Một thoáng về phái sinh chứng khoán: 2 khái
nim chủ chốt
Số lượng bài viết về options nói chung trên báo chí, sách vở và ngay đây
không phi ít. Đây là một trong những công cụ tài chính quan trọng (để
phòng ngừa rủi ro kinh doanh-đầu tư) và tài sản tài chính quan trng (để trao
đổi thương mại). Tuy nhiên, để hiểu rõ bn chất kỹ thuật của option cũng
không hề đơn giản.
Nhim vụ trọng tâm của nghiên cu option là phương pháp và kỹ thuật định
giá (option pricing).
Hai khái niệm quan trọng nền tảng trong việc định giá option là "tái tạo"
(replication) và arbitrage (từ này rất khó chuyển nghĩa sang tiếng Việt). Việc
định giá option xoay quanh khái niệm tái tạo. Để định giá bất kmột phái
sinh chứng khoán nào, chúng ta bắt buộc phải "tìm" một portfolio (danh mục
đầu tư tài sản tài chính) trong một qui mô kinh tế nào đó. Qui mô kinh tế còn
được hiểu là một chiến lược mua bán. Nếu chiến lược này cn đầu tư (trả
tin) một khoản tiền có độ lớn đúng bằng số tiền phải trả cho một option thì
cũng có nghĩa là chúng ta vừa i tạo lại một option, nhưng dưới dạng một
danh mục đầu tư các tài sản.
Người phát triển tư tưởng này là nhà bác học Kenneth Arrow, người đã được
nhận giải thưởng Nobel về kinh tế học cho các nghiên cứu về cân bằng tổng
quát mở rộng. Bản chất việc tái tạo một option bằng một danh mục các tài
sản cũng chính là thiết lập một cân bằng, mà trong một báo cáo tại Seminar
toán học ứng dụng của Hội Ứng dụng Toán học tại ĐH Bách khoa Hà Ni,
GS. André Farber đã trình bày sự kết nối quan trng này. (Sau đó có tặng lại
GS. Hữu, chủ tịch Hội một cuốn chuyên khảo.)
Sau này chúng ta scòn nhiều dịp làm rõ quan niệm về cân bằng đối với q
trình định giá option. Nhưng chúng ta cần nhận thấy rằng, nếu các bạn đã
từng đọc sách giáo khoa về tài chính, việc bập vào áp dng ngay một công
thức về tính giá option như pơng pháp nhị thức hay phương pháp Black-
Scholes (công thức) khiến cho tất cả học viên thy hết sức mù mờ, vì họ b
xa rời với nguyên lý dẫn dắt đến các biểu thức toán học "đẹp đẽ và gin dị,"
theo cách ngưi ta vẫn mô tả về công thức B-S. Hơn thế nữa, việc hiểu
nguyên lý mới giúp thực hành đầu tư thực sự có "tri thức". Về bản chất,
năng lực phòng ngừa rủi ro của người nắm giữ option hoàn toàn tương
đương với việc người đó có khả năng tự tái tạo một danh mục các tài sn đầu
tư, theo một tỷ lệ "thích hợp". Dĩ nhiên, t lệ thích hợp ấy cần được đưa đến
sau một quá trình giải tn. Ở đây, bản chất option chẳng qua là sự "lai tạo"
các tài sản tài chính theo cách thức người ta thể hạn chế rủi ro và nhận
biết được khẩu vị đầu tư của chính mình.
Điều thứ hai, chúng ta muốn nói ti là arbitrage, khái niệm mà GS. Trn
Hùng Thao của Viện Toán học có gọi bằng âm Hán-Việt là "hin tượng cơ
li". Arbitrage là một chiến lược mua-bán giúp tạo ra lợi nhuận mà không
cần đầu tư gì và không cha rủi ro nào. Nó ging như là tạo ra động cơ vĩnh
cửu vậy, hoặc là thuật giả kimhóa chất nào đó, đổ vào đá là hóa ra vàng.
Ý nghĩa không nằm ở bản thân của chính arbitrage, mà nm ở việc "không
tồn tại arbitrage." Khi không tồn tại arbitrage, các nhà khoa học suy ra rng
giá trị của một phái sinh chứng khoán có thể tính bằng giá trị mà một
portfolio có thể tái tạo cho giống hành vi của phái sinh đó. Vì thế, điều kiện
giả định bắt buộc là "không tồn tại arbitrage."
Để hiểu nó ta xét trường hợp sau đây. Giả sử có trường hợp ngược lại là giá
của phái sinh nào đó lại cao n portfolio có thể mô tả hành vi giá trị của
phái sinh đó thì sao. Khi y, loài người thông minh sẽ bán phái sinh đó đi,
ly tiền thu được mua cái portfolio mô phỏng tốt hành vi của phái sinh ấy,
và dư ra ít tiền mặt. Quá lợi! Li ích vẫn thế mà lại sinh ra ít tiền dư. Đây
loi "cơ lợi" mà chúng ta biết không thể tồn tại, vì nếu ta cứ quay vòng thế,
thì của cải sinh ra không từ đâu cả và chẳng rủi ro gì cả.
Trong đoạn giới thiệu này, các khái nim quan trng nhất được trình bày,
tuy nhiên chưa hề mô tả tính phức tạp của các vấn đề kỹ thuật liên quan.