
LUẬN VĂN:
Nguyên nhân, thực trạng và giải pháp
cần thiết chống dollar hoá trong nền
kinh tế nước ta

Lời mở đầu
Ngày 9/01/2001, Tổng thống Ecuador chấp nhận đồng dollar Mĩ (USD) là một
công cụ tiền tệ chính thức, hợp pháp.
Ngày nay, trong một thời đại phát triển như vũ bão với sự tăng trưởng nhanh
chóng của thương mại thế giới, hầu hết các nước trên thế giới đều có nhu cầu về một
đồng tiền mạnh (USD là một trong số đó). Và vì vậy những sự kiện về việc phá giá
đồng tiền nước nào đó so với đồng USD hay chấp nhận USD được lưu hành một cách
rộng rãi trên đất nước đó không còn là quá xa lạ với chúng ta. Người ta gọi hiện tượng
đó bằng thuật ngữ “Dollar hoá”, song để hiểu được bản chất cũng như mặt tích cực hay
tiêu cưc của nó hoàn toàn không phải vấn đề đơn giản.
Với vị thế của một nước đang phát triển, Việt Nam đang vấp phải bao vấn đề nan
giải, khó khăn trong đó có vấn đề về đồng vốn đầu tư. Việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp
từ nước ngoài, khuyến khích người Việt Nam ở nước ngoài gửi tiền về nước để góp
phần thực hiện công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước đã làm cho luồng vốn ngoại tệ
chảy mạnh vào trong nước. Thêm vào đó, tâm lý ưa chuộng đồng USD của người dân
Việt Nam khiến đồng USD ngày càng bành trướng và việc sử dụng USD trong các giao
dịch hàng ngày ngày càng phổ biến. Nếu cứ sử dụng USD ngày một nhiều hơn trên thế
giới, đồng tiền này sẽ trở thành quốc tế hoá mạnh hơn trong điều kiện toàn cầu hoá.
Chúng ta đang xúc tiến quá trình hội nhập với thế giới nhưng vẫn phải giữ được vị thế
của một nưóc độc lập, có chủ quyền riêng. Thừa nhận rằng nền kinh tế Việt Nam đang
trong tình trạng dollar hoá, mà cụ thể hơn là dollar hoá tiền gửi, bởi một vài năm gần
đây các Ngân hàng ứ thừa vốn ngoại tệ không cho vay được trong khi nền kinh tế đang
cần vốn đầu tư phát triển là một thực trạng đáng buồn.
Các nhà kinh tế hàng đầu thế giới cho rằng: Các nước đang phát triển nên dollar
hoá nền kinh tế hoàn toàn hay một phần tức là sử dụng song song cả USD và nội tệ.
Dollar hoá sẽ cho chúng ta thấy những lợi thế: Tránh khủng hoảng tiền tệ và khủng
hoảng cán cân thanh toán. Song dollar hoá như một lẽ tự nhiên sẽ gây ra những ảnh
hưởng bất lợi đến tất cả các ngành kinh tế quốc dân.

Đứng trước một vấn đề gay gắt và nóng bỏng, lại phụ thuộc rất nhiều yếu tố tâm
lý, ngành Ngân hàng cũng như các ngành khác cần nỗ lực phấn đấu trong quá trình
chống dollar hoá.
Là một sinh viên ngành Ngân hàng, em xin đóng góp một số ý kiến của bản thân
về nguyên nhân, thực trạng và giải pháp cần thiết chống dollar hoá trong nền kinh tế
nước ta.
nội dung
phần i: vài nét về dollar hoá và thực trạng dollar hoá ở việt nam.
i. Khái quát về dollar hoá:
1.Thế nào là dollar hoá ?
Thông thường, mỗi một quốc gia đều có đồng tiền riêng của mình, thực hiện
đầy đủ các chức năng tiền tệ, trừ chức năng tiền tệ thế giới mà không phải đồng tiền nào
cũng làm được. Khi một nền kinh tế có tỷ lệ lạm phát cao, sức mua của đồng bản tệ
gỉam xuống thì người dân phải tìm đến các công cụ dự trữ giá trị khác, trong đó có các
đồng ngoại tệ có uy tín. Song song với chức năng làm phương tiện cất trữ, dần dần đồng
ngoại tệ sẽ cạnh tranh với đồng nội tệ trong chức năng làm phương tiện thanh toán cũng
như làm thước đo giá trị.
Như vậy, trong một nền kinh tế, khi ngoại tệ đươc sử dụng một cách rông rãi
thay thế cho đồng bản tệ trong toàn bộ hoặc một số các chức năng của tiền tệ thì có thể
hiểu nền kinh tế đó bị “ngoại tệ hoá” hay “dollar hoá”. Trên thế giới hiện nay, đồng
USD là đồng tiền được ưa chuộng nhất do đó là một ngoại tệ mạnh, có khả năng chuyển
đổi lớn nên thuật ngữ dollar hoá được xem là đồng nghĩa với ngoại tệ hoá.
Hiện tượng dollar hoá được biểu hiện ở một nước có thể xác định qua các hình
thức:

_ Đồng dollar được sử dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp, trong công chúng
qua các hành vi mua bán hàng hoá, chi trả dịch vụ, thanh toán nợ và tạo lập tài sản danh
nghĩa bằng đồng dollar.
_Hệ thống ngân hàng cho sử dụng rộng rãi các hình thức kí thác các loại tiền
gửi, tiền tiết kiệm, kì phiếu, trái phiếu ngân hang bằng đồng dollar và cho vay bằng
đồng dollar.
2. Phân loại dollar hoá:
Theo IMF, tỷ lệ dollar hoá của một nền kinh tế được căn cứ vào tỷ lệ giữa tiền
gửi ngoại tệ tại các ngân hàng so với lượng tiền cung ứng theo nghĩa rộng (M2). Theo
cách tính này, IMF cho rằng nếu tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ trên M2 trong một nền kinh tế
lớn hơn 30% thì nền kinh tế đó có thể coi là gặp phải tình trạng dollar hoá cao. Theo
đánh giá của IMF năm 1998, trường hợp này có mười tám nước. Ba mươi tư nước khác
được IMF xếp là nước có mức độ “dollar hoá vừ phải” với tỷ lệ tiền gửi ngoại tệ/M2
khoảng 16,4%, Việt Nam được IMF xếp vào loại này.
Về cơ bản, dollar hoá gồm ba loại chính là: Dollar hoá không chính thức
(unoficial dollarization), dollar hoá bán chính thức (semioficial dollarization) và dollar
hoá chính thức (official dollarization).
_Dollar hoá không chính thức: là trường hợp ngoại tệ được sử dụng rộng rãi
trong nền kinh tế mặc dù không được quốc gia này chính thức thừa nhận. Thuật ngữ
“dollar hoá không chính thức” bao gồm cả các trường hợp nắm giữ tài sản nước ngoài
hợp pháp và không hợp pháp. ở một số nước, việc giữ một số tài sản ngoại tệ là hợp
pháp như các tài khoản bằng USD tại các ngân hàng trong nước, nhưng lại không hợp
pháp khi có tài khoản tại ngân hàng nước ngoài trừ phi được cấp phép.
Dollar hoá không chính thức có thể gồm các loại sau:
_Các trái phiếu ngoại tệ và các tài sản phi tiền tệ ở nước ngoài;
_Tiền gửi bằng ngoại tệ ở nước ngoài;
_Tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng trong nước;
_Trái phiếu hay các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ cất trong túi.
Dollar hoá không chính thức được chia thành 3 giai đoạn:

Các nhà kinh tế thường gọi giai đoạn đầu của dollar hoá không chính thức là
giai đoạn “thay thế tài sản” (asset substitution). Trong giai đoạn này, người dân giữ trái
phiếu ngoại tệ và các khoản tiền gửi ở nước ngoài như một phương tiện cất trữ nhằm
tránh việc giảm giá trị tài sản do lạm phát ở trong nước hay việc tịch thu tài sản sung
công mà một số nước đã làm.
Giai đoạn thứ hai của dollar hoá không chính thức được các nhà kinh tế gọi là
giai đoạn “thay thế tiền tệ” (currency substitution). Trong giai đoạn này, người dân giữ
một khối lượng lớn các trái phiếu ngoại tệ và tiền gửi ngoại tệ tại hệ thống ngân hàng
trong nước (nếu được phép). Ngoại tệ vừa thực hiện chức năng là phương tiện thanh
toán và phương tiện cất trữ. Tiền lương, thuế hay những chi tiêu hàng ngày như hàng
tạp phẩm hay các hoá đơn điện được thanh toán bằng nôị tệ, nhưng với những tài sản
giá trị hơn như ôtô và nhà cửa thường được trả bằng ngoại tệ.
Trong giai đoạn cuối cùng của dollar hoá không chính thức, giá cả của hàng
hoá được tính bằng nội tệ nhưng mọi người đều liên tưởng đến ngoại tệ theo tỷ giá hối
đoái.
Dollar hoá không chính thức rất phổ biến ở các nước đang phát triển.
Ví dụ: ở thời điểm tháng1-2000, hầu hết các nước Mĩ_Latinh và Caribe như
argentina, Bolivia, Mecico, Peru, Trung Mĩ; hầu hết các nước thuộc Liên Xô cũ như
Armenia, Azerbajian, Georgia, Russia và Ukraine; nhiều nước khác như Mongolia,
Mozambique, Romania, Turkey và Việt Nam đều ở tình trạng dollar hoá không chính
thức.
_Dollar hoá bán chính thức: Khoảng 12 nước trên thế giới được IMF xếp là các
nước “Dollar hoá bán chính thức” hay có hệ thống lưu hành chính thức hai đồng tiền. Ví
dụ: Bahamas, Cambodia, Laos, Thailand, Liberia. ở các nước này, đồng ngoại tệ là đồng
tiền lưu hành hợp pháp và thậm chí có thể chiếm ưu thế trong các khoản tiền gửi ngân
hàng, nhưng đóng vai trò thứ cấp trong việc trả lương, thuế và những chi tiêu hàng
ngày. Không giống các nước có dollar hoá chính thức, các nước dollar hoá bán chính
thức duy trì Ngân hàng Trung ương (NHTƯ) hay một cơ quan tiền tệ có quyền hạn
tương ứng để thực hiện chính sách tiền tệ của họ.