64
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 264- Năm thứ 26 (5)- Tháng 5. 2024
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Nghiên cứu ảnh hưởng của ESG đến hành vi tránh thuế
của doanh nghiệp
Nguyễn Vân Hà
Trường Đại học Ngoại Thương, Việt Nam
Ngày nhận: 11/04/2024 Ngày nhận bản sửa: 13/05/2024 Ngày duyệt đăng: 15/05/2024
Tóm tắt: Bài viết phân tích ảnh hưởng của hoạt động môi trường, xã hội và quản
trị (ESG) đến hành vi tránh thuế của các doanh nghiệp phi tài chính niêm yết tại
04 thị trường mới nổi gồm Braxin, Nga, Trung Quốc Ấn Độ (các quốc gia thuộc
khối BRIC) trong giai đoạn 2010-2020. Sử dụng phương pháp phân tích định
lượng cho dữ liệu bảng gồm 2.372 quan sát, kết quả phân tích thực nghiệm chỉ
ra rằng các doanh nghiệp thực hiện tốt các hoạt động môi trường (E) và xã hội
(S) ít thực hiện hành vi tránh thuế. Trong khi đó tác động của hoạt động quản trị
(G) không có ý nghĩa thống kê. Các kết quả nghiên cứu đảm bảo tính vững khi
kiểm soát vấn đề nội sinh thông qua sử dụng kỹ thuật hồi quy sysGMM. Bằng
chứng thực nghiệm về mối quan hệ ngược chiều giữa việc thực hiện trách nhiệm
môi trường và xã hội với mức độ tránh thuế có ý nghĩa quan trọng cho các nhà
hoạch định chính sách trong việc ban hành các chính sách thúc đẩy các sáng
kiến về môi trường và xã hội để hạn chế hành vi tránh thuế của doanh nghiệp.
Investigating the impacts of ESG on corporate tax avoidance behaviors
Abstract: This article examines the impact of environmental, social and governance (ESG) activities on tax
avoidance behavior of non-financial enterprises listed in four emerging markets including Brazil, Russia, China
and India (BRIC countries) over the 2010-2020 period. Using a quantitative method for panel data including
2,372 observations, empirical results show that businesses that perform well on environmental (E) and social (S)
activities are less likely to engage in tax avoidance. Meanwhile, the impact of corporate governance (G) is not
statistically significant. The research results ensure robustness when controlling the endogeneity issue using the
sysGMM regression technique. The empirical evidence on the negative relationship between the implementation
of environmental and social responsibility and tax avoidance has important implications for policymakers
in promulgating policies to promote environmentally and socially responsible initiatives in order to mitigate
corporate tax avoidance.
Keywords: ESG, Environmental responsibility, Social responsibility, Corporate governance, Tax avoidance
Doi: 10.59276/JELB.2024.05.2715
Nguyen, Van Ha
Email: ha.nguyen@ftu.edu.vn
Foreign Trade University, Vietnam
NGUYỄN VÂN HÀ
65
Số 264- Năm thứ 26 (5)- Tháng 5. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Từ khóa: ESG, Trách nhiệm môi trường, Trách nhiệm hội, Quản trị doanh
nghiệp, Hành vi tránh thuế
1. Giới thiệu
Với cách các thực thể kinh tế, doanh
nghiệp đóng vai trò then chốt trong việc
thực hiện mục tiêu giảm phát thải carbon
các mục tiêu hội, bên cạnh mục tiêu phát
triển kinh tế. Các hoạt động môi trường, xã
hội quản trị (ESG) được coi một tiêu
chí quan trọng để đánh giá mức độ phát
triển bền vững của doanh nghiệp (Gillan
cộng sự, 2021). vậy, trong thời gian
qua, các vấn đề về ESG nhận được sự quan
tâm lớn từ các nhà nghiên cứu, các nhà
đầu tư, cũng như cộng đồng doanh nghiệp.
Ngày càng nhiều doanh nghiệp tích hợp
ESG vào trong chiến lược kinh doanh của
doanh nghiệp thực hiện công bố thông
tin ESG cho các bên liên quan. Nếu như
thời điểm năm 2011 chưa đến 20% số
doanh nghiệp S&P 500 báo cáo thông tin
ESG thì đến năm 2022 tỷ lệ doanh nghiệp
S&P 500 thực hiện báo cáo thông tin ESG
đã lên tới 98% (G&A, 2023).
Nhiều nghiên cứu đã đánh giá tác động
của ESG đến kết quả tài chính của doanh
nghiệp cũng như các chính sách đầu tư,
huy động vốn kinh doanh của doanh
nghiệp. Mặc cần sự đầu đáng kể
của doanh nghiệp cho các sáng kiến ESG,
nhưng các nghiên cứu thực nghiệm nhìn
chung đều chỉ ra rằng việc đầu này
thỏa đáng những doanh nghiệp đầu
cho hoạt động ESG có thể thu được những
lợi ích đáng kể như nâng cao giá trị doanh
nghiệp (Cheng và cộng sự, 2024), giảm chi
phí vốn (Eliwa và cộng sự, 2021), giảm rủi
ro (Li cộng sự, 2022), nâng cao hiệu quả
đầu tư (Bilyay-Erdogan và cộng sự, 2024),
giảm nhẹ tác động bất lợi của các nhân tố
khác đến uy tín doanh nghiệp (Zhang
cộng sự, 2021). Tác động của ESG đến
hành vi thuế của doanh nghiệp mới được
nghiên cứu trong những năm gần đây
kết quả vẫn chưa thống nhất (Krieg Li,
2021). Cụ thể, các nghiên cứu của Lanis
Richardson (2015), Jiang cộng sự
(2024) cho thấy mối quan hệ ngược chiều
giữa ESG mức độ tránh thuế của các
doanh nghiệp tại các thị trường Mỹ
Trung Quốc. Tuy nhiên, các nghiên cứu
khác của Davis cộng sự (2016), Mao
(2019) cũng tại hai thị trường này lại chỉ ra
mối quan hệ thuận chiều, trong khi nghiên
cứu của Mayberry Watson (2021) lại
cho rằng mối quan hệ giữa ESG và hành vi
tránh thuế là không đáng kể.
Vì vậy, bài viết này tập trung phân tích vai
trò của ESG đối với hành vi tránh thuế của
doanh nghiệp thông qua các kỹ thuật hồi
quy đa biến nhằm làm sáng tỏ hơn mối quan
hệ vẫn chưa ràng giữa ESG hành vi
tránh thuế. Theo Hanlon Heitzam (2010),
hành vi tránh thuế của doanh nghiệp được
hiểu các nỗ lực của doanh nghiệp nhằm
giảm các nghĩa vụ thuế phải nộp. thuế
doanh nghiệp một nguồn thu quan trọng
của chính phủ, do vậy việc xác định các
nhân tố ảnh hưởng đến hành vi thuế của
doanh nghiệp ý nghĩa thiết thực trong
việc cải thiện thu ngân sách để vốn thực
hiện các dự án đầu công.
Mẫu nghiên cứu trong bài các doanh
nghiệp niêm yết tại các quốc gia thuộc khối
BRIC. Đây bốn nền kinh tế mới nổi trong
số 20 nền kinh tế lớn nhất toàn cầu (Statista,
2023), đóng góp vào 30% GDP toàn cầu,
theo số liệu năm 2022 (World Bank, 2024).
Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu tăng
Nghiên cứu ảnh hưởng của ESG đến hành vi tránh thuế của doanh nghiệp
66 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 264- Năm thứ 26 (5)- Tháng 5. 2024
trưởng kinh tế ấn tượng thì các quốc gia
BRIC cũng phải đối mặt với những thách
thức trong việc thực hiện các mục tiêu phát
triển bền vững khi chiếm đến 45% tổng
lượng phát thải các-bon toàn cầu, theo số
liệu năm 2020 (World Bank, 2023). Ngoài
ra, các vấn đề hội như bất bình đẳng thu
nhập, nghèo đói cũng những vấn đề nổi
cộm tại các quốc gia này (Bhatia Makkar,
2020). Các doanh nghiệp được cho là có vai
trò quan trọng góp phần giải quyết các vấn
đề môi trường hội nêu trên, thông
qua việc tích hợp ESG vào chiến lược kinh
doanh của doanh nghiệp. Việc thực hiện
nghiên cứu tại nhóm quốc gia BRIC giúp
gợi mở những hàm ý quan trọng cho các
quốc gia mới nổi khác, như Việt Nam, trong
việc thúc đẩy ESG để đạt được các mục tiêu
kinh tế, xã hội và môi trường.
Kết quả của bài viết những đóng góp
quan trọng cả về học thuật thực tiễn.
Về mặt học thuật, bài viết làm sáng tỏ hơn
mối quan hệ chưa thực sự nhất quán giữa
ESG và hành vi thuế của doanh nghiệp, có
tính đến sự khác biệt về thuế suất theo luật
định giữa các quốc gia. Thông qua phân
tích thực nghiệm, bài viết chỉ ra rằng trách
nhiệm môi trường và trách nhiệm xã hội là
các nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hành
vi thuế của doanh nghiệp. Về mặt thực tiễn,
kết quả nghiên cứu cung cấp thông tin hữu
ích cho các nhà hoạch định chính sách để
ngăn chặn hành vi tránh thuế của các doanh
nghiệp, đặc biệt các nền kinh tế mới
nổi. Các chính phủ thể phối hợp cùng
các doanh nghiệp nhằm các chương
trình, chính sách phù hợp để thúc đẩy việc
thực hiện trách nhiệm môi trường và trách
nhiệm xã hội của doanh nghiệp.
Bên cạnh phần giới thiệu, các nội dung còn
lại của bài viết được cấu trúc như sau. Phần
hai trình bày tổng quan nghiên cứu các
giả thuyết. Thiết kế nghiên cứu được mô tả
trong phần ba. Phần bốn báo cáo kết quả
phân tích. Kết luận bài viết được trình bày
ở phần năm.
2. Tổng quan nghiên cứu các giả
thuyết
Một số nghiên cứu gần đây đã kiểm chứng
ảnh hưởng của việc thực hiện trách nhiệm
ESG đến hành vi tránh thuế của doanh
nghiệp. Tại thị trường Mỹ, Huseyno
Klamm (2012) đánh giá ảnh hưởng của
trách nhiệm hội đến hành vi tránh thuế
của các doanh nghiệp S&P500 cho thấy
các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm
hội mức thuế suất hiệu dụng thấp
hơn, tức mức độ tránh thuế cao hơn.
Sử dụng mẫu nghiên cứu gồm 434 quan
sát, Lanis Richardson (2015) chỉ ra rằng
những công ty thực hiện tốt trách nhiệm xã
hội ít có hành vi tránh thuế. Davis và cộng
sự (2016) phân tích mối quan hệ giữa việc
thực hiện trách nhiệm hội hành vi
tránh thuế với mẫu nghiên cứu gồm 5.588
quan sát lại tìm thấy bằng chứng về việc
các doanh nghiệp thực hiện tốt trách nhiệm
hội mức độ tránh thuế nhiều hơn.
Tập trung vào việc phân tích tác động của
quản trị doanh nghiệp đến hành vi tránh
thuế, nghiên cứu của Armstrong cộng
sự (2015) cho thấy tác động này thay đổi
tùy thuộc vào mức độ tránh thuế của doanh
nghiệp là thấp hay cao. Một phân tích thực
nghiệm khác vẫn tại thị trường Mỹ của
Mayberry và Watson (2021) cho rằng việc
thực hiện trách nhiệm hội không tác
động đến hành vi thuế của doanh nghiệp.
Tại thị trường Trung Quốc, Jiang cộng
sự (2024) phân tích ảnh hưởng của ESG đối
với các công ty niêm yết và cũng ghi nhận
vai trò của ESG trong việc kìm hãm hành
vi tránh thuế của doanh nghiệp. Ngược lại,
Mao (2019) lại cho thấy các doanh nghiệp
thực hiện trách nhiệm hội tốt hơn cũng
những doanh nghiệp hành vi tránh
NGUYỄN VÂN HÀ
67
Số 264- Năm thứ 26 (5)- Tháng 5. 2024- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
thuế nhiều hơn. Tại Pháp, nghiên cứu của
Chouaibi và cộng sự (2022) với 119 doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công
nghiệp chỉ ra rằng các doanh nghiệp không
thực hiện trách nhiệm hội mức độ
tránh thuế cao hơn so với các doanh nghiệp
có thực hiện trách nhiệm xã hội.
thể thấy các nghiên cứu đi trước về tác
động của ESG tới hành vi thuế của doanh
nghiệp chủ yếu tập trung vào một số quốc
gia riêng lẻ như Mỹ, Trung Quốc hay
Pháp, đồng thời các kết quả thực nghiệm
chưa thực sự nhất quán giữa các nghiên
cứu. Một nghiên cứu mới đây của Du
Li (2023) đã mở rộng mẫu nghiên cứu cho
một nhóm nước gồm Braxin, Nga, Trung
Quốc, Ấn Độ Nam Phi chỉ ra mối
quan hệ ngược chiều giữa việc thực hiện
trách nhiệm hội hành vi tránh thuế
của các doanh nghiệp niêm yết tại các thị
trường này. Tuy nhiên, nghiên cứu của Du
và Li (2023) lại không đi sâu phân tích ảnh
hưởng của từng khía cạnh trong các hoạt
động trách nhiệm hội của doanh nghiệp,
do vậy không thể đánh giá được liệu mối
quan hệ quan sát được chịu sự chi phối
chủ đạo của một khía cạnh cụ thể nào của
trách nhiệm xã hội hay không.
vậy bài viết này góp phần mở rộng
nghiên cứu của Du và Li (2023) bằng cách
tập trung phân tích tác động của ba khía
cạnh cụ thể của ESG về trách nhiệm môi
trường, trách nhiệm hội quản trị
doanh nghiệp đến hành vi tránh thuế của
nhóm nước BRIC.
Dựa trên thuyết về văn hóa doanh nghiệp
(Kreps 1990), ESG được coi như một nét
văn hóa chung trong mỗi doanh nghiệp.
Theo đó, ESG là niềm tin về tính đúng đắn
của việc cân nhắc các tác động về kinh tế,
môi trường và xã hội của các hoạt động sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hành
vi tránh thuế của doanh nghiệp được coi
không phù hợp với ESG gây thất thoát
về mặt tài chính cho hội (Weisbach,
2002). Theo quan điểm này, các doanh
nghiệp thực hiện tốt ESG được kỳ vọng có
mức độ tránh thuế ít hơn. vậy, bài viết
đưa ra 03 giả thuyết sau tương ứng với ba
khía cạnh cụ thể của ESG:
H1a: Các doanh nghiệp thực hiện tốt
trách nhiệm môi trường ít hành vi
tránh thuế.
H2a: Các doanh nghiệp thực hiện tốt
trách nhiệm hội ít hành vi tránh
thuế.
H3a: Các doanh nghiệp thực hiện tốt hoạt
động quản trị ít có hành vi tránh thuế.
Mặt khác, theo quan điểm quản trị rủi ro
thông qua việc thực hiện ESG, thể coi
trách nhiệm môi trường, trách nhiệm
hội quản trị doanh nghiệp như chiến
lược quản trị rủi ro một doanh nghiệp
thực hiện để nâng cao danh tiếng về ESG
của mình, từ đó bảo vệ doanh nghiệp khỏi
các rủi ro do các sự cố tiêu cực doanh
nghiệp gây ra (Godfrey, 2005). Các hành vi
tránh thuế nếu bị phát hiện thể dẫn đến
hậu quả nghiêm trọng như mất danh tiếng
của doanh nghiệp, gia tăng áp lực chính trị,
áp lực truyền thông thậm chí cả sự tẩy
chay của người tiêu dùng (Wilson, 2009).
Điều này do số tiền nộp thuế thể hiện
sự đóng góp cho phúc lợi hội nên nếu
doanh nghiệp thực hiện hành vi tránh thuế
có thể bị coi là đi ngược lại với chuẩn mực
của hội (Weisbach, 2002). vậy, các
doanh nghiệp thể tăng cường các hoạt
động trách nhiệm ESG doanh nghiệp để
phòng vệ rủi ro liên quan đến các hành vi
tránh thuế như uy tín giảm sút, bị người
tiêu dùng và các bên có liên quan tẩy chay.
Nếu việc tham gia vào các hoạt động ESG
chủ yếu là chiến lược quản trị rủi ro thì
thể dự đoán rằng tồn tại mối quan hệ thuận
chiều giữa ESG hành vi tránh thuế của
doanh nghiệp. Do vậy, ba giả thuyết đối
ứng được đưa ra như sau:
Nghiên cứu ảnh hưởng của ESG đến hành vi tránh thuế của doanh nghiệp
68 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 264- Năm thứ 26 (5)- Tháng 5. 2024
H1b: Các doanh nghiệp thực hiện tốt
trách nhiệm môi trường có hành vi tránh
thuế nhiều hơn.
H2b: Các doanh nghiệp thực hiện tốt
trách nhiệm hội hành vi tránh thuế
nhiều hơn.
H3b: Các doanh nghiệp thực hiện tốt hoạt
động quản trị có hành vi tránh thuế nhiều
hơn.
Ngoài ra, nhiều quyết định quan trọng
của doanh nghiệp được đưa ra đồng thời,
bao gồm cả những quyết định liên quan đến
ESG và mức độ tránh thuế, nên khó có thể
để đưa ra bất kỳ giải thích nhân quả nào.
Do nhiều cách giải thích về mối quan
hệ giữa ESG và hành vi tránh thuế dựa vào
các luận điểm nêu trên nên bài viết này
thực hiện phân tích thực nghiệm để kiểm
chứng mối quan hệ này một số quốc gia
thuộc khối BRIC.
3. Thiết kế nghiên cứu
3.1. Mẫu nghiên cứu và dữ liệu
Để kiểm chứng các giả thuyết nghiên cứu
đặt ra, bài viết sử dụng mẫu nghiên cứu
gồm các doanh nghiệp niêm yết phi tài
chính đóng trụ sở chính tại các quốc gia
Braxin, Nga, Trung Quốc Ấn Độ. Dữ
liệu nghiên cứu được thu thập từ ba
sở dữ liệu. Cụ thể, bài viết sử dụng dữ
liệu về trách nhiệm ESG doanh nghiệp
từ Thomson Reuters Refinitiv, dữ liệu tài
chính doanh nghiệp từ Worldscope dữ
liệu kinh tế mô từ sở dữ liệu WDI của
Ngân hàng Thế giới. Đây các sở dữ
liệu uy tín, được sử dụng trong các nghiên
cứu trước đây về ESG và hành vi thuế của
doanh nghiệp (ví dụ: Kerr, 2019; Du
Li, 2023). Sau khi tổng hợp dữ liệu từ các
nguồn nói trên, mẫu nghiên cứu khả dụng
cuối cùng gồm có 2.372 quan sát trong giai
đoạn từ 2010 đến 2020.
Đo lường các biến số hình nghiên cứu
Biến phụ thuộc
Trong nghiên cứu này, hành vi tránh thuế
của doanh nghiệp biến phụ thuộc, được
đo lường thông qua tỷ suất thuế hiệu dụng
điều chỉnh (adjusted effective tax rate-
ETRadj) cho mẫu nghiên cứu gồm các
doanh nghiệp tại nhiều quốc gia khác nhau.
Tương tự như nghiên cứu của Ramesh
Athira (2024), tác giả tính toán số thuế dự
kiến phải nộp mỗi năm của công ty bằng
lợi nhuận trước thuế (EBT) nhân với thuế
suất theo luật định (STR) cụ thể của quốc
gia. Sau đó, tác giả khấu trừ các khoản thuế
thực tế (Taxpaid) doanh nghiệp phải
nộp từ khoản thuế dự kiến thanh toán
phần chênh lệch được tính theo lợi nhuận
trước thuế để tính toán ra ETRadj. Giá trị
của phân số ETRadj càng cao thì mức độ
tránh thuế càng nhiều ngược lại. Công
thức tính ETRadj như sau:
ETRadji,j,t = (EBTi,j,t × STRj,t Taxpaidi,j,t)
(EBTi,j,t)-1
Biến độc lập
Ba biến độc lập chính được sử dụng trong
bài gồm trách nhiệm môi trường (E), trách
nhiệm hội (S) và quản trị doanh nghiệp
(G). Trách nhiệm môi trường phản ánh mức
độ doanh nghiệp sử dụng các biện pháp
quản tiên tiến nhất để giảm thiểu tác
động xấu đến môi trường khi thực hiện các
hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày.
Trách nhiệm xã hội phản ánh danh tiếng
sự chấp nhận của xã hội đối với hoạt động
của doanh nghiệp. Quản trị doanh nghiệp
đánh giá hệ thống và quy trình của công ty
để đảm bảo rằng các thành viên hội đồng
quản trị giám đốc điều hành hành động
lợi ích của các cổ đông. Điểm số cho mỗi
biến độc lập E, S, G nằm trong khoảng từ 0
đến 100 (Pinheiro và cộng sự, 2024). Điểm
số càng cao với hạng mục nào thì doanh
nghiệp càng thực hiện tốt trách nhiệm
hạng mục đó.