
Chương ba
NGOẠI GIAO TRONG CHIẾN TRANH BẢO VỆ TỔ QUỐC THỜI TRẦN
(thế kỷ XIII) – phần 2
II. NGOẠI GIAO HÒA HOÃN VỚI QUÂN XÂM LƯỢC
Ngay sau khi đem quân từ Thăng Long chạy về tới Vân Nam, Ngột Lương Hợp Thai lập
tức cho sứ sang nước ta. Triều đình nhà Trần cho sứ Mông Cổ vào Thăng Long, nhưng
không thỏa thuận điều gì. Khi sứ Mông Cổ về, nhà Trần cũng cho một sứ bộ sang gặp
Ngột Lương Hợp Thai ở Vân Nam . Và mặc dầu hòa hoãn với quân Mông Cổ, nhà Trần
vẫn giao hảo với nhà Tống. Cùng một lúc với việc cho sứ sang gặp Ngột Lương Hợp
Thai, nhà Trần cũng cho sứ sang Tống, thông báo cho Tống biết ta đánh thắng quân
Mông Cổ, ngăn chặn không cho quân Mông Cổ qua Đại Việt, vào đất Tống, giúp Tống
tránh được một mũi tiến công của quân Mông Cổ vào sau lưng họ.
Quân Mông Cổ ở Vân Nam tiếp tục cho sứ sang ta. Ngột Lương Hợp Thai cho sứ đem
một bức thư tới nhà Trần. Thư viết rất ngạo nghễ, đại ý như sau:
“Trước ta sai sứ sang thông hiếu, các người giữ không cho về. Ta phải ra quân năm
ngoái, Quốc chúa người phải chạy ra thảo dã. Ta lại sai sứ đi chiêu dụ trả nước cho,
ngươi lại trói sứ của ta đuổi về. Nay đặc sai sứ sang dụ dỗ: như các ngươi thực tâm nội
phụ thì Quốc chúa phải thân đến. Nhược bằng không sửa lỗi, hãy nói ta rõ”.
Ngột Lương Hợp Thai muốn lấn dần, cho sứ sang đòi vua Trần vào chầu là một hình thức
phiên thần lệ thuộc mà các vua Đại Việt không hề làm với bất cứ một triều đại phương
Bắc nào. Cố nhiên là vua Trần bác bỏ yêu sách đó.
Mấy tháng sau, Ngột Lương Hợp Thai lại cho sứ sang Đại Việt lần thứ hai. Vua Trần nói
dứt khoát rằng vua Trần không sang chào vua Nguyên. Các tướng Nguyên ở Vân Nam
đành chịu. Nhưng chúng vẫn duy trì các quan hệ ngoại giao với nước ta. Về phía ta, nhà
Trần cũng cho người qua lại giao dịch với Mông Cổ ở Vân Nam, mục đích chủ yếu là để
tìm hiểu tình hình nội bộ chúng và theo dõi những diễn biến chiến tranh giữa Mông Cổ
và Tống.
Đầu năm 1261, triều đình Mông Cổ chính thức quan hệ với ta. Vua Mông Cổ là Hốt Tất
Liệt cho một sứ bộ ngoại giao sang ta. Sứ bộ đi sáu tháng tới Thăng Long, trao vua Trần
chiếu thư của Hốt Tất Liệt, đại ý như sau:
"…Mới đây, thứ thần ở nước Đại Lý là an phủ sứ Nhiếp Chỉ Mạch Đinh chạy trạm dâng
biểu nói nước khanh có thành ý hướng phong mộ nghĩa. Nghĩ khanh trước kia, thời tiên
triều, đã từng thần phục, từ xa cống phương vật, nên ban chiếu chỉ dụ các quan liêu sĩ thứ
nước khanh phải áo mũ, điển lệ, phong tục, vẫn y theo cựu chế của nước mình, không
phải thay đổi. Cũng như nước Cao Ly mới đây sai sứ sang hỏi, đã xuống chiếu cho hết
thảy đến theo lề ấy. Ngoài ra, ta đã cấm các biên tướng ở Vân Nam không được thiện tiện
đưa binh lấn cướp biên giới, quấy nhiễu nhân dân nước khanh. Các quan liêu sĩ thứ nước
khanh cứ yên ổn làm ăn như trước. . . ".

Thế của quân Mông Cổ chưa thể xâm lược ta được nên Hốt Tất Liệt phải tiếp tục quan hệ
hòa hoãn với ta. Nhưng mưu đồ lợi dụng mối quan hệ hòa hoãn để thực hiện dã tâm mua
chuộc, dụ dỗ nước ta làm thuộc quốc của chúng đã lộ rõ.
Lúc này thế của nước ta là thế một nước nhỏ nhưng mạnh. Về quân sự, ta đã đánh thắng
một bước quân Mông Cổ. Về ngoại giao, ta không nhượng bộ trước những hạch sách,
hống hách và mọi mưu đồ của chúng. Hốt Tất Liệt muốn lừa ép nước ta làm thuộc quốc,
nhưng lại sợ quân dân ta phản ứng, có thể phản ứng cả về quân sự, nên cuối chiếu thư
phải lèo thêm một câu là: "đã cấm các biên tướng ở Vân Nam không được thiện tiện đưa
binh lấn cướp biên giới. . . " để xoa dịu sự bất bình của quân dân ta.
Khi sứ Mông Cổ về nước, triều đình nhà Trần về mặt ngoại giao cũng cho một sứ bộ sang
thông hiếu. Nhưng về mặt quân sự, triều đình nhà Trần và quân dân ta đã ở tư thế sẵn
sàng chiến đấu chống giặc xâm lược. Trong khi sứ ta sang Vân Nam thì nhà Tống cho sứ
sang đem chiếu thư phong vua Trần Thánh Tông làm An Nam Quốc vương và phong
Thượng hoàng Trần Thái Tông làm Đại vương. Có thể nhà Tống biết nhà Trần giao thiệp
với Mông Cổ nên vội làm việc này để tỏ tình thân thiện, mong giữ được quan hệ láng
giềng tốt với ta.
Khoảng tháng 9 năm 1262, sứ bộ ta sang kinh đô Khai Bình. Lúc này, Mông Cổ chưa mở
rộng được cuộn chiến tranh xâm lược của chúng vào Trung Quốc, nên còn đóng đô tại
Khai Bình (thuộc khu tự trị Nội Mông ngày nay). Đây là lần đầu tiên sứ bộ ta trực tiếp
giao thiệp với triều đình Mông Cổ. Buổi đầu, để mua chuộc ta, Hốt Tất Liệt gửi tặng vua
Trần ba tấm gấm tây cẩm và sáu tấm gấm kim thục.
Tháng 10 năm 1262, khi sứ ta trở về, Hốt Tất Liệt cũng cho một sứ bộ sang ta, đem sắc
phong vua Trần làm An Nam Quốc vương và đưa chiếu thư đòi hỏi ta nhiều thứ. Nội
dung chiếu thư như sau: “Khanh đã gửi đồ lễ nhận làm bề tôi, vậy bắt đầu từ năm Trung
Thống thứ tư (1263), cứ ba năm một lần, chọn nho sĩ, thầy thuốc cùng người thông âm
dương bói toán, các hạng thợ, mỗi loại ba người, đem đến cùng với các thứ: dầu tô hợp,
quang hương, vàng bạc, chu sa, trầm hương, đàn hương, tê giác, đồi mồi, trân châu, ngà
voi, vải trắng...” (Nguyên sử, q.209, An Nam truyện. tờ 3a).
Hốt Tất Liệt phong vương cho vua Trần là có dụng ý ràng buộc vua Trần thành chư hầu,
chịu sự khống chế của hắn về mọi mặt. Nhưng đối với nhà Trần, triều Tống hay triều
đình Mông Cổ phong vương hầu không có ý nghĩa gì. Các vua Trần không bao giờ quan
tâm đến việc cầu phong của các triều đình phương Bắc. Một nhà sử học thời trước là
Phan Huy Chú trong sách Lịch triều hiến chương loại chí đã nhận định: "Các vua Trần
được nhường ngôi, chưa từng cầu phong ở Trung Quốc” (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến
chương loại chí, q.46, Bang giao chí). Và ở một đoạn khác trong sách này, Phan Huy Chú
có nhận định: "Đến nay, phong vương thì Mông Cổ phong trước, nhà Tống phong sau.
Đó cũng chỉ là tùy hai nước ấy tự sai sứ sang, nước ta chưa từng đưa thư trước cầu phong
với hai nước ấy” (Phan Huy Chú, Lịch triều hiến chương loại chí, q.46, Bang giao chí).
Còn những yêu sách nhũng nhiễu của Hốt Tất Liệt ghi trong chiếu thư thì nhà Trần bác
bỏ.

Tuy vậy, Mông Cổ vẫn tiếp tục quan hệ với ta, giữ thái độ hòa hoãn, nhưng lúc thì yêu
sách cái này, lúc lại yêu sách cái khác, hoặc cho sứ sang ta một cách bất thường để thúc
ép, dọa dẫm, muốn gây cho ta một tâm lý hoang mang, khiếp sợ chúng. Về phía ta, yêu
sách nào, sứ nào của chúng, ta cũng không quan tâm. Sứ sang rồi sứ lại về. Nhà Trần
không giải quyết bất cứ việc gì theo ý muốn của chúng. Nhà Trần chỉ trích, bắt bẻ cả
những hành động bất nhất của Hốt Tất Liệt. Đối với sứ Mông Cổ vị nào tỏ ra biết điều, ta
tiếp đãi mềm dẻo, ân cần, tên nào vô lễ ngông nghênh, hống hách, ta thuyết phục; thuyết
phục không nghe thì ta thẳng tay răn đe, làm cho chúng mất ngông nghênh, hống hách.
Tháng 3 năm 1266, nhân có sứ Mông Cổ sang ta trở về nước, ta cũng cho một sứ bộ sang
từ chối mọi yêu sách của Hốt Tất Liệt. Hốt Tất Liệt đành chịu. Nhưng chỉ ba ngày sau khi
sứ ta về nước, Hốt Tất Liệt lại đưa sang ta sáu yêu sách nặng nề hơn:
1- Vua Trần phải sang chầu.
2- Vua Trần phải cho con hay em sang ở tại triều đình Mông Cổ làm con tin.
3- Phải kê khai dân số nộp cho Mông Cổ.
4- Phải chịu các quân dịch của Mông Cổ.
5- Phải nộp phú thuế cho Mông Cổ.
6- Phải để cho Mông Cổ đặt đạt lễ hoa xích, tức đặt quan lại người Mông Cổ để thống trị
nước Đại Việt.
Những yêu sách thật là hống hách. Hốt Tất Liệt muốn bằng uy hiếp ngoại giao biến nước
ta thành thuộc quốc, hoặc hơn thế, thành một địa phương trong lãnh thổ thuộc quyền
thống trị của hắn.
Hai tháng sau, Hốt Tất Liệt lại gửi một chiếu thư khác, đòi vua Trần phải nộp những lái
buôn người Hồi Hột (tức người Uy Gua) ở nước ta, lấy lý do là “muốn hỏi về tình hình
Tây Vực”.
Gần một năm sau, tức tháng 10 năm 1268, Hốt Tất Liệt cho Hốt Lung Hải Nha, người
Mông Thát đi sứ sang Việt Nam, cho tên Trương Đình Trân, người Hán, làm phó sứ. Bọn
Hốt Lung Hải Nha đem chiếu thư một lần nữa đòi vua Trần phải nộp lái buôn Hồi Hột, và
chúng còn đòi một điều không ghi trong chiếu thư là ta phải nộp mấy con voi lớn. Khi tới
Đại Việt, viên phó sứ người Hán là Trương Đình Trân ngạo nghễ đòi vua Trần phải tiếp
theo lễ đối với “vương ân", tức là tiếp theo lễ như đối với người ngang hàng vua.
Để trừng vị viên phó sứ láo xược này, vua Trần cho đưa Trương Đình Trân tới ở riêng
một nơi, gần như giam lỏng, lúc nào cũng có vệ binh tuốt gươm trần vây quanh. Bấy giờ
đương mùa nắng. Trương Đình Trân khát, xin nước uống. Vệ binh đem nước sông, vừa
nóng vừa đục tới cho uống. Hắn xin nước giếng. Vệ binh không cho, lấy cớ nước giếng
thường có thuốc độc chết người. Trương Đình Trân phải khẩn khoản xin: "Tôi tự yêu cầu,

có chết cũng không dám oán hận". Bấy giờ vệ binh mới lấy nước giếng cho uống. Thái
độ hống hách, láo xược của Trương Đình Trân phải nhụt hẳn.
Bọn Hốt Lung Hải Nha sang ta lần này có hai yêu sách chính: một là đòi nộp lái buôn
Hồi Hột, hai là đòi cống voi.
Về yêu sách thứ nhất, triều đình nhà Trần cương quyết không trao người Hồi Hột và cũng
không cho sứ Mông Cổ và người Hồi Hột đã ở nước ta được gặp nhau. Tại sao Hốt Tất
Liệt nằng nặc đòi nộp lái buôn Hồi Hột như vậy? Vốn là từ thời Thành Cát Tư Hãn, các
lái buôn Hồi Hột đã trở thành những tình báo đắc lực của bọn vua chúa Mông Cổ hiếu
chiến. Lái buôn Hồi Hột đi khắp các nơi, tới nước nào chúng cũng dò xét tình hình nước
đó để báo về cho bọn vua chúa Mông Cổ. Vai trò tình báo của lái buôn Hồi Hột đã nổi rõ
trong lịch sử chiến tranh xâm lược của Mông Cổ từ hàng nửa thế kỷ trước. Chắc chắn
triều đình nhà Trần biết rõ điều đó nên rất cảnh giác với những hành động của bọn lái
buôn Hồi Hột, đã nghiêm cấm không cho lái buôn Hồi Hột tiếp xúc với các sứ thần, và
không cho lái buôn Hồi Hột sang Mông Cổ.
Về yêu sách thứ hai là đòi voi, tuy không có gì quan trọng lắm nhưng triều đình nhà Trần
cũng bác bỏ. Bọn Hốt Lung Hải Nha, Trương Đình Trân đành về không. Triều đình nhà
Trần bác bỏ những yêu sách của bọn hiếu chiến, nhưng vẫn đường hoàng giao thiệp với
chúng. Khi bọn Hốt Lung Hải Nha về, vua Trần cho một phái bộ đi cùng đem thư của
vua Trần gửi Hốt Tất Liệt, nói rõ là không chấp nhận những yêu sách của hắn. Hốt Tất
Liệt nhận thư của vua Trần cũng đành chịu.
Đối với nước lớn, với kẻ hiếu chiến hung hãn bậc nhất của thời đại, thái độ của Tổ tiên ta
thời Trần thật hiên ngang, dũng cảm, ngoại giao thật rắn rỏi.
Cuối năm 1270, sau khi các sứ Hốt Lung Hải Nha, Trương Đình Trân về nước, Hốt Tất
Liệt đưa thư sang triều đình nhà Trần trách: nhận chiếu thư không lạy, tiếp sứ không theo
lễ vương ân và đòi: nộp voi cùng các đồ uống khác. Vua Trần không trả lời. Năm 1271
nhà Nguyên (Nhà Nguyên thành lập năm 1271) lại cho sứ sang trách móc, yêu sách đòi
vua Trần vào chầu. Vua Trần đưa thư cho sứ Nguyên cầm về bác bỏ mọi đòi hỏi, bắt bẻ
của vua Nguyên. Từ đây cho tới hết năm 1275, quan hệ giữa ta và nhà Nguyên cũng chỉ
như vậy thôi. Nhà Nguyên chưa thể dùng vũ khí đe dọa ta, vì Nguyên chưa đánh chiếm
được hẳn toàn bộ Trung Quốc và còn bận tổ chức cai trị ở những vùng đất đã chiếm
đóng. Tới đầu năm 1276, Nguyên đã đánh chiếm gần hết đất nước Trung Quốc, tiến
xuống gần biên giới đông bắc nước ta. Do đấy, thái độ của Hốt Tất Liệt trong quan hệ
ngoại giao với ta cũng đổi khác, bắt đầu gay gắt, trắng trợn hơn trước.
Đầu năm 1276, sứ của ta là Lê Khắc Phục và Lê Túy Kim sang triều Nguyên từ chối sáu
điều yêu sách của nhà Nguyên, bị vua Nguyên Hốt Tất Liệt bắt giam, không cho về.
Cũng đầu năm 1276, vua Trần cho người sang Long Châu (đất Tống) gần biên giới nước
ta, mượn tiếng đi mua thuốc, để tìm hiểu tình hình chiến tranh giữa Tống và Nguyên.
Tống sắp mất cả nước. Năm 1277, Thượng hoàng Trần Thái Tông chết, vua Trần Thánh
Tông cho hai đại phu là Chu Trọng Ngạn và Ngô Đức Thiệu sang Nguyên báo tin và
cũng để thăm dò thái độ của Nguyên. Thông thường, thời xưa, trong quan hệ ngoại giao
giữa các nước, khi vua nước này chết thì vua nước kia cho sứ thay mặt mình sang làm lễ

viếng. Nhưng Hốt Tất Liệt ngang ngược, thô bạo, không làm thế, không chia buồn, phúng
viếng mà còn giữ sứ bộ Chu Trọng Ngạn không cho về.
Như vậy là liên tiếp hai sứ bộ của ta bị Hốt Tất Liệt giữ lại. Nhưng triều đình nhà Trần
bình tĩnh, không nao núng. Sứ của ta bị giữ hàng năm, thế mà triều đình nhà Trần vẫn
lặng thinh, như không có chuyện gì.
Thấy việc giữ sứ không có kết quả, năm 1278 Hốt Tất Liệt phải để sứ bộ Lê Khắc Phục,
Lê Túy Kim bị giữ từ đầu năm 1276 trở về nước, cùng đi với sứ bộ ta có một sứ bộ của
Hốt Tất Liệt sang Đại Việt để thúc ép vua Trần vào chầu. Đi gần tới biên giới, sứ Nguyên
đưa tin sang yêu cầu ta cho quan quân lên đón chúng từ biên giới.
Từ biên giới, tức từ vùng Lạng Sơn bây giờ, tới kinh thành Thăng Long, đường không xa
lắm và dễ đi. Nhưng đối với sứ giặc, ta thường bắt đi quanh co dài ngày, khi luồn rừng,
leo núi, khi lội suối, trèo đèo rất vất vả. Sau này, một sứ nhà Nguyên là Trần Phu đã viết
về con đường đi sứ ở nước ta như sau:
"Sứ thần tới nước ấy không được dẫn đi theo những con đường đã có sẵn, mà toàn là đục
núi làm đường, quanh co khuất khúc, khi trèo núi, khi lội khe, để cho thấy là đường đi rất
xa xôi, nguy hiểm” (Trần Cương Trung: Giao Châu cảo)
Khi sứ nhà Nguyên về nước, ta cũng cho một sứ bộ sang Nguyên, từ chối những yêu sách
của vua Nguyên và đòi vua Nguyên trả lại tự do cho những sứ thần của ta bị vua Nguyên
giam giữ. Hốt Tất Liệt lại bắt giam sứ của ta và cho sứ Nguyên sang ta lần nữa, một mực
đòi vua Trần phải vào chầu. Đoán trước rằng vua Trần vẫn không vào chầu, nên trong
chiếu thư gửi vua Trần, Hốt Tất Liệt đưa thêm những điều kiện mới và hăm dọa: "Nếu
quả không thể tự thân tới được thì phải lấy vàng thay người, hai hạt châu thay mắt và lấy
thêm hiền sĩ, phương kỹ, con trai, con gái, thợ nghề, mỗi loại hai người để thay cho thổ
dân. Nếu không, hãy tu sửu thành trì để đợi phán xét " (Nguyên sử, q.209, An Nam
truyện)
Trước những hăm dọa ngày càng hống hách, xấc xược của Hốt Tất Liệt, vua Trần vẫn
không vào chầu; vàng thay người, ngọc thay mắt cũng không, mà hiền sĩ, phương kỹ, con
trai, con gái, thợ nghề thay dân cũng không. Sứ Nguyên lại về không như mọi lần trước.
Để tỏ ra vẫn giữ quan hệ bình thường với nhà Nguyên, khi sứ Nguyên về nước, triều đình
nhà Trần cũng cho một sứ bộ sang Nguyên, người đứng đầu sứ bộ là Trần Di Ái, chú họ
vua Trần Nhân Tông. Hốt Tất Liệt vội nắm lấy Trần Di Ái làm con bài bù nhìn, để rồi sẽ
đưa đường cho chúng đánh chiếm Đại Việt.
Cuối năm 1281, Hốt Tất Liệt phong Trần Di Ái làm An Nam quốc vương cùng bọn quan
lại tùy tùng lập thành một triều đình bù nhìn tay sai của nhà Nguyên và đặt nước Đại Việt
làm "An Nam tuyên úy ty", tức một bộ phận trong lãnh thổ của nhà Nguyên. Đầu năm
1282, nhà Nguyên cho quân sang chiếm đóng nước ta, đưa lệnh bắt vua Trần thoái vị và
đem bọn bù nhìn Trần Di Ái về nước giúp việc.
Hốt Tất Liệt ngạo nghễ ra lệnh cho vua Trần thôi làm vua: "Ngươi cáo bệnh không vào