
Mụn trứng cá
(Kỳ 3)
Kháng sinh
Hai kháng sinh dùng tại chỗ là clindamycine và erythromycine ở dung dịch
tan trong cồn (hydroalcoholic solutions) đã được sử dụng rộng rải trong hai thập
kỷ qua. Một chế phẩm mới hơn ở dưới dạng gels và lotions có khuynh hướng làm
giảm kích thích da. Những thuốc này có tác dụng giảm sự tạo khúm của vi trùng
P. acnes cũng như có hiệu quả chống viêm trực tiếp thông qua ức chế sự hóa ứng
động của neutrophil. Trong một thử nghiệm lâm sàng mù đôi đã nhận thấy rằng
điều trị mụn trứng cá với clindamycine 1% (dạng solutions) thì có hiệu quả tương
đương với tetracycline 250 mg x 2 lần/ngày (uống). Vi trùng có thể đề kháng với
kháng sinh, trong trường hợp này sự phối hợp thuốc có thể làm giảm sự đề kháng
(ví dụ: Erythromycine 3% với benzoyl peroxide 5% hay clindamycine 1% với
benzoyl peroxide 5%). Erythromycine cũng được dùng dưới dạng dung dịch 2%
có kẽm.
Những kháng sinh tại chỗ khác như metronidazole, những hợp chất có chứa
sulfur thì cũng hữu ích trong điều trị mụn trứng cá nhất là trong mụn trứng cá đỏ.

Acide azelaic:
Thường dùng dưới dạng cream 20% có tác dụng trên sừng phểu ống, ngăn
chặn comedons, có tác dụng kiềm khuẩn, ngoài ra không thấy tình trạng vi trùng
đề kháng. Tác dụng phụ là ngứa và cảm giác bỏng tại chỗ.
Toàn thân
Điều trị bằng hormone
Điều trị mụn trứng cá bằng thuốc ngừa thai uống đã đem lại những thành
công trong những thập niên gần đây, phương thức điều trị này là một khám phá
mới cho bệnh nhân nữ. Lần đầu tiên vào năm 1997 FDA đã chấp thuận dùng một
loại thuốc ngừa thai kết hợp, ba pha, bằng đường uống trong việc điều trị mụn
trứng cá, thuốc này gồm norgestimate 0.215 mg và ethinyl estradiol 0.035 mg. Tác
dụng phụ chủ yếu của thuốc là buồn nôn và giới hạn của phương thức điều trị này
hiển nhiên là không dùng được cho bệnh nhân nam.
Một thuốc thay thế cho điều trị mụn trứng cá do hormone ở nữ là
spironolactone, liều tấn công 200 mg/ngày và liều duy trì 50-176 mg/ngày (tùy
dung nạp). Spironolactone có thể kết hợp với điều trị thuốc ngừa thai bằng đường
uống.
Kháng sinh

Tetracycline: (Chlohydrate de Tetracycline 500 mg)
- Liều giảm dần:
+ 1,5 g /ngày trong 8 ngày.
+ 0,5 g /ngày trong 1 tháng.
+ 0,25 g /ngày trong nhiều tháng.
- Hoặc liều không đổi: 1 g /ngày.
- Hiệu quả và không có hại với liều £ 1 g / ngày trong thời gian lâu dài.
Cyclines thế hệ 2: (Doxycycline 100 mg, Minocycline 100 mg)
- Liều dùng: 1 – 2 viên / ngày.
- Cũng có hiệu quả như Tetracycline.
- Điều trị kéo dài ít được dung nạp hơn.
- Giá thành mắc hơn.
- Theo nghiên cứu gần đây nhất, Doxycycline dùng liều cao kéo dài dễ gây
ra tình trạng Candida âm đạo, đau thượng vị, tổn thương thực quản hoặc nhạy cảm
ánh sáng. Tài liệu mới nhất (04/2003) sử dụng Doxycycline liều thấp có tác dụng
chống viêm 20 mg x 2 lần/ngày (liều tác dụng kháng khuẩn tổi thiểu của

Doxycycline là 50 mg/ngày) thì có tác dụng tốt trong việc giảm sang thương mụn
không viêm và viêm cũng như tổng số lượng sang thương so với placebo.
Kháng sinh khác:
+ Erythromycin: liều dùng: 1,5 – 2 g / ngày.
+ Clindamycin: liều dùng: 300 – 600 mg / ngày.
+ Trimethoprim-sulfamethoxazole: liều dùng: 960 mg x 2 lần/ngày.
Nhìn chung mỗi loại kháng sinh bằng đường uống đều có tác dụng phụ,
nhưng các tác dụng phụ thường được chú ý nhất là: nhạy cảm ánh sáng khi dùng
nhóm tetracycline (đặc biệt là doxycycline), chóng mặt khi dùng minocycline, rối
loạn tiêu hóa khi dùng nhóm erythromycine, dị ứng thuốc khi dùng trimethoprim-
sulfamethoxazone. Ngoài ra, tất cả các kháng sinh đường uống đều thúc đẩy tình
trạng nhiễm candida đặc biệt là candida âm đạo.
Mụn trứng cá đề kháng kháng sinh:
Tại châu Âu, trong nghiên cứu từ 6 nước: Anh, Tây ban nha, Ý, Hy lạp,
Thụy điển và Hungary năm 2002 về vấn đề kháng thuốc ở 622 bệnh nhân đã nhận
thấy 515/622 trường hợp có đề kháng thuốc. Tỷ lệ kháng ít nhất 1 loại kháng sinh
là ở Hungary (51%) và cao nhất tại Tây ban nha (94%). Đề kháng phối hợp giữa
Clindamycine và Erythromycine rất thường gặp (cao nhất là 92% ở Tây ban nha)

so với đề kháng Tetracycline (cao nhất là 26.4% ở Anh). Không tìm thấy vi khuẩn
kháng Tetracycline ở Hungary và Ý. Tỷ lệ Propionibacterium đề kháng kháng
sinh ở da ở người bệnh không điều trị thay đổi từ 41% ở Hungary đến 86% ở Tây
ban nha. 25/39 Propionibacterium kháng kháng sinh ở bệnh nhân mụn đã được
điều trị.
Như vậy các thuốc thoa Erythromycine và Clindamycine điều trị mụn đã có
dấu hiệu đề kháng rộng rãi. Tỷ lệ kháng sinh Tetracycline uống đề kháng thấp trừ
Thụy điển và Anh.
Isotretinoin:
Sau hai thập niên nghiên cứu về retinoid, isotretinoin vẫn là điều trị được
lựa chọn đối với những ca mụn trứng cá nốt nang kháng trị và thể trầm trọng hơn
là mụn trúng cá cụm. Isotretinoin có tác dụng ức chế sự sản xuất tuyến bã, và cũng
như cá retinoids khác nó cũng thúc đẩy quá trình tiêu sừng. Hiệu quả lâm sàng của
isotretinoin trong điều trị acne thì rất ngoạn mục, thường làm giảm hơn 90% sang
thương trong vòng 3 tháng điều trị; kết quả điều trị của nó kéo dài nếu dùng 1 đợt
điều trị trong 20 tuần sẽ đạt được sự cải thiện của mụn trong vòng 3 năm hoặc hơn
nữa trong 80% trường hợp. Liều dùng:
+ Tấn công: 0,5 – 1 mg / kg / ngày trong 4 tháng (tùy theo dung nạp).
+ Duy trì: 0,2 – 0,3 mg / kg / ngày thời gian dùng kéo dài hơn.

