Luận văn tốt nghiệp “Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới”
lượt xem 509
download
Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay đổi cơ bản cục diện chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tận dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển. Trật tự thế giới hai cực tan dã, quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh...
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn tốt nghiệp “Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới”
- u --- --- Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới
- LỜI DẪN Những năm cuối thế kỷ XX, hệ thống xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng toàn diện và nghiêm trọng dẫn đến sự sụp đổ của bộ phận lớn làm thay đổi cơ bản cục diện chính trị của thế giới. Bên cạnh đó, chủ nghĩa tư bản tận dụng được những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại nên đã thích nghi và vẫn tiếp tục phát triển. Trật tự thế giới hai cực tan dã, quan hệ quốc tế chuyển dần từ đối đầu sang đối thoại, từ đó làm nảy sinh xu hướng đa dạng hoá, đa phương hoá trong tiến trình hội nhập toàn cầu. Hoà bình, ổn định hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi bức xúc của các quốc gia. Toàn cầu hoá về kinh tế chiếm vị trí quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia,kinh tê được ưu tiên phát triển và trở thành chủ đề chính trong quan hệ quốc tế hiện nay. Trước bối cảnh quốc tế và xu thế chung của thế giới đang diễn ra như vậy, các quốc gia đều phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để thích ứng với tình hình mới. Việt Nam cũng không nằm ngoài xu thế đó. Chính sách đối ngoại là một bộ phận hợp thành đường lối đổi mới của Việt Nam trên nền tảng của Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Được khởi xướng từ năm 1986 và sau hơn 10 năm thực hiện, chính sách đối ngoại đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta đã góp phần không nhỏ đến sự phát triển của đất nước, tạo điều kiện khai thác có hiệu quả các nhân tố quốc tế, kết hợp được sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại đưa Việt Nam thoát khỏi khủng hoảng và đi lên. Chính sách đối ngoại đổi mới là một trong những mốc đánh dấu thành tựu to lớn của Việt Nam trong thế kỷ XX, tạo tiền đề cho Việt Nam vững bước đi vào thế kỷ XXI. Với lý do đó cùng với ham muốn được tìm hiểu chính sách đối ngoại đổi mới và quan hệ quốc tế của Việt Nam giai đoạn này, 1
- em mạnh dạn chọn đề tài “Quan hệ quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới” làm chuyên đề thực tập. Đây là đề tài rất rộng lớn, cho nên bài viết này không tránh khỏi những thiếu sót hạn chế. Mong được sự thông cảm, giúp đỡ, đóng góp ý kiến của các thầy cô và các bạn. 2
- CHƯƠNG 1 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI ĐƯỜNG LỐI ĐỔI MỚI CỦA VIỆT NAM 1.1. TÌNH HÌNH THẾ GIỚI NHỮNG NĂM 80 VÀ ĐẦU THẬP KỶ 90 Từ nửa năm sau những năm 80, quan hệ Xô - Mỹ đã thực sự chuyển từ đối đầu sang đối thoại. Để giải quyết các vấn đề tranh chấp, Xô - Mỹ đã tiến hành nhiều cuộc gặp thượng đỉnh giữa Ri-Gan và Goóc-Ba-Chốp, giữa Busơ và GoócBachốp. Qua đó có nhìêu văn kiện được ký kết trên các lĩnh vực kinh tế thương mại, văn hoá, khoa học kỹ thuật, nhưng quan trọng nhất là việc ký kết hiệp ước thủ tiêu tên lửa tầm trung ở Châu Âu năm 1987 (gọi tắt là INF). Cũng từ năm 1987, hai nước Mỹ và Liên Xô đã thoả thuận giảm một bước quan trọng cuộc chạy đua vũ trang, từng bước chấm dứt cuộc diện “Chiến tranh lạnh”, cùng hợp tác với nhau giải quyết các cụ tranh chấp và xung đột quốc tế. Cuối năm 1989, tại cuộc gặp không chính thức giữa Busơ và Gooc-Ba- Chốp tại đảo Manta, hai nước Xô - Mỹ đã chính thức tuyên bố chấm dứt cuộc “chiến tranh lanh” kéo dài trên 40 năm giữa hai nước này. Mối quan hệ giữa 5 nước lớn: Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp, Trung Quốc, là 5 thành viên thường trực Hội đồng bảo an LHQ có vai trò quan tọng trong việc duy trì hoà bình, an ninh và trật tự thế giới đã được thiết lập lên. Trong “chiến tranh lạnh” mặc dù là 5 nước lớn nhưng vẫn chỉ là thế “hai cực” Xô - Mỹ đối đầu nhau. Mối quan hệ giữa 5 nước lớn sau năm 1989 đã chuyển từ “hai cực” đối đầu sang đối thoại, hợp tác với nhau trong việc giải quyết những tranh chấp và xung đột quốc tế, tiêu biểu như cuộc chiến trung vùng vịch Pecxic (1991), và việc giải quyết các cuộc xung đột vũ trang ở nhiều khu vực trên thế giới. Sau sự kiện xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, dẫn đến khối quân sự Vac-Sa-Va tự giải thể (1/7/1991) và Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) ngừng hàng hoạt động (28/6/1991). Xã hội chủ nghĩa tạm lâm vào thoái trào, việc Liên Xô sụp đổ bắt đầu từ khủng hoảng về đường lối chiến 3
- lược do nhận thức sai lầm về đường lối đối ngoại như việc Liên Xô thoả thuận với Mỹ về việc giải quyết vấn đề Apganictan, Campuchia, những thoả thuận nhượng bộ đó không có lợi cho các cách mạng thế giới. Liên Xô còn thực hiện chính sách “không can thiệp” vào vấn đề thống nhất nước Đức và các nước Đông Âu, chính sách không thực hiện những cam kết với các đồng minh cũ của Liên Xô (ngừng viện trợ cho Cuba, Việt Nam, Mông Cổ)1. Những ngượng bộ đó được các phương Tây, nhất là Mỹ ngày các khai thác triệt để, để làm giảm thế cân bằng về sức mạnh vũ khí hạt nhân với Mỹ và làm suy giảm sức mạnh và vị trí của Liên Xô có ở khắp các khu vực trên thế giới. Còn ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương kinh tế phát triển rất năng động, đồng thời cũng tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định như xung đột ở Triều Tiên, tranh chấp quần đảo Cu-Rin giữa Nhật Bản và Liên Xô, tranh chấp chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải ở biển Đông và căng thẳng ở eo biển Đài Loan... Trong khu vực Đông Nam Á cũng chứa đựng nhiều nguy cơ xung đột bất ổn, trong đó vấn đề Campuchia. Những phản ứng từ của các ASEAN, Trung Quốc và các nước phương Tây khác cho rằng Việt Nam xâm lược Campuchia, họ tiến hành các hoạt động làm cho tình hình khu vực thêm căng thẳng. Trung Quốc cắt đứt quan hệ ngoại giao với Việt Nam và đưa quân vào Việt Nam gây nên cuộc chiến tranh ở biên giới phía Bắc nước ta. Một số nước ASEAN cô lập nước ta ở các diễn đàn, tổ chức quốc tế... Về phía Việt Nam, chúng ta trước sau vẫn khẳng định việc đưa quân vào Campuchia là giúp đỡ nhân dân Campuchia đánh đuổi bọn diệt chủng PonPốt đem lại hoà bình cho nhân Campuchia. Cùng với những biến đổi trong tình hình an ninh, chính trị, cộng đồng thế giới cũng đang đứng trước nhiều vấn đề có tính toàn cầu cấp bách mà không có một quốc gia riêng lẻ nào có thể giải quyết được cho nên cần phải 1 4
- có sự hợp tác đa phương trong các công việc quốc tế như: bảo vệ môi trường, bùng nổ dân số, phòng chống bệnh tật hiểm nghèo và nạn khủng bố. Mặt khác, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, công nghệ phát triển như vũ bão và được gọi là nền văn minh hậu công nghiệp hay nền văn minh trí tuệ. ảnh hưởng của nó ngày càng tác động sâu hơn vào đời sống kinh tế xã hội, nhất là trong sản xuất. Các phát minh khoa học mà nội dung cơ bản là cách mạng về công nghệ thông tin, sinh học, năng lượng, vật liệu mới... tiếp tục phát triển nhanh với trình độ cao, làm tăng nhanh lực lượng sản xuất, thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thế giới, quốc tế hoá nền sản xuất và đời sống xã hội, làm cho tính chất tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng gia tăng mạnh mẽ. Cuộc cách mạng trên đã tác động sâu sắc đến quan hệ quốc tế, thúc đẩy quá trình liên kết kinh tế và toàn cầu hoá. Nó vừa là thời cơ nhưng cũng là thách thức rất lớn đối với các nước, là điểm mà bất cứ nước nào cũng không thể bỏ qua khi xây dựng đường lối, xác định phương hướng và mục tiêu phát triển. các nước đều đứng trước những cơ hội để phát triển, nhưng do ưu thế về vốn, công nghệ, thị trường... thuộc về các nước tư bản chủ nghĩa và các công ty xuyên quốc gia nên các nước chậm phát triển đang đứng trước những thử thách to lớn. Trong tình hình đó nếu các nước không nắm bắt được cơ hội, tranh thủ những khả năng mới để phát triển thì sẽ bị tụt hậu. Ngược lại nếu nước nào biết đón trước, khai thác được thời cơ, nỗ lực phấn đấu thì sẽ có thể vượt lên một cách nhanh chóng. Cuộc cạnh tranh kinh tế thương mại, khoa học công nghệ diễn ra gay gắt trên phạm vi toàn thế giới. Tóm lại, hoà bình ổn định và hợp tác để phát triển ngày càng trở thành đòi hỏi búc xúc của các dân tốc và quốc gia trên thế giới. Các nước giành ưu tiên cho phát triển kinh tế, coi phát triển kinh tế có ý nghĩa quyết định đối với việc tăng cường sức mạnh tổng hợp mỗi nước. Tình hình đó tác động mạnh mẽ đối với việc hoạch định chính sách đối ngoại của các nước cũnh như ở Việt Nam. Kiến định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện lịch sử mới, Đảng và Nhà nước ta khởi 5
- xưởng công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó đổi mới chính sách đối ngoại trở thành một nội dung quan trọng đối với sự ngiệp phát triển của Việt Nam. 1.2. SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM SAU 1975 ĐẾN 1986. Chiến thắng của Việt Nam sau 30/4/1975 là niềm vui thống nhất cả giang sơn về một mối. Nhưng hậu quả của cuộc chiến tranh kéo dài để lại những khó khăn không nhỏ cho nhân dân Việt Nam: 1,1 triệu liệt sĩ, 60 vạn thương binh, 30 vạn người mất tích, gần 2 triệu người dân bị thiệt mạng, hơn 2 triệu người dân bị tàn tật và nhiễm chất độc hoá học... Hai cuộc chiến tranh biến giới phía Bắc (1979) và biên giới phía Tây Nam (1978) lấy đi thêm nhiều tài lực, vật lực của đất nước khiến cho nền kinh tế của Việt Nam đã khó khăn lại càng thêm khó khăn. Mà hậu quả của nó là nền kinh tế lâm vào tình trạng khủng hoảng toàn diện, lạm phát tăng phi mã (774,7%) năm 1986, nền công nghiệp lạc hậu, nông nghiệp đình đốn. Bên cạnh đó, do những khuyết điểm chủ quan trên các lĩnh vực nhất là việc chỉ đạo và thực hiện xây dựng kinh tế xã hội. Mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp bộc lộ nhiềukhuyết điểm yếu kém. Nền kinh tế đất nước rơi vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, khủng hoảng: Công nghiệp yếu kém, manh mún thiếu rất nhiều ngành công nghiệp tiêu dùng... Nền nông nghiệp không đủ chi dùng trong nước, phải nhập khẩu lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng thường xuyên khiến cho cán cân xuất nhập khẩu luôn thâm hụt mất cân đối, thu không đủ chi, dẫn đến phải đi vay từ nước ngoài. Tính chung trong năm 5 năm 1981 - 1985, nguồn vay từ nước ngoài chiếm 22,4% thu ngân sách quốc gia. Số nợ nhiều như vậy nhưng bội chi ngân sách vẫn lớn và tăng dần: Năm 1980 là 1,8%, năm 1985 là 36,6%. Do bội chi nhiều như vậy nên Chính phủ buộc phải phát hành thêm tiền mặt để bù đắp. Cùng với việc không cân đối được từ thu và chi, do nguồn thu không có vì không có sản phẩm công nghiệp xuất khẩu. Cộng vào đó là sai lầm về chính sách cải cách giá, lương, tiền đã làm cho nền kinh tế rơi tự do không kiểm soát được dẫn đến xuất hiện siêu 6
- lạm phát ở mức 774,7% (1986), kéo theo giá cả leo thang vô phương kiểm soát.2 Đời sống nhân dân nhất là công nhân viên chức và lực lượng vũ trang gặp nhiều khó khăn. Tiêu cực xã hội phát triển, công bằng bị vi phạm, pháp luật kỳ cương xã hội không nghiêm minh, cán bộ tham nhũng lộng quyền, bọn làm ăn phi pháp không bị trừng trị kịp thời và nghiêm khăc. Quần chúng giảm lòng tin với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành của Nhà nước.3 Cuối những năm 80, tình hình kinh tế - xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu anh em cũng hết sức khó khăn và diễn ra ngày càng phức tạp. Tình hình thế giới có nhiều thay đổi, cuộc chạy đua phát triển kinh tế đã lôi kéo các nước vào cuộc. Trong bối cảnh đó, Đảng và Nhà nước ta nhận biết được xu thế của thế giới và nhìn thấy nguy cơ tụt hậu ngày càng xa về kinh tế so với thế giới nếu không phát triển đất nước. Thực tiễn tình hình trong nước và quốc tế đặt ra một yêu cầu khách quan, bức xúc có ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp các mạng nước ta, là để làm xoay chuyển được tình thế, tạo ra một sự chuyển biến có ý nghĩa quyết định trên bước đường đi lên. Đảng phải đổi mới sự lãnh đạo và chỉ đạo một cách mạnh mẽ. Đại hội VI của Đảng (tháng 12 - 1986) được chuẩn bị và đáp ứng những yêu cầu đó. Tư tưởng cốt lõi của Đại hội VI là giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi tiềm năng của đất nước và sử dụng có hiệu quả sự giúp đỡ quốc tế để phát triển lực lượng sản xuất đi đôi với xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.4 Với ý nghĩa đó, chính sách đối ngoại đổi mới phải phá thế bao vây cấm vận, cô lập của các thế lực thù địch từ đó lấy lại vị thế của ta trên trường quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước phát triển, góp sức mình vào sự nghiệp chung của đất nước. 2: Nguyễn Sinh 12 năm đổi mới (1986-1997). Tạp chí Cộng sản số 6 tháng 3 năm 1998, trang 3 3: Trích lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam - NXB Giáo dục, 1997 trang1 4: Trích lịch sử Đảng CSVN - NXB Giáo dục - 1997 trang 167 7
- CHƯƠNG 2 QUAN HỆ QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM TỪ 1986 ĐẾN NAY 2.1. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI. Mốc quan trọng nhất quyết định cho chính sách đối ngoại đổi mới là “Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng” họp tại Hà Nội. Với quan điểm nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật. Đại hội VI đã thẳng thắn và khách quan chỉ ra những sai lầm thiếu sót trong chính sách kinh tế, sự lạc hậu về nhận thức lý luận và vận dụng các quy luật đang hoạt động trong thời kỳ quá độ. Sau khi nghiêm khắc kiểm điểm Đại hội cho rằng để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm và những bất cập dẫn đến khủng hoảng Kinh tế - Xã hội đòi hỏi phải đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế. Trên tinh thần đó Đại hội VI đã xác định nhiệm vụ trên lĩnh vực đối ngoại trong thời gian tới là: 5 Trong những năm tới nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước ta trên lĩnh vực đối ngoại là: “Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại, phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa”. 5: Trích văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần VI- NXB Sự thật trang 99 (viết theo các văn kiện VI, VII, VIII) 8
- Hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta phải phục vụ cho cuộc đấu tranh bảo vệ tổ quốc, giữ gìn an ninh chính trị, làm thất bại cuộc chiến tranh phá hoại nhiều mặt của địch, tiếp tục làm tròn nghĩa vụ quốc tế với Campuchia và Lào. Chúng ta cần tranh thủ những điều kiện thuận lợi mới về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng rộng rãi việc phân công và hợp tác trong Hội đồng tương trợ kinh tế, đồng thời tranh thủ mở rộng quan hệ với các nước khác. Tăng cường hợp tác toàn diện với Liên Xô luôn luôn là hòn đá tảng trong chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời tăng sự phối hợp với Liên Xô và các xã hội chủ nghĩa khác trong cuộc đấu tranh hoà bình và các mạng trên thế giới, trước hết là ở khu vực Châu Á - Thái Bình Dương. Đảng ta nhận thức sâu sắc rằng: “Phát triển và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, đoàn kết và tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước, hợp tác toàn diện, giúp đỡ lẫn nhau xây dựng và bảo vệ tổ quốc là quy luật sống còn và phát triển của ba dân tộc anh em”. Chúng ta tiếp tục tăng cường quan hệ hợp tác hữu nghị với các nước thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế. Chúng ta cũng mở rộng quan hệ với các nước xã hội chủ nghĩa anh em khác như Anbani, Triều Tiên... Là một thành viên của phong trào không liên kết, chúng ta phấn khởi trước sự trưởng thành và vai trò của ngày càng to lớn của phong trào trong đời sống chính trị quốc tế. Đảng ta chủ trương tích cực góp phần vào việc tăng cường đoàn kết của phong trào trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản. Chúng ta ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh anh dũng của giai cấp công nhân và nhân dân ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Ủng hộ mạnh mẽ đối với nhân dân Châu Phi đang kiên cường đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa Apacthai. Đoàn kết 9
- chặt chẽ với nhân dân các nước anh em như: An-giê-ri và Cộng hoà dân chủ nhân dân Y-ê-men đang xây dựng cuộc sống mới. Đảng và Nhà nước ta kiên trì thực hiện chính sách đối ngoại hoà bình và hữu nghị. Chúng ta chủ trương và ủng hộ chính sách cùng tồn tại hoà bình giữ các nước có chế độ chính trị xã hội khác nhau, loại trừ chiến tranh xâm lược và mọi hình thức của chủ nghĩa khủng bố. Với Trung Quốc, Việt Nam sẵn sàng đàm phán với Trung quốc bất kỳ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, vì lợi ích của nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới. Nhà nước ta chủ trương tăng cường và mở rộng quan hệ hữu nghị với Thuỵ Điển, Phần Lan, Pháp, Oxtraylia, Nhật Bản và với các nước phương Tây khác trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Chính phủ ta tiếp tục bàn bạc với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hoà bình ổn định ở Đông Nam Á . Đường lối đối ngoại đổi mới tiếp tục được khẳng định ở Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII. Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm trong thời gian tới là giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa và bảo vệ tổ quốc. Đồng thời góp phần tích cực vào công cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tọc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Cần nhạy bén nhận thức và dự báo được những diễn biến phức tạp và thay đổi sâu sắc trong quan hệ quốc tế, sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất và xu hướng quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới để có những chủ trương đối ngoại phù hợp. Trong điều kiện mới phải coi vận dụng bài học kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức 10
- mạnh quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc cùng tồn tại hoàn bình. Trước sau như một tăng cường đoàn kết và hợp tác với Liên Xô, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hợp tác Việt - Xô nhằm đáp ứng lợi ích của mỗi nước. Không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết và hữu nghị đặc biệt giữa Đảng và nhân dân ta với Đảng và nhân dân Lào, Đảng và nhân dân Campuchia anh em. Đổi mới phương thức hợp tác, chú trọng hiệu quả theo nguyên tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau. Phấn đấu góp phần sớm đạt được một giải pháp chính trị toàn bộ về vấn đề Campuchia trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của Campuchia và Hiến chương LHQ. Thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, từng bước mở rộng sự hợp tác Việt - Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước thông qua thương lượng. Củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với Cu - Ba và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Đảng cộng sản Việt Nam chủ trưng tăng cường quan hệ với các Đảng cộng sản và công nhân, góp phần tích cực vào sự đoàn kết và hợp tác giữa các Đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mac - Lênin, đấu tranh vì những mục tiêu cao cả của thời đại. Đoàn kết với lực lượng đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng xã hội - dân chủ, các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới. 11
- Phát triển quan hệ đoàn kết, tin cậy và nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều mặt với Ấn Độ. Tiếp tục mở rộng hợp tác với các nước đang phát triển khác. Tiếp tục củng cố và tăng cường phong trào không liên kết. Phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ở Đông Nam Á và Châu Á - Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác. Mở rộng sự hợp tác bình đẳng cùng có lợi với các nước Bắc Âu, Tây Âu, Nhật Bản và các nước phát triển khác. Thúc đẩy quá trình bình thường quan hệ với Hoa Kỳ. Góp phần làm cho Liên Hợp Quốc phục vụ đắc lực hơn những mục tiêu của nhân loại là hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Hợp tác với các tổ chức chuyên môn của LHQ và các tổ chức phi chính phủ. Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta tuyên bố rằng: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập, phát triển. Việc Liên Xô sụp đổ vào 22-12-1991 đã làm chấn động thế giới vì tốc độ nhanh chóng của các sự kiện và ảnh hưởng mạnh mẽ tới các Đảng cộng sản trên thế giới. Đứng trước tình hình đó, Hội nghị Ban chấp hành Trung ương lần thứ III khoá VII đã họp và đưa ra 4 phương châm xử lý trong hoạt động đối ngoại của ta là: “Một là: Biết kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân đảm bảo lợi ích chân chính của dân tộc. Hai là: Giữ vững độc lập tự chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá nhưng hai vế đó không hề mâu thuẫn nhau mà thực ra là thống nhất, phục vụ hỗ trợ cho nhau. Ba là: Nắm vững hai mặt đối lập của hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế. 12
- Bốn là: Nhìn rõ vai trò của các tổ chức khu vực, hợp tác tốt với tất cả các nước trên thế giới, nhất là các nước lớn có vai trò kinh tế, chính trị cường quốc trên thế giới”. Bốn phương châm chỉ đạo trên đưa ra vào đúng thời điểm hợp lý, kịp thời phát huy và đạt được những thành tựu tốt đẹp. Trước những thành tựu của đường lối đối ngoại đổi mới Đại hội VI và VII, Đại hội VIII tiếp tục đường lối đối ngoại đổi mới chỉ ra đường lối chính sách đối ngoại tới mọi chủ thể trên thế giới. Đại hội VIII chỉ rõ: “ Nhiệm vụ đối ngoại trong thời gian tới là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệc tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Tiếp tục thực hiện chính sách đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá với tinh thần Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. Mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, thông qua thương lượng để tìm những giải pháp phù hợp giải quyết những vấn đề tồn tại và các tranh chấp, đảm bảo hoà bình, ổn định, an ninh, hợp tác và phát triển. Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ với các nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các trung tâm kinh tế - chính trị trên 13
- thế giới. Đồng thời luôn nêu cao tinh thần đoàn kết anh em với các nước đang phát triển ở Châu á, Châu Phi, Mỹ Latinh và phong trào không liên kết. Tăng cường quan hệ với các tổ chức của Liên Hợp Quốc và các tổ chức quốc tế khác. Tích cực hoạt động ở các diễn đàn quốc tế, tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu. Ủng hộ cuộc đấu tranh loại trừ vũ khí hạt nhân và các phương tiện giết người hàng loạt khác. Phát triển quan hệ với các Đảng sản và công nhân, các lực lượng cách mạng, độc lập dân tộc và tiến bộ, thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng cầm quyền và các đảng khác Mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hệ với các tổ chức phi chính phủ, tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ rộng rãi của nhân dân các nước, góp phần thúc đẩy xu thế hoà bình, hợp tác, phát triển. Trên đây là những nội dung cơ bản của chính sách đối ngoại qua từng thời kỳ tổ chức đại hội, chính sách đổi mới này được áp dụng trong bối cảnh quốc tế có nhiều biến động và tác động trực tiếp đến Việt Nam. Nhưng tựu chung lại đây là đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng hoá, đa phương hoá theo tinh thầm Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập dân tộc và phát triển. 2.2. QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI ĐỔI MỚI. Chính sách đối ngoại đổi mới mà đại hội VI đề ra là kiên trì thực hiện nhiệm vụ chiến lược giữ vững hoà bình, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi, tập trung cao nhất, nhằm từng bước ổn định và tạo cơ sở cho phát triển kinh tế trong vòng 25 năm đến 30 năm (tức đến năm 2020), xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ độc lập của tổ quốc góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Đây là mục tiêu chiến lược và ích lợi cao nhất của toàn Đảng và toàn dân ta. Chính sách đối ngoại đổi mới phải góp sức mình vào sự nghiệp chung đó. 14
- Ngay sau khi đưa chính sách đối ngoại vào thực hiện, Đảng và nhà nước đã “đưa vấn đề Campuchia ra để giải quyết bằng con đường hoà bình”. Những giải pháp đưa ra trong chính sách để giải quyết vấn đề Campuchia, đã có tác động thúc đẩy tác động đến một giải pháp chung trong vấn đề Campuchia đi đến một giải pháp hoà bình toàn diện, đến năm 1989 thì cơ bản hoàn thành bằng tuyên bố về một giải pháp chính trị toàn diện cho xung đột ở Campuchia. Việt Nam và ASEAN cùng tìm ra một giải pháp đồng bộ cho vấn đề này, từ đây 2 nhóm nước hiểu nhau hơn, tin tưởng nhau hơn. Điều đó có ý nghĩa rất to lớn trong việc mang lại ổn định an ninh cho khu vực và làm giảm nguy cơ xung đột tại khu vực Đông Nam Á vốn đang tiềm tàng nhiều mâu thuẫn giữa các nước. Đây chính là thành công đầu tiên của chính sách đối ngoại đổi mới. Bắt đầu từ thành công này tình hình ở Đông Nam Á được cải thiện từ đối đầu sang đối thoại, tạo xu thế hoà bình, hữu nghị, hợp tác. Với các nước Đông Nam Á, nước ta chủ trương mở rộng quan hệ về mọi mặt trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, hai bên cùng có lợi. Những năm qua cũng đã ghi nhận những cố gắng to lớn của nhà nước ta trong việc cải thiện quan hệ với các nước khu vực Đông Nam Á - ASEAN. Tháng giêng năm 1989, Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh tuyên bố “Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam sẵn sàng quan hệ hữu nghị với các nước ASEAN và các nước khác trong khu vực6. Từ đây các cuộc đi thăm lẫn nhau của các nhà lãnh đạo cấp cao Việt Nam và của các nước ASEAN đã đạt được những thoả thuận quan trọng và đặt nền móng cho một thời kỳ mới trong quan hệ giữa nước ta với các nước ASEAN. Ngày 22 tháng 7 năm 1992, Việt Nam tham ký hiệp ước thân thiện Bali và trở thành quan sát viên của ASEAN. Có thể nói đây là một tiền đề quan trọng cho sự hội nhập của Việt Nam sau này. Ngày 28/7/1995 Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của 6: Trích Lưu Văn Lai: 50 năm ngoại giao Việt Nam (1945-1995) Tập II - NXB Công an nhân dân trang 251- 252 15
- ASEAN, đây là một thành công to lớn của ngoại giao Việt Nam, có ý nghiã quyết định cho tiến trình hội nhập khu vực và thế giới của Việt Nam. Sau khi hội nhập ASEAN, Việt Nam đã trở thành nhân tố rất năng động của tổ chức này, sau sự tổ chức thành công của hội nghị cấp cao ASEAN tháng 12/1998 ở Hà Nội, Việt Nam càng chứng tỏ là một hạt nhân tích cực của tổ chức này. Quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại giữa Việt Nam và các nước ASEAN ngày càng được đẩy mạnh. Năm 1994 thương mại 2 chiều đạt 2,4 tỷ USD, chiếm 28% tổng kim ngạch ngoại thương của Việt Nam. Đến năm 1996 tăng lên 6 tỷ USD chiếm 33% kim ngạch xuất khẩu và 27% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam. Cho đến năm 1998 khi cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ đang ở đỉnh cao thì các nước ASEAN vẫn chiếm 25% kim ngạch xuất khẩu và 18% đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 7. Sau khi hội nhập ASEAN, chúng ta tham gia vào khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Tuy nhiên, do sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa Việt Nam và một số nước trong khuôn khổ AETA nên Việt Nam cần có thời gian để điều chỉnh. Các nước ASEAN đã đồng ý kéo dài thời hạn giảm thuế quan của Việt Nam đến năm 2006 thay vì 2003 như các thành viên khác. Mặc dù được đánh giá là khu vực phát triển năng động của Châu Á - Thái Bình Dương và của thế giới, nhưng cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997 đã ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển chung của khu vực, đối phó với vấn đề này là rất khó, đòi hỏi các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng cần phải nghiên cứu, rút kinh nghiệm và đề ra những giải pháp mang tính phòng ngừa hữu hiệu, xây dựng mô hình phát triển bền vững hơn, ổn định hơn cho từng thành viên của toàn khu vực. Tóm lại, việc gia nhập ASEAN của Việt Nam là hướng đúng. Về kinh tế, ta có thể tranh thủ được vốn, công nghệ và kinh nghiệm quản lý từ các 7: ĐHKTQD kinh tế quốc tế - NXB Thống kê - Hà Nội, 1998 trang 139 16
- nước ASEAN tiên tiến. Tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước phát triển, mở rộng thị trường trong khu vực. Về an ninh, chính trị, Việt Nam tham gia vào diễn đàn khu vực ASEAN chuyên bàn về những vấn đề an ninh khu vực ASEAN (ARF), khi tham gia vào ASEAN chúng ta có thể góp phần củng cố môi trường xung quanh mình, tạo dựng một vành đai an toàn mang tính chiến lược, bên cạnh đó khi tham gia vào ASEAN tiếng nói của Việt Nam sẽ có thế và lực hơn trên thị trường quốc tế. Hơn nữa, nếu các nước ASEAN gạt bỏ được những bất đồng tranh chấp không đáng kể để đi tới một đồng thuận trong việc giải quyết vấn đề tranh chấp ở Biển Đông đối với Trung Quốc thì tình hình sẽ bớt đi căng thẳng, nhanh *Đối với Trung Quốc Việt Nam - Trung Quốc là hai nước láng giềng gần, có quan hệ hữu nghị văn hoá và lịch sử lâu dài. Chúng ta luôn quý trọng tình hữu nghị với nhân dân Trung Quốc, với mong muốn khôi phục lại mối quan hệ hữu nghị giữa hai dân tộc. Trong yêu cầu để hai bên Việt - Trung có thể đi đến bình thường hoá quan hệ đó là thế giới đang tích cực chuyển từ đối đầu sang đối thoại, mọi vấn đề tranh chấp quốc tế, các quốc gia trên thế giới ngày càng đi theo xu thế giải quyết bằng thương lượng hoà bình. Nhu cầu hoà bình là vấn đề “tự thân” các nước phải phấn đấu, bởi chỉ có hoà bình mới có thể “dồn” sức cho phát triển kinh tế và quan hệ Việt - Trung cũng không nằm ngoài quy luật đó. Trong vấn đề đặt lại quan hệ ngoại giao giữa hai nước, cả hai nước đề nhằm tới một mục tiêu là gạt bỏ đối đầu, mọi tranh chấp về biên giới lãnh hải và các vấn đề xung đột giữa hai nước đều giải quyết bằng thương lượng hoà bình. Ngoài ra hai nước còn muốn khôi phục lại quan hệ ngoại giao truyền thống có từ lâu do hai lãnh tụ Mao Trạch Đông và Hồ Chí Minh vun đắp cho tình hữu nghị của hai dân tộc. 17
- Cùng với việc nối lại mối quan hệ ngoại giao hai nước còn tìm thấy ở nhau những tiềm năng có thể hợp tác được trong vấn đề kinh tế, như nhu cầu thị trường của hai bên đều lớn do hai nước cùng thi hành chính sách phát triển kinh tế dựa vào xuất khẩu là chính. Việt Nam mong muốn Trung Quốc giúp ta sửa chữa nâng cấp một số nhà máy, xí nghiệp mà Trung Quốc giúp ta xây dựng trước kia như nhà máy gang thép Thái Nguyên và các nhà máy xi măng lò đứng của Trung Quốc. Còn phía Trung Quốc có nhu cầu về nguồn nguyên liệu lớn nhất là nguồn nguyên liệu than đá, trong khi Việt Nam có thế mạnh ở điểm này, ngoài ra Trung Quốc cần một thị trường tiêu thụ hàng hoá tiêu dùng do các địa phương giáp Việt Nam sản xuất... Tính đến khi hai bên cùng mở cửa biên giới cho hai bên giao lưu buôn bán hàng hoá thì hàng hoá Trung Quốc tràn vào Việt Nam rất nhiều, nhất là hàng tiêu dùng với giá cả mẫu mã phong phú. Có thể đánh giá nhu cầu hai bên về việc bình thường hoá quan hệ là rất cần thiết. Nhất là đối với Việt Nam, việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc giúp nước ta có thêm bạn bè, tạo môi trường thuận lợi để phá vỡ thế bao vây cô lập... Khôi phục và phát triển quan hệ với Trung Quốc là nhiệm vụ trọng tâm của nước ta trong chính sách đối ngoại đối nội. Các cuộc gặp cấp cao Việt Trung từ tháng 9/1990 diễn ra tại Thành Đô (Trung Quốc)8 đã mở ra một trang sử mới trong việc khai thông quan hệ giữa hai nước, đến trung tuần tháng 11 năm 1991 tại Bắc Kinh hai bên đã ra thông cáo chung: việc bình thường hoá quan hệ Việt - Trung phù hợp với lợi căn bản, lâu dài của nhân dân hai nước, có lợi cho hoà bình ổn định ở khu vực, đây là sự kiện “khép lại quá khứ, mở ra tương lai” hai nước là đồng chí, không phải là đồng minh. Tranh chấp giữa hai nước cần được được giải quyết theo hiến chương LHQ và luật pháp quốc tế, thông qua thương lượng hoà bình, không được sử dụng vũ lực hoặc đe doạ sử dụng vũ lực. 8: Trích Lưu Văn Lợii: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 209 18
- Tuy nhiên các vấn đề cần giải quyết giữa hai nước là: vấn đề biên giới trên bộ, tranh chấp ở biển Đông, phân định vịnh Bắc Bộ. Tháng 10 năm 1993 Tổng bí thư Đỗ Mười đã tuyên bố “Việt Nam chủ trương giải quyết tranh chấp giữa các nước, kể cả tranh chấp về các quần đảo ở Biển Đông, thông qua thương lượng hoà bình trên tinh thần bình đẳng, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng luật pháp quốc tế và Công ước về luật biển năm 1982 và chủ quyền các nước ven biển đối với vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của họ”9. Đến ngày 30-12-1999, hai nước đã hoàn thành phân định 164 điểm còn tranh chấp biên giới trên bộ và ký kết Hiệp định biên giới trên bộ. Còn những vấn đề còn lại như: phân định vịch Bắc Bộ và những vấn đề khác do lịch sử để lại. Qua các cuộc gặp gỡ hàng năm, hai bên đã thống nhất về nguyên tắc: Khai thác những điểm chung, gác lại những bất đồng, cùng nhau thương lượng, giải quyết từng bước trên cơ sở hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi. Bước sang giai đoạn mới, hai bên thống nhất cần phải đẩy mạnh hơn nữa quan hệ hữu nghị, hợp tác lên một bước mới về chất cho phù hợp với nhu cầu lợi ích của hai bên. Trong chuyến thăm hữu nghị Trung Quốc của Tổng bí thư Đảng cộng sản Lê Khả Phiêu đầu năm 1999, hai bên đã thảo luận thống nhất về nguyên tắc quan hệ Việt - Trung từ nay sẽ phát triển theo tinh thần 16 chữ: “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện Ổn định lâu dài, hướng tới tương lai” Ngày 26 - 12 - 2000 nhân chuyến thăm của Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã ra một thông cáo chung về Hợp tác toàn diện và ký Hiệp ước phân định vị trí Bắc Bộ * Đối với Mỹ. 9: Trích Lưu Văn Lợi: 50 năm NGVN Tập II - NXB Công an nhân dân trang 219-220 19
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn tốt nghiệp “Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và EU trong 10 năm qua (1990 - 2000) và đề ra triển vọng và những giải pháp”
58 p | 1151 | 364
-
Luận văn tốt nghiệp: Hoàn thiện công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực tại công ty cổ phần thiết bị Đức Nhật
92 p | 691 | 233
-
Luận văn tốt nghiệp: Xây dựng hệ thống quản lý an toàn và sức khỏe nghề nghiệp theo tiêu chuẩn OHSAS 18001:2007 tại công ty cổ phần chế biến gỗ Đức Long Gia Lai
345 p | 725 | 223
-
Luận văn Tốt nghiệp: Hoàn thiện hệ thống kênh phân phối sản phẩm của Công ty TNHH Công Nghệ và Thương Mại VCOM
55 p | 401 | 157
-
Luận văn Tốt nghiệp: Kiểm soát nội bộ chu trình bán hàng và thu tiền tại Công ty CP dịch vụ hàng không sân bay Đà Nẵng - MASCO
76 p | 373 | 113
-
Luận văn tốt nghiệp: Giải pháp tăng cường hiệu lực quản trị quan hệ khách hàng tại công ty Truyền thông Trực tuyến Việt Nam
66 p | 339 | 105
-
Luận văn tốt nghiệp “ quy luật quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất và vận dụng quy luật trong quá trình CNH- H
23 p | 236 | 70
-
Luận văn tốt nghiệp: Chất lượng và hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000
53 p | 260 | 44
-
Luận văn tốt nghiệp: Xây dựng hệ thống quản lý dự án theo quy trình Scrum
15 p | 222 | 33
-
Luận văn tốt nghiệp: Chính sách ngoại thương và quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và Canada
95 p | 223 | 24
-
Luận văn tốt nghiệp: Quan hệ an ninh Mỹ - Nhật thời hậu chiến tranh lạnh (1992-1999)
80 p | 118 | 18
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Quản trị hệ thống mạng LAN bằng giải pháp mã nguồn mở
72 p | 26 | 14
-
Tóm tắt Luận văn tốt nghiệp: Sử dụng Struts 1 xây dựng Website quản lý khóa luận tốt nghiệp
23 p | 129 | 12
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Xây dựng phần mềm quản lý điểm theo hệ thống đào tạo tín chỉ cho một trường đại học
113 p | 25 | 12
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Hệ thống quản lý tour du lịch
65 p | 21 | 11
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Xây dựng chương trình quản lý thông tin cho một công ty TNHH TM&DV chuyên mua bán dụng cụ Nha khoa và có dịch vụ Nha khoa
85 p | 13 | 8
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Xây dựng hệ thống thông tin phục vụ cho công tác quản lý nhân khẩu ở địa phương
79 p | 12 | 7
-
Luận văn tốt nghiệp Công nghệ thông tin: Quản lý hồ sơ Đảng viên trường Đại học Võ Trường Toản
72 p | 14 | 7
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn