HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

KHOA KHOA HỌC LIÊN NGÀNH

BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

NGHIÊN CỨU VỀ CHẾ ĐỊNH CỦA QUỐC HỘI

TRONG HIẾN PHÁP 2013

Mã số: ĐTSV.2023.10

: Lê Hoàng Hiệp : 2105XDDA

Chủ nhiệm đề tài Lớp Cán bộ hướng dẫn : TS. Tô Trọng Mạnh

Hà Nội, 2023

HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA

KHOA KHOA HỌC LIÊN NGÀNH

BÁO CÁO TỔNG HỢP

ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN

NGHIÊN CỨU VỀ CHẾ ĐỊNH CỦA QUỐC HỘI

TRONG HIẾN PHÁP 2013

Mã số: ĐTSV.2023.10

: Lê Hoàng Hiệp

Chủ nhiệm đề tài Thành viên tham gia : Nguyễn Hồng Minh Lớp Trịnh Hải Đăng : 2105XDDA

Hà Nội, 2023

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, thay mặt nhóm nghiên cứu xin phép gửi lời cảm ơn tới Học

viện Hành Chính Quốc Gia, khoa Khoa học liên ngành, phòng Công tác sinh

viên, cùng các giảng viên đã tận tình chỉ dạy và tạo điều kiện giúp đỡ nhóm

nghiên cứu trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành đề tài nghiên cứu

và hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này. Đặc biệt, xin gửi lời cảm ơn sâu

sắc đến thầy Tô Trọng Mạnh đã luôn tận tình đồng hành hướng dẫn, chỉ bảo,

giúp đỡ và động viên nhóm trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài

nghiên cứu này. Cảm ơn các qúy anh/chị, người dân địa phương đã tạo điều kiện

hỗ trơ nhóm trong quá trình nghiên cứu khoa học.

Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện bài nghiên cứu nhưng đề tài không tránh

khỏi những thiếu sót; nhóm nghiên cứu rất mong nhận được sự thông cảm, chỉ

dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, thầy cô quản lý cùng quý

độc giả trong và ngoài nước.

Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2023

TM. Nhóm nghiên cứu

Chủ nhiệm đề tài

Lê Hoàng Hiệp

LỜI CAM ĐOAN

Với tinh thần trách nhệm trong suốt quá trình nghiên cứu. Chúng em xin

cam đoan trước đây là công trình nghiên cứu của nhóm. Các số liệu và tham

khảo đưa ra trong bài nghiên cứu là trung thực, chính xác và được trích dẫn đầy

đủ tài liệu. Chúng em xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này!

Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2023

TM. Nhóm nghiên cứu

Chủ nhiệm đề tài

Lê Hoàng Hiệp

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN

LỜI CAM ĐOAN

PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1

1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1

2.Tổng quan tình hình nghiên cứu: ................................................................. 2

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 3

4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 4

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 4

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH CỦA QUỐC HỘI

TRONG HIẾN PHÁP 2013 ................................................................................ 5

1.1. Một số khái niệm cơ bản. ......................................................................... 5

1.1.1 Khái niệm về chế định: ........................................................................... 5

1.1.2 Khái niệm về Quốc Hội .......................................................................... 7

1.1.3 Khái niệm về chế định của Quốc Hội trong Hiến pháp ......................... 8

1.3 Đặc điểm của chế định Quốc Hội trong Hiến pháp 2013 ......................... 9

1.4.Vai trò của chế định Quốc hội trong hiến pháp 2013 ............................. 17

1.5 Ý nghĩa của việc nghiên cứu chế định trong Quốc Hội trong Hiến Pháp

2013 ............................................................................................................... 21

CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CHẾ ĐỊNH QUỐC HỘI TRONG HIẾN PHÁP

2013 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC THI. ........ 24

2.1 Nội dung về chế định Quốc Hội trong Hiến pháp 2013 .......................... 24

2.1.1 Vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước ......................................... 24

2.1.2 Tính chất của Quốc hội ........................................................................ 24

2.1.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội ..................................................... 25

2.1.4 Hình thức và kỹ thuật lập hiến ............................................................. 25

2.1.5 Vị trí, tính chất của Quốc hội trong bộ máy nhà nước (Điều 69) ........ 26

2.1.6 Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội (Điều 70) ..................................... 27

2.1.7 Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 74) ...... 31

2.1.8 Một nhiệm vụ-quyền hạn hoàn toàn mới ............................................. 32

2.1.9 Một nhiệm vụ, quyền hạn có thể nói là “mới nay, cũ xưa”, ................ 32

2.1.10 Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội .................................. 32

2.1.11 Đại biểu Quốc hội (các Điều 79, 80, 81 và 82) ................................. 33

2.1.12 Kỹ thuật lập hiến ................................................................................ 34

2.2. So sánh nội dung chế đinh về Quốc Hội của Hiến pháp 2013 so với các

bản Hiến pháp 1946 ....................................................................................... 34

2.3. Lịch sử phát triển của Hiến pháp Việt Nam ........................................... 39

2.3.1. Hiến pháp 1946 .................................................................................... 39

2.3.2. Hiến pháp năm 1959 ............................................................................ 40

2.3.3. Hiến pháp năm 1980 ............................................................................ 41

2.3.4. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001 ............................... 42

2.4. Sự cần thiết ban hành ............................................................................. 43

2.4.1. Sự cần thiết .......................................................................................... 44

2.4.2. Yêu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1992 ................................................. 44

2.4.3. Quan điểm chủ đạo trong ban hành Hiến pháp năm 2003 .................. 45

2.4.4. Phạm vi những nội dung được sửa đổi trong Hiến pháp năm 2013 .... 46

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ

ĐỘ CHÍNH TRỊ ................................................................................................ 48

3.1. Về chủ quyền quốc gia ........................................................................... 48

3.2. Về bản chất của nhà nước....................................................................... 49

3.3. Về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân

và vì Nhân dân ............................................................................................... 51

3.4. Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ....................... 53

3.5. Về chính sách dân tộc và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ................. 54

3.6. Chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam . 55

3.7. Về vị trí, vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành

viên của Mặt trận trong hệ thống chính trị .................................................... 57

3.8. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành chế định của Quốc Hội

trong Hiến Pháp 2013 ở Việt Nam theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của

Đảng Cộng sản Việt Nam .............................................................................. 60

KẾT LUẬN ........................................................................................................ 75

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 78

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong tổ chức bộ máy nhà nước, Quốc hội là thiết chế có vị trí, vai trò đặc

biệt quan trọng trong việc đảm bảo thực thi quyền lực Nhân dân. Điều 6, Hiến

pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Nhân dân

thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện

thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà

nước”. Điều 69 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân,

cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt

Nam .”.

Sự hiến định này cho thấy ở Việt Nam, thuật ngữ “cơ quan đại biểu cao

nhất” được hiểu đồng nhất với khái niệm cơ quan đại diện cao nhất trong bộ

máy nhà nước. Đại diện trở thành một thuộc tính của Quốc hội xuyên suốt và chi

phối vị trí, vai trò, cơ chế hoạt động, cơ cấu đại biểu, hiệu lực đại diện và thể

hiện tập trung nhất qua việc thực hiện các chức năng: lập hiến, lập pháp; quyết

định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt

động của nhà nước. Nói một cách khác, tính đại diện cao nhất của Quốc hội Việt

Nam bắt nguồn từ bản chất nhà nước dân chủ nhân dân mà chúng ta đã lựa chọn

từ năm 1945. Điều đó được quy định bởi:

Một là, Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra dựa trên các

nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đây là những quy

định đảm bảo cho mỗi người dân tự do bầu cử, lựa chọn những nhà đại diện theo

ý chí của mình.

Hai là, các đại biểu Quốc hội không chỉ đại diện cho Nhân dân ở đơn vị

bầu cử ra mình mà còn đại diện cho Nhân dân cả nước. Bởi vậy, Quốc hội có

trách nhiệm cao cả là thay mặt Nhân dân thực hiện đúng và dầy đủ quyền lực

nhà nước, trở thành “dầu dây thần kinh” kết nối các lợi ích trong xã hội.

Ba là, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có những quyền năng đặc

biệt, song Quốc hội chịu sự giám sát, chịu trách nhiệm trước Nhân dân, có thể bị

bãi nhiệm bởi Nhân dân khi không thực hiện trọng trách chính trị đã được giao

1

phó.

Tuy nhiên hiện nay, việc nghiên cứu Quốc hội với tư cách là cơ quan đại

diện cao nhất của Nhân dân chưa được làm rõ cả về lý luận và thực tiễn. Ở

phương diện lý luận, khái niệm đại diện của Quốc hội chưa được luận giải thống

nhất là tính chất hay là một chức năng của Quốc hội. Nhiều vấn đề mang tính hệ

thống về đại diện của Quốc hội chưa được nghiên cứu như: nội dung đại diện,

hình thức thực thi đại diện, tỷ lệ đại diện (chuyên trách, kiêm nhiệm), tư cách

đại diện khi xử ỹ mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia, dân tộc với lợi ích nhóm cử

tri của đơn vị bầu cử…

Ở phương diện thực tiễn, hoạt động của Quốc hội chưa tương xứng với vị

trí và vai trò hiến định, Quốc hội chưa mạnh, chưa thực quyền trong quyết định

các vấn đề quan trọng của đất nước, trong giám sát tối cao hoạt động của nhà

nước

Trong điều kiện đẩy mạnh công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa; mở rộng và phát huy quyền làm chủ của Nhân

dẫn, dảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công,

phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền

lập pháp, hành pháp, tư pháp thì việc tiếp tục đối mới tổ chức và hoạt động của

Quốc hội, làm sáng tỏ cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn về vai trò dại diện,

các điều kiện đảm bảo để Quốc hội thực thi hoạt động đại diện Nhân dân cao

nhất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

2.Tổng quan tình hình nghiên cứu:

Tìm hiểu qua các phương tiện truyền thông, báo chí kết hợp với nghiên

cứu các tài liệu có liên quan đến vấn đề ùn tắc giao thông nhóm chúng tôi đã

phát hiện nhiều công trình, bài viết nghiên cứu, những thước phim trên các bài

báo, tạp chí, internet…Trong đó có thể kể tới những công trình tiêu biểu sau

đây:

-Năm 2013 Tác giả Bùi Ngọc Thanh đã đề cập trong bài viết “ Chế định

về Quốc Hội trong hiến pháp 2013” rằng với tính cách là cơ quan đại diện cao

nhất của nhân dân, thể hiện bản chất dân chủ của một nhà nước, Quốc hội luôn

2

chiếm một vị trí quan trọng trong các quy định pháp luật, mà trước hết là Hiến

pháp, về thể chế chính trị nói chung và bộ máy nhà nước nói riêng. Việc sửa đổi

Hiến pháp Việt Nam năm 1992 lần mới đây nhất (năm 2013) tất yếu kéo theo

những thay đổi đáng kể đối với chế định Quốc hội. Bằng những phân tích của

mình, tác giả bài viết cung cấp một cái nhìn khá sâu sắc và đầy đủ liên quan đến

những diểm mới của chế định Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013.

- Trông công trình nghiên cứu “QUỐC HỘI VIỆT NAM NHỮNG VẤN

ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” - TS. Lê Minh Thông nói rằng “ Chế độ nghị

viện lần đầu tiên được xác lập tại Việt Nam trong bản Hiến pháp đầu tiên- Hiến

pháp năm 1946. “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước

Việt Nam dân chủ cộng hoà”

Đặc điểm chung của các công trình trên là chưa chỉ ra được các điểm thay

đổi giữa bản hiến pháp 2013 và các bản hiến pháp trước đó.Chưa làm sáng tỏ

được hết nội dung bản chất và vai trò của chế định trong Quốc Hội”.

Qua đây nhóm nghiên cứu chúng tôi một lần nữa khẳng định đề tài nghiên

cứu của nhóm “Phân tích và làm sáng tỏ nội dung và bản chất và vai trò của

chế định Quốc Hội” .Từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm phát huy và thực hiện tốt

các nội dung cơ bản của chế định trong Quốc Hội.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục tiêu nghiên cứu:

Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm làm sáng tỏ các hình thức nội

dung cơ bản về chế định Quốc Hội trong Hiến pháp 2013 và các bản hiến pháp

trước đó. Từ đó có những kiến nghị để xuất nhằm thực hiện các nội dung cơ bản

của chế định Quốc Hội trong thực tiễn hiện nay.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:

+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về chế định Quốc Hội thông qua các bản hiến

pháp.

+ Phân tích và làm sáng tỏ nội dung và bản chất và vai trò của chế định

Quốc Hội.

+ Kiến nghị đề xuất nhằm phát huy và thực hiện nội dung cơ bản của chế

3

định trong Quốc Hội.

4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

+ Chế định của Quốc Hội trong hiến pháp 2013

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

+ Phạm vi về nội dung: Hiến pháp 2013

+ Phạm vi về không gian:

+ Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu chế định của về Quốc Hội từ năm

2013 đến nay

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong đề tài nghiên cứu khoa học nhóm tác giả coi phương pháp phân tích

và phương pháp so sánh là phương pháp chủ đạo, thông qua phương pháp này

nhóm tác giả có thể nhận biết được rằng những nghiên cứu đi trước đã làm được

những gì, và nghiên cứu của mình góp phần củng cố, bổ sung luận điểm nào,…

Đồng thời phương pháp nghiên cứu tài liệu còn giúp nhóm tác giả có được

những thông tin phục vụ cho việc chứng minh luận điểm trong quá trình nghiên

cứu và thực hiện đề tài.

4

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH CỦA QUỐC HỘI

TRONG HIẾN PHÁP 2013

1.1. Một số khái niệm cơ bản.

1.1.1 Khái niệm về chế định:

Chế định là tổng hợp nhóm quy phạm pháp luật có các đặc điểm giống

nhau nhằm thực hiện việc điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội tương ứng, có liên

quan mật thiết với nhau trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Cơ

cấu bên trong của pháp luật có những đặc điểm ở tính đa dạng của các chế định.

Trong đó có chế định pháp luật liên ngành, nghĩa là có quan hệ đến một vài

ngành luật. Các chế định pháp luật liên ngành được hình thành, cũng như hoạt

động không giống nhau. Hiến pháp là cơ sở pháp lý của tất cả những chế định

pháp luật. Việc xác định đúng tính chất chung của mỗi nhóm quan hệ xã hội từ

đó đề ra các quy phạm tương ứng có ý nghĩa quan trọng. Đây là cơ sở pháp lý để

tạo ra cơ cấp pháp lý của một ngành luật. Không thể xây dựng được một văn bản

pháp luật tốt cũng như một ngành luật hoàn chỉnh nếu không xác định rõ giới

hạn và nội dung của các chế định pháp luật. Nhiều chế định hợp lại sẽ cấu thành

ngành luật và các ngành luật hợp lại sẽ tạo thành một hệ thống pháp luật.

Chế định pháp luật mang tính chất nhóm và mỗi chế định có một đặc

điểm riêng nhưng chúng đều có mối liên hệ nội tại, thống nhất với nhau, chúng

không tồn tại một cách biệt lập. Việc xác định ranh giới giữa các chế định nhằm

mục đích tạo ra khả năng để xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật phù hợp với

thực tiễn đời sống xã hội. Và phải đặt ra các chế định trong mối liên hệ qua lại

trong một chỉnh thể thống nhất của pháp luật cũng như một ngành luật. Mỗi chế

định pháp luật dùng mang đặc điểm riêng những nó cũng cần tuân theo các quy

luật vật động khách quan, chịu sự ảnh hưởng, tác động của chế định khác trong

hệ thống pháp luật. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật là hình thức biểu

hiện mối liên hệ bên ngoài của pháp luật bằng các loại văn bản quy phạm pháp

luật có giá trị cao thấp khác nhau do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban

hành theo một trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, nhưng đều tồn tại trong

thể thống nhất. – Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật là các quy phạm

5

pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.

– Các văn bản quy phạm pháp luật có tên gọi khác nhau (luật, pháp lệnh,

nghị định,…) do Hiến pháp quy định. Giá trị pháp lý của chúng cao thấp khác

nhau do vị trí của cơ quan Nhà nước trong bộ máy nhà nước quy định.

– Các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trong không gian (hiệu lực

trong phạm vi lãnh thổ), hiệu lực theo thời gian (bắt đầu có hiệu lực hay hết hiệu

lực) và hiệu lực theo nhóm người (có hiệu lực đối với nhóm người này mà

không có hiệu lực đối với nhóm người khác.

Hiến pháp năm 2013, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm

2015 quy định hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật gồm các văn bản có giá

trị pháp lý như sau:

– Hiến pháp là đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống

các văn bản quy phạm pháp luật.

Các Đạo luật (Bộ luật) là các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội

ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp. Đạo luật và Bộ luật đều là những văn bản có

giá trị pháp lý cao, chỉ đứng sau Hiến pháp.

– Nghị quyết của Quốc hội thường được ban hành để giải quyết các vấn

đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng thường mang tính chất cụ

thể.

– Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội có giá trị pháp lý

thấp hơn các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành.

– Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước: theo Hiến pháp 2013, Chủ tịch

nước ban hành lệnh để công bố Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh; ban hành quyết định

để giải quyết các công việc thuộc thẩm quyền của mình như quyết định cho nhập

quốc tịch Việt Nam, quyết định đại xá,…

– Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của thủ tướng

Chính phủ.

Các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ

có giá trị pháp lý thấp hơn Pháp lệnh và Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc

hội.

6

– Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan

ngang bộ có giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng

Chính phủ.

– Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Quyết

định, chỉ thị, thông tư của Viện trưởng VKSND tối cao;

– Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm

quyền, giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị – xã hội.

– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp.

Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải phù hợp và không được trái hoặc

mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước Trung

ương, với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp trên và Ủy ban nhân dân cấp

trên.

– Quyết định, chỉ thị của UBND và Chủ tịch UBND các cấp.

Quyết định, chỉ thị của UBND và Chủ tịch UBND cấp nào thì có giá trị

pháp lý trong địa hạt của cấp đó.

1.1.2 Khái niệm về Quốc Hội

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực

Nhà nuớc cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội có

3 chức năng chính: chức năng lập pháp; chức năng quyết định các vấn đề quan

trọng của đất nước; chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của

Nhà nước. Quốc hội xuất hiện từ khi xuất hiện nhà nước tư sản. Tiếng Anh gọi

là Congress. Trong nhà nước tư sản, với nguyên tắc "tam quyền phân lập" quốc

hội là cơ quan nắm quyền lập pháp; là cơ quan làm viạ„ theo chế độ hội nghị và

biểu quyết theo đa s, vì vậy quốc hội còn gọi là nghị viện. Phần lớn quốc hội của

các nước tư bản được chia làm hai viện Ịa thượng nghị viện (hay còn gọi là viện

nguyên lão) và hạ nghị viện (hay viện dân biểu). Tuy nhiên, cũng có một số

nước theo chế độ một viện như Phần Lan, Thuy Điển, Na Uy...

Quốc hội theo nghĩa Hán Việt là đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc hay

còn gọi là quốc dân đại hội. Quốc hội đầu tiên của Việt Nam được ra đời trên cơ

sở của cuộc tổng tuyển cử ngày 6.1.1946, Tiền thân của Quốc hội nước Cộng

7

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Quốc dân đại hội Tân Trào (tháng 8 năm

1945). Từ năm 1946 đến nay, đã qua 11 lần bầu cử quốc hội và Quốc hội hiện

nay là Quốc hội khoá XI.

Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam do cử tri cả nước

trực tiếp bầu ra theo các nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu

kín. Quốc hội có nhiệm kì là 5 năm.

Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.

Quốc hội quyết định các chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm

vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, các nguyên tắc chủ yếu về

tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của

công dân.

1.1.3 Khái niệm về chế định của Quốc Hội trong Hiến pháp

Liên quan đến vị trí, tính chất của Quốc hội trong bộ máy nhà nước, một

nội dung thay đổi cơ bản là: trước đây, Hiến pháp quy định: “Quốc hội là cơ

quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”, nay được quy định lại: “Quốc hội

thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp...”.

Việc thay đổi từ “cơ quan duy nhất có quyền” thành cơ quan “thực hiện

quyền lập hiến, lập pháp”, trước hết là sự thay đổi về chất. Nếu nói “duy nhất có

quyền”, thì thực tế có người hiểu là “độc quyền” và đặt vấn đề: với 500 đại biểu

Quốc hội đại diện cho toàn dân (tám, chín chục triệu người trong cả nước), liệu

duy nhất một mình Quốc hội có thể xây dựng được “đạo luật gốc” và các đạo

luật khác thật sự có chất lượng không? Trên thực tế, Hiến pháp cũng như các

đạo luật khác, nếu được nhiều người, nhiều cơ quan, tổ chức, đoàn thể và cá

nhân trên các giác độ khác nhau, với góc nhìn khác nhau,đóng góp các ý kiến đa

chiều, nhiều phía và được tập hợp, chắt lọc lại như một lăng kính hội tụ, thì chắc

chắn chất lượng sẽ cao hơn nhiều. Đó cũng chính là cách thức chúng ta đã và

đang tiến hành hiện nay.

Thứ hai là sự thay đổi về phạm vi, mức độ này nhằm thể hiện đúng với

thực tiễn đang diễn ra. Một đạo luật từ lúc “tạo hình” cho đến khi “ra lò”, theo

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì phải trải qua sáu công

8

đoạn lớn: đưa vào Chương trình xây dựng luật (1); soạn thảo luật (2) ; thẩm tra

dự án luật (3); Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét cho ý kiến (4); thảo luận,

tiếp thu, chỉnh lý, thông qua (5); công bố luật (6). Quốc hội tham gia và chịu

trách nhiệm tất cả. Nhưng thao tác trực tiếp, chủ yếu ở 3 công đoạn quan trọng

giữa là (3), (4) và (5). Tuy nhiên trong ba công đoạn đó, các chủ thể trình dự án

luật, đặc biệt là Chính phủ (nơi có khoảng 90% các dự án luật được trình ra

Quốc hội), đều đã phải tham gia tận lực.

Cũng cần phải nói thêm rằng, trước khi trình Quốc hội, Ban soạn thảo đã

phải lấy ý kiến các đối tượng được luật điều chỉnh và đối tượng được áp dụng

hoặc toàn thể nhân dân (tùy theo từng đạo luật); để phục vụ công tác thẩm tra thì

cơ quan thẩm tra cũng thu thập ý kiến tương tự qua các đợt khảo sát, các cuộc

giám sát. Như vậy trên thực tế đâu có phải “Quốc hội là cơ quan duy nhất có

quyền lập hiến, lập pháp”, cho đến nay rất nhiều cơ quan, đoàn thể, tổ chức, đơn

vị và cá nhân (từ người dân đến các nhà khoa học) đều tham gia, thậm chí tham

gia ngay từ đầu. Bởi vậy việc quy định lại theo mức độ là hợp tình, hợp lý, đúng

với thực tế khách quan.

1.3 Đặc điểm của chế định Quốc Hội trong Hiến pháp 2013

Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội (Điều 70)

Điều này quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội thể hiện trong mười

lăm khoản. Về nội dung có những thay đổi quan trọng, bao gồm:

Khoản 1, Quốc hội không còn nhiệm vụ, quyền hạn “quyết định chương

trình xây dựng luật, pháp lệnh”. Vấn đề này có thể được hiểu là, Quốc hội, Ủy

ban thường vụ Quốc hội sẽ xây dựng luật, pháp lệnh theo yêu cầu của đời sống

kinh tế - xã hội phù hợp với thực tiễn đặt ra cho từng năm và từng thời đoạn.

Khoản 2, , liên quan đến thẩm quyền giám sát tối cao và thẩm quyền xét

báo cáo công tác của các cơ quan nhà nước, nội dung quy định tại điều khoản

này không có nhiều thay đổi lớn, ngoài việc đã bổ sung thêm hai chủ thể thuộc

trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội là “ Hội đồng bầu cử quốc gia,

Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập” bên cạnh các

cơ quan “Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,Tòa án nhân

9

dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao”. Sở dĩ có sự thay đổi này là

do Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung ở chương X hai thiết chế hiến định độc lập

(hai cơ quan) là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Mặt khác,

trong tương lai, khi thật sự cần thiết, có thể Quốc hội sẽ thành lập thêm các cơ

quan độc lập khác. Vì các cơ quan này thuộc thẩm quyền thành lập của Quốc hội

nên phải đưa vào nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.

Cũng phải nói thêm rằng, việc hiến định các cơ quan độc lập nói trên là

góp phần làm rõ hơn chủ quyền nhân dân, làm rõ hơn cơ chế phân công, phối

hợp trong việc kiểm soát quyền lực và hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền

Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Khoản 3 được quy định lại như sau: “Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính

sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Việc thay từ “kế

hoạch” bằng cả cụm từ “mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản” là

hợp lý và cần thiết, đúng với tầm nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Cần lưu ý

từ cơ bản, nó là “thừa số chung” của mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ

chứ không phải chỉ là nhiệm vụ cơ bản. Quốc hội chỉ quyết định những vấn đề

cơ bản, then chốt, có tính chất “xương sống” của kế hoạch thay vì quyết định

toàn bộ kế hoạch như hiện nay. Trong một kế hoạch có rất nhiều điều mục, số

liệu định lượng, mục tiêu định tính cùng các giải pháp thực hiện; Quốc hội

không làm thay công việc cụ thể, chi tiết của cơ quan hành pháp. Chính phủ sẽ

quyết định cụ thể và báo cáo trước Quốc hội. Bởi vậy quy định như trên là đúng

mức.

Khoản 4 có hai vấn đề mới cần quan tâm:

Một là, Quốc hội quyết định nguyên tắc phân chia các khoản thu và

nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Đây là nội

dung đã được thể hiện trong Chương III Luật Ngân sách nhà nước hiện hành và

được thực hiện qua nhiều năm, nhiều nhiệm kỳ và đã trở thành nền nếp. Ngân

sách nhà nước là vấn đề cực kỳ quan trọng của kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội. Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước thì không thể không quyết định vấn đề cơ bản

10

của ngân sách là phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi của ngân sách Trung

ương và địa phương. Tuy nhiên, Quốc hội không quyết định cụ thể các chỉ tiêu

phân chia mà chỉ quyết định các nguyên tắc phân chia để định hướng cho việc

phân chia cụ thể. Bởi vậy Hiến pháp điều chỉnh quyền quyết định nguyên tắc

phân chia các khoản thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và địa

phương, đồng thời giao nhiệm vụ này cho Quốc hội là cần thiết và đúng với

nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.

Hai là, Quốc hội quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công,

nợ Chính phủ. Đây là nhiệm vụ, quyền hạn rất mới. Có thể đặt vấn đề, vì sao

Quốc hội phải quyết định mức giới hạn các loại nợ trên? Lấy nợ công làm ví dụ

để lý giải điều này: Nợ công của Việt Nam năm 2001 mới 11,5 tỷ USD, tương

đương 36% GDP; đến năm 2010 nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương

53,3% GDP. Như vậy trong 10 năm quy mô nợ công gần gấp 5 lần, tốc độ tăng

nợ công 15% mỗi năm; nếu tiếp tục với tốc độ này thì chỉ 5 năm nữa, đến năm

2016 nợ công của Việt Nam sẽ vượt quá 100% GDP như 2 nước thành viên EU

vừa mới lâm vào khủng hoảng là Hy Lạp (133,6%) và Ai Len (129,2). Nợ công

đạt trên 100% là con số không nhỏ đối với một nền kinh tế đang phát triển và

quy mô nhỏ phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công

nghiệp nhẹ như Việt Nam[1]. Do đó Quốc hội phải quyết định mức giới hạn nợ

quốc gia, nợ công, nợ chính phủ là quy định mới đúng đắn, cần thiết[2] Khoản

7 có 2 vấn đề quan trọng:

Một là, tách việc bỏ phiếu tín nhiệm thành một nhiệm vụ và quyền hạn

độc lập, sẽ nói ở khoản 8 dưới đây. Hai là, chức danh Thẩm phán Tòa án nhân

dân tối cao cũng được Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm hoặc bị cách chức, vì

ở Chương VI về chế định Chủ tịch nước, tại khoản 3 Điều 88 đã bổ sung nhiệm

vụ, thẩm quyền của Chủ tịch nước là: bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm

phán các Tòa án khác để phù hợp với cải cách tư pháp.Do đó Quốc hội phải phê

chuẩn trước.

Khoản 8 thêm nhiệm vụ, quyền hạn thứ tám cho Quốc hội: “Bỏ phiếu tín

nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”. Bỏphiếu tín

11

nhiệm là một việc được bổ sung vào nhiệm vụ, quyền hạn thứ bảy (cũ) trong lần

sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2001. Bổ sung đó là một tiến bộ trong việc

giám sát, kiểm soát quyền lực. Nay việc này càng trở nên cấp bách, không thể

không đẩy mạnh việc thực thi. Vì thế Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 4 đã thông

qua Nghị quyết số 35/QH12/ ngày 21 tháng 11 năm 2012 về lấy phiếu tín

nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Hiến

pháp lần này từ “một chi tiết” đã nâng lên thành “một nhiệm vụ, quyền hạn”

ngang hàng với các nhiệm vụ, quyền hạn khác của Quốc hội. Việc quy định “bỏ

phiếu tín nhiệm” là một nhiệm vụ, quyền hạn “độc lập” với các nhiệm vụ, quyền

hạn khác của Quốc hội là hoàn toàn phù hợp với tình hình hiện tại (khi cả nước

đang quyết liệt thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI- Một số nhiêm vụ

cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay). Nhiệm vụ này sẽ góp phần thúc

đẩy người giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước thực thi nhiệm vụ

kịp thời hơn, mang tính thúc đẩy hơn và “răn đe” mạnh mẽ hơn; do đó cũng đáp

ứng tốt hơn lòng mong đợi của cử tri.

Khoản 14 có liên quan đến thẩm quyền của Chủ tịch nước (tại khoản 6,

Điều 93) trong việc quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh

Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế hoặc quyết định phê

chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế theo thẩm quyền do

Quốc hội quy định(tại khoản 14 Điều 70).Việc sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ, quyền

hạn của Chủ tịch nước không thuộc phạm vi chuyên đề này, nhưng có liên quan

đến nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Riêng khoản 6, Điều 93 về cơ bản là

phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp.

Trước đây quy định Quốc hội “...phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế

do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác

đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước”. Nay trên cơ sở

khoản 6, Điều 93, khoản 14 mới, Điều 75 được quy định lại là: Quốc hội “... phê

chuẩn,quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên

quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan

12

trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công

dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội”.

Quy định mới này là hoàn toàn cần thiết vì hai lý do cơ bản sau đây:

Một là, trước đây, những vấn đề lớn, đại sự như chiến tranh và hòa bình,

như chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chưa được đề

cập cụ thể trong Điều 84 Hiến pháp 1992. Nay trong điều kiện Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển

năm 2011) của Đảng đã chỉ rõ “bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu

sắc”, thậm chí là biến đổi khôn lường, thì những điều ước quốc tế (trực tiếp

hoặc có liên quan) về những vấn đề trọng đại đó không thể không do Quốc hội

xem xét để phê chuẩn hay không phê chuẩn. Bởi vậy, đây là nhiệm vụ, quyền

hạn rất xác đáng của Quốc hội. Hai là, sau năm 1992, nước ta đã tham gia nhiều

tổ chức quốc tế như ASEAN, ASEM, APEC, WTO nhiều tổ chức của Liên hiệp

quốc như UNDP, UNFPA, UNESCO... Sắp tới, chắc chắn nước ta còn tham gia

những tổ chức quốc tế khác. Việc Quốc hội xem xét có nên tham gia tổ chức này

hay tổ chức khác với tư cách gì cũng là cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia,

dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Mặt khác chúng ta

cũng đã tuyên bố: Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách

nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Văn kiện Đại hội XI của Đảng, trang 234). Bởi

vậy, Quốc hội xem xét phê chuẩn là đúng tầm nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc

hội (như đã phê chuẩn Việt Nam gia nhập WTO năm 2007).

Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 74)

Ủy ban thường vụ Quốc hội có mười ba nhiệm vụ, quyền hạn,về nội dung

có một số điểm mới như sau:

Trước hết Ủy ban thường vụ Quốc hội không còn nhiệm vụ “Công bố và

chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội”, vì nhiệm vụ này đã được chuyển cho Hội

đồng bầu cử quốc gia (một thiết chế độc lập mới).

So với Điều 91 Hiến pháp 1992 thì khoản 5 được tách thành hai khoản

mới. Đoạn đầu thuộc công tác giám sát, được quy định thành nhiệm vụ, quyền

hạn thứ ba (khoản 3): “Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của

13

Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt

động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,

Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập”. Đoạn hai được

quy định thành khoản 4 mới của Điều 74 Hiến pháp 2013, đó là quyền đình chỉ

việc thi hành và trình Quốc hội bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp, luật, nghị

quyết của Quốc hội đối với các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,

Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Và trực tiếp bãi bỏ văn

bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm

sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc

hội.

Hai việc trên có nội hàm khác nhau (giám sát và xử lý hậu giám sát), quy

trình vận hành công việc của hai việc đó cũng khác nhau nên rất cần thiết phải

được bóc tách quy định lại cho rành mạch.

Một nhiệm vụ-quyền hạn hoàn toàn mới là: “Quyết định thành lập, giải

thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương” (khoản 8). Việc này trước đây thuộc nhiệm vụ, quyền hạn

của Chính phủ. Qua thực thi cho thấy có ít nhất hai tình huống không hợp lý.

Thứ nhất, cùng là thành lập, chia tách, sáp nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành

chính mà một phần viêc này (đơn vị hành chính cấp tỉnh) do cơ quan lập pháp

(Quốc hội) thực hiện, phần còn lại (đơn vị hành chính cấp huyện) do cơ quan

hành pháp (Chính phủ) tiến hành. Thứ hai là, do bất hợp lý nói trên mà có những

việc cụ thể rất khó giải quyết. Điều chỉnh địa giới hành chínhcủa một huyện

thuộc một tỉnh, nhưng huyện đó lại giáp với tỉnh khác (tức là vừa điều chỉnh địa

giới hành chính huyện, đồng thời phải điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, nếu

Chính phủ làm thì vướng về địa giới hành chính tỉnh, nếu Quốc hội làm thì lại

trùng dẫm lên việc của Chính phủ là điều chỉnh địa giới hành chính huyện).

Chính vì vậy, thẩm quyền này phải quy về một mối.

Tuy nhiên có sự phân cấp: Quốc hội xử lý công việc đối với tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương, còn Ủy ban thường vụ Quốc hội xử lý các đơn vị

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và báo cáo với Quốc hội. Sửa đổi này

14

là cần thiết và chặt chẽ.

Một nhiệm vụ, quyền hạn có thể nói là “mới nay, cũ xưa”, đó là khoản

12, Ủy ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn “Phê chuẩn đề nghị bổ

nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam”. Hiến pháp 2013 quy định nhiệm vụ này chính là kế thừa quy định

của Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980. Vì vị trí của đại sứ là đại diện

đặc mệnh toàn quyền của nước ta (mang tính quốc gia) ở nước ngoài nên Ủy ban

thường vụ Quốc hội phải phê chuẩn để Chủ tịch nước bổ nhiệm, cử hoặc triệu

hồi đại sứ là hợp lý, đúng đắn, đồng thời cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.

Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội (các Điều 75, 76, 77 và

78)

Có một số việc đến bây giờ đã trở thành “tất yếu” như các quy định: Hội

đồng dân tộc, các Ủy ban có một số thành viên hoạt động chuyên

trách, hoặc Chủ tịch Hội đồng dân tộc được tham dự các phiên họp của Ủy ban

thường vụ Quốc hội… là tất yếu nên không cần thiết ghi trong Hiến pháp và đã

được bãi bỏ.

Từ tính chất hoạt động của Quốc hội và yêu cầu công tác cán bộ, Hiến

pháp 2013 quy định về các cơ quan của Quốc hội có sự đổi mới theo sự phân

cấp quản lý cán bộ. Quốc hội chỉ bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc và Chủ nhiệm

các Ủy ban; còn Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm các Ủy ban và

các Ủy viên Hội đồng,Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê

chuẩn. Theo chúng tôi, phân cấp như thế là hợp lý, tương đồng với công tác

quản lý cán bộ của Đảng (Bộ trưởng và tương đương thì do Bộ Chính trị quản

lý, Thứ trưởng và tương đương thì do Ban Bí thư Quản lý), song cũng phải tính

đến thực tế quy trình tiến hành công việc này, ai giới thiệu Phó Chủ tịch Hội

đồng dân tộc và các Ủy viên của Hội đồng cũng như Phó Chủ nhiệm các Ủy ban

và các Ủy viên Ủy ban (trước đây do Ủy ban thường vụ Quốc hội giới thiệu).

Sau này, khi xây dựng Luật tổ chức Quốc hội (mới), thiết nghĩ rất cần thiết phải

cụ thể hóa quy trình thực hiện quy định này.

Xuất phát từ kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội (theo quy định của

15

Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003), một thiết chế mới được chính

thức quy định trong Hiến pháp năm 2013 , đó là Ủy ban lâm thời của Quốc hội.

Từ Quốc hội khóa XI đến nay có khá nhiều vấn đề mà Quốc hội phải thành lập

các Đoàn giám sát (thực chất là Ủy ban lâm thời) để xử lý. Phần lớn các vụ việc

đó là các vụ án oan, sai hoặc các vấn đề kinh tế có sai sót nghiêm trọng. Vì vậy

Hiến pháp năm 2013 có hẳn một điều quy định về Ủy ban lâm thời, đó là Điều

78, nội dung như sau: “Khi cần thiết, Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để

nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra một vấn đề nhất định”.

Đại biểu Quốc hội (các Điều 79, 80, 81 và 82)

Nhìn chung, nội dung về đại biểu Quốc hội không có gì thay đổi lớn, chỉ

có một sửa đổi ở khoản 1 Điều 82, theo đó, quy định mới “Đại biểu Quốc hội có

trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu” được thay cho quy định cũ:

“Đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu”. Quy định

mới nhằm đề cao hơn nữa trách nhiệm của đại biểu và khẳng định rằng, dù là đại

biểu chuyên trách hay đại biểu kiêm nhiệm thì dứt khoát cũng phải làm tròn

nhiệm vụ của mình. Cũng tại khoản 1 Điều 82 có một quy định mới, đại biểu

Quốc hội “có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban

của Quốc hội”. Trước đây, khi chưa có quy định này, đã xảy ra tình trạng: người

được cơ cấu làm thành viên thì không muốn được cơ cấu, người không được cơ

cấu thì lại muốn. Vì vậy việc ổn định tổ chức để đi vào hoạt động có phần phức

tạp và tiêu tốn nhiều thời gian. Nay quy định “mở” như trên vừa phù hợp với

nguyện vọng của đại biểu, vừa nhanh chóng ổn định tổ chức các cơ quan của

Quốc hội.

Kỹ thuật lập hiến

Trừ Điều 81, còn lại các điều có nhiều nội dung đều được cấu tạo thành

các khoản cho dứt khoát và mạch lạc hơn (quy định cũ không có điều nào chia

thành khoản).

Nói tóm lại, chế định về Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013 tiếp tục

được khẳng định về mô hình tổ chức và bản chất của nó trong tổng thể hệ thống

chính trị đã được xác định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá

16

độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Văn kiện Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ X, XI của Đảng, kế thừa tinh hoa của các bản Hiến pháp

trước và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài. Vị trí, nhiệm vụ,

quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội được

quy định đầy đủ, chặt chẽ và hoàn thiện hơn, phù hợp với tình hình đất nước

trong giai đoạn hiện nay và tầm nhìn đến đầu những năm 30 của thế kỷ này.

1.4.Vai trò của chế định Quốc hội trong hiến pháp 2013

Trước hết, về thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Hiến pháp năm

2013 đã có sự phân biệt rõ ràng giữa quyền lập hiến, quyền lập pháp và thay quy

định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” bằng quy

định “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp” (lập hiến và lập pháp

theo Hiến pháp năm 1992 là một quyền). Hiến định nội dung này, Hiến pháp

năm 2013 đòi hỏi Quốc hội phải tập trung hơn nữa vào chức năng làm luật để

khắc phục tình trạng vừa thiếu pháp luật, vừa mẫu thuẫn, chồng chéo trong hệ

thống pháp luật, thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng trong việc xây dựng

Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi hoạt động của

các cơ quan Nhà nước, trong đó có Quốc hội đều phải tuân thủ Hiến pháp, pháp

luật, không thể tự định cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn khác ngoài những

nhiệm vụ và quyền hạn

Thứ hai, về quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, so với quy

định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã quy định theo hướng

khái quát hơn, bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc

hội trong Hiến pháp và trong các đạo luật chuyên ngành. Theo đó, Quốc hội chỉ

quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như: quyết định mục tiêu, chỉ

tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (khoản

3 Điều 70); quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định,

sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm

vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới

hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách

17

nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà

nước (khoản 4 Điều 70); quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của

nhà nước (khoản 5 Điều 70); quyết định đại xá (khoản 11 Điều 70); quyết định

vấn đề chiến tranh và hòa bình và quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp

đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia (khoản 13 Điều 70);

quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc

chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ

quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại

các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con

người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc tế khác trái

với luật, nghị quyết của Quốc hội (khoản 14 Điều 70); quyết định trưng cầu ý

dân (khoản 15 Điều 70).

Thứ ba, về giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Đây là hoạt

động mang tính chất chính trị, thể hiện ý chí của cử tri và là một trong những

tiêu chí để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của quá trình xây dựng Nhà nước

pháp quyền xã hội chủ nghĩa. So với Hiến pháp năm 1992 thì quy định này có

những điểm mới đáng chú ý sau: (1) phạm vi thẩm quyền giám sát tối cao đối

với hoạt động của Nhà nước của Quốc hội là có giới hạn, không mở rộng đến

“toàn bộ” hoạt động của Nhà nước (bao gồm các cơ quan thực hiện quyền lập

pháp, hành pháp, tư pháp ở Trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương

mà chỉ tập trung vào các cơ quan ở trung ương như Chủ tịch nước, Chính phủ,

Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao). (2) Bổ sung thẩm

quyền của Quốc hội trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các thiết

chế độc lập như Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ quan

nhà nước khác do Quốc hội thành lập. (3) Quy định khái quát để các luật có điều

kiện cụ thể hóa những hoạt động nào của Nhà nước thuộc thẩm quyền giám sát

tối cao của Quốc hội. Theo đó, việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội

được thực hiện tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Ủy ban

thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu

Quốc hội và đại biểu Quốc hội, bằng các hình thức: xét báo cáo công tác của các

18

cơ quan Nhà nước (Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa

án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia,

Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập); xem xét việc

trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ

trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao,

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thành lập Ủy ban lâm thời để điều

tra về một vấn đề nhất định và xem xét kết quả điều tra của Ủy ban; tổ chức các

đoàn giám sát; bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu

hoặc phê chuẩn (việc bỏ phiếu tín nhiệm với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu

hoặc phê chuẩn là phương thức để Quốc hội thực hiện quyền miễn nhiệm, bãi

nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn khi người

đó không xứng đáng với trọng trách được giao); bãi bỏ văn bản của Chủ tịch

nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án

nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị

quyết của Quốc Hội.

Hiến pháp là một văn bản pháp luật đặt biệt trong hệ thống pháp luật, tác

động sâu sắc đến cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, đời sống kinh tế xã hội

của một quốc gia. Hiến pháp do Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của

quốc gia – ban hành, theo một quy trình thủ tục đặc biệt.

Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định về vị trí của Hiến pháp như sau:

“Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất.

Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.

Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý.”

Như vậy, vị trí của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật thể hiện ở hai

điểm: luật cơ bản và luật có hiệu lực tối cao.

Vị trí là luật cơ bản của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

thể hiện ở các khía cạnh sau:

Thứ nhất, Hiến pháp là văn bản duy nhất quy định việc tổ chức quyền lực

nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của giai

19

cấp lãnh đạo, ở từng giai đoạn phát triển. Hiến pháp còn là phương diện pháp lý

thể hiện tư tưởng của Đảng Cộng sản dưới hình thức những quy phạm pháp lý.

Thứ hai, xét về mặt nội dung, trong khi các đạo luật khác chỉ điều chỉnh

các quan hệ xã hội thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội, ví dụ như:

Luật hôn nhân gia đình chỉ điều chỉnh các quan hệ hôn nhân, gia đình, Luật Đất

đai chỉ điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực đất đai…thì Hiến pháp có đối

tượng điều chỉnh rộng, bao quát toàn bộ các lĩnh vực của xã hội. Đối tượng điều

chỉnh của Hiến pháp là những quan hệ xã hội chủ đạo nhất, chính yếu nhất, nền

tảng nhất liên quan đến lợi ích cơ bản của mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã

hội, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,

đường lối phát triển khoa học – kỹ thuât, văn hóa, giáo dục, đường lối quốc

phòng toàn dân, bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà

nước.

Về mặt pháp lý, Hiến pháp là luật có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ

thống pháp luật Việt Nam. Tính chất luật có hiệu lực tối cao của Hiến pháp thể

hiện ở các phương diện sau đây:

Một là, các quy định của Hiến pháp là nguồn, là nền tảng cho tất cả các

ngành luật khác thuộc hệ thống pháp Việt Nam. Các quy định của Hiến pháp

mang tính tuyên ngôn, cương lĩnh, điều chỉnh chung. Dựa trên nền tảng đó, các

Luật, Pháp lệnh, Nghị định và các văn bản dưới luật khác cụ thể hóa, chi tiết hóa

để điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể.

Hai là, các văn bản pháp luật khác không được mâu thuẫn, trái ngược với

Hiến pháp mà phải hoàn toàn phù hợp với tinh thần, nội dung của Hiến pháp,

được ban hành trên cơ sở Hiến pháp để thi hành Hiến pháp. Mọi văn bản pháp

luật có nội dung trái với Hiến pháp phải bị bãi bỏ, hủy bỏ.

Ba là, các điều ước quốc tế mà nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam tham gia không được mâu thuẫn, đối lập với quy định của Hiến pháp. Khi

có sự mẫu thuẫn thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền không tham gia ký kết,

không phê chuẩn hoặc bảo lưu với từng phần riêng biệt.

Bốn là, tất cả các cơ quan nhà nước phải thực hiện chức năng của mình

20

theo quy định của Hiến pháp, sử dụng đầy đủ các quyền hạn, làm tròn các nghĩa

vụ mà hiến pháp đã quy định. Mọi hành vi vượt ra ngoài thẩm quyền mà hiến

pháp đã quy định đều là vi hiến.

Năm là, tất cả các công dân của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam được hưởng các quyền con người, quyền công dân mà Hiến pháp thừa

nhận và có nghĩa vụ nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp.

Sáu là, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ban hành các văn bản

pháp luật mà Hiến pháp đã quy định để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp,

thi hành Hiến pháp. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính

phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan nhà nước khác của

Nhà nước và toàn thể nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.

Bảy là, do vị trí vai trò đặc biệt của Hiến pháp, việc xây dựng, thông qua,

ban hành, sửa đổi, thay đổi Hiến pháp phải tuân theo một trình tự đặc biệt. Chủ

trương xây dựng Hiến pháp thường được biểu thị bằng một nghị quyết của Quốc

hội; việc xây dựng Hiến pháp thường được tiến hành bằng một cơ quan do Quốc

hội lập ra; dự thảo Hiến pháp được lấy ý kiến rộng rãi của nhiều tầng lớp nhân

dân; việc thông qua Hiến pháp thường được tiến hành tại một kỳ họp đặc biệt

của Quốc hội và chỉ được thông qua khi có một tỷ lệ phiếu đồng ý cao đặc biệt;

việc sửa đổi Hiến pháp chỉ được thực hiện theo một trình tự đặc biệt quy định tại

Hiến pháp; quá trình xây dựng, sửa đổi Hiến pháp được quan tâm và chỉ đạo bởi

Đảng Cộng sản Việt Nam.

1.5 Ý nghĩa của việc nghiên cứu chế định trong Quốc Hội trong Hiến

Pháp 2013

Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được

những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đến nay, tình hình trong nước, khu

vực và quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp hơn. Cương lĩnh

xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển

năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của

Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước

trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa

21

dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, tại kỳ họp thứ 2,

Quốc hội khóa XIII đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để bảo đảm đổi

mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh

tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực

và chủ động hội nhập quốc tế. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa XIII về

việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, từ năm 2011 đến năm 2013, Ủy ban dự thảo

sửa đổi Hiến pháp đã tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và xây

dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại 3 kỳ họp.

Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII đã quyết định tổ chức lấy ý kiến Nhân dân

về dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Việc lấy ý kiến Nhân dân đã được các cấp, các

ngành triển khai, thu hút sự tham gia sâu rộng, nghiêm túc, tích cực, tâm huyết

của đông đảo các tầng lớp nhân dân và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, thực

sự là đợt sinh hoạt chính trị, pháp lý dân chủ, sâu rộng trong cả hệ thống chính

trị. Ngày 28/11/2013 tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến

pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Là bản Hiến pháp được chuẩn

bị công phu, nghiêm túc, chắt lọc, tiếp thu được nhiều ý kiến đóng góp xây dựng

của Nhân dân, của các vị đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học, phản

ánh được ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, đảm bảo chính trị, pháp lý vững

chắc cho dân tộc ta, Nhân dân ta và Nhà nước ta vượt qua những thách thức, khó

khăn, vững bước tiến lên trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công

cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Đây cũng

là bản Hiến pháp vừa kế thừa được các giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm

1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992, vừa thể chế hóa các quan điểm,

phương hướng, nội dung phát triển đã được khẳng định trong Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển

năm 2011). Với bố cục 11 chương, 120 điều, giảm 01 chương và 27 điều so với

Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và

kỹ thuật lập hiến, thể hiện sâu sắc, toàn diện sự đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và

22

chính trị, thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và

chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bảo đảm quyền con người,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt

Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng cộng

sản Việt Nam lãnh đạo.

23

CHƯƠNG 2:

NỘI DUNG CHẾ ĐỊNH QUỐC HỘI TRONG HIẾN PHÁP 2013 VÀ MỘT

SỐ KIẾN NGHỊ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC THI.

2.1 Nội dung về chế định Quốc Hội trong Hiến pháp 2013

2.1.1 Vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước

Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội có vị trí quan trọng đặc biệt. Hiến pháp

năm 1946, tại Điều 22 đã xác định “Nghị viện nhân dân là cơ quan quyền lực

cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Tại Hiến pháp năm 1959, Điều

43 chỉ thay từ “Nghị viện” bằng từ Quốc hội và vẫn giữ nguyên nội dung như

Điều 22 Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp năm 1980 (sau khi thống nhất đất

nước) và Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) cũng với tinh thần

đó nhưng được thể hiện rõ ràng, đầy đủ hơn. Điều 83 Hiến pháp năm 1992

khẳng định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền

lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến

pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2013 (sau đây gọi là Hiến pháp sửa đổi

2013) tiếp tục khẳng định vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn

của Quốc hội như bốn bảnHiến pháp trước, song về mức độ đã được điều chỉnh

cho phù hợp hơn với thực tiễn, nội dung được thể hiện cô đọng và gọn hơn.

Điều 69 Hiến pháp năm 2013 xác định “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất

của Nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam”.

2.1.2 Tính chất của Quốc hội

Về tính chất, ngay từ Hiến pháp năm 1946, Điều 1 đã nói rõ: “Tất cả

quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi

giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Đến Hiến pháp năm 1959 tính

chất trên tiếp tục được khẳng định tại Điều 4 “Tất cả quyền lực trong nước Việt

Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân”. Hiến pháp năm 1980 khẳng

định lại một lần nữa tại Điều 6: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,

tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Đến Hiến pháp năm 1992, tính chất này đã

24

được khẳng định rõ ràng, mạnh mẽ và khúc chiết hơn tại Điều 2: “Nhà nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân...”. Hiến

pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định tính chất này và nhấn mạnh: “Nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ...”.

Với vị trí và tính chất như trên, Quốc hội đóng vai trò chủ quyền Nhà

nước và chủ quyền nhân dân. Mọi quyền lực nhà nước được tập trung vào Quốc

hội. Mọi công việc trọng đại của đất nước và của nhân dân có ý nghĩa toàn quốc

đều do Quốc hội quyết định.

2.1.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội

Đến Hiến pháp sửa đổi 2013, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được

quy định toàn diện, đầy đủ hơn so với các Hiến pháp trước đó.

Quốc hội thực hiện quyền lập hiến và quyền lập pháp, nhưng để bảo đảm

cho hoạt động này có hiệu quả, pháp luật đã quy định quy trình các bước, các

công đoạn cụ thể phải tuân thủ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Về

hoạt động giám sát, Quốc hội có quyền giám sát các hoạt động của Nhà nước về

việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Các chủ thể có quyền giám sát gồm Quốc

hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc

hội và đại biểu Quốc hội. Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan

trọng của đất nước như mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội; những vấn đề quốc kế

dân sinh, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước

quốc tế hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước. Quốc hội có vai trò đặc

biệt trong việc xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa

phương, bầu hoặc phê chuẩn các chức vụ cấp cao trong bộ máy nhà nước ở

Trung ương.

2.1.4 Hình thức và kỹ thuật lập hiến

Ở Hiến pháp năm 1992, Quốc hội thuộc chế định thứ sáu, theo thứ tự là

chương VI (từ Điều 83 đến Điều 100). Đến Hiến pháp năm 2013, Quốc hội

thuộc chế định thứ năm, được xếp ở chương V (từ Điều 69 đến Điều 85).

25

2.1.5 Vị trí, tính chất của Quốc hội trong bộ máy nhà nước (Điều 69)

Liên quan đến vị trí, tính chất của Quốc hội trong bộ máy nhà nước, một

nội dung thay đổi cơ bản là: trước đây, Hiến pháp quy định: “Quốc hội là cơ

quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”, nay được quy định lại: “Quốc hội

thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp...”.

Việc thay đổi từ “cơ quan duy nhất có quyền” thành cơ quan “thực hiện

quyền lập hiến, lập pháp”, trước hết là sự thay đổi về chất. Nếu nói “duy nhất có

quyền”, thì thực tế có người hiểu là “độc quyền” và đặt vấn đề: với 500 đại biểu

Quốc hội đại diện cho toàn dân (tám, chín chục triệu người trong cả nước), liệu

duy nhất một mình Quốc hội có thể xây dựng được “đạo luật gốc” và các đạo

luật khác thật sự có chất lượng không? Trên thực tế, Hiến pháp cũng như các

đạo luật khác, nếu được nhiều người, nhiều cơ quan, tổ chức, đoàn thể và cá

nhân trên các giác độ khác nhau, với góc nhìn khác nhau,đóng góp các ý kiến đa

chiều, nhiều phía và được tập hợp, chắt lọc lại như một lăng kính hội tụ, thì chắc

chắn chất lượng sẽ cao hơn nhiều. Đó cũng chính là cách thức chúng ta đã và

đang tiến hành hiện nay.

Thứ hai là sự thay đổi về phạm vi, mức độ này nhằm thể hiện đúng với

thực tiễn đang diễn ra. Một đạo luật từ lúc “tạo hình” cho đến khi “ra lò”, theo

Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì phải trải qua sáu công

đoạn lớn: đưa vào Chương trình xây dựng luật (1); soạn thảo luật (2) ; thẩm tra

dự án luật (3); Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét cho ý kiến (4); thảo luận,

tiếp thu, chỉnh lý, thông qua (5); công bố luật (6). Quốc hội tham gia và chịu

trách nhiệm tất cả. Nhưng thao tác trực tiếp, chủ yếu ở 3 công đoạn quan trọng

giữa là (3), (4) và (5). Tuy nhiên trong ba công đoạn đó, các chủ thể trình dự án

luật, đặc biệt là Chính phủ (nơi có khoảng 90% các dự án luật được trình ra

Quốc hội), đều đã phải tham gia tận lực.

Cũng cần phải nói thêm rằng, trước khi trình Quốc hội, Ban soạn thảo đã

phải lấy ý kiến các đối tượng được luật điều chỉnh và đối tượng được áp dụng

hoặc toàn thể nhân dân (tùy theo từng đạo luật); để phục vụ công tác thẩm tra thì

cơ quan thẩm tra cũng thu thập ý kiến tương tự qua các đợt khảo sát, các cuộc

26

giám sát. Như vậy trên thực tế đâu có phải “Quốc hội là cơ quan duy nhất có

quyền lập hiến, lập pháp”, cho đến nay rất nhiều cơ quan, đoàn thể, tổ chức, đơn

vị và cá nhân (từ người dân đến các nhà khoa học) đều tham gia, thậm chí tham

gia ngay từ đầu. Bởi vậy việc quy định lại theo mức độ là hợp tình, hợp lý, đúng

với thực tế khách quan.

2.1.6 Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội (Điều 70)

Điều này quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội thể hiện trong mười

lăm khoản. Về nội dung có những thay đổi quan trọng, bao gồm:

Khoản 1, Quốc hội không còn nhiệm vụ, quyền hạn “quyết định chương

trình xây dựng luật, pháp lệnh”. Vấn đề này có thể được hiểu là, Quốc hội, Ủy

ban thường vụ Quốc hội sẽ xây dựng luật, pháp lệnh theo yêu cầu của đời sống

kinh tế - xã hội phù hợp với thực tiễn đặt ra cho từng năm và từng thời đoạn.

Khoản 2, , liên quan đến thẩm quyền giám sát tối cao và thẩm quyền xét

báo cáo công tác của các cơ quan nhà nước, nội dung quy định tại điều khoản

này không có nhiều thay đổi lớn, ngoài việc đã bổ sung thêm hai chủ thể thuộc

trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội là “ Hội đồng bầu cử quốc gia,

Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập” bên cạnh các

cơ quan “Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,Tòa án nhân

dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao”. Sở dĩ có sự thay đổi này là

do Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung ở chương X hai thiết chế hiến định độc lập

(hai cơ quan) là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Mặt khác,

trong tương lai, khi thật sự cần thiết, có thể Quốc hội sẽ thành lập thêm các cơ

quan độc lập khác. Vì các cơ quan này thuộc thẩm quyền thành lập của Quốc hội

nên phải đưa vào nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.

Cũng phải nói thêm rằng, việc hiến định các cơ quan độc lập nói trên là

góp phần làm rõ hơn chủ quyền nhân dân, làm rõ hơn cơ chế phân công, phối

hợp trong việc kiểm soát quyền lực và hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền

Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Khoản 3 được quy định lại như sau: “Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính

sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Việc thay từ “kế

27

hoạch” bằng cả cụm từ “mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản” là

hợp lý và cần thiết, đúng với tầm nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Cần lưu ý

từ cơ bản, nó là “thừa số chung” của mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ

chứ không phải chỉ là nhiệm vụ cơ bản. Quốc hội chỉ quyết định những vấn đề

cơ bản, then chốt, có tính chất “xương sống” của kế hoạch thay vì quyết định

toàn bộ kế hoạch như hiện nay. Trong một kế hoạch có rất nhiều điều mục, số

liệu định lượng, mục tiêu định tính cùng các giải pháp thực hiện; Quốc hội

không làm thay công việc cụ thể, chi tiết của cơ quan hành pháp. Chính phủ sẽ

quyết định cụ thể và báo cáo trước Quốc hội. Bởi vậy quy định như trên là đúng

mức.

Khoản 4 có hai vấn đề mới cần quan tâm:

Một là, Quốc hội quyết định nguyên tắc phân chia các khoản thu và

nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Đây là nội

dung đã được thể hiện trong Chương III Luật Ngân sách nhà nước hiện hành và

được thực hiện qua nhiều năm, nhiều nhiệm kỳ và đã trở thành nền nếp. Ngân

sách nhà nước là vấn đề cực kỳ quan trọng của kế hoạch phát triển kinh tế - xã

hội. Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát

triển kinh tế - xã hội của đất nước thì không thể không quyết định vấn đề cơ bản

của ngân sách là phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi của ngân sách Trung

ương và địa phương. Tuy nhiên, Quốc hội không quyết định cụ thể các chỉ tiêu

phân chia mà chỉ quyết định các nguyên tắc phân chia để định hướng cho việc

phân chia cụ thể. Bởi vậy Hiến pháp điều chỉnh quyền quyết định nguyên tắc

phân chia các khoản thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và địa

phương, đồng thời giao nhiệm vụ này cho Quốc hội là cần thiết và đúng với

nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.

Hai là, Quốc hội quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công,

nợ Chính phủ. Đây là nhiệm vụ, quyền hạn rất mới. Có thể đặt vấn đề, vì sao

Quốc hội phải quyết định mức giới hạn các loại nợ trên? Lấy nợ công làm ví dụ

để lý giải điều này: Nợ công của Việt Nam năm 2001 mới 11,5 tỷ USD, tương

đương 36% GDP; đến năm 2010 nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương

28

53,3% GDP. Như vậy trong 10 năm quy mô nợ công gần gấp 5 lần, tốc độ tăng

nợ công 15% mỗi năm; nếu tiếp tục với tốc độ này thì chỉ 5 năm nữa, đến năm

2016 nợ công của Việt Nam sẽ vượt quá 100% GDP như 2 nước thành viên EU

vừa mới lâm vào khủng hoảng là Hy Lạp (133,6%) và Ai Len (129,2). Nợ công

đạt trên 100% là con số không nhỏ đối với một nền kinh tế đang phát triển và

quy mô nhỏ phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công

nghiệp nhẹ như Việt Nam[1]. Do đó Quốc hội phải quyết định mức giới hạn nợ

quốc gia, nợ công, nợ chính phủ là quy định mới đúng đắn, cần thiết[2] Khoản

7 có 2 vấn đề quan trọng:

Một là, tách việc bỏ phiếu tín nhiệm thành một nhiệm vụ và quyền hạn

độc lập, sẽ nói ở khoản 8 dưới đây. Hai là, chức danh Thẩm phán Tòa án nhân

dân tối cao cũng được Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm hoặc bị cách chức, vì

ở Chương VI về chế định Chủ tịch nước, tại khoản 3 Điều 88 đã bổ sung nhiệm

vụ, thẩm quyền của Chủ tịch nước là: bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm

phán các Tòa án khác để phù hợp với cải cách tư pháp.Do đó Quốc hội phải phê

chuẩn trước.

Khoản 8 thêm nhiệm vụ, quyền hạn thứ tám cho Quốc hội: “Bỏ phiếu tín

nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”. Bỏphiếu tín

nhiệm là một việc được bổ sung vào nhiệm vụ, quyền hạn thứ bảy (cũ) trong lần

sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2001. Bổ sung đó là một tiến bộ trong việc

giám sát, kiểm soát quyền lực. Nay việc này càng trở nên cấp bách, không thể

không đẩy mạnh việc thực thi. Vì thế Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 4 đã thông

qua Nghị quyết số 35/QH12/ ngày 21 tháng 11 năm 2012 về lấy phiếu tín

nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Hiến

pháp lần này từ “một chi tiết” đã nâng lên thành “một nhiệm vụ, quyền hạn”

ngang hàng với các nhiệm vụ, quyền hạn khác của Quốc hội. Việc quy định “bỏ

phiếu tín nhiệm” là một nhiệm vụ, quyền hạn “độc lập” với các nhiệm vụ, quyền

hạn khác của Quốc hội là hoàn toàn phù hợp với tình hình hiện tại (khi cả nước

đang quyết liệt thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI- Một số nhiêm vụ

cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay). Nhiệm vụ này sẽ góp phần thúc

29

đẩy người giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước thực thi nhiệm vụ

kịp thời hơn, mang tính thúc đẩy hơn và “răn đe” mạnh mẽ hơn; do đó cũng đáp

ứng tốt hơn lòng mong đợi của cử tri.

Khoản 14 có liên quan đến thẩm quyền của Chủ tịch nước (tại khoản 6,

Điều 93) trong việc quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh

Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế hoặc quyết định phê

chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế theo thẩm quyền do

Quốc hội quy định(tại khoản 14 Điều 70).Việc sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ, quyền

hạn của Chủ tịch nước không thuộc phạm vi chuyên đề này, nhưng có liên quan

đến nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Riêng khoản 6, Điều 93 về cơ bản là

phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp.

Trước đây quy định Quốc hội “...phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế

do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác

đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước”. Nay trên cơ sở

khoản 6, Điều 93, khoản 14 mới, Điều 75 được quy định lại là: Quốc hội “... phê

chuẩn,quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên

quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan

trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công

dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội”.

Quy định mới này là hoàn toàn cần thiết vì hai lý do cơ bản sau đây:

Một là, trước đây, những vấn đề lớn, đại sự như chiến tranh và hòa bình,

như chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chưa được đề

cập cụ thể trong Điều 84 Hiến pháp 1992. Nay trong điều kiện Cương lĩnh xây

dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển

năm 2011) của Đảng đã chỉ rõ “bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu

sắc”, thậm chí là biến đổi khôn lường, thì những điều ước quốc tế (trực tiếp

hoặc có liên quan) về những vấn đề trọng đại đó không thể không do Quốc hội

xem xét để phê chuẩn hay không phê chuẩn. Bởi vậy, đây là nhiệm vụ, quyền

hạn rất xác đáng của Quốc hội. Hai là, sau năm 1992, nước ta đã tham gia nhiều

30

tổ chức quốc tế như ASEAN, ASEM, APEC, WTO nhiều tổ chức của Liên hiệp

quốc như UNDP, UNFPA, UNESCO... Sắp tới, chắc chắn nước ta còn tham gia

những tổ chức quốc tế khác. Việc Quốc hội xem xét có nên tham gia tổ chức này

hay tổ chức khác với tư cách gì cũng là cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia,

dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Mặt khác chúng ta

cũng đã tuyên bố: Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách

nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Văn kiện Đại hội XI của Đảng, trang 234). Bởi

vậy, Quốc hội xem xét phê chuẩn là đúng tầm nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc

hội (như đã phê chuẩn Việt Nam gia nhập WTO năm 2007).

2.1.7 Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 74)

Ủy ban thường vụ Quốc hội có mười ba nhiệm vụ, quyền hạn,về nội dung

có một số điểm mới như sau:

Trước hết Ủy ban thường vụ Quốc hội không còn nhiệm vụ “Công bố và

chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội”, vì nhiệm vụ này đã được chuyển cho Hội

đồng bầu cử quốc gia (một thiết chế độc lập mới).

So với Điều 91 Hiến pháp 1992 thì khoản 5 được tách thành hai khoản

mới. Đoạn đầu thuộc công tác giám sát, được quy định thành nhiệm vụ, quyền

hạn thứ ba (khoản 3): “Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của

Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt

động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,

Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập”. Đoạn hai được

quy định thành khoản 4 mới của Điều 74 Hiến pháp 2013, đó là quyền đình chỉ

việc thi hành và trình Quốc hội bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp, luật, nghị

quyết của Quốc hội đối với các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,

Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Và trực tiếp bãi bỏ văn

bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm

sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc

hội.

Hai việc trên có nội hàm khác nhau (giám sát và xử lý hậu giám sát), quy

trình vận hành công việc của hai việc đó cũng khác nhau nên rất cần thiết phải

31

được bóc tách quy định lại cho rành mạch.

2.1.8 Một nhiệm vụ-quyền hạn hoàn toàn mới

Là: “Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị

hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” (khoản 8). Việc này

trước đây thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Qua thực thi cho thấy có ít

nhất hai tình huống không hợp lý. Thứ nhất, cùng là thành lập, chia tách, sáp

nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính mà một phần viêc này (đơn vị hành

chính cấp tỉnh) do cơ quan lập pháp (Quốc hội) thực hiện, phần còn lại (đơn vị

hành chính cấp huyện) do cơ quan hành pháp (Chính phủ) tiến hành. Thứ hai là,

do bất hợp lý nói trên mà có những việc cụ thể rất khó giải quyết. Điều chỉnh địa

giới hành chínhcủa một huyện thuộc một tỉnh, nhưng huyện đó lại giáp với tỉnh

khác (tức là vừa điều chỉnh địa giới hành chính huyện, đồng thời phải điều chỉnh

địa giới hành chính tỉnh, nếu Chính phủ làm thì vướng về địa giới hành chính

tỉnh, nếu Quốc hội làm thì lại trùng dẫm lên việc của Chính phủ là điều chỉnh

địa giới hành chính huyện). Chính vì vậy, thẩm quyền này phải quy về một mối.

Tuy nhiên có sự phân cấp: Quốc hội xử lý công việc đối với tỉnh, thành

phố trực thuộc trung ương, còn Ủy ban thường vụ Quốc hội xử lý các đơn vị

huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và báo cáo với Quốc hội. Sửa đổi này

là cần thiết và chặt chẽ.

2.1.9 Một nhiệm vụ, quyền hạn có thể nói là “mới nay, cũ xưa”,

Đó là khoản 12, Ủy ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn

“Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hiến pháp 2013 quy định nhiệm vụ này

chính là kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980. Vì

vị trí của đại sứ là đại diện đặc mệnh toàn quyền của nước ta (mang tính quốc

gia) ở nước ngoài nên Ủy ban thường vụ Quốc hội phải phê chuẩn để Chủ tịch

nước bổ nhiệm, cử hoặc triệu hồi đại sứ là hợp lý, đúng đắn, đồng thời cũng phù

hợp với thông lệ quốc tế.

2.1.10 Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội

(các Điều 75, 76, 77 và 78)

32

Có một số việc đến bây giờ đã trở thành “tất yếu” như các quy định: Hội

đồng dân tộc, các Ủy ban có một số thành viên hoạt động chuyên

trách, hoặc Chủ tịch Hội đồng dân tộc được tham dự các phiên họp của Ủy ban

thường vụ Quốc hội… là tất yếu nên không cần thiết ghi trong Hiến pháp và đã

được bãi bỏ.

Từ tính chất hoạt động của Quốc hội và yêu cầu công tác cán bộ, Hiến

pháp 2013 quy định về các cơ quan của Quốc hội có sự đổi mới theo sự phân

cấp quản lý cán bộ. Quốc hội chỉ bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc và Chủ nhiệm

các Ủy ban; còn Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm các Ủy ban và

các Ủy viên Hội đồng,Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê

chuẩn. Theo chúng tôi, phân cấp như thế là hợp lý, tương đồng với công tác

quản lý cán bộ của Đảng (Bộ trưởng và tương đương thì do Bộ Chính trị quản

lý, Thứ trưởng và tương đương thì do Ban Bí thư Quản lý), song cũng phải tính

đến thực tế quy trình tiến hành công việc này, ai giới thiệu Phó Chủ tịch Hội

đồng dân tộc và các Ủy viên của Hội đồng cũng như Phó Chủ nhiệm các Ủy ban

và các Ủy viên Ủy ban (trước đây do Ủy ban thường vụ Quốc hội giới thiệu).

Sau này, khi xây dựng Luật tổ chức Quốc hội (mới), thiết nghĩ rất cần thiết phải

cụ thể hóa quy trình thực hiện quy định này.

Xuất phát từ kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội (theo quy định của

Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003), một thiết chế mới được chính

thức quy định trong Hiến pháp năm 2013 , đó là Ủy ban lâm thời của Quốc hội.

Từ Quốc hội khóa XI đến nay có khá nhiều vấn đề mà Quốc hội phải thành lập

các Đoàn giám sát (thực chất là Ủy ban lâm thời) để xử lý. Phần lớn các vụ việc

đó là các vụ án oan, sai hoặc các vấn đề kinh tế có sai sót nghiêm trọng. Vì vậy

Hiến pháp năm 2013 có hẳn một điều quy định về Ủy ban lâm thời, đó là Điều

78, nội dung như sau: “Khi cần thiết, Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để

nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra một vấn đề nhất định”.

2.1.11 Đại biểu Quốc hội (các Điều 79, 80, 81 và 82)

Nhìn chung, nội dung về đại biểu Quốc hội không có gì thay đổi lớn, chỉ

có một sửa đổi ở khoản 1 Điều 82, theo đó, quy định mới “Đại biểu Quốc hội có

33

trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu” được thay cho quy định cũ:

“Đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu”. Quy định

mới nhằm đề cao hơn nữa trách nhiệm của đại biểu và khẳng định rằng, dù là đại

biểu chuyên trách hay đại biểu kiêm nhiệm thì dứt khoát cũng phải làm tròn

nhiệm vụ của mình. Cũng tại khoản 1 Điều 82 có một quy định mới, đại biểu

Quốc hội “có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban

của Quốc hội”. Trước đây, khi chưa có quy định này, đã xảy ra tình trạng: người

được cơ cấu làm thành viên thì không muốn được cơ cấu, người không được cơ

cấu thì lại muốn. Vì vậy việc ổn định tổ chức để đi vào hoạt động có phần phức

tạp và tiêu tốn nhiều thời gian. Nay quy định “mở” như trên vừa phù hợp với

nguyện vọng của đại biểu, vừa nhanh chóng ổn định tổ chức các cơ quan của

Quốc hội.

2.1.12 Kỹ thuật lập hiến

Trừ Điều 81, còn lại các điều có nhiều nội dung đều được cấu tạo thành

các khoản cho dứt khoát và mạch lạc hơn (quy định cũ không có điều nào chia

thành khoản).

Nói tóm lại, chế định về Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013 tiếp tục

được khẳng định về mô hình tổ chức và bản chất của nó trong tổng thể hệ thống

chính trị đã được xác định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá

độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Văn kiện Đại hội đại

biểu toàn quốc lần thứ X, XI của Đảng, kế thừa tinh hoa của các bản Hiến pháp

trước và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài. Vị trí, nhiệm vụ,

quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội được

quy định đầy đủ, chặt chẽ và hoàn thiện hơn, phù hợp với tình hình đất nước

trong giai đoạn hiện nay và tầm nhìn đến đầu những năm 30 của thế kỷ này.

2.2. So sánh nội dung chế đinh về Quốc Hội của Hiến pháp 2013 so

với các bản Hiến pháp 1946

Hiến pháp là văn bản quy phạm pháp luật do chính Quốc hội ban hành, là

đạo luật cơ bản, đạo luật gốc có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản

pháp luật Việt Nam. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản về chế độ chính

34

trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội; tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà

nước; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân…

Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất

của nhà nước, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, thực hiện quyền lập

pháp và giám sát tối cao hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, vị trí, tính

chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như mô hình tổ chức và hình thức

hoạt động của Quốc hội ở các nhà nước là khác nhau và ngay trong một nhà

nước nhưng ở các giai đoạn lịch sử khác nhau cũng có những khác biệt nhất

định.

Ở Việt Nam, từ khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến

nay đã có 5 bản Hiến pháp, ở mỗi bản Hiến pháp chế định về Quốc hội có sự

thay đổi, bổ sung và phát triển cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ trong từng

giai đoạn cách mạng giới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.

Thứ nhất, về khái niệm

Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam cũng được

xem là bản hiến pháp mang nhiều tư tưởng tiến bộ, tư tưởng nhân quyền và phân

quyền. Về chế định Quốc hội, Hiến pháp 1946 tại chương 3 “Nghị viện nhân

dân” và tại Điều 22 quy định: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất

của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”.

Như vậy trong Hiến pháp 1946 Quốc hội được định danh là “Nghị viện

nhân dân”. Với vị trí pháp lý là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam

dân chủ cộng hoà.

Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, có hiệu

lực từ ngày 1/1/2014. Trên cơ sở kế thừa và phát triển các bản Hiến pháp trước,

Hiến pháp năm 2013 là bước tiến mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến

pháp 2013 đã thể chế hóa quan điểm của Đảng tại Đại hội XI, đặc biệt là Cương

lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát

triển năm 2011), làm động lực cho sự phát triển đất nước bền vững theo chiều

sâu trước yêu cầu mới. Chế định về Quốc hội cũng được bổ sung, phát triển cả

về khái niệm và chức năng, nhiệm vụ.

35

Về khái niệm, theo Điều 69 Hiến pháp năm 2013 thì “Quốc hội là cơ quan

đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước

Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.

Như vậy, ngoài sự khác nhau về khái niệm Hiến pháp 2013 cũng thể hiện

rõ nét hơn về tính đại diện với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân

và xác định Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước. Trong Hiến

pháp 1946 chỉ xác định Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của

nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tức là chỉ xác định Nghị viện là cơ quan có

quyền cao nhất của nhà nước mà không xác định là cơ quan quyền lực cao nhất.

Thứ hai, về nhiệm vụ, quyền hạn

Hiến pháp 1946 quy định, Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề

chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các

hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài. Điều thứ 23.

Nghị viện nhân dân bầu Nghị trưởng và hai Phó nghị trưởng (tương ứng

với Chủ tịch và Phó Chủ tịch Quốc hội hiện nay). Bầu 12 uỷ viên chính thức, 3

uỷ viên dự khuyết để lập thành Ban thường vụ (tương ứng với Ủy ban thường vụ

Quốc hội hiện nay). Điều thứ 27.

Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong Nghị viện nhân dân

và phải được hai phần ba tổng số nghị viện bỏ phiếu thuận. Điều thứ 45

Phó chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong nhân dân và

bầu theo lệ thường. Điều thứ 46.

Chủ tịch nước Việt Nam chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị

viện biểu quyết. Điều thứ 47.

Nghị viện kiểm soát và phê bình Chính phủ. Điều thứ 36.

Điều 69 Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền

hạn sau đây:

Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;

Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị

quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ

Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,

36

Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội

thành lập;

Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh

tế - xã hội của đất nước;

Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa

đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ

chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới

hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách

nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà

nước;

Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;

Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,

Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán

nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch

Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ

tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,

Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu

cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm,

cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính

phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội

đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.

Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành

lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực

thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan

khác theo quy định của Hiến pháp và luật;

Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính

phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối

cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;

37

Quyết định đại xá;

Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại

giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và

danh hiệu vinh dự nhà nước;

Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn

cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;

Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia

nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa

bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về

quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế

khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;

Quyết định trưng cầu ý dân.

Như vậy so với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 2013 có nhiều bổ sung và quy

rõ hơn, cụ thể hơn về nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội và chỉ tập trung vào

một điều (Điều 69) của chương V, còn Hiến pháp 1946 quy định ở nhiều điều

khác nhau của chương 3.

Ngoài ra Hiến pháp 2013 bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc

hội như: giám sát tối cao đối với hoạt động của bộ máy nhà nước (khoản 3 Điều

69); bầu, miễn nhiệm Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia,

Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập;

phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ,

Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối

cao (khoản 7 Điều 69); Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của

Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh,

thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (khoản 9

Điều 69); Quyết định đại xá (khoản 11 Điều 69); …

Thứ ba, về nhiệm kỳ

Nhiệm kỳ của Nghị viện nhân dân trong Hiến pháp 1946 là ba năm.

38

Còn Nhiệm kỳ của mỗi khóa của Quốc hội trong Hiến pháp 2013 là năm

năm Điều 71.

Tựu trung lại, qua các hai bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 2013 của

Việt Nam, chế định Quốc hội cũng có những bước sửa đổi phát triển lớn cả về vị

trí, nhiệm vụ, chức năng, thẩm quyền đến cấu trúc tổ chức đều thể hiện sự kế

thừa và phát triển của chế định quyền lực nhà nước quan trọng này trong cấu

trúc thống nhất của toàn bộ bộ máy Nhà nước Việt Nam ở cấp Trung ương.

Trong thời gian tới, với những nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp nước quy

định, cùng với các cơ quan, tổ chức hữu quan khác trong hệ thống chính trị,

chúng ta có niềm tin mạnh mẽ rằng, Quốc hội nước Việt Nam sẽ tiếp tục thực

hiện ngày càng tốt hơn vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,

cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trên cơ sở quy

định của Hiến pháp, tạo tiền đề tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công cuộc Đổi mới

đất nước theo chủ trương của Đảng, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn luôn

thay đổi và phát triển.

2.3. Lịch sử phát triển của Hiến pháp Việt Nam

Từ năm 1946 đến nay, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước

Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã có 5 lần ban hành Hiến pháp: Hiến

pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm

1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001 và Hiến pháp năm 2013. Mỗi bản Hiến

pháp được ban hành đều chứa đựng tinh hoa của nền lập pháp Việt Nam, đánh

dấu một bước phát triển mới của cả dân tộc.

2.3.1. Hiến pháp 1946

Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của đất nước ta. Sau khi

đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, Hồ chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của

Chính phủ, một trong những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng Hiến pháp:

“Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độc thực dân không

kém phần chuyên chế nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được

hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ.”. Ngày

39

09/1/1946 Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Hiến

pháp năm 1946 được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản: đoàn kết toàn dân,

không phân biệt giống nòi, trai, gái, giai cấp, tôn giáo; bảo đảm các quyền lợi

dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.

Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém

bất kỳ một bản hiến pháp nào trên thế giới. Lần đầu tiên nhân dân Việt Nam

được hưởng các quyền tự do, dân chủ. Và cũng lần đầu tiên trong lịch sử dân

tộc, phụ nữ được ngang quyền với nam giới trên mọi phương diện. Đánh giá về

ý nghĩa của việc ban hành bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ

cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “... bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch

sử nước nhà... là một vết tích lịch sử Hiến pháp đầu tiên trong cõi á Đông... Bản

Hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế.

Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đó

tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do… phụ nữ

Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi

quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt

chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các

giai cấp”.

2.3.2. Hiến pháp năm 1959

Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, tình hình đất nước ta có sự biến đổi to lớn.

Miền Bắc được giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam

kháng chiến chống Mỹ, thống nhất nước nhà. Ở miền bắc có những biến chuyển

to lớn, kinh tế phát triển đạt được những thành tựu nhất định, giai cấp địa chủ

phong kiến bị đánh đổ, liên minh giai cấp công nhân, nông dân ngày càng được

củng cố và vững mạnh. "Trong giai đoạn mới của cách mạng, Quốc hội ta cần

sửa đổi bản Hiến pháp năm 1946 cho thích hợp với tình hình và nhiệm vụ mới"

(Lời nói đầu, Hiến pháp 1959). Ngày 31-12-1959, Quốc hội đã nhất trí thông

qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh

công bố Hiến pháp.

Hiến pháp khẳng định nhà nước ta là nhà nước cộng hòa dân chủ, tất cả

40

quyền lực trong nước đều thuộc về nhân dân. Hiến pháp ghi nhận những thành

quả đấu tranh giữ nước và xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam dưới sự

lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Với Hiến pháp 1959, lần đầu tiên trong

lịch sử lập hiến Việt Nam vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là

Đảng Cộng sản Việt Nam) được ghi nhận bằng đạo luật cơ bản của Nhà nước

(tại lời nói đầu). Hiến pháp cũng khẳng định nước Việt Nam là một khối thống

nhất, không thể chia cắt.

Hiến pháp năm 1959 xác định đường lối kinh tế của nước ta trong giai

đoạn này là biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với

công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Hiến pháp

cũng ghi nhận nhiều quyền và nghĩa vụ của công dân, đồng thời quy định trác

nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm các quyền đó.

Hiến pháp năm 1959 là bản hiến pháp được xây dựng theo mô hình xã hội

chủ nghĩa, nó là bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của nước ta.

2.3.3. Hiến pháp năm 1980

Sau chiến thắng năm 1975, nước ta hoàn toàn thống nhất, mở ra một trang

mới trong lịch sử dân tộc. Nước nhà được độc lập, tự do là điều kiện để đưa cả

nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày 18/12/1980, Quốc hội khóa VI đã

nhất trí thông qua bản Hiến pháp mới – Hiến pháp năm 1980.

So với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1980 có nhiều sự đổi

khác. Về chế độ chính trị, Hiến pháp xác định bản chất của nhà nước là chuyên

chính vô sản, sứ mệnh lịch sử của nhà nước là thực hiện quyền làm chủ tập thể

của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân xây dựng thắng lợi chủ

nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Lần đầu tiên trong lịch sử, Hiến pháp

năm 1980 thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với nhà nước và

xã hội trong một Điều của Hiến pháp – Điều 4. Về kinh tế, Hiến pháp năm 1980

quốc hữu hóa toàn bộ đất đai (Điều 19). Đồng thời, theo Điều 18, Nhà nước tiến

hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành

phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ

nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có

41

hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành

phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Kế tục các

bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 1980 xác định thêm một số quyền của

công dân phù hợp với giai đoạn mới của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tuy

nhiên, một số quyền mới trong Hiến pháp năm 1980 không phù hợp với thực tế

của đất nước nên ko có điều kiện vật chất bảo đảm thực hiện (ví dụ: quyền khám

chữa bệnh không phải trả tiền, quyền được học tập không phải trả tiền…). Tổ

chức bộ máy nhà nước được thiết kế theo mô hình đề cao trách nhiệm tập thể

như thành lập Hội đồng nhà nước (thực hiện chức năng của Ủy ban thường vụ

Quốc hội và Chủ tịch nước), Hội đồng Bộ trưởng.

Tóm lại, Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi

cả nước.

2.3.4. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001

Sau một thời gian phát huy hiệu lực, Hiến pháp năm 1980 tỏ ra không phù

hợp với điều kiện kinh tế xã, hội của đất nước. Đại hội Đảng lần VI năm 1986

đã mở ra thời kỳ đổi mới ở nước ta. Ngày 15/4/1992 Quốc hội khóa VIII đã nhất

trí thông qua Hiến pháp năm 1992. Đây là “sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể

hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước”1.

Một trong những thay đổi nổi bật ở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung

năm 2001 là chế độ kinh tế. “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát

triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều

thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế

độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và

sở hữu tập thể là nền tảng” (Điều 15). Mục đích chính sách kinh tế của nhà

nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật

chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi

tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh

ra ngày 16/4/1992

tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có

42

vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức…. Các thành phần kinh tế đều là bộ

phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ

nghĩa.(Điều 16). Như vậy, với Hiến pháp năm 1992, nước ta đã chuyển đổi từ

nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với 2 thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế

nhà nước và kinh tế tập thể sang nền kinh tế hàng hóa thị trường với nhiều thành

phần kinh tế.

Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, so với Hiến pháp năm 1980

thì Hiến pháp năm 1992 có nhiều điều hơn, nhiều quyền và nghĩa vụ được bổ

sung và sửa đổi. Bên cạnh các quyền công dân, Hiến pháp năm 1992 lần đầu

tiên quy định: “các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã

hội được tôn trọng” (Điều 50). Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 xác lập quyền tự

do kinh doanh của công dân (Điều 57), đây là chìa khóa quan trọng để mở cánh

cửa vào nền kinh tế thị trường.

Về tổ chức bộ máy nhà nước, Hiến pháp năm 1992 đã quy định một số sự

thay đổi so với Hiến pháp năm 1980, nhằm bảo đảm tính linh động trong việc

quản lý điều hành của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội

chủ nghĩa.

Đặc biệt, sau lần sửa đổi, bổ sung năm 2001, tư tưởng về xây dựng nhà

nước pháp quyền lần đầu tiên được thể hiện trong Hiến pháp “Nhà nước Cộng

hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của

nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân… Quyền lực nhà nước là thống nhất, có

sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các

quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”

Tóm lại, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 đánh dấu sự

chuyển mình của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh

tế, từng bước và vững chắc về chính trị. Đây là bản Hiến pháp kế thừa có chắt

lọc những tinh hoa của các bản Hiến pháp trước. Hiến pháp năm 1992 đã đánh

dấu sự phục hưng và phát triển nền tảng kinh tế của xã hội Việt Nam trong thời

gian 20 năm sau khi có hiệu lực.

2.4. Sự cần thiết ban hành

43

2.4.1. Sự cần thiết

Hiến pháp năm 1992 sử đổi, bổ sung năm 2001 được ban hành trong bối

cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội đại biểu

toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra và để thể chế hóa Cương lĩnh

xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991. Hiến

pháp năm 1992 đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho việc thực hiện

công cuộc đổi mới. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã

đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế

có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp. Cương lĩnh xây dựng đất nước

trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) (sau đây

gọi chung là Cương lĩnh) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững

đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội

chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Vì vậy, việc ban hành Hiến pháp năm 2013 là thật sự cần thiết để bảm đảm

đổi mới đồng bộ về cả kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt

Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể

chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con

người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích

cực và chủ động hội nhập quốc tế.

2.4.2. Yêu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1992

Thứ nhất, tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn những nội dung cơ bản có

tính bản chất của chế độ ta đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992 về phát

huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát triển nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện Nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân

dân.

Thứ hai, thể chế hóa kịp thời những quan điểm, chủ trương lớn được nêu

44

trong Cương lĩnh và các văn kiện khác của Đảng.

Thứ ba, hoàn thiện kỹ thuật lập hiến, bảo đảm để Hiến pháp thực sự là

đạo luật cơ bản, có tính ổn định, lâu dài.

2.4.3. Quan điểm chủ đạo trong ban hành Hiến pháp năm 2003

Việc ban hành Hiến pháp năm 2013 dựa trên các quan điểm chủ đạo sau

đây:

- Dựa trên cơ sở tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo

luật có liên quan; căn cứ vào định hướng, nội dung của Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)

và các văn kiện khác của Đảng; kế thừa những quy định của Hiến pháp năm

1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung những

vấn đề thực sự cần thiết, những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là

đúng, có đủ cơ sở, nhận được sự thống nhất cao và phù hợp với tình hình mới

đã được văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định.

- Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của hệ thống chính trị

và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm

1992. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do

nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực

nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan

nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

- Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp

công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc

Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao

động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là

lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới

đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị, vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam

xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

- Tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; quyền của

công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân; thực hiện dân chủ xã hội chủ

45

nghĩa; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.

- Ban hành Hiến pháp là công việc hệ trọng nên phải tiến hành chặt chẽ,

khoa học dưới sự lãnh đạo của Đảng; bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia,

các nhà khoa học, các nhà quản lý; tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và

các cơ quan, tổ chức; chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền, bảo đảm đúng

định hướng, không để các đối tượng xấu, thế lực thù địch lợi dụng để chống phá,

xuyên tạc trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.

2.4.4. Phạm vi những nội dung được sửa đổi trong Hiến pháp năm

2013

Căn cứ vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ

nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), các văn kiện khác của Đảng, đặc

biệt là Nghị quyết Hội nghị lần hai của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa

XI, Kết luận của Hội nghị lần năm của Ban chấp hành Trung ương khóa XI và

Nghị quyết của Quốc hội, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013

được sửa đổi theo 9 nội dung cơ bản, gồm:

Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa và làm sâu sắc hơn chủ trương phát huy dân

chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.

Thứ hai, tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động

các lực lượng xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.

Thứ ba tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò, trách nhiệm lãnh

đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.

Thứ tư, tiếp tục phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan

điểm bảo vệ, tôn trọng quyền con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền,

nghĩa vụ cơ bản của công dân.

Thứ năm, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo

đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.

Thứ sáu tiếp tục bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thứ bảy, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam.

46

Thứ tám, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, xác định rõ hơn vai trò,

trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích hợp

pháp của công dân trong quan hệ quốc tế; tạo cơ sở hiến định để Nhà nước đẩy

mạnh hợp tác quốc tế, thực hiện quyền, nghĩa vụ quốc gia, góp phần giữ gìn hòa

bình khu vực và thế giới.

Thứ chín, sửa đổi kỹ thuật lập hiến và quy trình sửa đổi Hiến pháp để bảo

đảm hiệu lực, tính ổn định, lâu dài của Hiến pháp.

Với bố cục 11 chương, 120 điều, giảm một chương và 27 điều so với Hiến

pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật

lập hiến, thể hiện sâu sắc công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện đất nước ; thể

hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong

thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt

Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh

đạo; quy định rõ ràng, đúng đắn, đầy đủ và khái quát hơn về quyền con người,

quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục,

khoa học, công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc, hiệu lực và quy trình sửa

đổi Hiến pháp.

47

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ

ĐỊNH CHÍNH TRỊ

Chế định là nội dung và phương thức tổ chức và hoạt động của hệ thống

chính trị của một quốc gia, mà trọng tâm là của nhà nước. Nền tảng và khuôn

khổ của chế độ chính trị là Hiến pháp. Do tính chất và tầm quan trọng đặc biệt

của chế độ chính trị đối với sự phát triển của xã hội nên trong các bản Hiến pháp

của nước ta và của nhiều nước trên thế giới, chế độ chính trị thường được ghi

nhận trong chương đầu tiên, với ý nghĩa là nội dung cơ bản, chi phối các nội

dung khác của Hiến pháp.

Trong Hiến pháp năm 2013, chế độ chính trị được quy định tại Chương I

trên cơ sở kế thừa Chương I Hiến pháp năm 1992 (Nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam – Chế độ chính trị) và gộp với Chương XI của Hiến pháp năm

1992 (Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh), vì đây là những

nội dung gắn liền với chế độ chính trị. So với 2 chương của bản Hiến pháp

trước, Chương I Hiến pháp năm 2013 giảm 6 điều, chỉ giữ nguyên lại Điều 1,

sửa đổi bổ sung tất cả các điều còn lại.

Về cơ bản, Hiến pháp năm 2013 kế thừa, khẳng định bản chất và mô hình

tổng thể của thể chế chính trị đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất

nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).

Các quy định và nguyên tắc cơ bản của Chế độ chính trị trong Hiến pháp năm

2013 đã thể hiện một các đầy đủ và toàn diện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho

việc thiết lập, củng cố và bảo vệ chế độ chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam. Các quy định và nguyên tắc trong chương Chế độ chính trị là

cơ sở, nền tảng chính trị của các Chương về Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính

phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Chính quyền địa phương.

3.1. Về chủ quyền quốc gia

Điều 1 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định : “Nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn

lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.”

Như vậy, kế thừa tinh thần của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm

48

2001, Hiến pháp quy định tên của nước Việt Nam vẫn là Cộng hòa xã hội chủ

nghĩa Việt Nam – tên gọi đã được xác lập và sử dụng ổn định từ năm 1976. Từ

đó, khẳng định bản chất của nhà nước ta là cộng hòa – nhà nước do nhân dân

thành lập và làm chủ, đồng thời, khẳng định rõ mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã

hội. Việc duy trì tên nước sẽ bảo đảm sự ổn định của đời sống kinh tế, chính trị,

xã hội trong nước, tránh sự xáo trộn không cần thiết, gây tốn kém tài lực của nhà

nước.

Bên cạnh đó, quy định này tiếp tục khẳng định chủ quyền của nước ta đối

với đất nước, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. Quy định này của Hiến pháp

mang tính khái quát, từ đó, các quyền chủ quyền cụ thể của đất nước ta với vùng

đất liền, lòng đất, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các hải đảo khác, vùng nội

thủy, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng trời sẽ được làm rõ và quy

định cụ thể trong các luật chuyên ngành như Luật Biển Việt Nam, Luật Biên

giới quốc gia.

3.2. Về bản chất của nhà nước

Bản chất của nhà nước là một vấn đề hết sức quan trọng. Theo Chủ tịch

Hồ Chí Minh thì : «Tính chất nhà nước là vấn đề cơ bản của hiến pháp. Đó là

vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền ấy về tay ai và phục vụ

quyền lợi của ai ? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp » 2.

Trong suốt quá trình tồn tại lịch sử của mình, thông qua 4 lần ban hành

Hiến pháp trước đó, nhà nước Việt Nam luôn khẳng định bản chất dân chủ, dựa

trên nền tảng nhân dân và vì nhân dân của mình. Kế thừa tư tưởng này, Điều 2

Hiến pháp năm 2013 quy định :

«1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.

2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ ; tất

cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp

công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. »

2 Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội Khoá I nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; ngày 18-12-1959, Hồ Chí Minh,

So với Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, Điều 2 Hiến

49

pháp năm 2013 đã bổ sung nội dung : « Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt

Nam do nhân dân làm chủ ». Quy định này đã khẳng định hơn nữa nguồn gốc

quyền lực nhà nước xuất phát từ Nhân dân, do Nhân dân làm chủ, để phục vụ

Nhân dân, nền tảng quyền lực của nhà nước là liên minh giữa giai cấp công

nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Trong mối quan hệ Nhân dân – Nhà

nước thì Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, là người giao phó

quyền lực cho nhà nước, còn nhà nước là công cụ để nhân dân giao quyền, thực

hành quyền lực đó để mang lại lợi ích cho nhân dân.

Đồng thời, quy định tại Điều 2 còn cho thấy dân chủ là thuộc tính của Nhà

nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước bảo đảm và không ngừng

phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân

tham gia đông đảo vào quản lý các công việc của nhà nước và xã hội.

Điều 3 của Hiến pháp quy định về trách nhiệm của Nhà nước đối với

Nhân dân : « Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ;

công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân ;

thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi

người có cuộc sống ấm no, tư do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện ».

Quy định này lại một lần nữa khẳng định bản chất vì Nhân dân của Nhà nước

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chăm lo, bảo vệ, nâng cao đời sống và

quyền lợi của nhân dân là tôn chỉ và là mục tiêu phán đấu của nhà nước.

Về các hình thức thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân, Điều 6 quy

định : « Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng

dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ

quan khác của Nhà nước ».

Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, Hiến pháp quy định đầy đủ

và phát triển thành nguyên tắc về việc “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước

bằng dân chủ trực tiếp”. Nguyên tắc này được thể hiện nhất quán, xuyên suốt

trong toàn bộ Hiến pháp năm 2013 từ chế độ chính trị, quyền con người, quyền

và nghĩa vụ cơ bản của công dân đến các thiết chế trong bộ máy nhà nước. Các

hình thức thể hiện dân chủ trực tiếp khá đa dạng như trưng cầu ý dân, bầu cử,

50

thực hiện dân chủ cơ sở. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà nước

một cách gián tiếp thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác

của Nhà nước. Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân

dân, do nhân dân bầu lên, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, được

nhân dân trao quyền để thực hiện quyền lực và chịu trách nhiệm trước nhân dân.

Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân là những người đại diện cho ý

chí và nguyện vọng của nhân dân, có mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân.

3.3. Về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do

Nhân dân và vì Nhân dân

Kế thừa tư tưởng của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001,

thể chế hóa cương lĩnh của Đảng. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định nhà

nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và

vì Nhân dân.

Theo các quy định của Hiến pháp năm 2013, Nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam có một số đặc điểm sau đây:

Thứ nhất, bản chất quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân. Nhà nước

do nhân dân tổ chức ra, được nhân dân trao quyền và thực hành quyền lực vì lợi

ích của nhân dân.

Thứ hai, về nguyên tắc tổ chức quyền lực thì “Quyền lực nhà nước là

thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước

trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3 Điều 2).

Nguyên tắc này đã kế thừa Cương lĩnh và các chính sách của Đảng, đáp ứng yêu

cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này

mang tính nền tảng, được cụ thể hóa trong các chương quy định về tổ chức bộ

máy nhà nước trong Hiến pháp.

Theo nguyên tắc này, quyền lực nhà nước là thống nhất. Quốc hội là cơ

quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại biểu cho nhân dân, có quyền quyết định

những vấn đề quan trọng của đất nước. Xuất phát từ Quốc hội, các cơ quan khác

của nhà nước như Chính phủ, Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát

nhân dân được thành lập. Các cơ quan này đều phải chịu trách nhiệm trước quốc

51

hội. Tương tự như vậy, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa

phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên, có

quyền quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương. Sự tập trung quyền lực

như vậy có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm sự thống nhất trong vận hành quyền lực

nhà nước, tránh được hiện tượng mâu thuẫn, xung đột giữa các cơ quan nhà

nước.

Quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng vẫn có sự phân công, phối hợp

giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đặc biệt, Hiến

pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là

một nguyên tắc mới đã được thể hiện trong Cương lĩnh của Đảng ta. Nguyên tắc

này là cơ sở để các cơ quan nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp phát

huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm và hiệu quả quyền lực trong phạm vi được giao.

Đây chính là cơ chế để ngăn chặn sự lạm quyền của mỗi nhánh quyền lực, hạn

chế sự tha hóa quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc

về nhân dân. Đồng thời, nguyên tắc này còn giúp đấu tranh chống tệ quan liêu,

tham những, lãng phí, ngăn chặn vi phạm pháp luật trong nội bộ bộ máy nhà

nước. Nội dung cụ thể của nguyên tắc này sẽ lần lượt được làm rõ trong các quy

định cụ thể của Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước.

Thứ ba, về vai trò của pháp luật, Điều 8 Hiến pháp quy định:

“1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật,

quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân

chủ.

2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức viên chức phải tông trọng

Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý

kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,

lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.”

Đây là một quy định quan trọng thể hiện đặc điểm của nhà nước pháp

quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật được

đề cao và là công cụ quản lý cơ bản của nhà nước. Tất cả mọi tổ chức, cá nhân

trong xã hội, kể cả cơ quan nhà nước đều phải tuân thủ theo pháp luật. Mọi hành

52

vi vi phạm pháp luật đều phải được ngăn chặn.

Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đặt dưới

sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

3.4. Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam

Từ khi giành được chính quyền đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là

lực lượng lãnh đạo nhà nước, dân tộc và xã hội Việt Nam đạt được nhiều thắng

lợi vẻ vang. Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thành công sự nghiệp công

nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ

nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát

huy vai trò và sự lãnh đạo của Đảng ngày càng quan trọng.

Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vị trí và vai trò lãnh đạo của Đảng đối

với nhà nước và xã hội luôn được thể hiện trong các bản Hiến pháp. Kế thừa tư

tưởng đó. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu

khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo

vệ tổ quốc của nước ta.

Điều 4, Hiến pháp năm 2013 quy định:

“1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân,

đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại

biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân

tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là

lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân

dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những

quyết định của mình.

3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt

động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.

So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có sự bổ sung và phát

triển quan trọng vì đã khẳng định đầy đủ bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng

Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội

tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, là đại biểu trung

53

thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Nền

tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.

Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam. Vai trò lãnh đạo này

là tất yếu, đã được lịch sử chứng minh qua các cuộc cách mạng, các cuộc chiến

tranh và công cuộc đổi mới ở đất nước ta.

Đảng không lãnh đạo một cách chung chung mà mang tính định hướng,

thông qua Cương lĩnh, chiến lược, chính sách, chủ trương lớn cho từng thời kỳ

phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Đảng vạch ra phương hướng và

nguyên tắc cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, củng cố và phát

triển hệ thống chính trị, thiết lập chế độ dân chủ, phát huy quyền làm chủ của

người dân. Đảng còn lãnh đạo thông qua công tác cán bộ bằng việc phát hiện,

lựa chọn những đảng viên ưu tú và người ngoài Đảng có phẩm chất để giới thiệu

vào các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội thông qua cơ chế bầu

cử, bổ nhiệm. Ngoài ra, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua các Đảng

viên và tổ chức Đảng bằng cách giáo dục Đảng viên nêu cao vai trò tiên phong,

gương mẫu, tập hợp, giáo dục và động viên quần chúng tham gia quản lý nhà

nước.

Điều 4, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một quy định mới về trách nhiệm

của Đảng là phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự

giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định

của mình. Và, mặc dù Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội nhưng

Đảng vẫn hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Quy định này

bảo đảm cho Đảng giữ vững bản chất, mục tiêu, lý tưởng của mình, là cơ sở để

nhăn chặn sự tha hóa có thể xảy ra. Mặt khác, quy định như vậy còn nhằm ngăn

chặn các vi phạm pháp luật của đội ngũ Đảng viên, nhắc nhở họ phải tự giác,

gương mẫu, nghiêm túc chấp hành pháp.

3.5. Về chính sách dân tộc và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc

Chính sách dân tộc và đường lối đại đoàn kết là một trong những vấn đề

lớn của cách mạng Việt Nam, một trong những nội dung cơ bản phản ánh bản

chất của chế độ chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Có thể

54

nói đường lối đại đoàn kết và chính sách dân tộc là một trong những yếu tố cơ

bản tạo ra sức mạnh to lớn cho cách mạng Việt Nam. Vì vậy, đại đoàn kết dân

tộc là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc, là đòi hỏi khách quan

của bản thân quần chúng nhân dân và các cộng đồng dân tộc cùng sinh sống trên

lãnh thổ Việt Nam.

Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định về chính sách dân tộc và củng cố

khối đại đoàn kết dân tộc:

“1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất

của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.

2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát

triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.

3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,

chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và

văn hóa tốt đẹp của mình.

4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để

các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.”

Như vậy, quy định này của Hiến pháp đã khẳng định Nhà nước Việt Nam

là nhà nước thống nhất của các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Đất nước này là

do sương máu của các dân tộc anh em cùng nhau chiến đấu mà tạo ra, cùng nhau

bảo vệ, giữ gìn và cùng được hưởng mọi thành quả của sự đổi mới. Các dân tộc,

không phụ thuộc vào số lượng người, vị trí địa lý, đều có sự bình đẳng. Mọi

hành vi kỳ thị, chia rẽ đều bị ngăn cấm. Hơn thế nữa, một số dân tộc thiểu số

còn gặp nhiều khó khăn sẽ được Nhà nước tạo điều kiện để phát huy nội lực,

phát triển sánh vai với các dân tộc anh em.

3.6. Chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt

Nam

Bản chất của chế độ chính trị của mỗi nước không chỉ được phản ánh

trong các chính sách đối nội mà còn thể hiện rõ nét trong chính sách đối ngoại,

trong việc thiết lập và giải quyết quan hệ với các nước khác.

Từ khi thành lập đến nay, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nước

55

Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam luôn chủ trương thực hiện một cách nhất

quán chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị và hợp tác vì sự tiến bộ xã hội trên

cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của các nước khác. Với phương châm

“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”, Nhà nước ta đã

không ngừng mở rộng quan hệ với các nước, uy tin của Việt Nam trên thế giới

không ngừng được tăng cào.

Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định nội dung cơ bản của chính sách

đối ngoại của nhà nước ta nhưng có sự sửa đổi, bổ sung cho thích hợp với tình

hình mới. Điều 12 Hiến pháp năm 2013 quy định:

“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường

lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa

phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc

tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp

vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương

Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là

thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng

quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập

dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.

Quy định trên trước hết khẳng định, mục tiêu của đường lối đối ngoại là

bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ

nghĩa giàu mạnh. Việc xác định lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và bảo vệ lợi ích

quốc gia, lợi ích dân tộc của đường lối đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ mới

được coi là yêu cầu hàng đầu và là kim chỉ nam trong hoạt động đối ngoại của

Đảng, Nhà nước ta, đồng thời là một trong những mục tiêu then chốt của sự

nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của

đường lối đối ngoại này được thể chế hóa tại Hiến pháp 2013 nhằm khẳng định

rõ hơn định hướng: Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích

quốc gia, dân tộc, khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai

cấp và lợi ích của dân tộc.

Phương châm của đường lối đối ngoại là thực hiện nhất quán đường lối

56

đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa

dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy

và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Hiến pháp năm 2013 nêu

rõ Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng

đồng quốc tế. Việc trở thành thành viên trong cộng đồng quốc tế là một đòi hỏi,

là tất yếu khách quan. Đây là động lực để Việt Nam tăng cường giao lưu và phát

triển kinh tế, đóng góp vào hòa bình, thịnh vượng chung của thế giới. Sự tham

gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm của Việt Nam tại các cơ chế, tổ

chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu góp phần củng cố, nâng cao vị

thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời quy định trên cũng khẳng định

nguyên tắc đối ngoại của Việt Nam là tuân thủ theo luật pháp quốc tế, tôn trọng

chủ quyền và lợi ích của các quốc gia khác.

Có thể khẳng định đường lối đối ngoại trên đã thể hiện rõ bản chất của

Nhà nước ta và truyền thống hòa hiếu, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam, phản

ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng của nhân dân ta và phù hợp với xu hướng phát

triển của thế giới hiện đại.

3.7. Về vị trí, vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức

thành viên của Mặt trận trong hệ thống chính trị

Trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ

chức chính trị, chính trị xã hội gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt

Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội

liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức thành

viên khác của Mặt trận đã đóng góp công sức và có vai trò to lớn đối với công

cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Các tổ chức này đã thể hiện tiếng

nói của nhân dân, đại diện quyền, lợi ích hợp pháp của các tầng lớp nhân dân.

Các tổ chức trên cùng là bộ phận của hệ thống chính trị, hợp thành cơ sở chính

trị của chính quyền nhân dân. Vì vậy, việc hiến định vai trò, vị trí của các tổ

chức này là cần thiết, nhằm góp phần phát huy truyền thống đại đoàn kết dân

tộc, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân.

Điều 9 Hiến pháp năm 2013 quy định:

57

“1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự

nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và

các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo,

người Việt Nam định cư ở nước ngoài.

Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân;

đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp,

phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường

đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà

nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

2. Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng

sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam

là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và

bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức

mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất

hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và

các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.

Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên

của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.”

Quy định trên đã khẳng định vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với

tư cách là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các

tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các tầng lớp xã hội và các cá nhân

Việt Nam ở trong và ngoài nước. Với tính chất đó, mục tiêu và nhiệm vụ chính

trị của Mặt trận Tổ quốc là phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường

sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng

cố chính quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính

đáng của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và giám sát hoạt động

của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. So

với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một vai trò của Mặt

trận Tổ quốc là tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện

58

dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội. Quy định

như vậy đã làm rõ hơn đồng thời đề cao trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc.

Bên cạnh đó, Hiến pháp cùng quy định về các tổ chức thành viên nòng cốt

của Mặt trận bao gồm: Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn

Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu

chiến binh Việt Nam. Những tổ chức này có trách nhiệm đại diện và bảo vệ

quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức minh, đồng

thời phối hợp với nhau, tạo thành sức mạnh thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc

Việt Nam.

Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân

và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người

lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao

động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra,

thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh

nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động;

tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề

nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 10).

Hội nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân

Việt Nam, là thành viên của hệ thống chính trị. Trong phạm vi chức năng của

mình, Hội nông dân Việt Nam tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia

kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; đoàn kết,

giáo dục nâng cao ý thức và năng lực làm chủ của nông dân; cùng với các cơ

quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của

nông dân và những người lao động khác; kiến nghị với Nhà nước những vấn đề

cần thiết trong chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn…

Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội, liên

minh tự nguyện của thanh niên Việt Nam, là đội dự bị và cánh tay đắc lực của

Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong chức năng của mình, Đoàn thanh niên có trách

nhiệm tập hợp, đoàn kết, giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ; phối hợp với các cơ

quan nhà nước, các tổ chức khác để chăm lo, bảo vệ quyền lợi của thế hệ trẻ và

59

đề xuất các chính sách về thanh niên.

Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của phụ nữ

Việt Nam, là thành viên có vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị. Hội liên

hiệp phụ nữ Việt Nam tập hợp, thu hút phụ nữ tham gia vào các công việc của

Nhà nước và xã hội, thúc đẩy bình đẳng giới, phát huy vai trò của nữ giới trong

gia đình và xã hội.

Hội cựu chiến binh Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, đại diện cho

đội ngũ cựu chiến binh của Việt Nam. Hội tập hợp, đoàn kết, bồi dưỡng và động

viên cựu chiến binh phấn đấu giữ vững bản chất cách mạng, tham gia xây dựng

và bảo vệ chính quyền, phát huy dân chủ, góp phần giữ ổn định chính trị, tăng

cường an ninh quốc phòng, tham gia vào các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn

hóa, xã hội.

Với vị trí và vai trò của mình, các thành viên trong hệ thống chính trị của

nước ta có nhiệm vụ quan trọng, với các hình thức cơ bản sau:

Thứ nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì hiệp thương với các tổ chức

xã hội khác để giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân

dân. Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên tham gia tích cực vào hoạt động

bầu cử bảo đảm hoạt động bầu cử phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của nhân

dân.

Thứ hai, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức tham gia xây dựng

pháp luật, có quyền trình các dự án luật, pháp lệnh trước quốc hội, tham gia góp

ý kiến trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng pháp luật.

Thứ ba, tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các

cơ quan nhà nước.

Thứ tư, tham gia tuyên tuyền pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật của

thành viên, đấu tranh bảo vệ quyền, lợi ích của thành viên.

3.8. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành chế định của Quốc

Hội trong Hiến Pháp 2013 ở Việt Nam theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII

của Đảng Cộng sản Việt Nam

Nâng cao hiệu quả thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013

60

theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là một trong những điều kiện để:

“Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng;

xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố,

tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ

nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý

chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy

mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây

dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định;

phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định

hướng xã hội chủ nghĩa”[8]. Để thực hiện được điều này cần tiến hành các giải

pháp cơ bản sau:

Một là, nhận thức và thực hiện đầy đủ hơn về tinh thần thượng tôn

Hiến pháp, pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội

Nhận thức và thực hiện tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong

đời sống nhà nước và xã hội là một quá trình khó khăn và lâu dài. Trong các

hoạt động, nhà nước và xã hội phải luôn khẳng định và bảo đảm sự thống trị của

Hiến pháp và pháp luật, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,

đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến

pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến

pháp và pháp luật, mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi

ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.

Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật không chỉ xây dựng, hoàn thiện Hiến

pháp, pháp luật mà còn phải tập trung tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật

nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả. Đã đến lúc đất nước ta phải “Thực hiện bước

chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ việc đặt trọng tâm vào việc xây dựng và

hoàn thiện pháp luật sang hoàn thiện và tổ chức thực thi pháp luật, bảo đảm

tính nghiêm minh của pháp luật, tính liên thông, gắn kết mật thiết giữa công tác

xây dựng và tổ chức thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp

2013”,[9] để pháp luật phát huy được vai trò, tác dụng thực sự của mình trong

đời sống nhà nước và xã hội.

61

Việc nhận thức và thực hiện tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật

trong đời sống nhà nước và xã hội phải luôn được bắt đầu từ các tổ chức Đảng,

Nhà nước và lan tỏa trong các tổ chức khác, các công dân, cá nhân trong xã hội.

Các tổ chức và cá nhân trong xã hội phải luôn ý thức được tinh thần pháp quyền

trong tổ chức và hoạt động của mình và của toàn xã hội.

Hai là, không ngừng nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật đất

nước

Muốn nâng cao hiệu quả thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013

thì trước hết phải không ngừng hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống pháp

luật. Văn kiện Đại hội Đảng XIII đã quán triệt phải nhanh chóng “xây dựng

được hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn

định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của

người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển

bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới”[10], “Tiếp

tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật đầy đủ, đồng bộ, hiện

đại, hội nhập, ổn định, cụ thể, minh bạch”[11]. Hoàn thiện hệ thống pháp luật

theo hướng tăng tính phù hợp, tính khả thi của các quy định pháp luật. Các quy

định pháp luật được ban hành phải phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp

với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước, góp phần thúc

đẩy tiến bộ xã hội, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa, hội

nhập của đất nước, nhu cầu cải cách bộ máy nhà nước vì lợi ích của nhân dân.

Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế - xã hội,

nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Ngoài ra, hệ thống

pháp luật Việt Nam còn phải được xây dựng phù hợp với các nguyên tắc cơ bản

của các điều ước và thông lệ quốc tế, có phương pháp điều chỉnh pháp luật phù

hợp cho mỗi loại quan hệ xã hội. Các quy phạm pháp luật được ban hành phải

phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành, nghĩa là, khi ban

hành quy phạm pháp luật, phải xem xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội

của đất nước có cho phép thực hiện được quy phạm pháp luật đó hay không,

đồng thời, phải tính đến các điều kiện khác như tổ chức bộ máy nhà nước, trình

62

độ của đội ngũ cán bộ, công chức, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận quy phạm

pháp luật đó, trình độ văn hoá và kiến thức pháp lí của nhân dân...

Khi xây dựng pháp luật phải chú ý đặc biệt đến thói quen, tâm lý của

nhiều người Việt Nam là “bất tuân pháp luật”, luôn tìm cách lẩn tránh pháp luật.

Do vậy, pháp luật, nếu có thể, cần được quy định càng chi tiết càng tốt. Các quy

định pháp luật nên được thể hiện theo cách loại trừ (trừ những hành vi, những

việc không được làm) còn lại bắt buộc phải làm để tránh hiện tượng “lách luật”.

Xây dựng và thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy nhà

nước, trong đó chú trọng việc quy định chặt chẽ chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của các cơ quan nhà nước, cương quyết thực hiện nguyên tắc “các cơ quan,

nhân viên nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép”. Xây dựng

và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và

hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền, xử lý kiên quyết và

nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật, nhất là đối với những vi phạm của cán bộ,

công chức nhà nước. Từng bước chuyên nghiệp hoá các hoạt động pháp luật, coi

các hoạt động pháp luật là hoạt động nghề nghiệp.

Để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu phát

triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các điều kiện

kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… của đất nước, cần tiếp tục:

+ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng tăng số lượng,

chất lượng và kỹ năng xây dựng luật của đại biểu Quốc hội chuyên trách. Tăng

cường hoạt động giám sát của Quốc hội đối với hoạt động ban hành các văn bản

quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, nhất là giám sát việc ban hành

những văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các văn bản luật;

+ Củng cố, nâng cao đội ngũ những người trực tiếp tham gia soạn thảo

văn bản quy phạm pháp luật thuộc các bộ, ban ngành, mà đặc biệt là Bộ Tư

pháp, cơ quan trực tiếp tham gia soạn thảo nhiều dự án luật, pháp lệnh..., thực

hiện việc thẩm định nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Thu hút nhiều chuyên

gia pháp luật giỏi của các vụ, viện, trường đại học, những người không bị lợi ích

nhóm chi phối, vào công tác xây dựng pháp luật. Trong thành phần các ban soạn

63

thảo cần bổ sung thêm số lượng các chuyên gia pháp lý có trình độ cao, như vậy

thì mới khắc phục được hiện tượng về lỗi kỹ thuật trong nội dung các dự thảo và

kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật mới được nâng cao;

+ Đẩy mạnh công tác rà soát, hệ thống hoá pháp luật, nhất là hoạt động

pháp điển hoá, thậm chí cần xây dựng những tổng tập luật lệ về một số lĩnh vực

nhất định. Kiên quyết loại bỏ những quy định trùng lặp giữa các văn bản quy

phạm pháp luật về cùng một vấn đề, có như vậy sẽ thuận lợi hơn cho hoạt động

xây dựng pháp luật nói riêng và các hoạt động thi hành, bảo vệ pháp luật nói

chung;

+ Không chỉ đề cao trách nhiệm chính trị mà cần quy định trách nhiệm

pháp lý đối với mỗi cơ quan nhà nước trong quá trình soạn thảo, ban hành văn

bản quy phạm pháp luật. Nếu một cơ quan nhà nước hay một cá nhân có thẩm

quyền tham gia soạn thảo, thẩm định, thẩm tra hay ban hành văn bản quy phạm

pháp luật có lỗi do hành vi của mình dẫn đến việc ban hành văn bản quy phạm

pháp luật trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng cho nhà nước và xã hội thì

phải chịu trách nhiệm pháp lý theo hướng hậu quả pháp lý bất lợi. Nếu có thể

nên quy định trách nhiệm pháp lý đối với từng cá nhân hoặc từng bộ phận tham

gia soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, ban hành văn bản quy phạm pháp luật;

+ Tăng cường kinh phí cho các hoạt động xây dựng pháp luật. Muốn huy

động được trí tuệ, công sức của tổ chức, cá nhân vào xây dựng pháp luật cần

phải đầu tư kinh phí thỏa đáng cho hoạt động này. Tăng cường kinh phí cho các

hoạt động hội thảo khoa học hoặc tham vấn chuyên gia phục vụ công tác soạn

thảo văn bản quy phạm pháp luật;

+ Đẩy mạnh việc “Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thử nghiệm

cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát

triển các mô hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo, cung cấp dịch vụ công,

quản lý và bảo vệ môi trường...”[12], đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước

trên các phương diện, theo kịp trình độ phát triển của thế giới.

Ba là, tiếp tục cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo tinh thần nhà

nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân

64

Trách nhiệm tổ chức thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 là

thuộc bộ máy, các cơ quan, nhân viên nhà nước, những người có trách nhiệm.

Do vậy, cần “Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp

luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội”[13], bởi, hiệu quả thi

hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 phụ thuộc trực tiếp vào hoạt

động có trách nhiệm của các cơ quan, nhân viên nhà nước. Đẩy nhanh công cuộc

xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt: “Hoàn thiện thể

chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực,

hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.[14] Cụ thể là:

Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,

nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển,

“Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ

quan nhà nước, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối

quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”[15]. Tiếp tục đổi mới tổ chức và

hoạt động của các cơ quan nhà nước cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội

hiện nay, đặc biệt là “Tăng cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành chế

định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013, bảo đảm chấp hành pháp luật

nghiêm minh”[16], góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy nhà

nước.

Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

trên cơ sở hoàn thiện hệ thống pháp luật, “đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật

gắn với tổ chức thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 nhằm

nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo

đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để

nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước

theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội”[17].

Bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân,

sự phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ, hợp lý giữa các cơ quan nhà nước

trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Kiện toàn tổ chức và

nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội; cải tiến phương thức hoạt động của

65

Chính phủ, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng

bước hiện đại hoá; tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân, kiện toàn các cơ quan

chuyên môn của Uỷ ban nhân dân; cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt

động, tinh thần trách nhiệm của các cơ quan hoạt động tư pháp trong công tác

điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những

trường hợp oan sai.

Bốn là, nâng cao chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công

chức nhà nước trong việc thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp

2013 và tổ chức thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013

Đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch có năng lực là yếu tố quyết định

đến chất lượng của hoạt động thi hành, áp dụng pháp luật. Để có đội ngũ cán bộ,

công chức đủ năng lực, phẩm chất, thời gian tới “Đảng tập trung lãnh đạo về

đường lối chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách về cán

bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách

nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ,

công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có

trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn

mới”[18]. Cần nhanh chóng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức “có

tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về

tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh

chính trị vững vàng. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; có

cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và

áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được

giao, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám

nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”[19].

Muốn việc thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 có hiệu

quả cao thì phải không ngừng nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành chế định của

Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013. Các tổ chức, cá nhân nhiều khi muốn thi hành

chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 nhưng không thể làm được vì

thiếu khâu tổ chức thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 của

66

các cơ quan, người có trách nhiệm của nhà nước tổ chức cho các tổ chức, cá

nhân thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013. Ngược lại, một bộ

phận tổ chức, cá nhân không chủ động trong thi hành chế định của Quốc Hội

trong Hiến Pháp 2013, họ thường chờ mệnh lệnh của các cơ quan, cá nhân có

trách nhiệm. Do vậy, đòi hỏi bản thân đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phải

tự mình gương mẫu thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013,

đồng thời phải có trách nhiệm tổ chức để các tổ chức, cá nhân khác nghiêm

chỉnh thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 chính xác, đầy đủ,

triệt để. Khẩn trương “Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa trên đội

ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng

tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh

nghiệp”[20]. Cần củng cố các cơ quan có trách nhiệm tổ chức thi hành chế định

của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách

nhiệm đối với các cơ quan đó. Không ngừng quán triệt nguyên tắc “Nhà nước

được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng

Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Cần đào tạo và

đào tạo lại để không ngừng nâng cao kiến thức quản lý nhà nước, kiến thức pháp

luật cho cán bộ, công chức nhà nước.

Các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cần đẩy mạnh việc xét và giải quyết

khiếu nại, tố cáo về những việc làm sai trái của các cơ quan, đơn vị, cá nhân,

bảo đảm công bằng và nghiêm minh, xử lý kiên quyết đối với những người vi

phạm pháp luật làm tổn hại tới quyền, lợi ích, danh dự... của nhân dân và các tổ

chức, cơ quan, đơn vị, đồng thời phải tiến hành minh oan công khai, bồi thường

thoả đáng những thiệt hại về vật chất, phục hồi danh dự và việc làm đối với

những người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử oan sai, trái pháp luật. Truy

cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người có hành vi trả thù người khiếu nại,

tố cáo hoặc những người lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo

làm hại người khác.

Năm là, triển khai có hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật

cho cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân

67

Phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý

cho cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước và mọi tầng lớp nhân dân, phát huy

tính năng động, sáng tạo của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp vào việc

thiết lập kỷ cương, trật tự an toàn xã hội, xây dựng nếp sống văn minh, tạo thói

quen “sống, làm việc theo pháp luật” trong các cơ quan nhà nước và trong toàn

xã hội là một trong những điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả thi hành

chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013.

Việc phổ biến, giáo dục pháp luật trước hết phải nhằm vào đội ngũ cán

bộ, công chức Nhà nước, những người trực tiếp quản lý Nhà nước, quản lý xã

hội bằng pháp luật theo tinh thần: “Các cán bộ lãnh đạo và quản lý các cương vị

chủ chốt từ trung ương đến tỉnh, huyện, xã, từ tổng giám đốc đến cán bộ quản lý

cơ sở, đều phải qua các lớp bồi dưỡng định kỳ có sát hạch, theo chương trình

thiết thực và có hệ thống về đường lối, chính sách, cơ chế quản lý và kiến thức

quản lý mới, về chuyên môn, nghiệp vụ và về pháp luật”[21]. Từng bước tiến tới

tiêu chuẩn hoá về trình độ của cán bộ, công chức trong các cơ quan pháp luật.

Ngoài việc nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức còn phải nâng cao ý

thức pháp luật cho toàn thể nhân dân trong xã hội theo tinh thần “không ai là

không biết pháp luật”. Coi yêu cầu hiểu biết pháp luật như một trong những tiêu

chí để đánh giá, phân loại cán bộ, công chức hàng năm. Đồng thời coi trọng nội

dung thi về pháp luật khi thi tuyển dụng công chức, thi nâng bậc, chuyển ngạch

cho cán bộ, công chức.

Kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục tri thức, văn hóa, giáo dục chính

trị, đạo đức, nhân cách, lối sống cho nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ, từng

bước “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng

lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ

quốc. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao,

đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc

tế”[22]. Tạo ra sự phát triển toàn diện cho mỗi con người để họ có đầy đủ năng

lực tham gia một cách chủ động, tự giác, tích cực vào các hoạt động pháp luật

với động cơ đúng đắn và hiệu quả.

68

Để phổ biến, giáo dục pháp luật đạt kết quả tốt cần kết hợp nhiều hình

thức và biện pháp đồng bộ, trong đó cần chú trọng hoàn thiện cơ chế quản lý

Nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Nâng cao chất lượng, đổi

mới phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng khác nhau; lôi

cuốn, tạo điều kiện để nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động pháp luật

thực tiễn; đa dạng hoá các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, các loại hình

đào tạo pháp luật; tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại và các

phương tiện thông tin đại chúng vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Mở

rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động tư vấn dịch vụ pháp lý; phát hành

rộng rãi các loại sách báo, tài liệu để phổ biến, giáo dục pháp luật. Đối với các

văn bản pháp luật quan trọng, thiết thực cần được in với số lượng lớn, bán rộng

rãi với giá rẻ (Nhà nước có thể bù lỗ cho loại tài liệu này) để mọi gia đình, cá

nhân đều có thể mua và sử dụng được; hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật

phải căn cứ vào trình độ dân trí, yêu cầu của nghề nghiệp, khu vực sinh sống...

theo tinh thần người biết nhiều nói cho người biết ít, người biết nói cho người

chưa biết để tất cả xã hội đều hiểu biết pháp luật, sống, làm việc theo Hiến pháp,

pháp luật.

Sáu là, thường xuyên kiểm tra, giám sát, theo dõi việc thi hành chế

định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm

pháp luật

Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát việc thi hành chế định của Quốc

Hội trong Hiến Pháp 2013, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật để kịp thời

phát hiện và khắc phục những khiếm khuyết, yếu kém của hoạt động này, xử lý

nghiêm minh những tổ chức, cá nhân có hành vi cố ý áp dụng pháp luật không

đúng, không phù hợp với mục đích đặt ra. Để nâng cao hiệu quả của công tác

kiểm tra, giám sát, theo dõi việc thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến

Pháp 2013 cần kết hợp sự kiểm tra, giám sát, theo dõi của các cơ quan nhà nước

với kiểm tra, giám sát, theo dõi của các tổ chức xã hội và của nhân dân. Phân

định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong công tác kiểm

tra, giám sát, theo dõi thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013.

69

Kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực cho các cơ quan làm công tác kiểm tra,

giám sát, theo dõi thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013.

Nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm cho Hiến pháp

được thực hiện chính xác.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội

và nhân dân. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân

tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của

địa phương và của đất nước. Đồng thời tổ chức thật tốt để nhân dân kiểm tra,

giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và những người có chức vụ, quyền

hạn. Thường xuyên “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra,

kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và xử lý nghiêm, đúng pháp luật các hành vi

tham nhũng, lãng phí. Tăng cường giám sát và phòng, chống tham nhũng trong

các cơ quan bảo vệ pháp luật. Thiết lập cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực

hiệu quả”[23].

Xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm. Mọi

hành vi xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức

và cá nhân đều bị xử lý theo pháp luật, "Mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều

phải sống và làm việc theo pháp luật, gương mẫu trong việc tôn trọng pháp luật.

Không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm

đều phải được xử lý. Bất cứ ai phạm pháp đều đưa ra xét xử theo pháp luật,...

Cấm bao che hành động phạm pháp và người phạm pháp dưới bất cứ hình thức

nào"[24]. Từng bước xây dựng lối sống và thói quen sống, làm việc theo pháp

luật trong đời sống nhà nước và xã hội. Nhà nước cũng cần quy định chế độ

trách nhiệm pháp lý đối với các cơ quan hoặc cá nhân trong việc tổ chức thi

hành và áp dụng pháp luật trên thực tế để tránh hiện tượng pháp luật không được

tổ chức thi hành nhưng không ai chịu trách nhiệm về vấn đề đó.

Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể

chính trị - xã hội, cán bộ, Đảng viên, nhân dân phát hiện và tích cực đấu tranh

chống vi phạm pháp luật. Nâng cao vai trò của các cơ quan, phương tiện thông

tin đại chúng trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, buôn lậu, lãng phí,

70

quan liêu, lợi dụng chức quyền để tham ô, nhận hối lộ, làm thất thoát tài sản nhà

nước, sách nhiễu nhân dân.

Bảy là, củng cố các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác, kết hợp

hài hòa với pháp luật trong duy trì, quản lý đời sống xã hội

Ngoài việc quản lý xã hội bằng pháp luật còn cần chú ý những công cụ

khác như đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo... bởi, giữa chúng luôn có mối liên

hệ mật thiết với nhau, không có công cụ nào tồn tại và tác động một cách biệt

lập, mỗi công cụ luôn có ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng bởi các công cụ quản lý

khác. Các công cụ quản lý xã hội luôn dựa vào nhau, hỗ trợ nhau để cùng tồn

tại, phát triển vì sự ổn định và trật tự xã hội, vì cuộc sống cộng đồng ổn định,

phát triển hướng tới chân, thiện, mỹ. Hiện nay chúng ta đang xây dựng Nhà

nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa - một Nhà nước đề cao vị thế của

pháp luật trong xã hội, song không phải vì thế mà chúng ta xem nhẹ vai trò của

các công cụ quản lý khác trong xã hội. Pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu thì

cũng không cần và không thể điều chỉnh được hết và có hiệu quả đối với tất cả

các quan hệ xã hội mà vẫn cần phải có sự bổ trợ của các công cụ điều chỉnh

khác trong xã hội. Do vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu để củng cố và sử dụng

một cách hài hoà giữa pháp luật với các công cụ quản lý xã hội khác, phát huy

những điểm phù hợp của các công cụ này để hỗ trợ cho thực hiện pháp luật, thúc

đẩy xã hội phát triển về mọi mặt, nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với

các quan hệ xã hội vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.

Tám là, đầu tư các nguồn lực thoả đáng cho hoạt động thi hành chế

định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013, thực hành tiết kiệm, chống tham

nhũng, lãng phí trong các hoạt động pháp luật

Đầu tư về nguồn lực con người, bố trí, lựa chọn những cán bộ, công

chức có đức, có tài cho các cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành chế định

của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013. Đầu tư cơ sở vật chất thỏa đáng cho hoạt

động thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013, trong đó có việc

nâng lương cho đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những người thường xuyên

trực tiếp giải quyết công việc có liên quan tới tài sản, đến các mặt trái của xã

71

hội, đủ đảm bảo cho họ có thể sống liêm khiết bằng đồng lương của mình có ý

nghĩa rất quan trọng.

Cùng với việc đầu tư thoả đáng cơ sở vật chất còn phải thực hành tiết

kiệm, chống tham ô, lãng phí trong hoạt động tổ chức thi hành chế định của

Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013. Luôn “Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu

quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng

phí. Nâng cao hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, làm tốt chức

năng hỗ trợ, thúc đẩy phát triển. Không hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế,

hành chính, dân sự. Phát huy đúng vai trò giám sát, phản biện xã hội, các hình

thức tự quản của cộng đồng, các phương thức hòa giải cấp cơ sở. Hoàn thiện cơ

chế, chính sách phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã

hội, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng trong quá trình

hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trong việc phát

hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”[25]. Giảm chi phí, thực

hành tiết kiệm trong tổ chức thi hành và thi hành chế định của Quốc Hội trong

Hiến Pháp 2013 cho nhà nước, các tổ chức, cá nhân là giải pháp quan trọng để

nâng cao hiệu quả thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 ở nước

ta hiện nay.

Chín là, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, sự gương mẫu của đảng

viên và các tổ chức Đảng trong thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến

Pháp 2013

Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là điều kiện vô cùng quan

trọng trong việc nâng cao hiệu quả thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến

Pháp 2013 ở nước ta. Sự gương mẫu của các tổ chức đảng và các cá nhân đảng

viên trong việc thực hiện đầy đủ, nghiêm minh các quy định pháp luật sẽ là tấm

gương để nhân dân noi theo. Điều đó cũng củng cố sự tin tưởng của nhân dân

vào những giá trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì

dân, từng bước biến những lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội thành hiện

thực. Trong tiến trình xây dựng, củng cố nhà nước pháp quyền, đòi hỏi các tổ

chức đảng, các tổ chức xã hội và mọi công dân, mỗi thành tố của xã hội đều phải

72

thể hiện đúng vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội, nghiêm chỉnh thực

hiện đầy đủ, chính xác các quy định của pháp luật. Hiến pháp Việt Nam năm

2013 đã quy định không chỉ các tổ chức của Đảng mà còn nhấn mạnh tất cả

đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến

pháp và pháp luật. Là đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã

hội xây dựng, thực hiện và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, Đảng Cộng sản Việt

Nam luôn tự đặt mình dưới quyền lực của Hiến pháp và pháp luật, tự giác hoạt

động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, “Các tổ chức của Đảng và

đảng viên, nhất là tổ chức, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước

vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò

tiên phong trong thực hiện chủ trương, đường lối, các quy định của Đảng, chính

sách, pháp luật của Nhà nước”[26]. Trong điều kiện chỉ tồn tại một đảng duy

nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội càng cần phải tăng cường nguyên tắc pháp chế

trong mối quan hệ quyền lực giữa Đảng với Nhà nước và xã hội. Củng cố vai trò

lãnh đạo của Đảng đối với việc thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp

2013 cần tiến hành nhiều biện pháp khác nhau trong đó phải “đặc biệt coi trọng

và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư

tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”[27]. Để có căn cứ cho việc lãnh đạo cần

“Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ

sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy

trình cụ thể và công khai để cán bộ, đảng viên và nhân dân biết, giám sát việc

thực hiện”[28]. Từng bước khắc phục sự yếu kém trong chỉ đạo, tổ chức thực

hiện mà Đảng đã chỉ ra bằng việc “Nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo và chất

lượng công tác hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt

Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Kịp thời thể chế hóa, cụ thể hoá, triển

khai đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp

luật của Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực

hiện”[29].

Với sự lãnh đạo sáng suốt và quyết tâm của Đảng, sự tích cực quản lý của

73

Nhà nước, sự ủng hộ nhiệt thành của các tổ chức và các tầng lớp nhân dân đối

với Đảng và Nhà nước nhất định chúng ta sẽ thực hiện thằng lợi Chiến lược phát

triển kinh tế- xã hội mà Đảng đã đề ra trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII, trong

đó có việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả

thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 và các chính sách phát

triển kinh tế- xã hội của đất nước.

74

KẾT LUẬN

Qua việc nghiên cứu về chế định Quốc hội trong Hiến pháp 2013 để

người đọc người nghe có thể nắm chắc hơn về các chế định của Quốc Hội những

nội dung sau đây :

Thứ nhất, cần đổi mới quan niệm về đại biểu Quốc hội và thành phần đại

biểu Quốc hội.

Không nên quan niệm với việc “cơ cấu” một cách chi tiết, tỉ mỉ thành

phần đại biểu thuộc mọi dân tộc, mọi địa bàn, mọi thành phần, lĩnh vực hoạt

động trong xã hội là đã có một Quốc hội đại diện cho nhân dân cả nước. Càng

không nên quan niệm rằng, cứ phải có một chị nông dân trong Quốc hội thì mới

có người đại diện cho giai cấp nông dân cũng như không phải cứ có một nhà

khoa học ngồi trong Quốc hội thì mới có tiếng nói của tầng lớp tri thức trong

Quốc hội. “Đại diện” ở đây cần là đại diện cho cái “tâm”, cái “trí”, cái “dũng”

hơn là đại diện bởi con người cụ thể. Một nhà khoa học có cái “tâm” vì người

nông dân, có cái “trí” để hiểu cuộc sống của người nông dân, có cái “dũng” để

mạnh dạn nói lên tiếng nói vì người nông dân tại diễn đàn Quốc hội tại sao

không thể coi là người đại diện chân chính cho giai cấp nông dân? Và ngược

lại? Theo chúng tôi, vấn đề xác định “cơ cấu” đại biểu Quốc hội cần tính thêm,

không nên nặng về mặt cơ cấu hình thức như hiện nay.

Chúng ta cũng không nên quan niệm rằng, chỉ đại biểu Quốc hội hoạt

động ở lĩnh vực nào thì mới là người “có kiến thức thực tế”, đại diện được cho

những người hoạt động trong lĩnh vực đó. Tư duy và quan niệm như vậy vốn chỉ

phù hợp trong giai đoạn trước cách mạng khoa học và công nghệ, trước bùng nổ

thông tin. Tư duy và quan niệm này thực tế đã tạo dựng nên Quốc hội với đa

phần là những đại biểu hoạt động bán chuyên trách với hầu hết các đại biểu hoạt

động ở một lĩnh vực nào đó và được coi là những người duy nhất am hiểu thực

tế về lĩnh vực họ đang làm. Tuy nhiên, cuộc cách mạng về công nghệ thông tin

hiện nay cho phép một người chỉ ở thành phố cũng có thể nắm bắt được khá đầy

đủ cuộc sống ở nông thôn, nếu như người đó thực sự quan tâm đến nông dân...

Ngoài ra, để bảo đảm tính đại diện cho nhân dân của đại biểu Quốc hội,

75

cần giảm bớt đến mức tối đa số đại biểu là công chức trong các cơ quan quản lý

nhà nước, các cơ quan toà án và kiểm sát; tạo điều kiện để cử tri có thể bầu

những người thuộc mọi thành phần rộng rãi khác trong xã hội đại diện cho mình

tham gia Quốc hội. Nếu thành phần đại biểu Quốc hội vẫn chủ yếu là công chức

nhà nước thuộc các lĩnh vực hoạt động trên thì vô hình chung, thành phần đại

biểu Quốc hội đã nghiêng về phía đại diện cho lĩnh vực công quyền, Quốc hội

trở thành “cơ quan đại biểu cao nhất của các cơ quan nhà nước” chứ không còn

là cơ quan “đại biểu cao nhất của nhân dân”. Chưa kể, đại biểu Quốc hội là công

chức sẽ không ai muốn từ bỏ vị trí, công việc “ổn định” của mình trong cơ quan

nhà nước để hoạt động chuyên trách theo nhiệm kỳ tại Quốc hội. Do vậy, họ

phải tập trung thời gian và sức lực cho công việc mà họ đang đảm nhiệm, không

thể dành nhiều thời gian và sức lực cho việc thực hiện nhiệm vụ “đại diện cho

nhân dân” tại Quốc hội như nhân dân mong muốn.

Thứ hai, cần đổi mới tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội theo

hướng để Quốc hội có thực quyền hơn và có đủ điều kiện làm tròn mọi nhiệm vụ

được nhân dân giao cho.

Hiện nay, theo quy định có tính nguyên tắc của Hiến pháp và các đạo luật

khác, Quốc hội có rất nhiều quyền hạn, thực sự là “cơ quan quyền lực nhà nước

cao nhất”. Tuy nhiên, để thực hiện những quy định có tính nguyên tắc này, pháp

luật lại chưa có đủ các quy định cụ thể cần thiết cũng như chưa có đủ điều kiện

vật chất cần thiết (như tổ chức bộ máy, nhân sự, phương tiện…) để Quốc hội,

các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội thực hiện. Chức năng giám sát,

chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, nhất là đối với lĩnh

vực quyết định về ngân sách, giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan

nhà nước… dường như vẫn là những bài toán chưa có lời giải đối với Quốc hội.

Nói một cách hình ảnh, Quốc hội như người nông dân có trâu nhưng không có

cày, chỉ đứng nhìn cánh đồng bát ngát chưa cày vỡ khi mùa gieo trồng đến mà lo

lắng. Tuy nhiên, khác với người nông dân, Quốc hội có thể và nhất định sẽ phải

trang bị “cái cày” cho mình, vấn đề là khi nào? Theo chúng tôi, việc Nghị quyết

Hội nghị Ban chấp hành trung ương 7 (khoá VIII) đề ra nhiệm vụ nghiên cứu,

76

sửa đổi những quy định có liên quan tới tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến

pháp năm 1992 và trong các luật về tổ chức Nhà nước là một dịp để thể hiện

quyền lực của Quốc hội cần nắm bắt.

Thứ ba, về mặt pháp luật và tổ chức thực hiện, cần có cơ chế tạo điều kiện

để nhân dân và các tổ chức xã hội tham gia một cách rộng rãi, thực chất vào mọi

hoạt động của Quốc hội.

Chỉ với việc Quốc hội cho phép truyền hình trực tiếp các buổi chất vấn tại

phiên họp Quốc hội để nhân dân theo dõi đã góp phần tạo ra một sự gắn kết

không nhỏ giữa Quốc hội và nhân dân, tạo ra sức mạnh cho người đại biểu Quốc

hội mạnh dạn hơn trong việc chất vấn những người nắm giữ trọng trách trong bộ

máy nhà nước. Điều này cũng buộc những người bị chất vấn phải nghiêm túc

hơn, có trách nhiệm hơn đối với những vấn đề phải trả lời tại Quốc hội, đồng

thời phải nâng cao trách nhiệm hơn trong công tác quản lý mà mình đảm nhiệm.

Đây là một bài học thực tiễn về sự gắn kết giữa Quốc hội và nhân dân (mặc dù

mới chỉ thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, chưa phải là sự gắn kết

trong hoạt động thực tiễn) đã có hiệu quả như thế nào đối với hoạt động của

Quốc hội.

Nghiêm túc đánh giá lại thực tiễn hoạt động của Quốc hội thời gian qua

cho thấy, nhân dân dường như có rất ít điều kiện tham gia và giám sát hoạt động

của cơ quan do nhân dân bầu ra để đại diện cho mình cũng như chính Quốc hội,

các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội còn chưa mạnh dạn dựa vào dân,

chưa phát huy được sức mạnh của nhân dân trong hoạt động của mình. Một

trong những hoạt động bị đánh giá là hạn chế nhất của Quốc hội là hoạt động

giám sát mà theo chúng tôi, nguyên nhân quan trọng nhất là chưa biết dựa vào

“tai, mắt” của nhân dân, chưa biết huy động sức mạnh của nhân dân vào hoạt

động đặc biệt khó khăn, phức tạp nhưng cực kỳ quan trọng này. Theo chúng tôi,

trong hoạt động giám sát của Quốc hội cần phải thể hiện được nội dung có tính

nguyên tắc về sự tham gia của nhân dân vào hoạt động giám sát của Quốc hội,

cần xác định đây là một trong những yếu tố cơ bản quyết định hiệu quả công tác

giám sát của Quốc hội.

77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) (2007), Quốc hội Việt Nam trong

Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

2. Trần Thị Hạnh Dung (2010), “Những yếu tố ảnh hưởng đến chức

năng đại diện của Quốc hội”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (16), tr 12-14.

3. Nguyễn Sĩ Dũng (Chủ biên) (2002), Tổ chức và hoạt động của Quốc

hội một số nước, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.

4. Nguyễn Sĩ Dũng (2003), “Đại biểu Quốc hội, chuyên trách hay

chuyên nghiệp”, Quốc hội Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb

Tư pháp 2006, tr. 147-151.

5. Nguyễn Sĩ Dũng, Trần Tuyết Mai, Nguyễn Đức Lam, Hoàng Minh

Hiếu (2006), Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội, Nxb Tư pháp,

Hà Nội.

6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội

7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Nghị quyết Trung ương 8B khóa

VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

9. Hoàng Duy - Hoàng Minh Hiếu (2000), “Trao đổi về hoạt động giám

sát của Quốc hội”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (3), tr.12-15

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội

11. Đoàn thư ký kỳ họp Quốc hội khóa XIII (2014), Báo cáo kết quả kỳ

họp thứ 7 ngày 24/6/2014 và Báo cáo

12. kết quả kỳ họp thứ 8 ngày 28/11/2014, Hà Nội

78