
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
******
NGUYỄN NGỌC LINH
NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC
QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
CHUYÊN NGÀNH : TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
MÃ SỐ : 9340201
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
HÀ NỘI - 2022

1
Công trình được hoàn thành tại:………………………………………………………
.…………………………………………………………………………………………
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Nguyễn Thanh Phương
2. PGS.TS Trần Thị Xuân Anh
Phản biện 1: PGS.TS Nguyễn Thuỳ Dương
Phản biện 2: PGS.TS Trần Đăng Khâm
Luận án sẽ được bảo vệ trước hội đồng chấm luận án:………………………………...
tại……………………………..vào hồi……. giờ….… ngày…….tháng..…năm………
Có thể tìm luận án tại thư viện…………………………………………………………

1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thị trường chứng khoán tạo ra những cơ hội cho các nhà đầu tư (NĐT) tìm kiếm
lợi nhuận. Với sự đa dạng và phong phú của thị trường chứng khoán (TTCK), NĐT có
thể lựa chọn cho mình những phương thức đầu tư có hiệu quả nhất. Thế nhưng, song
hành với lợi nhuận luôn tiềm ẩn những rủi ro. Để hạn chế đến mức thấp nhất nguy cơ
rủi ro có thể gặp phải trong quá trình đầu tư, các NĐT có thể lựa chọn sử dụng các
công cụ phòng hộ rủi ro hoặc thực hiện đa dạng hoá danh mục đầu tư. Tuy nhiên, việc
sử dụng các công cụ phòng hộ rủi ro đòi hỏi NĐT phải có trình độ hiểu biết nhất định
về các kỹ thuật và công cụ tài chính phức tạp này, trong khi đó đa dạng hoá danh mục
đầu tư đòi hỏi NĐT không chỉ cần có kiến thức, mà còn phải chuẩn bị một quy mô vốn
đầu tư nhất định, điều mà có thể nhiều NĐT cá nhân trên thị trường có thể không đáp
ứng được. Trên cơ sở đó, thay vì tự tiến hành đầu tư, NĐT có thể cân nhắc lựa chọn
uỷ thác vốn đầu tư và uỷ thác đầu tư vào một Quỹ đầu tư chứng khoán cụ thể để vốn
đầu tư của NĐT cùng với các NĐT khác được quản lý và phân bổ chuyên nghiệp bởi
để các chuyên gia quản lý quỹ.
Văn hoá và thói quen đầu tư của người Việt Nam là tự đầu tư thay vì uỷ thác qua
các quỹ đầu tư được quản lý chuyên nghiệp bởi các chuyên gia tài chính. Đồng thời,
hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán trong những năm mặc dù đã có sự
cải thiện đáng kể cả về quy mô, hiệu quả sinh lời, quản lý chi phí hoạt động và quản
trị rủi ro nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu …..
Chiến lược tài chính đến năm 2030 ban hành theo Quyết định số 368/QĐ-TTg
ngày 21/3/2022 của Thủ tướng Chính phủ đặt ra Tập trung phát triển nhà đầu tư có tổ
chức, nhà đầu tư chuyên nghiệp và thu hút sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài,
hướng tới cơ cấu hợp lý giữa nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức, giữa nhà
đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài, thúc đẩy TTCK phát triển theo hướng bền
vững. Để phát triển hơn nữa ngành quản lý quỹ và mô hình QĐT tại Việt Nam, thì việc
nâng cao hiệu quả hoạt động của các QĐT sẽ đóng góp một phần quan trọng.
Nghiên cứu về hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán giúp cung cấp
thông tin, đưa ra đánh giá, giải pháp, khuyến nghị cho nhà đầu tư, các quỹ đầu tư chứng
khoán và các công ty quản lý quỹ những quỹ nào hoạt động có hiệu quả, hiệu quả đến
đâu so với một mức so sánh chung, từ đó đánh giá nguyên nhân và đưa ra các giải pháp
nhằm cải thiện những mặt chưa được, phát huy mặt được qua đó nâng cao hiệu quả
hoạt động của quỹ đồng thời giúp nhà đầu tư lựa được chọn được quỹ để đầu tư cũng
như giúp phát triển ngành quản lý quỹ ở Việt Nam.
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả đã lựa chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả
hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán tại Việt Nam” làm đề tài cho luận án
tiến sĩ.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
2.1 Tình hình nghiên cứu nước ngoài
Các nghiên cứu về Quỹ đầu tư chứng khoán được thực hiện dưới nhiều góc độ
khác nhau trong đó đánh giá hiệu quả đầu tư được chú trọng hơn cả. Các nhà nghiên

2
cứu phân tích định tính và định lượng để làm rõ các yếu tố ảnh hưởng đến mức sinh
lời vượt trội của các QĐTCK. Thuật ngữ "lợi nhuận bất thường" trong một hoàn cảnh
cụ thể đề cập đến việc đạt được kết quả bất thường, là tốt hơn so với mức lợi nhuận
được xác định trên điểm chuẩn, ví dụ chỉ số chứng khoán.
Có nhiều nghiên cứu đã được thực hiện trong đó nghiên cứu của Jensen (1968),
Sharpe (1966), Kim (1978) đã đưa ra cách xây dựng, đánh giá hiệu quả của các quỹ
đầu tư tương hỗ. Cả hai tác giả cho rằng các QĐT là không thể đạt được lợi nhuận bất
thường. Trái lại, nghiên cứu của Kon và Jen (1979) đã chứng minh sự tồn tại của hiệu
quả lợi nhuận bất thường từ hiệu quả hoạt động của QĐT. Tương tự, Grinblatt và
Titman năm (1989) đã chỉ ra rằng các quỹ có thể đạt được lợi nhuận điều chỉnh rủi ro
đạt mức tốt hơn so với tỷ suất sinh lời tham chiếu. Thêm vào đó, nghiên cứu của Arnaud
(1985) đã xem xét tỷ suất sinh lời của quỹ đầu tư chỉ số và tỷ suất sinh lời chỉ số thị
trường chứng khoán, kết quả nghiên cứu cho thấy hiệu quả đầu tư của quỹ đầu tư chỉ
số cao hơn so với danh mục đầu tư tham chiếu là chỉ số chứng khoán.
Như vậy, các nghiên cứu ở trên, thông qua so sánh hiệu quả hoạt động của các
QĐT với tỷ suất sinh lời danh mục đầu tư tham chiếu hoặc danh mục đầu tư chuẩn cho
thấy các nhà quản lý quỹ có thể tạo ra hiệu quả tốt hơn cho danh mục đầu tư được quản
lý so với thị trường hoặc so với danh mục chuẩn tham chiếu, chỉ số chuẩn tham chiếu.
Ngoài việc so sánh với danh mục chuẩn và chỉ số chuẩn tham chiếu, Haslem
(1988) đã đánh giá hiệu quả của quỹ bằng cách so sánh tác động của các rủi ro hệ thống
của quỹ. “Beta” là thước đo rủi ro hệ thống, đo lường biến động tỷ suất sinh lời của
danh mục đầu tư thực tế với danh mục đầu tư chỉ số chứng khoán.
Trong khi đó, Elton, Gruber và Blake (1996) nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động của quỹ đầu tư. Kết quả cho thấy thời gian hoạt động của quỹ
và hiệu quả đầu tư trong quá khứ là những nhân tố có mức ảnh hưởng đáng kể. Malkiel
(1995), đã thống kê tất cả các quỹ đang hoạt động và không còn hoạt động tại Mỹ, qua
thống kê phân tích cũng cho thấy thời gian hoạt động của quỹ và hiệu quả đầu tư trong
quá khứ có tác động đến hiệu quả hoạt động của quỹ đầu tư. Ông đặc biệt chú ý đến
các QĐT vào cổ phiếu và tìm thấy một bằng chứng về hiệu quả tốt hơn của các quỹ
tương hỗ. Hơn nữa, Malkiel bác bỏ giả thuyết về sự tồn tại các nhà quản lý có thể liên
tục đạt được kết quả tốt hơn ở một mức độ rủi ro cụ thể.
Chan, Karceski và Lakonishok (2000) cung cấp bằng chứng về hiệu quả hoạt động
của các loại tài sản vốn chủ sở hữu có tác động tới quy mô của quỹ. Kosowski và cộng
sự (2006) nghiên cứu về các quỹ hoạt động kém của Hoa Kỳ cho thấy rằng hầu hết các
hoạt động kém hiệu quả trong giai đoạn nghiên cứu chủ yếu là do kỹ năng kém của các
nhà quản lý quỹ.
Các nghiên cứu về hiệu quả của quỹ tương hỗ sử dụng các phương pháp thống kê
thông thường ít bằng chứng cho thấy hiệu quả tốt hơn trong thời gian dài của các quỹ
như các nghiên cứu của Quigley và Sinquefield (2000), Fletcher và Forbes (2002),
Cuthbertson và cộng sự (2008).
Nghiên cứu về hiệu quả của các quỹ ở thị trường mới nổi như Trung Quốc của
Chen và Chen (2017) nhận thấy rằng tác động đến hiệu quả hoạt động của quỹ phần
lớn do khả năng của các nhà quản lý quỹ trong lựa chọn cổ phiếu và xây dựng danh

3
mục đầu tư. Quỹ có hiệu quả hoạt động tốt thường là quỹ có nhà quản lý giỏi, kỹ năng
chuyên môn cao, nhiều kinh nghiệm và ngược lại quỹ có hiệu quả hoạt động kém chủ
yếu nhà quản lý quỹ có kỹ năng chưa tốt.
Gao và cộng sự (2020) đã đánh giá hiệu quả của quỹ dựa trên đánh giá khả năng
sinh lời có điều chỉnh theo rủi ro trong ba loại và phát hiện ra rằng các QĐT mở không
kiếm được lợi nhuận tốt hơn so với trung bình trong khi khả năng lựa chọn cổ phiếu
lại do số ít các nhà quản lý (khoảng 2% cao nhất) của quỹ trong giai đoạn 2003-2020.
2.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam trong những năm vừa qua có không ít đề tài nghiên cứu về thị trường
chứng khoán nói chung và về quỹ đầu tư chứng khoán nói riêng. Các đề tài đã được
các tác giả nghiên cứu với nhiều cách tiếp cận khác nhau.
Nguyễn Văn Nông (2010) trong nghiên cứu về “Hoàn thiện và phát triển thị
trường chứng khoán Việt Nam” có đề cập đến các yếu tố tác động đến thị trường chứng
khoán và đề ra định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam.
Tại nghiên cứu “Phát triển các quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam hiện nay” của
Nguyễn Thu Thủy (2011), tác giả đã đánh giá, phân tích thực trạng các yếu tố ảnh
hưởng đến việc phát triển quỹ đầu tư chứng khoán ở Việt Nam giai đoạn từ năm 2004
đến năm 2010.
Dương Hùng Sơn (2012) nghiên cứu các giải pháp hình thành và phát triển quỹ
đầu tư chỉ số tại Việt Nam dựa trên nghiên cứu mẫu 31 quy mô vốn của các quỹ đầu
tư chỉ số của 31 quốc gia và 24 quỹ đóng đang hoạt động tại Việt Nam năm 2012.
Phạm Tiến Mạnh (2019) trong nghiên cứu “Xây dựng và phát triển quỹ đầu tư
mạo hiểm ở Việt Nam” đã hệ thống hoá cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng qua xây
dựng các giải pháp, các đề xuất khuyến nghị cho việc hình thành, hỗ trợ sự phát triển
của các quỹ đầu tư mạo hiểm Việt Nam trong tương lai.
3. Khoảng trống nghiên cứu
Các nghiên cứu trong nước và quốc tế đã cho thấy mối quan tâm sâu sắc của các
nhà nghiên cứu đến phân tích tăng trưởng, phân tích rủi ro và đánh giá hiệu quả của
các quỹ. Trong đó nghiên cứu về hiệu quả hoạt động là quan trọng nhất vì hiệu quả
hoạt động của các quỹ cho biết những yếu tố có đóng góp đáng kể vào hiệu quả của
QĐT và các rủi ro liên quan. Một số nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra được một số yếu tố
ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của các quỹ đầu tư chứng khoán, giúp QĐT tạo ra
được sự khác biệt trong hiệu quả hoạt động, cụ thể là khả năng sinh lợi lớn hơn so với
mức trung bình của thị trường hoặc danh mục chuẩn so sánh là do: Quy mô vốn của
quỹ, hiệu quả hoạt động trong quá khứ của QĐT. Bên cạnh đó các nghiên cứu cũng chỉ
ra vai trò và ảnh hưởng về trình độ và năng lực của nhà quản lý quỹ đến hiệu quả hoạt
động của quỹ.
Trong khi đó, tại Việt Nam, mặc dù chủ đề nghiên cứu về các QĐT nhìn chung
đã thu hút được sự quan tâm nhất định của các nhà nghiên cứu tại Việt Nam, song quy
mô nghiên cứu về chủ đề QĐT và hiệu quả hoạt động của QĐT còn tương đối hạn chế.
Phần lớn trong số ít các nghiên cứu về QĐT tại Việt Nam mới chỉ dừng lại đánh giá,
phân tích thực trạng hoạt động của một số loại hình QĐT nhất định, mà chưa có sự