
3
LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế nước ta mới chuyển đổi và đang có những bước phát triển mới.
Song “Tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội
trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển” (Trích văn kiện Đại hội Đảng
lần VIII).
Chính sách bảo hiểm xã hội đã phục vụ cho lợi ích của người lao động, thực
sự vì sự công bằng, tiến bộ xã hội và được xác định là một trong những chính sách
lớn của Đảng và Nhà nước ta - Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Chính sách bảo hiểm xã hội ở Việt nam đã trải qua chặng đường hơn 30 năm
xây dựng và trưởng thành kể từ Nghị định 218/CP ngày 27.12.1961 ban hành
Điều lệ tạm thời các chế độ bảo hiểm xã hội, đã phát huy được vai trò tích cực đối
với xã hội, bình ổn đời sống người lao động, khẳng định được vai trò không thể
thiếu trong hệ thống chính sách xã hội của nhà nước ta.
Trong sự nghiệp đổi mới, phát triển đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo, Chính sách bảo hiểm xã hội cũng được đổi mới thích ứng. Điều dó thể hiện
rõ tại chương XII Bộ Luật lao động và Điều lệ bảo hiểm xã hội ban hành kèm theo
Nghị định 12/CP ngày 26.01.1995 của Chính phủ. Một trong những nội dung đổi
mới đó là: Thành lập quỹ bảo hiểm xã hội độc lập với ngân sách nhà nước. Từ
đây chúng ta đã có một quỹ bảo hiểm xã hội độc lập để từ đó phát huy được vai
trò, tác dụng của chính sách bảo hiểm xã hội theo đúng nghĩa của nó trong nền
kinh tế thị trường. Tuy nhiên, nhìn lại chặng đường đã qua, ngành Bảo hiểm xã
hội nói chung và quỹ bảo hiểm xã hội nói riêng vẫn còn tồn tại nhiều bất cập mà
trong khuôn khổ bài luận văn này xin được đưa ra một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hoạt động quỹ bảo hiểm xã hội. Đó là “Thành lập quỹ Bảo hiểm xã
hội thành phần ở Bảo hiểm xã hội Việt nam ”. Nội dung ngoài phần mở đầu và
kết luận bao gồm ba chương:

4
Chương I: Những vấn đề cơ bản về Bảo hiểm xã hội và quỹ Bảo hiểm xã
hội
Chương II: Thực trạng tổ chức quỹ Bảo hiểm xã hội ở Việt nam hiện nay.
Chương III: Thành lập quỹ Bảo hiểm xã hội thành phần ở Bảo hiểm xã
hội Việt nam.
Việc thành lập quỹ bảo hiểm xã hội thành phần ở Việt nam hiện nay là một
vấn đề lớn và hết sức mới mẻ. Hơn nữa, mặc dù rất tâm huyết với đề tài song do
hạn chế về thời gian cũng như năng lực, do đó đã không tránh khỏi những thiếu
xót. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và
những ai quan tâm đến đề tài.
Để hoàn thành bài luận, em đã được sự giúp đỡ tận tình của Ban lãnh đạo bảo
hiểm xã hội Tỉnh Sơn La cũng như tập thể cán bộ công nhân viên tại cơ quan. Em
xin chân thành cảm ơn ban lãnh đạo và các cô chú cán bộ công tác tại Bảo hiểm
xã hội tỉnh Sơn La đã giúp em hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn thực tập và
nghiên cứu tại Bảo hiểm xã hội Tỉnh Sơn La.
Cũng qua đây, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo, TS Nguyễn
Văn Định- trưởng bộ môn Kinh tế bảo hiểm, Đại học Kinh tế Quốc dân-Hà nội đã
tận tình hướng dẫn em trong quá trình thực tập và hoàn thành luận văn.

5
CHƯƠNG I
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI
VÀ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI (BHXH)
1. Bảo hiểm xã hội trong đời sống người lao động.
Xã hội loài người phát triển thông qua quá trình lao động và sản xuất, thế
nhưng chính quá trình ấy một mặt đã đưa con người tới bước phát triển vượt bậc,
mặt khác lại là căn nguyên của những nỗi lo thường trực của con người vì trong
quá trình lao động và sản xuất con người luôn đứng trước nguy cơ gặp phải rủi ro
bất ngờ sảy ra ngoài mong đợi:
Con người muốn tồn tại và phát triển trước hết phải ăn, ở, mặc và đi lại ... để
thoả mãn những nhu cầu tối thiểu đó, người ta phải lao động để sản xuất ra những
sản phẩm cần thiết. Khi sản phẩm được sản xuất ra ngày càng nhiều thì đời sống
con người ngày càng đầy đủ và hoàn thiện, xã hội ngày càng văn minh hơn. Như
vậy việc thoả mãn những nhu cầu sinh sống và phát triển của con người phụ thuộc
vào chính khả năng của họ. Thế nhưng, trong thực tế không phải lúc nào con
người cũng gặp thuận lợi, có đầy đủ thu nhập và mọi điều kiện sinh sống bình
thường. Trái lại, có rất nhiều trường hợp khó khăn bất lợi, ít nhiều phát sinh ngẫu
nhiên làm cho người ta bị giảm hoặc mất thu nhập hoặc các điều kiện sinh sống
khác. Chẳng hạn, bị bất ngờ ốm đau hay bị tai nạn lao động, mất việc làm hay khi
tuổi già khả năng lao động và khả năng tự phục vụ suy giảm... khi rơi vào những
trường hợp này, các nhu cầu cần thiết trong cuộc sống không vì thế mà mất đi, trái
lại có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất hiện một số nhu cầu mới như: cần được
khám chữa bệnh khi ốm đau, tai nạn thương tật nặng cần phải có người chăm sóc
nuôi dưỡng... Bởi vậy, muốn tồn tại và ổn định cuộc sống, con người và xã hội
loài người phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau như:
San sẻ, đùm bọc lẫn nhau trong nội bộ cộng đồng; Đi vay, đi xin hay dựa vào sự
cứu trợ của nhà nước... song đó là những cách làm thụ động và không chắc chắn.

6
Khi nền kinh tế hàng hoá phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ
biến. Lúc đầu người chủ chỉ cam kết trả công lao động, nhưng về sau đã phải cam
kết cả việc bảo đảm cho người làm thuê có một số thu nhập nhất định để họ trang
trải những nhu cầu thiết yếu khi không may bị ốm đau, tai nạn... Trong thực tế,
nhiều khi các trường hợp trên không xảy ra và người chủ không phải chi ra một
đồng nào. Nhưng cũng có khi sảy ra dồn dập buộc họ phải bỏ ra một lúc nhiều
khoản tiền lớn mà họ không mong muốn. Vì thế mâu thuẫn chủ- thợ phát sinh,
giới thợ liên kết đấu tranh buộc giới chủ thực hiện cam kết. Cuộc đấu tranh ngày
càng rộng lớn và có tác động nhiều mặt đến đời sống kinh tế xã hội. Do vậy Nhà
nước đã phải đứng ra can thiệp và điều hoà mâu thuẫn. Sự can thiệp này một mặt
làm tăng được vai trò của nhà nước, mặt khác buộc cả giới chủ và giới thợ phải
đóng một khoản tiền nhất định hàng tháng được tính toán chặt chẽ dựa trên cơ sở
xác suất rủi ro sảy ra đối với người làm thuê. Số tiền đóng góp của cả chủ và thợ
hình thành một quỹ tiền tệ tập trung trên phạm vi quốc gia. Quỹ này còn được bổ
xung từ ngân sách nhà nước khi cần thiết nhằm đảm bảo đời sống cho người lao
động khi họ gặp phải những biến cố bất lợi.
Chính nhờ những mối quan hệ ràng buộc đó mà rủi ro, bất lợi của người lao
động được dàn trải, cuộc sống của người lao động và gia đình họ ngày càng được
bảo đảm ổn định. Giới chủ cũng thấy mình có lợi và được bảo vệ, sản xuất kinh
doanh diễn ra bình thường, tránh được những xáo trộn không cần thiết.
Bảo hiểm xã hội ra đời đã giải quyết được mâu thuẫn trong mối quan hệ chủ-
thợ và kết hợp hài hoà lợi ích giữa các bên:
Đối với người lao động: Góp phần ổn định cuộc sống cho người lao
động khi họ kông may bị mất hoặc giảm thu nhập, tạo điều kiện cho họ yên tâm
sản xuất và công tác, gắn bó lợi ích của mình và gắn bó lợi ích của chủ sử dụng
lao động và lợi ích của nhà nước.
Đối với người sử dụng lao động: Giúp họ ổn định sản xuất kinh doanh
tránh được những thiệt hại lớn khi phải chi ra những khoản tiền lớn khi không
may người lao động mà mình thuê mướn gặp rủi ro trong lao động, đặc biệt thông
qua bảo hiểm xã hội lợi ích của người sử dụng lao động với người lao động được
giải quyết hài hoà tránh những căng thẳng không cần thiết.

7
Đối với xã hội: Bảo hiểm xã hội là một trong những chính sách bảo
đảm an toàn cho xã hội, đặc biệt quỹ Bảo hiểm xã hội là một nguồn đầu tư rất lớn
góp phần phát triển và tăng trưởng kinh tế, thông qua đó gắn bó lợi ích của tất cả
các bên tham gia.
2. Khái niệm, đối tượng và chức năng của Bảo hiểm xã hội
a, Khái niệm
Bảo hiểm xã hội là sự bảo đảm đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
đối với người lao động khi họ gặp phải những biến cố làm giảm hoặc mất khả
năng lao động hoặc mất việc làm trên cơ sở hình thành và sử dụng một nguồn quỹ
tiền tệ tập trung nhằm đảm bảo đời sống cho người lao dộng và gia đình họ, góp
phần đảm bảo an toàn xã hội.
b, Đối tượng của bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội là một hệ thống bảo đảm khoản thu nhập bị giảm hoặc mất
đi do người lao động bị giảm hoặc mất khả năng lao động, mất việc làm vì các
nguyên nhân như ốm đau, tai nạn, già yếu... Chính vì vậy, đối tượng của bảo hiểm
xã hội chính là thu nhập của người lao động bị biến động giảm hoặc mất đi của
những người tham gia bảo hiểm xã hội.
Chúng ta cũng cần phân biệt giữa đối tượng của bảo hiểm xã hội và đối
tượng tham gia bảo hiểm xã hội, ở đây đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội chính
là những người lao động đứng trước nguy cơ mất an toàn về thu nhập và cả những
người sử dụng lao động bị ràng buộc trách nhiệm trong quan hệ thuê mướn lao
động.
c, Chức năng của Bảo hiểm xã hội
Thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập bị giảm của người lao động tham
gia bảo hiểm xã hội. Sự bảo đảm thay thế hoặc bù đắp này chắc chắn sẽ xảy ra, vì
suy cho cùng, mất khả năng lao động sẽ đến với tất cả mọi người lao động khi hết
tuổi lao động theo các điều kiện quy định của bảo hiểm xã hội. Còn mất việc làm
và mất khả năng lao động tạm thời làm giảm hoặc mất thu nhập, người lao động
cũng sẽ được hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội với mức hưởng phụ thuộc vào các
điều kiện cần thiết. Đây là chức năng cơ bản nhất của bảo hiểm xã hội, nó quyết
định nhiệm vụ, tính chất và cả cơ chế tổ chức hoạt động của bảo hiểm xã hội.