưởng sức mạnh
chiến lược và sự linh hoạt trong các vấn đề chiến lược toàn cầu.
Nước Nga dưới thời Tổng thống V.Putin đã sử dụng con bài dầu mỏ và khí đốt như là một công
cụ của chính sách đối ngoại có hiệu quả nhằm tạo dựng ảnh hưởng chính trị. Mỹ hiện buộc phải tính
đến sự hiện diện của Nga trong những toan tính chính trị của mình. Tại châu Âu, bất chấp các nước
thuộc Liên minh châu Âu (EU) là một phần trong Liên minh Đại Tây Dương do Mỹ đứng đầu song
điều mà các nước này không thể rũ bỏ được là sự phụ thuộc vào nguồn cung cấp dầu mỏ của Nga. EU
phụ thuộc tới 25% vào dầu mỏ của Moscow và Mỹ không thể thay thế vai trò này. Moscow tiếp tục
quan hệ với Tehran, vốn bị coi là mối đe dọa trong khu vực và làm mất uy tín của Mỹ đối với thế giới
Hồi giáo. Mỹ không muốn mất vai trò thống trị của mình tại Trung Đông và khu vực này có nguy cơ là
một trong những vũ đài tranh giành chiến lược giữa Moscow và Washington.
Tại Đông Nam Á, Nga đã tự đặt mình vào vị thế là nguồn cung cấp vũ khí cho các nước trong
khu vực. Tại Đông Á, đội hình Nga - Trung đại diện cho sự phối hợp mạnh mẽ chống lại các liên minh
an ninh song phương của Mỹ. Như vậy ở cấp độ thế giới, trong cán cân quyền lực, Mỹ phải đối phó với
sự đoàn kết giữa Nga và Trung Quốc do sự hội tụ chiến lược tạm thời giữa 2 nước này trong việc
chống lại những chính sách chiến lược mà Washington áp đặt với Moscow và Bắc Kinh. Cán cân
quyền lực toàn cầu đang nổi lên khiến Washington bực bội và điều này đã được phản ánh trong động
thái triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa đối với khu vực ngoại biên phía Tây của Nga và những chiến
lược hình học tại Đông Á do Mỹ tài trợ dưới hình thức trục ba bên Mỹ - Nhật Bản - Ấn Độ và trục 4
bên Mỹ - Nhật Bản - Ấn Độ - Australia.
Để ngăn cản ảnh hưởng của Nga, Mỹ hậu thuẫn các cuộc “cuộc cách mạng màu sắc” tại các
quốc gia thuộc Liên Xô cũ như cuộc cách mạng: “hoa hồng” ở Gruzia, “da cam” ở Ukraina và “hoa
tuy-líp” ở Kyrgyzstan, Mỹ và phương Tây đã giáng những đòn mạnh vào sự toàn vẹn của khối SNG,
khuyến khích phe đối lập chống Nga trong các nước SNG nổi lên lật đổ chính quyền thân Nga, thành
lập chính quyền thân phương Tây. Mở rộng NATO về phía Đông là ý muốn thường trực của nước Mỹ
nhằm đạt cho được mục tiêu bao vây, thu hẹp khoảng không gian ảnh hưởng của Nga, từ đó có thể dễ
dàng khống chế Moskva về mặt ngoại giao, đồng thời cũng dễ bề tranh giành quyền lợi tài nguyên dầu
mỏ và khí đốt ở khu vực Trung Á và Kavkaz. Mỹ tăng cường giành giật ảnh hưởng và xâm nhập vào
hoạt động khai thác dầu mỏ, khí đốt ở Trung Á và biển Caspi. Đối với Mỹ, giành được vùng xung yếu
chiến lược này thì có thể răn đe uy hiếp Nga. Việc triển khai quân tại Trung Á của Mỹ đã phần nào coi
như khóa tay Nga từ phía Tây Nam và Tây Bắc cùng với việc NATO Đông tiến. Nga càng bất mãn hơn
khi Mỹ chỉ trích chính sách đối nội và vấn đề nhân quyền của Moscow.
Căng thẳng giữa hai cường quốc này còn gia tăng thêm sau khi Lầu Năm Góc đề nghị đặt các
tên lửa đánh chặn của Mỹ tại Ba Lan và một trung tâm radar ở Cộng hòa Czech - hai quốc gia từng
phụ thuộc vào Liên bang Xô viết cũ. Chính quyền Mỹ khẳng định kế hoạch tên lửa và radar của họ tại
châu Âu được thiết kế nhằm hạ gục tên lửa bắn tỉa từ Iran và CHDCND Triều Tiên. Mỹ cho rằng hệ
thống này vô hại với kho vũ khí hạt nhân khổng lồ của Nga. Nhưng khẳng định của Mỹ cũng đã chịu
sự ngờ vực rộng khắp, không chỉ từ Nga mà còn từ các đồng minh NATO trong đó có Đức. Nga cho
rằng dự án tên lửa đánh chặn của Mỹ đã tạo ra những thay đổi to lớn tới sự cân bằng chiến lược tại
châu Âu và sự ổn định chiến lược của thế giới. Tướng Vladimir Belous, chuyên gia hàng đầu trong lĩnh
vực vũ khí chống tên lửa của Nga nói: “Khu vực địa lý của vùng triển khai có mục tiêu chính là Nga và
các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc. Các căn cứ của Mỹ tạo ra một sự đe dọa thực sự với các cơ sở hạt
nhân chiến lược của chúng tôi”.
Về phía mình, tổng thống V.Putin chỉ trích Mỹ theo đuổi chính sách chủ nghĩa đơn cực và sử
dụng sức mạnh quân sự. Một động thái khác nhằm đối phó với sức ép của Mỹ về vấn đề an ninh là Nga
đã ngừng tham gia Hiệp ước về Các lực lượng vũ trang thông thường tại Châu Âu (CFE) tháng
12/2007 và tái khởi động hoạt động tuần tra của máy bay ném bom chiến lược tầm xa và hải quân trên
các đại dương của thế giới, những hoạt động quân sự Nga đã từng tiến hành trong Chiến tranh lạnh.
Bên cạnh đó, Nga cũng tăng cường thử hệ thống tên lửa mới và hiện đại hóa quân sự bằng những vũ
khí tối tân, báo hiệu nước này đã chọn cách điều chỉnh chiến lược an ninh đối phó lại sức ép của Mỹ
thay vì nhượng bộ.
Nói tóm lại, nước Nga đã phục hồi mạnh mẽ. Trong bối cảnh này, Mỹ cần ngăn chặn sự tái nổi
lên của Moscow hoặc tự thích nghi với sự nổi lên của một thế giới đa cực và chia sẻ khoảng không
chiến lược toàn cầu với Nga.
Mỹ cũng không khỏi lo ngại trước sự phát triển ngày càng có xu hướng độc lập của Liên minh
châu Âu (EU). EU đã và đang là đồng minh quan trọng của Mỹ. Khác với quan hệ châu Á - Mỹ, quan
hệ của Mỹ với EU được thể chế hóa dựa trên sự chia sẻ về lợi ích chiến lược lâu bền. Riêng lợi ích
kinh tế, gần 70% lợi nhuận của Mỹ là thu được từ các hoạt động kinh doanh ở châu Âu. Gần 45% đầu
tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Mỹ được đưa vào thị trường EU và gần 60% FDI của EU là dành cho
Mỹ. Mỹ và các nước châu Âu đã và đang có sự hợp tác chặt chẽ trong hầu hết các lĩnh vực quan trọng
như tình báo, tài chính, hành pháp, ngoại giao và quân sự. Trên bình diện toàn cầu, điểm đồng cơ bản
giữa Mỹ với châu Âu thể hiện ở quan điểm xây dựng một trật tự thế giới mới trên cơ sở các quan niệm,
giá trị phương Tây. Các văn kiện đưa ra trong các Hội nghị của Liên minh châu Âu (EU), NATO,...
đều coi tự do, dân chủ, chế độ đa đảng, chế độ tư hữu và cơ chế thị trường, cùng những giá trị văn hóa,
tinh thần phương Tây là những nguyên tắc phổ biến mà trật tự thế giới trong tương lai phải tiếp nhận.
Các trung tâm TBCN phát triển phương Tây luôn có sự thống nhất hành động trong quan hệ với nhóm
các nước XHCN còn lại và các nước đang phát triển với ý đồ luôn tạo khoảng cách với hai nhóm nước
này để duy trì ưu thế trong trật tự kinh tế, chính trị mới trong tương lai.
Các nước EU nhận thức rõ an ninh và ổn định của châu Âu không thể tách khỏi sự có mặt của
Mỹ. Sự hiện diện của Mỹ ở châu Âu không chỉ ngăn chặn mối đe dọa của Nga, mà còn giúp kiềm chế
nước Đức thống nhất, tránh cho châu Âu lại rơi vào chủ nghĩa dân tộc truyền thống, xung đột địa-chính
trị và tranh chấp nội bộ... Đồng thời, sự tồn tại và tiến trình mở rộng NATO về phía Đông đã chứng tỏ
các nước thành viên châu Âu cùng có lợi ích chung trên cơ sở đề phòng nước Nga, đồng hóa Trung -
Đông Âu và các nước SNG, duy trì an ninh và ổn định ở châu Âu, ngăn ngừa và giải quyết kịp thời các
xung đột có thể xảy ra... Chính sách của EU là cùng với Mỹ và NATO đẩy lùi dần phạm vi ảnh hưởng
của Nga vào bên trong đường biên giới nước này.
Về phía Mỹ, một châu Âu hùng mạnh, nhất thể hóa sẽ giúp chia sẻ gánh nặng với Mỹ trong các
vấn đề quốc tế. Mỹ hy vọng EU hợp tác với Mỹ đối phó với các cuộc khủng hoảng và thách thức toàn
cầu như chống khủng bố, vấn đề hạt nhân Iran... Tổng thống Bush đã tuyên bố: “Mỹ sẽ tiếp tục ủng hộ
một Liên minh châu Âu hùng mạnh như một đối tác trong việc phổ biến tự do và dân chủ, an ninh và
thịnh vượng trên toàn thế giới”.
Tuy việc duy trì sự phối hợp và hợp tác với nhau rất quan trọng đối với cả Mỹ và EU vì những lợi
ích an ninh và kinh tế nhưng hai bên vẫn không giải quyết được mâu thuẫn mang tính kết cấu và lâu
dài. Mâu thuẫn giữa Mỹ và EU bị quy định bởi tính chất phát triển lịch sử và đặc điểm văn hóa của
mỗi bên. Không phải ngẫu nhiên người ta gọi châu Âu và nước Mỹ là Cựu thế giới và Tân thế giới.
Nền văn minh châu Âu đã có lịch sử không dưới 25 thế kỷ, trong khi nước Mỹ mới được mấy trăm
năm và Tân thế giới là con đẻ của Cựu thế giới. Những cuộc chiến tranh đẫm máu nhất đã bắt đầu ở
châu Âu và ký ức về chúng đã khơi lên ở người châu Âu ý kiến về việc theo đuổi một nền hòa bình
vững chắc. EU nòng cốt là Pháp và Đức chủ trương giải quyết những vấn đề quốc tế bằng biện pháp
hòa giải, thuyết phục. Còn Mỹ, sau khi Liên Xô tan rã, với tư cách là siêu cường duy nhất, có ưu thế
nổi trội về kinh tế, kỹ thuật, quân sự, ngoại giao..., Mỹ có xu hướng sử dụng sức mạnh để giải quyết
mọi vấn đề trên thế giới. Bất đồng lớn nhất giữa EU và Mỹ là ở vấn đề xây dựng một thế giới đa cực
hay đơn cực. Từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, mấy đời tổng thống Mỹ đều theo đuổi việc xây
dựng trật tự thế giới đơn cực: từ G.Bush (cha) chủ trương xây dựng trật tự thế giới mới do Mỹ lãnh
đạo, đến B.Clinton theo đuổi địa vị lãnh đạo thế giới có một không hai, rồi đến G.Bush (con) muốn
duy trì ưu thế tuyệt đối về quân sự, kinh tế, chính trị và xây dựng trật tự thế giới dưới sự thống trị bá
quyền đơn cực của Mỹ. Do đó, Mỹ thường dùng thủ đoạn “diễn biến hòa bình”, trừng phạt kinh tế,
thậm chí dùng vũ lực để thay đổi các chế độ không chịu tuân theo ý muốn của họ. Trong khi đó, EU
cho rằng “chúng ta không còn sống trong một thời đại mà một hay hai quốc gia kiểm soát vận mệnh
của các quốc gia khác”, chủ trương thế giới đa cực, tán thành việc xây dựng một thế giới cân bằng, đa
cực.
Sự chênh lệch lớn về thực lực giữa Mỹ và EU sau Chiến tranh lạnh và sự thay đổi môi trường an
ninh quốc tế sau “sự kiện ngày 11/9/2001” đã khiến cho vai trò của đồng minh truyền thống thay đổi.
Thời kỳ Chiến tranh lạnh, Mỹ không thể tách rời sự ủng hộ của EU để cạnh tranh với Liên Xô. Sau
Chiến tranh lạnh, mối đe dọa chung đối với các nước tương đối ít, liên minh vĩnh cửu kiểu như Tổ
chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) không còn quan trọng. Tính đa nguyên, phân tán và
không xác định của nguồn gốc các mối đe dọa sau Chiến tranh lạnh khiến Mỹ ngày càng coi trọng việc
xây dựng những liên minh tạm thời để đối phó với các cuộc xung đột khu vực hoặc công việc quốc tế
đặc biệt. Từ đó, vai trò của các liên minh lâu dài, truyền thống giảm đi.
Kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, NATO đã luôn giữ vai trò then chốt đối với an ninh châu
Âu và là nền tảng của mối quan hệ xuyên Đại Tây Dương. Tuy nhiên sự hiện diện của NATO cũng
đồng nghĩa với việc các nước châu Âu chấp nhận sự bảo hộ và chi phối của Mỹ về mặt an ninh - phòng
thủ. Thực tế này chưa bao giờ làm cho các nước Tây Âu cảm thấy thoải mái và ngay từ khi đó, các
nước này đã luôn mong muốn giảm bớt sự lệ thuộc vào Mỹ và NATO. Chiến tranh lạnh kết thúc, kẻ
thù chung không còn đã làm mất lý do tồn tại cơ bản của NATO đồng thời làm giảm sự gắn kết bấy lâu
nay trong quan hệ đồng minh Mỹ - Tây Âu. Chính sự lỏng lẻo của mối quan hệ này so với trước cùng
với việc các quốc gia châu Âu đẩy mạnh quá trình liên kết nội khối trong đó có thắt chặt hợp tác an
ninh - chính trị đã mang đến cho châu Âu cơ hội để hiện thực hóa nguyện vọng của mình, tìm kiếm
một vai trò chủ động hơn và nâng cao tính độc lập với Mỹ trong vấn đề an ninh khu vực.
Sự kiện 11/9 đã thể hiện rõ bản chất đơn cực của chính quyền Bush. Viện lý do chống khủng bố,
Mỹ đơn phương tiến hành cuộc chiến ở Afghanistan, đưa quân xâm lược Iraq, phớt lờ Liên hợp quốc,
dẫn đến trong quan hệ giữa hai bờ Đại Tây Dương, những bất đồng càng trở nên sâu sắc hơn bao giờ
hết. Nhận thức của Mỹ và châu Âu về nguy cơ và hiểm họa đối với hòa bình và chiến tranh, đối với
vấn đề sử dụng bạo lực quân sự, đối với vấn đề luật pháp quốc tế và bảo vệ môi trường, đối với các
chính sách thương mại, biến đổi khí hậu và năng lượng... có nhiều điểm khác xa nhau. Khác với các
nhà quyết sách Mỹ coi mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố là thách thức nghiêm trọng nhất đối với an
ninh và trật tự quốc tế, dường như vượt lên trên tất cả, người châu Âu cho rằng, nó là một trong nhiều
mối đe dọa, giống như vấn đề đói nghèo, các cuộc xung đột khu vực chưa được giải quyết, dịch bệnh
và khí hậu thay đổi. Lập trường của nhiều nước EU trong vấn đề chống khủng bố và vấn đề hạt nhân
của Iran, của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên cũng khác Mỹ. Mỹ luôn muốn khẳng định vị trí
đứng đầu, không muốn bất kỳ quốc gia nào ngang hàng với mình trong xử lý các công việc quốc tế,
trong khi Tây Âu lại muốn phát huy tác dụng chủ đạo trong trật tự khu vực và tranh giành vị trí với Mỹ
trong trật tự thế giới đang từng bước hình thành. Điều này đã khiến quan hệ giữa Mỹ với Pháp, Đức và
nhiều nước đồng minh của Mỹ trong EU thời gian qua bị rạn nứt, đổ vỡ nghiêm trọng.
Ngày nay, EU được đánh giá là hình mẫu về hòa bình, thịnh vượng trên toàn cầu, có quan hệ
kinh tế rộng khắp với các khối và quốc gia trên thế giới. Với mức đóng góp tới 28% GDP thế giới, EU
là một khu vực kinh tế hùng mạnh và đầy tiềm năng của thế giới. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khu vực
đồng Euro năm 2007 tăng 2,6%, cao hơn năm 2006. Xuất phát từ mục tiêu xây dựng một “châu Âu của
người châu Âu” thống nhất và vững mạnh, không còn là một “chú lùn về chính trị” và một “con sâu về
quân sự”, các nước châu Âu và hạt nhân là Liên minh châu Âu đã có những nỗ lực đáng kể như tăng
cường vai trò của EU trong NATO, phát huy tính tích cực của EU trong giải quyết xung đột khu vực,
xây dựng “Chính sách an ninh và phòng thủ châu Âu” trong khuôn khổ EU và hướng tới xây dựng cho
mình một “bản sắc an ninh - quốc phòng” riêng. Một Liên hiệp châu Âu mở rộng gồm 27 nước có một
không gian kinh tế thống nhất, cùng chung một quan điểm về giá trị, có chính sách quốc phòng và đối
ngoại chung, ràng buộc nhau bằng một Hiến pháp chung và cơ cấu quyền lực kiểu liên bang có khả
năng sẽ tạo nên một châu Âu thống nhất, hùng mạnh làm đối trọng với Mỹ. Trước mắt, thông qua việc
mở rộng sang phía Đông, xây dựng một “Đại châu Âu nhất thể hóa” do các nước lớn như Pháp, Đức
làm nòng cốt và động lực, EU từng bước giành quyền chủ đạo các công việc châu Âu từ tay Mỹ. Nhìn
một cách tổng thể, xu hướng độc lập hơn của EU với Mỹ đang ngày càng trở nên rõ rệt và có thể sẽ tạo
ra một thách thức lớn cho quan hệ xuyên Đại Tây Dương trong tương lai.
Sự trỗi dậy của Liên minh châu Âu sau Chiến tranh lạnh buộc Mỹ phải điều chỉnh chính sách
đối với châu Âu. Nhưng điểm xuất phát và cũng là mục tiêu chính vẫn là nhằm đưa châu Âu vào một
khung kết cấu lợi ích trong đó đảm bảo vị trí lãnh đạo của Mỹ. Tổng thống Mỹ luôn xem quan hệ đồng
minh Mỹ - EU là một trong những hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại quốc gia. EU hiện nay đã
bước vào “thời vụ gặt hái” của tiến trình nhất thể hóa trong nửa thế kỷ sau Chiến tranh thế giới thứ hai.
Những sự kiện như việc lưu hành đồng Euro, tương lai mở rộng hơn nữa các nước thành viên, việc
tăng cường an ninh và chính sách phòng ngự chung, xây dựng một bản Hiến pháp chung... thể hiện rõ
nguyện vọng của EU muốn trở thành một cực của EU. Trước tình hình đó, Mỹ đã chứng tỏ cho EU và
thế giới thấy khả năng duy trì một thế giới đơn cực bằng những hành động đơn phương và gây sức ép
cản trở tiến trình nhất thể hóa EU.
Về quan hệ đối ngoại, Mỹ dựa vào vị thế siêu cường, gây nhiều trở ngại cho EU. Mỹ không cho
phép EU đặt chân vào phạm vi ảnh hưởng và các khu vực thương mại thuộc về Mỹ, EU không được
tiếp xúc với bất kỳ quốc gia nào bị Mỹ coi là “quốc gia không lương thiện”. Đối với một số quốc gia
như Cuba, Iraq, CH DCND Triều Tiên, Iran dám chống đối Mỹ, EU phải ủng hộ hành động trừng phạt
của Mỹ và không được giao lưu với các quốc gia này. EU phát triển mối quan hệ đối ngoại phải được
Mỹ đồng ý và thống nhất với lợi ích của Mỹ, nếu không sẽ trừng phạt. Về vấn đề phòng thủ khu vực,
mọi việc đều do Mỹ sắp xếp và chỉ huy, EU không có bất cứ quyền tự chủ nào. Mỹ vẫn cho rằng các
tham vọng quân sự của châu Âu là nhằm tạo ra một lực lượng quân sự cạnh tranh với NATO nên nỗ
lực ngăn cản EU phát triển chính sách quốc phòng chung và xây dựng quân đội chung. Để đảm bảo lợi
ích toàn cầu của mình, Mỹ tấn công và trừng phạt một số quốc gia và khu vực như Iraq, Nam Tư... và
yêu cầu EU phải ủng hộ và tham gia các hoạt động quân sự, bao gồm ủng hộ về tiền bạc, vật tư. Điều
này cho thấy ý đồ ngăn cản sự thách thức của EU đối với vai trò bá quyền của Mỹ” [24, tr.244].
2.2.2. Châu Á
Châu Á và rộng hơn là châu Á - Thái Bình Dương là khu vực chiến lược của thế giới. Xét trên
góc độ địa-chính trị, khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp giáp với nhiều đại dương, trong đó Thái
Bình Dương là “cửa ngõ”, “yết hầu” nối liền nước Mỹ với thế giới. Khu vực này có trữ lượng dầu mỏ,
khí đốt rất lớn, đang tập trung nhiều mâu thuẫn về lợi ích có tính chiến lược của một số nước lớn đối
trọng với lợi ích quốc gia Mỹ, đặc biệt những nước đang cạnh tranh với Mỹ để giành quyền khống chế
khu vực này về chính trị và kinh tế. Tính đa dạng của châu Á là vô cùng. Trước hết, về mặt địa lý, có
sự đối lập giữa một châu Á nằm ven biển với một châu Á lục địa; sau đó, về mặt dân số, châu Á là một
lục địa đông nhất, có tới trên 3 tỷ dân, mà chỉ riêng Trung Quốc và Ấn Độ đã chiếm gần hai phần ba số
dân đó, trong khi Nhật Bản chỉ có 127 triệu. Sự đa dạng của châu Á cũng cả về mặt tư tưởng nữa:
những nước cộng sản (Trung Quốc, Bắc Triều Tiên, Việt Nam) ở cạnh những nước dân chủ (Nhật Bản,
Nam Triều Tiên...). Tính đa dạng đó cũng tồn tại về mặt kinh tế: điều thần kỳ Nhật Bản, tiếp theo sau
đó là điều thần kỳ của những nước mới công nghiệp hóa. Tính đa dạng đó lại còn rất sâu sắc đến mức
là những nước trong khu vực này phải ngập ngừng không dám cho rằng họ có một bản sắc chung.
Những nền văn minh cổ, những tôn giáo lớn như đạo Hồi, đạo Phật, đạo Khổng tồn tại cùng nhau tăng
cường cảm tính đó.
Châu Á là một trong những khu vực ở đó sự xung đột Đông - Tây là dai dẳng nhất. Sự có mặt
của ba người khổng lồ, Nhật Bản, Trung Quốc và Ấn Độ, cái bóng luôn luôn sống động của nước Nga,
sự mở cửa của khu vực trông ra không gian của Thái Bình Dương đã làm cho khu vực này trở thành
một điểm bản lề của cái thế giới đang tự tổ chức quy tụ xung quanh những á tổng hòa khu vực và mỗi á
tổng hòa này đều bị một cường quốc chi phối. Đó là những thế cân bằng chiến lược, những thế cân
bằng này, cũng như tính năng nổ của châu Á về mặt kinh tế, đã làm nên đặc điểm của châu Á [77,
tr.207-208].
Châu Á luôn là điểm ưu tiên trong chính sách đối ngoại của nhiều đời Tổng thống Mỹ. Châu lục
này không chỉ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong quan hệ kinh tế với Mỹ mà còn có những đồng minh
chiến lược và thân cận như Nhật Bản và Hàn Quốc ở Đông Bắc Á, Thái Lan và Singapore ở Đông
Nam Á cùng với Pakistan ở Nam Á nhưng đồng thời cũng có những quốc gia cạnh tranh mạnh như
Trung Quốc. Châu Á cùng với Australia ở phía Nam Thái Bình Dương tạo thành vành đai chiến lược
châu Á - Thái Bình Dương hết sức trọng yếu bao bọc suốt dọc biên giới phía Tây nước Mỹ.
Chiến lược Đông Á - Thái Bình Dương (2/1995) của Mỹ nêu rõ: “Sự hiện diện quân sự của Mỹ
trong khu vực hỗ trợ cho phần lớn các mục tiêu rộng lớn của chúng ta và của các đồng minh. Sự hiện
diện này đảm bảo an toàn cho các tuyến đường biển quan trọng sống còn đối với nguồn cung cấp dầu
lửa của Trung Đông, giúp ngăn chặn xung đột vũ trang trong khu vực và đẩy mạnh hợp tác khu vực.
Sự hiện diện của Mỹ cũng phủ nhận sự kiểm soát về kinh tế hay chính trị đối với khu vực châu Á -
Thái Bình Dương của một cường quốc thù địch hay một liên minh các cường quốc, ngăn cản bất kỳ
nhóm nào như vậy có quyền kiểm soát đối với các nguồn lực khổng lồ, tài sản to lớn và kỹ thuật tiên
tiến của khu vực châu Á - Thái Bình Dương”.
Trước khi ông Bush trở thành chủ nhân của Nhà Trắng, nước Mỹ rất coi trọng quan hệ với châu
Á khi châu lục này mỗi ngày lại trỗi dậy mạnh mẽ trên bản đồ địa-chính trị-kinh tế của thế giới. Nhưng
sự mặn mà của Mỹ với châu Á đã có thay đổi ít nhiều sau khi ông Bush đắc cử Tổng thống cuối năm
2000. Ngay khi chính thức nắm quyền đầu năm 2001, Tổng thống Bush đã xét lại nhiều chính sách của
chính quyền B.Clinton tiền nhiệm. Trong đó dễ thấy nhất là từ bỏ chính sách can dự để thay vào đó là
một cách tiếp cận cứng rắn với CHDCND Triều Tiên. Chính sách của Mỹ với châu Á càng biến động
nhiều hơn sau vụ tấn công khủng bố 11/9/2001. “Cơn địa chấn” này đã tác động hết sức sâu sắc tới
chính sách đối ngoại của nước Mỹ, đưa khủng bố và chống khủng bố trở thành trung tâm, cốt lõi chính
sách đối ngoại của Mỹ. Dưới ánh chớp kinh hoàng của vụ khủng bố 11/9, dường như những gì không
gắn tới các chữ “khủng bố” hay “an ninh” đều bị lu mờ ít nhiều trong cái nhìn từ Washington. Những
lần Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice vắng mặt tại Hội nghị thường niên của ASEAN đã khiến có
người thốt lên rằng đó là “sự thể hiện tồi” mối quan tâm với Đông Nam Á - một khu vực vốn là điểm
ưu tiên trong chính sách của Mỹ với châu Á. Sa vào cuộc chiến chống khủng bố, thực thi chính sách
cứng rắn chỉ làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên. Cũng trong lúc
Mỹ đối phó với các cuộc chiến ở Iraq hay Afghanistan thì vai trò của Trung Quốc dần nổi lên ở châu
Á.
Trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở châu Á, có thể nhận thấy Mỹ không có một chính sách
chung, nhất quán. Mỹ không tin vào tính hiệu quả và khả năng thành công của một cơ chế chính trị -
kinh tế chung của khu vực, cho nên đến tận bây giờ, họ vẫn không quan tâm lắm đến cơ chế này. “Mỹ
tiếp tục duy trì truyền thống xem quan hệ với châu Á - Thái Bình Dương như tập hợp các mối quan hệ
riêng rẽ với từng nước. Trên thực tế, chủ nghĩa song phương vẫn duy trì sức hấp dẫn lớn. Các nhà
hoạch định chính sách châu Á của Mỹ trước đây đã sử dụng hình ảnh “nan quạt” để mô tả chính sách
của Mỹ đối với khu vực. Các nỗ lực đa phương sau đó chưa đủ mạnh để làm mờ đi hình ảnh này” [70,
tr.70].
Mỹ đã từng công khai thái độ nghi ngờ về các thể chế khu vực ở châu Á - Thái Bình Dương.
Theo quan điểm của Washington thì mọi con đường ở Thái Bình Dương đều dẫn đến Washington. Mỹ
tin rằng không có tổ chức nào ở khu vực nên loại trừ Mỹ. Bởi thế, khi Mahathir bin Mohamad, cựu
Thủ tướng Malaysia khởi động Cộng đồng Kinh tế Đông Á, Ngoại trưởng Mỹ Baker đã tổ chức một
chiến dịch phản đối kịch liệt nhưng chiến dịch này đã không hiệu quả. Năm 1997, Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) cùng với 3 cường quốc Đông Bắc Á là Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc
đã cho ra đời khuôn khổ ASEAN + 3. Thêm vào đó là sáng kiến Chiềng Mai liên kết 13 ngân hàng
trung ương của các quốc gia Đông Á và hình thành cơ sở trợ giúp hoán đổi ngoại tệ trong trường hợp
tái phát diễn biến tương tự như cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 - 1998. Tại Hội nghị Thượng
đỉnh ASEAN ở Viêng Chăn (Lào) tháng 12 - 2004, ASEAN + 3 đã nhất trí tiến hành cuộc họp cấp cao
Đông Á tại Kuala Lumpur (Malaysia). Hoạt động ấy sẽ tạo ra diễn đàn gặp gỡ cho các nhà lãnh đạo
ASEAN + 3, nhưng lại vắng bóng các nhà lãnh đạo một số quốc gia khác, trong đó có Mỹ. Vào năm
2005, tổ chức này được mở rộng, thêm cả Australia, Ấn Độ và New Zealand.
Ở châu Á đang hình thành sự thay đổi quan trọng trong việc nhìn nhận lại vai trò của Mỹ trong
một trật tự khu vực mới. Lần đầu tiên, người ta thấy rằng không nhất thiết, và không cần thiết, phải có
sự hiện diện của Mỹ như một thành viên chính thức trong khu vực. Trước tình hình đó, Tổng thống Mỹ
George W. Bush đã khẳng định lại tầm quan trọng của châu Á, xác nhận rằng, kể từ khi trở thành Tổng
thống, ông đã cho rằng Mỹ là một quốc gia Thái Bình Dương và rằng các lợi ích và ý tưởng như vậy
đòi hỏi một sự cam kết mạnh mẽ hơn bao giờ hết (của Mỹ) tại châu Á “tất cả (thành viên) trong khu
vực này có thể tin tưởng vào cam kết long trọng của Mỹ: Mỹ đã sát cánh với nhân dân tự do của châu
Á trong quá khứ. Mỹ sẽ sát cánh cùng nhân dân tự do của châu Á hôm nay và Mỹ sẽ sát cánh cùng
nhân dân tự do của châu Á lâu dài trong tương lai”. Chính quyền Bush tuyên bố 4 mục tiêu lớn tại châu
Á là củng cố quan hệ các nước đồng minh, thiết lập quan hệ đối tác dân chủ với các nước khác trong
khu vực, tăng cường quan hệ kinh tế để nắm bắt cơ hội tìm kiếm sự thịnh vượng và phát triển và cùng
hợp tác giải quyết những thách thức toàn cầu.
Khu vực Đông Bắc Á là nơi hội tụ rất đặc trưng những vấn đề quan trọng và nhạy cảm về chính
trị, kinh tế ở Đông Á và thậm chí cả khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Hiện trạng và những xu
hướng biến đổi về chính trị, kinh tế, môi trường và văn hóa ở khu vực này có tác động to lớn tới không
chỉ Đông Bắc Á mà còn tới toàn bộ khu vực Đông Á. Về kinh tế, Đông Bắc Á cùng với Tây Âu và Bắc
Mỹ hợp thành ba trung tâm kinh tế hiện đại chủ chốt của thế giới. Về chiến lược, Đông Bắc Á là điểm
giao thoa và hội tụ lợi ích và mâu thuẫn giữa 4 nước lớn là Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc và Nga. Về an
ninh, kết cấu chính trị - quân sự thời Chiến tranh lạnh chưa bị loại bỏ tạo ra nguy cơ tiềm ẩn xung đột,
căng thẳng, nhất là trên bán đảo Triều Tiên vẫn bị chia cắt, eo biển Đài Loan vẫn nóng bỏng và một số
tranh chấp về hải đảo, lãnh thổ, lãnh hải, tài nguyên, nhất là dầu khí tại các vùng biển. Thực trạng này
là nguyên do và tạo ra cơ hội cho Mỹ tiếp tục tăng cường sự hiện diện quân sự trong khu vực; liên
minh Mỹ - Nhật không ngừng được tăng cường và nâng cấp; Nhật Bản, Hàn Quốc trở thành bàn đạp,
điểm tựa chiến lược để Mỹ duy trì vai trò bá quyền trong khu vực. So với châu Âu, Đông Bắc Á tuy có
tính tương đồng nhất định về cốt lõi văn minh Khổng giáo nhưng lại đa dạng, nhất là về chế độ chính
trị, lịch sử, kinh tế, bản sắc dân tộc. Hơn nữa, những vấn đề tồn tại sau Chiến tranh thế giới thứ hai
giữa Nhật Bản và nhiều nước đến nay vẫn tiếp tục gây ảnh hưởng tiêu cực. Hậu quả là việc xây dựng
cơ chế hợp tác an ninh và liên kết kinh tế khu vực gặp nhiều khó khăn thử thách. Trong khi Tây Âu từ
lâu đã có cơ cấu hợp tác an ninh tập thể (NATO) và liên kết kinh tế khu vực (EU), ở Đông Bắc Á chỉ
có liên minh an ninh và liên minh quân sự, chính trị song phương Mỹ - Nhật và Mỹ - Hàn. Hơn nữa,
khu vực này vốn không có truyền thống về chủ nghĩa đa phương và còn tụt hậu hơn Đông Nam Á
trong việc thiết lập cơ chế an ninh khu vực (ARF) và liên kết kinh tế khu vực dưới dạng khu vực mậu
dịch tự do (AFTA). Tóm lại, khu vực Đông Bắc Á, xét từ góc độ địa-chính trị, kinh tế và quân sự, đóng
vai trò chiến lược then chốt tại châu Á - Thái Bình Dương. Đông Bắc Á là nơi bao gồm những đồng
minh và đối thủ quan trọng nhất của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương. An ninh Đông Bắc Á càng trở
nên quan trọng hơn với hai điểm nóng chính là bán đảo Triều Tiên và eo biển Đài Loan. Trong khu vực
Đông Bắc Á, Trung Quốc và Nhật Bản là hai nước được Mỹ quan tâm nhiều nhất.
Tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương là nơi đang trở thành vũ đài chính của thế giới, Trung
Quốc ngự trị ở lục địa, Mỹ làm bá chủ mặt biển. Theo thuật ngữ của khoa học địa-chính trị, Trung
Quốc là một “cường quốc đất” (land power) và Mỹ là một “cường quốc biển” (sea power). Trong hai
tài liệu “Triển vọng liên hợp năm 2020” của Ban hỗn hợp Liên quân và “Cái nhìn về châu Á năm
2025” của Bộ Ngoại giao Mỹ, đều có chung một nhận xét rằng: Trung Quốc trong tương lai 10 đến 15
năm tới sẽ phát triển thành nước lớn về kinh tế, chính trị quân sự và thách thức đối với quyền lực của
Mỹ trên thế giới ở ba khía cạnh:
1. Trung Quốc là một cường quốc chính trị, là một thành viên thường trực của Hội đồng bào an
Liên hợp quốc và uy tín sẽ gia tăng cao trên thế giới do những thành công trong việc đẩy mạnh các
chính sách cải tổ hiện nay. Nếu không có sự tham gia của Trung Quốc, nhiều vấn đề lớn trên thế giới
sẽ không được tiến triển tốt đẹp.
2. Trung Quốc là một cường quốc quân sự. Mặc dù tiềm lực vũ khí còn kém xa Mỹ nhưng so
với nhiều nước trong vùng thì Trung Quốc có khả năng răn đe nhất định mà Mỹ không dễ gì làm nhục
như các nước khác.
3. Trung Quốc sẽ là một cường quốc kinh tế, với tiềm năng đang phát triển mạnh mẽ hiện nay.
Trung Quốc có hơn 1,3 tỉ dân, diện tích đất 9,6 triệu cây số vuông, diện tich mặt biển là 3 triệu cây số
vuông, có nền kinh tế tăng trưởng trên 9% trong hai mươi năm qua, đang tích cực mở cửa và đang có
một nền chính trị ổn định.
Từ tầm nhìn nói trên, ta có thể thấy rằng, Trung Quốc có vai trò quan trọng và độc đáo trong
việc điều chỉnh chính sách đối ngoại của Mỹ. Xét về lâu dài, mục tiêu của Mỹ là phải ngăn chặn Trung
Quốc trở thành một Liên Xô thứ hai, thách thức toàn diện quyền lực của Mỹ hiện nay trên thế giới. Xét
trong tương lai gần, Mỹ vẫn muốn Trung Quốc tiếp tục giữ đà phát triển như hiện nay, vì đang phục vụ
tốt cho các mục tiêu của Mỹ như hợp tác trong cuộc chiến chống khủng bố, giải quyết các vấn đề nóng
bỏng ở các khu vực: Đài Loan, biển Đông, CHDCND Triều Tiên, là thị trường khổng lồ cho hàng xuất
khẩu của Mỹ... Việc lôi kéo Trung Quốc cùng chia sẻ lợi ích là cần thiết. Bởi nếu Mỹ “thu phục” được
Trung Quốc, Mỹ có thể thuyết phục Trung Quốc chấm dứt việc tăng cường bán vũ khí và kỹ thuật
quân sự, ngừng đe dọa Đài Loan, giúp thuyết phục Bắc Triều Tiên chấm dứt chương trình hạt nhân, cải
thiện vấn đề nhân quyền, thực hiện tự do hóa kinh tế... Quan trọng hơn là thuyết phục Trung Quốc mở
rộng thị trường. Hiện nay, Trung Quốc là thị trường lớn nhất trong số những thị trường mới, rất quan
trọng trong phát triển kinh tế Mỹ nên Mỹ không thể bỏ qua. Mỹ có thể nhận thấy hợp tác với Trung
Quốc là nguồn hy vọng tốt đẹp nhất để Mỹ đảm bảo các quyền lợi và giá trị của mình, nếu không thì sự
hợp tác Trung - Nga, Trung - Nhật, Trung - Pháp, Trung - Tây Âu... trong cuộc đấu tranh cho một trật
tự thế giới đa cực sẽ là bất lợi cho Mỹ. Xuất phát từ lợi ích an ninh của bản thân, Mỹ hy vọng “thay
đổi” Trung Quốc và ít nhất là làm cho Trung Quốc không trở thành mối đe dọa của nước Mỹ trong
tương lai. Vì vậy, Mỹ đã sử dụng cả hai biện pháp cùng một lúc là “tiếp xúc” và “kiềm chế”.
Tổng thống Clinton thiên về “hợp tác”, thiết lập quan hệ “đối tác chiến lược mang tính xây
dựng” với Trung Quốc. Mỹ cần có sự hợp tác của Trung Quốc trong nhiều vấn đề, đặc biệt là những
vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc mà Trung Quốc là một thành viên có
quyền phủ quyết. Trái lại, Tổng thống Bush tuyên bố trong cuộc tranh cử tổng thống năm 2000 rằng
Trung Quốc là đối thủ “cạnh tranh chiến lược” và chủ trương tăng cường liên minh quân sự song
phương với các nước trong vùng để ngăn giữ, giảm các quan hệ đa phương đến mức tối thiểu và nâng
cao hơn nữa vai trò liên minh và chiến lược của Nhật Bản.
Khi mới lên cầm quyền, Tổng thống Bush ngả nhiều về biện pháp “kiềm chế”, bằng cách chú
trọng biện pháp bên ngoài (trách nhiệm quốc tế, chia sẻ trong vai trò quốc gia phát triển) để ràng buộc
Trung Quốc hơn là dùng những áp lực chính trị bên trong của Trung Quốc (nhân quyền, dân chủ như
dưới thời Tổng thống Clinton) để kiềm chế.
Sau sự kiện 11/9, mục tiêu chiến lược địa-chính trị vốn có của Mỹ vẫn chưa thay đổi căn bản,
cho dù trọng tâm chiến lược tạm thời chuyển sang chống khủng bố. Mỹ vẫn giữ vai trò chủ đạo, khống
chế toàn diện đại lục Á - Âu, ngăn ngừa khu vực châu Á - Thái Bình Dương nổi lên một nước lớn
trong vùng có khả năng khống chế khu vực “trung gian” đại lục Á - Âu và thực hiện mối liên kết nào
đó với đối thủ chiến lược địa chính trị, thách thức quyền bá chủ châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ.
Dưới con mắt của các nhà hoạch định chính sách, cũng như các chuyên gia và giới báo chí thì Trung
Quốc là nước lớn có nhiều khả năng đó nhất [41, tr.215].
Vì vậy, tuy chính quyền Bush chuyển sang hướng thiên về “tiếp xúc” nhưng sách lược tiếp xúc
ở đây không phải là tiếp xúc theo nghĩa thông thường mà là “tiếp xúc hạn chế” với mong muốn đạt
được cùng một lúc hai mục tiêu là vừa làm thay đổi Trung Quốc, vừa gây sức ép với Trung Quốc. Mỹ
muốn tăng thêm phạm vi và mức độ phụ thuộc của Trung Quốc vào Mỹ, thậm chí kể cả phải công khai
hóa lĩnh vực quân sự, thông qua trao đổi kinh tế thúc đẩy sự chuyển đổi chính trị ở Trung Quốc, nhưng
đồng thời cũng tăng cường thêm sự phòng ngừa những hành vi quốc tế và trong nước của Trung Quốc
mà có thể làm nguy hại đến lợi ích của Mỹ. Nổi bật trong chiến lược của Mỹ là xây dựng một “Vành
đai chuỗi ngọc” kéo dài từ Nhật Bản - Hàn Quốc, Đài Loan ở Đông Bắc Á, qua Philippines, Indonesia,
Singapore, Malaysia, Thái Lan ở Đông Nam Á tới Ấn Độ ở Nam Á và kết thúc ở vùng vịnh Persic tại
Trung Đông. Về phần mình, Trung Quốc thực hiện chiến lược “phá vây” bằng cách tăng cường liên kết
với các nước Đông Nam Á, Nam Á nhằm hạn chế, tiến tới phá vỡ thế bị bao vây. Biện pháp của Trung
Quốc là dựa vào hai thế mạnh kinh tế và quân sự. Về kinh tế, Trung Quốc hiện là nước lớn có quan hệ
chặt chẽ nhất với ASEAN mà một minh chứng cụ thể là thỏa thuận lập Khu vực tự do thương mại
ASEAN - Trung Quốc. Trung Quốc cũng có quan hệ gắn bó với Myanmar, Bangladesh, Ấn Độ nhằm
có đường mở ra Ấn Độ Dương. Về quân sự, Trung Quốc là nước đề xuất và hiện nắm quyền chủ đạo tổ
chức SCO nhằm tạo ra chỗ dựa chiến lược ở phía sau lưng.
Trong quan hệ Mỹ - Trung Quốc, cần phải thấy rằng Mỹ luôn tìm cách kiềm chế Trung Quốc,
ngăn cản Trung Quốc nắm quyền chủ đạo trong khu vực. Trong chiến lược Đông Á - Thái Bình Dương
công bố tháng 2/1995, Mỹ khẳng định lợi ích của Mỹ là duy trì hòa bình và ổn định trong khu vực,
không để xảy ra chiến tranh ở eo biển Đài Loan, duy trì tự do giao thông tàu thuyền trong khu vực và
lôi kéo Trung Quốc vào các sinh hoạt quốc tế để hạn chế Trung Quốc phổ biến vũ khí hạt nhân. Mỹ
ngừng quá trình rút lực lượng và cam kết duy trì 100.000 quân ở khu vực và gắn việc này với chủ
trương ngăn chặn sự xuất hiện một bá chủ khu vực, ám chỉ Trung Quốc. Chính phủ Mỹ luôn tìm cách
gây sức ép với Trung Quốc về những vấn đề chế độ chính trị, nhân quyền, dân chủ và tự do. Mỹ là một
chướng ngại vật lớn trì hoãn quá trình thống nhất Trung Quốc với Đài Loan. Ba sự kiện lớn chứng
minh vai trò chướng ngại vật của Mỹ: một là phản ứng của Mỹ năm 1996 khi Trung Quốc thị uy với
Đài Loan bằng một cuộc tập trận giả, hai là việc Mỹ tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan, ba là sách lược
mới của Mỹ về việc thành lập hệ thống phòng thủ tên lửa có thể bảo vệ cả Đài Loan và Nhật Bản.
Chính sách kiềm chế Trung Quốc của Mỹ bộc lộ mục tiêu chính trị rất rõ ràng của họ, nhất là ở phương
diện hạn chế tầm ảnh hưởng của Trung Quốc và bảo vệ các đồng minh của Mỹ ở khu vực này. Xét ở
mục tiêu tổng thể thì đó là lợi ích chính trị căn bản mà Mỹ nhằm tới ở khu vực Đông Bắc Á.
Vì lợi ích địa chiến lược toàn cầu, Mỹ xem trọng mối quan hệ chính trị chặt chẽ với Nhật Bản.
Một Nhật Bản mất phương hướng sẽ dẫn tới việc tái vũ trang hoặc thỏa hiệp riêng rẽ với Trung Quốc,
sẽ báo hiệu sự cáo chung vai trò của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương và sẽ không có sự xuất hiện một
tam giác ổn định ở khu vực bao gồm Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc. Điều này đến lượt nó sẽ ngăn
chặn sự hình thành một cân bằng chính trị do Mỹ điều hành trên khắp lục địa Âu - Á [5, tr.223].
Nhật Bản là đồng minh lâu đời, quan trọng hàng đầu của Mỹ tại Đông Bắc Á, là trụ cột trong
chính sách của Mỹ ở châu Á - Thái Bình Dương trong hơn nửa thế kỷ qua. Có thể nói rằng, quan hệ
Nhật - Mỹ là “quan hệ song phương đặc biệt có một không hai” được xây dựng trên nền tảng một liên
minh vững chắc từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Nó đã được thực tiễn phát triển của thế
giới đương đại kiểm nghiệm, đánh giá là mối quan hệ “chuyên nghiệp”, chặt chẽ, lâu dài, hợp tác toàn
diện về nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó nổi bật hàng đầu là hợp tác kinh tế và hợp tác an ninh. Đặc
biệt, hợp tác an ninh Nhật - Mỹ từ nhiều thập niên qua vẫn luôn luôn được cả hai bên cùng đề cao, coi
đó là trọng tâm chiến lược hợp tác phát triển song phương giữa hai nước.
Với việc ký kết Tuyên bố chung ngày 17/4/1996, thông qua Phương châm chỉ đạo an ninh mới
tháng 9/1997 và Tuyên bố chung về hợp tác an ninh trong tình hình mới ngày 20/2/2005, liên minh
Nhật - Mỹ đã được nâng lên một tầm cao mới của thời kỳ hậu Chiến tranh lạnh. Hai nước Nhật, Mỹ
đều coi việc tiếp tục tăng cường hợp tác an ninh chính trị và kể cả an ninh quốc phòng với nhau trong
thế kỷ XXI có tầm quan trọng đặc biệt đối với an ninh và phát triển kinh tế chung của cả khu vực Châu
Á - Thái Bình Dương nói chung và Đông Á, đặc biệt là Đông Bắc Á nói riêng. Việc xác định lại Hiệp
ước an ninh Mỹ - Nhật đã phản ánh yêu cầu chung của hai nước là kiềm chế sự lớn mạnh và thống nhất
của Trung Quốc, tạo áp lực đối với những diễn biến ở bán đảo Triều Tiên... Mỹ có lợi ích chiến lược
trong việc duy trì một môi trường an ninh ổn định ở khu vực này vì trước hết Mỹ cũng là một cường
quốc châu Á - Thái Bình Dương. Sự phồn vinh và phát triển của Mỹ ngày càng phụ thuộc vào các nền
kinh tế năng động nhất thế giới hiện đang tập trung ở Đông Á. Khi mà buôn bán với châu Á chiếm
40% tổng thương mại của Mỹ, thì việc bảo đảm sự tiếp tục phát triển thịnh vượng của các nền kinh tế
châu Á có ý nghĩa sống còn với Mỹ. Thắt chặt liên minh Mỹ - Nhật và qua đó tiếp tục duy trì sự sự
hiện diện quân sự của mình ở Đông Bắc Á nằm trong những tính toán về kinh tế lâu dài của Mỹ. Tuy
nhiên, ở đây không chỉ có những tính toán kinh tế. Những tính toán chiến lược của Mỹ cũng không
kém phần quan trọng khi Mỹ chủ trương mở rộng hợp tác an ninh Mỹ - Nhật. Quyết tâm giữ vai trò
chủ đạo trong các vấn đề ở khu vực và ngăn chặn sự nổi lên của một cường quốc có khả năng thách
thức vị trí lãnh đạo của Mỹ cũng là một trong những nguyên nhân chính trong việc Mỹ mở rộng phạm
vi hợp tác Mỹ - Nhật. Đối với Mỹ, Trung Quốc là một cường quốc đang nổi lên và có nguy cơ đe dọa
vai trò chủ đạo của Mỹ ở châu Á. Không những thế, Mỹ còn lo ngại về tương lai chưa rõ ràng của
Trung Quốc, cách thức Trung Quốc sẽ xử sự với Đài Loan trong tương lai. Sau sự kiện 11/9/2001,
cùng với việc tăng cường sự hiện diện quân sự ở một số nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình
Dương, Mỹ vẫn coi các căn cứ quân sự của mình đóng trên đất Nhật Bản là những mắt khâu chính yếu
và quan trọng nhất để triển khai chiến lược an ninh ở khu vực này. Vì vậy, rõ ràng Mỹ vẫn có những
lợi ích an ninh và kinh tế vô cùng to lớn trong việc tiếp tục duy trì sự hiện diện và thông qua đó là duy
trì ảnh hưởng của mình ở Đông Bắc Á. Đối với Nhật, có thể thấy 3 nguyên nhân chủ yếu đằng sau việc
tăng cường hợp tác phòng thủ với Mỹ, đó là dựa vào Mỹ để đảm bảo an ninh cho mình, mở rộng vai
trò chính trị và an ninh của mình trong khu vực và đây là phương cách đỡ tốn kém và hiệu quả nhất.
Nhưng hai nước cũng có những mục đích riêng. Mỹ muốn dựa vào Hiệp ước để đảm bảo vị trí chủ đạo
của mình ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương, đồng thời cảnh giới và kìm giữ sự vươn lên của Nhật
Bản. Trên thực tế, Mỹ đang lợi dụng Nhật Bản hơn là hợp tác bình đẳng với nước này. Nhật Bản vẫn bị
Mỹ coi là đồng minh đàn em, và không hiếm khi Mỹ qua mặt Nhật Bản trong các vấn đề quốc tế và
trong quan hệ với những nước lớn khác. Trong khi đó, Nhật Bản lại muốn nâng cao vị trí và ảnh hưởng
của mình, trở thành một cường quốc về chính trị, muốn bình đẳng và thoát khỏi sự lệ thuộc vào Mỹ để
trở thành một cực trọng yếu của thế giới.
Có thể khẳng định, cùng với sự phát triển của tình hình quốc tế và sự thay đổi trong nội bộ của
hai nước, mâu thuẫn Mỹ - Nhật có xu hướng gay gắt hơn. Mặc dù quan hệ giữa Mỹ với Nhật Bản là
quan hệ vừa hợp tác vừa xung đột, nhưng xét toàn cục thì hợp tác vẫn là chủ yếu do cùng ý thức hệ,
cũng như quan điểm giá trị và mục tiêu chiến lược chung. Vì thế, những mâu thuẫn về lợi ích giữa 2
trung tâm này tuy sẽ ngày càng gay gắt nhưng chỉ trong khuôn khổ nhất định, khó có thể trở thành
xung đột lớn, kể cả trong tương lai xa. “Quan hệ Nhật - Mỹ vẫn là quan hệ đồng minh bền chặt, gắn bó
với nhau về các lợi ích kinh tế, chính trị và an ninh, được phát triển trong một cơ chế an ninh song
phương rõ ràng trên cơ sở một Hiệp ước an ninh cụ thể đã được ký từ năm 1951. Hiện nay trong khu
vực Đông Bắc Á chưa có quan hệ song phương nào khác vượt khỏi tầm gắn bó của quan hệ đồng minh
Nhật - Mỹ” [55, tr.50].
Đông Nam Á cũng là một điểm ưu tiên của Mỹ trong chính sách đối ngoại với châu Á. Đông
Nam Á nằm trên những tuyến hàng hải quan trọng nối liền Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương, nối
Australia, New Zealand với các nước Đông Bắc Á.. Chỉ riêng eo biển Malacca dài 805 km - nối liền
Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương, đã là một tuyến đường hàng hải hết sức trọng yếu của thế giới.
Mỗi năm có khoảng 50 nghìn lượt tàu biển qua lại eo này, chuyên chở hơn 1/4 khối lượng hàng hóa
buôn bán trên thế giới. Hầu như toàn bộ số xăng dầu nhập khẩu của Nhật Bản và Trung Quốc đều đi
qua eo biển này. Đông Nam Á là địa bàn tranh chấp ảnh hưởng quan trọng giữa các cường quốc. Đông
Nam Á đã từng là chiến tuyến đối đầu Đông - Tây giữa các cường quốc thời Chiến tranh lạnh. Sau
Chiến tranh lạnh, về cơ bản Mỹ và Nga rút khỏi Đông Nam Á, để lại một “khoảng trống quyền lực”
hiện nay Nhật Bản và Trung Quốc đang tranh chấp ảnh hưởng. Chính quyền Clinton trong nhiệm kỳ
một đã coi nhẹ quan hệ và có va chạm với một số nước Đông Nam Á. Trong nhiệm kỳ hai, dù tình
hình có cải thiện, nhưng vẫn chưa đủ để phá bỏ quan niệm trong giới hoạch định chính sách Mỹ rằng
chính sách châu Á nghĩa là chính sách đối với Đông Bắc Á. Xét tổng thể, chính quyền Clinton không
có chính sách đối với Đông Nam Á. Cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 là một minh chứng rõ ràng.
Với quan niệm Đông Á cần phải là Đông Bắc Á, chính quyền Clinton hối thúc các nước Đông Nam Á
nên theo gương Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và Hồng Kông, áp dụng mô hình nhà nước phát triển,
trong đó nhấn mạnh khía cạnh tự do hóa tài chính. Hậu quả là các biện pháp “tự do” này đã gián tiếp
gây ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997. Phản ứng của chính quyền Clinton là khá chậm chạp,
hoàn toàn khác với chính sách cứu trợ nhanh chóng và hiệu quả dành cho Hàn Quốc sau đó. Trung
Quốc trên thực tế đã gây ấn tượng hơn với các nước Đông Nam Á bằng cam kết không phá giá đồng
Nhân dân tệ.
Trước sự kiện 11/9, chính quyền Bush không có động thái nào chứng tỏ thái độ đối với Đông
Nam Á sẽ thay đổi hoặc sẽ có những chính sách gây tác động lớn đến Đông Nam Á, trừ tuyên bố
“Trung Quốc là đối tác và đối thủ cạnh tranh chiến lược”.
Sau sự kiện 11/9, Mỹ quan tâm hơn đến địa bàn Đông Nam Á. Vì trên thực tế, Đông Nam Á là
quê hương của hơn 250 triệu người Hồi giáo, tập trung ở các nước Indonesia - đất nước có đông dân
Hồi giáo nhất trên thế giới, Malaysia, Brunei, Singapore, Philippines, Thái Lan và tại đây người ta đã
phát hiện ra những mối liên hệ giữa khủng bố bản địa với khủng bố quốc tế. Sau các vụ bắt giữ nhiều
kẻ bị tình nghi là gián điệp cho Al-Qaeda ở Singapore, Malaysia và Philippines, cuối tháng 1/2002,
chính quyền Bush đã gửi 660 quân Mỹ tới Philippines, triển khai họ ở vùng phía nam quần đảo này để
trợ giúp các chiến dịch giải cứu con tin và chống nổi loạn. Tháng 3/2002, Mỹ chính thức tuyên bố
Đông Nam Á trở thành “Chiến trường thứ hai” do Mỹ khởi xướng và đứng đầu. Dưới chiêu bài chống
khủng bố, Mỹ tăng cường quan hệ an ninh quân sự với một số nước Đông Nam Á như Philippines,
Malaysia, Indonesia, xem sự trở lại Đông Nam Á về quân sự là một phần quan trọng trong điều chỉnh
chiến lược toàn cầu sau sự kiện 11/9.
Tuy nhiên, Hồi giáo ở Đông Nam Á được đánh giá là có tư tưởng ôn hòa. Ở khu vực này không
có nguy cơ xuất hiện kiểu chủ nghĩa khủng bố do nhà nước bảo trợ chống lại những lợi ích của Mỹ. Sự
đa dạng sâu sắc về sắc tộc và tôn giáo của khu vực (cả ở trong việc thực hành Hồi giáo) đã chống lại sự
hình thành một địa vị bá quyền có khả năng áp đặt ý thức tôn giáo chính thống của bất cứ một nhóm
phái nào. Hơn nữa, tất cả các nước Đông Nam Á đều là những nước ít nhiều dân chủ. Sự bất đồng
chính kiến nhìn chung là được khoan thứ, khiến cho chủ nghĩa Hồi giáo cấp tiến trở nên thiếu hấp dẫn
như là một phương tiện truyền bá để chống đối Chính phủ (một vai trò mà nó đã nắm giữ dưới chế độ
hà khắc của Suharto ở Indonesia). Cuối cùng, người ta thấy chỉ duy nhất có các nhóm khủng bố ở khu
vực này có khả năng tổ chức các vụ tấn công quy mô lớn như JI và Abu Sayyaf và Kumpulan
Mujahideen Malaysia (KMM) và họ là những người thuộc tầng lớp trung lưu có học vấn cao. Thành
viên của họ là những người được hưởng lợi từ quá trình toàn cầu hóa chứ không phải là nạn nhân của
quá trình này, và các tổ chức này không có ý định thiết lập sự ủng hộ của đa số quần chúng đói nghèo.
Cả hai nhóm JI và KMM đều có ít thành viên và chỉ có những mối quan hệ giới hạn với các nhóm Hồi
giáo cực đoan có mạng lưới rộng. Do vậy hai tổ chức này vẫn là một thách thức trước hết đối với các
cơ quan thực thi pháp luật, chứ không phải là một thách thức đối với các cơ quan dân sự [80, tr.292].
Có thể nhận thấy, tăng cường sự có mặt quân sự của Mỹ ở Đông Nam Á không chỉ đơn thuần vì
mục tiêu hợp tác chống chủ nghĩa khủng bố, còn có những ý đồ to lớn hơn về cạnh tranh chiến lược
giữa các nước lớn, khống chế các đường giao thông quan trọng ở khu vực biển Đông và lợi ích dầu lửa.
Mỹ đã sử dụng Diễn đàn an ninh khu vực Đông Nam Á (ARF) để ngăn chặn Trung Quốc tự do bành
trướng xuống vùng Đông Nam Á: vùng này có vai trò quan trọng trong chiến lược châu Á - Thái Bình
Dương của Mỹ và cũng là hướng bung ra của Trung Quốc; nếu kiểm soát được biển Đông và biển Nam
Hải, Trung Quốc sẽ khống chế được cả các hải lộ quan trọng nối liền Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương lẫn một khu vực có nhiều mỏ dầu khí với trữ lượng được ước tính là tương đương với lượng
dầu vịnh Ba Tư. Mỹ xem ASEAN là một mắt xích quan trọng trong chiến lược kiềm chế sự trỗi dậy
của Trung Quốc. Mỹ tiếp tục sử dụng các căn cứ hải và không quân Mỹ tại các đảo Singapore,
Malaysia, Indonesia, Brunei và Philippines trên biển Nam Hải cùng với việc ký kết liên minh quân sự
với Nhật Bản cũng như tiếp tục yểm trợ quân sự cho Đài Loan. Mỹ cũng đã đổ vốn và kỹ thuật khai
thác dầu vào các nước Trung Á giáp biên giới Trung Quốc như Mông Cổ, Tajikistan, Kazakhstan và
Kyrgystan để bảo vệ khu vực kỹ nghệ này, đã giúp huấn luyện quân sự cho quân đội các nước này và
thiết lập một mạng lưới an ninh bao bọc miền bắc Trung Quốc. Thêm vào đó, Tổng thống W. Bush còn
gia tăng quan hệ đồng minh với Ấn Độ và Pakistan.... tất cả đều nằm trong trong chiến lược của Mỹ
nhằm ngăn cản Trung Quốc thực hiện chiến lược bành trướng của họ.
Ấn Độ và Pakistan nằm ở vùng Nam Á, giáp với Trung Quốc. Trong bối cảnh Trung Đông và
Trung Á có nhiều biến động, Ấn Độ với vai trò nổi bật ở Nam Á đã trở thành mối quan tâm mới của
các nhà hoạch định chiến lược Mỹ, mặc dù ở Nam Á, Mỹ vẫn coi trọng Pakistan hơn Ấn Độ. Tháng
2/2006, Tổng thống Mỹ G.Bush thực hiện chuyến công du Nam Á đầu tiên với mục tiêu ký hiệp ước
hạt nhân với Ấn Độ nhằm thỏa thuận chia sẻ công nghệ hạt nhân dân sự với Ấn Độ và hối thúc
Pakistan tăng cường thêm lực lượng để truy bắt trùm khủng bố Bin Laden và phó tướng Al-Zawahiri
được cho là lẩn trốn ở biên giới tây bắc nước này. Tổng thống Bush còn muốn khuyến khích hai nhà
lãnh đạo Ấn Độ và Pakistan giải quyết tranh chấp Kashmir - nguyên nhân gây ra 2 trong số 3 cuộc
chiến tranh giữa hai nước. Trong chuyến công du này, Tổng thống Bush khẳng định Mỹ và Ấn Độ “đã
xích lại gần nhau hơn bao giờ hết và đối tác này có sức mạnh thay đổi cả thế giới”. Câu nói này được
hiểu rằng đó là dấu hiệu xác nhận chính sách của chính quyền Bush đối với New Dehli rằng Mỹ sẽ
giúp Ấn Độ nổi lên thành cường quốc toàn cầu trong thế kỷ XXI. Kết quả lớn nhất của chuyến thăm
này là hai bên đã đạt được hiệp định về hạt nhân dân sự. Theo khuôn khổ của hiệp định, Mỹ sẽ cung
cấp cho Ấn Độ nhiên liệu và công nghệ hạt nhân của Mỹ mặc dù Ấn Độ vẫn chưa ký hiệp ước cấm thử
hạt nhân toàn diện (NPT) và chỉ phải đặt 14 trong số 22 lò phản ứng hạt nhân dưới sự giám sát của
quốc tế. Động cơ của Mỹ đứng đằng sau hiệp định này nằm trong chiến lược thuyết phục Ấn Độ trở
thành một đồng minh của Mỹ tại Nam Á. Mỹ đánh giá cao vai trò của Ấn Độ. Ấn Độ là một nước dân
chủ như Tây phương, lại nói cùng ngôn ngữ, là một cường quốc dân số không kém gì Trung Quốc. Ấn
Độ cũng là nước phi Hồi giáo nằm giữa vòng cung Hồi giáo trải dài từ Trung Đông sang Nam Á. Ấn
Độ hiện là một cường quốc kinh tế mới nổi của thế giới, một thị trường khổng lồ, và là một cường
quốc quân sự tương lai. Vì vậy, Washington cho rằng New Delhi sẽ trở thành một đối trọng của Trung
Quốc ở phía nam, một “công cụ hữu hiệu” giúp Mỹ phát huy trò chơi cân bằng trong khu vực. Tháng
12/2006, Quốc hội Mỹ đã thông qua luật cho phép Mỹ xuất khẩu công nghệ hạt nhân dân sự sang Ấn
Độ, các công ty Mỹ được phép bán nhiên liệu, xây dựng các lò phản ứng hạt nhân và đầu tư vào lĩnh
vực này tại quốc gia Nam Á, kết thúc những cô lập ngoại giao kể từ khi nước này tiến hành các vụ thử
hạt nhân năm 1974 và 1998. “Có thể thấy, Mỹ đẩy mạnh quan hệ với Ấn Độ là nhằm mục đích tăng
cường vai trò của họ ở khu vực Nam Á, từ đó bảo đảm ảnh hưởng và khả năng khống chế lục địa Á -
Âu” [7, tr.26].
Mỹ cũng tăng cường quan hệ với Pakistan. Nước Cộng hòa Hồi giáo Pakistan có 165 triệu dân,
phân chia theo các nhóm ngôn ngữ và bộ tộc, thống nhất bởi quân đội và đạo Hồi. Pakistan và các lãnh
đạo quân đội là một trong những đồng minh chủ chốt của Mỹ, đã ủng hộ cuộc thánh chiến ở
Afghanistan chống lại Liên Xô sau khi Moscow chiếm đóng đất nước này. Trong những năm 1990,
quan hệ giữa Islamabad và Washington trở nên căng thẳng sau khi Mỹ áp đặt các lệnh cấm vận lên
Pakistan vì theo đuổi vũ khí hạt nhân. Chính phủ Pakistan quay sang ủng hộ chế độ Taliban ở Kabul
cho đến ngày 11/9/2001. Sau thảm kịch 11/9 tại Mỹ, Pakistan trước áp lực của Mỹ phải cắt đứt quan hệ
với Taliban và trở thành đồng minh số 1 của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng bố. Đáp lại, Mỹ bãi bỏ
lệnh cấm vận áp đặt khi Pakistan thử bom nguyên tử năm 1998, đồng thời giảm nợ và giúp Chính phủ
Musharraf xây dựng kinh tế. Tuy nhiên trong vấn đề chống khủng bố, chính quyền Pakistan và Mỹ
mâu thuẫn cơ bản về 2 điểm. Thứ nhất là nỗ lực chống khủng bố của chính quyền Pakistan và thứ hai
là tính xác thực và hiệu quả của công tác trao đổi thông tin tình báo giữa hai nước. Trong thời gian qua,
mối quan hệ đồng minh Mỹ - Pakistan dần ngả màu khi chính giới Mỹ công khai chỉ trích cơ quan tình
báo Pakistan bảo trợ cho lực lượng Taliban ở Afghanistan và thái độ làm ngơ của Chính quyền
Islamabad. Trong khi đó, Quốc hội Mỹ lại thông qua đạo luật về hợp tác hạt nhân với Ấn Độ, điều mà
Pakistan không bao giờ mong muốn. Pakistan cũng đã đẩy Mỹ vào tình thế “tiến thoái lưỡng nan” vì
cuộc khủng hoảng chính trị cuối năm 2007. Pakistan lâm vào thời kỳ chính trị rối bời và bị đe dọa bởi
cả Al-Qaeda, Taliban và nguy cơ phổ biến vũ khí hạt nhân. Đó đều là những vấn đề hóc búa đối với
chính quyền Bush từ mấy năm nay. Mục tiêu “chống khủng bố” và ngăn chặn sự phổ biến vũ khí hạt
nhân luôn luôn là những nội dung ưu tiên trong chính sách đối ngoại của chính quyền Bush. Nhưng
Pakistan lại hội tụ cả các yếu tố đó và có nguy cơ phá hỏng “cuộc chơi” của người Mỹ trên bàn cờ
chính trị và an ninh quốc tế. Tháng 2/2008, Bush tuyên bố “Pakistan là một đồng minh quan trọng”,
ông hy vọng thất bại của Đảng ủng hộ Tổng thống Pakistan Pervez Musharraf trong cuộc bầu cử quốc
hội sẽ không chấm dứt sự hợp tác giữa quốc gia Hồi giáo này với Mỹ trong cuộc chiến chống lại các
phần tử cực đoan. Điều này thể hiện sự lo lắng của Mỹ về quan hệ đối tác chiến lược của nước này với
Pakistan, đồng minh chủ chốt trong cuộc chiến chống khủng bố, khi quyền lực của Tổng thống
Pakistan Pervez Musharraf bị lung lay do cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong 8 năm cầm quyền. Vừa
hợp tác vừa dè chừng lẫn nhau, có thể kết luận như vậy về mối quan hệ giữa Pakistan với Mỹ hiện nay.
Trong chính sách đối ngoại của Mỹ ở châu Á, Trung Đông là điểm nóng quan trọng vì tầm quan
trọng chiến lược về nhiều mặt: địa lý, quân sự, chính trị, an ninh, kinh tế. Khu vực Trung Đông nằm ở
gần trung tâm Đông bán cầu, là “cửa ô” ngã ba của ba châu: châu Âu, châu Á và châu Phi và lại được
bao bọc bởi năm biển: Hắc Hải, Địa Trung Hải, Lý Hải, Hồng Hải và Arabia. Tại khu vực này còn có
những eo biển quan trọng, nơi có những tuyến đường yết hầu nối liền Địa Trung Hải với Hồng Hải,
Đại Tây Dương với Ấn Độ Dương, Đông với Tây, châu Âu với châu Á, trong đó có kênh đào Suez -
tuyến giao thông nối liền Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương với Thái Bình Dương với lượng hàng vận
chuyển chiếm tới 22% tổng số lượng hàng vận chuyển đường biển trên thế giới, 40% lượng tàu vận
chuyển dầu trên thế giới và gần 80% lượng tàu vận chuyển hàng hoá của châu Á. Eo biển Hormuz
không chỉ là tuyến đường ra biển duy nhất của các nước vùng Vịnh mà còn là tuyến đường yết hầu
chuyên chở dầu mỏ xuất khẩu của các nước ở Trung Đông. Trung Đông còn được mệnh danh là “kho
báu dầu mỏ của thế giới”, nơi đây chiếm tới gần 70% trữ lượng dầu mỏ đã được thăm dò của thế giới,
65% lượng tiêu thụ dầu mỏ trên thế giới. Một đặc điểm nổi bật của dầu hỏa tại Trung Đông là chi phí
sản xuất rất thấp vì đa số các mỏ dầu đều nằm trên đất liền, tương đối nông dưới lòng đất và trên
những vùng sa mạc hoang vắng.
Thời kỳ Chiến tranh lạnh, hai siêu cường Xô - Mỹ đã cạnh tranh quyết liệt ở đây. Sau khi Liên
Xô tan rã, Mỹ tìm mọi cách để khống chế toàn bộ khu vực này theo khuôn khổ “hòa bình kiểu Mỹ”
(PAX AMERICANA) và xác lập quyền lực dầu lửa để đáp ứng nhu cầu của Mỹ cũng như khống chế
các đối thủ cạnh tranh khác, đặc biệt là Trung Quốc.
Thực tiễn cho thấy Trung Đông luôn chiếm một vị trí quan trọng trong các tính toán lợi ích toàn
cầu của Mỹ. Ở đây Mỹ đặc biệt quan tâm đến an ninh. Nằm giữa châu Á, châu Âu và châu Phi, các căn
cứ quân sự của Mỹ trong khu vực như ở Saudi Arabia, Bahrain và Oman giúp Mỹ kiểm soát toàn bộ
hoạt động hàng hải tại vùng vịnh Persic, nơi phần lớn lượng dầu mỏ của Trung Đông xuất khẩu ra thế
giới phải đi qua. Đồng thời lực lượng quân sự của Mỹ có thể nhanh chóng đối phó được với những mối
đe dọa đến lợi ích của Mỹ có thể đến từ Ấn Độ, Trung Quốc cho tới vùng Trung Á hay Liên bang Nga,
và từ dải đất miền Bắc châu Phi. Cũng từ Trung Đông, Mỹ có khả năng can thiệp vào bất kỳ cuộc xung
đột nào ở châu Âu.
Về kinh tế, nguồn năng lượng số một đối với nền kinh tế Mỹ cũng bắt nguồn từ những giếng
dầu ở Trung Đông. Ở một mức độ nhất định, dầu lửa Trung Đông có ảnh hưởng đến an ninh kinh tế
Mỹ. Trong năm 2002, riêng bốn nước Trung Đông là Saudi Arabia, Iraq, Kuwait và Các tiểu vương
quốc Arabia thống nhất đã cung cấp cho Mỹ 805 triệu thùng dầu, chiếm 24,13% tổng lượng dầu nhập
khẩu của Mỹ, trong đó lượng dầu của Saudi Arabia là 544 triệu thùng. Nếu có thể thao túng hoặc kiểm
soát được nguồn dầu mỏ ở khu vực, Mỹ sẽ có thể gây được áp lực rất mạnh không chỉ đối với các nước
Hồi giáo tại đây mà còn đối với nhiều cường quốc và khu vực khác như Nhật Bản, Trung Quốc, Tây
Âu, v.v… Các nước này hàng năm cũng phải nhập khẩu một khối lượng lớn dầu mỏ của Trung Đông.
Trao đổi thương mại với Trung Đông tuy không chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thương mại của Mỹ
nhưng tính trên bình quân đầu người thì tương đối lớn. Năm 2003, tổng thương mại Mỹ - Trung Đông
đạt gần 61 tỉ đô la. Ngoài ra, Trung Đông là nơi Mỹ có một đồng minh thân cận - Israel. Mặc dù Israel
là một quốc gia nhỏ bé nhưng lại là tiền phương vững chắc giúp Mỹ đối phó với cả thế giới Hồi giáo,
đồng thời có ảnh hưởng rất lớn đến chính trị nội bộ Mỹ. Bảo vệ cho Israel từ lâu đã trở thành một cam
kết đối với Mỹ. Người ta thường ví Israel như là bang thứ 51 của nước Mỹ. Điều này cho thấy mức độ
quan trọng của quốc gia này trong bất kỳ chính sách Trung Đông nào của Mỹ.
“Dưới thời Tổng thống Bill Clinton, Mỹ thực thi chính sách “dính líu” và cam kết mạnh mẽ đối
với Trung Đông. Chính quyền Mỹ tìm cách thúc đẩy hòa giải giữa thế giới Arabia và Israel, nhất là
giữa Palestine và Israel nhằm giải quyết cuộc xung đột kéo dài nhiều thập kỷ, coi đây là bước quan
trọng trong việc mang lại hòa bình và ổn định cho khu vực và là một ưu tiên trong chính sách đối ngoại
của Mỹ” [79, tr.40]. Trong những tháng đầu lên nắm quyền, Chính phủ của Tổng thống Bush không
muốn dính líu sâu vào khu vực này, nhưng sự kiện 11/9/2001 đã làm chính quyền Mỹ phải nhìn nhận
một cách toàn diện hơn các vấn đề của Trung Đông. Việc chống khủng bố được đặt lên hàng đầu trong
chiến lược an ninh quốc gia của Mỹ và Trung Đông chính là mặt trận số một. Khu vực Trung Đông lại
tiếp giáp với các nước Trung Á thuộc Liên Xô trước đây, nơi có nhiều cơ sở hạt nhân vốn không được
bảo vệ và quản lý nghiêm ngặt. Sự kiện 11/9 cho thấy nếu những kẻ khủng bố sử dụng vũ khí hủy diệt
hàng loạt để tấn công nước Mỹ thì hậu quả khó có thể lường trước được. Đây là thách thức nghiêm
trọng đối với an ninh của nước Mỹ.
Năm 2004, Tổng thống G.W.Bush đưa ra Chiến lược Đại Trung Đông, nhằm vào ba chức năng
chính gồm: (1) thống nhất chỉ huy chiến lược cho một vùng địa chính trị rộng lớn (chống khủng bố, áp
đặt sự hiện diện quân sự Mỹ trên vành đai Tây Á của lục địa Á-Âu); (2) đơn giản hóa các vấn đề trong
khu vực (tập trung vào khủng bố, nguy cơ phổ biến vũ khí hủy diệt, chế độ độc tài nhằm làm quên đi
các vấn đề nổi cộm trong khu vực chiếm đóng Iraq hay sự dính líu của chính Mỹ đối với các chính thể
quân chủ…); (3) làm mờ nhạt đi các vấn đề Iraq và Palestine - Israel, vấn đề cốt lõi và dai dẳng nhất
liên quan đến hòa bình và ổn định của khu vực.
Tuy nhiên, năm 2007, khu vực Trung Đông tiếp tục là một “thùng thuốc súng” với hàng loạt
“vụ nổ” gây chấn động không chỉ ở khu vực mà ảnh hưởng đến toàn thế giới. Tranh chấp lãnh thổ
Israel - Palestine, cuộc chiến chống khủng bố và xung đột sắc tộc không có hồi kết tại Iraq, vấn đề hạt
nhân Iran, cuộc khủng hoảng Chính phủ tại Lebanon... đang tạo thành một hành lang khủng hoảng đe
dọa dẫn tới sự suy sụp của khu vực.
Trước tình hình đó, tổng thống Bush đã tiến hành hai chuyến công du Trung Đông tháng 1/2008
và tháng 5/2008, nhằm khẳng định cam kết của nước Mỹ đảm bảo an ninh cho các nước đồng minh ở
Trung Đông, đặc biệt là các quốc gia vùng Vịnh, và thắt chặt quan hệ hợp tác giữa Mỹ với các nước
trong cuộc chiến chống chủ nghĩa khủng bố, tìm kiếm hòa bình và sự thịnh vượng trong khu vực.
Người đứng đầu Nhà Trắng cũng hy vọng các bên đạt được một thỏa thuận về những nguyên tắc cơ
bản cho tiến trình bình thường hóa quan hệ Israel - Palestine vào cuối năm 2008, trước khi ông kết thúc
nhiệm kỳ Tổng thống thứ hai. Những mục tiêu khác, được đề cập ở mức độ thấp hơn, là vận động sự
ủng hộ của các nước Arabia cho các Chính phủ thân Mỹ ở Iraq, Afghanistan và Lebanon, là tìm kiếm
một tiếng nói chung, một cam kết giữa Mỹ và các nước đồng minh cùng giải quyết các thách thức và
một mặt trận thống nhất đối chọi với Iran. Giới quan sát cho rằng chuyến thăm này của Tổng thống
Bush thực sự là một hoạt động ngoại giao nhằm thúc đẩy tiến trình hòa bình mà lâu nay ông vẫn né
tránh. Nó phản ánh những chuyển biến trong chính sách đối ngoại của Nhà Trắng với Trung Đông, từ
chỗ né tránh can dự trực tiếp tới chỗ chủ động đứng ra dẫn dắt tiến trình này. Mỹ muốn củng cố vị thế
của mình trong khu vực, tái khẳng định các chính sách của Washington tại Trung Đông đối chọi với
ảnh hưởng ngày càng lớn của Iran. Song, đây cũng là một động thái của ông chủ Nhà Trắng nhằm làm
mờ đi những thất bại của Mỹ trong tiến trình kiến tạo hòa bình ở “chảo lửa” Trung Đông vốn lâu nay
chìm trong bạo lực, máu và nước mắt này. Tuy nhiên, triển vọng sớm đạt được một thỏa thuận hòa
bình giữa nhà nước Do Thái và chính quyền Palestine vẫn còn khá mơ hồ và khó thành hiện thực khi
mà giữa các bên liên quan còn quá nhiều bất đồng mang tính nền tảng trong những vấn đề then chốt.
Vấn đề các đường biên giới của nhà nước Palestine, quy chế của Jesusalem và quyền của người tị nạn
Palestine và các thế hệ con cháu không chỉ là những vấn đề cản trở Tổng thống Bush mà còn là những
nguyên nhân từng khiến cho các nỗ lực kiến tạo hòa bình trước đây thất bại.
Trung Á cũng chiếm một phần quan trọng trong mối quân tâm địa-chính trị của Mỹ ở châu Á.
Từ thế kỷ XIX, do vị trí địa chiến lược, là cửa ngõ sang các nước Trung Đông, Trung Á đã là trung
tâm của “cuộc chơi lớn” mà Anh phát động nhằm ngăn cản Nga dùng Trung Á làm bàn đạp thâm nhập
Afghanistan và Ấn Độ. Vai trò của Trung Á tạm thời bị lu mờ trong thời kỳ Chiến tranh lạnh do khu
vực này được hiểu nằm trong vòng ảnh hưởng của Liên Xô. Sau khi Liên Xô sụp đổ, dẫn đến sự độc
lập của nhiều nước Trung Á và đặc biệt sau sự kiện 11/9/2001, khu vực Trung Á được các nước lớn,
nhất là Mỹ, Tây Âu, Nga và Trung Quốc, chú ý về cả lý do an ninh, kinh tế và địa chiến lược. Về mặt
địa lý, nơi đây là cửa ngõ đi vào vùng chiến lược dầu khí xung quanh vùng biển Caspi, rốn dầu lớn thứ
hai thế giới, sau Trung Đông. Về kinh tế, Trung Á là nơi có trữ lượng dầu khí và khoáng sản lớn. Giá
trị của Trung Á càng được nhân lên trong cơn sốt dầu khí hiện nay. Tại Trung Á và biển Caspi hiện có
những trữ lượng dầu mỏ và khí đốt chưa được khai thác ước tính lên tới khoảng 200 tỉ thùng. Trữ
lượng dầu khí và nguồn tài nguyên ở đây cũng trở nên hấp dẫn đối với Mỹ và một số nước phương
Tây. Riêng Kazakhstan được dự đoán sẽ là một trong 5 nước sản xuất dầu lớn nhất thế giới vào năm
2010. Về an ninh, tôn giáo chính ở khu vực này là Hồi giáo và những năm gần đây, chủ nghĩa Hồi giáo
cực đoan phát triển, dẫn tới nguy cơ khủng bố cao, đặc biệt khu vực này lại là cửa ngõ sang Trung
Đông. Đã có rất nhiều người Hồi giáo cực đoan tại khu vực Trung Á sang Afghanistan tham gia các
lực lượng khủng bố tại đây. Về kinh tế, Trung Á cũng là nơi có trữ lượng dầu khí và khoáng sản lớn.
Giá trị của Trung Á càng được nhân lên trong cơn sốt dầu khí hiện nay. Cuộc chiến ở Afghanistan
chống lại Taliban và Al Qaeda đã chứng minh rằng Trung Á là một trong những khu vực quan trọng nhất
về địa-chính trị của thời đại chúng ta. Riêng đối với Nga và Trung Quốc, khu vực này là vành đai an
ninh hết sức quan trọng.
Chiến lược xâm nhập vùng Trung Á của Mỹ bắt đầu thực hiện từ thập niên 90 sau khi Liên Xô
tan rã, Tổng thống Mỹ B.Clinton đã đánh giá các nước dầu lửa vùng biển Caspi như tiềm năng lý
tưởng có thể thay thế nguồn dầu lửa từ Trung Đông. Từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX, Mỹ đã thúc
đẩy 5 nước cộng hòa Kazakhstan, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Tajikistan và Turkmenistan thiết lập một
khu vực độc lập và Tổng thống Mỹ B.Clinton lúc đó cũng muốn đẩy mạnh quan hệ hợp tác với các
quốc gia này thông qua chương trình “Đối tác vì hòa bình” của NATO. Năm 1997, Mỹ đã khuyến
khích các nước cộng hòa Trung Á thành lập một tổ chức khu vực có tên GUAM độc lập với Nga bao
gồm Ukraine, Grudia, Uzbekistan, Azerbaijan và Moldova. Một nhà bình luận quân sự Mỹ cho rằng:
“Sự kiện 11/9” khiến cho Mỹ chỉ trong một đêm thực hiện được giấc mộng ôm ấp hàng mấy thế kỷ là
tiến vào khu vực Trung Á mà từ trước tới nay toàn thế giới khó tiếp cận nhất và khó hiểu nhất, Mỹ
muốn vào nhất mà vẫn chưa vào được”. Từ trước đến nay các nhà chiến lược Mỹ đều coi trọng Trung
Á vì có thể biến nó thành một kết cấu mạng lưới giao nhau và từ những cứ điểm nhỏ có thể kiềm chế
Nga ở phía Bắc, kiểm soát được Ấn Độ ở phía Nam, Trung Quốc ở phía Đông và châu Âu ở phía Tây.
Trung Á đặc biệt quan trọng với Nga vì đây là một trong những khu vực hiếm hoi còn lại trên
thế giới mà Nga còn khẳng định và duy trì được vị thế áp đảo của mình. Trong tình hình đó, Nga
không thể để Mỹ tiếp tục thu hẹp không gian chính trị của mình. Hành động đó của Mỹ cũng thách
thức vai trò ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực này. Bản thân nhiều nước Trung Á cũng thấy rõ an
ninh, ổn định của họ vẫn không được đảm bảo, mà không cần có sự can dự của Mỹ. Bởi vậy, sự ra đời
và phát triển của Tổ chức Hợp tác Thượng Hải trở thành một đòi hỏi tất yếu, ngăn chặn mưu toan tranh
giành ảnh hưởng của Mỹ tại khu vực này. Tổ chức Hợp tác Thượng Hải (SCO), tiền thân là Nhóm
Thượng Hải, mới ra đời vào ngày 15/6/2001, nhưng đã trở thành một trong những tổ chức quan trọng.
Quan trọng bởi, trong 6 nước thành viên của SCO, có tới 4 nước, gồm Kazakhanstan, Kyrgyzstan,
Uzbekistan và Tajikastan thuộc khu vực Trung Á. Hai nước còn lại là Trung Quốc và Nga, cũng đều có
biên giới giáp với khu vực này. Sức mạnh của tổ chức này trên tất cả các lĩnh vực chính trị, quân sự và
kinh tế đang trở thành một yếu tố quan trọng và thách thức chính sách của Mỹ tại khu vực Trung Á.
Đặc biệt, Hội nghị Thượng đỉnh lần thứ 7 của SCO tại Bishkek (Kyrgyzstan) năm 2007 đánh dấu sự
đột phá mạnh mẽ của tổ chức này với mục tiêu tăng cường hợp tác về an ninh và kinh tế giữa các nước
thành viên. Ngay trước thềm hội nghị, tất cả các nước thành viên đã tham gia cuộc tập trận quân sự
chung lớn nhất tại Nga và Trung Quốc mang tên “Sứ mệnh hòa bình 2007”. Trong tương lai, với sự
vươn lên mạnh mẽ của Nga, Trung Quốc, và với việc Pakistan, Ấn Độ, Mông Cổ, Iran chính thức gia
nhập SCO, tổ chức này chắc chắn sẽ trở thành một tổ chức an ninh, kinh tế lớn, gắn kết - một yếu tố
quan trọng làm thay đổi cục diện châu Á và tác động đến bản đồ chính trị thế giới trong tương lai.
Hiện nay, Nga, Trung Quốc, Mỹ là các đối thủ chính tranh chấp ảnh hưởng ở Trung Á, trong đó
mục tiêu cạnh tranh lớn nhất là các nguồn lợi năng lượng thiên nhiên, Kazakhstan có các mỏ dầu ước
tính trữ lượng đến 26 tỉ thùng và Turkmenistan thì rất dồi dào về khí gas tự nhiên. Trung Quốc đang
trong tình trạng khan hiếm năng lượng để duy trì nền kinh tế đang tăng trưởng. Mỹ tìm kiếm cơ hội
giảm sự phù thuộc vào giếng dầu Trung Đông. Mỹ đã xây dựng xong đường ống dẫn dầu (dài
2.700km, trị giá 3,6 tỉ USD) đi từ Baku (thủ đô Azerbaijan)) xuyên qua Grudia và Thổ Nhĩ Kỳ đến
cảng Seyhan ở Địa Trung Hải nhằm bảo đảm nguồn năng lượng khổng lồ đáng tin cậy cho Mỹ ở Trung
Á. Tuy nhiên, Trung Á vẫn là địa bàn địa chiến lược năng lượng của Nga. Trong cuộc chạy đua quyết
liệt ở Trung Á, ưu thế thuộc về Nga với thành công trong việc có được quyền khai thác các mỏ dầu và
khí đốt và thuyết phục các đối tác về tính khả thi của các dự án vận chuyển khí đốt từ Trung Á qua Nga
tới các thị trường ở phần tây của châu Âu. Nga đẩy mạnh việc kiểm soát chiến lược các đường dẫn
nhiên liệu với các dự án Blue Stream xây dựng đường ống đi qua biển Đen, dự án Nord Stream xuyên
qua biển Baltic nối hai thành phố Wybord của Nga và Greifswald của Đức, dự án South Stream xây
dựng một đường ống xuyên qua biển Đen nối Beregovaia của Nga với một điểm đến trên lãnh thổ
Bulgaria …
2.2.3. Châu Phi
Châu Phi là châu lục lớn thứ hai trên thế giới về dân số, sau châu Á và lớn thứ ba trên thế giới,
theo diện tích sau châu Á và châu Mỹ. Từ sau Chiến tranh lạnh đến nay, châu Phi đã có nhiều biến
chuyển quan trọng về chính trị và kinh tế. Một mặt những thành quả trên toàn cầu đã làm giảm bớt khó
khăn cho một số quốc gia châu Phi, đặc biệt là những nước có xung đột hoặc khủng hoảng xã hội, mặt
khác các lãnh tụ châu Phi đã và đang đi dần đến quan điểm rõ ràng về cải cách kinh tế và mở rộng cửa
với thế giới bên ngoài. Những thành tựu mà các nước châu Phi giành được sau Chiến tranh lạnh đã làm
cho người ta thay đổi quan niệm về lục địa này, nhất là các nước lớn như Mỹ và Trung Quốc. Rõ ràng
mọi người bắt đầu nhận thấy Châu Phi hoàn toàn không phải là trường hợp tuyệt vọng như lâu nay vẫn
tưởng, tuy nhiên châu Phi vẫn còn nhiều vấn đề nghiêm trọng cần được giải quyết. Với số dân 840
triệu người, giàu có về tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là dầu mỏ và các khoáng sản chiến lược với trữ
lượng lớn và mới khai thác, nhưng đến nay châu lục này vẫn có tỷ lệ người nghèo cao nhất thế giới.
Tình trạng bạo lực và các cuộc xung đột triền miên diễn ra tại nhiều nước châu Phi đã tàn phá nền dân
chủ và nền kinh tế tại các nước này. Mỗi năm châu lục Đen chi phí vào việc mua sắm vũ khí lên hơn 7
tỷ USD hàng năm và số tiền đó lấy từ việc khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên của các nước này.
Sau thất bại ở Somalie, Mỹ tránh can dự vào các cuộc xung đột ở Châu Phi. Somalie có vị trí
chiến lược quan trọng, nằm trên hành lang biển Arabia giữa Trung Đông và châu Phi. Đặc biệt,
Somalie có nguồn tài nguyên dầu khí mà phương Tây phải để mắt tới. Kể từ khi chế độ độc tài
Mohamed Siad Barre (đã lãnh đạo Somalie từ năm 1969) sụp đổ năm 1991, Somalie không có một
chính quyền thật sự nào, và nạn đói, xung đột đã cướp đi sinh mạng của khoảng 300-500 ngàn người.
Nhiều công ty dầu khí của Mỹ, như Conoco, Amoco, Chevron và Phillips đã bị buộc rời khỏi Somalie
sau sự sụp đổ của Siad Barre. Năm 1992, trước khả năng nửa triệu người Somalie có thể chết vì thiếu
lương thực, Liên hợp quốc đã đồng ý gởi lực lượng gìn giữ hòa bình và viện trợ nhân đạo đến bảo vệ
dân thường trước các cuộc xung đột giữa các nhóm vũ trang. Sự can thiệp của Liên hợp quốc bước đầu
đã đạt được một số kết quả đáng kể, tuy nhiên, tình hình lại ngày càng tồi tệ kể từ cuối năm 1992 khi
binh sĩ Mỹ trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc phát động chiến dịch mang tên “Khôi
phục hy vọng” truy lùng Farah Aidid, một trong những thủ lĩnh quyền lực nhất của lực lượng cát cứ.
Trong các cuộc đụng độ, lực lượng cát cứ của Farah Aidid đã sát hại 24 binh sĩ Pakistan và sau đó là
18 binh sĩ Mỹ, khiến Mỹ phải rút lực lượng gìn giữ hòa bình của mình về nước tháng 3/1995. Vì vậy,
những tính toán địa-chính trị của Mỹ là muốn can thiệp vào công việc nội bộ của Somalie, lập nên một
chính quyền thân Mỹ và có những lợi ích trong khai thác dầu mỏ ở đây đã không thành công.
Tránh can thiệp quân sự trực tiếp, Mỹ sử dụng chiêu bài “bảo vệ nhân quyền”, “dân chủ”, quyền
can thiệp nhân đạo, “chống khủng bố”, ra sức cổ vũ cải cách dân chủ, chế độ đa đảng, thúc ép cải cách
kinh tế theo mô hình thị trường nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự thâm nhập, tăng cường lợi ích
chính trị, kinh tế của Mỹ ở châu Phi, từng bước gạt ảnh hưởng của Pháp và Tây Âu, lôi kéo các nước
châu Phi theo quỹ đạo của Mỹ vì châu lục Đen, nơi sở hữu 1/4 các nguồn tài nguyên của thế giới, lại
chưa kịp phát triển, đang trở thành miếng mồi ngon cho các cường quốc xâu xé. Khi giá dầu ngày càng
vượt đỉnh, cuộc chiến vì nguồn tài nguyên không thể thiếu trong công cuộc phát triển này, ngày càng
trở nên sôi động, thậm chí khốc liệt hơn bao giờ hết. Anh tiếp tục thông qua khối Thịnh vượng chung
để thâm nhập vào châu Phi. Pháp cố gắng dùng “quan hệ phụ thuộc” thông qua tổ chức Francophonie
nhằm duy trì, củng cố không gian tiếng Pháp trước sự xâm lấn của tiếng Anh. Trong khi đó, Mỹ điều
chỉnh chính sách coi trọng khu vực châu Phi hơn trước, và thu được nhiều thành công. Từ ngày 22/3
đến ngày 2/4/1998, Tổng thống Mỹ B.Clinton đã thăm 6 nước châu Phi: Ghana, Rwanda, Uganda,
Nam Phi, Botswana, Sénégal. Cùng đi với B.Clinton có các Bộ trưởng Thương mại, Lao động, Giao
thông vận tải và hơn 700 nhà kinh doanh Mỹ. Trong chuyến đi thăm này, B.Clinton đã chủ trì cuộc họp
thượng đỉnh Trung - Đông Phi tại Uganda (25/3/1998), gồm Tổng thống các nước Uganda, Cộng hòa
Dân chủ Congo, Rwanda, Ethiopia, Tanzania, Kenya và Ngoại Trưởng Zimbabwe. Tại cuộc họp này,
B.Clinton nêu chính sách mới của Mỹ đối với châu Phi dựa trên quan hệ kinh tế, thương mại, dân chủ,
nhân quyền và chống họa diệt chủng. Mỹ công bố viện trợ cho Ghana 67 triệu USD, viện trợ cho
Rwanda 32 triệu USD, phát triển kinh tế và đền bù cho nạn nhân của nạn diệt chủng; lập Quỹ tài trợ
kinh tế 650 triệu USD cho châu Phi, đặc biệt là cho các nước đang cải cách kinh tế triệt để theo đường
lối của IMF; viện trợ 180 triệu USD cho phát triển giao thông, y tế. B.Clinton cũng tuyên bố phối hợp
với G-7 xóa nợ cho châu Phi 1,7 tỷ USD, trước mắt xóa nợ 30 triệu USD; đưa ra Sáng kiến ứng phó
khủng hoảng ở châu Phi (ACRI) nhằm huấn luyện cho từ 10.000 đến 20.000 lính châu Phi triển khai
nhanh trong trường hợp xảy ra khủng hoảng.
Chuyến công du sang châu Phi của Tổng thống B.Clinton đã đạt được mục đích mở rộng quan
hệ kinh tế, thương mại Mỹ - Châu Phi, tăng cường ảnh hưởng của Mỹ ở Châu Phi, thực hiện bành
trướng vào khu vực vốn là “vườn cấm” của các cường quốc như Pháp, Anh (Châu Âu được coi là đối
thủ cạnh tranh nặng ký nhất trong cuộc chiến tranh giành hòn ngọc đen là vì châu lục này chiếm vị trí
được coi như độc nhất đối với châu Phi nhờ đặc điểm địa lý và mối liên quan trong lịch sử), mở đầu
việc xóa bỏ khái niệm “khu vực ảnh hưởng” được hình thành từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, thúc
đẩy châu Phi phát triển theo chiều hướng toàn cầu hóa (nhằm giải quyết các vấn đề môi trường, bệnh
tật, xung đột, nạn khủng bố, nạn diệt chủng...); triển khai chiến lược “tìm lại châu Phi” của Mỹ, theo đó
Mỹ chuyển dần từ chính sách truyền thống là viện trợ trực tiếp sang coi trọng buôn bán, đầu tư. Mặc
khác, Mỹ khuyến khích châu Phi phát triển theo hướng dân chủ, ổn định, tự do hóa về kinh tế v.v...
nhằm tạo điều kiện cho giới thương mại, đầu tư Mỹ đi vào thị trường châu Phi mới mẻ và đầy tiềm
năng này.
Vụ tấn công khủng bố đẫm máu 11/9 vào New York và Washington càng làm Mỹ nhận thức rõ
châu lục xa xôi và còn ít lợi ích này hóa ra lại có những mối liên hệ gián tiếp mà Mỹ không thể bỏ qua.
Thời gian trôi đi chỉ làm cho Washington hiểu rõ thêm rằng, nghèo đói, bệnh tật và bất công vì bị đẩy
ra ngoài tiến trình phát triển chung của nhân loại là miếng đất mầu mỡ cho sự xuất hiện của chủ nghĩa
cực đoan, biến nhiều vùng châu Phi như Sudan, Somalie hay Nigeria - nước có 1/2 dân số theo đạo Hồi
thành địa bàn lý tưởng cho chủ nghĩa khủng bố. Thực tế thì chưa cần có vụ 11/9, nước Mỹ cũng đã
phải chịu tổn thất như trong các vụ đánh bom khủng bố vào đại sứ quán Mỹ ở Kenya và Tanzania.
Trong khi đó, chủ nghĩa đơn phương trong hành động, thể hiện qua việc xử lý các vấn đề toàn cầu,
đang làm cho hình ảnh nước Mỹ ở châu lục này trở nên xấu hơn. Chính vì thế mà trước khi chiến tranh
Iraq nổ ra, dù đưa ra cả “chiếc gậy và củ cà rốt”, Washington cũng không nhận được sự ủng hộ của các
nước châu Phi là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đối với dự thảo
nghị quyết Liên hợp quốc, mở đường cho Mỹ can thiệp quân sự vào Iraq.
Đối với Washington, khu vực này không chỉ đơn giản là mảnh đất mà Al-Qaeda có thể cố gắng
mở rộng hoạt động mà nó còn trở thành một nhà cung cấp năng lượng quan trọng của Mỹ. Châu Phi là
một địa bàn mà các công ty dầu mỏ lớn và lực lượng quân sự của Mỹ đang tăng cường hoạt động. Mỹ
đã nhập khẩu dầu mỏ từ khu vực này - chủ yếu từ Nigeria và Angola - nhiều ngang ngửa với Saudi
Arabia. Đáng nói, thị phần dầu mỏ châu Phi của Mỹ có thể sẽ tăng gấp đôi trong vòng 2 thập niên nữa
khi mà các công ty Mỹ ồ ạt khai thác trữ lượng dầu mỏ chất lượng cao ở lòng chảo Guinea. Tính riêng
năm 2002, các công ty Mỹ đầu tư khoảng 10 tỷ USD vào khu vực này. Tất nhiên, Tây Phi sẽ ngày càng
đóng vị trí quan trọng chiến lược trong khung chính sách an ninh quốc gia của Mỹ. Mỹ đã thấy rõ lợi
ích chiến lược về dầu mỏ ở châu Phi. Theo Bộ Năng lượng Mỹ, trong thời gian 2000 - 2007, nhập khẩu
dầu mỏ của Mỹ từ châu Phi tăng 65%, từ 1,6 triệu lên 2,7 triệu thùng/ngày; tỷ trọng dầu mỏ châu Phi
trong tổng số dầu mỏ nhập khẩu của Mỹ cũng tăng từ 14,5% năm 2000 lên 20% năm 2007. Xu hướng
trên còn tiếp tục tăng nhanh trong tương lai. Theo dự báo của Cục Tình báo quốc gia Mỹ, đến năm
2015 lượng dầu mỏ của châu Phi sẽ chiếm 25% tổng sản lượng nhập khẩu dầu của nước Mỹ và vượt
qua lượng nhập khẩu từ khu vực vùng Vịnh. Chính vì vậy, Mỹ rất coi trọng nguồn dầu mỏ và các loại
vật lực chiến lược khác của châu Phi, đồng thời xem châu Phi là một thị trường quan trọng nhất trong
thế kỷ XXI. Bộ trưởng Thương mại Mỹ William Daley nói: “Mỹ rất coi trọng quan hệ với châu Phi,
nhất là thương mại; Mỹ có thể mở ra một chương mới trong quan hệ với châu Phi”. Theo Ngân hàng
Mỹ, đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào châu Phi đã tăng gấp đôi trong giai đoạn 2000 - 2006, lên
315 tỷ USD. Như vậy, cuộc chiến toàn cầu mới - vừa với quân khủng bố Hồi giáo cực đoan, vừa giành
giật nguồn năng lượng - đã khiến các nhà chiến lược Mỹ phải làm lại danh sách ưu tiên. Với hai cuộc
chiến do người Mỹ lãnh đạo tại Afghanistan và Iraq, những đe dọa chiến tranh liên tục từ phía Iran và
thái độ không thiện cảm phổ cập trong thế giới Hồi giáo, người Mỹ quyết định không lệ thuộc vào
Trung Đông. Sự lựa chọn bắt buộc để thay thế cho Trung Đông chính là châu Phi. Châu lục này sẽ là
bức rào chắn giữa châu Âu và Mỹ, không thể nào có thể chui lọt đối với các chiến binh Hồi giáo từ
vùng Trung Đông. Châu Phi cũng sẽ là nguồn cung cấp năng lượng mới cho kinh tế Mỹ.
Can dự vào châu Phi đã trở thành một phần không thể thiếu trong chiến lược toàn cầu khẳng
định vai trò siêu cường duy nhất mà Mỹ đang theo đuổi. Chuyến công du của Tổng thống Bush 2003
chính là ngắm đến mục tiêu đó. Vẫn như trước đây, chiến thuật “củ cà rốt” lại được Washington đưa ra
để đánh bóng hình ảnh của mình. Tổng thống Mỹ mang đến châu Phi kế hoạch chi 15 tỷ USD cho cuộc
chiến ngăn chặn đại dịch AIDS ở châu Phi, kế hoạch gia tăng chống khủng bố ở Đông Phi bằng khoản
tiền 100 triệu USD và một chương trình về giáo dục với kinh phí 600 triệu USD trong 5 năm. Bên cạnh
đó, cuộc chiến chống đói nghèo ở châu lục Đen cũng được ông Bush chú ý trong chuyến công du. Với
những số tiền khổng lồ này, Mỹ hy vọng thắt chặt hơn nữa mối quan hệ giữa Mỹ với châu Phi. Tất
nhiên, để đổi lại sự hảo tâm này, châu Phi phải chấp nhận một số điều kiện mà Mỹ đưa ra. Nói cụ thể
hơn là nếu nước châu Phi nào đưa ra các cam kết với Mỹ thì nước đó sẽ nhận được sự trợ giúp. Trước
hết, đó là dự định của Mỹ tìm kiếm cho mình những căn cứ quân sự ở vùng Tây Phi để cho các đơn vị
lưu động của Mỹ đứng chân. Cùng với khoản tiền 100 triệu USD trong kế hoạch chống khủng bố ở
khu vực này, sự xuất hiện của lính Mỹ ở châu Phi sẽ đảm bảo cho việc can dự của Mỹ ở đây nhanh hơn
và thường xuyên hơn. Người Mỹ đã nhận được chấp thuận của các Chính phủ châu Phi cho sử dụng
các sân bay và căn cứ quân sự của họ. Mỹ cũng đã xây dựng căn cứ radar cực lớn tại República de
Cabo Verde, huấn luyện cách tuần tra biên giới trên sa mạc cho lính của các nước Senegal, Mali, Chad,
Niger và Mauritania. Mỹ cung cấp vũ khí cho Benin, Ghana, Bostwana, Mali, Mozambique và rất
chăm lo đến quan hệ thân thiện và hợp tác hữu hảo với các tiềm lực quốc phòng mạnh của Nam Phi,
Nigeria, Kenya và Uganda. Trước mắt, sự can dự đó nhằm ngăn chặn nguy cơ khủng bố xuất phát từ
các tổ chức khủng bố đóng trên địa bàn châu Phi. Còn nếu nhìn xa hơn, đây rất có thể là tính toán của
Mỹ nhằm tìm thêm cho mình những lợi ích ở châu Phi, gạt bớt ảnh hưởng truyền thống của châu Âu,
nhất là Pháp. Lợi ích rõ nhất là những mỏ dầu còn đang ẩn chứa trong lòng đất châu Phi. Trong bối
cảnh nguồn dầu cung cấp từ Trung Đông đứng trước nguy cơ bị gián đoạn do sự bất ổn trong khu vực,
châu Phi có thể là nơi thay thế lý tưởng nhất. Theo dự báo của Hội đồng tình báo Mỹ, trong những năm
tới, sản lượng dầu của khu vực này sẽ tăng thêm 70% lên mức 6,3 triệu thùng/ngày nhờ vào các mỏ
dầu mới ở Nigeria và Angola. Chuyên gia hàng đầu về châu Phi của Bộ Ngoại giao Mỹ W. Kansteiner
đã từng tuyên bố rằng: “Dầu mỏ của châu Phi là lợi ích quốc gia chiến lược của Mỹ”.
Trong các ngày từ 5-9/6/2006, chính quyền Mỹ đã đưa ra một loạt tuyên bố về quan hệ giữa Mỹ
và các quốc gia châu Phi thu hút sự quan tâm của quốc tế. Trong diễn văn khai mạc tại Diễn đàn Đạo
luật Tăng trưởng và Cơ hội Châu Phi (AGOA) tổ chức thường niên, ngoại trưởng Condoleezza Rice đã
nói rằng chính sách của Mỹ đối với Châu Phi là “trên cơ sở quan hệ đối tác chứ không phải là áp đặt,
và cộng tác với các dân tộc châu Phi”. Bà cho rằng sự thịnh vượng của người dân Mỹ và người dân
châu Phi sẽ do AGOA đem lại. Mỹ cam kết giúp đỡ nhân dân châu Phi hiện thực hóa các nguyện vọng
của họ thông qua quan hệ hợp tác.
Tháng 2/2007, Bộ tư lệnh châu Phi (AFRICOM) được thành lập với mục tiêu được Washington
quảng bá là nhằm tăng cường hợp tác an ninh giữa Mỹ với các nước châu Phi và tạo ra những cơ hội
mới để phát triển tiềm năng của các quốc gia châu Phi. Sau khi Bộ Tư lệnh châu Phi được thành lập,
nhiệm vụ đầu tiên là xây dựng các căn cứ tác chiến tiền duyên và nâng cao khả năng tác chiến tiền
duyên ở các khu vực châu Phi, nhất là các nước Bắc Phi như Algeria, Morocco và Tunisia, các khu vực
trọng điểm chiến lược trong điều chỉnh chính sách và bố trí lực lượng quân sự của Mỹ ở châu Phi. Sau
đó, Mỹ sẽ dần đưa các lực lượng quân Mỹ đang đồn trú tại châu Âu và Mỹ sang các căn cứ này để triển
khai các hoạt động quân sự quy mô lớn. Mặt khác, với Bộ tư lệnh này, quân Mỹ sẽ có danh chính ngôn
thuận để triển khai hoạt động quân sự chống khủng bố và khống chế hoạt động của những kẻ khủng bố
tại châu Phi, như giúp quân đội các nước châu Phi huấn luyện kỹ thuật, chiến thuật chống khủng bố,
tăng cường phối hợp với các nước trong việc thu thập tin tức tình báo, tiến hành diễn tập liên hợp
chống khủng bố, hỗ trợ và cung cấp thuốc men, y tế, giáo dục..., xây dựng các công trình hạ tầng cho
địa phương để lấy lòng dân chúng, tạo hình ảnh tốt đẹp về nước Mỹ. Những hoạt động trên sẽ là công
việc thường ngày của Bộ Tư lệnh châu Phi. Mỹ cũng thông qua Bộ Tư lệnh châu Phi để bảo đảm an
ninh trong việc cung ứng dầu từ châu Phi tới Mỹ trong tương lai. Mỹ sử dụng hàng loạt biện pháp thâm
nhập về quân sự tại đây như bán vũ khí cho các nước có trữ lượng dầu mỏ, triển khai diễn tập chống
khủng bố tấn công các giếng dầu và công trình quan trọng, xây dựng các căn cứ quân sự của Mỹ, triển
khai diễn tập ở khu vực biển Đại Tây Dương, nơi có các đường ống dẫn dầu từ châu Phi về Mỹ và diễn
tập khống chế hành lang trên biển và trên không ở các khu vực khai thác dầu, giám sát các tuyến
đường vận tải dầu từ châu Phi đến thị trường thế giới. Tuy nhiên, nhiều nước châu Phi, trong đó có cả
các đồng minh của Mỹ, không mấy hoan nghênh ý tưởng này và đã từ chối làm nơi đặt trụ sở cơ quan
này do lo ngại trở thành “bước đệm” để Mỹ tăng cường sự hiện diện quân sự ở châu Phi.
Trong chuyến công du châu Phi lần 2 của Bush đầu năm 2008 ngoài những mục tiêu: quảng bá
chính sách viện trợ và các chương trình trợ giúp y tế của Mỹ cho châu Phi, tăng cường hợp tác an ninh,
hỗ trợ chống nghèo đói và kêu gọi giải quyết các cuộc xung đột nhằm mang lại sự ổn định và hòa bình
cho châu Phi; Mỹ còn muốn tìm kiếm trụ sở cho Bộ Tư lệnh châu Phi. Tới thời điểm hiện tại, Liberia
là nước duy nhất sẵn sàng nhận làm nước chủ nhà của căn cứ này. Mỹ hiện đã có khoảng 1.700 binh sĩ
đóng ở Djibouti. Trong khi đầu tư các nỗ lực ngoại giao và tiền của vào các trọng điểm xung đột ở
châu Phi không hiệu quả, Mỹ đang cố gắng tập trung và quảng bá cho các chương trình chăm sóc sức
khỏe, viện trợ kinh tế và thúc đẩy dân chủ nhằm tăng cường hình ảnh tại châu lục Đen.
Bằng những khoản viện trợ lớn cho châu Phi thông qua các chương trình viện trợ nhân đạo,
chống dịch bệnh và tìm cách có sự hiện diện về quân sự, các chuyến đi thăm châu Phi của Tổng thống
G.Bush là một bằng chứng nữa cho thấy Mỹ đang từng bước thực hiện chính sách can dự sâu hơn ở
châu Phi, nơi Mỹ nhập 10% dầu mỏ, nhằm thúc đẩy và củng cố những lợi ích chiến lược lâu dài của
Washington ở lục địa này. Chuyến công cán Phi châu lần 1 của Tổng thống Bush (7/2003) và lần 2
(2/2008) thể hiện rõ ý đồ bảo vệ vị thế bá chủ và tăng cường sự can thiệp của Mỹ tại khu vực châu Phi
vì hai mối quan tâm chiến lược: “dầu mỏ và khủng bố”. Tuy nhiên việc thực hiện những mục đích nói
trên không dễ dàng. Hiện nay, Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh chính của Mỹ ở châu Phi. Với châu
Phi, kể từ khi nước CHND Trung Hoa mới ra đời tới nay, Trung Quốc luôn chú trọng và vun đắp cho
sự phát triển quan hệ Trung Quốc - châu Phi. Trung Quốc cho rằng “châu Phi đã vượt qua thời kỳ hỗn
loạn chính trị và phần lớn các nước đã có vai trò ngày càng quan trọng trên thế giới” và muốn thiết lập
quan hệ toàn diện với châu Phi. Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đã tuyên bố: “Trung Quốc sẽ mãi mãi là người
bạn tốt, đối tác tốt và người anh em tốt của châu Phi”. Trung Quốc nhìn thấy ở Châu Phi một thị
trường lục địa mới cho hàng xuất khẩu giá rẻ của Trung Quốc và một nguồn nguyên liệu thô to lớn,
đặc biệt là dầu mỏ. Trung Quốc chủ trương đầu tư mạnh vào ngành dầu khí khu vực Sừng châu Phi,
Tây Phi, Kenya, Ethiopia. Không chỉ cần năng lượng của châu Phi để đảm bảo nguồn cung nhiên liệu,
Trung Quốc còn cần châu Phi để cân bằng ảnh hưởng toàn cầu. Hơn nữa, xuất phát từ quan hệ hữu
nghị truyền thống Trung Quốc - châu Phi, so với phương Tây, Trung Quốc đang ngày càng được nhiều
quốc gia châu Phi chấp nhận. Sự hợp tác các mặt, nhất là những hợp tác mới về tài nguyên thiên nhiên
đã đẩy quan hệ hai bên lên bước phát triển mới. Giao thương của Trung Quốc với châu Phi đã tăng đột
ngột từ 11 tỉ USD năm 2000 lên 56 tỉ năm 2006, làm cho nước này trở thành đối tác lớn thứ ba của
châu lục sau Mỹ và Pháp. Bắc Kinh còn có một mục tiêu đưa thương mại với châu Phi lên 100 tỉ USD
vào năm 2010. Mỹ rất lo ngại về ảnh hưởng của Trung Quốc - nước đang có trong tay các hợp đồng
thương mại trị giá hàng tỷ USD ở châu Phi. Việc thành lập Bộ Chỉ huy châu Phi và xây dựng căn cứ
quân sự lớn tại châu Phi, ngoài việc ngăn chặn những chiến binh Hồi giáo thánh chiến chạy từ Trung
Đông qua lục địa đen, còn giúp Mỹ chiến thắng trong cuộc chiến giành nguồn năng lượng với giới dầu
khí Trung Quốc.
Tóm lại, Mỹ, sau mấy thập kỷ “bỏ quên” châu Phi, vì chiến lược toàn cầu của siêu cường này
tập trung đánh phá ở châu Âu (trong thời Chiến tranh lạnh) và châu Á (sau vụ khủng bố 11/9/2001),
đang vươn vòi bạch tuộc tới châu Phi với việc có hẳn một chiến lược đối với châu lục Đen và thành lập
Bộ Tư lệnh châu Phi. Mỹ đang rất muốn ngăn chặn Al-Qeada bám rễ ở khu vực này và bảo vệ cái có
thể sẽ trở thành lợi ích năng lượng ngày càng quan trọng đối với Mỹ tại Tây Phi. Vì hai mối quan tâm
song sinh của Mỹ là dầu mỏ và chống khủng bố mà Washington ngày càng buộc phải can thiệp sâu vào
châu Phi, đồng thời ra tay tự giải quyết một số vấn đề lớn của châu Phi.
2.2.4. Châu Mỹ
Châu Mỹ, còn gọi là Tân thế giới, chiếm 8,3% diện tích bề mặt trái đất và 28,4% diện tích đất
liền. Dân số ở đây chiếm khoảng 14% của thế giới. Châu Mỹ là khu vực ảnh hưởng truyền thống của
nước Mỹ. Trọng tâm trong chính sách của Mỹ ở châu Mỹ là các nước Mĩ Latinh. Các nước Mĩ Latinh
bao gồm hơn 20 nước cộng hòa nằm trải dài suốt từ Mexico ở Bắc Mĩ đến tận Nam Mĩ (diện tích trên 20 triệu km2, chiếm 1/7 diện tích thế giới, dân số gần 600 triệu người), rất giàu có về nông sản, lâm sản
và khoáng sản (chuối chiếm 95% sản lượng toàn thế giới, cà phê 80%, đường 42%, nitơrát 95%, bạc
45%, đồng 22%, dầu mỏ 16%...). Tuyên bố độc lập cách đây hơn 200 năm nhưng châu Mỹ Latinh vẫn
là châu lục chịu sự phụ thuộc của nước ngoài, sự chênh lệch giàu nghèo giữa các nước vẫn còn khoảng
cách rõ rệt. Các nước Mỹ Latinh có tốc độ phát triển kinh tế không đều do nhiều nguyên nhân: tình
hình chính trị không ổn định, cơ cấu xã hội phong kiến duy trì lâu kìm hãm sự phát triển, đường lối
phát triển kinh tế thiếu độc lập, tự chủ... Mặc dù đã có những chính sách cải cách, xuất khẩu tăng
nhanh song sự phát triển của châu lục này chưa tạo ra sự đột biến.
Mỹ có khá nhiều ảnh hưởng trong nội bộ các nước Mỹ Latinh do những yếu tố lịch sử và địa-
chính trị. Tổ chức các nước châu Mỹ (Organization of American States, viết tắt là OAS) gồm 34 nước
Tây bán cầu thuộc lục địa châu Mỹ (ngoại trừ Cuba chưa được gia nhập) đặt trụ sở tại Washington
được thành lập từ năm 1948 để theo dõi tiến triển dân chủ và nhân quyền cũng như kiểm soát nạn buôn
lậu ma túy và vũ khí trên lục địa châu Mỹ gồm cả Canada và các nước trong vùng biển Caribe, và từ
ngày thành lập đến nay vẫn ở trong vòng ảnh hưởng của Mỹ, nhất là trong việc bầu chức vụ Tổng thư
ký năm năm một lần. Mỹ chưa bao giờ giữ chức vụ Tổng thư ký nhưng hầu như Tổng thư ký là người
do Mỹ chọn lựa. Về ảnh hưởng kinh tế của Mỹ, chưa kể đến những lĩnh vực khác, Mỹ hiện đang là bạn
hàng lớn nhất của Venezuela về dầu lửa, toàn bộ sản lượng dầu khai thác hiện nay của Ecuador đều
xuất khẩu sang Mỹ.
Nước Mỹ thường xem các nước khu vực Mỹ Latinh là đồng minh tin cậy và “biết nghe lời”
nhưng giờ đây điều này không còn nữa. Trong những năm gần đây, khi xu hướng thiên tả của khu vực
“sân sau” trỗi dậy, ảnh hưởng của Mỹ ngày càng bị đẩy lùi. Nhóm Rio (hiện gồm 22 nước Nam Mỹ và
vùng Caribe) được thành lập vào ngày 18/12/1986 tại Rio De janeiro, Brazil với 8 thành viên ban đầu
là Argentina, Brazil, Colombia, Mexico, Panama, Peru, Uruguay và Venezuela với mục đích làm đối
trọng với Tổ chức các nước châu Mỹ, là tổ chức mà nhiều nước cảm thấy bị Mỹ chi phối. Mục tiêu
chính thức của nó là tìm ra các giải pháp cho các vấn đề và xung đột khu vực, cũng như thúc đẩy sự
phát triển kinh tế, xã hội và khoa học.
Trong nỗ lực can thiệp “chống chế độ độc tài, không dân chủ và nhân quyền” ở Haiti, Tổng
thống Mỹ B.Clinton đã phái đội quân 20.000 lính thuỷ quân lục chiến đến Haiti đưa ông J.Aristide trở
lại cầm quyền ngày 15/10/1994. Đây là cơ hội hiếm có để thử nghiệm sự thay đổi trong chính sách can
dự: can thiệp vào chính trường của Haiti, để khuếch trương cho giá trị dân chủ, nhân quyền mà Mỹ
luôn quảng cáo vì ông J.Aristide là tổng thống Haiti đầu tiên được bầu lên bằng con đường dân chủ.
Tuy nhiên, năm 2004, Tổng thống Aristide đã buộc phải từ chức và lưu vong trước áp lực của quốc tế,
đặc biệt là Mỹ và Pháp và nguy cơ bị phe nổi dậy tiêu diệt bằng vũ lực quân sự. Biến động chính trị ở
Haiti đã buộc Mỹ phải xem xét lại chính sách của Mỹ đối với các nước trong khu vực mà dấu hiệu đầu
tiên là việc thí bỏ con bài Aristide. Haiti là một bằng chứng cho thấy các đồng minh và đối tác quan
trọng ở sân sau của Mỹ đâu có an ninh và ổn định chính trị như Mỹ tưởng. Cuộc bầu chọn Tổng thư ký
OAS tháng 5/2005 cũng góp phần chứng tỏ điều đó. Tổ chức OAS đang cho thấy dấu hiệu muốn đi
một con đường độc lập hơn không nhất thiết phù hợp với quyền lợi chiến lược tại Tây bán cầu của Mỹ.
José Miguel Insulza, Bộ trưởng nội vụ của Chile đã được bầu vào chức vụ Tổng thư ký với số phiếu
31/34, trong đó có một phiếu của Mỹ. Phiếu của Mỹ là phiếu bất đắc dĩ vì Mỹ ủng hộ Luis Ernesto
Derbez, Bộ trưởng ngoại giao của Mexico, một đồng minh thân thiết của Mỹ nhưng sự thành công của
Venezuela là nước đang hiềm khích với Mỹ trong việc vận động cho ứng cử viên của Chile đã buộc
Mỹ đổi ý sau khi có được vài nhượng bộ từ phía José Miguel Insulza có lợi cho Mỹ.
Hiện nay, làn sóng cánh tả tại tại châu Mỹ Latinh đang lên, gây cho Mỹ không ít lo ngại. Trước
hết có thể thấy rằng, phần lớn các đảng thiên tả đã giành thắng lợi ở Mỹ Latinh là nhờ vào luận điểm
dân túy bài Mỹ dựa trên những thất bại của các Chính phủ thân Mỹ trong các chính sách phát triển xã
hội trong suốt nhiều năm. Bản thân các đảng thiên tả này đã mang trong nó những tư tưởng chống lại
ảnh hưởng quá sâu nặng của Mỹ đối với nền chính trị và kinh tế của các nước Mỹ Latinh vốn được coi
là sân sau của Mỹ. Thứ đến, các nhà lãnh đạo mới nổi ở các nước Mỹ Latinh đã hết sức khéo léo công
cụ hóa tư tưởng bài Mỹ trong dân chúng nhằm củng cố sự lãnh đạo của mình qua việc tập hợp lực
lượng quốc gia. Và cuối cùng, trước xu hướng đơn phương trong chính sách đối ngoại của chính quyền
Bush, các nước cũng như dân chúng các nước Mỹ Latinh đang trở nên nhạy cảm hơn với chủ quyền
quốc gia mình. Chủ trương mà các nhà lãnh đạo cánh tả châu Mỹ Latinh luôn hướng tới là giảm mức
độ phụ thuộc vào các tổ chức kinh tế quốc tế do Mỹ hậu thuẫn và tăng cường liên kết kinh tế đồng thời
hợp tác về mọi mặt.
Venezuela là đất nước xuất khẩu dầu lửa lớn thứ 5 thế giới và dưới sự cầm quyền của Tổng
thống Venezuela Hugo Chavez, được coi là lá cờ đầu của phong trào thiên tả trong các nước châu Mỹ
Latinh. Tổng thống Hugo Chavez đã có nhiều sáng kiến cho sự phát triển độc lập của châu Mỹ Latinh
với Mỹ. Sáng kiến thành lập Tổ chức Sự lựa chọn Boliva cho châu Mỹ (ALBA) được Chavez đề xuất
tháng 4/2005 tại La Havana nhằm tạo thế đối trọng với Khu vực Mậu dịch tự do châu Mỹ (FTAA) do
Mỹ khởi xướng với mục đích là tạo một thị trường chung cho 34 quốc gia Nam Mỹ và Mỹ Latinh.
ALBA, lúc đầu đã nhận được sự ủng hộ của Cuba, Venezuela, sau đó là Bolivia, Nicaragua, Ecuador
xin gia nhập và nay có thêm Haiti với tư cách thành viên quan sát, chủ trương loại bỏ hoặc giảm bớt
các rào cản thương mại giữa các quốc gia trong khu vực, tiến tới nền thương mại tự do hoàn toàn giữa
nhân dân các quốc gia thành viên. Tổng thống Hugo Chavez còn có sáng kiến là thành lập Đài Truyền
hình phương Nam Telesur. Ngày 24/7/2005, Telesur đã chính thức phát sóng từ thủ đô Caracas của
Venezuela nhằm cung cấp thông tin và tuyên truyền văn hóa của các nước Mỹ Latinh, góp phần thúc
đẩy liên kết khu vực và chống lại sự độc quyền thông tin của các nước lớn thông qua những kênh
truyền hình quốc tế kiểu như CNN của Mỹ. Telesur, với vốn điều hành 10 triệu USD, có cổ phần của
Chính phủ các nước Venezuela (51%), Argentina, Cuba và Uruguay, phát sóng 24/24 giờ. Một loạt đài
truyền hình các nước Mỹ Latinh đã tiếp sóng toàn bộ hoặc một phần kênh truyền hình này. Telesur với
nhân sự 160 người đã có phóng viên thường trú tại Venezuela, Cuba, Argentina, Uruguay, Brazil,
Bolivia, Colombia, Mexico và Mỹ.
Ngày 29/4/2006, một Hiệp ước quan trọng đã được ký kết giữa ba nước cánh tả châu Mỹ La
tinh: Cuba, Venezuela và Bolivia. Đây là một sự kiện rất đáng chú ý vì nó mở màn cho việc hình thành
một liên minh đối trọng với khu vực tự do thương mại châu Mỹ mà Mỹ đang gây dựng, và chắc chắn
điều này sẽ ảnh hưởng tới vai trò của Mỹ tại khu vực Mỹ Latinh, vốn được coi là sân sau của
Washington.
Sáng kiến gây chú ý nhiều nhất của nhà lãnh đạo Venezuela cuối năm 2007 là thành lập Ngân
hàng phương Nam Bancosur. Xuất phát từ ý tưởng của Tổng thống Hugo Chavez, Bộ trưởng Tài chính
7 nước Mỹ Latinh gồm Argentina, Venezuela, Brazil, Uruguay, Ecuador, Paraguay, Bolivia đã cùng
thống nhất về nguyên tắc thành lập Ngân hàng phương Nam nhằm thay thế Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF)
và Ngân hàng Thế giới (WB). Ngân hàng này, với số vốn ban đầu 7 tỉ USD, chịu trách nhiệm viện trợ
các dự án phát triển cho các nước nghèo với lãi suất ưu đãi. Trước đó (tháng 5/2007), Tổng thống
Hugo Chavez đã quyết định rút Venezuela ra khỏi IMF và WB vì cho rằng những hình mẫu kinh tế cũ
kỹ của hai tổ chức này (kiểm soát ngân sách gắt gao, tư hữu hóa và mở cửa thị trường) là nguyên nhân
của tình trạng nghèo đói khắp Nam Mỹ. Nhưng điều cốt lõi của vấn đề ngoài những nguyên nhân trên,
nguyên nhân chủ yếu là Tổng thống Chavez muốn tiếp tục gióng lên hồi chuông mạnh mẽ trong việc
cảnh cáo các tổ chức quốc tế do Mỹ hậu thuẫn hãy rời xa các nước châu Mỹ Latinh. Điều này minh
chứng rõ cho mô hình kinh tế của Mỹ từng được áp dụng tại nhiều nước Mỹ Latinh đã bị phá sản với
hố sâu cách biệt giàu nghèo ngày càng rộng. Đó là lý do vì sao làn sóng cánh tả Mỹ Latinh trỗi dậy với
nhiều chính sách dành ưu tiên cho tầng lớp dân nghèo.
Tháng 3/2008, Tổng thống Venezuela Hugo Chavez đã đến thăm Brazil với mục đích thảo luận
với người đồng nhiệm Brazil Luiz Iniacio Lula da Silva về một dự án phòng thủ và an ninh chung cho
toàn khu vực Mỹ Latinh - được gọi là Khối quân sự Mỹ Latinh. Dựa trên mô hình của Khối quân sự
Bắc Đại Tây Dương (NATO) - được ra đời nhằm tạo đối trọng với khối XHCN tại Đông Âu mà đứng
đầu là Liên Xô, đầu năm 2000, Tổng thống Venezuela Hugo Chavez đã đưa ra sáng kiến thành lập một
khối quân sự Mỹ Latinh và chỉ rõ là để chống lại “chủ nghĩa đế quốc” của Mỹ và ngăn chặn những
cuộc khủng hoảng chính trị trong khu vực. Nay ý tưởng thành lập khối quân sự này được tái khởi động
theo đề nghị của Tổng thống Brazil sau cuộc khủng hoảng chính trị giữa Colombia với hai quốc gia
láng giềng Venezuela và Ecuador mới đây. Chưa bao giờ đề xuất về một kế hoạch phòng thủ và an
ninh chung trong khu vực Nam Mỹ được đưa ra tranh luận giữa các quốc gia trong toàn khu vực. Đây
là lần đầu tiên dự án Khối quân sự Mỹ Latinh được hai quốc gia lớn trong khu vực là Venezuela và
Brazil đưa lên bàn đàm phán. “Khái niệm về một tổ chức an ninh Nam Mỹ là rất quan trọng bởi đây sẽ
là nơi các quốc gia trong khu vực có thể tranh luận những vấn đề về quốc phòng an ninh” - Adolfo
Salgueiro, Giáo sư Khoa Quan hệ quốc tế Đại học Caracas nhận xét.
Khu vực “sân sau” của Mỹ mà hơn hai trăm năm qua Washington tha hồ khai thác tài nguyên
với giá rẻ và dễ dàng lật đổ những Chính phủ làm trái ý Mỹ, nay không còn nữa. Trên một không gian
rộng lớn đang hiện dần đường nét của một liên minh chính trị mới mà Mỹ sẽ không thể áp đặt như
trước nay. Với việc Mỹ Latinh có tới 9 Chính phủ cánh tả, một chuyện mà cách đây vài năm bị coi là
“chuyện hoang đường” đã trở thành sự thật, Washington buộc phải điều chỉnh đường lối đối ngoại
cứng nhắc, mang dấu ấn thù địch sang sách lược mềm dẻo hơn, mà thực chất đó là chính sách “can dự”
của Mỹ đối với các nước cánh tả Mỹ Latinh. Điển hình cho sự điều chỉnh đường lối này là cách cư xử
ôn hòa của Mỹ với chính quyền Venezuela và Cuba - những đối tượng chính trong chính sách của Mỹ.
Tháng 12/2006, sau nhiều năm gia tăng căng thẳng ngoại giao, Đại sứ Mỹ tại Caracas William
Brownfield và Ngoại trưởng Venezuela Nicolas Maduro sau một cuộc tiếp xúc đặc biệt kéo dài nhiều
giờ đồng hồ đã tuyên bố hai nước có bước khởi động tích cực cho việc cải thiện quan hệ song phương.
Đây là dấu hiệu của sự thay đổi đường lối của Mỹ với Venezuela, và suy rộng ra là đối với cả Mỹ
Latinh. Vì giờ đây, “ngọn cờ” Venezuela cùng với Cuba đang dẫn đầu đoàn đua gồm đa số các nước
Mỹ Latinh đi theo con đường khác với con đường “chính sách tự do mới” mà Washington vạch ra.
Cũng không phải tự nhiên mà Ngoại trưởng Venezuela nói rằng, Mỹ đã thông qua một “quyết định lịch
sử” bởi vì Tổng thống Mỹ G. W. Bush không thích thú gì thắng lợi của Tổng thống Hugo Chavez,
người dám nhạo báng và lên án ông ngay tại diễn đàn Liên hợp quốc, nghĩa là ngay trên đất Mỹ, nay đã
hoàn toàn công nhận chiến thắng vang dội của Tổng thống Hugo Chavez trong cuộc tổng tuyển cử vào
ngày 3/12/2006. Ông Maduro cho rằng, đây là cơ sở cho các cuộc đàm phán tiếp theo.
Mỹ cũng đã có những động thái bước đầu cải thiện quan hệ với Cuba, đất nước láng giềng nhỏ
bé ở sát ngay nách nước Mỹ bị Washington thù địch và chống phá từ hơn 45 năm qua với việc Mỹ cắt
đứt quan hệ chính thức với Cuba sau khi Chủ tịch Fidel Castro lên điều hành đất nước năm 1959 và áp
đặt một lệnh cấm vận về kinh tế chống lại quốc đảo này kể từ năm 1960. Vào trung tuần tháng
12/2006, một đoàn đại biểu từ Quốc hội Mỹ đã tới thăm Cuba kể từ năm 1959. Họ gồm 10 thành viên
thuộc một nhóm lưỡng đảng ủng hộ nới lỏng lệnh cấm của Mỹ đối với Cuba và đang nỗ lực tìm kiếm
đối thoại. Đoàn này gồm 6 thành viên Dân chủ và 4 thành viên Cộng hòa đi thăm Cuba 3 ngày. Dẫn
đầu phái đoàn Mỹ là Jeff Flake, một đại biểu Quốc hội thuộc đảng Cộng hòa. Jeff Flake hy vọng sẽ mở
ra “một thời kỳ mới trong quan hệ giữa Mỹ và Cuba”. Báo Granma, Cơ quan ngôn luận của Đảng
Cộng sản Cuba, số ra ngày 18/12/2006 cho biết, các nghị sĩ Mỹ đã tiến hành một loạt cuộc gặp với các
quan chức cao cấp của Cuba như Chủ tịch Quốc hội Cuba Ricardo Alarcon, Bộ trưởng Ngoại giao
Cuba Felipe Perez Roque ... và cũng đã tiếp xúc với một số doanh nghiệp có quan hệ buôn bán với các
công ty lương thực Mỹ. Các nghị sĩ Mỹ đề nghị Chính phủ Mỹ bãi bỏ các biện pháp hạn chế những
người Cuba đang sống ở Mỹ về thăm gia đình, quê hương; giảm bớt một phần, nếu không phải là tất
cả, các biện pháp cấm vận đơn phương mà Mỹ duy trì chống Cuba từ hơn 40 năm qua. Về phía Cuba,
Chủ tịch Cuba Raul Castro cũng đã kêu gọi cải thiện quan hệ với Washington.
Để đối phó với tầm ảnh hưởng ngày càng gia tăng của Tổng thống Venezuala Hugo Chavez,
Tổng thống Bush đã có chuyến công du tới 5 nước Mỹ Latinhvào đầu năm 2007. Chuyến đi này chủ
yếu tập trung vào các vấn đề song phương ưu tiên dành riêng cho từng nước: thương mại với Brazil và
Uruguay, ma túy và tình trạng mất an ninh với Colombia, nhập cư với Mexico và Guatemala. Nhưng
với Tổng thống Bush, trước hết đó là bước đi nhằm làm sống lại ảnh hưởng của nước Mỹ tại Mỹ
Latinh - khu vực nằm trong tay các nhà lãnh đạo cánh tả trong những năm gần đây. Theo Carlos
Quenan ở Học viện cao học Mỹ Latinh thuộc Đại học Paris (Pháp), đó là chuyến đi nhằm chống lại ảnh
hưởng của Hugo Chavez tại một khu vực “bị bỏ rơi” sau vụ tấn công 11/9. Tuy nhiên, chuyến đi được
đánh giá là “không làm thay đổi căn bản cuộc chơi” vì đã không làm thay đổi căn bản tình hình, cũng
như không cải thiện hình ảnh của nước Mỹ đặc biệt suy giảm do cuộc chiến phát động tại Iraq.
Ngày 14/5/2008, Hội đồng quan hệ đối ngoại Mỹ (CFR), bao gồm 19 chuyên gia và cố vấn có
ảnh hưởng nhất tại Mỹ thuộc cả hai đảng Dân chủ và Cộng hòa, công bố tại Washington báo cáo dài 76
trang về quan hệ của Mỹ với khu vực “sân sau” có tựa đề “Quan hệ Mỹ - Mỹ Latinh: phương hướng
mới cho thực tế mới” vạch rõ rằng, sau một thế kỷ rưỡi vừa qua, Mỹ thi hành chính sách với các nước
Mỹ Latinh theo “Học thuyết Monroe”, nay cần công nhận rằng sự chi phối của Mỹ đối với các nước
Mỹ Latinh đã chấm dứt và Mỹ phải can dự vào khu vực này theo các điều kiện mới. Báo cáo nêu ra
những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp quan hệ giữa Mỹ và các nước Mỹ Latinh, ngoài những vấn đề tồn tại
từ lâu là thương mại, dân chủ, ma túy, nay nổi lên bốn lĩnh vực: nghèo đói và bất bình đẳng, an ninh
công cộng, di trú và an ninh năng lượng. Bốn vấn đề mới nổi này liên quan trực tiếp lợi ích của Mỹ,
đồng thời cũng đang là sự quan tâm hàng đầu của chính quyền và nhân dân nhiều nước Mỹ Latinh.
Thông điệp chính của báo cáo này là cần thiết tăng cường liên kết giữa Mỹ với các nước Mỹ Latinh.
Báo cáo nêu rõ trong bối cảnh các mối quan hệ giữa các nước Mỹ Latinh với thế giới ngày càng
phát triển, “chính sách của Mỹ tại Mỹ Latinh không thể dựa vào giả định rằng Mỹ là nhân tố bên ngoài
quan trọng nhất tại đây. Nếu từng có một kỷ nguyên bá chủ của Mỹ tại Mỹ Latinh thì nó đã kết thúc”.
Theo báo cáo này, “các chính sách cơ bản của Washington đối với Mỹ Latinh chưa thay đổi một cách
hiệu quả để phản ánh thực tế mới này”. Các chuyên gia thuộc CFR cho rằng, Washington cần điều
chỉnh chính sách phù hợp với việc duy trì lợi ích của Mỹ trong tình hình phát triển mới của các nước
Mỹ Latinh ngày nay. Các nước Mỹ Latinh đang mở rộng quan hệ nhiều mặt với các nước và tổ chức
khu vực khác trên thế giới, nhất là Liên hiệp châu Âu (EU) và Trung Quốc. Mặt khác, các nước Mỹ
Latinh đang lập nên những khối hợp tác kinh tế và thương mại. Các nước Nam Mỹ đang có kế hoạch
phát triển Khối Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) theo mô hình của EU. Trong hai ngày 16 và
17/5/2008, Hội nghị cấp cao lần thứ năm giữa các nước Mỹ Latinh và vùng Caribe với các nước thuộc
EU, với sự tham dự của những người đứng đầu nhà nước và Chính phủ của 60 nước, tại Thủ đô Lima
của Peru đã thỏa thuận thúc đẩy hợp tác kinh tế và thương mại song phương và các biện pháp cải thiện
tình trạng nghèo đói và tác động của khí hậu thay đổi.
Các chuyên gia thuộc CFR kiến nghị một số biện pháp mới trong quan hệ với các nước Mỹ
Latinh. Thứ nhất là bãi bỏ các biện pháp trừng phạt kinh tế và du lịch đã áp đặt chống Cuba trong 15
năm qua, hợp tác với La Habana trong một loạt vấn đề cùng quan tâm và chấm dứt lệnh cấm vận kéo
dài 46 năm đối với quốc đảo này. Thứ hai là xử lý các vấn đề của Mỹ với Chính phủ của Tổng thống
Venezuela Hugo Chavez trong bối cảnh đa phương, nhưng không đóng các kênh song phương, không
nên cố tìm cách cô lập Chính phủ của Tổng thống H.Chavez ở Venezuela, vì làm như vậy sẽ khiến ông
ta mạnh thêm. Thứ ba là tăng cường quan hệ chiến lược với Brazil và Mexico, hai nước có vai trò quan
trọng nhất ở khu vực Mỹ Latinh.
Chương 3
YẾU TỐ ĐỊA-CHÍNH TRỊ TRONG SỰ THAM DỰ CỦA MỸ VÀO CÁC SỰ KIỆN VÀ
VẤN ĐỀ TIÊU BIỂU
3.1. Chiến tranh vùng Vịnh
Kuwait nằm ở Trung Đông, khu vực có tầm quan trọng về giao thông chiến lược, trên bờ vịnh
Persic, giáp với Saudi Arabia ở phía nam và với Iraq ở hướng Tây và hướng Bắc, và có trữ lượng dầu
mỏ lớn thứ sáu trên thế giới. Dầu mỏ ở quốc gia này được khám phá và khai thác từ những năm 30 của
thế kỷ XX. Sau khi nước này giành được độc lập từ tay thực dân Anh năm 1961, nền công nghiệp dầu
lửa đã có những bước tiến vượt bậc. Dầu khí và các sản phẩm từ dầu khí chiếm xấp xỉ 95% tổng doanh
thu từ xuất khẩu và chiếm gần 80% lợi tức của Chính phủ.
Ngày 2/8/1990, Iraq xâm lược đất nước Kuwait nhỏ bé. Đây là hậu quả của những xung đột lâu
đời giữa Iraq và Kuwait. Trước Thế chiến thứ nhất, theo Hiệp định Anh - Ottoman năm 1913, Kuwait
bị coi là một lãnh thổ tự trị bên trong Iraq của Đế chế Ottoman. Sau cuộc chiến, Kuwait thuộc quyền
cai trị của Anh và Anh coi Kuwait và Iraq là hai quốc gia riêng biệt. Tuy nhiên, những quan chức Iraq
không chấp nhận tính hợp pháp của nền độc lập của Kuwait. Vào thập kỷ 1960, Anh đã phải triển khai
quân đội để bảo vệ Kuwait khỏi ý định sáp nhập của Iraq. Trong Chiến tranh Iran - Iraq ở thập niên
1980, Kuwait là đồng minh của Iraq, phần lớn là để được Iraq bảo vệ khỏi những người Shittite ở Iran.
Sau cuộc chiến, Iraq nợ các nước Arabia nhiều khoản tiền lớn, trong đó có 14 tỷ dollar nợ Kuwait. Iraq
hy vọng sẽ trả được những khoản nợ đó khi làm tăng giá dầu mỏ thông qua việc cắt giảm sản lượng
khai thác của OPEC, nhưng thay vào đó, Kuwait lại tăng lượng khai thác của mình khiến giá dầu giảm
sút, trong một nỗ lực nhằm kích thích có được một giải pháp giải quyết tốt hơn cho việc tranh chấp
lãnh thổ giữa hai nước. Ngoài ra, Iraq bắt đầu buộc tội Kuwait đã khoan nghiêng vào các giếng dầu của
họ ở vùng biên giới và cho rằng vì Iraq là nước đệm chống lại Iran bảo vệ cho toàn bộ các nước Arabia
và vì thế Kuwait và Arabia Saudi phải đàm phán hay hủy bỏ những khoản nợ cho cuộc chiến của Iraq.
Hơn nữa, cuộc chiến với Iran đã khiến hầu hết tất cả các cơ sở cảng biển của Iraq ở vịnh Persic bị hủy
hoại, khiến cho con đường giao thương chính của nước này với bên ngoài bị cản trở. Nhiều người Iraq,
cho rằng cuộc chiến với Iran sẽ lại tái diễn trong tương lai, cảm thấy rằng an ninh của Iraq chỉ được
đảm bảo khi họ kiểm soát thêm được vùng vịnh Persic, gồm cả những cảng biển quan trọng. Vì thế
Kuwait chính là một mục tiêu. Về ý thức hệ, cuộc xâm chiếm Kuwait được biện hộ bởi những lời kêu
gọi của chủ nghĩa quốc gia Arabia. Kuwait từng được coi là một phần lãnh thổ tự nhiên của Iraq và đã
bị chủ nghĩa thực dân Anh tách ra. Việc sáp nhập Kuwait được miêu tả như là một bước trên con
đường tiến tới một Liên hiệp Arabia rộng lớn hơn. Cuộc xâm chiếm cũng có quan hệ chặt chẽ với các
sự kiện ở vùng Trung Đông. Lúc này phong trào Intifada lần thứ nhất của người Palestine đang ở cao
trào, và hầu hết các nước Arabia, gồm cả Kuwait, Arabia Saudi và Ai Cập, đang phải phụ thuộc vào
các nước đồng minh phương Tây. Vì thế Saddam xuất hiện với vai trò là một chính khách Arabia đứng
lên chống lại Israel và Mỹ.
Đối với Mỹ, Iraq là một công cụ để thực hiện mục tiêu bá quyền của Mỹ. Iraq từng là nước
đứng chung một liên minh với Liên bang Xô viết. Mỹ lo ngại tình trạng thù địch của Iraq với Israel dẫn
tới sự cản trở trong việc Israel xây dựng một nền hòa bình với các nước Arabia khác. Mỹ cũng buộc tội
Iraq hỗ trợ cho nhiều nhóm chiến binh Arabia và Palestine như Abu Nidal, dẫn tới việc họ đưa nước
này vào danh sách các quốc gia ủng hộ khủng bố ngày 29/12/1979. Mỹ vẫn chính thức giữ thái độ
trung lập khi Chiến tranh Iran - Iraq xảy ra, và trước đó họ từng bị bẽ mặt bởi cuộc khủng hoảng con
tin Iran dài 444 ngày và hy vọng rằng Iran sẽ không thể thắng trong cuộc chiến. Tuy nhiên, vào tháng
3/1982, Iran bắt đầu một cuộc phản công thắng lợi. Trong một nỗ lực nhằm mở ra khả năng về những
quan hệ có thể có với Iraq, Mỹ đã đưa nước này ra khỏi danh sách ủng hộ khủng bố để giúp Iraq thay
Mỹ giành thắng lợi trong cuộc chiến với Iran. Vì sợ rằng nước Iran cách mạng sẽ đánh bại Iraq và xuất
khẩu Cách mạng Hồi giáo của mình sang các nước Trung Đông khác, Mỹ bắt đầu viện trợ cho Iraq. Từ
1983 đến 1990, Chính phủ Mỹ đã phê chuẩn việc bán khoảng 200 triệu dollar vũ khí cho Iraq. Chính
phủ Mỹ cũng cung cấp viện trợ kinh tế cho Iraq. Từ giữa năm 1983 và 1990, Iraq đã nhận được 5 tỷ
dollar tín dụng từ chương trình của Commodity Credit Corporation một tổ chức thuộc Bộ Nông nghiệp
Mỹ, bắt đầu ở mức 400 triệu dollar/năm (năm 1983), sau đó tăng tới hơn 1 tỷ/năm (năm 1988 và 1989)
và cuối cùng kết thúc với khoản tiền 500 triệu năm 1990. Bên cạnh các khoản tín dụng nông nghiệp,
Mỹ cũng cung cấp cho Hussein các khoản vay khác. Năm 1985, Ngân hàng xuất nhập khẩu Mỹ cấp
hơn 684 triệu dollar tín dụng cho Iraq để xây dựng đường ống dẫn dầu qua Jordan. Tuy nhiên, sau
chiến tranh đã có nhiều hành động bên trong Hạ nghị viện Mỹ nhằm cô lập Iraq về ngoại giao và về
kinh tế do những lo ngại về những sự vi phạm nhân quyền, sự tăng cường quân sự và sự thù địch của
Iraq đối với Israel. Quan hệ giữa Iraq và Mỹ tiếp tục không bị cản trở gì cho tới khi Iraq tấn công xâm
chiến Kuwait. Ngày 2/10/1989, Tổng thống G.H.W.Bush ký một chỉ thị mật số 26 về an ninh quốc gia,
bắt đầu bằng: “việc tiếp cận tới nguồn dầu mỏ ở vịnh Persic và an ninh của các quốc gia đồng minh
chủ chốt trong vùng là vấn đề sống còn đối với an ninh Mỹ”. Đối với Iraq, chỉ thị này cho rằng “Những
quan hệ bình thường giữa Mỹ và Iraq sẽ phục vụ cho những lợi ích lâu dài và thúc đẩy sự ổn định ở cả
vịnh Persic và Trung Đông”.
Trước hành động xâm lược của Iraq, ngày 2/8/1990, Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc đã nhóm
họp khẩn cấp, thông qua nghị quyết về vấn đề Iraq với 14 phiếu thuận, lên án hành động quân sự và
yêu cầu Iraq phải rút ngay quân đội về nước. Vào ngày 29/11/1890, Hội đồng Bảo an đã phê chuẩn
việc quân đội các quốc gia thành viên Liên hợp quốc sử dụng lực lượng vũ trang nếu Iraq không rút
quân khỏi Kuwait trước ngày 15/1/1991. Tổng thống Bush đã lên án mạnh mẽ hành động của Iraq là
một điều không thể tha thứ được vì việc Iraq chiếm đóng Kuwait và hiểm họa mà Iraq đặt ra đối với
Saudi Arabia làm thay đổi mọi tính toán ngoại giao của Mỹ. Dưới mắt người Mỹ, cuộc xâm lăng
Kuwait là một hành động phiêu lưu mạo hiểm bất chấp mọi hậu quả và Saddam Hussein là một mối
hiểm họa cho sự ổn định của Trung Đông nếu phần thắng nghiêng về Baghdad, Iraq trở thành cường
quốc ngự trị ở vùng Vịnh, có được tiếng nói lớn hơn nhiều trong các quyết định liên quan tới sản xuất
dầu mỏ và giá dầu, và sử dụng vũ khí “dầu hỏa” để làm áp lực với toàn thế giới.
Quyết định của Mỹ nhằm đẩy lùi cuộc xâm lược của Iraq thực chất có mục đích chính là để
ngăn Iraq xâm lược Saudi Arabia, một nước có tầm quan trọng hơn rất nhiều so với Kuwait, như việc
Iraq đã làm với Kuwait. Thắng lợi nhanh chóng của quân đội Iraq trước Kuwait khiến quân đội Iraq đã
tiến đến rất gần các giếng dầu ở Hama, là nguồn tài nguyên giá trị nhất của Saudi Arabia. Việc Iraq
kiểm soát sản lượng dầu mỏ của Kuwait và sự đe dọa của nó đối với Saudi Arabia đặt cường quốc dầu
lửa Trung Đông này ở vào một vị thế có thể thay đổi một cách sâu sắc cấu trúc giá dầu mỏ thế giới.
Chi phí cao của “cú sốc dầu mỏ” này sẽ làm trầm trọng thêm cuộc suy thoái của Mỹ và ảnh hưởng
nhanh chóng lan rộng toàn cầu, và có thể sẽ phá hoại các cuộc cải cách của Xô viết, những cải cách
phụ thuộc phần lớn vào sự ủng hộ và thương mại của phương Tây [48, tr.526].
Vì vậy, Mỹ, châu Âu và Nhật Bản coi một sự độc quyền tiềm tàng như vậy là rất nguy hiểm.
Ngoài ra, cuộc tấn công có thể trở thành điểm tập hợp của những người Arabia vốn bực tức với ảnh
hưởng của Mỹ trong cộng đồng thế giới và cảm thấy một số nước Trung Đông như Ai Cập đã đi quá xa
trong việc hợp tác với Washington. Tới ngày 12/1/1991, Quốc hội Mỹ thông qua quyết định sử dụng
vũ lực chống Iraq. Sau đó 6 ngày, với chiến dịch “Bão táp sa mạc”, liên quân Mỹ, Anh, Pháp, Italia,
Saudi Arabia, Kuwait và các quốc gia khác đã thành công trong việc giải phóng Kuwait bằng một
chiến dịch không kích phá hủy do Mỹ chỉ huy kéo dài hơn một tháng. Tiếp theo chiến dịch này là một
cuộc tấn công ồ ạt vào Kuwait và Iraq bằng các lực lượng thiết giáp và bộ binh đổ bộ bằng đường
không. Với tốc độ, tính cơ động và hỏa lực vượt trội của mình, liên quân đã áp đảo lực lượng quân đội
Iraq trong một chiến dịch tấn công trên bộ kéo dài chỉ trong vòng 100 giờ.
Tuy nhiên, chiến thắng vẫn chưa trọn vẹn và liên quân vẫn chưa thấy hài lòng. Nghị quyết của
Liên Hợp Quốc chỉ kêu gọi lực lượng liên quân đánh đuổi Iraq ra khỏi lãnh thổ Kuwait. Song Saddam
Hussein vẫn cầm quyền và đàn áp tàn bạo người Kurd ở miền Bắc và người Shiite ở miền Nam, cả hai
dân tộc này đều được Mỹ trợ giúp trong cuộc khởi nghĩa của họ. Hàng trăm giếng dầu bị quân Iraq chủ
tâm đốt cháy đã cháy cho đến tận tháng 11 mới được dập tắt hết. Chính quyền Saddam cũng toan tính
cản trở các thanh tra của Liên Hợp Quốc đến Iraq theo các nghị quyết của Hội đồng Bảo an để xác định
vị trí và phá hủy các loại vũ khí giết người hàng loạt của Iraq, bao gồm cả các thiết bị hạt nhân hiện đại
hơn người ta nghĩ trước đó và những kho vũ khí hóa học khổng lồ.
Chiến tranh vùng Vịnh năm 1991 là một cuộc xung đột giữa Iraq và liên minh gần 30 quốc gia
từ châu Á, châu Âu, châu Phi và từ chính các nước Trung Đông.do Mỹ lãnh đạo và được Liên hợp
quốc phê chuẩn để giải phóng Kuwait. Chiến tranh Vùng Vịnh đã khiến Mỹ có thể thuyết phục được
các quốc gia Arabia, Israel và đoàn đại biểu Palestin bắt đầu các cuộc thương lượng trực tiếp nhằm giải
quyết các vấn đề phức tạp và có quan hệ đan xen lẫn nhau để cuối cùng có thể tiến tới một nền hòa
bình lâu dài trong khu vực. Các cuộc hội đàm đã bắt đầu ở Madrid, Tây Ban Nha ngày 30/10/1991.
Các cuộc đàm phán bí mật ở Na Uy đã dẫn tới một Thỏa thuận lịch sử giữa Israel và Tổ chức Giải
phóng Palestin được ký tại Nhà Trắng ngày 13/9/1993.
Mặc dù Chiến tranh lạnh đã kết thúc song Chính phủ Mỹ vẫn tin rằng cấu trúc của chủ nghĩa tư
bản toàn cầu đòi hỏi phải có một trung tâm bá quyền để đặt ra và cưỡng chế thi hành các luật lệ quốc tế
của chủ nghĩa tư bản tự do, và chỉ Mỹ mới có sức mạnh để đóng vai trò đó - cả “sức mạnh mềm” của
các ý tưởng và “sức mạnh cứng” của tiềm năng quân sự. Thắng lợi gây choáng váng của liên quân do
Mỹ lãnh đạo trước Iraq vào đầu năm 1991 càng khuyến khích những khát vọng bá quyền. Nhiệm vụ
này, có từ chiến tranh thế giới thứ hai, là thực hiện kế hoạch bá quyền Mỹ. Đương nhiên, một phần của
kế hoạch là việc ngăn chặn và chế ngự Liên Xô, việc ràng buộc nước Anh vào một “mối quan hệ đặc
biệt” mà có thể đem lại cho nước bá quyền cũ một phần danh tiếng và lợi nhuận nhất định để đền bù
cho việc đưa Khối thịnh vượng chung và đế chế cũ vào thế giới tự do của Mỹ, việc kiềm chế Đức và
Nhật Bản theo cách ngăn chặn được sự tái phạm trong khi hỗ trợ hai nước này trở thành đầu tàu cho sự
tăng trưởng ở châu Âu và châu Á, cũng như việc kiềm chế chủ nghĩa dân tộc cách mạng ở Thế giới thứ
ba bằng “củ cà rốt và cây gậy” - viện trợ kinh tế kết hợp với can thiệp quân sự, việc xóa bỏ bất kỳ chủ
nghĩa biệt lập Mỹ nào mới được hồi sinh - điều có thể tước bỏ sự ủng hộ về vật chất và quyền lực đạo
đức của chủ nghĩa quốc tế Mỹ ở trong nước - cũng chỉ là một phần của nhiệm vụ này. Bất chấp sự sụp
đổ của chủ nghĩa cộng sản và Liên Xô, những nhiệm vụ khác của kế hoạch bá quyền Mỹ tiếp tục đòi
hỏi sự quan tâm của Mỹ. Trong bối cảnh này, cuộc chiến vùng Vịnh mang lại những cơ hội vàng quá
hấp dẫn đến mức không thể chối từ. Đầu tiên, nó tái khẳng định “mối quan hệ đặc biệt” của Anh với
Mỹ thông qua việc cung cấp cho Anh cả sự chia sẻ vinh quang trên mặt trận và sự bảo đảm rằng những
đồng đô la dầu mỏ của Kuwait và Saudi Arabia sẽ tiếp tục được lưu chuyển mà không bị gián đoạn vào
những ngân hàng của thành phố Luân Đôn. Thứ hai, nó tái thiết lập sự phụ thuộc của Đức và Nhật vào
sự bảo hộ của Mỹ - không phải bảo hộ chống lại hiểm họa an ninh Xô viết mà là bảo đảm cho hai nước
này tiếp cận các nguyên liệu thô và nguồn tài nguyên chính. Thứ ba, nó đặt các nước Thế giới thứ ba
dưới sự cảnh báo rằng sự kết thúc Chiến tranh lạnh không mang lại cho họ giấy phép để thực hiện
những luật chơi của riêng họ. Trên thực tế, sự kết thúc Chiến tranh lạnh đã thực sự đặt Mỹ vào vị thế
mạnh hơn ở khu vực ngoại vi. Mỹ không còn phải đấu tranh với các nước Thế giới thứ ba muốn lợi
dụng cuộc Chiến tranh lạnh để dùng siêu cường này chống lại siêu cường kia. Phương án can thiệp
không còn bị ngăn cản bởi nỗi sợ hãi về cuộc đối đầu quân sự với Liên Xô. Thứ tư, cuộc chiến vùng
Vịnh đã lại tạo ra tình huống để có được sự ủng hộ mới của công chúng trong nước đối với bá quyền
Mỹ tại nước ngoài. Cuộc thảm sát bằng công nghệ cao dành cho quân đội Iraq một sự thất bại kết hợp
với thương vong nhẹ của phía Mỹ, cho thấy rằng Mỹ có thể quay trở lại thời kỳ bá quyền với giá rẻ
trước cuộc chiến tranh Việt Nam. Bất chấp những lợi thế hiển nhiên này, cuộc chiến vùng Vịnh đã
không đạt được các mục tiêu của nó trên bất kỳ cơ sở lâu dài nào. Sự thân thiện Anh - Mỹ, dựa trên
mối quan hệ các nhân gần gũi và những ràng buộc về hệ tư tưởng giữa Reagan và Thatcher, sau này là
Bush và John Major, nhanh chóng trở nên mờ nhạt sau thất bại của tổng thống Bush trong nỗ lực nhằm
tái đắc cử năm 1992. Nỗ lực của Mỹ để buộc Đức và Nhật Bản phụ thuộc vào sự bảo hộ của Mỹ có
những giá cao của riêng nó. Kể từ cách mạng Mỹ, lần đầu tiên Mỹ mới phải huy động những nguồn
đóng góp tài chính từ các nước khác để chi trả cho một cuộc chiến tranh, và Đức và Nhật là những
nước nòng cốt chính được nhắm tới. Sự can thiệp của Mỹ không ngăn cản được sự tan rã và chủ nghĩa
phân lập của các lượng ở thế giới thứ ba. Do vậy, nó không ngăn chặn được sự tự hủy diệt chủng tộc
của cuộc nội chiến Nam Tư, cuộc chiến cát cứ và nạn đói tại Somalie, sự xuống dốc của Haiti thành
một nước vô chính phủ và bạo lực, khuynh hướng phổ biến vũ khí hạt nhân rõ rệt trong các chính sách
quân sự của Cộng hòa dân chủ nhân dân Triều Tiên, hay nguy cơ chiến tranh giữa các chủng tộc và
trong nội bộ các chủng tộc tại Nam Phi.
Tóm lại, trong Chiến tranh vùng Vịnh 1991, Mỹ đã thành công trong việc ngăn chặn sự độc tôn
của Iraq đối với mỏ dầu ở khu vực này. Sau sự kiện này, “ảnh hưởng và thế lực của Mỹ ở khu vực
Trung Đông được tăng cường hơn trước, uy tín cũng được nâng lên rất cao, lập trường của thế giới
Arabia đối với Mỹ đã có sự thay đổi rất lớn. Các nước vùng Vịnh như Kuwait, Saudi Arabia càng phải
dựa vào Mỹ về mặt quân sự. Các nước đều muốn thúc đẩy quan hệ và hợp tác kinh tế với Mỹ” [64,
tr.51]. Quan trọng nhất là cuộc chiến này đã tạo cơ hội cho Mỹ đóng quân lâu dài và tăng cường ảnh
hưởng ở Trung Đông. Trước chiến tranh Iran - Iraq, ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực Trung Đông mới chỉ
hạn chế ở mức duy trì quan hệ đồng minh với Israel, sau đó là Saudi Arabia.. Khi đó Mỹ không hề có
mặt ở vùng nước hoặc trên bờ vùng Vịnh. Chiến tranh Iran - Iraq (1980 - 1988) đã tạo cơ hội đầu tiên
cho hạm đội Mỹ tới vùng Vịnh. Với các chiến hạm của Hải quân Mỹ đến từ Tây Âu, Mỹ đã chiếm giữ
các con đường hàng hải sống còn của các đoàn tàu chở dầu và tàu thuyền của các nước trung lập khác
đi lại trên vùng Vịnh. Việc Iraq tấn công Kuwait ngày 2/8/1990 đã tạo ra những cơ hội mới cho tham
vọng địa-chính trị của Mỹ. Trong phát biểu trước Quốc hội ngày 11/9/1990, Tổng thống G.Bush cho
rằng: cuộc khủng hoảng vùng Vịnh là nghiêm trọng, nhưng nó cũng tạo nên cơ hội hiếm hoi để thiết
lập một trật tự thế giới mới. “Cuộc chiến tranh Iraq - Kuwait năm 1990 đã mở cửa cho quân Mỹ tới
đóng quân lâu dài tại khu vực Trung Đông” [46, tr.29].
3.2. Vấn đề Kosovo
Kosovo là một tỉnh thuộc Serbia (trước đây thuộc Nam Tư cũ) và nằm trên bán đảo Balkan -
khu vực có vị trí địa-chính trị quan trọng, là cầu nối giữa các khu vực chiến lược như Địa Trung Hải,
biển Đen, Caucasus và biển Caspian. Balkan nói chung và Nam Tư nói riêng đã trở thành địa bàn tranh
giành chiến lược giữa các cường quốc, giữa đế chế Ottoman với đế chế Áo-Hung, giữa phe Đồng minh
và phe Trục trong chiến tranh thế giới thứ hai và sau đó là giữa các siêu cường Mỹ và Liên Xô trong
thời kỳ Chiến tranh lạnh. Chính vì vậy, những gì đang diễn ra và đã diễn ra từ sau khi Chiến tranh lạnh
kết thúc không đơn thuần là câu chuyện giữa người Serbia và người Kosovo gốc Albania mà còn là sự
cạnh tranh của các thế lực, cũ và mới, trên bàn cờ địa-chính trị Balkan. Với Mỹ, khống chế “cửa ô”
chiến lược Balkan sẽ tạo thêm điều kiện thuận lợi cho Mỹ kiềm chế Nga và cả châu Âu [46, tr.30].
Vấn đề Kosovo có nguồn gốc sắc tộc sâu xa: cả những người Serbia lẫn người gốc Albania đều
coi Kosovo là vùng “đất thánh” gắn bó chặt chẽ với bản sắc dân tộc của họ. Người Serbia luôn coi
Kosovo là “cái nôi” của chủ nghĩa dân tộc Serbia, biểu tượng cho chủ nghĩa yêu nước chống lại sự
chiếm đóng của đế chế Ottoman và thậm chí coi Kosovo là biểu tượng cho sự phản kháng của châu Âu
Thiên Chúa giáo chống lại sự bành trướng của Hồi giáo trong nhiều thế kỷ trước khi đế chế Ottoman
sụp đổ. Trong khi đó, người Kosovo gốc Albania lại xem Kosovo là một “miền đất hứa” khi họ được
đế chế Ottoman đưa đến định cư tại đây. Mâu thuẫn còn lớn hơn khi người Serbia theo Chính thống
giáo còn người Kosovo gốc Albania lại theo Hồi giáo. Trong khi người Serbia chiếm đa số tại Serbia
thì tại Kosovo, người Albania chiếm đa số áp đảo với hơn 90% trên tổng số khoảng 2 triệu dân.
Trở lại lịch sử, người Nam Slavơ, trong đó có người Serbia đến bán đảo Balkan vào khoảng thế
kỷ VII sau công nguyên. Trên mảnh đất mà Đế chế Byzantine cấp cho, người Serbia dần xây dựng và
mở rộng đất đai và lập nên vương quốc Serbia. Vương quốc này đã có thời cực thịnh vượng (khoảng
đầu thế kỷ XIV) và bao gồm cả Bosnia, Slovenia và Croatia. Kosovo từng là trung tâm của vương quốc
này. Cũng chính tại Kosovo vào năm 1389, Hoàng tử Lada, thủ lĩnh của Serbia đã ngã xuống trong trận
chiến đấu chống đế quốc Ottoman để bảo vệ vương quốc Serbia. Tuy cuộc chiến thất bại, nhưng từ đó
Kosovo được coi như cái nôi lịch sử, nơi hội tụ tinh thần dân tộc Serbia. Vào cuối thế kỷ XIV, Kosovo
bị xâm chiếm và trở thành lãnh thổ của đế chế Ottoman. Sau khi đè bẹp các phong trào kháng chiến
của người Serbia theo Chính thống giáo, đế chế Ottoman đã đưa người Albania Hồi giáo đến định cư
tại Kosovo. Năm 1912, đế chế Ottoman sụp đổ sau những cuộc nổi dậy của người Serbia, nhà nước
Serbia ra đời và liên tục mở rộng đất đai, đặc biệt thông qua các cuộc chiến tranh Balkan, Kosovo trở
thành một bộ phận của Serbia. Kết thúc chiến tranh thế giới thứ nhất, với Hòa ước Versailles, Serbia đã
trở thành Nam Tư và bao gồm cả Kosovo, Vovoidin, Montenegro, Bosnia, Croatia và Slovenia và như
vậy đạt được hai mục tiêu: thống nhất được tất cả người Serbia trong một quốc gia và lập được một
liên minh bền vững của các dân tộc Nam Slavơ. Năm 1941, Đức Quốc xã chiếm toàn bộ Nam Tư.
Kosovo trở thành một bộ phận của nhà nước Đại Albania dưới sự cai quản của Italia. Năm 1945, kết
thúc chiến tranh, nhà nước Đại Albania tan rã, Liên bang Nam Tư ra đời, Kosovo trở thành một bộ
phận lãnh thổ thuộc Serbia. Dưới chính quyền của tổng thống Tito, Nam Tư là một nhà nước liên bang
gồm sáu nước cộng hòa: Serbia, Slovenia, Croatia, Bosnia, Montenegro, Makedonia và hai khu tự trị:
Kosovo và Vovoidin. Với chính sách dân tộc cân bằng và trong bối cảnh Chiến tranh lạnh, cộng với
tình hình kinh tế Nam Tư còn khả quan, các mâu thuẫn sắc tộc lắng xuống hoặc được giải quyết tương
đối êm thấm. Trong một thời gian dài đến những năm 1980, Kosovo được hưởng quy chế tự trị cao
trong Liên bang Nam Tư. Nhưng không khí căng thẳng và thù địch giữa hai cộng đồng người Albania
và Serbia vẫn âm ỉ và ngày càng gia tăng, nhất là từ đầu những năm 1980, kinh tế Nam Tư đi xuống,
các căng thẳng trong xã hội tăng lên, trong đó đặc biệt có vấn đề mâu thuẫn dân tộc. Năm 1986, ông
Milosevic lên cầm quyền ở Nam Tư và đã siết chặt quản lý đối với Kosovo, tiến tới xóa bỏ tất cả các
thể chế chính trị và văn hóa, cũng như quyền tự trị đối của Kosovo.
Chiến tranh lạnh kết thúc cùng với những ràng buộc của nó mở đường cho nhiều mâu thuẫn về
sắc tộc và tôn giáo bùng nổ ở khu vực Balkan. Các sắc tộc trong Liên bang Nam Tư bắt đầu tìm kiếm
con đường riêng và đưa ra các yêu sách độc lập tách khỏi chính quyền liên bang. Tình hình này đã dẫn
đến việc xóa bỏ quyền tự trị của hai tỉnh Vovoidin và Kosovo vào năm 1989 dưới chính quyền của ông
Milosevic, đồng thời cũng dẫn đến việc bốn trong số sáu nước cộng hòa của Liên bang tách ra độc lập:
Slovenia, Croatia (năm 1991), Bosnia, Makedonia (năm 1992). Năm 1990, Quốc hội Kosovo tuyên bố
Kosovo độc lập, tiến hành trưng cầu dân ý và được ủng hộ của đa số dân chúng. Năm 1995, trên cơ sở
các nhóm vũ trang chống Chính phủ liên bang đã tồn tại từ trước, một lực lượng người gốc Albania
theo đường lối cứng rắn thành lập Quân đội Giải phóng Kosovo (KLA), được sự hỗ trợ về vũ khí và
các viện trợ khác từ Albania, Mỹ, Đức, đã tiến hành chiến tranh du kích chống chính quyền liên bang
do người Serbia kiểm soát.
Tình hình bùng nổ ở Kosovo chính là diễn biến logic sau khi Slovenia, Croatia, rồi Bosnia giành
được độc lập nhờ sự hỗ trợ can thiệp trực tiếp của nước ngoài. Người Albania ở Kosovo rõ ràng cũng
muốn theo gương các nước Cộng hòa cũ này của Nam Tư. Cho dù chính sách của ông Milosevic đối
với các dân tộc không phải người Serbia, theo phương Tây, có nhiều phân biệt đối xử không công bằng
đã đẩy các mâu thuẫn dân tộc, tôn giáo vốn có từ lâu đời lên cao điểm nhưng nếu như không có sự can
thiệp từ bên ngoài có lẽ không có khủng hoảng bùng nổ và lan rộng như tình hình diễn ra hiện nay ở
vùng đất Nam Tư cũ. Sự việc bắt đầu từ việc nước Đức, trên cơ sở quan hệ văn hóa truyền thống gần
gũi với miền Tây Nam Tư cũ, và các tính toán khẳng định vai trò ảnh hưởng của mình ở Châu Âu, đã
mạnh mẽ ủng hộ Slovenia và Croatia tách ra độc lập - một hành động bất ngờ đối với chính các đồng
minh Tây Âu của Đức. Các nước Tây Âu lúc đầu cho rằng nên ủng hộ giải quyết các vấn đề dân tộc
của Nam Tư theo tinh thần bảo toàn thống nhất liên bang, tránh một phản ứng lây lan đòi li khai của
các cộng đồng sắc tộc khác nhau, tránh tình trạng “Balkan hóa”. Nhưng hành động đơn phương của
Đức đặt họ vào tình thế “việc đã rồi”; hơn nữa các nước này cũng không muốn để Đức hoàn toàn chi
phối chiều hướng phát triển ở khu vực, Tây Âu đã quyết định ủng hộ lập trường của Đức và đứng ra
làm người bảo trợ cho các tiến trình tách khỏi liên bang của Slovenia, Croatia, Bosnia. Tuy nhiên, do
thực lực và tiếng nói còn hạn chế nên Tây Âu đã để tuột dần sang cho Mỹ vai trò chi phối các tiến trình
này. Sự can thiệp bên ngoài để thúc ép tiến trình phân tách của một dân tộc là chất xúc tác mạnh mẽ
cho các cuộc bạo động và khuyến khích các dân tộc khác cũng đòi hỏi được tách ra độc lập tương tự.
Sự bùng nổ dây chuyền những đòi hỏi độc lập này đã gây ra một tình trạng căng thẳng leo thang khó
kiểm soát nổi bên trong Nam Tư, tạo thêm cớ để bên ngoài lợi dụng can thiệp sâu hơn nữa.
Tháng 3/1999, với lý do quân đội Nam Tư vi phạm nhân quyền và phạm tội diệt chủng đối với
người Albania ở Kosovo, Mỹ thông qua NATO đã sử dụng không quân tấn công Nam Tư, yêu cầu
chính quyền Belgrad rút quân đội khỏi Kosovo. Sau đó, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ra Nghị quyết
1244, đặt Kosovo dưới sự quản trị của Liên hợp quốc. Quân đội Nam Tư rút khỏi Kosovo, lực lượng
KFOR của NATO được triển khai tại Kosovo nhằm đảm bảo an ninh và duy trì sự chung sống giữa hai
cộng đồng người Albania và Serbia. Đây là lần đầu tiên NATO do Mỹ cầm đầu tấn công một nước có
chủ quyền và có quan hệ thân thiện với Nga ngay trong khu vực ảnh hưởng truyền thống của nước này
ở châu Âu.
Mỹ và các nước Tây Âu đều nhất loạt tuyên bố tấn công Nam Tư để bảo vệ nhân quyền, chống
thanh trừng sắc tộc. Tuy nhiên, nếu nhìn vào thái độ và hành động không nhất quán của họ trong cùng
một loại vấn đề “nhân quyền” đối với các đối tượng khác nhau (thí dụ họ không hề phản ứng trong vấn
đề người Kurd ở Thổ Nhĩ Kỳ), có thể nói: nếu đây không chỉ là cái cớ thì cũng không hẳn là lý do
chính. Đối với Mỹ, khủng hoảng Kosovo xảy ra đúng vào thời điểm Mỹ cho rằng thế và lực của mình
đang rất mạnh và Mỹ đang muốn khẳng định vai trò siêu cường duy nhất, nắm quyền bá chủ thế giới.
Muốn vậy, nhất thiết và trước hết Mỹ phải nắm được vai trò chủ đạo ở Châu Âu, khu vực “có lợi ích
sống còn” đối với Mỹ, nơi vừa tập trung những đồng minh chiến lược đồng thời là các đối thủ cạnh
tranh tiềm tàng lâu dài, vừa có những đối tượng vốn là kẻ thù trong quá khứ và nay cần chinh phục
hoặc kìm chế như các nước Đông Âu và Liên Xô cũ. Con đường để Mỹ thực hiện nắm quyền chủ đạo
ở châu Âu không còn gì khác hơn là củng cố và mở rộng vai trò của NATO vốn do Mỹ chi phối; và lý
do đưa ra cũng không có gì thuyết phục hơn là để “bảo vệ an ninh châu Âu” và bảo vệ, phổ biến các
“giá trị phương Tây”. Cuộc tấn công của NATO vào Nam Tư lần này chính là cơ hội để thử nghiệm
toàn diện “Khái niệm chiến lược mới” của Mỹ nhằm biến NATO từ một tổ chức quân sự chính trị khu
vực trở thành một tổ chức chính trị quốc tế. Tình hình căng thẳng ở Kosovo và Nam Tư hội tụ đủ các
yếu tố giúp Mỹ thuyết phục đồng minh: ở đây có thể nêu vấn đề “bảo vệ các giá trị của phương Tây”,
vấn đề xử lý điểm yếu trong hệ thống an ninh châu Âu là Balkan và Nam Âu. Củng cố NATO đồng
thời cũng có nghĩa là mở rộng khu vực ảnh hưởng của NATO, cũng tức là mở rộng ảnh hưởng của Mỹ,
sang phía Đông. Các hành động trực tiếp can thiệp của tổ chức này vào tiến trình phân tách Nam Tư
trước đây cũng như hôm nay đều nhằm bành trướng ảnh hưởng sang khu vực Balkan. Sự kiện tấn công
Nam Tư tiếp liền ngay sau việc Hungari, Ba Lan, Czech gia nhập NATO cũng là một cách biểu dương
sức mạnh Đông tiến của NATO. Để nắm vai trò chủ đạo ở châu Âu cũng như trên thế giới, Mỹ không
thể không tính đến nhân tố Nga. Mặc dù giờ đây Nga không còn là kẻ thù của Mỹ như trước đây nữa,
nhưng tình hình khủng hoảng toàn diện hiện giờ ở đất nước này, cũng như một viễn cảnh về một đối
thủ cạnh tranh tiềm tàng trong tương lai đã khiến Mỹ thi hành chính sách hai mặt với Nga: vừa lôi kéo
Nga thông qua giúp đỡ, viện trợ và cho Nga tham gia hay có vai trò trong một số cơ cấu hợp tác châu
Âu; vừa kiềm chế bằng cách tước bỏ dần các ảnh hưởng của Nga ở lục địa này. Mỹ dùng NATO đánh
Nam Tư lần này chính là nhằm kiềm chế Nga. Mỹ và Tây Âu đã chọn thời điểm Nga đang khó khăn
nhất để đánh đồng minh Serbia của Nga, gạt ảnh hưởng của Nga khỏi khu vực Balkan. Trên thực tế,
Mỹ đã phủ nhận quyền phủ quyết của Nga ở Hội Đồng Bảo an Liên hợp quốc bằng việc phớt lờ tổ
chức này khi quyết định đánh Nam Tư. Cuộc tấn công của NATO vào Nam Tư bất chấp sự phản đối
của Nga cũng thực tế làm cho Hiệp định đối tác chiến lược giữa Nga và NATO ký tháng 5/1997 trở
nên vô nghĩa. Cuộc tiến công Nam Tư cũng là cơ hội Mỹ thử nghiệm một số loại vũ khí mới, phương
thức quân sự mới của “thời đại thông tin”, và kiểm chứng chiến lược quân sự mới đối phó cùng một
lúc với hai cuộc chiến tranh cấp vùng (Nam Tư và Iraq). “Với cuộc chiến này, nguyên tắc chủ quyền
quốc gia vốn là nguyên tắc nền tảng trong quan hệ quốc tế đã được xác lập từ năm 1648 đã bị vi phạm
nghiêm trọng. Từ tiền lệ Kosovo, Mỹ có thể hành động ở những nơi khác bất chấp Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế” [46, tr.30].
Như vậy, chính sách của Mỹ đối với Kosovo thời kỳ sau Chiến tranh lạnh là: ủng hộ Kosovo
giành quyền tự chủ, duy trì sự hiện diện của Mỹ tại khu vực này. Nguyên nhân dẫn đến chính sách này
trước hết do vị trí chiến lược của Balkan và Kosovo bởi “nếu chiếm được Kosovo - một vị trí lý tưởng,
Mỹ và NATO sẽ cắm được một cái đinh vào giữa trái tim châu Âu, tạo được bàn đạp đứng chân trong
thế bố trí chiến lược của Mỹ và NATO ở châu Âu, đặc biệt là về mặt quân sự”. Tiếp theo đó là do
những tính toán riêng của Mỹ trong lợi ích của mình tại khu vực. Cụ thể, bằng việc can thiệp vào tình
hình Kosovo, Mỹ mong đợi sẽ ngăn được việc đẩy bán đảo Balkan vào tình trạng bất ổn định bởi tình
trạng đó có thể sẽ lan ra toàn châu Âu mà việc giữ cho châu Âu ổn định có ý nghĩa quan trọng đối với
Mỹ. Tiếp đó, bằng việc can thiệp vào tình hình Kosovo, Mỹ đã tao ra một lý do tồn tại cho NATO, một
công cụ - phương tiện quân sự của Mỹ. Và cuối cùng, can thiệp vào Kosovo giúp Mỹ kiềm chế ảnh
hưởng của Nga tại khu vực và đây cũng có thể coi là một bước đi thăm dò phản ứng của Nga.
Ngày 17/2/2008, Quốc hội Kosovo đã bỏ phiếu ủng hộ tuyên bố độc lập với Serbia trong một
phiên họp đặc biệt. Thủ tướng Kosovo Hashim Thaci đã đọc tuyên bố khẳng định Cộng hòa Kosovo là
“một nhà nước độc lập, có chủ quyền và dân chủ”. Trước quyết định này, ngày 18/2, một ngày sau khi
Kosovo tuyên bố độc lập, Mỹ cùng các nước lớn trong EU là Anh, Pháp, Đức, Italia đã chính
thức công nhận độc lập của Kosovo. Ngày 8/4/2008, Mỹ đã chính thức nâng cấp văn phòng đại diện
của mình tại thủ đô Pristina của Kosovo lên thành đại sứ quán. Như vậy, Mỹ là nước thứ 5 trên thế giới
thiết lập quan hệ ngoại giao cấp cao nhất với Kosovo. Giải thích cho việc Mỹ nhanh chóng công nhận
độc lập Kosovo và muốn lập quốc gia Hồi giáo tại Balkan, có nhiều lý do như Mỹ muốn chứng tỏ lập
trường chống khủng bố chứ không chống đạo Hồi và độc lập của Kosovo đồng nghĩa với thắng lợi của
Mỹ ở khu vực này.
Việc Kosovo đơn phương tuyên bố độc lập làm thay đổi không chỉ cấu trúc địa-chính trị ở khu
vực, mà có thể tạo ra một tiền lệ nguy hiểm khuyến khích các phong trào li khai ở Châu Âu và cả một
số khu vực khác trên thế giới. Nó có thể là viên domino đầu tiên bị kích đổ. Nó có thể gây nên phản
ứng dây chuyền. Mức độ đến đâu và bao giờ mới tái diễn là chuyện khác, nhưng điều chắc chắn là tiền
lệ này sẽ nhanh chóng trở thành thông lệ chứ không phải chỉ là một trường hợp đặc biệt và duy nhất
như Mỹ và EU hiện quả quyết. Những phong trào ly khai đã xuất hiện, đòi hỏi sự ủng hộ về tài chính,
công nhận về pháp lý. Làn sóng ly khai tái xuất hiện tại Gruzia (Apkhazia, Nam Osetia), Azerbaijan
(Nagorno-Karabakh), Thổ Nhĩ kỳ (người Kurd), Ấn Độ (Kashmir), Indonesia (Aceh)..., tràn sang cả
những nước phát triển và ổn định như Vương quốc Anh (Bắc Ireland), Canada (Québec), Pháp (đảo
Corse), Bỉ (Wallonie và Flandre)...
Nga là quốc gia số một quyết liệt chống lại một quy chế độc lập cho Kosovo. Lý do đơn giản
không chỉ vì Serbia vốn là một đồng minh của nước Nga trong cả quá khứ lẫn hiện tại mà còn bởi vì
nếu phương Tây thành công trong việc giành cho Kosovo độc lập thì điều đó cũng có nghĩa là ảnh
hưởng của Nga ở châu Âu bị suy sụp nghiêm trọng. Nó sẽ chứng tỏ rằng quan điểm của Nga về một
vấn đề quốc tế đã dễ dàng bị các nước phương Tây bác bỏ. Mà nước Nga bây giờ không phải là nước
Nga của 10 năm trước với sự yếu kém về tiềm lực kinh tế cũng như mất ổn định về chính trị. Nước
Nga mới dưới thời Tổng thống V.Putin đang muốn chứng minh rằng, họ đang trên con đường trở lại vị
thế của một cường quốc và Kosovo chính là “liều thuốc thử” cho sức mạnh của nước Nga trên trường
quốc tế. Với Nga, tương lai Kosovo không chỉ là vấn đề địa lý - chính trị mà còn liên quan đến tư
tưởng dân tộc đang trỗi dậy mạnh mẽ. Mặc dù Nga rất cố gắng tham gia giải quyết vấn đề Kosovo sau
khi NATO ngừng ném bom Serbia năm 1999, nhưng thực chất ảnh hưởng của Nga vẫn bị đẩy ra khỏi
Balkan. Trong khi đó, thời gian qua, Moscow liên tục phải chứng kiến nhiều cựu đồng minh trong hệ
văn hóa Slavơ như Hungary, Ba Lan, Ukraine... ngả vào vòng tay của phương Tây. Vì vậy, việc bảo vệ
Serbia trong vấn đề Kosovo có ý nghĩa rất lớn đối với ảnh hưởng của Nga tại Balkan. Ngoài ra, đối với
Nga, việc Kosovo độc lập sẽ không có lợi chút nào trong việc kiềm chế tư tưởng ly khai ở Chesnia.
Giới chức Nga lo ngại việc công nhận Kosovo là quốc gia độc lập sẽ tạo ra một tiền lệ pháp lý cho các
khu vực khác đi theo, trong đó có các nước cộng hòa thuộc Nga. Trong khi đó thì Mỹ hứa sẽ ủng hộ
Kosovo độc lập, đơn giản bởi vì vừa muốn làm suy yếu một đồng minh cuối cùng của Moscow ở tây
Balkan là Serbia, đồng thời tạo điều kiện cho phương Tây tiếp cận nguồn tài nguyên ở khu vực Caspi,
mở rộng quyền kiểm soát chiến lược quân sự của NATO đến đông nam châu Âu. Đây không phải là
một hành động ngẫu nhiên mà là kết quả cuối cùng của một quá trình đã được tính toán kỹ, bắt đầu từ
năm 1999 với cuộc chiến Kosovo, mà mục tiêu không gì khác là tranh giành ảnh hưởng với nước Nga
trong một không gian hậu Chiến tranh lạnh.
3.3. Vấn đề mở rộng NATO
. NATO - Khối quân sự Bắc Đại Tây Dương, một liên minh chính trị và quân sự được thành lập
vào năm 1949 giữa Mỹ và các nước Tây Âu để chống lại khối Hiệp ước Warsaw, đứng đầu là Liên Xô,
bảo vệ “thế giới tự do” khỏi “mối đe dọa cộng sản”. Trong những năm sau Chiến tranh lạnh, các quan
chức Mỹ đã vật lộn với vấn đề phạm vi và vai trò thích hợp của liên minh NATO. Việc kết thúc Chiến
tranh lạnh đã làm nảy sinh triển vọng về quan hệ hữu nghị giữa các nước châu Âu trước đây đã bị chia
thành các khối đối địch. Ngay từ đầu tháng 7/1990, các thành viên NATO đã ra tín hiệu Liên Xô và các
Chính phủ Đông Âu rằng họ sẽ hoan nghênh các cuộc tư vấn quân sự nhằm giải quyết mâu thuẫn và
giảm khả năng bùng nổ chiến tranh. Do quyết tâm ngăn chặn sự bất ổn định về chính trị ở Đông Âu,
thể hiện qua các cuộc khủng hoảng như cuộc chiến tranh sắc tộc ở miền Nagorno-Karabakh của
Adécbaigian, chính quyền Bush đã tiến hành một loạt các hội nghị dẫn đến việc thành lập Hội đồng
hợp tác Bắc Đại Tây Dương (NACC) vào tháng 11/1991. Được các Bộ trưởng NATO gọi là một “kiến
trúc an ninh mới”, NACC được lập ra nhằm thúc đẩy thông tin về các vấn đề an ninh giữa các thành
viên của NATO và của khối Hiệp ước Warsaw trước đây. Tại hội nghị cấp Bộ trưởng đầu tiên của
mình tháng 6/1992, NACC tự hào đã có 37 nước thành viên tham gia, kể cả Nga và tất cả các nước
trước đây thuộc Liên Xô. Mặc dù Bush đã tranh thủ được Nga tham gia NACC nhưng tổng thống
Clinton phải đối mặt với một tình trạng tiến thoái lưỡng nan phức tạp hơn về mối quan hệ lâu dài giữa
NATO và Nga. Giữa năm 1993, Clinton đã xem xét việc chấp nhận đề nghị của Balan, Hunggari và
Cộng hòa Czech xin được gia nhập NATO. Tuy nhiên do sức ép của chủ nghĩa dân tộc đang phát triển
trong các công dân Nga, Tổng thống Boris Yeltsin đã rút bỏ lời cam kết trước đó là Nga sẽ không phản
đối việc mở rộng NATO. Yevgeny M. Primakov, Giám đốc Cơ quan tình báo Nga, nói rằng vì việc mở
rộng NATO “sẽ mang khối quân sự lớn nhất thế giới và có tiềm năng tấn công khổng lồ đến sát biên
giới Nga” cho nên nó đòi hỏi “phía chúng tôi phải đánh giá lại một cách cơ bản tất cả các khái niệm
phòng thủ của mình”.
Cảnh giác đối với làn sóng chủ nghĩa dân tộc Nga đang lên, Clinton đã hoãn quyết định mở rộng
NATO. Thay vào đó là đề nghị dự án “hợp tác vì hòa bình” (PFP). Sáng kiến này không cho các nước
Đông Âu hưởng các bảo đảm an ninh như dành cho các thành viên NATO nhưng mời họ tham gia các
cuộc tập trận của NATO, tiến hành các hành động quân sự chung để gìn giữ hòa bình và cứu trợ nhân
đạo, tham khảo ý kiến NATO nếu xuất hiện một mối đe dọa từ bên ngoài và điều đình việc gia nhập
liên minh sau này. Tháng 1/1994, một nhà ngoại giao Mỹ nói: “Đề nghị “hợp tác vì hòa bình” là một
thỏa hiệp rất khôn khéo giữa những người nói rằng chúng ta không nên làm mất lòng người Nga và
những người nói rằng ngay bây giờ chúng ta nên để những người châu Âu tham gia liên minh. Đề nghị
đó đẹp ở chỗ nó là một cái khung và trên mảnh vải để trắng của nó, chúng ta có thể vẽ cái gì mà chúng
ta muốn”. Clinton đã cố gắng thuyết phục Nga tham gia “hợp tác vì hòa bình” ngày 22/6/1994 nhưng
điều đó không giải quyết vĩnh viễn mâu thuẫn giữa Mỹ và Nga về vấn đề NATO.
Sự chống đối của Nga tiếp tục làm trì hoãn việc mở rộng NATO năm 1995 và 1996. Tại cuộc
họp của Tổ chức An ninh và Hợp tác Châu Âu (CSCE) tại Budapest tháng 12/1994, Yeltssin đã có lời
cảnh báo khá gay gắt đối với việc kết nạp các nước Đông Âu vào NATO. Để xoa dịu Nga, tháng
3/1995, Clinton gửi thư cho Yeltsin bảo đảm rằng ông sẽ tham gia ý kiến Nga một cách thận trọng về
việc mở rộng NATO. Một quan chức Mỹ nhận xét: “Điều quan trọng là nên phát triển một mối quan hệ
mới giữa Nga và NATO song song với tiến trình mở rộng NATO”. Ngoại trưởng Nga Andrei Kozyrev
không yên tâm đã nói: “Bất kể người ta có thể nghĩ gì về NATO, thì nó vẫn là một liên minh quân sự
đã được lập ra khi châu Âu bị chia rẽ. NATO nên được thay bằng một mô hình mới dựa trên an ninh
toàn diện”. Khoảng cách giữa lập trường của Mỹ và Nga vẫn còn, mặc dù trong Hội nghị cấp cao với
Yeltsin ở Moscow tháng 5/1995, Clinton đã kêu gọi nên có một “mối quan hệ đặc biệt giữa NATO và
Nga”. Các nhà lãnh đạo Nga đã đồng ý tiến hành các cuộc thảo luận bí mật với các quan chức Mỹ về
vấn đề này những đã cảnh báo rằng Nga sẽ rút khỏi “hợp tác vì hòa bình” nếu NATO được mở rộng.
Sau khi được đề bạt làm Bộ trưởng Ngoại giao, Yevgeny M. Primakov nhấn mạnh với Ngoại trưởng
Christopher rằng sự mở rộng NATO đe dọa vị trí bình đẳng của Nga và do đó không thể chấp nhận
được. Các quan chức trong chính quyền Clinton không hoàn toàn từ bỏ kế hoạch của họ về mở rộng
NATO bao gồm các nước Đông Âu. Tháng 9/1995, các thành viên NATO đã chuẩn y các văn kiện để
làm dễ dàng cho tiến trình tham gia NATO. Ngoại trưởng Mỹ Warren Christopher nói: “NATO đã cam
kết nhận thêm thành viên mới, và NATO không nên và sẽ không để các nước dân chủ đứng ở phòng
chờ mãi mãi. Chúng ta vẫn kiên trì mở rộng NATO và điều đó sẽ xảy ra”. Mở rộng NATO về phía
đông không bao giờ nằm ngoài toan tính của Mỹ nhằm bao vây, thu hẹp tầm ảnh hưởng của Nga, từ đó
có thể khống chế Moscow về mặt ngoại giao và dễ tranh giành quyền lợi tài nguyên dầu mỏ và khí đốt
ở khu vực Trung Á. Ngoài ra, củng cố NATO với Mỹ có nghĩa là tăng cường vai trò chi phối của Mỹ
đối với các đồng minh Tây Âu, một đồng minh ngày càng ý thức xây dựng sức mạnh toàn diện để cạnh
tranh với chính Mỹ.
Ngày 12/3/1999, Ba Lan, Hungary và Cộng hòa Czech trở thành những cựu thành viên đầu tiên
của khối Liên bang Xô Viết gia nhập NATO, nâng số thành viên của NATO lên 19 nước. Vào ngày 24
và 25/4/1999, nhân dịp kỷ niệm 50 năm ngày ra đời của tổ chức NATO, Mỹ đã đưa ra “Khái niệm
chiến lược mới” nhằm biến NATO từ một tổ chức quân sự chính trị khu vực trở thành một tổ chức
chính trị quốc tế, bao gồm hai nét chính: thứ nhất, chủ trương mở rộng phạm vi hoạt động của NATO
ra ngoài khu vực các nước thành viên, trên toàn châu Âu, thậm chí “toàn cầu hóa NATO”, hay biến
NATO thành “sen đầm quốc tế”; thứ hai, thay đổi nguyên tắc hoạt động từ phòng thủ đổi sang tiến
công và trao cho tổ chức này một khả năng hoạt động hoàn toàn chủ động, độc lập, không phụ thuộc
vào bất cứ tổ chức hay thiết chế quốc tế nào khác kể cả Liên hợp quốc. Với khái niệm này, Mỹ đã
chứng minh được sự cần thiết và sức sống của NATO thời hậu Chiến tranh lạnh.
Dưới thời Tổng thống G.Bush, NATO đã mở rộng từ 19 lên 26 nước thành viên vào ngày
29/3/2004 khi kết nạp thêm 7 quốc gia, gồm 4 quốc gia Đông Âu: Bulgaria, Romania, Slovakia,
Slovenia và 3 quốc gia vùng Baltic: Estonia, Litva, Latvia. Đợt mở rộng lớn nhất trong lịch sử hơn nửa
thế kỷ tồn tại của NATO đã đưa biên giới NATO áp sát lãnh thổ nước Nga, cách cố đô St.Petersburg
chỉ vài chục phút bay của máy bay chiến đấu phản lực.
Với bước đi táo bạo này, lược đồ địa-chính trị châu Âu đã thay đổi diện mạo một cách cơ bản.
Trong khi tiềm lực, sức mạnh của đối thủ chính yếu thời Chiến tranh lạnh sa sút thì việc kết nạp thêm
10 thành viên đã đưa số thành viên mới chiếm tới 40% thành viên NATO. Ngoại trưởng Mỹ Colin
Powell tại lễ kết nạp 7 thành viên ở Nhà Trắng đã cho rằng sự kiện này là “một bước tiến lịch sử” trên
con đường hướng tới mục tiêu “mở rộng khu vực tự do và ổn định ở châu Âu từ Baltic tới biển Đen”.
Tư lệnh tối cao NATO, tướng Mỹ Jim Jones nói không úp mở: “NATO đang trong quá trình thực hiện
một trong những thay đổi quan trọng nhất trong lịch sử. NATO sẽ hoạt động trên phạm vi toàn cầu,
không chỉ dừng lại trong một khu vực”. Đích thân Tổng thống Mỹ G.W.Bush nói: “Các thành viên mới
sẽ làm các mục tiêu của liên minh chúng ta (NATO) rõ ràng hơn. Họ hiểu sự nghiệp ở Afghanistan và
Iraq”.
Cho dù Washington và NATO biện minh và trấn an hay có những động tác như thế nào cũng
không thể giảm bớt nỗi lo lắng có thực của nước Nga. Cùng với việc NATO mở rộng sang phía Đông,
lực lượng vũ trang Mỹ đang từng bước áp sát biên giới Nga, đặt Nga vào thế bị o ép, bao vây ở biển
Đen, đặc biệt là sau khi Romania và Bulgaria gia nhập NATO, Ukraina và Gruzia ngả sang phương
Tây và Mỹ di chuyển trọng điểm bố trí lực lượng, căn cứ từ Đức sang Romania và Bulgaria. Do đó,
Học thuyết quân sự và Chiến lược an ninh Nga (công bố năm 1999 và năm 2000) đều coi NATO là đối
thủ quân sự chủ yếu của Nga và coi việc ngăn chặn NATO phát động “chiến tranh khu vực quy mô
lớn” là trọng điểm chiến lược. Sự kiện mở rộng NATO cũng được Bộ trưởng Quốc phòng Nga Sergei
Ivanov đánh giá là bước đi “hung hăng của NATO”, đồng thời cảnh báo Nga sẽ đánh giá lại kế hoạch
quân sự của mình sau “chiến lược hung hăng” của NATO. Nỗi lo lắng của nước Nga càng có cơ sở hơn
khi cùng vào ngày 3 quốc gia Baltic chính thức gia nhập NATO, những chiếc máy bay chiến đấu hiện
đại F-16 của liên minh quân sự này đã bắt đầu tuần tra trên không phận Estonia, Lithuania và Latvia để
thực hiện điều mà NATO tuyên bố là “thiết lập một lá chắn phòng không”. Phản ứng về hành động này
của NATO, ông Ivanov tuyên bố, Nga có thể xây dựng hệ thống phòng thủ hạt nhân để đáp lại việc
liên minh quân sự này triển khai máy bay chiến đấu trong không phận của 3 nước cộng hòa thuộc Liên
Xô cũ ở vùng Baltic.
Ngược hẳn với logic thông thường, sự tan rã của Hiệp ước Warsaw không hề dẫn tới việc chấm
dứt sự tồn tại của NATO cho dù hiệp ước này chính là đối trọng cũng như lý do dẫn tới sự ra đời của
liên minh quân sự Bắc Đại Tây Dương. Trái lại, sự tan rã của Hiệp ước Warsaw và sụp đổ của Liên Xô
còn là cơ hội trời cho để NATO trỗi dậy trở thành liên minh quân sự có sức mạnh thống soái. Bất chấp
sự phản đối quyết liệt nhất của Liên Xô cũ và nước Nga kế thừa sau này, NATO cứ như một đoàn tàu
khổng lồ chất chứa đầy các loại vũ khí hiện đại lừng lững tiến sang phía Đông.
Tuy nhiên, vào thời điểm hiện tại, việc mở rộng về phía đông, một kế hoạch lớn trong thế kỷ
XXI của NATO, đang gặp nhiều “chướng ngại vật”. Ðối với Nga, NATO đang gặp khó khăn trong
việc thuyết phục Moscow chấp thuận để Mỹ lắp đặt lá chắn tên lửa (NMD) tại Cộng hòa Czech và Ba
Lan. Washington cho biết, kế hoạch lập NMD (gồm 10 tên lửa đánh chặn tại Ba Lan vào năm 2012 và
một trạm radar tại Cộng hòa Czech) là nhằm bảo vệ các đồng minh châu Âu trước các cuộc “tiến công
bằng tên lửa” từ Iran và CHDCND Triều Tiên. Nhưng Moscow khẳng định, “nguy cơ” Iran và
CHDCND Triều Tiên đã bị Washington thổi phồng lên gấp nhiều lần. Phía Nga cho rằng, kế hoạch
triển khai NMD của Mỹ ở Ba Lan và Czech chỉ nhằm kiềm chế ảnh hưởng của Moscow trong khu vực
và hành động này sẽ gây tổn hại mối quan hệ Nga - NATO. Nga coi những nỗ lực của NATO mở rộng
về phía đông là âm mưu của Mỹ - NATO nhằm bao vây và hạn chế ảnh hưởng của Nga; kiên quyết
phản đối kế hoạch của Mỹ triển khai hệ thống phòng thủ tên lửa ở châu Âu tại Ba Lan và Cộng hòa
Czech; phản đối phương Tây ủng hộ việc trao quy chế độc lập cho Kosovo, và nóng lên cả về vấn đề
dân chủ - nhân quyền... Không cải thiện được bất đồng mà NATO chỉ lợi dụng để “bành trướng” về
phía đông, tranh giành khu vực ảnh hưởng của Nga nên tháng 12/2007 Nga đã rút khỏi Hiệp ước về
các lực lượng vũ trang thông thường ở châu Âu (CFE) - Hiệp ước CFE giới hạn việc triển khai xe tăng,
máy bay và các vũ khí thông thường hạng nặng trên khắp Châu Âu, được khối Warszawa và NATO ký
năm 1990 và được bổ sung tại hội nghị cấp cao NATO - Nga ở Istanbul (Thổ Nhĩ Kỳ) năm 1999. Đó là
một “đòn cảnh cáo” đối với ý đồ thực sự của phương Tây, thể hiện lập trường tự chủ quyết đoán của
Nga nay đang lấy lại vị thế của mình.
Nhìn bề ngoài, quyết định mở rộng NATO để kết nạp Gruzia và Ukraina phản ánh một đợt mở
rộng quân số thông thường của NATO lần thứ 3 tiếp theo 2 đợt mở rộng kết nạp các nước Cộng hòa
thuộc Liên bang Xô viết trước đây sau khi Liên Xô sụp đổ vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Hai
đợt mở rộng năm 1999 và 2004 được đánh giá là thành công vì đã góp phần làm bình ổn quá trình quá
độ của các nước Đông Âu sang một hệ thống chính trị và xã hội mới TBCN. Tuy nhiên, điểm mới
trong đợt mở rộng kết nạp Gruzia và Ukraina vào NATO lần này là ở bối cảnh chính trị của nó. Nước
Nga trong đầu những năm 2000 đã khác nhiều so với nước Nga trong những năm 1990: hùng mạnh
hơn, tự tin hơn và quyết đoán hơn trong quan hệ quốc tế nhờ đạt được nhiều thành tựu về phát triển
kinh tế do cải cách và giá tài nguyên tăng đột biến, đặc biệt là dầu khí. Do đó, đối với Nga, việc NATO
dự định kết nạp Gruzia và Ukraina, hai nước láng giềng nằm sát nách biên giới phía Đông của Nga là
một hành động đe dọa an ninh của Nga. Qua các phát biểu của Tổng thống Putin, có thể thấy rõ sự nghi
ngờ của Nga về động cơ của Mỹ và Phương Tây trong việc kết nạp Gruzia và Ucraina là nhằm kiềm
chế Nga. Khi tới Bucharest (Romania) để tham dự lễ bế mạc hội nghị cấp cao NATO vào đầu tháng
4/2008, Tổng thống Putin đã có những lời lẽ rất rõ ràng để tố cáo các nhà lãnh đạo của khối NATO
đang mưu toan mở rộng liên minh này về phía Đông mà không tính đến những lợi ích của Nga. Putin
nói: “Sự có mặt một khối quân sự tại các đường biên giới của chúng tôi đã được ký tại điều 6 của hiệp
ước Washington chỉ có thể bị Nga coi là một mối đe dọa đối với nền an ninh của mình”. Nhìn trên bản
đồ địa-chính trị khu vực này, có thể hiểu được những lo ngại của Tổng thống Putin. Với việc Ba Lan,
Hunggari, Cộng hòa Czech gia nhập NATO năm 1999 thì quân đội của khối này đã tiến thêm về hướng
Đông 650 - 750km và về hướng Nam 500km. Nhờ kết nạp Estonia, Litva, Latvia mà quân của NATO
tiến thêm về hướng Đông 300 - 500km. Bây giờ nếu Gruzia và Ukraina gia nhập NATO có nghĩa là tạo
ra điểm “giáp lá cà” giữa lực lượng vũ trang Nga với NATO. Trong khi đó, có đánh giá cho rằng tiềm
lực quân sự của Nga ở châu Âu kém xa NATO về vũ khí bộ binh và không quân. Đương nhiên, với
Tổng thư ký NATO, Mỹ và nhiều thành viên NATO, thì việc mở rộng NATO sang phía Đông là một
bước đi tất yếu của NATO trong việc đối phó với các thách thức an ninh mới ngày càng phức tạp hơn
và rộng hơn về tầm ảnh hưởng địa lý. Trong nhiều diễn đàn, Tổng thư ký NATO Jaap Hoop Scheffer
cho rằng NATO không chỉ đơn thuần là “chiếc thang cứu hỏa”, đến ứng cứu khi xảy ra sự cố tại các
điểm nóng như Afghanistan và Balkan mà còn muốn đóng vai trò chiến lược hơn trong việc ngăn chặn
các khủng hoảng tiềm tàng trước khi nó xảy ra thậm chí ở rất xa. Và đương nhiên, việc kết nạp thành
viên mới là Gruzia và Ukraina có thể giúp NATO có một vị trí thuận lợi hơn trong việc xử lý các thách
thức an ninh đó. Tuy nhiên, ngay cả khi Tổng thống George Bush ủng hộ mạnh mẽ việc Gruzia và
Ucraina gia nhập NATO thì cũng không phải dễ đạt được điều này. Dù quan điểm của Mỹ được
Canada, các nước Baltic và phần lớn các nước Đông Âu trước đây ủng hộ nhưng khoảng chục nước
châu Âu, trong đó có Pháp, Đức, Italia, Bỉ, Hy Lạp và Tây Ban Nha... lại cho rằng tiến trình kết nạp hai
nước này là quá sớm và chỉ làm tăng thêm sự căng thẳng trong quan hệ với Nga. Có thể có ít nhất ba
nguyên nhân để giải thích sự bất đồng về quan điểm kết nạp Gruzia và Ukraina trong NATO lần này.
Một là, một số nước Châu Âu không muốn gây bất bình với Nga vì lo ngại nguồn cung ứng dầu lửa từ
Nga sẽ bị ảnh hưởng. Chiếm một phần ba trữ lượng dầu khí thế giới, Nga đáp ứng 74% nhu cầu dầu
lửa của Áo, 65% của Ba Lan, 60% của Thổ Nhĩ Kỳ và 100% của Slovakia, các nước vùng Baltic và
Phần Lan, đấy là chưa nói tới Đức và Italia. Theo Eurogas, trong những năm tới, Nga thậm chí có thể
đáp ứng đến 80% nhu cầu dầu lửa của các nước này vào năm 2030. Hai là, một số nước Tây Âu, đặc
biệt là Đức và Pháp hiểu rằng sẽ rất nguy hiểm nếu dồn con gấu Nga đến chân tường. Trước đó, Mỹ và
Tây Âu đã có một loạt động thái làm cho Nga tức giận như ủng hộ nền độc lập của Kosovo và kế
hoạch xây dựng lá chắn tên lửa tại Cộng hòa Czech và Ba Lan. Nếu NATO cứ theo đà tiến tới và kết
nạp Ukraina và Gruzia, nó sẽ phá vỡ thế cân bằng Đông - Tây và cân bằng địa-chính trị giữa NATO
với Nga, gây nên phản ứng tiêu cực từ phía Nga. Do đó, nếu Georiga và Ucraina gia nhập NATO trong
hội nghị thượng đỉnh Budapesh vào đầu tháng 4/2008 sẽ gây ra một sự căng thẳng khó giải tỏa trong
quan hệ giữa Nga và EU. Ba là, sự khác biệt quan điểm trong kết nạp Gruzia và Ukraina còn thể hiện
sự khác biệt về tầm nhìn đối với định hướng phát triển của NATO của hai trường phái trong NATO mà
Mỹ và Pháp là đại diện. Mỹ ủng hộ tầm nhìn về “NATO toàn cầu”, theo đó Mỹ ủng hộ mạnh mẽ việc
mở rộng thành viên NATO cũng như những lĩnh vực can thiệp của NATO sang các vấn đề chính trị và
dân sự tại những nơi diễn ra khủng hoảng. Trong khi đó, Pháp ủng hộ việc ưu tiên cải tổ và điều chỉnh
cơ cầu của NATO cho hợp lý và hiệu quả hơn là việc mở rộng thành viên NATO. Người Pháp không
ngừng nhắc đến hai đặc tính cơ bản của Liên minh, đó là tính chất quân sự và châu Âu - Đại Tây
Dương, đồng thời nhấn mạnh rằng NATO không được trở thành một “con dao Thụy Sĩ, một công cụ
đa chức năng mà người ra sử dụng để làm tất cả mọi cái và ở khắp mọi nơi”, như cách diễn đạt của giới
ngoại giao Pháp. Kết quả tháng 4/2008, Hội nghị cấp cao NATO đang diễn ra tại Bucharest quyết định,
chỉ có Croatia và Albania được mời tham gia Kế hoạch hành động thành viên (MAP) của NATO, còn
ba nước Macedonia, Ukraine và Gruzia chưa được nhận quy chế này.
Mỹ thông qua NATO để duy trì lợi ích chiến lược của họ ở châu Âu, đồng thời cũng thông qua
NATO khống chế châu Âu nhằm đảm bảo chắc chắn địa vị chủ đạo của họ đối với an ninh châu Âu.
Bên cạnh đó, an ninh của châu Âu cũng không tách khỏi sự tham dự của Mỹ, bởi vì hiện nay khả năng
bảo vệ an ninh quốc gia của châu Âu vẫn còn yếu. Ngoài ra, châu Âu và Mỹ dều có sự cảnh giác đối
với Nga. Về điểm này, lợi ích của cả hai bên đều nhất trí với nhau. NATO bành trướng sang phương
Đông có thể làm gia tăng sức quy tụ giữa hai bên. Hơn nữa, NATO bành trướng sang phương Đông là
để ngăn bước tiến nhanh của Đức về Trung Âu và Đông Âu. Anh, Pháp và các nước Tây Âu khác đều
mong muốn thông qua việc mở rộng NATO để hạn chế Đức. NATO bành trướng sang phương Đông
đồng thời cũng là sự đáp lại lời thỉnh cầu của các quốc gia ở Trung Âu và Đông Âu. Vì Mỹ là chủ đạo
của liên minh NATO, nên suy cho cùng quan hệ giữa NATO và Nga cũng là quan hệ giữa Mỹ và Nga.
NATO bành trướng về phương Đông không chỉ uy hiếp trực tiếp đến an ninh quốc gia của Nga mà còn
đẩy Nga đứng trước nguy cơ bị bật ra khỏi hệ thống an ninh châu Âu. Chính vì thế mà Nga đã kịch liệt
phản đối.
NATO bành trướng sang phương Đông là một bộ phận cấu thành quan trọng trong chiến lược
toàn cầu “tham dự và bành trướng” mà Mỹ đã nêu ra và thực hiện sau Chiến tranh lạnh. Mỹ muốn
thông qua việc tiếp tục tham dự vào những công việc quân sự toàn cầu và khu vực để bành trướng “đại
gia đình các quốc gia tự do dân chủ”, thực hiện mục tiêu chiến lược bá chủ thế giới. Do vậy, “NATO
bành trướng sang phương Đông trước tiên đại biểu cho quyền lợi chính trị quan trọng của Mỹ. [...] Đối
với Mỹ, mục tiêu trước mắt của chiến lược châu Âu và châu Á là tăng cường và vĩnh viễn giữ đa
nguyên hóa chính trị trên bản đồ châu Âu và châu Á; mục tiêu trung hạn là dưới sự lãnh đạo của Mỹ,
xây dựng một hệ thống an ninh xuyên Âu - Á có tính hợp tác hơn; mục tiêu lâu dài là cuối cùng dẫn
đến việc sản sinh ra một trung tâm toàn cầu thực sự gánh vác trách nhiệm chia sẻ chính trị. Châu Âu và
NATO bành trướng sẽ rất có lợi cho việc Mỹ thực hiện mục tiêu trước mắt và mục tiêu lâu dài trong
chính sách của họ” [9, tr.688-689].
3.4. Vấn đề hạt nhân
3.4.1 Vấn đề hạt nhân Triều Tiên
Bán đảo Triều Tiên là dải đất nằm nhô ra biển ở Đông Á, có đường biên giới đất liền với Trung
Quốc. Bán đảo này bắt đầu từ lục địa Châu Á chạy dài về phía nam 1.100 km. Nó được bao bọc bởi
biển ở ba phía: đông - biển Nhật Bản, nam - biển Đông Trung Quốc và tây - Hoàng Hải. Eo biển Triều
Tiên là nơi phân cách biển Nhật Bản và biển Đông Trung Quốc. Cho đến cuối Chiến tranh thế giới lần
thứ hai, Triều Tiên vẫn là một thực thể chính trị thống nhất nằm trên bán đảo Triều Tiên. Sau khi chiến
tranh Triều Tiên kết thúc năm 1953, bán đảo này bị chia cắt lâu dài thành hai quốc gia là Cộng hòa
Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (Bắc Triều Tiên) và Đại Hàn Dân Quốc (Nam Triều Tiên). Ranh giới
phía bắc của bán đảo Triều Tiền trùng khớp với biên giới của nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều
Tiên với Trung Quốc (dài 1.416 km) và Nga (dài 19 km). Đây là các đường biên giới tự nhiên gồm
sông Áp Lục và sông Đồ Môn. Tổng diện tích bán đảo Triều Tiên khoảng 220.000 km². “Vùng biển
bán đảo Triều Tiên có chiều dài trên 6000 km, với nhiều đoạn bờ ăn lõm sâu vào đất liền, cộng với
hàng ngàn đảo lớn nhỏ đã tạo nên địa hình phức tạp, dễ ẩn nấp, vì vậy đây là nơi lý tưởng cho tàu
ngầm hoạt động, cũng là nơi để các cường quốc giành giật làm vùng ảnh hưởng của mình” [66, tr.80].
CHDCND Triều Tiên nằm ở giao điểm lợi ích của một loạt những nước lớn có vị trí địa-chính
trị chiến lược quan trọng. Trong quá khứ, hiện tại và tương lai, những vấn đè nảy sinh trên bán đảo
Triều Tiên đều đã liên quan, chịu ảnh hưởng từ Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga. Chính vì vậy, phần
nào đó tương lai của bán đảo Triều Tiên không chỉ thuần túy là công việc của chính phủ hai miền Triều
Tiên mà phụ thuộc rất nhiều vào sự tác động của cộng đồng quốc tế, trực tiếp từ Mỹ, Trung Quốc, Nga,
Nhật Bản, Hàn Quốc.
Từ năm 1992, do nghi ngờ Triều Tiên sản xuất vũ khí hạt nhân, Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản cùng
với phương Tây gây sức ép đòi thanh tra toàn diện công nghệ hạt nhân của Triều Tiên. Mỹ và Triều
Tiên đã ký thỏa thuận Hiệp định khung 10/1994 tại Genève giải quyết vấn đề này, hai bên thỏa thuận
Mỹ sẽ trang bị lò phản ứng hạt nhân nước nhẹ (qua Tổ chức KEDO) để cung cấp năng lượng cho Triều
Tiên, đổi lấy việc Triều Tiên ngừng chương trình phát triển hạt nhân. Để giải quyết vấn đề hạt nhân
của Triều Tiên, ngày 22 - 25/4/2003, cuộc đàm phán 3 bên (gồm Mỹ, Triều Tiên, Trung Quốc) đã được
tổ chức tại Bắc Kinh. Tuy không thu được kết quả đáng kể nào nhưng đây là bước khởi đầu, xác định
xu thế đàm phán để giải quyết căng thẳng và đây là cơ hội tốt để các bên hiểu rõ lập trường của nhau.
Trên thực tế, CHDCND Triều Tiên đã có nhiều nhượng bộ. Từ chỗ khăng khăng đòi Mỹ ký Hiệp ước
không xâm phạm lẫn nhau, Bình Nhưỡng đã hạ thấp các yêu cầu: “Mỹ phải có cam kết không xâm
phạm Triều Tiên, nếu như Mỹ đáp ứng yêu cầu này thì CHDCND Triều Tiên sẽ từ bỏ vũ khí hạt nhân”.
Bên cạnh đó, CHDCND Triều Tiên cũng đưa ra kế hoạch cả gói về từ bỏ phát triển và thí nghiệm hạt
nhân, đổi lấy việc đảm bảo cung cấp viện trợ kinh tế từ Mỹ, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Đàm phán 6 bên (Triều Tiên, Hàn Quốc, Mỹ, Trung Quốc, Nga và Nhật Bản) vòng 1 (27 -
29/8/2003), vòng 2 (25 - 28/2/2004) và vòng 3 (23 - 26/6/2004) đã được tiến hành tại Bắc Kinh nhưng
không thu được kết quả nào vì Washington và Bình Nhưỡng không tìm ra được điểm chung nào về
quan điểm. Đàm phán 6 bên vòng 4 (giai đoạn 1: 26/7 - 7/8/2005; giai đoạn 2: 13 - 19/9/2005) đã đạt
kết quả quan trọng. Các bên ra Tuyên bố chung ngày 19/9/2005 với nội dung chính là các bên khẳng
định thực hiện có tính nguyên tắc về các vấn đề then chốt: Triều Tiên cam kết từ bỏ tất cả vũ khí hạt
nhân và các kế hoạch hạt nhân hiện thời; Mỹ khẳng định tôn trọng chủ quyền của Triều Tiên, không
triển khai vũ khí hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên và không có ý định tấn công Triều Tiên và sẽ thảo
luận vấn đề xây dựng các lò phản ứng nước nhẹ cho Triều Tiên vào thời điểm thích hợp. Vòng 5 (giai
đoạn 1) đã diễn ra tại Bắc Kinh từ ngày 9-11/11/2005 với mục tiêu chính là bàn các biện pháp và bước
đi cụ thể để thực hiện Tuyên bố chung ngày 19/9/2005. Triều Tiên yêu cầu Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận,
đồng thời ngừng cáo buộc nước này phát triển vũ khí và làm USD giả. Mỹ khẳng định lại lập trường
không bàn đến vấn đề lò nước nhẹ khi Triều Tiên chưa từ bỏ chương trình hạt nhân…
Sau vụ Triều Tiên phóng thử tên lửa (5/7/2006) và vụ thử hạt nhân dưới lòng đất (9/10/2006),
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết 1695 (15/7/2006) và Nghị quyết 1718
(14/10/2006) trừng phạt Triều Tiên. Giai đoạn 2 vòng 5 đàm phán 6 bên đã diễn ra tại Bắc Kinh từ
ngày 18 - 22/12/2006. Tại giai đoạn 3 vòng 5 đàm phán 6 bên về vấn đề hạt nhân của Triều Tiên tổ
chức tại Bắc Kinh (8 - 13/2/2007), các bên đã thông qua Tuyên bố chung ngày 13/2/2007 (còn gọi là
Thỏa thuận 13/2) với nội dung cơ bản là Triều Tiên bắt đầu những động thái ngừng hoạt động các cơ
sở hạt nhân hướng tới phi hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên, đổi lại các nước sẽ cung cấp năng lượng
hoặc các khoản viện trợ tương đương cho Triều Tiên; Mỹ đưa Triều Tiên ra khỏi danh sách các quốc
gia tài trợ khủng bố và dỡ bỏ các chế tài tài chính đối với Triều Tiên; thành lập 5 nhóm làm việc về phi
hạt nhân hóa bán đảo Triều Tiên, viện trợ kinh tế và năng lượng cho Triều Tiên, xây dựng một khuôn
khổ hòa bình cho bán đảo Triều Tiên và an ninh Đông Bắc Á, bình thường hóa quan hệ Triều - Mỹ,
bình thường hóa quan hệ Triều - Nhật.
Vòng 6 đàm phán 6 bên bắt đầu từ ngày 19/3/2007 với mục đích chính nhằm đạt được thỏa
thuận về lịch trình từ bỏ chương trình hạt nhân của CHDCND Triều Tiên đã bị trì hoãn đến tháng
7/2007 mới được nối lại để bàn về thời điểm chính xác Bình Nhưỡng cho đóng cửa tất cả các cơ sở
nguyên tử sau khi CHDCND Triều Tiên tỏ rõ thiện chí khi đóng cửa toàn bộ 5 cơ sở hạt nhân tại
Yongbyon. Giai đoạn 2 vòng 6 đàm phán 6 bên tại Bắc Kinh diễn ra từ ngày 27/9/2007, thảo luận về
các bước đi cụ thể cho việc đóng cửa các cơ sở hạt nhân của CHDCND Triều Tiên đã kéo dài so với dự
tính và kết thúc vào ngày 3/10 với một văn kiện chung (Thỏa thuận ngày 3/10) về chương trình hành
động giai đoạn 2 nhằm thực hiện tuyên bố chung ngày 19/9/2005. Với nội dung: phía CHDCND Triều
Tiên đồng ý sẽ vô hiệu hóa toàn bộ cơ sở hạt nhân hiện có của mình, cụ thể, nước này cam kết sẽ hủy
bỏ chức năng của lò phản ứng thí nghiệm công suất 5 MW, nhà máy hậu xử lý (tức: phòng thí nghiệm
hóa học phóng xạ) và nhà máy chế tạo cấu kiện nhiên liệu hạt nhân tại Yongbon, đồng thời khai báo
một cách hoàn chỉnh, chính xác về toàn bộ chương trình hạt nhân của mình vào trước ngày
31/12/2007; phía Hàn Quốc, Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản và Nga đồng ý trao cho Triều Tiên những ưu
đãi về kinh tế, chính trị và năng lượng đổi lại Bình Nhưỡng phải từ bỏ vũ khí hạt nhân cũng như chấm
dứt các hoạt động sản xuất vũ khí hạt nhân. Mặc dù CHDCND Triều Tiên đã không công khai chương
trình hạt nhân và đóng cửa cơ sở hạt nhân Yongbyon của nước này trước ngày 31/12/2007 như đã thỏa
thuận, kết quả đàm phán và những bước đi cụ thể của sáu bên liên quan và thành công tốt đẹp của cuộc
gặp cấp cao liên Triều lần thứ hai (8/2007) đã góp phần từng bước thúc đẩy tiến trình hòa bình thống
nhất trên bán đảo Triều Tiên và ổn định ở khu vực Ðông Bắc Á. Ngày 8/5/2008, CHDCND Triều Tiên
đã giao tài liệu về việc điều hành và chế tạo các lò phản ứng hạt nhân chủ chốt ở Yongbyon cho đặc
phái viên của Mỹ, Sung Kim tại Bình Nhưỡng và đệ trình tuyên bố hạt nhân lên Trung Quốc - nước
hiện là chủ tịch các đàm phán đa phương. Đây là một bước đi quan trọng trong tiến trình giải quyết vấn
đề hạt nhân Triều Tiên. Trong tương lai, Mỹ và CHDCND Triều Tiên sẽ “tiếp tục nỗ lực trong việc cải
thiện quan hệ song phương, hướng tới thực hiện bình thường hóa quan hệ ngoại giao toàn diện. Hai
bên tăng cường trao đổi song phương và tăng cường sự tin tưởng lẫn nhau”. Mỹ sẽ căn cứ thỏa thuận
đạt được tại các cuộc họp của các nhóm công tác về bình thường hóa quan hệ giữa hai nước, đồng thời
căn cứ vào hành động của phía Triều Tiên để thực hiện cam kết đưa CHDCND Triều Tiên ra khỏi danh
sách các nước tài trợ khủng bố và ngừng thực thi “Luật thương mại đối với các nước thù địch” với
CHDCND Triều Tiên.
Tại các cuộc đàm phán, Mỹ, Hàn Quốc, Trung Quốc, Nhật Bản, Nga bộc lộ những mục tiêu
khác nhau. Đối với Mỹ, vấn đề cốt lõi được phát ngôn ra là “hủy bỏ hoàn toàn, thẩm định được và
không thể đảo ngược các chương trình vũ khí hạt nhân”, một quan điểm mà các quan chức Mỹ liên tục
khẳng định. Với Mỹ, ổn định tại bán đảo Triều Tiên là lợi ích quốc gia trong chiến lược tổng thể. Tuy
nhiên, cũng dễ dàng nhận thấy rằng nước Triều Tiên thống nhất có thể làm yếu sức mạnh quân sự của
bán đảo này nói riêng và ở chấu Á - Thái Bình Dương nói chung. Mỹ cần thời gian để đảm bảo rằng
một Triều Tiên thống nhất phải đi theo hướng có lợi cho Mỹ, chừng nào chưa đảm bảo được yêu cầu
trên, chắc chắn Mỹ sẽ ngăn cản tiến trình thống nhất Triều Tiên. Vì vậy, Mỹ muốn kéo dài các cuộc
đàm phán với CHDCND Triều Tiên về thiết lập quan hệ. Trong báo cáo “Vấn đề hạt nhân của
CHDCND Triều Tiên và lợi ích của Mỹ: Nhiệm vụ ưu tiên”, một Giáo sư Khoa Chính trị Đại học
Pennsylvania nhấn mạnh: “Nhiệm vụ ưu tiên nhất Mỹ vẫn đề cập công khai là phi hạt nhân hóa
CHDCND Triều Tiên và nhiệm vụ thứ hai - không hoàn toàn là điều bí mật - là thay đổi chính quyền ở
CHDCND Triều Tiên” [66, tr.135].
Việc CHDCND Triều Tiên có hay không có vũ khí hạt nhân có thể không làm cho Mỹ lo sợ, bởi
với khoảng cách xa về địa lý và với tiềm lực, kỹ thuật đánh chặn tên lửa hiện đại của Mỹ, việc hóa giải
những đòn tấn công của CHDCND Triều Tiên nhằm vào đất Mỹ là một khả năng hiện thực. Tuy nhiên,
CHDCND Triều Tiên phát triển vũ khí hạt nhân đã thách thức tính quyền uy của “Hiệp ước không phổ
biến vũ khí hạt nhân”, đã phá hoại trật tự hạt nhân hiện có, có khả năng gây ra cục diện không kiểm
soát nổi tình hình phổ biến hạt nhân, từ đó tạo thành mối đe dọa đối với lợi ích bá quyền của Mỹ.
Ngoài ra, hành động của CHDCND Triều Tiên càng làm tăng thêm nhân tố mất ổn định ở Đông Á, gây
thiệt hại đối với lợi ích trên nhiều mặt của Mỹ ở khu vực này. Mặc dù trong thời gian ngắn, vũ khí hạt
nhân của CHDCND Triều Tiên không thể tạo thành mối đe dọa trực tiếp đối với lãnh thổ Mỹ, nhưng
nếu CHDCND Triều Tiên mở rộng hạt nhân, người Mỹ thực sự lúc nào cũng trong tâm trạng bị đe dọa.
Ngoài ra, việc CHDCND Triều Tiên “vượt rào” thành công trong vấn đề mở rộng hạt nhân chắc chắn
cũng sẽ gây ra hiệu ứng đối với các nước khác. Hàng loạt quốc gia ấp ủ dã tâm có hạt nhân sẽ bắt
chước làm theo, thể chế và trật tự luật pháp hiện hành sẽ bị phá hoại nghiêm trọng, quyền uy và quyền
lực của Mỹ với tư cách là “bá chủ” thế giới hiện nay cũng sẽ bị tổn hại nghiêm trọng [46, tr.16-17].
Mỹ đặc biệt lo ngại chính là sự phát tán tài liệu, vũ khí cho các tổ chức khủng bố và các nước
thù nghịch với Washington, khi CHDCND Triều Tiên có vũ khí hạt nhân, sự kiện 11/9 cho
Washington một bài học rằng chỉ một kẻ khủng bố cực đoan liều chết cũng đủ làm nước Mỹ thiệt hại
về nhân mạng như một cuộc chiến tranh. Đối với việc giải quyết khủng hoảng hạt nhân Triều Tiên,
ngoài nhu cầu chiến lược quốc gia, việc tái thiết Iraq thuận lợi hay không, tình hình phát triển của cục
diện Trung Đông, sự phát triển của tình hình chính trị trong nước Mỹ có tác dụng quan trọng đối với
bán đảo Triều Tiên.
Hàn Quốc nhất trí hủy bỏ các chương trình của Bình Nhưỡng, song cũng tập trung vào việc làm
dịu mối quan hệ giữa hai nước, được gắn kết bởi sắc tộc, ngôn ngữ và các mối quan hệ gia đình. Tổng
thống Hàn Quốc Kim Dae Jung đề ra chính sách “Ánh dương”, can dự vào miền Bắc theo nguyên tắc
tách kinh tế và chính trị, không nhằm lật đổ chế độ ở CHDCND Triều Tiên. Chính sách mới với mục
đích hòa giải mâu thuẫn Bắc - Nam và tiến tới đối thoại, hợp tác kinh tế giúp miền Bắc có được những
nguồn viện trợ từ bên ngoài để thoát khỏi khủng hoảng kinh tế trầm trọng trong nước, từ đó có thể tiến
dần tới một giải pháp ôn hòa hơn, theo phương thức một quốc gia hai thể chế, như Trung Quốc đề nghị
cho Hồng Kông, Ma Cao và cả Đài Loan.
Đối với Trung Quốc, đồng minh chính trị thân thiết nhất của CHDCND Triều Tiên, mục tiêu
cao nhất là khẳng định ảnh hưởng của họ ở châu Á. Vì vậy, Trung Quốc đã vận dụng những nỗ lực rất
lớn để thúc đẩy vòng đàm phán 6 bên này. Có ba lý do chính khiến Trung Quốc thúc đẩy đàm phán.
Thứ nhất, nhìn từ góc độ kinh tế, sự trợ giúp từ bên ngoài đối với Bình Nhưỡng tăng sẽ giảm bớt gánh
nặng cho Trung Quốc. Thứ hai, mặc dù ảnh hưởng lớn đối với CHDCND Triều Tiên, song bản thân
Trung Quốc cũng lo ngại không kiểm soát được chương trình tên lửa và hạt nhân của CHDCND Triều
Tiên và cần những tác động từ bên ngoài, trong đó có Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Liên minh Châu
Âu. Thứ ba, CHDCND Triều Tiên chế tạo vũ khí hạt nhân có tính chất khác hẳn với những nước khác
như Ấn Độ, Pakistan hay Israel. CHDCND Triều Tiên có vũ khí hạt nhân tức là cán cân tương quan
sức mạnh trong khu vực bị thay đổi quá lớn. Điều này sẽ đẩy Hàn Quốc, Nhật và Đài Loan tham gia
chạy đua vũ khí hạt nhân. Mà 3 nước này đều dân giàu nước mạnh, lại là đồng minh của Mỹ nên chắc
chắn là Trung Quốc không thể chấp nhận.
Mối quan hệ của Nhật Bản với CHDCND Triều Tiên rất mong manh, do những ký ức về tội ác
của Nhật Bản trong Chiến tranh thế giới thứ hai và việc CHDCND Triều Tiên bắt cóc kiều dân Nhật
Bản. Nhật Bản tuyên bố, việc hủy bỏ vũ khí hạt nhân của CHDCND Triều Tiên sẽ dẫn đến sự ổn định
của khu vực và cơ hội phát triển kinh tế. Nga, tiếng nói kém nổi bật hơn trong các cuộc đàm phán, hy
vọng có thể bán được các lò phản ứng hạt nhân dân sự cho CHDCND Triều Tiên một khi vấn đề hạt
nhân được giải quyết xong.
Vấn đề hạt nhân của CHDCND Triều Tiên cần thấy rõ là có hai mặt. Một mặt là CHDCND
Triều Tiên đã có bước đi mạo hiểm, gây lo ngại và căng thẳng trong khu vực và cho bán đảo Triều
Tiên. Sự kiện này đã tạo ra những phản ứng bất lợi cho Triều Tiên ở nhiều nước, đặc biệt là ở Mỹ và
Nhật Bản. Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc cũng đã ra Nghị quyết trừng phạt Triều Tiên. Trung Quốc
và Nga tuy tỏ thái độ phản đối gay gắt Triều Tiên, đồng ý trừng phạt Triều Tiên, nhưng có mức độ,
tránh không để tình hình xấu đi quá mức. Bản thân Triều Tiên đang phải đương đầu với nhiều khó
khăn và chính nhân dân Triều Tiên đang phải chịu đựng trực tiếp hậu quả xấu này, kể cả về vật chất lẫn
tinh thần. Trên đây là một mặt của vấn đề, còn một mặt nữa cũng phải xem xét một cách công bằng.
Tình hình ở bán đảo Triều Tiên xấu đi không phải là nguyên nhân từ một phía Triều Tiên gây ra, mà
phải tính đến cả nguyên nhân do chính sách thù địch của nhà cầm quyền Mỹ đối với Triều Tiên từ bấy
lâu nay. Ai cũng biết chính Mỹ đã liệt Triều Tiên vào “trục ma quỷ” và coi Triều Tiên là một quốc gia
không lương thiện. Từ đó, Mỹ áp dụng chính sách đơn phương cấm vận Triều Tiên, làm thổi bùng
ngọn lửa từ bầu không khí vốn đã nóng bỏng.
3.4.2. Vấn đề hạt nhân Iran
Vùng Trung Đông tiếp tục nóng bỏng xung quanh chuyện năng lượng hạt nhân của Iran.
Chương trình hạt nhân của Iran đã được bắt đầu từ năm 1972 dưới chế độ quân chủ Shah Pahlevi với
sự giúp đỡ của Cộng hòa Liên bang Đức. Đến năm 1974 chính Mỹ cũng đã đồng tình và ủng hộ
chương trình nguyên tử này. Năm 1979 khi Cuộc Cách mạng Hồi giáo thành công, chính quyền của
các giáo sĩ Iran đã cắt mọi quan hệ với Mỹ, đồng thời Cộng hòa Hồi giáo Iran bước ngay vào cuộc
chiến tranh với Iraq nên chương trình bị gián đoạn. Sau đó, cuộc chiến vùng Vịnh năm 1991 lại cản trở
Iran khôi phục chương trình hạt nhân này. Đến năm 1992, khi khu vực tạm ổn định trở lại, Chính phủ
Iran đã tính ngay tới việc phát triển chương trình hạt nhân với sự giúp đỡ của các chuyên gia Liên bang
Nga.
Ngay từ khi những bức ảnh vệ tinh do thám của Mỹ chụp các nhà máy hạt nhân của Iran được
công bố tháng 9/2001 và khi Iran ra tuyên bố khẳng định mục đích phát triển công nghệ hạt nhân vì
mục đích hòa bình, thế giới đều biết rằng, giải quyết vấn đề này không hề đơn giản. Một bên khăng
khăng khẳng định việc làm giàu urani, hay phát triển công nghệ là quyền tất yếu của mỗi quốc gia; còn
phía bên kia, các nước EU và Mỹ, lại lo ngại khả năng Iran sẽ phát triển vũ khí hạt nhân, để giành ưu
thế trong khu vực. Sau sự kiện 11/9, quan hệ Mỹ - Iran diễn biến phức tạp và căng thẳng khi Mỹ đưa
Iran vào danh sách “Trục tội ác”, và gây sức ép mạnh với Iran. Mỹ buộc tội Iran chứa chấp khủng bố,
can thiệp vào Iraq và âm mưu phát triển vũ khí hạt nhân, ép đưa vấn đề hạt nhân của Iran ra trước Hội
đồng Bảo an Liên Hợp quốc.
Sau khi chương trình ngoại giao con thoi giữa bộ ba Anh - Pháp - Đức nhằm thuyết phục Iran
ngừng các chương trình làm giàu urani bị đổ vỡ (năm 2004), cuộc khủng hoảng hạt nhân Iran lại được
đẩy thêm một bước và tiến nhanh vào giai đoạn nguy hiểm. Từ khi Tổng thống mới của Iran, một
người thuộc phái bảo thủ nhậm chức tháng 8/2005, trong quan hệ quốc tế Iran gặp khó khăn hơn trước,
nhất là đối với EU, Mỹ do chính sách cứng rắn của mình. Chính quyền Tehran không chấp nhận ngừng
làm giàu urani để đổi lấy những lợi thế về kinh tế và ngoại giao mà Phương Tây đưa ra. Những chiến
dịch tuyên truyền đã khiến người dân Iran coi chương trình làm giàu urani trở thành niềm tự hào mang
tính chất quốc gia, và họ không dễ gì từ bỏ sự kiêu hãnh đó. Trong khi đó, những sức ép quốc tế đối
với chương trình hạt nhân của Iran càng lớn. Nói bóng gió hay thẳng thừng, chưa bao giờ Washington
bác bỏ hoàn toàn khả năng tấn công quân sự nhằm vào Iran. Còn những lời đe dọa về cấm vận ngoại
giao và kinh tế thì đã không ít lần Iran phải đối mặt. Tháng 8/2005, Tehran tuyên bố chính thức khởi
động lại hoạt động của nhà máy hạt nhân Isfahan, và cho rằng: đó là chương trình hạt nhân mang tính
chất hòa bình. Điều này càng khiến Washington tin rằng, đối với họ hiện nay, không có thách thức nào
lớn hơn chương trình hạt nhân của Iran. Tháng 4/2006, Iran tuyên bố đã thành công trong việc làm giàu
urani ở cấp độ thấp, đủ để sản xuất ra điện hạt nhân. Washington cho rằng, sức ép quốc tế đối với Iran
cần phải mạnh thêm. Cùng lúc đó, Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA), cơ quan giám sát
các hoạt động hạt nhân mang tính chất toàn cầu, ra tuyên bố khẳng định: Iran không tuân thủ yêu cầu
của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc về việc ngừng các chương trình làm giàu urani. Mỹ, Anh và Pháp
cũng trình lên Hội đồng Bảo an một bản dự thảo nghị quyết kêu gọi Iran phải ngừng ngay các chương
trình làm giàu urani, nếu không sẽ phải đối mặt với “các hành động tiếp theo”, bao gồm cả tấn công
quân sự. Những nước này viện dẫn chương 7 của Hiến chương Liên hợp quốc vào bản dự thảo nghị
quyết này. Theo đó, sẽ cho phép áp dụng các biện pháp trừng phạt về ngoại giao, kinh tế hoặc trừng
phạt vũ lực đối với Iran, nếu chương trình hạt nhân của Iran là mối đe dọa đối với hòa bình và an ninh
quốc tế. Trước nguy cơ quyền lợi bị ảnh hưởng, Nga và Trung Quốc lên tiếng phản đối bản dự thảo
nghị quyết này, ngăn cản việc nó trở thành một công cụ quốc tế để chống lại Iran. Nhưng không vì thế
mà cuộc khủng hoảng hạt nhân này tìm ra được lối thoát. Quốc hội Iran tuyên bố sẽ rút ra khỏi Hiệp
ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân NPT nếu bị dồn ép tới chân tường. Ngày 23/12/2006, Hội đồng Bảo
an Liên hợp quốc đã thông qua nghị quyết 1737 bao gồm các biện pháp trừng phạt chương trình hạt
nhân Iran: nghiêm cấm Iran xuất và nhập khẩu các nguyên liệu hạt nhân; đóng băng tài khoản 10 công
ty và 12 cá nhân có liên quan đến chương trình hạt nhân của Iran; đe dọa sử dụng các biện pháp trừng
phạt phi quân sự khác nếu Iran không ngừng làm giàu urani. Ngày 25/3/2007, Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc đã bỏ phiếu thuận (15/15) thông qua Nghị quyết 1747 về chương trình hạt nhân của Iran với
nội dung: (1) Nghiêm cấm tất cả các hoạt động xuất khẩu vũ khí của Iran, (2) Yêu cầu các nước hạn
chế hỗ trợ tài chính và cho Iran vay vốn, (3) Giám sát và hạn chế việc di chuyển của các đối tượng liên
quan chương trình hạt nhân của Iran, (4) Đóng băng tài khoản của 28 cơ quan và tổ chức liên quan đến
chương trình hạt nhân Iran (trong đó 1/3 tổ chức và cá nhân liên quan đến các lệnh cấm vận là các quan
chức cấp cao của lực lượng bảo vệ cách mạng). Ngày 3/3/2008, Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đã bỏ
phiếu thông qua phán quyết về lệnh cấm vận mới đối với Tehran vì chương trình hạt nhân của họ. Đây
là phán quyết về cấm vận thứ ba đối với Iran vì chương trình hạt nhân, theo đó, Liên hợp quốc yêu cầu
đóng băng tài khoản của 13 công ty Iran ở nước ngoài và thiết lập lệnh cấm vận đối với 5 quan chức
Iran. Các quốc gia cũng không được bán cho Iran các công nghệ có thể dùng cho cả các hoạt động dân
sự và quân sự. Iran đã bác bỏ các nghị quyết trừng phạt này và tái khẳng định chương trình hạt nhân
của nước này hoàn toàn nhằm mục đích hòa bình và kiên quyết không từ bỏ chương trình này. Khi
căng thẳng về vấn đề hạt nhân Iran đang ngày một leo thang, để xoa dịu với phương Tây, Tehran đã
quyết định đưa ra gói đề xuất có nội dung tập trung vào vấn đề giảm nguy cơ hạt nhân ở mức thấp nhất
có thể, ngăn chặn phát triển vũ khí hạt nhân, thúc đẩy hợp tác hạt nhân giữa các quốc gia khác nhau
cùng nhiều vấn đề quốc tế khác. Ngày 12/5/2008, Iran - IAEA tiến hành vòng đàm phán mới về
chương trình hạt nhân đầy tranh cãi của nước này.
Đối với tất cả các quốc gia, việc tăng cường sức mạnh quân sự để bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, duy
trì ổn định để phát triển kinh tế được đặt lên hàng đầu. Trong đó việc sở hữu vũ khí hạt nhân là giấc
mơ của nhiều chính phủ. Iran cũng không là ngoại lệ, quốc gia này cũng mong muốn phát triển chương
trình hạt nhân của mình. Ở Trung Đông, Israel là nước duy nhất có vũ khí hạt nhân và một hệ thống tên
lửa tầm trung. Tất nhiên, Mỹ không coi Israel là mối đe dọa, nhưng các nước khác ở Trung Đông thì
có. Đây là một vấn đề, nó có thể dẫn đến một cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân nguy hiểm. Chương trình
vũ khí của Iran cũng bắt đầu từ mối lo ngại rằng Israel phát triển vũ khí hạt nhân. Trên thực tế, phát
triển vũ khí hạt nhân là một “nhu cầu” không chỉ đối với các chế độ độc tài mà còn đối với các chế độ
dân chủ. Thậm chí nếu làn sóng dân chủ “chế ngự” ở Trung Đông, một nước Iran mới sẽ vẫn theo đuổi
vũ khí hạt nhân như Israel, và như các cường quốc khác, bởi họ thấy được tầm quan trọng của quyền
lực hạt nhân. Cộng hòa Hồi giáo Iran thực sự có nhu cầu phát triển năng lượng nguyên tử để phục vụ
cho nền kinh tế được coi là lớn thứ 20 trên thế giới. Tuy nhiên hiện nay các nước phương Tây, nhất là
Mỹ và Israel đều rất lo ngại về chương trình hạt nhân của Iran mặc dầu Iran đã ký Công ước không phổ
biến vũ khí hạt nhân và sẵn sàng để Cơ quan Năng lượng Nguyên tử quốc tế (IAEA) đến giám sát
thường xuyên các cơ sở này. Anh, Pháp và Đức đã thảo ra một loạt những ưu đãi về thương mại và
công nghệ - bao gồm cả việc giúp Iran có một lò phản ứng nước nhẹ - nếu Tehran tự nguyện ngừng
làm giàu urani. Iran đã từ chối đề xuất này và vẫn kiên quyết không từ bỏ quyền lợi chính đáng về
năng lượng hạt nhân của mình để đổi lấy những lợi ích không rõ ràng và chưa chắc chắn từ phía EU
hay Mỹ. Và đó cũng chính là lý do khiến Iran nối lại chương trình hạt nhân, bác bỏ những sáng kiến
chính trị và kinh tế của EU và bất chấp các đe dọa trừng phạt của phương Tây. Phía Iran hoàn toàn có
lý khi khẳng định họ không vi phạm luật pháp quốc tế vì Hiệp ước cấm phổ biến vũ khí hạt nhân
(NPT), được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua tháng 6/1968 và chính thức có hiệu lực từ tháng
3/1970, cho phép các quốc gia được phát triển chương trình hạt nhân vì mục đích hòa bình. Tehran
cũng có lý khi phê phán Mỹ và EU không tuân thủ đầy đủ các điều khoản của NPT, trong đó yêu cầu
các nước có vũ khí hạt nhân phải tiêu hủy kho vũ khí nguy hiểm. Trên thực tế, cho đến nay những cáo
buộc của Mỹ về việc Iran âm mưu phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt vẫn chỉ là những lời cáo buộc
chứ chưa có chứng cứ cụ thể nào và các vòng đàm phán luôn dậm chân tại chỗ bởi nó chưa bao giờ tập
trung thảo luận vấn đề hạt nhân thuần túy mà luôn được gắn với những lợi ích về chính trị, kinh tế và
an ninh của các bên. Liệu có tìm được giải pháp triệt để cho vấn đề hạt nhân của Iran nói riêng và vấn
đề quyền được phát triển công nghệ hạt nhân vì mục đích hòa bình của các nước nói chung khi mà cốt
lõi của vấn đề vẫn bị né tránh và sự công bằng trong vấn đề ngăn chặn vũ khí hạt nhân không được tôn
trọng? Dù là biện pháp trừng phạt hay thương lượng cũng không dễ buộc một nước từ bỏ lợi ích quốc
gia trong phát triển năng lượng hạt nhân, các biện pháp đó càng không thể được chấp nhận khi còn tồn
tại “những tiêu chuẩn kép” hay chính sách hai mặt khi các nước lớn một mặt ngăn chặn những quốc
gia thù địch phát triển công nghệ hạt nhân, mặt khác lại dung túng cho một số nước khác sở hữu loại
vũ khí hủy diệt hàng loạt này.
Thực chất đây không phải chỉ có vấn đề hạt nhân mà chính là cuộc đối đầu giữa những mâu
thuẫn lớn, trong đó chủ yếu là mâu thuẫn giữa Mỹ và một số quốc gia Hồi giáo ở vùng Trung Đông.
Các nước này không thuận cho Mỹ xâm nhập, khống chế vùng Trung Đông, không thuận cho Mỹ đoạt
nguồn dầu mỏ to lớn ở đây, vì biết ý đồ của Mỹ là muốn tạo lập một trật tự thế giới mới, trong đó Mỹ
là siêu cường duy nhất. Hiện nay Mỹ đã có “ảnh hưởng” lớn đối với Saudi Arabia, Jordan, Kuwait,
Turkey, Iraq, Ai Cập. Tất cả những quốc gia nầy, dù muốn dù không họ vẫn phải chịu sức ép bởi Mỹ
trên phương diện kinh tế lẫn chính trị. Mỹ không muốn ở Trung Đông tồn tại một số chính quyền, đặc
biệt là Iran. Dân số Iran khoảng 63,9 triệu người, gấp hơn 3 lần so với Iraq; diện tích lãnh thổ khoảng 1,64 triệu km2, gấp gần 4 lần Iraq. GDP hiện nay của Iran đạt 166 tỷ USD, là cường quốc kinh tế lớn
thứ 8 ở châu Á. Về quân sự, Iran có đội quân thường trực khoảng 900.000 quân và các loại vũ khí
mang tính sát thương lớn như vũ khí sinh học và hóa học. Sau nhiều năm “kinh doanh”, Iran hiện đã có
kho tên lửa lớn nhất ở khu vực Trung Đông, hàng loạt loại tên lửa hiện đại được trang bị cho quân đội
có tầm bắn từ 200 km - 1.300 km. Cựu Tổng thống Iran Khatami từng tiết lộ Iran không những đã có
tên lửa với tầm bắn tới 2.000 km, mà còn có khả năng chế tạo tên lửa tầm bắn xa hơn. Tầm bắn tên lửa
của Iran có thể bao trùm bất cứ mục tiêu nào của quân đội Mỹ ở Israel và khu vực Trung Đông. Một số
tên lửa này cũng chính là con bài của Iran trong việc chống lại Mỹ và đe dọa Israel. Iran với tư cách là
nước lớn Hồi giáo dòng Shiite tiến hành thành công cuộc cách mạng Hồi giáo, từ lâu nay vẫn duy trì
mối quan hệ tương đối mật thiết với một số tổ chức, phong trào Hồi giáo ở khu vực Trung Đông như
“Hội huynh đệ Hồi giáo”, Hezbollah, Hamas và Jihad. Ngoài ra, đối với lực lượng chính trị dòng Shiite
ở khu vực Trung Đông, Iran cũng có ảnh hưởng nhất định. Sau khi Chính quyền Saddam bị lật đổ,
dòng Shiite đã chiếm địa vị chủ đạo trong đời sống chính trị ở Iraq. Syria là đồng minh quan trọng của
Iran ở Trung Đông. Vài năm gần đây, giống như Iran, Syria cũng phải đối mặt trước sức ép của
phương Tây, trong đó có Mỹ. Áp lực này cũng đã khiến cho hai nước “cùng chung cảnh ngộ” này đã
ký “Hiệp ước cùng bảo vệ” tháng 2/2005, để thể hiện quyết tâm đối phó với “thách thức và đe dọa” ở
khu vực. Iran đã từng ủng hộ cuộc đấu tranh chống Israel của Phong trào kháng chiến Hồi giáo Hamas.
Iran cũng là một trong những nước trợ giúp quan trọng về tài chính cho lực lượng du kích Hezbolla của
Liban. Từ khi Syria rút quân khỏi Liban hồi năm 2005, Iran đã từng bước đưa quân vào Liban để lấp
chỗ trống này, do vậy ảnh hưởng của Iran đối với Hezbolla ở nước này cũng từng bước tăng lên. Trong
số các quốc gia ở vùng Vịnh, số người dòng Shiite cũng chiếm tỷ trọng tương đối lớn, trong đó ở Saudi
Arabia khoảng 15%, Kuwait (30%), Các tiểu vương quốc Arabia thống nhất (16%) và Baranh (60%).
Dòng Shiite ở một số quốc gia này và Iran có tình cảm rất gần nhau về tôn giáo, do vậy đây cũng là
một lực lượng quan trọng mà Iran có thể tranh thủ. Ngoài ra, Iran cũng có ảnh hưởng nhất định đối với
tình hình ở Afghanistan. Iran từ trước đến nay luôn là nước ủng hộ tích cực đối với Afghanistan, mối
liên hệ giữa nước này với các nhóm vũ trang ở Afghanistan cũng rất mật thiết. Mặc dù năng lực về
kinh tế và quân sự của các nước được coi là đồng minh của Iran nói trên có hạn, nhưng năng lực phá
hoại của các nước này lại không thể coi nhẹ. Các nước này không chỉ có thể trực tiếp phát động các
cuộc tấn công nhằm vào các mục tiêu của Mỹ và Israel, mà còn có thể gây ra phiền phức và mất ổn
định tại các quốc gia vùng Vịnh, từ đó làm cho tình hình khu vực này xuất hiện biến động, thậm chí
vượt ra ngoài tầm kiểm soát. “Iran là đại diện cho những cản trở đối với Mỹ khi Mỹ thực hiện chiến
lược “Đại Trung Đông” mà cốt lõi là tạo một loại hình “dân chủ mới” kiểu Mỹ. Đối với Mỹ, bàn cờ đặt
ra là Iran phải chấp nhận các yêu sách của Mỹ và Liên hợp quốc đưa ra, nếu không Iran phải chịu mọi
hành động trừng phạt, trong đó có thể có cả hành động quân sự” [69, tr.6].
Tính toán của Mỹ trong vấn đề hạt nhân của Iran không nằm ngoài lợi ích địa-chính trị. Theo
thống kê, trữ lượng dầu mỏ của Iran vào khoảng 100 tỷ thùng, chiếm 10% tổng trữ lượng thế giới, đứng thứ 5 trên thế giới; trữ lượng khí đốt tự nhiên vào khoảng 26.000 tỷ m3, chiếm khoảng 16% trữ
lượng thế giới, đứng thứ 2 thế giới, chỉ sau Nga. Hiện nay, Iran là nước sản xuất dầu mỏ lớn thứ 4 trên
thế giới, có lượng dầu mỏ xuất khẩu nhiều thứ hai trong Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC);
sản lượng dầu thô khoảng 4,2 triệu thùng/ngày, trong đó 14% là xuất khẩu, chiếm 8% tổng lượng giao
dịch dầu mỏ của thế giới. Ngoài Mỹ, phần lớn các quốc gia phương Tây đều có quan hệ hợp tác về
năng lượng với Iran. Iran là nước cung cấp dầu mỏ lớn thứ 3 cho Nhật Bản, nhập khẩu dầu thô của
Nhật Bản trong năm tài chính 2004 có tới 15% là từ Iran. Năm 2004, Iran và Nhật Bản còn ký hiệp
định về các hạng mục khai thác mỏ dầu ở Iran, vốn được coi là một trong số ít các mỏ dầu lớn nhất thế
giới. Iran còn là đối tác mậu dịch quan trọng của các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU). Theo thống
kê, kim ngạch nhập khẩu của EU đối với Iran trong năm 2004 lên tới 8,2 tỷ Euro, trong đó 80% là có
liên quan tới năng lượng. Ngoài ra, còn có nhiều nước lớn đang phát triển trong đó có Trung Quốc và
Ấn Độ, cũng đều là quốc gia nhập khẩu dầu mỏ từ Iran. Kim ngạch xuất khẩu của Đức vào Iran năm
2007 là 5 tỉ USD, giảm chút ít so với 5,3 tỉ USD vào năm 2006. Trong khi đó, kim ngạch xuất khẩu
của Nga và Trung Quốc vào Iran có chiều hướng tăng đột biến. Từ 2 tỉ USD trong năm 2006, kim
ngạch xuất khẩu của Nga vào Iran đã tăng lên 3 tỉ USD trong năm 2007. Xuất khẩu từ Trung Quốc vào
Iran từ dưới 4,5 tỉ vào năm 2006 lên 7,3 tỉ USD trong năm 2007. Mỹ rất muốn làm chủ nguồn tài
nguyên dầu khí giàu có này để thao túng thị trường dầu mỏ cũng như gây sức ép với các nước cần năng
lượng. Eo biển Hormuz - tuyến đường vận chuyển dầu mỏ rất quan trọng ở vùng Vịnh, nằm sát Iran
cũng là một mục tiêu của Mỹ. Eo biển Hormuz nằm giữa Iran và Oman, phía Đông giáp vịnh Oman,
phía Tây giáp vịnh Ba Tư, là con đường duy nhất từ vịnh Persic đi ra Ấn Độ Dương, thậm chí có người
còn gọi eo biển này là “yết hầu” của vùng Vịnh. Chỗ rộng nhất hai bờ Đông - Tây của Eo biển Hormuz
vào khoảng 150 km, chỗ hẹp nhất khoảng 48,3 km. Phần lớn dầu mỏ của các nước bên bờ vịnh Persic
xuất khẩu sang các nước ở Tây Âu, Australia, Nhật Bản và Mỹ đều được vận chuyển qua eo biển này.
Lượng dầu mỏ vận chuyển qua Hormuz tới các khu vực trên thế giới vào khoảng trên 4 triệu tấn/ngày,
bình quân cứ 8-10 phút lại có một tàu chở dầu chạy qua. Do lượng dầu mỏ được vận chuyển qua eo
biển Hormuz chiếm khoảng 60% lượng dầu mỏ nhập khẩu của các nước phương Tây, nên eo biển này
luôn được coi là “tuyến đường sinh mệnh” của phương Tây.
Nếu như ở Đông Bắc Á, cả Mỹ lẫn Trung Quốc đều muốn “phi hạt nhân” bán đảo Triều Tiên,
thì Mỹ và EU lại không thể theo đuổi mục tiêu ấy ở Iran. Mỹ và Trung Quốc có thể tập hợp được lực
lượng với khẩu hiệu chống phổ biến vũ khí hạt nhân, nhưng Mỹ và EU trong trường hợp Iran không
thể bác bỏ quyền của Iran sử dụng năng lượng hạt nhân vào mục đích hòa bình, mà trong trường hợp
này lại trên cơ sở sự hợp tác với Nga. Vấn đề hạt nhân cũng còn là nhân tố cùng quyết định cuộc đấu
tranh quyền lực nội bộ ở Iran, giữa các thế lực tăng lữ Hồi giáo chính thống bảo thủ với phe cải cách
xung quanh Tồng thống Khatami. Mỹ làm căng trong vấn đề này thì ảnh hưởng của phe bảo tôn giáo
chính thống bảo thủ ở Iran sẽ tăng; Mỹ đi vào đối thoại thì sẽ hậu thuẫn cho phe cải cách, nhưng lại
làm cho tính mâu thuẫn trong chính sách của Mỹ thêm nổi bật vì nó khác biệt rõ nét so với chính sách
của Mỹ ở CHDCND Triều Tiên. EU không muốn Nga chuyển giao công nghệ hạt nhân cho Iran,
nhưng lại cũng không sẵn sàng “đầu tư hạt nhân” vào Iran để thay thế. Nga sẵn sàng chấp nhận một
giải pháp đa phương ở CHDCND Triều Tiên để “phi hạt nhân hóa bán đảo”, nhưng lại không hy sinh
những lợi ích kinh tế to lớn trong làm ăn với Iran trên lĩnh vực hạt nhân. Đầu tư của Tập đoàn Khí đốt
khổng lồ của Nga Gazprom đã đổ vào đó 750 tỷ USD; xuất khẩu hằng năm của Nga vào Iran trong lĩnh
vực luyện kim và xây dựng cơ khí đã là 2 tỷ USD; còn cả nhà máy hạt nhân Bushehr đang hoàn thành
nữa, với một lò phản ứng trị giá 1 tỷ USD; đó là chưa kể tới việc giao chiếc MiG29, những chiếc tăng
T-72, và một hệ thống phòng thủ chống tên lửa lên tới 700 triệu USD. Moscow cũng đánh giá cao việc
Iran không ủng hộ các ý tưởng Sunni cực đoan ở Trung Á. Và đương nhiên, Iran và Nga đều phản đối
việc mở rộng NATO sang phía Đông và lắp đặt các máy móc mới trong dự án lá chắn tên lửa của Mỹ ở
CH Czech và Ba Lan. Tuy nhiên, lợi ích chiến lược chính của Nga trong khu vực Caspian liên quan
đến việc giải quyết các vấn đề về khai thác nguồn tài nguyên mỏ và các nguyên liệu đầu vào ở vùng
biển này. Theo một số thống kê, lòng biển Caspian chứa những mỏ dầu và khí đốt lớn thứ 3 thế giới.
Chỉnh đốn những vấn đề đó không thể thiếu sự góp sức của Iran. Không một quốc gia nào trong khu
vực cần đến một cuộc chiến bên bờ biển Caspian. Mọi cuộc xung đột sẽ là mối đe dọa lớn đối với nền
kinh tế của các nước láng giềng, kể cả khi họ không tham gia chiến tranh: những dòng người nhập cư,
dòng vốn lưu chuyển, lạm phát… Vì vậy Moscow muốn tránh bất kỳ xung đột nào ở khu vực này. Nga
vẫn tiếp tục tăng viện (bán) cho Iran hỏa tiễn, chiến xa, đại pháo, kể cả huấn luyện cho Iran sử dụng
các loại vũ khí hiện đại. Nga không hạn chế và tiếp tục giúp đỡ Iran thiết kế nhà máy Nuclear Power
tại Bushehr. Trên phương diện chính trị, Nga đã gây khó cho Mỹ trong mọi nỗ lực chế tài Iran. Tình
hình mới trên bán đảo Nam Á với một Ấn Độ nay là đối tác của Mỹ trong sáng kiến “Các bước tiếp
trong quan hệ chiến lược” (NSSP), bao gồm cả chương trình phòng thủ tên lửa. Bên cạnh đó là một
Pakistan đồng minh chiến lược “cũ” của Mỹ và một Afghanistan được Mỹ “giải phóng” khỏi phe
Taliban. Những diễn biến này không khỏi gây khó chịu đối với Nga. Nếu Iran rơi tiếp qua phía Mỹ, thì
Mỹ sẽ có một “xa lộ” xuyên Nam và Trung Á đến tận bờ biển Caspian đầy ắp dầu khí nơi vốn là “ao
nhà” của Nga. Về phía Trung Quốc, ý thức được mọi sinh hoạt kỹ nghệ Trung Quốc tùy thuộc một
phần lớn vào kỹ nghệ dầu hỏa Trung Đông, hơn ai hết, Bắc Kinh hiểu rằng, Mỹ muốn kiểm soát giếng
dầu Trung Đông để phong tỏa kinh tế và không cho phép Trung Quốc có thể phát triển đất nước. Trong
bối cảnh đó, Trung Quốc không thể không hành động. Tháng 2/2006, Trung Quốc và Iran đã công bố
một hiệp định về năng lượng trị giá 100 tỷ USD. Theo khuôn khổ của hiệp định này, công ty dầu mỏ
và hóa chất quốc gia Trung Quốc (Sinopec) được quyền tiến hành khai thác mỏ dầu Yadavaran của
Iran. Bắc Kinh cũng đồng ý mua của Iran 10 triệu tấn khí đốt hóa lỏng/năm trong vòng 25 năm bắt đầu
từ năm 2009. Như vậy là vì nhu cầu phát triển, Trung Quốc đã liên kết cùng Nga để bảo vệ Iran, một
quốc gia có nguồn thu nhập dầu hỏa đứng hàng thứ tư trên thế giới.
3.5. Cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ
3.5.1. Ở Afghanistan
Sau sự kiện bất ngờ 11/9/2001, chính sách chống khủng bố được chính quyền Mỹ đặt lên hàng
đầu. Để cụ thể hóa chính sách này, Mỹ đã tiến công quân sự vào Afghanistan. Mục tiêu của Mỹ là tiêu
diệt tổ chức Al-Qaeda đang trú trên lãnh thổ Afghanistan. Nhưng để tiêu diệt tổ chức này, Mỹ phải lật
đổ cả chính quyền Taliban của Afghanistan.
Về mặt lịch sử, mạng lưới Al-Qaeda được hình thành xuất phát từ các mạng lưới tình nguyện
quân được người Mỹ, người Saudi Arabia và người Pakistan phái đến Afghanistan để chiến đấu trong
thập kỷ 80 của thế kỷ XX. Trong thời gian diễn ra chiến tranh vùng Vịnh, mạng lưới đó đã quay súng
chống lại Mỹ và Saudi Arabia, nhưng vẫn liên kết với Pakistan cho đến khi xảy ra các vụ khủng bố
ngày 11/9. Đối với người Mỹ, mạng lưới đó trước đây được nó ủng hộ là nhằm mục đích khuyến khích
những người Hồi giáo cực đoan chống lại chủ nghĩa cộng sản; đối với người Saudi Arabia, họ còn có
một mục đích khác nữa là phát triển một chủ nghĩa chính thống bảo thủ, hoàn toàn theo chính giáo đạo
Hồi và như vậy là chống lại giáo phái Shiite để loại Iran ra ngoài vòng ảnh hưởng. Đối với người
Pakistan, họ còn có một mục tiêu thứ ba nữa: lập ra ở Afghanistan một chế độ thân thiện, chính giáo
đạo Hồi, theo đường lối chính thống và của tộc người Pashtun, để sau đó có khả năng trở thành đầu cầu
dẫn tới khu vực Trung Á.
Đặc trưng của các mạng lưới này là chúng tuyển mộ, đóng quân và hành động ở ngoài rìa của
thế giới Hồi giáo - ngoại trừ Ai Cập. Trọng tâm của nó được đặt ở khu vực biên giới Afghanistan -
Pakistan. Ban lãnh đạo Al-Qaeda đã đóng tại Afghanistan để từ đó điều hành công việc từ năm 1996.
Khi chính quyền Taliban ở Afghanistan bác bỏ tối hậu thư của Mỹ đòi giao nộp Bin Laden thì Mỹ bắt
đầu tiến hành các nỗ lực quân sự để xóa bỏ tổ chức Al-Qaeda và lật đổ chính quyền Taliban. Mỹ cũng
bắt đầu tiến hành một chiến dịch ngoại giao để tranh thủ sự giúp đỡ của nước ngoài nhằm diệt trừ tận
gốc bất cứ một tổ chức khủng bố còn lại nào. Điều này đã làm cho chính sách đối ngoại của Mỹ thay
đổi đáng kể: chống khủng bố đã trở thành ưu tiên số một.
Tiến đánh Afghanistan cũng không nằm ngoài chiến lược toàn cầu của Mỹ nhằm thiết lập trật tự
thế giới đơn cực sau khi trật tự thế giới hai cực Tanta sụp đổ. Mỹ tự cho mình quyền thực hiện sứ
mệnh bảo vệ hòa bình thế giới bằng việc thực hiện chiến dịch “công lý vô tận” mà sau đó đổi thành
chiến dịch “tự do bền vững”. Ngày 22/9/2001, Cố vấn an ninh Mỹ C.Rice tuyên bố: “Mỹ có quyền tự
vệ và không cần sự đồng ý của Liên hợp quốc trong việc giáng trả các cuộc tấn công 11/9”. Trong cuộc
chiến này, Liên hợp quốc đã không lên tiếng. Trong cuộc chiến Afghanistan, Mỹ đã vận dụng đường
lối “đơn phương khi cần thiết và đa phương khi có thể”.
Cuộc chiến tranh ở Afghanistan được chia thành hai giai đoạn: giai đoạn thứ nhất: 7/10 -
13/10/2001: Mỹ đã tấn công trực tiếp các mục tiêu trọng điểm của Afghanistan; giai đoạn thứ hai:
13/10 - 15/12/2001: Mỹ hỗ trợ quân sự cho các lực lượng đối lập để tiến đánh Taliban. Đến tháng
1/2002, Taliban bị thay thế bằng chính phủ liên hiệp. Chiến dịch quân sự được mở màn bằng các trận
không kích và kết thúc bằng sự có mặt của bộ binh Mỹ và Anh trên đất Afghanistan. Như vậy, ở giai
đoạn đầu, Mỹ chủ yếu bằng hành động đơn phương phá hủy gần như hoàn toàn các vị trí chiến lược
như: Kabul, Candahar, Mazar-e-Sharif… Nhưng ở giai đoạn sau, Mỹ thực hiện hợp tác với các lực
lượng chống đối thay vì đơn phương trong giai đoạn đầu. Mỹ thay đổi chiến thuật nhằm tránh vấp phải
sự phản đối của người dân Afghanistan nhất là về lâu dài Mỹ còn chiếm đóng quân sự ở đây. Mỹ đã
nhanh chóng hoàn thành 80% kế hoạch của cuộc chiến là lật đổ Taliban, song 20% còn lại rất khó khăn
để thực hiện là việc bắt Bin Laden và M.Omar. Công việc này không cần đến sức mạnh quân sự hùng
mạnh của Mỹ nhưng cần sự thông thuộc địa hình của các lực lượng chống đối. Do vậy, Mỹ cần phải
hợp tác đa phương với các lực lượng này. Khi kết thúc chiến tranh, một lần nữa Mỹ sử dụng “đa
phương khi có thể”. Để tái thiết đất nước, Afghanistan cần tới hàng chục tỷ USD, một khoản tiền mà
một mình Mỹ không muốn gánh vác. Mỹ đã hợp tác với các nước khác trong việc tái thiết Afghanistan.
Sau cuộc chiến, tình hình ở Afghanistan rất bất ổn. Vì thế, Mỹ đã hợp tác với lực lượng gìn giữ hòa
bình quốc tế (ISAF) do Liên hợp quốc thành lập. Tuy thực hiện cả 2 phương châm ngoại giao đó song
Mỹ chú trọng hơn tới “đơn phương khi cần thiết” nhằm từng bước thành lập một trật tự thế giới mới.
Nhưng nhiều năm đã qua, tình hình Afghanistan vẫn chưa ổn định, Bin Laden và Omar vẫn ngoài vòng
pháp luật Mỹ. Khủng bố không giảm mà còn tăng lên. Nếu nhìn Afghanistan như một trận chiến thì
Mỹ đã thắng nhưng nếu là cuộc chiến chống khủng bố thì Mỹ vẫn chưa chiến thắng.
Afghanistan là đất nước có vị trí địa-chính trị quan trọng, án ngữ ngã tư đường đại lục địa Á -
Âu, khống chế phần đất liền lớn nhất trên quả đất. “Trong cuộc chiến tranh chống Afghanistan, dầu
mỏ đóng vai trò cơ bản chứ không phải là ý đồ trừng phạt một nước chứa chấp những kẻ khủng bố.
Mục tiêu của Mỹ rất rõ ràng: cắm chân vào một vùng có nguồn dầu mỏ còn chưa được biết đến và có
trữ lượng khí đốt rất lớn, ngăn chặn ý đồ bành trướng của Trung Quốc ở châu Á; bảo đảm an toàn cho
các mạng lưới vận chuyển dầu mỏ, trong đó buộc các nước khác chấp nhận dự án đường ống vận
chuyển dầu của Mỹ (đi từ Grudia đến Thổ Nhĩ Kỳ)” [65, tr.19].
Mỹ không chỉ có ý định bình ổn Afghanistan mà còn muốn đóng vai trò quyết định trên toàn bộ
khu vực Á - Âu rộng lớn. Việc Mỹ đưa quân vào Afghanistan mùa đông năm 2001 nằm trong chính
sách đẩy mạnh kế hoạch thiết lập căn cứ quân sự ngay tại giao điểm của 3 khu vực lớn: Trung Đông,
Trung Á và Nam Á. Không chỉ bởi đó là những khu vực giàu năng lượng mà còn bởi đây là điểm giao
của 3 cường quốc đang nổi: Trung Quốc, Ấn Độ và Nga.
Sự kiện 11/9 và cuộc chiến chống khủng bố ở Afghanistan đã tạo thế hợp pháp cho Mỹ đưa
quân vào Trung Á - nằm giữa hai châu lục Âu - Á - một địa bàn chiến lược quan trọng về địa chính trị,
giao thông Âu - Á và dầu lửa. Theo kinh nghiệm lịch sử nếu khống chế được vùng “trung tâm” Trung
Á bao gồm đại lục Đông Âu thì có thể khống chế được “hòn đảo thế giới” được tạo thành bởi đại lục
Âu - Á và châu Phi, từ đó có thể thống trị toàn thế giới. Từ lâu nay, Trung Á luôn chiếm vị trí quan
trọng, không chỉ ở châu Á mà còn đối với cả an ninh, kinh tế của thế giới.
Cuộc chiến Afghanistan với lập luận ngăn chặn khủng bố và tăng cường ổn định an ninh ở khu
vực này đã tạo lợi thế cho Mỹ thực hiện “bước đột phá mang tính lịch sử đưa quân vào Trung Á, thách
thức nghiêm trọng địa vị chủ đạo của Nga tại khu vực Trung Á” [41, tr.35].
Theo Brzezinzki, tương lai bá quyền của Mỹ phụ thuộc vào việc kiểm soát Trung Á và
Cápcadơ, khu vực “Balkan của Âu - Á”, tuyến đường vận chuyển các nguồn nhiên liệu cho hai đối thủ
kinh tế lớn nhất của Mỹ trong thế kỷ XXI: châu Á - Thái Bình Dương (nơi Trung Quốc đứng hàng
đầu) và Liên minh châu Âu (EU). Bản thân liên minh chống khủng bố chỉ là bức màn che đậy cho mưu
đồ bành trướng của Mỹ sang các khu vực mới.
Người Mỹ đã có mặt ngay tại trung tâm Âu - Á. Lợi dụng việc nước Nga và các nước cộng hòa
Trung Á sẵn sàng giúp đỡ trong việc chống chủ nghĩa khủng bố, chính quyền của Tổng thống Bush lần
đầu tiên trong lịch sử đã thâm nhập vào những nơi mà sau Tamerlan vốn là “vùng đất thiêng liêng” của
Nga - các nước Trung Á như Uzbekistan, Tajikistan, Kyrgyzstan. Đây là khu đệm, nơi giáp ranh hội đủ
các nền văn minh: Hồi giáo, Trung Hoa và Ấn Độ. Một bãi tập tuyệt vời để kiểm soát vùng Âu - Á từ
cả bốn phía của thế giới. Việc có được các căn cứ quân sự đóng tại các nước cộng hòa Trung Á đã mở
ra cho người Mỹ một đài quan sát mới hướng vào Trung Quốc, Nga, Afghanistan, Trung Á. Nhờ thủ
đoạn địa-chính trị khôn khéo, Washington đã có thể giải quyết ngay một lúc mấy vấn đề:
- tác động vào khu mỏ dầu và khí đốt lớn thứ ba trên thế giới của vùng Kaspi rộng lớn
- cách ly Iran là nước không hợp gu Mỹ
- có thể gây sức ép đối với một điểm yếu của Trung Quốc (khu tự trị Tân Cương-Uyghur) từ hậu
phương
- kiểm soát được Afghanistan không phải chỉ từ bên trong mà cả từ bên ngoài
- hỗ trợ cho nước đồng minh Pakistan từ các căn cứ trên mặt đất
Tất cả những điều vừa nói trên chung quy lại là: Mỹ, một cách khá bất ngờ, đã củng cố được các
vị trí địa-chính trị của mình, trước hết là nhờ Nga, sau nữa là Trung Quốc, Iran, Ấn Độ. Tờ báo Mỹ
“Christian Science Monitor” (March 19, 2002) viết, khi Mỹ tiến hành cuộc chiến chống khủng bố ở
Afghanistan và lần đầu tiên gửi quân tới các vùng giàu năng lượng của Trung Á và Kavkaz, thì có thể
nói rằng biên giới của đế chế mới của Mỹ đã được thiết lập. Các khu vực chiến lược này, trước đây đã
nằm hẳn trong vòng ảnh hưởng của Liên Xô, mà sau này là của Nga, cùng với các căn cứ ở vùng
Trung Đông, nay đã là nhà của quân Mỹ [80, tr.265-267].
Để thúc đẩy chiến lược Trung Á của mình, Mỹ đã đặt 2 căn cứ quân sự tại Uzbekistan là
Hanabad và Kokaida, 2 căn cứ quân sự tại Tajikistan là Dushanbe và Kyulyab và 1 căn cứ tại
Kyrgyzstan là Manas gần thủ đô Bishkek. Mỹ đã cung cấp cho Uzbekistan khoản tiền trị giá 25 triệu
USD để mua bán vũ khí và các trang thiết bị quân sự. Tại căn cứ không quân Hanabad ở Uzbekistan,
Mỹ đã rót khoản tiền từ 270 đến 300 triệu USD và khoản tiền này còn tăng lên. Mỹ còn ký một hiệp
ước hợp tác với Kyrgyzstan nhằm giúp thu thập các tin tức tình báo và đào tạo, tiến hành các hoạt động
huấn luyện chống khủng bố và diễn tập quân sự với Kyrgyzstan và Tajikistan. Ngân hàng xuất nhập
khẩu Mỹ đã cho Uzbekistan vay khoản tiền trị giá 100 triệu USD để đối phó với nền kinh tế đang ảm
đạm, viện trợ kinh tế cho Kazakhstan 52 triệu USD. Ngoài ra, các khoản tiền cũng được Mỹ rót vào
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikstan và Uzbekistan qua các dự án phát triển năng lượng và khí hydro...
Mỹ đồng thời tham gia vào Tổ chức gìn giữ hòa bình Trung Á trong đó có Uzbekistan, Kazakhstan và
Kyrgyzstan, đồng thời thúc đẩy quy chế thành viên cho các nước này và các nước khác trong khu vực
tham gia chương trình đối tác vì hòa bình của NATO. Sau đó, Mỹ còn ra sức ủng hộ khối Thịnh vượng
chung của các quốc gia Trung Á trong đó có Uzbekistan, Kazakhkstan, Kyrgyzstan, Tajikistan để hợp
tác năng lượng, nông nghiệp, khí hydro và giao thông để từ đó làm giảm những ảnh hưởng của Nga
đến khu vực này.
Sự có mặt của lực lượng quân sự Mỹ tại một số nước Trung Á là nằm trong chiến lược tổng thể
lâu dài của Mỹ, nhằm khống chế các nước trong khu vực này và cả nguồn trữ lượng dầu khí Trung Á.
Mỹ coi các căn cứ quân sự tại Trung Á là đối trọng trong cuộc chạy đua giành ảnh hưởng với Nga và
Trung Quốc tại khu vực này. Với việc có mặt quân sự ngày một gia tăng ở Trung Á, Mỹ đang không
chỉ thay đổi cục diện chính trị-an ninh mà còn ngày càng đẩy Nga ra khỏi thị trường, đặc biệt là khai
thác dầu lửa và từng bước chiếm tỉ trọng cao trong quan hệ kinh tế với các nước Trung Á. Không
những bao vây được Nga, việc đặt các căn cứ quân sự của Mỹ tại Trung Á sẽ gắn kết chuỗi dây quân
sự vòng quanh Trung Đông, kéo dài từ Thổ Nhĩ Kỳ tới Saudi Arabia, Kuwait, Bahrain và Qatar, từ
Pakistan tới Afghanistan. Nếu như Mỹ có thể gắn kết Trung Á với Afghanistan, Pakistan và Ấn Độ thì
Mỹ còn có thể kiểm soát được toàn vùng Nam Á, mở đường bay và hành lang xuống Ấn Độ Dương.
Hơn nữa, việc xuất hiện những ảnh hưởng to lớn đặc biệt về quân sự của Mỹ tại Trung Á còn tạo lập
một vành đai quân sự xung quanh Trung Quốc hòng kiềm chế nước này thông qua việc đóng quân
quanh Trung Quốc ở phía Đông Bắc (bán đảo Triều Tiên), phía Đông Nam (Philippines, Singapore và
cam kết quân sự tại Đài Loan), phía Tây (Afghanistan).
3.5.2. Ở Iraq
Iraq nằm ở Trung Đông, khu vực có tầm quan trọng về giao thông chiến lược và có trữ lượng
dầu mỏ lớn trên thế giới. Iraq có 97% dân số theo đạo Hồi, theo quan điểm của Mỹ: đạo Hồi đối
nghịch với văn minh phương Tây, là nguồn phát triển vũ khí hạt nhân, chủ nghĩa khủng bố. Dưới thời
Saddam Hussein, Iraq có tham vọng trở thành cường quốc quân sự và dầu mỏ tại khu vực vùng Vịnh.
Điều này đe dọa lợi ích của Israel và của Mỹ trong khu vực Trung Đông. Việc Iraq chiếm đóng Kuwait
là mốc khởi đầu tình trạng căng thẳng trong quan hệ Mỹ - Iraq.
Sau cuộc chiến vùng Vịnh 1991, phái đoàn thanh sát viên quốc tế (UNSCOM) vào Iraq nhằm
kiểm tra các cơ sở vũ khí sinh - hóa học. Theo các nghị quyết của Liên hợp quốc, lệnh trừng phạt đối
với Baghdad sẽ không được dỡ bỏ chừng nào UNSCOM chưa chứng nhận nước này đã phá hủy toàn
bộ vũ khí hủy diệt hàng loạt. Năm 1993, Cục tình báo trung ương Mỹ (CIA) tìm ra bằng chứng cho
thấy Iraq tham gia âm mưu ám sát cựu tổng thống G.H.W.Bush. Để trả đũa, Tổng thống Clinton đã ra
lệnh tấn công bằng tên lửa đầu đạn hạt nhân tầm thấp vào nước này. Anh và Mỹ thiết lập khu vực cấm
bay ở phía bắc và phía nam. Đồng thời, UNSCOM tiếp tục tìm kiếm vũ khí phá hủy hàng loạt của Iraq.
Năm 1996, Mỹ lại tiến hành tấn công bằng tên lửa. Tuy nhiên, khi đó, các nước, đặc biệt là Nga và
Pháp, rất muốn nối lại quan hệ làm ăn với Iraq, nên sự đối đầu Washington - Baghdad không có gì
đáng kể. Phái đoàn thanh sát viên rời khỏi Iraq trước khi Anh, Mỹ tiến hành không kích với lý do chính
quyền sở tại không hợp tác với UNSCOM. Tháng 12/1998, chính quyền Clinton đã phát động chiến
dịch Con cáo sa mạc để trừng phạt Baghdad. Tổng thống Mỹ lúc đó tuyên bố: “Phương cách tốt nhất
để chấm dứt nguy cơ một lần và mãi mãi là thiết lập một Chính phủ mới ở Iraq”. Quốc hội Mỹ đã
thông qua Đạo luật Giải phóng Iraq, trong đó Washington sẽ trợ giúp tài chính các hoạt động của các tổ
chức đối lập nhằm lật đổ Saddam Hussein. Đầu năm 2002, trong Thông điệp liên bang, Tổng thống
George W. Bush đã đưa Iraq cùng Iran và CHDCND Triều Tiên vào danh sách “trục ma quỷ”. Người
đứng đầu Nhà Trắng cáo buộc các nước này phát triển vũ khí hủy diệt hàng loạt. Tiếp đó, ông coi Tổng
thống Iraq Saddam Hussein là “nguy cơ với thế giới” trong bài phát biểu trước Đại hội đồng Liên Hợp
Quốc. Tổng thống Bush cho rằng các nhà lãnh đạo phải hành động thận trọng và kiên quyết với
Baghdad.
Lý do để khởi xướng và ủng hộ cuộc chiến chống Iraq của Mỹ được nêu rõ và đầy đủ trong bản
báo cáo có tựa đề “Một thập kỷ lừa dối và thách thức” được Tổng thống Mỹ G.W.Bush trình bày trước
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc ngày 12/9/2002. Ba lập luận cơ bản cho cuộc chiến được ông Bush
phát triển gồm: thứ nhất, Iraq vi phạm một cách nghiêm trọng và có hệ thống 16 nghị quyết của Liên
hợp quốc; thứ hai, Iraq đang sở hữu vũ khí hủy diệt hàng loạt (hạt nhân, sinh học và hóa học) và tên
lửa đạn đạo cho phép Iraq tấn công các nước khác trong khu vực; thứ ba, chế độ cầm quyền tại Bagdad
bị buộc tội vi phạm những quyền con người cơ bản (tra tấn, hãm hiếp, hành quyết tập thể). Bốn lý do
khác mà bản báo cáo này nêu ra gồm: thứ nhất, sự ủng hộ của chính quyền Saddam Hussein đối với
chủ nghĩa khủng bố (Iraq bị cáo buộc tài trợ cho các tổ chức du kích Palestine và trợ cấp cho mỗi gia
đình thành viên du kích thực hiện đánh bom tự sát chống Israel 25.000 USD); thứ hai, Iraq bị tố cáo
không thực hiện đúng Công ước quốc tế về tù binh chiến tranh vì vẫn còn giam giữ các phi công Mỹ
sau chiến tranh vùng Vịnh lần thứ nhất năm 1991; thứ ba, Iraq chiếm đoạt nhiều tài sản mà Iraq đã
đánh cắp trong lần xâm lược Kuwait năm 1990 (các tác phẩm nghệ thuật và phương tiện chiến tranh)
và cuối cùng, chính quyền Bagdad bị buộc tội lợi dụng chương trình “dầu lửa đổi lương thực” vào các
mục đích không phục vụ nhu cầu dân sinh.
Thực chất lý do chính là “Iraq, nước có trữ lượng dầu lớn thứ hai trên thế giới, sau Saudi
Arabia, đã chống lại sự thao túng của Mỹ ở vùng Trung Đông, do đó trở thành một vật cản trong chiến
lược kiểm soát nguồn năng lượng thế giới của Mỹ. Mưu đồ lật đổ Saddam Husein của Mỹ lại càng
mạnh mẽ hơn sau khi Iraq ký với Pháp, Nga và Trung Quốc một số hợp đồng khai thác dầu mỏ và
chuẩn bị đi vào thực hiện khi lệnh cấm vận được dỡ bỏ. Một cuộc can thiệp quân sự cùng với việc lật
đổ chế độ Baghdad của Saddam Husein và thiết lập một chính quyền thân Mỹ sẽ làm thay đổi sự phân
chia nói trên, trong đó Mỹ và Anh không được tham gia” [65, tr.18].
Các mục tiêu chiến lược của Mỹ trong ý đồ tấn công Iraq là: thử nghiệm Học thuyết chiến lược
mới và xác lập quyền thống trị thế giới. Tinh thần chính của học thuyết này là: không một ai có thể
thách thức ưu thế quân sự của Mỹ mà không bị trừng phạt. Học thuyết ấy đề cao phương thức mới “tấn
công ngăn ngừa”, thay thế cho phương thức “răn đe” từng được áp dụng thành công trong Chiến tranh
lạnh. Kể từ khi Liên Xô tan vỡ, Mỹ không muốn có những đối thủ cạnh tranh tầm cỡ như vậy nữa. “Là
siêu cường trong lĩnh vực quân sự và kinh tế, Mỹ muốn áp đặt “lối sống” của họ cho phần còn lại của
thế giới. Họ muốn xuất khẩu mô hình kinh tế và văn hóa của họ để đề cao quan điểm về quyền tự do và
dân chủ theo nghĩa rộng. Cuộc thử nghiệm ở Iraq sẽ là bước khởi đầu quyết định đối với chiến lược bá
chủ toàn cầu, răn đe tất cả những nước chống Mỹ đầy nguy hiểm của nhà cầm quyền Mỹ đối với thế
giới tương lai” [65, tr.52-54]. Điều này một phần lý giải tại sao Mỹ kiên quyết ở lại và tái thiết Iraq bất
chấp khó khăn chồng chất và uy tín của nước Mỹ bị ảnh hưởng nặng nề.
“Với cuộc chiến chống Iraq, G.W.Bush có tham vọng lớn là thay đổi bàn cờ chính trị ở Trung
Đông, thay đổi một cách có hệ thống những chế độ đe dọa những lợi ích của Mỹ và trật tự chính trị,
chiến lược và kinh tế đã được xác lập, biến Trung Đông thành “sân sau” của Mỹ” [68, tr.32]. Trong
hai bài diễn văn về chính sách của Mỹ trong việc giải quyết xung đột Israel - Palestine (6/2002) và
thay đổi chế độ chính trị tại Baghdad và “chuyển hóa” các nước Trung Đông sang nhà nước “dân chủ
tự do” (26/2/2003), G.W.Bush cho rằng, con đường dẫn tới Jerusalem phải qua Baghdad. Mỹ quyết
tâm thiết lập một chế độ thân Mỹ ở Iraq để tạo cơ sở sắp đặt lại trật tự ở vùng Trung Đông. Theo
P.Cô-xtơ, phóng viên tạp chí “Tin nhanh” (của Pháp số ra ngày 17/3/2003), sở dĩ Mỹ chọn Iraq làm
mục tiêu tiến công là vì phái bảo thủ mới trong Bộ Quốc phòng và Nhà Trắng Mỹ cho rằng, Trung
Đông là “nguồn sống” của bọn khủng bố quốc tế, nơi có hận thù với Mỹ, nơi có nguồn dầu mỏ lớn
nhất thế giới, nơi có những chế độ độc tài, nơi có các tổ chức cực đoan. Sự có mặt thường xuyên của
Mỹ ở một nước Iraq được “giải phóng” và là bạn của Mỹ thì mới tạo điều kiện thuận lợi để Mỹ triệt
phá được tận gốc mầm mống đe dọa và thông qua hiệu ứng domino mới dân chủ hóa được từng nước
trong vùng theo ý đồ của Mỹ. Mỹ hy vọng với việc lật đổ chế độ độc tài của Saddam Hussein sẽ là
bước đầu tiên cho tiến trình dân chủ hoá ngay tại Iraq và trong khu vực. Hiệu ứng domino dân chủ hóa
sẽ lan rộng sang các nước Iran, nơi đang diễn ra cuộc tranh đấu gay gắt giữa thế lực Hồi giáo chính
thống với phong trào cải cách dân chủ hóa do Tổng thống Khatami đứng đầu, sang Syria, nơi chế độ
độc tài cha truyền con nối đang ngự trị, tới Saudi Arabia, nơi ảnh hưởng của Hồi giáo đang thống trị
và là nguồn tài chính cho các tổ chức khủng bố quốc tế hay chính tại Ai Cập, nước đồng minh hàng
năm nhận từ tay Mỹ một khoản viện trợ khổng lồ 3 tỷ đôla để duy trì chính quyền thân Mỹ.
Như vậy, cuộc chiến tranh chống Iraq của G.W.Bush là một kế hoạch nhằm sắp đặt lại trật tự ở
Trung Đông, độc chiếm một khu vực xung yếu chiến lược và có nguồn dầu lửa lớn nhất thế giới, răn
đe các nước trong khu vực và trên thế giới. Sau khi chế độ Saddam Hussein, biểu tượng của tinh thần
dân tộc Arabia dám thách thức Mỹ tại khu vực, bị sụp đổ nhanh chóng, cán cân lực lượng trong khu
vực thay đổi, có lợi nhiều cho Mỹ, Israel và đặt Palestine và nhiều nước cấp tiến khác trong khu vực ở
vào thế yếu, bị bao vây o ép bởi lực lượng Mỹ, Israel. Trên thực tế, toàn bộ vùng Trung Đông nằm
trong thế bao vây của tam giác Thổ Nhĩ Kỳ - Israel - Iraq và lực lượng Mỹ ở vùng Vịnh, Afghanistan,
Trung Á. Tình thế này tạo cho Tổng thống Mỹ G.W.Bush, thực hiện tham vọng “chuyển hóa” Trung
Đông. Các nước Nga, Pháp và Đức cũng mất đi con bài mặc cả quan trọng với Mỹ, ảnh hưởng ngoại
giao của các nước này bị thu hẹp lại.
KẾT LUẬN
Nước Mỹ là một lục địa bị tách biệt khỏi phần còn lại của thế giới bởi Đại Tây Dương và Thái
Bình Dương. Vị trí địa lý đó đã tạo nên lối tư duy và cảm nhận biệt lập của người Mỹ trong một thời
gian dài. Với học thuyết Monroe năm 1823, người Mỹ tự cho mình là những người bảo vệ châu Mỹ
chống lại chủ nghĩa thực dân châu Âu. Chậm nhất là vào năm 1865, ngay sau khi kết thúc nội chiến,
người Mỹ đã đạt được một cấp độ an ninh mà hầu hết các nước trong mọi thời đại gần như không thể
tưởng tượng nổi: nước Mỹ được ngăn cách khỏi những kẻ thù tiềm tàng ở phía Đông và phía Tây bởi
khu vực đại dương sâu rộng, còn ở khu vực biên giới phía Bắc và phía Nam là các quốc gia Canada và
Mexico mà cho đến nay vẫn là các quốc gia thân thiện. Được đại dương bảo vệ, nước Mỹ có thể phát
triển trong điều kiện hòa bình. Khi nước Mỹ tham gia cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhất, nó đã có
được một tiềm năng công nghiệp vững mạnh và khi người Mỹ tự nhận trách nhiệm lãnh đạo thế giới,
ưu thế của họ so với tất cả các nước khác là không thể sánh kịp.
Vì sao sau chiến tranh thế giới thứ hai, nước Mỹ lại từ bỏ chủ nghĩa biệt lập, dấn sâu vào những
cuộc can thiệp về mặt chính trị và quân sự ra bên ngoài phạm vi vùng biển bảo vệ của họ? Câu trả lời
là đại dương đã không còn bảo vệ được họ nữa hoặc là họ cảm thấy như vậy. Khi cuộc chiến tranh thế
giới thứ hai bắt đầu nổ ra, đa số nguời Mỹ phản đối sự dính líu của Mỹ vào cuộc chiến. Nhưng thái độ
đó dần thay đổi sau khi phe Trục giành được chiến thắng ban đầu. Châu Âu dưới sự cai trị của nước
Đức và Viễn Đông dưới sự cai trị của Nhật Bản đồng nghĩa với việc chấm dứt thương mại thế giới tự
do và dẫn tới sự đe dọa đối với chính nền móng của nước Mỹ. Như lời Tổng thống Roosevelt đã nói,
biển cả có thể làm thành những xa lộ cho phe Trục tấn công nước Mỹ. Khi quân Nhật tấn công Trân
Châu Cảng, Mỹ đã bắt đầu tham chiến mà thực ra nó đã có sự chuẩn bị nội bộ từ lâu cho cuộc chiến
này.
Sau khi chiến thắng phát xít và vào lúc Mỹ vẫn chưa kịp rút quân về nước, Stalin đã đặt ra một
mối đe dọa mới cho Mỹ: sự hình thành một châu Âu cộng sản xa cách với nền thương mại thế giới tự
do, một châu Âu có thể tạo cho Liên Xô có đủ sức mạnh để đe dọa ngay cả Mỹ. Kết quả là Mỹ đã cam
kết bảo đảm cho Tây Âu có một nền phòng thủ dài hạn bằng cách lập ra tổ chức NATO. Mỹ đã ràng
buộc Tân thế giới (tức châu Mỹ) với Cựu thế giới (tức châu Âu) và đồng thời còn cam kết bảo vệ cả
Nhật Bản. Đến năm 1950, Mỹ đã thoát ra khỏi lập trường biệt lập nổi tiếng của nó, một chính sách đã
cho phép nó giữ thái độ dửng dưng trong suốt một thế kỷ rưỡi trước những sự kiện không tác động
trực tiếp đến nó.
Theo quan điểm của Mỹ, mối nguy hiểm bắt đầu có quy mô toàn cầu sau khi Mao Trạch Đông
tuyên bố theo phe XHCN, sau khi Kim Nhật Thành bất ngờ tấn công Nam Triều Tiên và sau khi nước
Pháp thất bại trong việc đối phó với Hồ Chí Minh ở Việt Nam. Giờ đây Mỹ chỉ có thể chống lại chủ
nghĩa cộng sản thế giới trên toàn cầu. Nó bắt đầu phái các tàu chiến đi khắp nơi, thiết lập các căn cứ
quân sự và tham gia các liên minh không chỉ ở châu Âu mà còn ở khắp nơi trên thế giới. Vũ khí
nguyên tử trở thành một công cụ cần thiết cho sự sống còn, bởi vì đại dương không còn có thể bảo vệ
được Mỹ chống lại tên lửa vượt đại châu của Liên Xô, hơn nữa, thậm chí đại dương còn trở thành
những xa lộ cho tàu ngầm mang tên lửa. Cuộc đấu tranh chống lại Hitler, Stalin, Mao Trạch Đông và
Nhật Bản đã đưa người Mỹ đến châu Âu và Đông Á, chẳng bao lâu, do bị hết nỗ lực kiềm chế này đến
nỗ lực kiềm chế khác thôi thúc, người Mỹ đã rải quân bao quanh khắp cả địa cầu. Người Mỹ thấy
mình bị sa vào một vị trí địa lý và chính trị mà ban đầu họ không muốn, nhưng đến lúc đó họ đã vui
mừng chấp nhận và kiên quyết duy trì. Nước Mỹ không phải là kẻ chinh phục thế giới và cũng không
phải là cường quốc thế giới bất đắc dĩ. Người Mỹ hành động với một niềm tin vững chắc rằng đất
nước họ có một sứ mạng thế giới: Nếu một việc gì có lợi cho nước Mỹ thì nó cũng có lợi cho toàn thế
giới.
Henry Kissinger cho rằng: “Dưới góc độ địa-chính trị, nước Mỹ chỉ là một hòn đảo trên bờ của
lục địa Á - Âu”. Từ thời cận đại đến nay, các nhà địa-chính trị và chiến lược phương Tây đều đưa ra
lập luận cho rằng, nếu làm chủ được lục địa Á - Âu là có thể trở thành bá chủ thế giới. Như vậy, về
mặt địa lý, nằm ở Tây bán cầu, nếu muốn làm bá chủ thế giới, bắt buộc Mỹ phải khống chế và giữ
được vai trò chủ đạo ở lục địa này. Từ đầu thế kỷ XX, Mỹ đã vượt qua đại dương để có mặt ở lục địa
Á - Âu và cũng từ đó Mỹ bắt đầu vai trò cường quyền trên thế giới, bắt đầu con đường “chủ nghĩa
toàn cầu”. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Mỹ đã xây dựng một hệ thống phòng thủ bao quanh Liên
Xô, nhằm ngăn chặn khả năng mở rộng sức mạnh ảnh hưởng của Liên Xô sang các khu vực chung
quanh. Vì vậy đã xảy ra cuộc tranh giành quyền lực Xô - Mỹ. Từ đó Mỹ đã hình thành một chiến lược
quan trọng khác là ngăn chặn bất kỳ nước lớn hoặc một liên minh nào khác ở châu Âu có khả năng
vươn lên loại bỏ hoặc đe dọa gạt Mỹ ra khỏi lục địa Âu - Á. Mối đe dọa tiềm tàng đối với Mỹ là Nga
và Trung Quốc, liên minh Nga - châu Âu (gồm Nga - Đức hoặc Nga - Pháp) [7, tr.20].
Trên thực tế, sau Chiến tranh lạnh, để duy trì vai trò siêu cường duy nhất trên thế giới, Mỹ đã
cải tạo, củng cố và mở rộng hệ thống đồng minh thời kỳ Chiến tranh lạnh để tăng cường bảo vệ sự tồn
tại mang tính chiến lược của vành đai xung quanh lục địa Á - Âu, tạo nên một thế chiến lược tiến - lui
đều thuận lợi đối với Mỹ, ngăn chặn sự nổi lên của bất kỳ quốc gia hay liên minh nào có thể thách
thức vai trò của Mỹ, từ đó duy trì trật tự thế giới đơn cực - trật tự đế quốc kiểu mới do Mỹ làm bá chủ.
Khi quyền lực không còn bị hạn chế bởi một quyền lực đối địch thì chính trị quyền lực và ý
thức về quyền lực của mình sẽ đạt tới đỉnh cao nhất của nó. Sau khi Liên Xô sụp đổ, Mỹ trở thành
cường quốc thế giới duy nhất, không còn bị bất cứ ai gây nguy hiểm thực sự, với vị trí vượt trội so với
tất cả, gần như lúc nào cũng mạnh hơn trong tất cả các mối quan hệ, bị nhiều nước căm ghét và cũng
được nhiều nước yêu cầu bảo vệ, thậm chí cả những nước đồng minh ít thân thiện hơn bình thường,
nhưng nó chỉ phải chịu trách nhiệm với chính mình. Cường quốc thế giới không có đối thủ phải lo chủ
yếu đến việc làm thế nào để không có bất cứ một đối thủ tương lai nào xuất hiện. Vì vậy, nó đặt niềm
tin vào các nước cộng hòa Xô viết cũ, đặc biệt là Ukraina, để kiềm chế nước Nga; nó thâm nhập về
mặt kinh tế vào những khu vực giàu dầu mỏ ở Trung Á, nơi nó ủng hộ những lợi ích không phải của
nước Nga. Nó đặt giới hạn cho nước Nga ở phương Tây và mở rộng thế lực của mình ở châu Âu bằng
cách nhìn nhận các nước đồng minh cũ của Liên Xô vào NATO. Nó duy trì lập trường chính trị và
quân sự của nó chống lại Trung Quốc tại Nhật Bản và Hàn Quốc, và nó được hưởng lợi từ một điều là
nói chung phần lớn những nước ở khu vực này đều muốn sự có mặt của nó vì nghĩ rằng điều này sẽ
giúp tạo ra sự ổn định. Trước ngày 11/9/2001, sức mạnh cũng đã trở thành một phương tiện để đạt
được mục đích thiết lập trật tự thế giới đơn cực của Mỹ. Tất cả những điều nói trên dường như đã thay
đổi phần nào kể từ sau vụ tấn công vào nước Mỹ ngày 11/9/2001. Để tìm ra và trừng phạt những kẻ
dính líu vào vụ tấn công đó và ngăn chặn chủ nghĩa khủng bố, Mỹ đã tìm kiếm sự ủng hộ của các
nước đồng minh cũng như các nước khác trên thế giới. Kết quả là, thế giới được chứng kiến một nước
Mỹ có thái độ hòa giải hơn. Mỹ tìm kiếm sự thông cảm, xem xét đến những quyền lợi và những mối
quan tâm của Nga và Trung Quốc, và Mỹ không ngừng trấn an thế giới Hồi giáo rằng Mỹ không chiến
đấu chống lại tôn giáo của họ mà chỉ chống lại những kẻ khủng bố. Ngay cả quyền hành của Liên hợp
quốc, cái mà trước đây Washington phớt lờ, nay cũng được bàn bạc cho ý kiến. Tuy nhiên, bất kể tác
động khủng khiếp và đáng sợ của nó, chủ nghĩa khủng bố không có đủ sức mạnh để làm thay đổi thói
quen của quốc gia hàng đầu thế giới hoặc thay đổi sự hiểu biết của quốc gia này về các quyền lợi do vị
trí bá quyền mang lại. Mỹ sẽ vẫn tiếp tục sử dụng và chứng minh ưu thế của mình. Mỹ không chấp
nhận bất cứ ai là người ngang hàng và nhanh chóng gọi những người đi theo Mỹ là bạn. Mỹ không
còn biết đến bất cứ một kẻ thù nào, mà đối với họ chỉ còn có những người nổi loạn, những kẻ khủng
bố và những quốc gia lưu manh. Họ không còn phải chiến đấu nữa mà chỉ có trừng phạt. Họ không
còn tiến hành chiến tranh nữa mà chỉ là thiết lập hòa bình. Ngày nay, người Mỹ đã Mỹ hóa một phần
lớn thế giới và họ đang cố Mỹ hóa phần còn lại của thế giới. Mỹ trở thành một cường quốc thế giới
không chỉ vì nó có thể với tới bất cứ nơi nào trên thế giới về mặt quân sự mà còn vì các sản phẩm văn
hóa đại chúng của nó.
Chiến lược thế kỷ XXI của Mỹ mang đậm màu sắc “chủ nghĩa một cực” với việc tiếp tục có lực
lượng quân sự mạnh để duy trì vị trí siêu cường duy nhất và ngăn chặn sự xuất hiện của một nước
hoặc một nhóm nước bá quyền có thể thách thức Mỹ ở đại lục Á - Âu, Đại Tây Dương hay Thái Bình
Dương. Đối với khu vực châu Á, chiến lược thế kỷ XXI của Mỹ còn kèm thêm nguyên tắc lý luận
“mở cửa” và “cây gậy” [41, tr.361].
Bản chất chiến lược thế kỷ XXI của Mỹ là chiến lược “hai đầu Á - Âu” với:
- Đồng minh quân sự ở hai đầu Âu - Á (NATO ở châu Âu và an ninh Nhật - Mỹ ở châu Á).
- Mỹ “thu hẹp không gian chiến lược của Nga” ở châu Âu và “hình thành thị trường châu Âu
rộng lớn không có Nga” bằng việc đầu tư vốn của Mỹ.
- Ngăn chặn trước không cho Trung Quốc và Nhật Bản có thể mở rộng không gian chiến lược ở
châu Á bằng việc “trói buộc Nhật Bản” và “kiềm chế Trung Quốc”.
- Mỹ đi vào toàn bộ đại lục Á - Âu qua việc duy trì quyền chủ đạo ở châu Á. [42, tr.229-230]
Nhìn từ phía Mỹ, củng cố quan hệ đồng minh thời kỳ Chiến tranh lạnh như với châu Âu, Nhật
Bản và việc thiết lập quan hệ với các nước “chuyển đổi loại hình” như Trung Quốc, Nga, Ấn Độ là hai
trụ cột lớn của chiến lược toàn cầu của Mỹ thế kỷ XXI, chức năng tuy khác nhau song vị trí quan
trọng như nhau. Theo ý nghĩa đó, “quan hệ đối tác chiến lược mang tính xây dựng” Mỹ - Trung, “quan
hệ đối tác hòa bình” NATO - Nga và “quan hệ đối tác kiểu mới” Mỹ - Ấn đều chỉ mang ý nghĩa cần
phải có trong bố cục chiến lược toàn cầu của Mỹ, phục vụ cho mục tiêu chung can dự và lãnh đạo thế
giới. [...] Mọi việc làm của Mỹ bao giờ cũng xuất phát từ góc độ toàn cầu và lợi ích quốc gia của Mỹ.
Mỹ lấy phương châm “không có bạn bè vĩnh viễn, chỉ có lợi ích vĩnh viễn” để làm cơ sở phán quyết
bạn - thù. Mỹ có thể làm tất cả vì lợi ích của mình và không làm bất cứ gì nằm ngoài lợi ích đó [40,
tr.155,237].
Nhưng cường quốc thế giới sẽ không thể cứ vĩnh viễn là cường quốc thế giới. Có ba lý do
khiến cho nó có thể suy vong: có các quốc gia mới hoặc các liên minh quốc gia trở nên mạnh hơn so
với nó; có sự bành trướng thế lực riêng của nó một cách quá mức và có sự suy thoái bên trong của
cường quốc thế giới đó. Tuy nhiên, ít nhất là trong vòng hai hoặc ba thập niên tới sẽ không có một
cường quốc duy nhất nào hoặc một liên minh cường quốc nào có thể đe dọa vị trí đế quốc của Mỹ.
Nền kinh tế Mỹ vẫn có sức cạnh tranh mạnh nhất thế giới, sức sáng tạo khoa học kỹ thuật của Mỹ vẫn
giữ vị trí hàng đầu. Về quân sự, Mỹ vượt xa các nước lớn khác như Nga, Trung Quốc. Mỹ là nước duy
nhất có khả năng triển khai lực lượng ra toàn cầu. Mỹ nắm giữ vai trò chủ đạo trong các thiết chế tài
chính, thương mại thế giới như IMF, WTO, WB... Mỹ cũng là nước lãnh đạo khối liên minh an ninh
quân sự xuyên Đại Tây Dương, NATO và qua đó duy trì sự phụ thuộc của các nước Tây Âu vào Mỹ
về mặt chính trị và quân sự. Ở Châu Á, hệ thống San Fransico do Mỹ thành lập từ sau Chiến tranh
lạnh đến nay vẫn được duy trì và củng cố. Như vậy, có thể thấy rằng Mỹ có mục tiêu, ý đồ và biện
pháp cụ thể để thiết lập thế một cực, lãnh đạo và xây dựng thế giới theo mô hình phát triển của Mỹ cả
về kinh tế, chính trị lẫn các giá trị dân chủ và quyền con người. Chỉ có Trung Quốc là có khả năng, có
tham vọng và có ước muốn hiện đại hóa cần thiết để thách thức vị trí đứng đầu thế giới của Mỹ -
nhưng chỉ khi nào Trung Quốc khắc phục trước hết được những khó khăn nội bộ to lớn của nó. Mối
nguy hiểm đối với Mỹ nằm ở sự suy giảm sức mạnh riêng của nó hơn là ở việc gia tăng sức mạnh của
các quốc gia khác. Tạm thời cuộc chiến chống khủng bố đã mở rộng quyền lực của Mỹ nhưng về lâu
dài nó cũng có thể làm suy yếu Mỹ. Việc duy trì một ngân sách quốc phòng khổng lồ để đảm bảo cho
ưu thế quân sự, cộng với một cuộc đấu tranh đa mặt trận trên toàn cầu có nguy cơ làm gia tăng cả số
lượng kẻ thù lẫn thái độ kiên quyết của kẻ thù, có thể trở thành một thách thức quá lớn ngay cả đối với
một đất nước giàu mạnh như Mỹ. Sự bành trướng quá mức là một mối nguy hiểm và sự cạn kiệt
nguồn lực cũng là một mối nguy hiểm.
Mỹ đã bị suy yếu tương đối, mâu thuẫn lớn nhất của Mỹ là giữa tham vọng bá chủ và khả năng
thực hiện của nó. Rõ ràng là Mỹ không muốn thế giới phát triển theo chiều hướng đa cực nên ra sức
điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại, tăng cường năng lực cạnh tranh, xây dựng Trật tự thế giới
mới do Mỹ lãnh đạo, làm cho sự thay đổi của thế giới đi theo quỹ đạo có lợi cho Mỹ. Tuy là siêu
cường duy nhất còn lại sau Chiến tranh lạnh, nhưng có nhiều nguyên nhân khiến Mỹ không phát huy
được sức mạnh của mình để lãnh đạo thế giới hay đưa thế giới đi theo một trật tự mong muốn. Một là
tuy sức mạnh quân sự Mỹ là vô địch song sau Chiến tranh lạnh nó không thể được sử dụng để giải
quyết các vấn đề thế giới. Hai là tính độc lập tự chủ của nhân dân thế giới sau Chiến tranh lạnh rất cao,
họ không dễ gì chấp nhận sự áp đặt của Mỹ, không chỉ các nước lớn như Trung Quốc, Nga, châu Âu
mà ngay cả các nước đang phát triển. Ba là về mặt kinh tế Mỹ không còn mạnh như hồi sau chiến tranh
thế giới thứ hai để tài trợ cho vai trò lãnh đạo thế giới của Mỹ. Trước sự suy yếu về kinh tế, nhân dân
Mỹ có xu hướng muốn chính quyền Mỹ chú ý hơn đến các vấn đề trong nước vì đối với họ mối đe dọa
của Liên Xô và chủ nghĩa cộng sản nay không còn nữa. Mặt khác cũng cần phải thấy rằng với sức
mạnh của mình, tiếng nói của Mỹ vẫn còn tiếp tục có trọng lượng trên trường quốc tế. Tuy không còn
đủ sức một mình giải quyết công việc thế giới và không thể tẩy chay không can dự vào những vấn đề
diễn ra không hoàn toàn theo ý mình nhưng một số vấn đề phức tạp trên thế giới sẽ không thể giải
quyết được nếu không có sự tham gia của Mỹ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Hoàng Anh (2004), “Đông Nam Á trong chiến lược toàn cầu của Mỹ”, Châu Mỹ ngày nay, (11),
tr.9-13.
2. Từ Thiên Ân, Lương Chí Minh chủ biên; Phong Đảo dịch (2002), Lịch sử thế giới, Nxb Tp. Hồ Chí
Minh.
3. Phi Bằng (2001), Những sự kiện quan trọng trong quan hệ Mỹ - Trung Quốc, Nxb Trẻ, Tp. HCM.
4. Ngô Xuân Bình (1995), Quan hệ Mỹ - Nhật Bản sau Chiến tranh lạnh, Nxb Khoa học xã hội, Hà
Nội.
5. Brzezinski Z., Lê Phương Thúy dịch (1999), Bàn cờ lớn (The Grand Chessboard), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
6. Hồ Châu (2004), “Quan hệ Nga - Mỹ và ảnh hưởng của nó”, Nghiên cứu châu Âu, (4), tr.42-48.
7. Hồ Châu (2005), “Chiến lược Á - Âu của Mỹ từ sau Chiến tranh lạnh nhìn từ góc độ địa - chính trị”,
Nghiên cứu châu Âu, (1), tr.19-26.
8. Hồ Châu (2007), “Quan hệ Mỹ - Trung trong giai đoạn hiện nay”, Châu Mỹ ngày nay, (1), tr.35-41.
9. Vương Dật Châu (2004), An ninh quốc tế trong thời đại toàn cầu hóa: Sách tham khảo, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
10. Nguyễn Huy Cố (Chủ biên) (2006), Khi Trung Quốc làm thay đổi thế giới, Nxb Thế giới, Hà Nội.
11. Phạm Cao Cường (2005), “Chính sách đối ngoại của Mỹ đối với Đông Nam Á sau sự kiện ngày
11-9”, Châu Mỹ ngày nay, (6), tr.23-40.
12. Nguyễn Hoàng Giáp (2005), “Tác động của sự điều chỉnh chiến lược toàn cầu mới của Mỹ đến
Đông Nam Á”, Nghiên cứu Đông Nam Á, (6), tr.17-23.
13. Nguyễn Hoàng Giáp (2007), “Làn sóng cánh tả Mỹ Latinh: Nguyên nhân và kết quả chủ yếu”,
Châu Mỹ ngày nay, (3), tr.33-43.
14. Hoàng Giáp, Hồ Châu (1999), “Khoa học Địa chính trị trong thời đại ngày nay”, Thông tin khoa
học xã hội, (8), tr 7-14.
15. Guardia A.L. (2006), Cuộc chiến không kết thúc - Người Israel & Palestine trong cuộc chiến
giành vùng đất hứa, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
16. Nguyễn Thanh Hiền (chủ biên) (2001), Nhật Bản - những biến đổi chủ yếu về chính trị trong
những năm 1990 và triển vọng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Lê Phụng Hoàng (2005), Lịch sử quan hệ quốc tế ở Châu Âu trong Chiến tranh lạnh (1949-1991),
Đại học Sư phạm TP. HCM, Tài liệu lưu hành nội bộ.
18. Lê Phụng Hoàng (2005), Lịch sử quan hệ quốc tế ở Đông Bắc Á từ sau chiến tranh thế giới thứ II
đến cuối Chiến tranh lạnh (1945-1991), Đại học Sư phạm TP. HCM, Tài liệu lưu hành nội
bộ.
19. Lê Phụng Hoàng (2007), Lịch sử quan hệ quốc tế sau chiến tranh thế giới thứ II, tập 1, Đại học Sư
phạm TP. HCM, Tài liệu lưu hành nội bộ.
20. Vũ Dương Huân (Chủ biên) (2003), Quan hệ của Mỹ với các nước lớn ở khu vực Châu Á - Thái
Bình Dương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Phạm Kim Huệ (2007), “Bộ tư lệnh Mỹ ở châu Phi (AFRICOM) và an ninh châu Phi”, Nghiên cứu
Châu Phi & Trung Đông, (8), tr.53-60.
22. Nguyễn Quốc Hùng (2008), “An ninh khu vực Đông Á: nhìn lại lịch sử và hiện tại”, Nghiên cứu
Đông Nam Á, (2), tr.3-9.
23. Hungtington Samuel, Nguyễn Phương Sửu dịch (2003), Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb
Lao động, Hà Nội.
24. Hà Mỹ Hương (2003), Quan hệ Nga - Mỹ sau Chiến tranh lạnh: Sách tham khảo, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
25. Hà Mỹ Hương (2006), “Quan hệ giữa các nước lớn khu vực châu Á - Thái Bình Dương: một vài
phân tích và dự báo”, Cộng sản, (10), tr.68-72.
26. Hà Mỹ Hương (2007), “Nhìn lại sự điều chỉnh chiến lược đối ngoại của Mỹ sau Chiến tranh lạnh”,
Nghiên cứu quốc tế, (1), tr.73-82.
27. Hà Mỹ Hương (2007), “An ninh Đông Nam Á trong chiến lược của Mỹ”, Cộng sản, (17), tr.108-
111.
28. Jentleson Bruce W., Linh Lan, Yên Hương, Diệu Hương...dịch (2004), Chính sách đối ngoại Hoa
Kỳ: Động cơ của sự lựa chọn trong thế kỷ XXI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Kagan R. (2005), Mỹ - EU trong trật tự thế giới mới, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
30. Lương Văn Kế (2007), Thế giới đa chiều, Lý thuyết và kinh nghiệm nghiên cứu khu vực, chuyên
khảo, Nxb Thế giới, Hà Nội.
31. Trần Khánh (2006), “Môi trường địa-chính trị Đông Nam Á với hội nhập Việt Nam - ASEAN”,
Cộng sản, (16), tr.64-68.
32. Trần Bá Khoa (1999), Tìm hiểu những thay đổi lớn trong chiến lược quân sự của Mỹ, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
33. Trần Bá Khoa (2006), “An ninh Đông Bắc Á: biến động, thách thức và triển vọng”, Nghiên cứu
Nhật Bản và Đông Bắc Á, (1), tr.17-22.
34. Trần Bá Khoa (2007), “Động hướng mới trên bàn cờ chiến lược thế giới”, Cộng sản, (778), tr.116-
119.
35. Hồ Bất Khuất (2006), “Trung Cận Đông, dầu mỏ, hạt nhân và an ninh năng lượng toàn cầu”, Cộng
sản, (7), tr.78-80.
36. Lê Linh Lan (2005), Về chiến lược an ninh của Mỹ hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
37. Nguyễn Văn Lan (2007), Nhân tố địa - chính trị trong chiến lược toàn cầu mới của Mỹ đối với khu
vực Đông Nam Á, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
38. Vũ Hồng Lâm (2005), “Tài nguyên địa chính trị của Việt Nam”, Thời báo Kinh tế Sài Gòn, (42),
tr.18-20.
39. Ngô Mạnh Lân (2006), “Chiến lược toàn cầu của Mỹ và tình hình Trung Đông”, Cộng sản, (4),
tr.76-80.
40. Nguyễn Văn Lập (2001), Quan hệ Trung Mỹ có gì mới ?, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
41. Nguyễn Văn Lập (2002), Trật tự thế giới sau 11/9 (Sự chuyển hướng đồng loạt trong chính sách),
Nxb Thông tấn, Hà Nội.
42. Nguyễn Văn Lập (2002), Quan hệ Nga - Mỹ: vừa là đối tác vừa là đối thủ, Nxb Thông tấn, Hà
Nội.
43. Thái Văn Long (2007), “Chính sách an ninh của một số nước lớn đối với Châu Á - Thái Bình
Dương những thập niên đầu thế kỷ XXI”, Khoa học Chính trị, (5), tr.69-78.
44. Thái Văn Long (2007), “Sự điều chỉnh và những định hướng trong chiến lược Trung Đông của Mỹ
hiện nay”, Nghiên cứu Châu Phi & Trung Đông, (8), tr.16-20.
45. Nguyễn Đình Luân (1997), “Đôi nét về Địa - chính trị ở châu Á sau Chiến tranh lạnh”, Nghiên cứu
quốc tế, (17), tr.18-21.
46. Nguyễn Đình Luân (2003), “Tìm hiểu logic địa - chính trị trong chiến lược đối ngoại của Mỹ sau
Chiến tranh lạnh”, Nghiên cứu quốc tế, (2), tr.25-37.
47. Nguyễn Thế Lực, Nguyễn Hoàng Giáp (2000), “Khái quát lịch sử phát triển tư tưởng địa - chính
trị thế giới”, Khoa học Chính trị, (2), tr.13-16.
48. McCormich T.J., Thùy Dương dịch (2004), Nước Mỹ nửa thế kỷ chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ
trong và sau Chiến tranh lạnh: Sách tham khảo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
49. Võ Hải Minh (2006), “Lợi ích quốc gia - nền tảng trong quá trình hoạch định chiến lược an ninh
quốc gia Hoa Kỳ”, Những vấn đề kinh tế & chính trị thế giới, (12), tr.35-46.
50. Nguyễn Thu Mỹ (2007), “Môi trường an ninh Đông Á những năm đầu thế kỷ XXI”, Nghiên cứu
Đông Nam Á, (6), tr.20-31.
51. Lê Văn Mỹ (2006), “Sự điều chỉnh chiến lược ngoại giao và quan hệ Mỹ - Trung - Nga sau sự kiện
11/9/2001”, Nghiên cứu châu Âu, (2), tr.29-36.
52. Lê Văn Mỹ (2007), “Vai trò của Trung Quốc và Mỹ với việc giải quyết vấn đề hạt nhân trên bán
đảo Triều Tiên”, Nghiên cứu Đông Bắc Á, (3), tr.28-34.
53. Đào Huy Ngọc (chủ biên) (1995), Liên minh châu Âu, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
54. Pham J. Peter (2006), “Lợi ích quốc gia của Hoa Kỳ và tầm quan trọng chiến lược của Châu Phi”,
Châu Mỹ ngày nay, (6), tr.35-37.
55. Trần Anh Phương (Chủ biên) (2007), Chính trị khu vực Đông Bắc Á từ sau Chiến tranh lạnh, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
56. Trần Anh Phương (2008), “Các quan hệ quốc tế trọng yếu tại khu vực Đông Bắc Á”, Nghiên cứu
Đông Bắc Á, (1), tr.11-24.
57. Đỗ Trọng Quang (2006), “Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trước và sau vụ khủng bố 11/9”,
Châu Mỹ ngày nay, (1), tr.45-51.
58. Đỗ Trọng Quang (2006), “Quan hệ giữa Hoa Kỳ với các nước châu Mỹ La tinh”, Châu Mỹ ngày
nay, (12), tr 28-34.
59. Đỗ Trọng Quang (2007), “Quan hệ Hoa Kỳ - Iran trong nửa thế kỷ”, Châu Mỹ ngày nay, (3), tr.23-
32.
60. Ripley R.B., Lindsay J.M. (Chủ biên); Người dịch: Trần Văn Tụy (2002), Chính sách đối ngoại
của Hoa Kỳ sau Chiến tranh lạnh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
61. Sbirdsall S., Florin J. (1999), Nguyễn Thị Thanh Hương dịch, Khái quát về địa lý Mỹ, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
62. Nguyễn Cơ Thạch (1998), Thế giới trong 50 năm qua (1945 - 1995) và Thế giới trong 25 năm tới
(1996 - 2020), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Nguyễn Anh Thái chủ biên, Đỗ Thanh Bình, Đặng Thanh Toán, Trần Thị Vinh (1998), Lịch sử thế
giới hiện đại từ 1945-1995, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội.
64. Thông tấn xã Việt Nam (2002), Cuộc xung đột Israel & Arabia, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
65. Thông tấn xã Việt Nam (2002), Mỹ - Iraq: cuộc đối đầu hai thế kỷ, cuộc chiến vùng Vịnh lần thứ
hai, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
66. Thông tấn xã Việt Nam (2004), Nóng bỏng bán đảo Triều Tiên, Nxb Thông tấn, Hà Nội.
67. Thông tấn xã Việt Nam, “Vấn đề hạt nhân của Iran vẫn chưa có lời giải”, ngày 10/1/2006.
68. Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu Tham khảo đặc biệt ngày 2/11/2006.
69. Thông tấn xã Việt Nam, Tài liệu Tham khảo đặc biệt ngày 14/4/2006.
70. Lê Đình Tĩnh (2005), “Mỹ và an ninh Đông Nam Á hiện nay”, Nghiên cứu quốc tế, (1), tr.63-72.
71. Nguyễn Thị Thư, Nguyễn Hồng Bích, Nguyễn Văn Sơn (2002), Lịch sử Trung Cận Đông, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
72. Nguyễn Thị Thanh Thủy (2007), “Chính quyền Bush và những thách thức từ Đông Bắc Á”,
Nghiên cứu Quốc tế, (2), tr.61-73.
73. Trương Thị Thủy (2003), Nước Mỹ năm đầu thế kỷ XXI, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
74. Lại Văn Toàn (2004), Chủ nghĩa khủng bố toàn cầu: vấn đề và cách tiếp cận, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội.
75. Nguyễn Vũ Tung (2008), “Chiến lược toàn cầu của Mỹ sau Chiến tranh lạnh”, Châu Mỹ ngày nay,
(4), tr.40-48.
76. Đặng Cẩm Tú (2005), “Cuộc chiến I-rắc và an ninh Đông Á: Thách thức và triển vọng”, Nghiên
cứu quốc tế, (1), tr.53-62.
77. Tuareno M., Nguyễn Văn Hiến dịch (1996), Sự đảo lộn của thế giới địa chính trị thế kỷ XXI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
78. Tạ Minh Tuấn (2004), “Chính sách Trung Đông của Mỹ sau sự kiện 11/9/2001”, Nghiên cứu quốc
tế, (4), tr.39-48.
79. Viện Thông tin KHXH (2001), Trật tự thế giới sau Chiến tranh lạnh - Phân tích và dự báo, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội .
80. Viện Thông tin KHXH (2003), Khủng bố và chống khủng bố với vấn đề an ninh quốc tế, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
81. Yahuda M, Văn Khánh biên dịch (2006), Các vấn đề chính trị quốc tế ở châu Á - Thái Bình
Dương, Nxb Văn học, Tp. HCM.
Tiếng Anh
82. Agnew J. (1998), Geopolitics: Re-Visioning World Politics, Routledge, New York.
83. Burnham J. (1947), The Struggle for the World, The John Day Company, Inc., New York.
84. Dobbins J.F. (2003), America’s Role in Nation-building: From Germany to Iraq, Rand
Corporation, Santa Monica, Californie.
85. Foster J.B. (2006), “The New Geopolitics of Empire”, Monthly Review, 57(8), pp.1-5.
86. Gray C.S. (1977), The Geopolitics of the Nuclear Era: Heartland, Rimlands, and the
Technological Revolution, Crane, Russak & Company, New York.
87. Mackinder H. (1919), Democratic Ideals and Reality, Henry Holt and Co., New York.
88. Parker G., Geopolitics - past, present and future, Pinter, London.
89. Short J.R. (1993), An Introduction to Political Geography, Routledge, New York.
90. Spykman N.J. (1942), America’s Strategy in World Politics, Harcourt, Brace, and Co.,New York.
91. Spykman N.J. (1944), The Geography of the Peace, Harcourt, Brace and Company, New York.
92. http://www.whitehouse.gov/nsc/nss/2002, The National Security Strategy of the United States of
America, September 2002.
http://www.whitehouse.gov/nsc/nss/2006, The National Security Strategy of the United States of
America, March 2006.
PHỤ LỤC
Alfred Thayer Mahan Halford Mackinder Alexander de Seversky
Nguồn: http://www.militarystrategist.org/usmsa/Mahan.jpg
http://www.soberania.org/Images/halford_mackinder_1.jpg
http://images.google.com.vn/...
Hình 1: Các nhà tư tưởng địa-chính trị
Hình 2: Sự giành giật giữa Tân Thế giới và Vùng trung tâm để giành lấy Vùng rìa của Nicholas
Nguồn: http://www.oldenburger.us/gary/docs/TheColdWar_files/image010.jpg
Spykman
Nguồn: http://www.worldatlas.com/webimage/countrys/namerica/usstates/usmaster.gif
Hình 3: Bản đồ nước Mỹ
Nguồn: http://germanhistorydocs.ghidc.org/images/Pix580_pEu2004_NatoEw_E.jpg
Hình 4: Sự mở rộng về phía Đông của NATO
Nguồn: http://sabbah.biz/mt/wp-content/palestine_olmert_plan_maps......
Hình 5: Tranh chấp lãnh thổ giữa Israel và Palestine
Hình 6: Tổng thống Mỹ Bush (giữa) và Thủ tướng IsraelOlmert (trái) và nhà lãnh đạo Palestine
Nguồn: http://www.vnchannel.net/news/quoc-te/200712/
Abbas tại Hội nghị Hòa bình Trung Đông ở Annapolis.
Nguồn: http://www.wsws.org/articles/2007/mar2007/map1-m06.jpg
Hình 7: Chiến trường Trung Đông
Hình 8: Dầu mỏ và sự hiện diện quân đội Mỹ ở vùng Caspian và Trung Đông
Nguồn: http://www.thedossier.ukonline.co.uk/
Nguồn: http://vietimes.vietnamnet.vn/vn/nganocuathegioi/5382/index.viet
Hình 9: Bản đồ Kosovo
Nguồn: http://www.csmonitor.com/images/maps/nKoreaNukes_map.gif
Hình 10: Bản đồ chương trình hạt nhân ở CHDCND Triều Tiên
Hình 11: Đại diện các quốc gia tham gia đàm phán 6 bên ( Mỹ, Trung Quốc, Nga, Nhật Bản,
Nguồn: http://www.hanoimoi.com.vn/vn/44/146268
Hàn Quốc và CHDCND Triều Tiên) về vấn đề hạt nhân trên bán đảo Triều Tiên (ngày 3/10/2007)
Nguồn: http://www.lib.utexas.edu/maps/middle_east/iran_petroleum_facilities_2004.jpg
Hình 12: Bản đồ dầu mỏ Iran
Nguồn: http://img234.imageshack.us/img234/9561/captcpsmtc7517060816232ij2.jpg
Hình 13: Chương trình hạt nhân của Iran
Hình 14: Vị trí quan trọng của Afghanistan trong đường ống dẫn dầu và khí đốt từ biển Caspi qua
Nguồn: http://www.agoracosmopolitan.com/home/ /images/Afghan_oil_pipeline.jpg
Turkmenistan, Afghanistan và Pakistan đến Ấn Độ và biển Arab
Nguồn: http://news.bbc.co.uk/middle_east/.../img/maps/iraq_oil_map355.gif
Hình 15: Bản đồ dầu mỏ Iraq
Nguồn: http://frontpage.americandaughter.com/wp-images/imported-oil.jpg
Hình 16: Những nguồn cung cấp dầu của Mỹ
Nguồn: http://blog.foreignpolicy.com/files/images/080826_mothermap.jpg
Hình 17: Sự hiện diện của quân đội Mỹ trên thế giới