
Lược sử ngoại giao VN các thời trước
Chương bốn
NGOẠI GIAO THỜI CUỐI TRẦN, THỜI HỒ VÀ
HẬU TRẦN – phần 2
II- QUAN HỆ VỚI CHIÊM THÀNH
Sau chiến tranh chống Nguyên, quan hệ giữa ta và
Chiêm Thành có nhiều chuyển biến. Năm 1293,
Chiêm Thành đem tặng phẩm tới triều đình Đại Việt.
Tháng 2 âm lịch (1301), Chiêm Thành sang cống và
tháng sau Thượng hoàng Trần Minh Tông sang thăm
Chiêm Thành. Đấy là một điều rất đặc biệt. Từ
thượng cổ tới bấy giờ, chưa một vua Việt Nam nào
sang thăm chính thức nước khác. Điều đặc biệt nữa là
không những Thượng hoàng sang thăm Chiêm Thành
mà còn nhận lời gả một công chúa (con gái Thượng
hoàng) cho vua Chiêm là Chế Mân. Sử của người

phương Tây ghi vương hiệu Chế Mân là Jaya Simha -
Varman III. Chế Mân đã lấy công chúa vua Mã Lai
làm hoàng hậu, gọi là hoàng hậu Tapasi.
Năm 1305, vua Chiêm cho một phái đoàn hơn một
trăm người, đứng đầu là đại thần Chế Bồ Đài đem lễ
vật gồm vàng bạc, hương quý vật hiếm sang cầu hôn
công chúa vua Đại Việt. Giữa năm 1306, Thượng
hoàng Trần Nhân Tông cho đưa công chúa Huyền
Trân sang Chiêm. Vua Chiêm dâng hai châu Ô và Lý
làm của hồi môn, tức châu Thuận, châu Hóa, sau hợp
thành Thuận Hóa. Công chúa Huyền Trân lấy vua
Chiêm là Chế Mân sinh được một con trai là thái tử
Chế Đa Da. Giữa năm 1307, vua Chiêm Chế Mân
chết. Bốn tháng sau, triều đình Chiêm nhân danh thái
tử Chế Đa Da cho sứ thần là Bảo Lộc Kê đưa voi
trắng sang tặng vua Trần.
Tháng 11 năm 1307, Chiêm Thành làm lễ hỏa táng

thi thể vua Chế Mân. Theo tục lệ của Chiêm Thành,
khi nào làm hỏa táng một vua chết thì hoàng hậu của
vua đó phải lên dàn hỏa thiêu chết theo. Vua Trần sợ
công chúa Huyền Trân bị hại, cho một phái đoàn
sang Chiêm lấy danh nghĩa là viếng để tìm cách cứu
công chúa. Phái đoàn này do Trần Khắc Chung và
Đặng Văn cầm đầu. Đúng ngày làm lễ hỏa táng, phái
đoàn của vua Trần tìm cách đưa công chúa Huyền
Trân và con trai Đa Da ra biển, chạy về nước.
Khi Chế Mân chết, con Chế Mân là Chế Chí lên làm
vua Chiêm và cho sứ sang cống nhà Trần.
Nhưng lúc này vua Trần đã mưu đánh chiếm nước
Chiêm. Nên khi sứ Chiêm ra về thì vua Trần tổ chức
đại quân theo hai đường thủy bộ kéo sang. Vua thân
đem sáu quân đi đường bộ, cho Đoàn Nhữ Hài làm
Thiên tử chiêu dụ sứ đi trước. Nghe theo lời chiêu dụ,
vua Chiêm là Chế Chí đem vợ con, thân thuộc, đi

thuyền theo đường biển tới hàng vua Trần. Chiến
tranh kết thúc. Vua Trần trở về Thăng Long đem Chế
Chí cùng về. Vua Trần phong cho Chế Chí làm Hiệu
Trung vương, sau đổi làm Hiệu Thuận vương. Nhà
Trần cho Chế Chí ở hành cung Gia Lâm. Tháng 2
(âm lịch) năm sau (1313), Chế Chí chết, nhà Trần
theo tục của Chiêm Thành, làm lễ hỏa táng.
Khi Chế Chí sang Đại Việt, nhà Trần phong cho em
Chế Chí là Chế Đà A Bà Niêm làm á hầu, coi Chiêm
Thành là thuộc quốc. Nhưng Chế Đà vẫn xưng vương
hiệu, sử ghi là Chế Năng.
Năm 1318, Chế Năng chống lại triều đình Thăng
Long, tiến quân đánh lên Thuận Hóa. Nhà Trần cho
quân đi ứng cứu. Một tướng Trần là Lý Tất Kiến
đánh thua, chết tại trận, lão tướng Phạm Ngũ Lão tiến
quân đánh tan quân Chiêm, bắt tù binh rất nhiều. Vua
Chiêm Chế Năng chạy sang Ja-va.

Nhà Trần phong một tướng người Chiêm là Chế A
Nan làm Hiệu Thánh á vương, nước Chiêm lệ thuộc
Đại Việt. Ít lâu sau, người Chiêm từ bỏ sự lệ thuộc
đó. Năm 1326 nhà Trần cho Huệ Túc vương Trần Đại
Niên đem quân đi đánh, nhưng thất bại, phải quay về.
Năm 1342, vua Chiêm Thành Chế A Nan chết, con rể
là Trà Hòa Bố Để không cho con trai A Nan nối ngôi
mà tự lập làm vua. Từ đó vua Chiêm mới thoát ly dần
khỏi sự lệ thuộc triều đình Đại Việt.
Năm 1346, vua Trần cho Phạm Nguyên Hằng sang sứ
Chiêm Thành, trách Chiêm Thành thiếu lễ triều cống
hàng năm. Chưa muốn tỏ hẳn là chống lại, cuối năm
ấy vua Chiêm cho sứ sang cống nhà Trần, nhưng lễ
vật rất ít.
Năm 1352, Chế Mỗ là con trai Chế A Nan bị Trà Hòa