Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Ph
LỜI MỞ ĐẦU
Ngày 23 tháng 9 năm 1945, dưới sự che chở của quân đội Anh, người Pháp mở cuộc tiến
công vũ trang đánh vào chính quyền cách mạng vừa mới thành lập. Cuộc chiến tranh
Đông Dương bắt đầu.
Ngày 7 tháng 5 năm 1954, tại Điện Biên Phủ, Tướng De Castries bị quân đội nhânn
Vit Nam bắt làm tù binh, sau một trận đánh kéoi 55 ngày đêm, đạo quân viễn chinh
Pháp b mất 16000 người, đa số thuộc những đơn vị tinh nhuệ của quân đội Pháp.
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, các hiệp định đình chiến được ký kết tại Genève, theo đó
nước Pháp công nhận độc lập, chủ quyền toàn vn lãnh thvà sự thống nhất của nước
Vit Nam. Để cho việc tập kết của quân đội hai bên được thực hin, nước Việt Nam tm
thời được chia thành hai min, Bắc và Nam, ngăn đôi bởi dòng sông Bến Hải chạy dọc
theo vĩ tuyến 17, miền Bắc được đặt dưới quyền của Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, còn b chỉ huy quân đội Pháp chịu trách nhim thi nh các điều khoản của
Hip định Genève tại miền Nam. Tng tuyển cử phải được thực hin chậm nhất vào
tng 7 năm 1956, để bầu ra mt chính phủ thống nhất cho toàn nước Việt Nam.
Trong khu vực miền Bắc,việc thi hành các hip định không thành vấn đề, Chính phủ
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nắm chắc sự tín nhim của nhân dân Việt Nam, đã
không ngng tìm cách tạo mọi thuận lợi cho việc thi hành các hip định nhằm tiến tới
tổng tuyn cử và đẩy nhanh sự tái thống nhất đất nước.
Thế nhưng, mặc dù các hiệp định đã được ký kết giữa Pháp và Chính phủ nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa, vẫn một đối tác thứ ba sắp sửa nhúng tay can thiệp mt cách quyết
định vào hướng din biến của tình hình miền Nam Việt Nam.
Thực ra, từ năm 1950, Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đãmặt tại ch rồi đóng góp một phần
lớn cho những chi phí của cuộc chiến tranh Đông Dương, và cuộc đình chiến đã được ký
kết ngược với ý muốn của họ. Do không ngăn đuowjc việc ý kết này, Hoa K chuẩn bị
huy động toàn bsức mnh của mình nhằm làm cho các hiệp định đã được ký kết không
th thực hiện được.
Ngày 7 tháng 7 năm 1954, viên cựu quan lại theo đạo Thiên CHúa là Ngô Đình Diệm
(mà trong cuốn sách này chúng tôi gi tt là Diệm, theo kiểu người Việt Nam vẫn gọi), t
M trở về hất cẳng Bửu Lộc là người của Pháp, tự tay nắm lấy quyền điều khiển chính
phủ Bảo Đại.
Ngày 8 tháng 9 năm 1954, đúng 50 ngày sau khi đặtt các Hiệp định Genève, nước
Pháp ký với Mỹ và Anh, hiệp ước Đông Nam Á (OTASE) là vế thứ hai ở Viễn Đông
song đôi với hiệp ước Bắc Đại y Dương (NATO) ở phía tây.
Chiếc chìa khóa mở cửa vào Nam Việt Nam được chuyển từ tay của Pháp sang tay Hoa
Kỳ, các Hiệp định Genève vừa được ký chưa ráo mực đã bị phủ nhận. Nhà nước Nam
Vit Nam đã ra đời như thế, cái Nhà nước mà lch sử tiếp theo sau đó sẽ mang dấu ấn
không thể gột rửa của tất cả nhng nhân tố đã làm bà đỡ cho nó ra đời: sự chối bỏ trách
nhiệm của nước Pháp, ý chí của Hoa Kỳ quyết ngăn chặn phong trào cách mng Việt
Nam, tập hợp li ti miền Nam của các thế lực phong kiến Việt Nam.
Trải dài từ vĩ tuyến 17 đến mũi Cà Mau, min Nam Việt Nam diện tích rộng
170000km2. Vi số dân khoảng 14 triệu người (so với 160000km2 và 16 triệu dân ở
miền Bắc[1]).
mặt địa lý, thể phân biệt ba vùng chính sau đây:
Nam Bộ, bao gồm chủ yếu vùng châu thsông Đồng Nai, là vùng đất của những cánh
đồng lúa rộng và phì nhiêu, Nam Blà vựa lúa của Việt Nam. Chỉ riêng châu thổ sông
Cửu Long đã có 2300000 héc-ta đất trồng trọt và Nam B đã xuất khẩu 1500000 tấn gạo
mi năm.
Từ sông Bến Hải đến tận Nam bộ, dọc theo bờ bin, là một chuỗi dài những cánh đồng
nhỏ, bị kẹp giữa biển và núi, đông dân nhưng nghèo, điều kiện kinh tế và dân cư ở đây
gợi nhớ đến những điều kiện của min Bắc. Đó là phần giữa và phía nam ca Trung Bộ
(tên cũ là An Nam). Tng diện tích đất canh tác vào khoảng 300000 héc-ta.
Cao Nguyên là một vùng rộng lớn trải dài từ thung lũng sông Đồng Nai ở phía nam đến
vĩ tuyến 17 ở phía bắc. Phần lớn đó là những cao nguyên có độ cao từ 700m đến 800m so
với mặt biển. Vùng đất đó được hình thành từ sự phân hủy của đá bazan, một loại đất rất
tốt, phù hợp một cách kỳ lạ với các loi cây công nghiệp: cao su, chè, cà phê... vẫn còn
những diện tích rộng mênh mông chưa khai phá.
Trong s 14 triệu dân của miền Nam Việt Nam, phải tính đến khoảng 400000 người Khơ
Me (hay Cao Miên), sng chủ yếu ở các tỉnh thuộc min Tây Nam Bộ, 700000 người
Trung Quc sống tập trung chủ yếu ở Chợ Lớn và hơn 600000 người bao gồm những
nhóm tộc người khác nhau sống trên các vùng cao nguyên. Trước đây, người ta gọi chung
họ là "mi", chúng tôi sẽ không dùng thuật ngữ này vì trong tiếng Việt nó bao hàm một
ngụ ý không hay, và sẽ dùng các từ "cư dân" hay "nhóm tộc người" của Tây Nguyên.
Ngay từ đầu. có thể lưu ý rng, khác với phần lớn các nước chậm pt triển, Nam Việt
Nam là một min đất giàu nông sản, với mt sản lượng lương thực rất dư thừa. Min
Nam s không phải trải qua những khó khăn cực lớn về cung cấp lương thực như miền
Bắc, chỉ cần bằng sự viện trợ của mình, Hoa Kỳ đã có thể dễ dàng khởi động vic công
nghiệp hóa để biến Nam Việt Nam thành mt cái "tủ kính" thật sự, mt cực hấp dẫn đối
với các nước khác ở Đông Nam Á. Thế nhưng, lịch sử lại đã quyết định một cách khác.
____________________________________________
[1] Các cơ quan chính thức cung cấp những con số sau đây về dân số năm 1960:
- Nam B 63% tương đương với 8760933
- Đồng bằng miền Trung 31% tương đương với 4329761
- Tây Nguyên 6% tương đương 604823
Không nên ảo tưởng vsự chính xác của những số liệu này. Không mt cuộc điều tra dân
so được tiến hành, do đơn giản vì chính quyền min Nam chưa bao giờ kim soát
được toàn bvùng nông thôn, nơi tập trung đến 85% dân số.
Dự định của chúng tôi là vạch li tiến trình lch sử của miền Nam Việt Nam từ năm 1954
đến năm 1963, một lịch sử đầy ắp sự kin, bởi lịch sử của những chế độ bị khủng hoảng
trin miên thu hút squan tâm của các sử gia và ký giả nhiều hơn là những nước được
sống trong yên bình. CÓ thể phân biệt thành ba giai đon trong cái thời kỳ ngắn ngủi chỉ
kéo dài được tám năm này:
1. Từ ngày 21 tng 7 năm 1954 đến ngày 28 tng 4 năm 1956, quân đội Pháp vẫn còn
đóng ở Nam Việt Nam. Trong khi Chính phủ Hoa Kỳ buộc nước Pháp phải từ bỏ xứ sở
này để trao quyn điều khiển vào tay họ, chính quyền Diệm dần dần loại bỏ tất cả các
nhóm thân Pháp, khi cần còn dùng cả vũ lực. Bộ máy quân sự của M và các thể chế của
chính quyền Dim được thiết lập.
2. Sau khi quân đội Pháp rút, Hoa Kỳ lên ngôi ông chđộc tôn, chính phủ Diệm từ chi
không chịu tổ chức tổng tuyển cử như đã dkiến trong các hiệp định đình chiến. Những
hiệp định này bị lâm vào thế bất khả thi, mt phần do sự chối bỏ trách nhiệm của mt
trong s nhng đối tác chủ yếu có trách nhim thi hành hiệp định là Pháp. Phía Pháp đã
cẩn thận rút hết quân đội của mình trước thời hạn tổng tuyển cử tháng 7 năm 1956.
Thế là bắt đầu "thời đại hoàng kim" của chính quyền Diệm có thể tha hồ thi thố các dự
định của mình, dưới sự chỉ đạo của những cố vấn Hoa Kỳ. Nam Việt Nam trở thành tài
sản riêng của gia đình Diệm và như chính miệng Diệm i, biên giới của Hoa Kỳ trải
rộng đến tận tuyến 17. "Thời đại hoàng kim" này kéo dài đến cuối năm 1960, là thời
điểm được đánh dấu bằng sự ra đời của Mặt trận dân tc giải phóng.
3. Bi vì nhân dân Việt Nam đã nhanh chóng phản ứng; và chế độ nào càng tự cảm thấy
mình bị mất lòng dân t lại càng ra tay đàn áp, mà càng ra tay đàn áp thì cường độ những
cuộc đấu tranh của nhân dân lại càng lên cao.
Ngày 11 tháng 11 năm 1960, một số quân nhân tổ chức mt cuộc đảo chính không thành
với ý định lật đổ Dim, một bằng chứng cho thấy toàn thân chế độ này đang bị lung lay.
Sau ngày đó, chính quyền Diệm chỉ còn là mt cái bóng, duy nhất còn li sự thống trị của
Hoa K và dần dần biến thành mt cuộc can thiệp vũ trang thật sự. Một cuộc chiến tranh
không tuyên b, theo cách nói của Thời báo New York, bắt đầu ở miền Nam Việt Nam.
Cuộc chiến tranh này vả chăng đã được Chính phủ Kennedy chính thức hóa ngày 8 tháng
2 năm 1962, khi họ thành lập một bộ chỉ huy quân sự của M ở Sàin.
Về phía mình, nhân dân Việt Nam đứng trước nguycó thể bị tiêu diệt, bắt đầu có
những biện pháp tự vệ: đấu tranh vũ trang xuất hin kết hợp vi đấu tranh chính trị, và
ngày 20 tháng 12 năm 1960, Mặt trận dân tc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời.
Cuộc chiến tranh không tuyên bnày vẫn đang tiếp diễn.
Vic nghiên cứu những sự kiện xảy ra từ năm 1954 sẽ cung cấp cho chúng ta ý niệm v
mt li thoát khả dĩ cho mt tình hình nguy him như ở miền Nam Việt Nam thời đó.
Nam Việt Nam lúc đó là mt trong những khu vực nhạy cảm của thế giới, ti đây cuộc
đối đầu Đông-Tây, nhng cuộc xung đột nổ ra từ phong trào giải phóng dân tộc và giải
phóng xã hi đang din ra dưới những hình thức nghiêm trọng và nguy hiểm nhất, chứa
đựng nguy cơ đe dọa nền hòa bình thế giới.
Nghiên cứu một vấn đề mang tính thờ sự và nóng bỏng như thế là việc chẳng mấy dễ
dàng. Tư liệu thì tản mạn và nằm trên mặt các báo chí hàng ngày nhiều hơn là trên các
trang sách. Với những gì thtập hợp được từ trong các ấn phm của Việt Nam, Pp
Mỹ, chúng tôi đã thử chỉ ra một số cột mốc, cố gắng thử cung cấp chút ánh sáng cho
những ai đang phân vân tự hỏi về tương lai đất nước này.
Bở vì đất nước này là đất nước của chúng tôi, nên xin bn đọc đừng ngạc nhiên nếu
những dòng dưới đây đôi khi ít nhiều nhuốm màu cm xúc. Chúng tôi đã cố gắng hết sức
khách quan càng nhiều càng tốt, nhưng lẽ tự nhiên, trái tim của mt con người làm sao
th không rung động khi phải kể lại những tai họa đang giáng xuống quê hương mình,
hay khi mô tả li những chiến tích anh hùng của đồng bào mình. Tính kch quan lịch sử
đâu phải là sự bàng quan lnh lùng trước bất hạnh của những con người.
Paris, tháng 3 năm 1963.
__________________