HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
KHOA KHOA HỌC LIÊN NGÀNH
BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
NGHIÊN CỨU VỀ CHẾ ĐỊNH CỦA QUỐC HỘI
TRONG HIẾN PHÁP 2013
Mã số: ĐTSV.2023.10
: Lê Hoàng Hiệp : 2105XDDA
Chủ nhiệm đề tài Lớp Cán bộ hướng dẫn : TS. Tô Trọng Mạnh
Hà Nội, 2023
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
KHOA KHOA HỌC LIÊN NGÀNH
BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
NGHIÊN CỨU VỀ CHẾ ĐỊNH CỦA QUỐC HỘI
TRONG HIẾN PHÁP 2013
Mã số: ĐTSV.2023.10
: Lê Hoàng Hiệp
Chủ nhiệm đề tài Thành viên tham gia : Nguyễn Hồng Minh Lớp Trịnh Hải Đăng : 2105XDDA
Hà Nội, 2023
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, thay mặt nhóm nghiên cứu xin phép gửi lời cảm ơn tới Học
viện Hành Chính Quốc Gia, khoa Khoa học liên ngành, phòng Công tác sinh
viên, cùng các giảng viên đã tận tình chỉ dạy và tạo điều kiện giúp đỡ nhóm
nghiên cứu trong quá trình học tập, nghiên cứu và hoàn thành đề tài nghiên cứu
và hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học này. Đặc biệt, xin gửi lời cảm ơn sâu
sắc đến thầy Tô Trọng Mạnh đã luôn tận tình đồng hành hướng dẫn, chỉ bảo,
giúp đỡ và động viên nhóm trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài
nghiên cứu này. Cảm ơn các qúy anh/chị, người dân địa phương đã tạo điều kiện
hỗ trơ nhóm trong quá trình nghiên cứu khoa học.
Mặc dù đã cố gắng hoàn thiện bài nghiên cứu nhưng đề tài không tránh
khỏi những thiếu sót; nhóm nghiên cứu rất mong nhận được sự thông cảm, chỉ
dẫn, giúp đỡ và đóng góp ý kiến của các nhà khoa học, thầy cô quản lý cùng quý
độc giả trong và ngoài nước.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2023
TM. Nhóm nghiên cứu
Chủ nhiệm đề tài
Lê Hoàng Hiệp
LỜI CAM ĐOAN
Với tinh thần trách nhệm trong suốt quá trình nghiên cứu. Chúng em xin
cam đoan trước đây là công trình nghiên cứu của nhóm. Các số liệu và tham
khảo đưa ra trong bài nghiên cứu là trung thực, chính xác và được trích dẫn đầy
đủ tài liệu. Chúng em xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này!
Hà Nội, ngày 15 tháng 4 năm 2023
TM. Nhóm nghiên cứu
Chủ nhiệm đề tài
Lê Hoàng Hiệp
MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
LỜI CAM ĐOAN
PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ......................................................................................... 1
2.Tổng quan tình hình nghiên cứu: ................................................................. 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 3
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................ 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH CỦA QUỐC HỘI
TRONG HIẾN PHÁP 2013 ................................................................................ 5
1.1. Một số khái niệm cơ bản. ......................................................................... 5
1.1.1 Khái niệm về chế định: ........................................................................... 5
1.1.2 Khái niệm về Quốc Hội .......................................................................... 7
1.1.3 Khái niệm về chế định của Quốc Hội trong Hiến pháp ......................... 8
1.3 Đặc điểm của chế định Quốc Hội trong Hiến pháp 2013 ......................... 9
1.4.Vai trò của chế định Quốc hội trong hiến pháp 2013 ............................. 17
1.5 Ý nghĩa của việc nghiên cứu chế định trong Quốc Hội trong Hiến Pháp
2013 ............................................................................................................... 21
CHƯƠNG 2: NỘI DUNG CHẾ ĐỊNH QUỐC HỘI TRONG HIẾN PHÁP
2013 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC THI. ........ 24
2.1 Nội dung về chế định Quốc Hội trong Hiến pháp 2013 .......................... 24
2.1.1 Vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước ......................................... 24
2.1.2 Tính chất của Quốc hội ........................................................................ 24
2.1.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội ..................................................... 25
2.1.4 Hình thức và kỹ thuật lập hiến ............................................................. 25
2.1.5 Vị trí, tính chất của Quốc hội trong bộ máy nhà nước (Điều 69) ........ 26
2.1.6 Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội (Điều 70) ..................................... 27
2.1.7 Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 74) ...... 31
2.1.8 Một nhiệm vụ-quyền hạn hoàn toàn mới ............................................. 32
2.1.9 Một nhiệm vụ, quyền hạn có thể nói là “mới nay, cũ xưa”, ................ 32
2.1.10 Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội .................................. 32
2.1.11 Đại biểu Quốc hội (các Điều 79, 80, 81 và 82) ................................. 33
2.1.12 Kỹ thuật lập hiến ................................................................................ 34
2.2. So sánh nội dung chế đinh về Quốc Hội của Hiến pháp 2013 so với các
bản Hiến pháp 1946 ....................................................................................... 34
2.3. Lịch sử phát triển của Hiến pháp Việt Nam ........................................... 39
2.3.1. Hiến pháp 1946 .................................................................................... 39
2.3.2. Hiến pháp năm 1959 ............................................................................ 40
2.3.3. Hiến pháp năm 1980 ............................................................................ 41
2.3.4. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001 ............................... 42
2.4. Sự cần thiết ban hành ............................................................................. 43
2.4.1. Sự cần thiết .......................................................................................... 44
2.4.2. Yêu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1992 ................................................. 44
2.4.3. Quan điểm chủ đạo trong ban hành Hiến pháp năm 2003 .................. 45
2.4.4. Phạm vi những nội dung được sửa đổi trong Hiến pháp năm 2013 .... 46
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ
ĐỘ CHÍNH TRỊ ................................................................................................ 48
3.1. Về chủ quyền quốc gia ........................................................................... 48
3.2. Về bản chất của nhà nước....................................................................... 49
3.3. Về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân
và vì Nhân dân ............................................................................................... 51
3.4. Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam ....................... 53
3.5. Về chính sách dân tộc và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc ................. 54
3.6. Chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam . 55
3.7. Về vị trí, vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành
viên của Mặt trận trong hệ thống chính trị .................................................... 57
3.8. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành chế định của Quốc Hội
trong Hiến Pháp 2013 ở Việt Nam theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của
Đảng Cộng sản Việt Nam .............................................................................. 60
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 78
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong tổ chức bộ máy nhà nước, Quốc hội là thiết chế có vị trí, vai trò đặc
biệt quan trọng trong việc đảm bảo thực thi quyền lực Nhân dân. Điều 6, Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định: “Nhân dân
thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện
thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà
nước”. Điều 69 quy định: “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam .”.
Sự hiến định này cho thấy ở Việt Nam, thuật ngữ “cơ quan đại biểu cao
nhất” được hiểu đồng nhất với khái niệm cơ quan đại diện cao nhất trong bộ
máy nhà nước. Đại diện trở thành một thuộc tính của Quốc hội xuyên suốt và chi
phối vị trí, vai trò, cơ chế hoạt động, cơ cấu đại biểu, hiệu lực đại diện và thể
hiện tập trung nhất qua việc thực hiện các chức năng: lập hiến, lập pháp; quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao đối với hoạt
động của nhà nước. Nói một cách khác, tính đại diện cao nhất của Quốc hội Việt
Nam bắt nguồn từ bản chất nhà nước dân chủ nhân dân mà chúng ta đã lựa chọn
từ năm 1945. Điều đó được quy định bởi:
Một là, Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra dựa trên các
nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đây là những quy
định đảm bảo cho mỗi người dân tự do bầu cử, lựa chọn những nhà đại diện theo
ý chí của mình.
Hai là, các đại biểu Quốc hội không chỉ đại diện cho Nhân dân ở đơn vị
bầu cử ra mình mà còn đại diện cho Nhân dân cả nước. Bởi vậy, Quốc hội có
trách nhiệm cao cả là thay mặt Nhân dân thực hiện đúng và dầy đủ quyền lực
nhà nước, trở thành “dầu dây thần kinh” kết nối các lợi ích trong xã hội.
Ba là, là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, có những quyền năng đặc
biệt, song Quốc hội chịu sự giám sát, chịu trách nhiệm trước Nhân dân, có thể bị
bãi nhiệm bởi Nhân dân khi không thực hiện trọng trách chính trị đã được giao
1
phó.
Tuy nhiên hiện nay, việc nghiên cứu Quốc hội với tư cách là cơ quan đại
diện cao nhất của Nhân dân chưa được làm rõ cả về lý luận và thực tiễn. Ở
phương diện lý luận, khái niệm đại diện của Quốc hội chưa được luận giải thống
nhất là tính chất hay là một chức năng của Quốc hội. Nhiều vấn đề mang tính hệ
thống về đại diện của Quốc hội chưa được nghiên cứu như: nội dung đại diện,
hình thức thực thi đại diện, tỷ lệ đại diện (chuyên trách, kiêm nhiệm), tư cách
đại diện khi xử ỹ mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia, dân tộc với lợi ích nhóm cử
tri của đơn vị bầu cử…
Ở phương diện thực tiễn, hoạt động của Quốc hội chưa tương xứng với vị
trí và vai trò hiến định, Quốc hội chưa mạnh, chưa thực quyền trong quyết định
các vấn đề quan trọng của đất nước, trong giám sát tối cao hoạt động của nhà
nước
Trong điều kiện đẩy mạnh công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa; mở rộng và phát huy quyền làm chủ của Nhân
dẫn, dảm bảo nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công,
phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp, tư pháp thì việc tiếp tục đối mới tổ chức và hoạt động của
Quốc hội, làm sáng tỏ cả về phương diện lý luận lẫn thực tiễn về vai trò dại diện,
các điều kiện đảm bảo để Quốc hội thực thi hoạt động đại diện Nhân dân cao
nhất có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
2.Tổng quan tình hình nghiên cứu:
Tìm hiểu qua các phương tiện truyền thông, báo chí kết hợp với nghiên
cứu các tài liệu có liên quan đến vấn đề ùn tắc giao thông nhóm chúng tôi đã
phát hiện nhiều công trình, bài viết nghiên cứu, những thước phim trên các bài
báo, tạp chí, internet…Trong đó có thể kể tới những công trình tiêu biểu sau
đây:
-Năm 2013 Tác giả Bùi Ngọc Thanh đã đề cập trong bài viết “ Chế định
về Quốc Hội trong hiến pháp 2013” rằng với tính cách là cơ quan đại diện cao
nhất của nhân dân, thể hiện bản chất dân chủ của một nhà nước, Quốc hội luôn
2
chiếm một vị trí quan trọng trong các quy định pháp luật, mà trước hết là Hiến
pháp, về thể chế chính trị nói chung và bộ máy nhà nước nói riêng. Việc sửa đổi
Hiến pháp Việt Nam năm 1992 lần mới đây nhất (năm 2013) tất yếu kéo theo
những thay đổi đáng kể đối với chế định Quốc hội. Bằng những phân tích của
mình, tác giả bài viết cung cấp một cái nhìn khá sâu sắc và đầy đủ liên quan đến
những diểm mới của chế định Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013.
- Trông công trình nghiên cứu “QUỐC HỘI VIỆT NAM NHỮNG VẤN
ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN” - TS. Lê Minh Thông nói rằng “ Chế độ nghị
viện lần đầu tiên được xác lập tại Việt Nam trong bản Hiến pháp đầu tiên- Hiến
pháp năm 1946. “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà”
Đặc điểm chung của các công trình trên là chưa chỉ ra được các điểm thay
đổi giữa bản hiến pháp 2013 và các bản hiến pháp trước đó.Chưa làm sáng tỏ
được hết nội dung bản chất và vai trò của chế định trong Quốc Hội”.
Qua đây nhóm nghiên cứu chúng tôi một lần nữa khẳng định đề tài nghiên
cứu của nhóm “Phân tích và làm sáng tỏ nội dung và bản chất và vai trò của
chế định Quốc Hội” .Từ đó đưa ra các kiến nghị nhằm phát huy và thực hiện tốt
các nội dung cơ bản của chế định trong Quốc Hội.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu:
Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn nhằm làm sáng tỏ các hình thức nội
dung cơ bản về chế định Quốc Hội trong Hiến pháp 2013 và các bản hiến pháp
trước đó. Từ đó có những kiến nghị để xuất nhằm thực hiện các nội dung cơ bản
của chế định Quốc Hội trong thực tiễn hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận về chế định Quốc Hội thông qua các bản hiến
pháp.
+ Phân tích và làm sáng tỏ nội dung và bản chất và vai trò của chế định
Quốc Hội.
+ Kiến nghị đề xuất nhằm phát huy và thực hiện nội dung cơ bản của chế
3
định trong Quốc Hội.
4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
+ Chế định của Quốc Hội trong hiến pháp 2013
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
+ Phạm vi về nội dung: Hiến pháp 2013
+ Phạm vi về không gian:
+ Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu chế định của về Quốc Hội từ năm
2013 đến nay
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong đề tài nghiên cứu khoa học nhóm tác giả coi phương pháp phân tích
và phương pháp so sánh là phương pháp chủ đạo, thông qua phương pháp này
nhóm tác giả có thể nhận biết được rằng những nghiên cứu đi trước đã làm được
những gì, và nghiên cứu của mình góp phần củng cố, bổ sung luận điểm nào,…
Đồng thời phương pháp nghiên cứu tài liệu còn giúp nhóm tác giả có được
những thông tin phục vụ cho việc chứng minh luận điểm trong quá trình nghiên
cứu và thực hiện đề tài.
4
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẾ ĐỊNH CỦA QUỐC HỘI
TRONG HIẾN PHÁP 2013
1.1. Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1 Khái niệm về chế định:
Chế định là tổng hợp nhóm quy phạm pháp luật có các đặc điểm giống
nhau nhằm thực hiện việc điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội tương ứng, có liên
quan mật thiết với nhau trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Cơ
cấu bên trong của pháp luật có những đặc điểm ở tính đa dạng của các chế định.
Trong đó có chế định pháp luật liên ngành, nghĩa là có quan hệ đến một vài
ngành luật. Các chế định pháp luật liên ngành được hình thành, cũng như hoạt
động không giống nhau. Hiến pháp là cơ sở pháp lý của tất cả những chế định
pháp luật. Việc xác định đúng tính chất chung của mỗi nhóm quan hệ xã hội từ
đó đề ra các quy phạm tương ứng có ý nghĩa quan trọng. Đây là cơ sở pháp lý để
tạo ra cơ cấp pháp lý của một ngành luật. Không thể xây dựng được một văn bản
pháp luật tốt cũng như một ngành luật hoàn chỉnh nếu không xác định rõ giới
hạn và nội dung của các chế định pháp luật. Nhiều chế định hợp lại sẽ cấu thành
ngành luật và các ngành luật hợp lại sẽ tạo thành một hệ thống pháp luật.
Chế định pháp luật mang tính chất nhóm và mỗi chế định có một đặc
điểm riêng nhưng chúng đều có mối liên hệ nội tại, thống nhất với nhau, chúng
không tồn tại một cách biệt lập. Việc xác định ranh giới giữa các chế định nhằm
mục đích tạo ra khả năng để xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật phù hợp với
thực tiễn đời sống xã hội. Và phải đặt ra các chế định trong mối liên hệ qua lại
trong một chỉnh thể thống nhất của pháp luật cũng như một ngành luật. Mỗi chế
định pháp luật dùng mang đặc điểm riêng những nó cũng cần tuân theo các quy
luật vật động khách quan, chịu sự ảnh hưởng, tác động của chế định khác trong
hệ thống pháp luật. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật là hình thức biểu
hiện mối liên hệ bên ngoài của pháp luật bằng các loại văn bản quy phạm pháp
luật có giá trị cao thấp khác nhau do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban
hành theo một trình tự và thủ tục do pháp luật quy định, nhưng đều tồn tại trong
thể thống nhất. – Nội dung của các văn bản quy phạm pháp luật là các quy phạm
5
pháp luật do các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành.
– Các văn bản quy phạm pháp luật có tên gọi khác nhau (luật, pháp lệnh,
nghị định,…) do Hiến pháp quy định. Giá trị pháp lý của chúng cao thấp khác
nhau do vị trí của cơ quan Nhà nước trong bộ máy nhà nước quy định.
– Các văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực trong không gian (hiệu lực
trong phạm vi lãnh thổ), hiệu lực theo thời gian (bắt đầu có hiệu lực hay hết hiệu
lực) và hiệu lực theo nhóm người (có hiệu lực đối với nhóm người này mà
không có hiệu lực đối với nhóm người khác.
Hiến pháp năm 2013, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm
2015 quy định hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật gồm các văn bản có giá
trị pháp lý như sau:
– Hiến pháp là đạo luật cơ bản có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật.
Các Đạo luật (Bộ luật) là các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội
ban hành để cụ thể hóa Hiến pháp. Đạo luật và Bộ luật đều là những văn bản có
giá trị pháp lý cao, chỉ đứng sau Hiến pháp.
– Nghị quyết của Quốc hội thường được ban hành để giải quyết các vấn
đề quan trọng thuộc thẩm quyền của Quốc hội nhưng thường mang tính chất cụ
thể.
– Pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội có giá trị pháp lý
thấp hơn các văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội ban hành.
– Lệnh, quyết định của Chủ tịch nước: theo Hiến pháp 2013, Chủ tịch
nước ban hành lệnh để công bố Hiến pháp, Luật, Pháp lệnh; ban hành quyết định
để giải quyết các công việc thuộc thẩm quyền của mình như quyết định cho nhập
quốc tịch Việt Nam, quyết định đại xá,…
– Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của thủ tướng
Chính phủ.
Các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ
có giá trị pháp lý thấp hơn Pháp lệnh và Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc
hội.
6
– Quyết định, Chỉ thị, Thông tư của Bộ trưởng, Thủ trưởng các cơ quan
ngang bộ có giá trị pháp lý thấp hơn các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng
Chính phủ.
– Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Quyết
định, chỉ thị, thông tư của Viện trưởng VKSND tối cao;
– Nghị quyết, thông tư liên tịch giữa các cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền, giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền với tổ chức chính trị – xã hội.
– Nghị quyết của Hội đồng nhân dân các cấp.
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân phải phù hợp và không được trái hoặc
mâu thuẫn với văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan Nhà nước Trung
ương, với nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp trên và Ủy ban nhân dân cấp
trên.
– Quyết định, chỉ thị của UBND và Chủ tịch UBND các cấp.
Quyết định, chỉ thị của UBND và Chủ tịch UBND cấp nào thì có giá trị
pháp lý trong địa hạt của cấp đó.
1.1.2 Khái niệm về Quốc Hội
Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực
Nhà nuớc cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội có
3 chức năng chính: chức năng lập pháp; chức năng quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước; chức năng giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của
Nhà nước. Quốc hội xuất hiện từ khi xuất hiện nhà nước tư sản. Tiếng Anh gọi
là Congress. Trong nhà nước tư sản, với nguyên tắc "tam quyền phân lập" quốc
hội là cơ quan nắm quyền lập pháp; là cơ quan làm viạ„ theo chế độ hội nghị và
biểu quyết theo đa s, vì vậy quốc hội còn gọi là nghị viện. Phần lớn quốc hội của
các nước tư bản được chia làm hai viện Ịa thượng nghị viện (hay còn gọi là viện
nguyên lão) và hạ nghị viện (hay viện dân biểu). Tuy nhiên, cũng có một số
nước theo chế độ một viện như Phần Lan, Thuy Điển, Na Uy...
Quốc hội theo nghĩa Hán Việt là đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc hay
còn gọi là quốc dân đại hội. Quốc hội đầu tiên của Việt Nam được ra đời trên cơ
sở của cuộc tổng tuyển cử ngày 6.1.1946, Tiền thân của Quốc hội nước Cộng
7
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Quốc dân đại hội Tân Trào (tháng 8 năm
1945). Từ năm 1946 đến nay, đã qua 11 lần bầu cử quốc hội và Quốc hội hiện
nay là Quốc hội khoá XI.
Quốc hội nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam do cử tri cả nước
trực tiếp bầu ra theo các nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu
kín. Quốc hội có nhiệm kì là 5 năm.
Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp.
Quốc hội quyết định các chính sách cơ bản về đối nội và đối ngoại, nhiệm
vụ kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh của đất nước, các nguyên tắc chủ yếu về
tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của
công dân.
1.1.3 Khái niệm về chế định của Quốc Hội trong Hiến pháp
Liên quan đến vị trí, tính chất của Quốc hội trong bộ máy nhà nước, một
nội dung thay đổi cơ bản là: trước đây, Hiến pháp quy định: “Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”, nay được quy định lại: “Quốc hội
thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp...”.
Việc thay đổi từ “cơ quan duy nhất có quyền” thành cơ quan “thực hiện
quyền lập hiến, lập pháp”, trước hết là sự thay đổi về chất. Nếu nói “duy nhất có
quyền”, thì thực tế có người hiểu là “độc quyền” và đặt vấn đề: với 500 đại biểu
Quốc hội đại diện cho toàn dân (tám, chín chục triệu người trong cả nước), liệu
duy nhất một mình Quốc hội có thể xây dựng được “đạo luật gốc” và các đạo
luật khác thật sự có chất lượng không? Trên thực tế, Hiến pháp cũng như các
đạo luật khác, nếu được nhiều người, nhiều cơ quan, tổ chức, đoàn thể và cá
nhân trên các giác độ khác nhau, với góc nhìn khác nhau,đóng góp các ý kiến đa
chiều, nhiều phía và được tập hợp, chắt lọc lại như một lăng kính hội tụ, thì chắc
chắn chất lượng sẽ cao hơn nhiều. Đó cũng chính là cách thức chúng ta đã và
đang tiến hành hiện nay.
Thứ hai là sự thay đổi về phạm vi, mức độ này nhằm thể hiện đúng với
thực tiễn đang diễn ra. Một đạo luật từ lúc “tạo hình” cho đến khi “ra lò”, theo
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì phải trải qua sáu công
8
đoạn lớn: đưa vào Chương trình xây dựng luật (1); soạn thảo luật (2) ; thẩm tra
dự án luật (3); Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét cho ý kiến (4); thảo luận,
tiếp thu, chỉnh lý, thông qua (5); công bố luật (6). Quốc hội tham gia và chịu
trách nhiệm tất cả. Nhưng thao tác trực tiếp, chủ yếu ở 3 công đoạn quan trọng
giữa là (3), (4) và (5). Tuy nhiên trong ba công đoạn đó, các chủ thể trình dự án
luật, đặc biệt là Chính phủ (nơi có khoảng 90% các dự án luật được trình ra
Quốc hội), đều đã phải tham gia tận lực.
Cũng cần phải nói thêm rằng, trước khi trình Quốc hội, Ban soạn thảo đã
phải lấy ý kiến các đối tượng được luật điều chỉnh và đối tượng được áp dụng
hoặc toàn thể nhân dân (tùy theo từng đạo luật); để phục vụ công tác thẩm tra thì
cơ quan thẩm tra cũng thu thập ý kiến tương tự qua các đợt khảo sát, các cuộc
giám sát. Như vậy trên thực tế đâu có phải “Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập hiến, lập pháp”, cho đến nay rất nhiều cơ quan, đoàn thể, tổ chức, đơn
vị và cá nhân (từ người dân đến các nhà khoa học) đều tham gia, thậm chí tham
gia ngay từ đầu. Bởi vậy việc quy định lại theo mức độ là hợp tình, hợp lý, đúng
với thực tế khách quan.
1.3 Đặc điểm của chế định Quốc Hội trong Hiến pháp 2013
Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội (Điều 70)
Điều này quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội thể hiện trong mười
lăm khoản. Về nội dung có những thay đổi quan trọng, bao gồm:
Khoản 1, Quốc hội không còn nhiệm vụ, quyền hạn “quyết định chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh”. Vấn đề này có thể được hiểu là, Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội sẽ xây dựng luật, pháp lệnh theo yêu cầu của đời sống
kinh tế - xã hội phù hợp với thực tiễn đặt ra cho từng năm và từng thời đoạn.
Khoản 2, , liên quan đến thẩm quyền giám sát tối cao và thẩm quyền xét
báo cáo công tác của các cơ quan nhà nước, nội dung quy định tại điều khoản
này không có nhiều thay đổi lớn, ngoài việc đã bổ sung thêm hai chủ thể thuộc
trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội là “ Hội đồng bầu cử quốc gia,
Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập” bên cạnh các
cơ quan “Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,Tòa án nhân
9
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao”. Sở dĩ có sự thay đổi này là
do Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung ở chương X hai thiết chế hiến định độc lập
(hai cơ quan) là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Mặt khác,
trong tương lai, khi thật sự cần thiết, có thể Quốc hội sẽ thành lập thêm các cơ
quan độc lập khác. Vì các cơ quan này thuộc thẩm quyền thành lập của Quốc hội
nên phải đưa vào nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.
Cũng phải nói thêm rằng, việc hiến định các cơ quan độc lập nói trên là
góp phần làm rõ hơn chủ quyền nhân dân, làm rõ hơn cơ chế phân công, phối
hợp trong việc kiểm soát quyền lực và hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khoản 3 được quy định lại như sau: “Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính
sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Việc thay từ “kế
hoạch” bằng cả cụm từ “mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản” là
hợp lý và cần thiết, đúng với tầm nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Cần lưu ý
từ cơ bản, nó là “thừa số chung” của mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ
chứ không phải chỉ là nhiệm vụ cơ bản. Quốc hội chỉ quyết định những vấn đề
cơ bản, then chốt, có tính chất “xương sống” của kế hoạch thay vì quyết định
toàn bộ kế hoạch như hiện nay. Trong một kế hoạch có rất nhiều điều mục, số
liệu định lượng, mục tiêu định tính cùng các giải pháp thực hiện; Quốc hội
không làm thay công việc cụ thể, chi tiết của cơ quan hành pháp. Chính phủ sẽ
quyết định cụ thể và báo cáo trước Quốc hội. Bởi vậy quy định như trên là đúng
mức.
Khoản 4 có hai vấn đề mới cần quan tâm:
Một là, Quốc hội quyết định nguyên tắc phân chia các khoản thu và
nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Đây là nội
dung đã được thể hiện trong Chương III Luật Ngân sách nhà nước hiện hành và
được thực hiện qua nhiều năm, nhiều nhiệm kỳ và đã trở thành nền nếp. Ngân
sách nhà nước là vấn đề cực kỳ quan trọng của kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội. Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước thì không thể không quyết định vấn đề cơ bản
10
của ngân sách là phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi của ngân sách Trung
ương và địa phương. Tuy nhiên, Quốc hội không quyết định cụ thể các chỉ tiêu
phân chia mà chỉ quyết định các nguyên tắc phân chia để định hướng cho việc
phân chia cụ thể. Bởi vậy Hiến pháp điều chỉnh quyền quyết định nguyên tắc
phân chia các khoản thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và địa
phương, đồng thời giao nhiệm vụ này cho Quốc hội là cần thiết và đúng với
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.
Hai là, Quốc hội quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công,
nợ Chính phủ. Đây là nhiệm vụ, quyền hạn rất mới. Có thể đặt vấn đề, vì sao
Quốc hội phải quyết định mức giới hạn các loại nợ trên? Lấy nợ công làm ví dụ
để lý giải điều này: Nợ công của Việt Nam năm 2001 mới 11,5 tỷ USD, tương
đương 36% GDP; đến năm 2010 nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương
53,3% GDP. Như vậy trong 10 năm quy mô nợ công gần gấp 5 lần, tốc độ tăng
nợ công 15% mỗi năm; nếu tiếp tục với tốc độ này thì chỉ 5 năm nữa, đến năm
2016 nợ công của Việt Nam sẽ vượt quá 100% GDP như 2 nước thành viên EU
vừa mới lâm vào khủng hoảng là Hy Lạp (133,6%) và Ai Len (129,2). Nợ công
đạt trên 100% là con số không nhỏ đối với một nền kinh tế đang phát triển và
quy mô nhỏ phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công
nghiệp nhẹ như Việt Nam[1]. Do đó Quốc hội phải quyết định mức giới hạn nợ
quốc gia, nợ công, nợ chính phủ là quy định mới đúng đắn, cần thiết[2] Khoản
7 có 2 vấn đề quan trọng:
Một là, tách việc bỏ phiếu tín nhiệm thành một nhiệm vụ và quyền hạn
độc lập, sẽ nói ở khoản 8 dưới đây. Hai là, chức danh Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao cũng được Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm hoặc bị cách chức, vì
ở Chương VI về chế định Chủ tịch nước, tại khoản 3 Điều 88 đã bổ sung nhiệm
vụ, thẩm quyền của Chủ tịch nước là: bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm
phán các Tòa án khác để phù hợp với cải cách tư pháp.Do đó Quốc hội phải phê
chuẩn trước.
Khoản 8 thêm nhiệm vụ, quyền hạn thứ tám cho Quốc hội: “Bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”. Bỏphiếu tín
11
nhiệm là một việc được bổ sung vào nhiệm vụ, quyền hạn thứ bảy (cũ) trong lần
sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2001. Bổ sung đó là một tiến bộ trong việc
giám sát, kiểm soát quyền lực. Nay việc này càng trở nên cấp bách, không thể
không đẩy mạnh việc thực thi. Vì thế Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 4 đã thông
qua Nghị quyết số 35/QH12/ ngày 21 tháng 11 năm 2012 về lấy phiếu tín
nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Hiến
pháp lần này từ “một chi tiết” đã nâng lên thành “một nhiệm vụ, quyền hạn”
ngang hàng với các nhiệm vụ, quyền hạn khác của Quốc hội. Việc quy định “bỏ
phiếu tín nhiệm” là một nhiệm vụ, quyền hạn “độc lập” với các nhiệm vụ, quyền
hạn khác của Quốc hội là hoàn toàn phù hợp với tình hình hiện tại (khi cả nước
đang quyết liệt thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI- Một số nhiêm vụ
cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay). Nhiệm vụ này sẽ góp phần thúc
đẩy người giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước thực thi nhiệm vụ
kịp thời hơn, mang tính thúc đẩy hơn và “răn đe” mạnh mẽ hơn; do đó cũng đáp
ứng tốt hơn lòng mong đợi của cử tri.
Khoản 14 có liên quan đến thẩm quyền của Chủ tịch nước (tại khoản 6,
Điều 93) trong việc quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh
Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế hoặc quyết định phê
chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế theo thẩm quyền do
Quốc hội quy định(tại khoản 14 Điều 70).Việc sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ, quyền
hạn của Chủ tịch nước không thuộc phạm vi chuyên đề này, nhưng có liên quan
đến nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Riêng khoản 6, Điều 93 về cơ bản là
phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp.
Trước đây quy định Quốc hội “...phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế
do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác
đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước”. Nay trên cơ sở
khoản 6, Điều 93, khoản 14 mới, Điều 75 được quy định lại là: Quốc hội “... phê
chuẩn,quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên
quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan
12
trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội”.
Quy định mới này là hoàn toàn cần thiết vì hai lý do cơ bản sau đây:
Một là, trước đây, những vấn đề lớn, đại sự như chiến tranh và hòa bình,
như chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chưa được đề
cập cụ thể trong Điều 84 Hiến pháp 1992. Nay trong điều kiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) của Đảng đã chỉ rõ “bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu
sắc”, thậm chí là biến đổi khôn lường, thì những điều ước quốc tế (trực tiếp
hoặc có liên quan) về những vấn đề trọng đại đó không thể không do Quốc hội
xem xét để phê chuẩn hay không phê chuẩn. Bởi vậy, đây là nhiệm vụ, quyền
hạn rất xác đáng của Quốc hội. Hai là, sau năm 1992, nước ta đã tham gia nhiều
tổ chức quốc tế như ASEAN, ASEM, APEC, WTO nhiều tổ chức của Liên hiệp
quốc như UNDP, UNFPA, UNESCO... Sắp tới, chắc chắn nước ta còn tham gia
những tổ chức quốc tế khác. Việc Quốc hội xem xét có nên tham gia tổ chức này
hay tổ chức khác với tư cách gì cũng là cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia,
dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Mặt khác chúng ta
cũng đã tuyên bố: Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Văn kiện Đại hội XI của Đảng, trang 234). Bởi
vậy, Quốc hội xem xét phê chuẩn là đúng tầm nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc
hội (như đã phê chuẩn Việt Nam gia nhập WTO năm 2007).
Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 74)
Ủy ban thường vụ Quốc hội có mười ba nhiệm vụ, quyền hạn,về nội dung
có một số điểm mới như sau:
Trước hết Ủy ban thường vụ Quốc hội không còn nhiệm vụ “Công bố và
chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội”, vì nhiệm vụ này đã được chuyển cho Hội
đồng bầu cử quốc gia (một thiết chế độc lập mới).
So với Điều 91 Hiến pháp 1992 thì khoản 5 được tách thành hai khoản
mới. Đoạn đầu thuộc công tác giám sát, được quy định thành nhiệm vụ, quyền
hạn thứ ba (khoản 3): “Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của
13
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt
động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập”. Đoạn hai được
quy định thành khoản 4 mới của Điều 74 Hiến pháp 2013, đó là quyền đình chỉ
việc thi hành và trình Quốc hội bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội đối với các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Và trực tiếp bãi bỏ văn
bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc
hội.
Hai việc trên có nội hàm khác nhau (giám sát và xử lý hậu giám sát), quy
trình vận hành công việc của hai việc đó cũng khác nhau nên rất cần thiết phải
được bóc tách quy định lại cho rành mạch.
Một nhiệm vụ-quyền hạn hoàn toàn mới là: “Quyết định thành lập, giải
thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính dưới tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương” (khoản 8). Việc này trước đây thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
của Chính phủ. Qua thực thi cho thấy có ít nhất hai tình huống không hợp lý.
Thứ nhất, cùng là thành lập, chia tách, sáp nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành
chính mà một phần viêc này (đơn vị hành chính cấp tỉnh) do cơ quan lập pháp
(Quốc hội) thực hiện, phần còn lại (đơn vị hành chính cấp huyện) do cơ quan
hành pháp (Chính phủ) tiến hành. Thứ hai là, do bất hợp lý nói trên mà có những
việc cụ thể rất khó giải quyết. Điều chỉnh địa giới hành chínhcủa một huyện
thuộc một tỉnh, nhưng huyện đó lại giáp với tỉnh khác (tức là vừa điều chỉnh địa
giới hành chính huyện, đồng thời phải điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, nếu
Chính phủ làm thì vướng về địa giới hành chính tỉnh, nếu Quốc hội làm thì lại
trùng dẫm lên việc của Chính phủ là điều chỉnh địa giới hành chính huyện).
Chính vì vậy, thẩm quyền này phải quy về một mối.
Tuy nhiên có sự phân cấp: Quốc hội xử lý công việc đối với tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, còn Ủy ban thường vụ Quốc hội xử lý các đơn vị
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và báo cáo với Quốc hội. Sửa đổi này
14
là cần thiết và chặt chẽ.
Một nhiệm vụ, quyền hạn có thể nói là “mới nay, cũ xưa”, đó là khoản
12, Ủy ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn “Phê chuẩn đề nghị bổ
nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”. Hiến pháp 2013 quy định nhiệm vụ này chính là kế thừa quy định
của Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980. Vì vị trí của đại sứ là đại diện
đặc mệnh toàn quyền của nước ta (mang tính quốc gia) ở nước ngoài nên Ủy ban
thường vụ Quốc hội phải phê chuẩn để Chủ tịch nước bổ nhiệm, cử hoặc triệu
hồi đại sứ là hợp lý, đúng đắn, đồng thời cũng phù hợp với thông lệ quốc tế.
Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội (các Điều 75, 76, 77 và
78)
Có một số việc đến bây giờ đã trở thành “tất yếu” như các quy định: Hội
đồng dân tộc, các Ủy ban có một số thành viên hoạt động chuyên
trách, hoặc Chủ tịch Hội đồng dân tộc được tham dự các phiên họp của Ủy ban
thường vụ Quốc hội… là tất yếu nên không cần thiết ghi trong Hiến pháp và đã
được bãi bỏ.
Từ tính chất hoạt động của Quốc hội và yêu cầu công tác cán bộ, Hiến
pháp 2013 quy định về các cơ quan của Quốc hội có sự đổi mới theo sự phân
cấp quản lý cán bộ. Quốc hội chỉ bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc và Chủ nhiệm
các Ủy ban; còn Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm các Ủy ban và
các Ủy viên Hội đồng,Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê
chuẩn. Theo chúng tôi, phân cấp như thế là hợp lý, tương đồng với công tác
quản lý cán bộ của Đảng (Bộ trưởng và tương đương thì do Bộ Chính trị quản
lý, Thứ trưởng và tương đương thì do Ban Bí thư Quản lý), song cũng phải tính
đến thực tế quy trình tiến hành công việc này, ai giới thiệu Phó Chủ tịch Hội
đồng dân tộc và các Ủy viên của Hội đồng cũng như Phó Chủ nhiệm các Ủy ban
và các Ủy viên Ủy ban (trước đây do Ủy ban thường vụ Quốc hội giới thiệu).
Sau này, khi xây dựng Luật tổ chức Quốc hội (mới), thiết nghĩ rất cần thiết phải
cụ thể hóa quy trình thực hiện quy định này.
Xuất phát từ kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội (theo quy định của
15
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003), một thiết chế mới được chính
thức quy định trong Hiến pháp năm 2013 , đó là Ủy ban lâm thời của Quốc hội.
Từ Quốc hội khóa XI đến nay có khá nhiều vấn đề mà Quốc hội phải thành lập
các Đoàn giám sát (thực chất là Ủy ban lâm thời) để xử lý. Phần lớn các vụ việc
đó là các vụ án oan, sai hoặc các vấn đề kinh tế có sai sót nghiêm trọng. Vì vậy
Hiến pháp năm 2013 có hẳn một điều quy định về Ủy ban lâm thời, đó là Điều
78, nội dung như sau: “Khi cần thiết, Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để
nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra một vấn đề nhất định”.
Đại biểu Quốc hội (các Điều 79, 80, 81 và 82)
Nhìn chung, nội dung về đại biểu Quốc hội không có gì thay đổi lớn, chỉ
có một sửa đổi ở khoản 1 Điều 82, theo đó, quy định mới “Đại biểu Quốc hội có
trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu” được thay cho quy định cũ:
“Đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu”. Quy định
mới nhằm đề cao hơn nữa trách nhiệm của đại biểu và khẳng định rằng, dù là đại
biểu chuyên trách hay đại biểu kiêm nhiệm thì dứt khoát cũng phải làm tròn
nhiệm vụ của mình. Cũng tại khoản 1 Điều 82 có một quy định mới, đại biểu
Quốc hội “có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban
của Quốc hội”. Trước đây, khi chưa có quy định này, đã xảy ra tình trạng: người
được cơ cấu làm thành viên thì không muốn được cơ cấu, người không được cơ
cấu thì lại muốn. Vì vậy việc ổn định tổ chức để đi vào hoạt động có phần phức
tạp và tiêu tốn nhiều thời gian. Nay quy định “mở” như trên vừa phù hợp với
nguyện vọng của đại biểu, vừa nhanh chóng ổn định tổ chức các cơ quan của
Quốc hội.
Kỹ thuật lập hiến
Trừ Điều 81, còn lại các điều có nhiều nội dung đều được cấu tạo thành
các khoản cho dứt khoát và mạch lạc hơn (quy định cũ không có điều nào chia
thành khoản).
Nói tóm lại, chế định về Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013 tiếp tục
được khẳng định về mô hình tổ chức và bản chất của nó trong tổng thể hệ thống
chính trị đã được xác định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
16
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X, XI của Đảng, kế thừa tinh hoa của các bản Hiến pháp
trước và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài. Vị trí, nhiệm vụ,
quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội được
quy định đầy đủ, chặt chẽ và hoàn thiện hơn, phù hợp với tình hình đất nước
trong giai đoạn hiện nay và tầm nhìn đến đầu những năm 30 của thế kỷ này.
1.4.Vai trò của chế định Quốc hội trong hiến pháp 2013
Trước hết, về thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp, Hiến pháp năm
2013 đã có sự phân biệt rõ ràng giữa quyền lập hiến, quyền lập pháp và thay quy
định “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” bằng quy
định “Quốc hội thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp” (lập hiến và lập pháp
theo Hiến pháp năm 1992 là một quyền). Hiến định nội dung này, Hiến pháp
năm 2013 đòi hỏi Quốc hội phải tập trung hơn nữa vào chức năng làm luật để
khắc phục tình trạng vừa thiếu pháp luật, vừa mẫu thuẫn, chồng chéo trong hệ
thống pháp luật, thực hiện có hiệu quả chủ trương của Đảng trong việc xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, bảo đảm mọi hoạt động của
các cơ quan Nhà nước, trong đó có Quốc hội đều phải tuân thủ Hiến pháp, pháp
luật, không thể tự định cho mình những nhiệm vụ, quyền hạn khác ngoài những
nhiệm vụ và quyền hạn
Thứ hai, về quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, so với quy
định của Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã quy định theo hướng
khái quát hơn, bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở để cụ thể hóa nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc
hội trong Hiến pháp và trong các đạo luật chuyên ngành. Theo đó, Quốc hội chỉ
quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước như: quyết định mục tiêu, chỉ
tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước (khoản
3 Điều 70); quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định,
sửa đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm
vụ chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới
hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách
17
nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước (khoản 4 Điều 70); quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của
nhà nước (khoản 5 Điều 70); quyết định đại xá (khoản 11 Điều 70); quyết định
vấn đề chiến tranh và hòa bình và quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp
đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia (khoản 13 Điều 70);
quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia nhập hoặc
chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ
quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại
các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, điều ước quốc tế về quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và các điều ước quốc tế khác trái
với luật, nghị quyết của Quốc hội (khoản 14 Điều 70); quyết định trưng cầu ý
dân (khoản 15 Điều 70).
Thứ ba, về giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước. Đây là hoạt
động mang tính chất chính trị, thể hiện ý chí của cử tri và là một trong những
tiêu chí để đánh giá tính hiệu lực, hiệu quả của quá trình xây dựng Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. So với Hiến pháp năm 1992 thì quy định này có
những điểm mới đáng chú ý sau: (1) phạm vi thẩm quyền giám sát tối cao đối
với hoạt động của Nhà nước của Quốc hội là có giới hạn, không mở rộng đến
“toàn bộ” hoạt động của Nhà nước (bao gồm các cơ quan thực hiện quyền lập
pháp, hành pháp, tư pháp ở Trung ương và các cơ quan nhà nước ở địa phương
mà chỉ tập trung vào các cơ quan ở trung ương như Chủ tịch nước, Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao). (2) Bổ sung thẩm
quyền của Quốc hội trong việc thực hiện quyền giám sát tối cao đối với các thiết
chế độc lập như Kiểm toán nhà nước, Hội đồng bầu cử quốc gia và các cơ quan
nhà nước khác do Quốc hội thành lập. (3) Quy định khái quát để các luật có điều
kiện cụ thể hóa những hoạt động nào của Nhà nước thuộc thẩm quyền giám sát
tối cao của Quốc hội. Theo đó, việc thực hiện chức năng giám sát của Quốc hội
được thực hiện tại kỳ họp Quốc hội trên cơ sở hoạt động giám sát của Ủy ban
thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu
Quốc hội và đại biểu Quốc hội, bằng các hình thức: xét báo cáo công tác của các
18
cơ quan Nhà nước (Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Tòa
án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Hội đồng bầu cử quốc gia,
Kiểm toán nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập); xem xét việc
trả lời chất vấn của Chủ tịch nước, Chủ tịch Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ
trưởng và các thành viên khác của Chính phủ, Chánh án tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; thành lập Ủy ban lâm thời để điều
tra về một vấn đề nhất định và xem xét kết quả điều tra của Ủy ban; tổ chức các
đoàn giám sát; bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn (việc bỏ phiếu tín nhiệm với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu
hoặc phê chuẩn là phương thức để Quốc hội thực hiện quyền miễn nhiệm, bãi
nhiệm, cách chức người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn khi người
đó không xứng đáng với trọng trách được giao); bãi bỏ văn bản của Chủ tịch
nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án
nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc Hội.
Hiến pháp là một văn bản pháp luật đặt biệt trong hệ thống pháp luật, tác
động sâu sắc đến cách thức tổ chức quyền lực nhà nước, đời sống kinh tế xã hội
của một quốc gia. Hiến pháp do Quốc hội – cơ quan quyền lực cao nhất của
quốc gia – ban hành, theo một quy trình thủ tục đặc biệt.
Điều 119 Hiến pháp năm 2013 quy định về vị trí của Hiến pháp như sau:
“Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.
Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử lý.”
Như vậy, vị trí của Hiến pháp trong hệ thống pháp luật thể hiện ở hai
điểm: luật cơ bản và luật có hiệu lực tối cao.
Vị trí là luật cơ bản của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, Hiến pháp là văn bản duy nhất quy định việc tổ chức quyền lực
nhà nước, là hình thức pháp lý thể hiện một cách tập trung hệ tư tưởng của giai
19
cấp lãnh đạo, ở từng giai đoạn phát triển. Hiến pháp còn là phương diện pháp lý
thể hiện tư tưởng của Đảng Cộng sản dưới hình thức những quy phạm pháp lý.
Thứ hai, xét về mặt nội dung, trong khi các đạo luật khác chỉ điều chỉnh
các quan hệ xã hội thuộc một lĩnh vực nhất định của đời sống xã hội, ví dụ như:
Luật hôn nhân gia đình chỉ điều chỉnh các quan hệ hôn nhân, gia đình, Luật Đất
đai chỉ điều chỉnh các quan hệ trong lĩnh vực đất đai…thì Hiến pháp có đối
tượng điều chỉnh rộng, bao quát toàn bộ các lĩnh vực của xã hội. Đối tượng điều
chỉnh của Hiến pháp là những quan hệ xã hội chủ đạo nhất, chính yếu nhất, nền
tảng nhất liên quan đến lợi ích cơ bản của mọi giai cấp, mọi tầng lớp trong xã
hội, chế độ chính trị, chế độ kinh tế, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
đường lối phát triển khoa học – kỹ thuât, văn hóa, giáo dục, đường lối quốc
phòng toàn dân, bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, cơ cấu tổ chức bộ máy nhà
nước.
Về mặt pháp lý, Hiến pháp là luật có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ
thống pháp luật Việt Nam. Tính chất luật có hiệu lực tối cao của Hiến pháp thể
hiện ở các phương diện sau đây:
Một là, các quy định của Hiến pháp là nguồn, là nền tảng cho tất cả các
ngành luật khác thuộc hệ thống pháp Việt Nam. Các quy định của Hiến pháp
mang tính tuyên ngôn, cương lĩnh, điều chỉnh chung. Dựa trên nền tảng đó, các
Luật, Pháp lệnh, Nghị định và các văn bản dưới luật khác cụ thể hóa, chi tiết hóa
để điều chỉnh các quan hệ xã hội cụ thể.
Hai là, các văn bản pháp luật khác không được mâu thuẫn, trái ngược với
Hiến pháp mà phải hoàn toàn phù hợp với tinh thần, nội dung của Hiến pháp,
được ban hành trên cơ sở Hiến pháp để thi hành Hiến pháp. Mọi văn bản pháp
luật có nội dung trái với Hiến pháp phải bị bãi bỏ, hủy bỏ.
Ba là, các điều ước quốc tế mà nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam tham gia không được mâu thuẫn, đối lập với quy định của Hiến pháp. Khi
có sự mẫu thuẫn thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền không tham gia ký kết,
không phê chuẩn hoặc bảo lưu với từng phần riêng biệt.
Bốn là, tất cả các cơ quan nhà nước phải thực hiện chức năng của mình
20
theo quy định của Hiến pháp, sử dụng đầy đủ các quyền hạn, làm tròn các nghĩa
vụ mà hiến pháp đã quy định. Mọi hành vi vượt ra ngoài thẩm quyền mà hiến
pháp đã quy định đều là vi hiến.
Năm là, tất cả các công dân của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam được hưởng các quyền con người, quyền công dân mà Hiến pháp thừa
nhận và có nghĩa vụ nghiêm chỉnh thực hiện Hiến pháp.
Sáu là, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải ban hành các văn bản
pháp luật mà Hiến pháp đã quy định để cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp,
thi hành Hiến pháp. Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính
phủ, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, các cơ quan nhà nước khác của
Nhà nước và toàn thể nhân dân có trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp.
Bảy là, do vị trí vai trò đặc biệt của Hiến pháp, việc xây dựng, thông qua,
ban hành, sửa đổi, thay đổi Hiến pháp phải tuân theo một trình tự đặc biệt. Chủ
trương xây dựng Hiến pháp thường được biểu thị bằng một nghị quyết của Quốc
hội; việc xây dựng Hiến pháp thường được tiến hành bằng một cơ quan do Quốc
hội lập ra; dự thảo Hiến pháp được lấy ý kiến rộng rãi của nhiều tầng lớp nhân
dân; việc thông qua Hiến pháp thường được tiến hành tại một kỳ họp đặc biệt
của Quốc hội và chỉ được thông qua khi có một tỷ lệ phiếu đồng ý cao đặc biệt;
việc sửa đổi Hiến pháp chỉ được thực hiện theo một trình tự đặc biệt quy định tại
Hiến pháp; quá trình xây dựng, sửa đổi Hiến pháp được quan tâm và chỉ đạo bởi
Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.5 Ý nghĩa của việc nghiên cứu chế định trong Quốc Hội trong Hiến
Pháp 2013
Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã đạt được
những thành tự to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đến nay, tình hình trong nước, khu
vực và quốc tế có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp hơn. Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của
Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững đất nước
trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa
21
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Vì vậy, tại kỳ họp thứ 2,
Quốc hội khóa XIII đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1992 để bảo đảm đổi
mới đồng bộ cả về kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, hoàn thiện thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích cực
và chủ động hội nhập quốc tế. Thực hiện Nghị quyết của Quốc hội khóa XIII về
việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, từ năm 2011 đến năm 2013, Ủy ban dự thảo
sửa đổi Hiến pháp đã tổ chức tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và xây
dựng dự thảo sửa đổi Hiến pháp trình Quốc hội xem xét, cho ý kiến tại 3 kỳ họp.
Tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa XIII đã quyết định tổ chức lấy ý kiến Nhân dân
về dự thảo sửa đổi Hiến pháp. Việc lấy ý kiến Nhân dân đã được các cấp, các
ngành triển khai, thu hút sự tham gia sâu rộng, nghiêm túc, tích cực, tâm huyết
của đông đảo các tầng lớp nhân dân và đồng bào Việt Nam ở nước ngoài, thực
sự là đợt sinh hoạt chính trị, pháp lý dân chủ, sâu rộng trong cả hệ thống chính
trị. Ngày 28/11/2013 tại kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XIII đã thông qua Hiến
pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Là bản Hiến pháp được chuẩn
bị công phu, nghiêm túc, chắt lọc, tiếp thu được nhiều ý kiến đóng góp xây dựng
của Nhân dân, của các vị đại biểu Quốc hội, các chuyên gia, nhà khoa học, phản
ánh được ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, đảm bảo chính trị, pháp lý vững
chắc cho dân tộc ta, Nhân dân ta và Nhà nước ta vượt qua những thách thức, khó
khăn, vững bước tiến lên trong thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh toàn diện công
cuộc đổi mới đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế. Đây cũng
là bản Hiến pháp vừa kế thừa được các giá trị to lớn của các bản Hiến pháp năm
1946, năm 1959, năm 1980 và năm 1992, vừa thể chế hóa các quan điểm,
phương hướng, nội dung phát triển đã được khẳng định trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011). Với bố cục 11 chương, 120 điều, giảm 01 chương và 27 điều so với
Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và
kỹ thuật lập hiến, thể hiện sâu sắc, toàn diện sự đổi mới đồng bộ cả về kinh tế và
22
chính trị, thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và
chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bảo đảm quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và vì Nhân dân do Đảng cộng
sản Việt Nam lãnh đạo.
23
CHƯƠNG 2:
NỘI DUNG CHẾ ĐỊNH QUỐC HỘI TRONG HIẾN PHÁP 2013 VÀ MỘT
SỐ KIẾN NGHỊ TRONG QUÁ TRÌNH THỰC THI.
2.1 Nội dung về chế định Quốc Hội trong Hiến pháp 2013
2.1.1 Vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước
Trong bộ máy nhà nước, Quốc hội có vị trí quan trọng đặc biệt. Hiến pháp
năm 1946, tại Điều 22 đã xác định “Nghị viện nhân dân là cơ quan quyền lực
cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”. Tại Hiến pháp năm 1959, Điều
43 chỉ thay từ “Nghị viện” bằng từ Quốc hội và vẫn giữ nguyên nội dung như
Điều 22 Hiến pháp năm 1946. Hiến pháp năm 1980 (sau khi thống nhất đất
nước) và Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001) cũng với tinh thần
đó nhưng được thể hiện rõ ràng, đầy đủ hơn. Điều 83 Hiến pháp năm 1992
khẳng định: Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến
pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2013 (sau đây gọi là Hiến pháp sửa đổi
2013) tiếp tục khẳng định vị trí, tính chất, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn
của Quốc hội như bốn bảnHiến pháp trước, song về mức độ đã được điều chỉnh
cho phù hợp hơn với thực tiễn, nội dung được thể hiện cô đọng và gọn hơn.
Điều 69 Hiến pháp năm 2013 xác định “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất
của Nhân dân, cơ quan quyền lực cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam”.
2.1.2 Tính chất của Quốc hội
Về tính chất, ngay từ Hiến pháp năm 1946, Điều 1 đã nói rõ: “Tất cả
quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi
giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Đến Hiến pháp năm 1959 tính
chất trên tiếp tục được khẳng định tại Điều 4 “Tất cả quyền lực trong nước Việt
Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân”. Hiến pháp năm 1980 khẳng
định lại một lần nữa tại Điều 6: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
tất cả quyền lực thuộc về nhân dân”. Đến Hiến pháp năm 1992, tính chất này đã
24
được khẳng định rõ ràng, mạnh mẽ và khúc chiết hơn tại Điều 2: “Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân...”. Hiến
pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định tính chất này và nhấn mạnh: “Nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ...”.
Với vị trí và tính chất như trên, Quốc hội đóng vai trò chủ quyền Nhà
nước và chủ quyền nhân dân. Mọi quyền lực nhà nước được tập trung vào Quốc
hội. Mọi công việc trọng đại của đất nước và của nhân dân có ý nghĩa toàn quốc
đều do Quốc hội quyết định.
2.1.3 Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội
Đến Hiến pháp sửa đổi 2013, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội được
quy định toàn diện, đầy đủ hơn so với các Hiến pháp trước đó.
Quốc hội thực hiện quyền lập hiến và quyền lập pháp, nhưng để bảo đảm
cho hoạt động này có hiệu quả, pháp luật đã quy định quy trình các bước, các
công đoạn cụ thể phải tuân thủ Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Về
hoạt động giám sát, Quốc hội có quyền giám sát các hoạt động của Nhà nước về
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật. Các chủ thể có quyền giám sát gồm Quốc
hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc
hội và đại biểu Quốc hội. Quốc hội có quyền quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước như mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội; những vấn đề quốc kế
dân sinh, quốc phòng, an ninh, đối ngoại; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước
quốc tế hoặc tham gia theo đề nghị của Chủ tịch nước. Quốc hội có vai trò đặc
biệt trong việc xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước từ Trung ương đến địa
phương, bầu hoặc phê chuẩn các chức vụ cấp cao trong bộ máy nhà nước ở
Trung ương.
2.1.4 Hình thức và kỹ thuật lập hiến
Ở Hiến pháp năm 1992, Quốc hội thuộc chế định thứ sáu, theo thứ tự là
chương VI (từ Điều 83 đến Điều 100). Đến Hiến pháp năm 2013, Quốc hội
thuộc chế định thứ năm, được xếp ở chương V (từ Điều 69 đến Điều 85).
25
2.1.5 Vị trí, tính chất của Quốc hội trong bộ máy nhà nước (Điều 69)
Liên quan đến vị trí, tính chất của Quốc hội trong bộ máy nhà nước, một
nội dung thay đổi cơ bản là: trước đây, Hiến pháp quy định: “Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”, nay được quy định lại: “Quốc hội
thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp...”.
Việc thay đổi từ “cơ quan duy nhất có quyền” thành cơ quan “thực hiện
quyền lập hiến, lập pháp”, trước hết là sự thay đổi về chất. Nếu nói “duy nhất có
quyền”, thì thực tế có người hiểu là “độc quyền” và đặt vấn đề: với 500 đại biểu
Quốc hội đại diện cho toàn dân (tám, chín chục triệu người trong cả nước), liệu
duy nhất một mình Quốc hội có thể xây dựng được “đạo luật gốc” và các đạo
luật khác thật sự có chất lượng không? Trên thực tế, Hiến pháp cũng như các
đạo luật khác, nếu được nhiều người, nhiều cơ quan, tổ chức, đoàn thể và cá
nhân trên các giác độ khác nhau, với góc nhìn khác nhau,đóng góp các ý kiến đa
chiều, nhiều phía và được tập hợp, chắt lọc lại như một lăng kính hội tụ, thì chắc
chắn chất lượng sẽ cao hơn nhiều. Đó cũng chính là cách thức chúng ta đã và
đang tiến hành hiện nay.
Thứ hai là sự thay đổi về phạm vi, mức độ này nhằm thể hiện đúng với
thực tiễn đang diễn ra. Một đạo luật từ lúc “tạo hình” cho đến khi “ra lò”, theo
Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 thì phải trải qua sáu công
đoạn lớn: đưa vào Chương trình xây dựng luật (1); soạn thảo luật (2) ; thẩm tra
dự án luật (3); Ủy ban thường vụ Quốc hội xem xét cho ý kiến (4); thảo luận,
tiếp thu, chỉnh lý, thông qua (5); công bố luật (6). Quốc hội tham gia và chịu
trách nhiệm tất cả. Nhưng thao tác trực tiếp, chủ yếu ở 3 công đoạn quan trọng
giữa là (3), (4) và (5). Tuy nhiên trong ba công đoạn đó, các chủ thể trình dự án
luật, đặc biệt là Chính phủ (nơi có khoảng 90% các dự án luật được trình ra
Quốc hội), đều đã phải tham gia tận lực.
Cũng cần phải nói thêm rằng, trước khi trình Quốc hội, Ban soạn thảo đã
phải lấy ý kiến các đối tượng được luật điều chỉnh và đối tượng được áp dụng
hoặc toàn thể nhân dân (tùy theo từng đạo luật); để phục vụ công tác thẩm tra thì
cơ quan thẩm tra cũng thu thập ý kiến tương tự qua các đợt khảo sát, các cuộc
26
giám sát. Như vậy trên thực tế đâu có phải “Quốc hội là cơ quan duy nhất có
quyền lập hiến, lập pháp”, cho đến nay rất nhiều cơ quan, đoàn thể, tổ chức, đơn
vị và cá nhân (từ người dân đến các nhà khoa học) đều tham gia, thậm chí tham
gia ngay từ đầu. Bởi vậy việc quy định lại theo mức độ là hợp tình, hợp lý, đúng
với thực tế khách quan.
2.1.6 Nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội (Điều 70)
Điều này quy định nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội thể hiện trong mười
lăm khoản. Về nội dung có những thay đổi quan trọng, bao gồm:
Khoản 1, Quốc hội không còn nhiệm vụ, quyền hạn “quyết định chương
trình xây dựng luật, pháp lệnh”. Vấn đề này có thể được hiểu là, Quốc hội, Ủy
ban thường vụ Quốc hội sẽ xây dựng luật, pháp lệnh theo yêu cầu của đời sống
kinh tế - xã hội phù hợp với thực tiễn đặt ra cho từng năm và từng thời đoạn.
Khoản 2, , liên quan đến thẩm quyền giám sát tối cao và thẩm quyền xét
báo cáo công tác của các cơ quan nhà nước, nội dung quy định tại điều khoản
này không có nhiều thay đổi lớn, ngoài việc đã bổ sung thêm hai chủ thể thuộc
trách nhiệm báo cáo công tác trước Quốc hội là “ Hội đồng bầu cử quốc gia,
Kiểm toán Nhà nước và các cơ quan khác do Quốc hội thành lập” bên cạnh các
cơ quan “Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ,Tòa án nhân
dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao”. Sở dĩ có sự thay đổi này là
do Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung ở chương X hai thiết chế hiến định độc lập
(hai cơ quan) là Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán Nhà nước. Mặt khác,
trong tương lai, khi thật sự cần thiết, có thể Quốc hội sẽ thành lập thêm các cơ
quan độc lập khác. Vì các cơ quan này thuộc thẩm quyền thành lập của Quốc hội
nên phải đưa vào nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.
Cũng phải nói thêm rằng, việc hiến định các cơ quan độc lập nói trên là
góp phần làm rõ hơn chủ quyền nhân dân, làm rõ hơn cơ chế phân công, phối
hợp trong việc kiểm soát quyền lực và hoàn thiện bộ máy nhà nước pháp quyền
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Khoản 3 được quy định lại như sau: “Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính
sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh tế - xã hội của đất nước”. Việc thay từ “kế
27
hoạch” bằng cả cụm từ “mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản” là
hợp lý và cần thiết, đúng với tầm nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Cần lưu ý
từ cơ bản, nó là “thừa số chung” của mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ
chứ không phải chỉ là nhiệm vụ cơ bản. Quốc hội chỉ quyết định những vấn đề
cơ bản, then chốt, có tính chất “xương sống” của kế hoạch thay vì quyết định
toàn bộ kế hoạch như hiện nay. Trong một kế hoạch có rất nhiều điều mục, số
liệu định lượng, mục tiêu định tính cùng các giải pháp thực hiện; Quốc hội
không làm thay công việc cụ thể, chi tiết của cơ quan hành pháp. Chính phủ sẽ
quyết định cụ thể và báo cáo trước Quốc hội. Bởi vậy quy định như trên là đúng
mức.
Khoản 4 có hai vấn đề mới cần quan tâm:
Một là, Quốc hội quyết định nguyên tắc phân chia các khoản thu và
nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương. Đây là nội
dung đã được thể hiện trong Chương III Luật Ngân sách nhà nước hiện hành và
được thực hiện qua nhiều năm, nhiều nhiệm kỳ và đã trở thành nền nếp. Ngân
sách nhà nước là vấn đề cực kỳ quan trọng của kế hoạch phát triển kinh tế - xã
hội. Quốc hội quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách và nhiệm vụ cơ bản phát
triển kinh tế - xã hội của đất nước thì không thể không quyết định vấn đề cơ bản
của ngân sách là phân chia các khoản thu và nhiệm vụ chi của ngân sách Trung
ương và địa phương. Tuy nhiên, Quốc hội không quyết định cụ thể các chỉ tiêu
phân chia mà chỉ quyết định các nguyên tắc phân chia để định hướng cho việc
phân chia cụ thể. Bởi vậy Hiến pháp điều chỉnh quyền quyết định nguyên tắc
phân chia các khoản thu, nhiệm vụ chi giữa ngân sách Trung ương và địa
phương, đồng thời giao nhiệm vụ này cho Quốc hội là cần thiết và đúng với
nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội.
Hai là, Quốc hội quyết định mức giới hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công,
nợ Chính phủ. Đây là nhiệm vụ, quyền hạn rất mới. Có thể đặt vấn đề, vì sao
Quốc hội phải quyết định mức giới hạn các loại nợ trên? Lấy nợ công làm ví dụ
để lý giải điều này: Nợ công của Việt Nam năm 2001 mới 11,5 tỷ USD, tương
đương 36% GDP; đến năm 2010 nợ công đã tăng lên 55,2 tỷ USD, tương đương
28
53,3% GDP. Như vậy trong 10 năm quy mô nợ công gần gấp 5 lần, tốc độ tăng
nợ công 15% mỗi năm; nếu tiếp tục với tốc độ này thì chỉ 5 năm nữa, đến năm
2016 nợ công của Việt Nam sẽ vượt quá 100% GDP như 2 nước thành viên EU
vừa mới lâm vào khủng hoảng là Hy Lạp (133,6%) và Ai Len (129,2). Nợ công
đạt trên 100% là con số không nhỏ đối với một nền kinh tế đang phát triển và
quy mô nhỏ phụ thuộc nhiều vào xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp thô và công
nghiệp nhẹ như Việt Nam[1]. Do đó Quốc hội phải quyết định mức giới hạn nợ
quốc gia, nợ công, nợ chính phủ là quy định mới đúng đắn, cần thiết[2] Khoản
7 có 2 vấn đề quan trọng:
Một là, tách việc bỏ phiếu tín nhiệm thành một nhiệm vụ và quyền hạn
độc lập, sẽ nói ở khoản 8 dưới đây. Hai là, chức danh Thẩm phán Tòa án nhân
dân tối cao cũng được Quốc hội phê chuẩn việc bổ nhiệm hoặc bị cách chức, vì
ở Chương VI về chế định Chủ tịch nước, tại khoản 3 Điều 88 đã bổ sung nhiệm
vụ, thẩm quyền của Chủ tịch nước là: bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Thẩm
phán các Tòa án khác để phù hợp với cải cách tư pháp.Do đó Quốc hội phải phê
chuẩn trước.
Khoản 8 thêm nhiệm vụ, quyền hạn thứ tám cho Quốc hội: “Bỏ phiếu tín
nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn”. Bỏphiếu tín
nhiệm là một việc được bổ sung vào nhiệm vụ, quyền hạn thứ bảy (cũ) trong lần
sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2001. Bổ sung đó là một tiến bộ trong việc
giám sát, kiểm soát quyền lực. Nay việc này càng trở nên cấp bách, không thể
không đẩy mạnh việc thực thi. Vì thế Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 4 đã thông
qua Nghị quyết số 35/QH12/ ngày 21 tháng 11 năm 2012 về lấy phiếu tín
nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn. Hiến
pháp lần này từ “một chi tiết” đã nâng lên thành “một nhiệm vụ, quyền hạn”
ngang hàng với các nhiệm vụ, quyền hạn khác của Quốc hội. Việc quy định “bỏ
phiếu tín nhiệm” là một nhiệm vụ, quyền hạn “độc lập” với các nhiệm vụ, quyền
hạn khác của Quốc hội là hoàn toàn phù hợp với tình hình hiện tại (khi cả nước
đang quyết liệt thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI- Một số nhiêm vụ
cấp bách về công tác xây dựng Đảng hiện nay). Nhiệm vụ này sẽ góp phần thúc
29
đẩy người giữ các chức vụ quan trọng trong bộ máy nhà nước thực thi nhiệm vụ
kịp thời hơn, mang tính thúc đẩy hơn và “răn đe” mạnh mẽ hơn; do đó cũng đáp
ứng tốt hơn lòng mong đợi của cử tri.
Khoản 14 có liên quan đến thẩm quyền của Chủ tịch nước (tại khoản 6,
Điều 93) trong việc quyết định đàm phán, ký kết điều ước quốc tế nhân danh
Nhà nước; trình Quốc hội phê chuẩn điều ước quốc tế hoặc quyết định phê
chuẩn, gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực điều ước quốc tế theo thẩm quyền do
Quốc hội quy định(tại khoản 14 Điều 70).Việc sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ, quyền
hạn của Chủ tịch nước không thuộc phạm vi chuyên đề này, nhưng có liên quan
đến nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc hội. Riêng khoản 6, Điều 93 về cơ bản là
phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp.
Trước đây quy định Quốc hội “...phê chuẩn hoặc bãi bỏ điều ước quốc tế
do Chủ tịch nước trực tiếp ký; phê chuẩn hoặc bãi bỏ các điều ước quốc tế khác
đã được ký kết hoặc gia nhập theo đề nghị của Chủ tịch nước”. Nay trên cơ sở
khoản 6, Điều 93, khoản 14 mới, Điều 75 được quy định lại là: Quốc hội “... phê
chuẩn,quyết định gia nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên
quan đến chiến tranh, hòa bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan
trọng, điều ước quốc tế về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân và điều ước quốc tế khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội”.
Quy định mới này là hoàn toàn cần thiết vì hai lý do cơ bản sau đây:
Một là, trước đây, những vấn đề lớn, đại sự như chiến tranh và hòa bình,
như chủ quyền quốc gia, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân chưa được đề
cập cụ thể trong Điều 84 Hiến pháp 1992. Nay trong điều kiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) của Đảng đã chỉ rõ “bối cảnh quốc tế có những biến đổi to lớn và sâu
sắc”, thậm chí là biến đổi khôn lường, thì những điều ước quốc tế (trực tiếp
hoặc có liên quan) về những vấn đề trọng đại đó không thể không do Quốc hội
xem xét để phê chuẩn hay không phê chuẩn. Bởi vậy, đây là nhiệm vụ, quyền
hạn rất xác đáng của Quốc hội. Hai là, sau năm 1992, nước ta đã tham gia nhiều
30
tổ chức quốc tế như ASEAN, ASEM, APEC, WTO nhiều tổ chức của Liên hiệp
quốc như UNDP, UNFPA, UNESCO... Sắp tới, chắc chắn nước ta còn tham gia
những tổ chức quốc tế khác. Việc Quốc hội xem xét có nên tham gia tổ chức này
hay tổ chức khác với tư cách gì cũng là cần thiết nhằm bảo vệ lợi ích quốc gia,
dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh. Mặt khác chúng ta
cũng đã tuyên bố: Việt Nam “là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách
nhiệm trong cộng đồng quốc tế” (Văn kiện Đại hội XI của Đảng, trang 234). Bởi
vậy, Quốc hội xem xét phê chuẩn là đúng tầm nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc
hội (như đã phê chuẩn Việt Nam gia nhập WTO năm 2007).
2.1.7 Nhiệm vụ, quyền hạn của Ủy ban thường vụ Quốc hội (Điều 74)
Ủy ban thường vụ Quốc hội có mười ba nhiệm vụ, quyền hạn,về nội dung
có một số điểm mới như sau:
Trước hết Ủy ban thường vụ Quốc hội không còn nhiệm vụ “Công bố và
chủ trì việc bầu cử đại biểu Quốc hội”, vì nhiệm vụ này đã được chuyển cho Hội
đồng bầu cử quốc gia (một thiết chế độc lập mới).
So với Điều 91 Hiến pháp 1992 thì khoản 5 được tách thành hai khoản
mới. Đoạn đầu thuộc công tác giám sát, được quy định thành nhiệm vụ, quyền
hạn thứ ba (khoản 3): “Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của
Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt
động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội thành lập”. Đoạn hai được
quy định thành khoản 4 mới của Điều 74 Hiến pháp 2013, đó là quyền đình chỉ
việc thi hành và trình Quốc hội bãi bỏ các văn bản trái với Hiến pháp, luật, nghị
quyết của Quốc hội đối với các văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ,
Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao.Và trực tiếp bãi bỏ văn
bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm
sát nhân dân tối cao trái với pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc
hội.
Hai việc trên có nội hàm khác nhau (giám sát và xử lý hậu giám sát), quy
trình vận hành công việc của hai việc đó cũng khác nhau nên rất cần thiết phải
31
được bóc tách quy định lại cho rành mạch.
2.1.8 Một nhiệm vụ-quyền hạn hoàn toàn mới
Là: “Quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới đơn vị
hành chính dưới tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương” (khoản 8). Việc này
trước đây thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Qua thực thi cho thấy có ít
nhất hai tình huống không hợp lý. Thứ nhất, cùng là thành lập, chia tách, sáp
nhập, điều chỉnh địa giới đơn vị hành chính mà một phần viêc này (đơn vị hành
chính cấp tỉnh) do cơ quan lập pháp (Quốc hội) thực hiện, phần còn lại (đơn vị
hành chính cấp huyện) do cơ quan hành pháp (Chính phủ) tiến hành. Thứ hai là,
do bất hợp lý nói trên mà có những việc cụ thể rất khó giải quyết. Điều chỉnh địa
giới hành chínhcủa một huyện thuộc một tỉnh, nhưng huyện đó lại giáp với tỉnh
khác (tức là vừa điều chỉnh địa giới hành chính huyện, đồng thời phải điều chỉnh
địa giới hành chính tỉnh, nếu Chính phủ làm thì vướng về địa giới hành chính
tỉnh, nếu Quốc hội làm thì lại trùng dẫm lên việc của Chính phủ là điều chỉnh
địa giới hành chính huyện). Chính vì vậy, thẩm quyền này phải quy về một mối.
Tuy nhiên có sự phân cấp: Quốc hội xử lý công việc đối với tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, còn Ủy ban thường vụ Quốc hội xử lý các đơn vị
huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và báo cáo với Quốc hội. Sửa đổi này
là cần thiết và chặt chẽ.
2.1.9 Một nhiệm vụ, quyền hạn có thể nói là “mới nay, cũ xưa”,
Đó là khoản 12, Ủy ban thường vụ Quốc hội có nhiệm vụ, quyền hạn
“Phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”. Hiến pháp 2013 quy định nhiệm vụ này
chính là kế thừa quy định của Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980. Vì
vị trí của đại sứ là đại diện đặc mệnh toàn quyền của nước ta (mang tính quốc
gia) ở nước ngoài nên Ủy ban thường vụ Quốc hội phải phê chuẩn để Chủ tịch
nước bổ nhiệm, cử hoặc triệu hồi đại sứ là hợp lý, đúng đắn, đồng thời cũng phù
hợp với thông lệ quốc tế.
2.1.10 Hội đồng dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội
(các Điều 75, 76, 77 và 78)
32
Có một số việc đến bây giờ đã trở thành “tất yếu” như các quy định: Hội
đồng dân tộc, các Ủy ban có một số thành viên hoạt động chuyên
trách, hoặc Chủ tịch Hội đồng dân tộc được tham dự các phiên họp của Ủy ban
thường vụ Quốc hội… là tất yếu nên không cần thiết ghi trong Hiến pháp và đã
được bãi bỏ.
Từ tính chất hoạt động của Quốc hội và yêu cầu công tác cán bộ, Hiến
pháp 2013 quy định về các cơ quan của Quốc hội có sự đổi mới theo sự phân
cấp quản lý cán bộ. Quốc hội chỉ bầu Chủ tịch Hội đồng dân tộc và Chủ nhiệm
các Ủy ban; còn Phó Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Phó Chủ nhiệm các Ủy ban và
các Ủy viên Hội đồng,Ủy viên Ủy ban do Ủy ban thường vụ Quốc hội phê
chuẩn. Theo chúng tôi, phân cấp như thế là hợp lý, tương đồng với công tác
quản lý cán bộ của Đảng (Bộ trưởng và tương đương thì do Bộ Chính trị quản
lý, Thứ trưởng và tương đương thì do Ban Bí thư Quản lý), song cũng phải tính
đến thực tế quy trình tiến hành công việc này, ai giới thiệu Phó Chủ tịch Hội
đồng dân tộc và các Ủy viên của Hội đồng cũng như Phó Chủ nhiệm các Ủy ban
và các Ủy viên Ủy ban (trước đây do Ủy ban thường vụ Quốc hội giới thiệu).
Sau này, khi xây dựng Luật tổ chức Quốc hội (mới), thiết nghĩ rất cần thiết phải
cụ thể hóa quy trình thực hiện quy định này.
Xuất phát từ kết quả hoạt động giám sát của Quốc hội (theo quy định của
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội năm 2003), một thiết chế mới được chính
thức quy định trong Hiến pháp năm 2013 , đó là Ủy ban lâm thời của Quốc hội.
Từ Quốc hội khóa XI đến nay có khá nhiều vấn đề mà Quốc hội phải thành lập
các Đoàn giám sát (thực chất là Ủy ban lâm thời) để xử lý. Phần lớn các vụ việc
đó là các vụ án oan, sai hoặc các vấn đề kinh tế có sai sót nghiêm trọng. Vì vậy
Hiến pháp năm 2013 có hẳn một điều quy định về Ủy ban lâm thời, đó là Điều
78, nội dung như sau: “Khi cần thiết, Quốc hội thành lập Ủy ban lâm thời để
nghiên cứu, thẩm tra một dự án hoặc điều tra một vấn đề nhất định”.
2.1.11 Đại biểu Quốc hội (các Điều 79, 80, 81 và 82)
Nhìn chung, nội dung về đại biểu Quốc hội không có gì thay đổi lớn, chỉ
có một sửa đổi ở khoản 1 Điều 82, theo đó, quy định mới “Đại biểu Quốc hội có
33
trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu” được thay cho quy định cũ:
“Đại biểu Quốc hội phải dành thời gian để làm nhiệm vụ đại biểu”. Quy định
mới nhằm đề cao hơn nữa trách nhiệm của đại biểu và khẳng định rằng, dù là đại
biểu chuyên trách hay đại biểu kiêm nhiệm thì dứt khoát cũng phải làm tròn
nhiệm vụ của mình. Cũng tại khoản 1 Điều 82 có một quy định mới, đại biểu
Quốc hội “có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc Ủy ban
của Quốc hội”. Trước đây, khi chưa có quy định này, đã xảy ra tình trạng: người
được cơ cấu làm thành viên thì không muốn được cơ cấu, người không được cơ
cấu thì lại muốn. Vì vậy việc ổn định tổ chức để đi vào hoạt động có phần phức
tạp và tiêu tốn nhiều thời gian. Nay quy định “mở” như trên vừa phù hợp với
nguyện vọng của đại biểu, vừa nhanh chóng ổn định tổ chức các cơ quan của
Quốc hội.
2.1.12 Kỹ thuật lập hiến
Trừ Điều 81, còn lại các điều có nhiều nội dung đều được cấu tạo thành
các khoản cho dứt khoát và mạch lạc hơn (quy định cũ không có điều nào chia
thành khoản).
Nói tóm lại, chế định về Quốc hội trong Hiến pháp năm 2013 tiếp tục
được khẳng định về mô hình tổ chức và bản chất của nó trong tổng thể hệ thống
chính trị đã được xác định tại Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X, XI của Đảng, kế thừa tinh hoa của các bản Hiến pháp
trước và tham khảo có chọn lọc kinh nghiệm nước ngoài. Vị trí, nhiệm vụ,
quyền hạn, cơ cấu tổ chức bộ máy của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội được
quy định đầy đủ, chặt chẽ và hoàn thiện hơn, phù hợp với tình hình đất nước
trong giai đoạn hiện nay và tầm nhìn đến đầu những năm 30 của thế kỷ này.
2.2. So sánh nội dung chế đinh về Quốc Hội của Hiến pháp 2013 so
với các bản Hiến pháp 1946
Hiến pháp là văn bản quy phạm pháp luật do chính Quốc hội ban hành, là
đạo luật cơ bản, đạo luật gốc có giá trị pháp lý cao nhất trong hệ thống văn bản
pháp luật Việt Nam. Hiến pháp quy định những vấn đề cơ bản về chế độ chính
34
trị, chế độ kinh tế, văn hóa xã hội; tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà
nước; quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân…
Theo quy định của Hiến pháp, Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất
của nhà nước, là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, thực hiện quyền lập
pháp và giám sát tối cao hoạt động của bộ máy nhà nước. Tuy nhiên, vị trí, tính
chất, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn cũng như mô hình tổ chức và hình thức
hoạt động của Quốc hội ở các nhà nước là khác nhau và ngay trong một nhà
nước nhưng ở các giai đoạn lịch sử khác nhau cũng có những khác biệt nhất
định.
Ở Việt Nam, từ khi nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời cho đến
nay đã có 5 bản Hiến pháp, ở mỗi bản Hiến pháp chế định về Quốc hội có sự
thay đổi, bổ sung và phát triển cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ trong từng
giai đoạn cách mạng giới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam.
Thứ nhất, về khái niệm
Hiến pháp 1946 là bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam cũng được
xem là bản hiến pháp mang nhiều tư tưởng tiến bộ, tư tưởng nhân quyền và phân
quyền. Về chế định Quốc hội, Hiến pháp 1946 tại chương 3 “Nghị viện nhân
dân” và tại Điều 22 quy định: “Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất
của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà”.
Như vậy trong Hiến pháp 1946 Quốc hội được định danh là “Nghị viện
nhân dân”. Với vị trí pháp lý là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam
dân chủ cộng hoà.
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, có hiệu
lực từ ngày 1/1/2014. Trên cơ sở kế thừa và phát triển các bản Hiến pháp trước,
Hiến pháp năm 2013 là bước tiến mới trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến
pháp 2013 đã thể chế hóa quan điểm của Đảng tại Đại hội XI, đặc biệt là Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011), làm động lực cho sự phát triển đất nước bền vững theo chiều
sâu trước yêu cầu mới. Chế định về Quốc hội cũng được bổ sung, phát triển cả
về khái niệm và chức năng, nhiệm vụ.
35
Về khái niệm, theo Điều 69 Hiến pháp năm 2013 thì “Quốc hội là cơ quan
đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam”.
Như vậy, ngoài sự khác nhau về khái niệm Hiến pháp 2013 cũng thể hiện
rõ nét hơn về tính đại diện với vị trí là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân
và xác định Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước. Trong Hiến
pháp 1946 chỉ xác định Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, tức là chỉ xác định Nghị viện là cơ quan có
quyền cao nhất của nhà nước mà không xác định là cơ quan quyền lực cao nhất.
Thứ hai, về nhiệm vụ, quyền hạn
Hiến pháp 1946 quy định, Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề
chung cho toàn quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các
hiệp ước mà Chính phủ ký với nước ngoài. Điều thứ 23.
Nghị viện nhân dân bầu Nghị trưởng và hai Phó nghị trưởng (tương ứng
với Chủ tịch và Phó Chủ tịch Quốc hội hiện nay). Bầu 12 uỷ viên chính thức, 3
uỷ viên dự khuyết để lập thành Ban thường vụ (tương ứng với Ủy ban thường vụ
Quốc hội hiện nay). Điều thứ 27.
Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong Nghị viện nhân dân
và phải được hai phần ba tổng số nghị viện bỏ phiếu thuận. Điều thứ 45
Phó chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà chọn trong nhân dân và
bầu theo lệ thường. Điều thứ 46.
Chủ tịch nước Việt Nam chọn Thủ tướng trong Nghị viện và đưa ra Nghị
viện biểu quyết. Điều thứ 47.
Nghị viện kiểm soát và phê bình Chính phủ. Điều thứ 36.
Điều 69 Hiến pháp 2013 quy định Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền
hạn sau đây:
Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp; làm luật và sửa đổi luật;
Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị
quyết của Quốc hội; xét báo cáo công tác của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
36
Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán nhà nước và cơ quan khác do Quốc hội
thành lập;
Quyết định mục tiêu, chỉ tiêu, chính sách, nhiệm vụ cơ bản phát triển kinh
tế - xã hội của đất nước;
Quyết định chính sách cơ bản về tài chính, tiền tệ quốc gia; quy định, sửa
đổi hoặc bãi bỏ các thứ thuế; quyết định phân chia các khoản thu và nhiệm vụ
chi giữa ngân sách trung ương và ngân sách địa phương; quyết định mức giới
hạn an toàn nợ quốc gia, nợ công, nợ chính phủ; quyết định dự toán ngân sách
nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà
nước;
Quyết định chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Nhà nước;
Quy định tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ,
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, Hội đồng bầu cử quốc gia, Kiểm toán
nhà nước, chính quyền địa phương và cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
Bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, Chủ tịch
Quốc hội, Phó Chủ tịch Quốc hội, Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ
tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ,
Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia, Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu
cơ quan khác do Quốc hội thành lập; phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm,
cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng và thành viên khác của Chính
phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; phê chuẩn danh sách thành viên Hội
đồng quốc phòng và an ninh, Hội đồng bầu cử quốc gia.
Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của Chính phủ; thành
lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh, thành phố trực
thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt; thành lập, bãi bỏ cơ quan
khác theo quy định của Hiến pháp và luật;
Bãi bỏ văn bản của Chủ tịch nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính
phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội;
37
Quyết định đại xá;
Quy định hàm, cấp trong lực lượng vũ trang nhân dân, hàm, cấp ngoại
giao và những hàm, cấp nhà nước khác; quy định huân chương, huy chương và
danh hiệu vinh dự nhà nước;
Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn
cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia;
Quyết định chính sách cơ bản về đối ngoại; phê chuẩn, quyết định gia
nhập hoặc chấm dứt hiệu lực của điều ước quốc tế liên quan đến chiến tranh, hòa
bình, chủ quyền quốc gia, tư cách thành viên của Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam tại các tổ chức quốc tế và khu vực quan trọng, các điều ước quốc tế về
quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân và điều ước quốc tế
khác trái với luật, nghị quyết của Quốc hội;
Quyết định trưng cầu ý dân.
Như vậy so với Hiến pháp 1946, Hiến pháp 2013 có nhiều bổ sung và quy
rõ hơn, cụ thể hơn về nhiệm vụ quyền hạn của Quốc hội và chỉ tập trung vào
một điều (Điều 69) của chương V, còn Hiến pháp 1946 quy định ở nhiều điều
khác nhau của chương 3.
Ngoài ra Hiến pháp 2013 bổ sung một số nhiệm vụ, quyền hạn của Quốc
hội như: giám sát tối cao đối với hoạt động của bộ máy nhà nước (khoản 3 Điều
69); bầu, miễn nhiệm Thủ tướng Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao,
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Chủ tịch Hội đồng bầu cử quốc gia,
Tổng Kiểm toán nhà nước, người đứng đầu cơ quan khác do Quốc hội thành lập;
phê chuẩn đề nghị bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Phó Thủ tướng Chính phủ,
Bộ trưởng và thành viên khác của Chính phủ, Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao (khoản 7 Điều 69); Quyết định thành lập, bãi bỏ bộ, cơ quan ngang bộ của
Chính phủ; thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa giới hành chính tỉnh,
thành phố trực thuộc trung ương, đơn vị hành chính - kinh tế đặc biệt (khoản 9
Điều 69); Quyết định đại xá (khoản 11 Điều 69); …
Thứ ba, về nhiệm kỳ
Nhiệm kỳ của Nghị viện nhân dân trong Hiến pháp 1946 là ba năm.
38
Còn Nhiệm kỳ của mỗi khóa của Quốc hội trong Hiến pháp 2013 là năm
năm Điều 71.
Tựu trung lại, qua các hai bản Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 2013 của
Việt Nam, chế định Quốc hội cũng có những bước sửa đổi phát triển lớn cả về vị
trí, nhiệm vụ, chức năng, thẩm quyền đến cấu trúc tổ chức đều thể hiện sự kế
thừa và phát triển của chế định quyền lực nhà nước quan trọng này trong cấu
trúc thống nhất của toàn bộ bộ máy Nhà nước Việt Nam ở cấp Trung ương.
Trong thời gian tới, với những nhiệm vụ, quyền hạn được Hiến pháp nước quy
định, cùng với các cơ quan, tổ chức hữu quan khác trong hệ thống chính trị,
chúng ta có niềm tin mạnh mẽ rằng, Quốc hội nước Việt Nam sẽ tiếp tục thực
hiện ngày càng tốt hơn vị trí, vai trò là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân,
cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam, thực hiện có hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trên cơ sở quy
định của Hiến pháp, tạo tiền đề tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công cuộc Đổi mới
đất nước theo chủ trương của Đảng, đáp ứng kịp thời yêu cầu của thực tiễn luôn
thay đổi và phát triển.
2.3. Lịch sử phát triển của Hiến pháp Việt Nam
Từ năm 1946 đến nay, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước
Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) đã có 5 lần ban hành Hiến pháp: Hiến
pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm
1992 được sửa đổi bổ sung năm 2001 và Hiến pháp năm 2013. Mỗi bản Hiến
pháp được ban hành đều chứa đựng tinh hoa của nền lập pháp Việt Nam, đánh
dấu một bước phát triển mới của cả dân tộc.
2.3.1. Hiến pháp 1946
Hiến pháp năm 1946 là bản Hiến pháp đầu tiên của đất nước ta. Sau khi
đọc bản “Tuyên ngôn độc lập”, Hồ chủ tịch đã đề ra sáu nhiệm vụ cấp bách của
Chính phủ, một trong những nhiệm vụ cấp bách đó là xây dựng Hiến pháp:
“Trước chúng ta đã bị chế độ quân chủ cai trị, rồi đến chế độc thực dân không
kém phần chuyên chế nên nước ta không có hiến pháp, nhân dân ta không được
hưởng quyền tự do, dân chủ. Chúng ta phải có một hiến pháp dân chủ.”. Ngày
39
09/1/1946 Quốc hội khóa I đã thông qua Hiến pháp đầu tiên của nước ta. Hiến
pháp năm 1946 được xây dựng trên ba nguyên tắc cơ bản: đoàn kết toàn dân,
không phân biệt giống nòi, trai, gái, giai cấp, tôn giáo; bảo đảm các quyền lợi
dân chủ; thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.
Hiến pháp năm 1946 là một bản Hiến pháp dân chủ, tiến bộ không kém
bất kỳ một bản hiến pháp nào trên thế giới. Lần đầu tiên nhân dân Việt Nam
được hưởng các quyền tự do, dân chủ. Và cũng lần đầu tiên trong lịch sử dân
tộc, phụ nữ được ngang quyền với nam giới trên mọi phương diện. Đánh giá về
ý nghĩa của việc ban hành bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “... bản Hiến pháp đầu tiên trong lịch
sử nước nhà... là một vết tích lịch sử Hiến pháp đầu tiên trong cõi á Đông... Bản
Hiến pháp đó chưa hoàn toàn nhưng nó đã làm nên theo một hoàn cảnh thực tế.
Hiến pháp đó tuyên bố với thế giới nước Việt Nam đã độc lập. Hiến pháp đó
tuyên bố với thế giới biết dân tộc Việt Nam đã có đủ mọi quyền tự do… phụ nữ
Việt Nam đã được đứng ngang hàng với đàn ông để được hưởng chung mọi
quyền tự do của một công dân. Hiến pháp đó đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt
chẽ giữa các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các
giai cấp”.
2.3.2. Hiến pháp năm 1959
Sau Hiệp định Giơ-ne-vơ, tình hình đất nước ta có sự biến đổi to lớn.
Miền Bắc được giải phóng, tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam
kháng chiến chống Mỹ, thống nhất nước nhà. Ở miền bắc có những biến chuyển
to lớn, kinh tế phát triển đạt được những thành tựu nhất định, giai cấp địa chủ
phong kiến bị đánh đổ, liên minh giai cấp công nhân, nông dân ngày càng được
củng cố và vững mạnh. "Trong giai đoạn mới của cách mạng, Quốc hội ta cần
sửa đổi bản Hiến pháp năm 1946 cho thích hợp với tình hình và nhiệm vụ mới"
(Lời nói đầu, Hiến pháp 1959). Ngày 31-12-1959, Quốc hội đã nhất trí thông
qua Hiến pháp sửa đổi và ngày 1-1-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh
công bố Hiến pháp.
Hiến pháp khẳng định nhà nước ta là nhà nước cộng hòa dân chủ, tất cả
40
quyền lực trong nước đều thuộc về nhân dân. Hiến pháp ghi nhận những thành
quả đấu tranh giữ nước và xây dựng đất nước của nhân dân Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam. Với Hiến pháp 1959, lần đầu tiên trong
lịch sử lập hiến Việt Nam vai trò lãnh đạo của Đảng Lao động Việt Nam (nay là
Đảng Cộng sản Việt Nam) được ghi nhận bằng đạo luật cơ bản của Nhà nước
(tại lời nói đầu). Hiến pháp cũng khẳng định nước Việt Nam là một khối thống
nhất, không thể chia cắt.
Hiến pháp năm 1959 xác định đường lối kinh tế của nước ta trong giai
đoạn này là biến nền kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với
công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Hiến pháp
cũng ghi nhận nhiều quyền và nghĩa vụ của công dân, đồng thời quy định trác
nhiệm của nhà nước trong việc bảo đảm các quyền đó.
Hiến pháp năm 1959 là bản hiến pháp được xây dựng theo mô hình xã hội
chủ nghĩa, nó là bản hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên của nước ta.
2.3.3. Hiến pháp năm 1980
Sau chiến thắng năm 1975, nước ta hoàn toàn thống nhất, mở ra một trang
mới trong lịch sử dân tộc. Nước nhà được độc lập, tự do là điều kiện để đưa cả
nước quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Ngày 18/12/1980, Quốc hội khóa VI đã
nhất trí thông qua bản Hiến pháp mới – Hiến pháp năm 1980.
So với các bản Hiến pháp trước đây, Hiến pháp năm 1980 có nhiều sự đổi
khác. Về chế độ chính trị, Hiến pháp xác định bản chất của nhà nước là chuyên
chính vô sản, sứ mệnh lịch sử của nhà nước là thực hiện quyền làm chủ tập thể
của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân xây dựng thắng lợi chủ
nghĩa xã hội, tiến lên chủ nghĩa cộng sản. Lần đầu tiên trong lịch sử, Hiến pháp
năm 1980 thể chế hóa vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản đối với nhà nước và
xã hội trong một Điều của Hiến pháp – Điều 4. Về kinh tế, Hiến pháp năm 1980
quốc hữu hóa toàn bộ đất đai (Điều 19). Đồng thời, theo Điều 18, Nhà nước tiến
hành cách mạng về quan hệ sản xuất, hướng dẫn, sử dụng và cải tạo các thành
phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa, thiết lập và củng cố chế độ sở hữu xã hội chủ
nghĩa về tư liệu sản xuất nhằm thực hiện một nền kinh tế quốc dân chủ yếu có
41
hai thành phần: thành phần kinh tế quốc doanh thuộc sở hữu toàn dân và thành
phần kinh tế hợp tác xã thuộc sở hữu tập thể của nhân dân lao động. Kế tục các
bản Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 1980 xác định thêm một số quyền của
công dân phù hợp với giai đoạn mới của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, tuy
nhiên, một số quyền mới trong Hiến pháp năm 1980 không phù hợp với thực tế
của đất nước nên ko có điều kiện vật chất bảo đảm thực hiện (ví dụ: quyền khám
chữa bệnh không phải trả tiền, quyền được học tập không phải trả tiền…). Tổ
chức bộ máy nhà nước được thiết kế theo mô hình đề cao trách nhiệm tập thể
như thành lập Hội đồng nhà nước (thực hiện chức năng của Ủy ban thường vụ
Quốc hội và Chủ tịch nước), Hội đồng Bộ trưởng.
Tóm lại, Hiến pháp năm 1980 là Hiến pháp của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội trong phạm vi cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trong phạm vi
cả nước.
2.3.4. Hiến pháp năm 1992, sửa đổi bổ sung năm 2001
Sau một thời gian phát huy hiệu lực, Hiến pháp năm 1980 tỏ ra không phù
hợp với điều kiện kinh tế xã, hội của đất nước. Đại hội Đảng lần VI năm 1986
đã mở ra thời kỳ đổi mới ở nước ta. Ngày 15/4/1992 Quốc hội khóa VIII đã nhất
trí thông qua Hiến pháp năm 1992. Đây là “sản phẩm trí tuệ của toàn dân, thể
hiện ý chí và nguyện vọng của đồng bào cả nước”1.
Một trong những thay đổi nổi bật ở Hiến pháp năm 1992 sửa đổi bổ sung
năm 2001 là chế độ kinh tế. “Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều
thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh đa dạng dựa trên chế
độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và
sở hữu tập thể là nền tảng” (Điều 15). Mục đích chính sách kinh tế của nhà
nước là làm cho dân giàu nước mạnh, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vật
chất và tinh thần của nhân dân trên cơ sở phát huy mọi năng lực sản xuất, mọi
tiềm năng của các thành phần kinh tế gồm kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh
ra ngày 16/4/1992
tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước và kinh tế có
42
vốn đầu tư nước ngoài dưới nhiều hình thức…. Các thành phần kinh tế đều là bộ
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa.(Điều 16). Như vậy, với Hiến pháp năm 1992, nước ta đã chuyển đổi từ
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung với 2 thành phần kinh tế chủ yếu là kinh tế
nhà nước và kinh tế tập thể sang nền kinh tế hàng hóa thị trường với nhiều thành
phần kinh tế.
Về quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, so với Hiến pháp năm 1980
thì Hiến pháp năm 1992 có nhiều điều hơn, nhiều quyền và nghĩa vụ được bổ
sung và sửa đổi. Bên cạnh các quyền công dân, Hiến pháp năm 1992 lần đầu
tiên quy định: “các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã
hội được tôn trọng” (Điều 50). Đặc biệt, Hiến pháp năm 1992 xác lập quyền tự
do kinh doanh của công dân (Điều 57), đây là chìa khóa quan trọng để mở cánh
cửa vào nền kinh tế thị trường.
Về tổ chức bộ máy nhà nước, Hiến pháp năm 1992 đã quy định một số sự
thay đổi so với Hiến pháp năm 1980, nhằm bảo đảm tính linh động trong việc
quản lý điều hành của nhà nước trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đặc biệt, sau lần sửa đổi, bổ sung năm 2001, tư tưởng về xây dựng nhà
nước pháp quyền lần đầu tiên được thể hiện trong Hiến pháp “Nhà nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân… Quyền lực nhà nước là thống nhất, có
sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”
Tóm lại, Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001 đánh dấu sự
chuyển mình của đất nước ta trong thời kỳ đổi mới toàn diện và sâu sắc về kinh
tế, từng bước và vững chắc về chính trị. Đây là bản Hiến pháp kế thừa có chắt
lọc những tinh hoa của các bản Hiến pháp trước. Hiến pháp năm 1992 đã đánh
dấu sự phục hưng và phát triển nền tảng kinh tế của xã hội Việt Nam trong thời
gian 20 năm sau khi có hiệu lực.
2.4. Sự cần thiết ban hành
43
2.4.1. Sự cần thiết
Hiến pháp năm 1992 sử đổi, bổ sung năm 2001 được ban hành trong bối
cảnh những năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) đề ra và để thể chế hóa Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991. Hiến
pháp năm 1992 đã tạo cơ sở chính trị - pháp lý quan trọng cho việc thực hiện
công cuộc đổi mới. Qua 20 năm thực hiện Hiến pháp năm 1992, đất nước ta đã
đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Đến nay, đất nước ta đã có nhiều thay đổi trong bối cảnh tình hình quốc tế
có những biến đổi to lớn, sâu sắc và phức tạp. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) (sau đây
gọi chung là Cương lĩnh) và các văn kiện khác của Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng đã xác định mục tiêu, định hướng phát triển toàn diện, bền vững
đất nước trong giai đoạn cách mạng mới nhằm xây dựng nước Việt Nam xã hội
chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Vì vậy, việc ban hành Hiến pháp năm 2013 là thật sự cần thiết để bảm đảm
đổi mới đồng bộ về cả kinh tế và chính trị, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tốt hơn quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; xây dựng và bảo vệ đất nước; tích
cực và chủ động hội nhập quốc tế.
2.4.2. Yêu cầu sửa đổi Hiến pháp năm 1992
Thứ nhất, tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn những nội dung cơ bản có
tính bản chất của chế độ ta đã được quy định trong Hiến pháp năm 1992 về phát
huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, phát triển nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng và hoàn thiện Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân.
Thứ hai, thể chế hóa kịp thời những quan điểm, chủ trương lớn được nêu
44
trong Cương lĩnh và các văn kiện khác của Đảng.
Thứ ba, hoàn thiện kỹ thuật lập hiến, bảo đảm để Hiến pháp thực sự là
đạo luật cơ bản, có tính ổn định, lâu dài.
2.4.3. Quan điểm chủ đạo trong ban hành Hiến pháp năm 2003
Việc ban hành Hiến pháp năm 2013 dựa trên các quan điểm chủ đạo sau
đây:
- Dựa trên cơ sở tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và các đạo
luật có liên quan; căn cứ vào định hướng, nội dung của Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011)
và các văn kiện khác của Đảng; kế thừa những quy định của Hiến pháp năm
1992 và của các bản Hiến pháp trước đây còn phù hợp; sửa đổi, bổ sung những
vấn đề thực sự cần thiết, những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là
đúng, có đủ cơ sở, nhận được sự thống nhất cao và phù hợp với tình hình mới
đã được văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định.
- Tiếp tục khẳng định bản chất và mô hình tổng thể của hệ thống chính trị
và bộ máy nhà nước đã được xác định trong Cương lĩnh và Hiến pháp năm
1992. Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; quyền lực
nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan
nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
- Khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc
Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
- Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đổi mới
đồng bộ, phù hợp về kinh tế và chính trị, vì mục tiêu xây dựng nước Việt Nam
xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Tôn trọng và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; quyền của
công dân không tách rời nghĩa vụ của công dân; thực hiện dân chủ xã hội chủ
45
nghĩa; tăng cường kỷ luật, kỷ cương; xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
- Ban hành Hiến pháp là công việc hệ trọng nên phải tiến hành chặt chẽ,
khoa học dưới sự lãnh đạo của Đảng; bảo đảm sự tham gia của các chuyên gia,
các nhà khoa học, các nhà quản lý; tổ chức lấy ý kiến rộng rãi của nhân dân và
các cơ quan, tổ chức; chú trọng công tác thông tin, tuyên truyền, bảo đảm đúng
định hướng, không để các đối tượng xấu, thế lực thù địch lợi dụng để chống phá,
xuyên tạc trong quá trình nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.
2.4.4. Phạm vi những nội dung được sửa đổi trong Hiến pháp năm
2013
Căn cứ vào Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), các văn kiện khác của Đảng, đặc
biệt là Nghị quyết Hội nghị lần hai của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa
XI, Kết luận của Hội nghị lần năm của Ban chấp hành Trung ương khóa XI và
Nghị quyết của Quốc hội, so với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013
được sửa đổi theo 9 nội dung cơ bản, gồm:
Thứ nhất, tiếp tục thể chế hóa và làm sâu sắc hơn chủ trương phát huy dân
chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Thứ hai, tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động
các lực lượng xã hội phục vụ sự nghiệp phát triển đất nước.
Thứ ba tiếp tục khẳng định và làm rõ hơn vị trí, vai trò, trách nhiệm lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
Thứ tư, tiếp tục phát huy nhân tố con người, thể hiện sâu sắc hơn quan
điểm bảo vệ, tôn trọng quyền con người, bảo đảm thực hiện tốt hơn quyền,
nghĩa vụ cơ bản của công dân.
Thứ năm, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học, công nghệ, bảo
đảm công bằng xã hội, bảo vệ môi trường.
Thứ sáu tiếp tục bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ bảy, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam.
46
Thứ tám, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, xác định rõ hơn vai trò,
trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích hợp
pháp của công dân trong quan hệ quốc tế; tạo cơ sở hiến định để Nhà nước đẩy
mạnh hợp tác quốc tế, thực hiện quyền, nghĩa vụ quốc gia, góp phần giữ gìn hòa
bình khu vực và thế giới.
Thứ chín, sửa đổi kỹ thuật lập hiến và quy trình sửa đổi Hiến pháp để bảo
đảm hiệu lực, tính ổn định, lâu dài của Hiến pháp.
Với bố cục 11 chương, 120 điều, giảm một chương và 27 điều so với Hiến
pháp năm 1992, Hiến pháp 2013 có nhiều điểm mới cả về nội dung và kỹ thuật
lập hiến, thể hiện sâu sắc công cuộc đổi mới đồng bộ, toàn diện đất nước ; thể
hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng lãnh
đạo; quy định rõ ràng, đúng đắn, đầy đủ và khái quát hơn về quyền con người,
quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, về kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục,
khoa học, công nghệ và môi trường, bảo vệ Tổ quốc, hiệu lực và quy trình sửa
đổi Hiến pháp.
47
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN VÀ ĐIỂM MỚI CỦA CHẾ
ĐỊNH CHÍNH TRỊ
Chế định là nội dung và phương thức tổ chức và hoạt động của hệ thống
chính trị của một quốc gia, mà trọng tâm là của nhà nước. Nền tảng và khuôn
khổ của chế độ chính trị là Hiến pháp. Do tính chất và tầm quan trọng đặc biệt
của chế độ chính trị đối với sự phát triển của xã hội nên trong các bản Hiến pháp
của nước ta và của nhiều nước trên thế giới, chế độ chính trị thường được ghi
nhận trong chương đầu tiên, với ý nghĩa là nội dung cơ bản, chi phối các nội
dung khác của Hiến pháp.
Trong Hiến pháp năm 2013, chế độ chính trị được quy định tại Chương I
trên cơ sở kế thừa Chương I Hiến pháp năm 1992 (Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam – Chế độ chính trị) và gộp với Chương XI của Hiến pháp năm
1992 (Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, Thủ đô, ngày Quốc khánh), vì đây là những
nội dung gắn liền với chế độ chính trị. So với 2 chương của bản Hiến pháp
trước, Chương I Hiến pháp năm 2013 giảm 6 điều, chỉ giữ nguyên lại Điều 1,
sửa đổi bổ sung tất cả các điều còn lại.
Về cơ bản, Hiến pháp năm 2013 kế thừa, khẳng định bản chất và mô hình
tổng thể của thể chế chính trị đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011).
Các quy định và nguyên tắc cơ bản của Chế độ chính trị trong Hiến pháp năm
2013 đã thể hiện một các đầy đủ và toàn diện, tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho
việc thiết lập, củng cố và bảo vệ chế độ chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam. Các quy định và nguyên tắc trong chương Chế độ chính trị là
cơ sở, nền tảng chính trị của các Chương về Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính
phủ, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Chính quyền địa phương.
3.1. Về chủ quyền quốc gia
Điều 1 Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định : “Nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là một nước độc lập, có chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, bao gồm đất liền, hải đảo, vùng biển và vùng trời.”
Như vậy, kế thừa tinh thần của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm
48
2001, Hiến pháp quy định tên của nước Việt Nam vẫn là Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam – tên gọi đã được xác lập và sử dụng ổn định từ năm 1976. Từ
đó, khẳng định bản chất của nhà nước ta là cộng hòa – nhà nước do nhân dân
thành lập và làm chủ, đồng thời, khẳng định rõ mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Việc duy trì tên nước sẽ bảo đảm sự ổn định của đời sống kinh tế, chính trị,
xã hội trong nước, tránh sự xáo trộn không cần thiết, gây tốn kém tài lực của nhà
nước.
Bên cạnh đó, quy định này tiếp tục khẳng định chủ quyền của nước ta đối
với đất nước, các hải đảo, vùng biển và vùng trời. Quy định này của Hiến pháp
mang tính khái quát, từ đó, các quyền chủ quyền cụ thể của đất nước ta với vùng
đất liền, lòng đất, quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các hải đảo khác, vùng nội
thủy, vùng lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế, vùng trời sẽ được làm rõ và quy
định cụ thể trong các luật chuyên ngành như Luật Biển Việt Nam, Luật Biên
giới quốc gia.
3.2. Về bản chất của nhà nước
Bản chất của nhà nước là một vấn đề hết sức quan trọng. Theo Chủ tịch
Hồ Chí Minh thì : «Tính chất nhà nước là vấn đề cơ bản của hiến pháp. Đó là
vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền ấy về tay ai và phục vụ
quyền lợi của ai ? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp » 2.
Trong suốt quá trình tồn tại lịch sử của mình, thông qua 4 lần ban hành
Hiến pháp trước đó, nhà nước Việt Nam luôn khẳng định bản chất dân chủ, dựa
trên nền tảng nhân dân và vì nhân dân của mình. Kế thừa tư tưởng này, Điều 2
Hiến pháp năm 2013 quy định :
«1. Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Nhân dân làm chủ ; tất
cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. »
2 Báo cáo về Dự thảo Hiến pháp sửa đổi tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội Khoá I nước Việt Nam dân chủ cộng hoà; ngày 18-12-1959, Hồ Chí Minh,
So với Hiến pháp năm 1992, sửa đổi, bổ sung năm 2001, Điều 2 Hiến
49
pháp năm 2013 đã bổ sung nội dung : « Nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt
Nam do nhân dân làm chủ ». Quy định này đã khẳng định hơn nữa nguồn gốc
quyền lực nhà nước xuất phát từ Nhân dân, do Nhân dân làm chủ, để phục vụ
Nhân dân, nền tảng quyền lực của nhà nước là liên minh giữa giai cấp công
nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Trong mối quan hệ Nhân dân – Nhà
nước thì Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước, là người giao phó
quyền lực cho nhà nước, còn nhà nước là công cụ để nhân dân giao quyền, thực
hành quyền lực đó để mang lại lợi ích cho nhân dân.
Đồng thời, quy định tại Điều 2 còn cho thấy dân chủ là thuộc tính của Nhà
nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nhà nước bảo đảm và không ngừng
phát huy quyền làm chủ về mọi mặt của nhân dân, tạo điều kiện để nhân dân
tham gia đông đảo vào quản lý các công việc của nhà nước và xã hội.
Điều 3 của Hiến pháp quy định về trách nhiệm của Nhà nước đối với
Nhân dân : « Nhà nước bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của Nhân dân ;
công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân ;
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, mọi
người có cuộc sống ấm no, tư do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện ».
Quy định này lại một lần nữa khẳng định bản chất vì Nhân dân của Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Chăm lo, bảo vệ, nâng cao đời sống và
quyền lợi của nhân dân là tôn chỉ và là mục tiêu phán đấu của nhà nước.
Về các hình thức thực hiện quyền lực nhà nước của nhân dân, Điều 6 quy
định : « Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng
dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ
quan khác của Nhà nước ».
Như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, Hiến pháp quy định đầy đủ
và phát triển thành nguyên tắc về việc “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước
bằng dân chủ trực tiếp”. Nguyên tắc này được thể hiện nhất quán, xuyên suốt
trong toàn bộ Hiến pháp năm 2013 từ chế độ chính trị, quyền con người, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân đến các thiết chế trong bộ máy nhà nước. Các
hình thức thể hiện dân chủ trực tiếp khá đa dạng như trưng cầu ý dân, bầu cử,
50
thực hiện dân chủ cơ sở. Ngoài ra, nhân dân còn thực hiện quyền lực nhà nước
một cách gián tiếp thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và các cơ quan khác
của Nhà nước. Quốc hội và Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu của nhân
dân, do nhân dân bầu lên, thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân, được
nhân dân trao quyền để thực hiện quyền lực và chịu trách nhiệm trước nhân dân.
Đại biểu Quốc hội và Đại biểu Hội đồng nhân dân là những người đại diện cho ý
chí và nguyện vọng của nhân dân, có mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân.
3.3. Về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do
Nhân dân và vì Nhân dân
Kế thừa tư tưởng của Hiến pháp năm 1992 sửa đổi, bổ sung năm 2001,
thể chế hóa cương lĩnh của Đảng. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định nhà
nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân và
vì Nhân dân.
Theo các quy định của Hiến pháp năm 2013, Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có một số đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, bản chất quyền lực nhà nước là thuộc về nhân dân. Nhà nước
do nhân dân tổ chức ra, được nhân dân trao quyền và thực hành quyền lực vì lợi
ích của nhân dân.
Thứ hai, về nguyên tắc tổ chức quyền lực thì “Quyền lực nhà nước là
thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3 Điều 2).
Nguyên tắc này đã kế thừa Cương lĩnh và các chính sách của Đảng, đáp ứng yêu
cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nguyên tắc này
mang tính nền tảng, được cụ thể hóa trong các chương quy định về tổ chức bộ
máy nhà nước trong Hiến pháp.
Theo nguyên tắc này, quyền lực nhà nước là thống nhất. Quốc hội là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, đại biểu cho nhân dân, có quyền quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước. Xuất phát từ Quốc hội, các cơ quan khác
của nhà nước như Chính phủ, Chủ tịch nước, Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân được thành lập. Các cơ quan này đều phải chịu trách nhiệm trước quốc
51
hội. Tương tự như vậy, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, chịu trách nhiệm trước nhân dân và cơ quan nhà nước cấp trên, có
quyền quyết định những vấn đề quan trọng ở địa phương. Sự tập trung quyền lực
như vậy có ý nghĩa quan trọng, bảo đảm sự thống nhất trong vận hành quyền lực
nhà nước, tránh được hiện tượng mâu thuẫn, xung đột giữa các cơ quan nhà
nước.
Quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng vẫn có sự phân công, phối hợp
giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đặc biệt, Hiến
pháp năm 2013 đã bổ sung nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước. Đây là
một nguyên tắc mới đã được thể hiện trong Cương lĩnh của Đảng ta. Nguyên tắc
này là cơ sở để các cơ quan nhà nước về lập pháp, hành pháp và tư pháp phát
huy đầy đủ vai trò, trách nhiệm và hiệu quả quyền lực trong phạm vi được giao.
Đây chính là cơ chế để ngăn chặn sự lạm quyền của mỗi nhánh quyền lực, hạn
chế sự tha hóa quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền lực nhà nước thực sự thuộc
về nhân dân. Đồng thời, nguyên tắc này còn giúp đấu tranh chống tệ quan liêu,
tham những, lãng phí, ngăn chặn vi phạm pháp luật trong nội bộ bộ máy nhà
nước. Nội dung cụ thể của nguyên tắc này sẽ lần lượt được làm rõ trong các quy
định cụ thể của Hiến pháp và các luật về tổ chức bộ máy nhà nước.
Thứ ba, về vai trò của pháp luật, Điều 8 Hiến pháp quy định:
“1. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật,
quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân
chủ.
2. Các cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức viên chức phải tông trọng
Nhân dân, tận tụy phục vụ Nhân dân, liên hệ chặt chẽ với Nhân dân, lắng nghe ý
kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng,
lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền.”
Đây là một quy định quan trọng thể hiện đặc điểm của nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật. Pháp luật được
đề cao và là công cụ quản lý cơ bản của nhà nước. Tất cả mọi tổ chức, cá nhân
trong xã hội, kể cả cơ quan nhà nước đều phải tuân thủ theo pháp luật. Mọi hành
52
vi vi phạm pháp luật đều phải được ngăn chặn.
Thứ tư, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được đặt dưới
sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
3.4. Về vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
Từ khi giành được chính quyền đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là
lực lượng lãnh đạo nhà nước, dân tộc và xã hội Việt Nam đạt được nhiều thắng
lợi vẻ vang. Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc phát
huy vai trò và sự lãnh đạo của Đảng ngày càng quan trọng.
Trong lịch sử lập hiến Việt Nam, vị trí và vai trò lãnh đạo của Đảng đối
với nhà nước và xã hội luôn được thể hiện trong các bản Hiến pháp. Kế thừa tư
tưởng đó. Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định tính lịch sử, tính tất yếu
khách quan sự lãnh đạo của Đảng đối với quá trình cách mạng, xây dựng và bảo
vệ tổ quốc của nước ta.
Điều 4, Hiến pháp năm 2013 quy định:
“1. Đảng Cộng sản Việt Nam - Đội tiên phong của giai cấp công nhân,
đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, đại
biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân
tộc, lấy chủ nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, là
lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân
dân, chịu sự giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những
quyết định của mình.
3. Các tổ chức của Đảng và đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam hoạt
động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”.
So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 có sự bổ sung và phát
triển quan trọng vì đã khẳng định đầy đủ bản chất, vai trò lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội
tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam, là đại biểu trung
53
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Nền
tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mác – Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đảng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam. Vai trò lãnh đạo này
là tất yếu, đã được lịch sử chứng minh qua các cuộc cách mạng, các cuộc chiến
tranh và công cuộc đổi mới ở đất nước ta.
Đảng không lãnh đạo một cách chung chung mà mang tính định hướng,
thông qua Cương lĩnh, chiến lược, chính sách, chủ trương lớn cho từng thời kỳ
phát triển của đất nước trên tất cả các lĩnh vực. Đảng vạch ra phương hướng và
nguyên tắc cơ sở cho việc xây dựng và hoàn thiện Nhà nước, củng cố và phát
triển hệ thống chính trị, thiết lập chế độ dân chủ, phát huy quyền làm chủ của
người dân. Đảng còn lãnh đạo thông qua công tác cán bộ bằng việc phát hiện,
lựa chọn những đảng viên ưu tú và người ngoài Đảng có phẩm chất để giới thiệu
vào các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội thông qua cơ chế bầu
cử, bổ nhiệm. Ngoài ra, Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo thông qua các Đảng
viên và tổ chức Đảng bằng cách giáo dục Đảng viên nêu cao vai trò tiên phong,
gương mẫu, tập hợp, giáo dục và động viên quần chúng tham gia quản lý nhà
nước.
Điều 4, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một quy định mới về trách nhiệm
của Đảng là phải gắn bó mật thiết với Nhân dân, phục vụ Nhân dân, chịu sự
giám sát của Nhân dân, chịu trách nhiệm trước Nhân dân về những quyết định
của mình. Và, mặc dù Đảng là lực lượng lãnh đạo nhà nước và xã hội nhưng
Đảng vẫn hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật. Quy định này
bảo đảm cho Đảng giữ vững bản chất, mục tiêu, lý tưởng của mình, là cơ sở để
nhăn chặn sự tha hóa có thể xảy ra. Mặt khác, quy định như vậy còn nhằm ngăn
chặn các vi phạm pháp luật của đội ngũ Đảng viên, nhắc nhở họ phải tự giác,
gương mẫu, nghiêm túc chấp hành pháp.
3.5. Về chính sách dân tộc và củng cố khối đại đoàn kết dân tộc
Chính sách dân tộc và đường lối đại đoàn kết là một trong những vấn đề
lớn của cách mạng Việt Nam, một trong những nội dung cơ bản phản ánh bản
chất của chế độ chính trị của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Có thể
54
nói đường lối đại đoàn kết và chính sách dân tộc là một trong những yếu tố cơ
bản tạo ra sức mạnh to lớn cho cách mạng Việt Nam. Vì vậy, đại đoàn kết dân
tộc là một trong những nhiệm vụ hàng đầu của cả dân tộc, là đòi hỏi khách quan
của bản thân quần chúng nhân dân và các cộng đồng dân tộc cùng sinh sống trên
lãnh thổ Việt Nam.
Điều 5 Hiến pháp năm 2013 quy định về chính sách dân tộc và củng cố
khối đại đoàn kết dân tộc:
“1. Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia thống nhất
của các dân tộc cùng sinh sống trên đất nước Việt Nam.
2. Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát
triển; nghiêm cấm mọi hành vi kỳ thị, chia rẽ dân tộc.
3. Ngôn ngữ quốc gia là tiếng Việt. Các dân tộc có quyền dùng tiếng nói,
chữ viết, giữ gìn bản sắc dân tộc, phát huy phong tục, tập quán, truyền thống và
văn hóa tốt đẹp của mình.
4. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển toàn diện và tạo điều kiện để
các dân tộc thiểu số phát huy nội lực, cùng phát triển với đất nước.”
Như vậy, quy định này của Hiến pháp đã khẳng định Nhà nước Việt Nam
là nhà nước thống nhất của các dân tộc trên đất nước Việt Nam. Đất nước này là
do sương máu của các dân tộc anh em cùng nhau chiến đấu mà tạo ra, cùng nhau
bảo vệ, giữ gìn và cùng được hưởng mọi thành quả của sự đổi mới. Các dân tộc,
không phụ thuộc vào số lượng người, vị trí địa lý, đều có sự bình đẳng. Mọi
hành vi kỳ thị, chia rẽ đều bị ngăn cấm. Hơn thế nữa, một số dân tộc thiểu số
còn gặp nhiều khó khăn sẽ được Nhà nước tạo điều kiện để phát huy nội lực,
phát triển sánh vai với các dân tộc anh em.
3.6. Chính sách đối ngoại của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam
Bản chất của chế độ chính trị của mỗi nước không chỉ được phản ánh
trong các chính sách đối nội mà còn thể hiện rõ nét trong chính sách đối ngoại,
trong việc thiết lập và giải quyết quan hệ với các nước khác.
Từ khi thành lập đến nay, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nay là nước
55
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam luôn chủ trương thực hiện một cách nhất
quán chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị và hợp tác vì sự tiến bộ xã hội trên
cơ sở tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của các nước khác. Với phương châm
“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”, Nhà nước ta đã
không ngừng mở rộng quan hệ với các nước, uy tin của Việt Nam trên thế giới
không ngừng được tăng cào.
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định nội dung cơ bản của chính sách
đối ngoại của nhà nước ta nhưng có sự sửa đổi, bổ sung cho thích hợp với tình
hình mới. Điều 12 Hiến pháp năm 2013 quy định:
“Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa
phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc
tế trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương
Liên hợp quốc và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng
quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập
dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới”.
Quy định trên trước hết khẳng định, mục tiêu của đường lối đối ngoại là
bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc, xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ
nghĩa giàu mạnh. Việc xác định lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc và bảo vệ lợi ích
quốc gia, lợi ích dân tộc của đường lối đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ mới
được coi là yêu cầu hàng đầu và là kim chỉ nam trong hoạt động đối ngoại của
Đảng, Nhà nước ta, đồng thời là một trong những mục tiêu then chốt của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu của
đường lối đối ngoại này được thể chế hóa tại Hiến pháp 2013 nhằm khẳng định
rõ hơn định hướng: Việt Nam thực hiện chính sách đối ngoại trên cơ sở lợi ích
quốc gia, dân tộc, khẳng định sự thống nhất và hòa quyện giữa lợi ích của giai
cấp và lợi ích của dân tộc.
Phương châm của đường lối đối ngoại là thực hiện nhất quán đường lối
56
đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa
dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, đối tác tin cậy
và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế. Hiến pháp năm 2013 nêu
rõ Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế. Việc trở thành thành viên trong cộng đồng quốc tế là một đòi hỏi,
là tất yếu khách quan. Đây là động lực để Việt Nam tăng cường giao lưu và phát
triển kinh tế, đóng góp vào hòa bình, thịnh vượng chung của thế giới. Sự tham
gia ngày càng tích cực, chủ động, có trách nhiệm của Việt Nam tại các cơ chế, tổ
chức, diễn đàn khu vực, đa phương và toàn cầu góp phần củng cố, nâng cao vị
thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Đồng thời quy định trên cũng khẳng định
nguyên tắc đối ngoại của Việt Nam là tuân thủ theo luật pháp quốc tế, tôn trọng
chủ quyền và lợi ích của các quốc gia khác.
Có thể khẳng định đường lối đối ngoại trên đã thể hiện rõ bản chất của
Nhà nước ta và truyền thống hòa hiếu, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam, phản
ánh đúng đắn ý chí, nguyện vọng của nhân dân ta và phù hợp với xu hướng phát
triển của thế giới hiện đại.
3.7. Về vị trí, vai trò của Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức
thành viên của Mặt trận trong hệ thống chính trị
Trong lịch sử đấu tranh của dân tộc ta, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tổ
chức chính trị, chính trị xã hội gồm Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Công đoàn Việt
Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội
liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, Hội Cựu chiến binh Việt Nam và các tổ chức thành
viên khác của Mặt trận đã đóng góp công sức và có vai trò to lớn đối với công
cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Các tổ chức này đã thể hiện tiếng
nói của nhân dân, đại diện quyền, lợi ích hợp pháp của các tầng lớp nhân dân.
Các tổ chức trên cùng là bộ phận của hệ thống chính trị, hợp thành cơ sở chính
trị của chính quyền nhân dân. Vì vậy, việc hiến định vai trò, vị trí của các tổ
chức này là cần thiết, nhằm góp phần phát huy truyền thống đại đoàn kết dân
tộc, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân.
Điều 9 Hiến pháp năm 2013 quy định:
57
“1. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự
nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và
các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân;
đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của Nhân dân; tập hợp,
phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện dân chủ, tăng cường
đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội; tham gia xây dựng Đảng, Nhà
nước, hoạt động đối ngoại nhân dân góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
2. Công đoàn Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam
là các tổ chức chính trị - xã hội được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện và
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức
mình; cùng các tổ chức thành viên khác của Mặt trận phối hợp và thống nhất
hành động trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
3. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên của Mặt trận và
các tổ chức xã hội khác hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức thành viên
của Mặt trận và các tổ chức xã hội khác hoạt động.”
Quy định trên đã khẳng định vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam với
tư cách là liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của các tổ chức chính trị, các
tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội, các tầng lớp xã hội và các cá nhân
Việt Nam ở trong và ngoài nước. Với tính chất đó, mục tiêu và nhiệm vụ chính
trị của Mặt trận Tổ quốc là phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường
sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng
cố chính quyền nhân dân, cùng nhà nước chăm lo và bảo vệ quyền lợi chính
đáng của nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và giám sát hoạt động
của các cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. So
với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung một vai trò của Mặt
trận Tổ quốc là tập hợp, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện
58
dân chủ, tăng cường đồng thuận xã hội; giám sát, phản biện xã hội. Quy định
như vậy đã làm rõ hơn đồng thời đề cao trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc.
Bên cạnh đó, Hiến pháp cùng quy định về các tổ chức thành viên nòng cốt
của Mặt trận bao gồm: Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn
Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội cựu
chiến binh Việt Nam. Những tổ chức này có trách nhiệm đại diện và bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên, hội viên tổ chức minh, đồng
thời phối hợp với nhau, tạo thành sức mạnh thống nhất trong Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam.
Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân
và của người lao động được thành lập trên cơ sở tự nguyện, đại diện cho người
lao động, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao
động; tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội; tham gia kiểm tra,
thanh tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh
nghiệp về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của người lao động;
tuyên truyền, vận động người lao động học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề
nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc (Điều 10).
Hội nông dân Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp nông dân
Việt Nam, là thành viên của hệ thống chính trị. Trong phạm vi chức năng của
mình, Hội nông dân Việt Nam tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia
kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế; đoàn kết,
giáo dục nâng cao ý thức và năng lực làm chủ của nông dân; cùng với các cơ
quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của
nông dân và những người lao động khác; kiến nghị với Nhà nước những vấn đề
cần thiết trong chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn…
Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh là tổ chức chính trị - xã hội, liên
minh tự nguyện của thanh niên Việt Nam, là đội dự bị và cánh tay đắc lực của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong chức năng của mình, Đoàn thanh niên có trách
nhiệm tập hợp, đoàn kết, giáo dục và rèn luyện thế hệ trẻ; phối hợp với các cơ
quan nhà nước, các tổ chức khác để chăm lo, bảo vệ quyền lợi của thế hệ trẻ và
59
đề xuất các chính sách về thanh niên.
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của phụ nữ
Việt Nam, là thành viên có vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị. Hội liên
hiệp phụ nữ Việt Nam tập hợp, thu hút phụ nữ tham gia vào các công việc của
Nhà nước và xã hội, thúc đẩy bình đẳng giới, phát huy vai trò của nữ giới trong
gia đình và xã hội.
Hội cựu chiến binh Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, đại diện cho
đội ngũ cựu chiến binh của Việt Nam. Hội tập hợp, đoàn kết, bồi dưỡng và động
viên cựu chiến binh phấn đấu giữ vững bản chất cách mạng, tham gia xây dựng
và bảo vệ chính quyền, phát huy dân chủ, góp phần giữ ổn định chính trị, tăng
cường an ninh quốc phòng, tham gia vào các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội.
Với vị trí và vai trò của mình, các thành viên trong hệ thống chính trị của
nước ta có nhiệm vụ quan trọng, với các hình thức cơ bản sau:
Thứ nhất, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam chủ trì hiệp thương với các tổ chức
xã hội khác để giới thiệu người ra ứng cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân
dân. Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên tham gia tích cực vào hoạt động
bầu cử bảo đảm hoạt động bầu cử phản ánh đúng ý chí và nguyện vọng của nhân
dân.
Thứ hai, Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các tổ chức tham gia xây dựng
pháp luật, có quyền trình các dự án luật, pháp lệnh trước quốc hội, tham gia góp
ý kiến trong quá trình các cơ quan nhà nước xây dựng pháp luật.
Thứ ba, tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát hoạt động của các
cơ quan nhà nước.
Thứ tư, tham gia tuyên tuyền pháp luật, giáo dục ý thức pháp luật của
thành viên, đấu tranh bảo vệ quyền, lợi ích của thành viên.
3.8. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả thi hành chế định của Quốc
Hội trong Hiến Pháp 2013 ở Việt Nam theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII
của Đảng Cộng sản Việt Nam
Nâng cao hiệu quả thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013
60
theo tinh thần Văn kiện Đại hội XIII của Đảng là một trong những điều kiện để:
“Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng;
xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố,
tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ
nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý
chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy
mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây
dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định;
phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định
hướng xã hội chủ nghĩa”[8]. Để thực hiện được điều này cần tiến hành các giải
pháp cơ bản sau:
Một là, nhận thức và thực hiện đầy đủ hơn về tinh thần thượng tôn
Hiến pháp, pháp luật trong đời sống nhà nước và xã hội
Nhận thức và thực hiện tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trong
đời sống nhà nước và xã hội là một quá trình khó khăn và lâu dài. Trong các
hoạt động, nhà nước và xã hội phải luôn khẳng định và bảo đảm sự thống trị của
Hiến pháp và pháp luật, các cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội,
đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến
pháp và pháp luật, mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi
ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.
Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật không chỉ xây dựng, hoàn thiện Hiến
pháp, pháp luật mà còn phải tập trung tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật
nghiêm minh, hiệu lực, hiệu quả. Đã đến lúc đất nước ta phải “Thực hiện bước
chuyển hướng chỉ đạo chiến lược từ việc đặt trọng tâm vào việc xây dựng và
hoàn thiện pháp luật sang hoàn thiện và tổ chức thực thi pháp luật, bảo đảm
tính nghiêm minh của pháp luật, tính liên thông, gắn kết mật thiết giữa công tác
xây dựng và tổ chức thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp
2013”,[9] để pháp luật phát huy được vai trò, tác dụng thực sự của mình trong
đời sống nhà nước và xã hội.
61
Việc nhận thức và thực hiện tinh thần thượng tôn Hiến pháp và pháp luật
trong đời sống nhà nước và xã hội phải luôn được bắt đầu từ các tổ chức Đảng,
Nhà nước và lan tỏa trong các tổ chức khác, các công dân, cá nhân trong xã hội.
Các tổ chức và cá nhân trong xã hội phải luôn ý thức được tinh thần pháp quyền
trong tổ chức và hoạt động của mình và của toàn xã hội.
Hai là, không ngừng nâng cao chất lượng của hệ thống pháp luật đất
nước
Muốn nâng cao hiệu quả thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013
thì trước hết phải không ngừng hoàn thiện, nâng cao chất lượng hệ thống pháp
luật. Văn kiện Đại hội Đảng XIII đã quán triệt phải nhanh chóng “xây dựng
được hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn
định, có sức cạnh tranh quốc tế, lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển
bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới”[10], “Tiếp
tục hoàn thiện và nâng cao chất lượng thể chế, pháp luật đầy đủ, đồng bộ, hiện
đại, hội nhập, ổn định, cụ thể, minh bạch”[11]. Hoàn thiện hệ thống pháp luật
theo hướng tăng tính phù hợp, tính khả thi của các quy định pháp luật. Các quy
định pháp luật được ban hành phải phù hợp với quy luật khách quan, phù hợp
với các điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của đất nước, góp phần thúc
đẩy tiến bộ xã hội, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, mở cửa, hội
nhập của đất nước, nhu cầu cải cách bộ máy nhà nước vì lợi ích của nhân dân.
Hệ thống pháp luật phải phản ánh đúng trình độ phát triển của kinh tế - xã hội,
nó không thể cao hơn hoặc thấp hơn trình độ phát triển đó. Ngoài ra, hệ thống
pháp luật Việt Nam còn phải được xây dựng phù hợp với các nguyên tắc cơ bản
của các điều ước và thông lệ quốc tế, có phương pháp điều chỉnh pháp luật phù
hợp cho mỗi loại quan hệ xã hội. Các quy phạm pháp luật được ban hành phải
phù hợp với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành, nghĩa là, khi ban
hành quy phạm pháp luật, phải xem xét tới điều kiện về kinh tế, chính trị, xã hội
của đất nước có cho phép thực hiện được quy phạm pháp luật đó hay không,
đồng thời, phải tính đến các điều kiện khác như tổ chức bộ máy nhà nước, trình
62
độ của đội ngũ cán bộ, công chức, dư luận xã hội trong việc tiếp nhận quy phạm
pháp luật đó, trình độ văn hoá và kiến thức pháp lí của nhân dân...
Khi xây dựng pháp luật phải chú ý đặc biệt đến thói quen, tâm lý của
nhiều người Việt Nam là “bất tuân pháp luật”, luôn tìm cách lẩn tránh pháp luật.
Do vậy, pháp luật, nếu có thể, cần được quy định càng chi tiết càng tốt. Các quy
định pháp luật nên được thể hiện theo cách loại trừ (trừ những hành vi, những
việc không được làm) còn lại bắt buộc phải làm để tránh hiện tượng “lách luật”.
Xây dựng và thực hiện đầy đủ các quy định pháp luật về tổ chức bộ máy nhà
nước, trong đó chú trọng việc quy định chặt chẽ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan nhà nước, cương quyết thực hiện nguyên tắc “các cơ quan,
nhân viên nhà nước chỉ được làm những gì mà pháp luật cho phép”. Xây dựng
và hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và
hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền, xử lý kiên quyết và
nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật, nhất là đối với những vi phạm của cán bộ,
công chức nhà nước. Từng bước chuyên nghiệp hoá các hoạt động pháp luật, coi
các hoạt động pháp luật là hoạt động nghề nghiệp.
Để xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật phù hợp với yêu cầu phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với các điều kiện
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội… của đất nước, cần tiếp tục:
+ Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo hướng tăng số lượng,
chất lượng và kỹ năng xây dựng luật của đại biểu Quốc hội chuyên trách. Tăng
cường hoạt động giám sát của Quốc hội đối với hoạt động ban hành các văn bản
quy phạm pháp luật của các cơ quan nhà nước, nhất là giám sát việc ban hành
những văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành các văn bản luật;
+ Củng cố, nâng cao đội ngũ những người trực tiếp tham gia soạn thảo
văn bản quy phạm pháp luật thuộc các bộ, ban ngành, mà đặc biệt là Bộ Tư
pháp, cơ quan trực tiếp tham gia soạn thảo nhiều dự án luật, pháp lệnh..., thực
hiện việc thẩm định nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Thu hút nhiều chuyên
gia pháp luật giỏi của các vụ, viện, trường đại học, những người không bị lợi ích
nhóm chi phối, vào công tác xây dựng pháp luật. Trong thành phần các ban soạn
63
thảo cần bổ sung thêm số lượng các chuyên gia pháp lý có trình độ cao, như vậy
thì mới khắc phục được hiện tượng về lỗi kỹ thuật trong nội dung các dự thảo và
kỹ thuật soạn thảo văn bản quy phạm pháp luật mới được nâng cao;
+ Đẩy mạnh công tác rà soát, hệ thống hoá pháp luật, nhất là hoạt động
pháp điển hoá, thậm chí cần xây dựng những tổng tập luật lệ về một số lĩnh vực
nhất định. Kiên quyết loại bỏ những quy định trùng lặp giữa các văn bản quy
phạm pháp luật về cùng một vấn đề, có như vậy sẽ thuận lợi hơn cho hoạt động
xây dựng pháp luật nói riêng và các hoạt động thi hành, bảo vệ pháp luật nói
chung;
+ Không chỉ đề cao trách nhiệm chính trị mà cần quy định trách nhiệm
pháp lý đối với mỗi cơ quan nhà nước trong quá trình soạn thảo, ban hành văn
bản quy phạm pháp luật. Nếu một cơ quan nhà nước hay một cá nhân có thẩm
quyền tham gia soạn thảo, thẩm định, thẩm tra hay ban hành văn bản quy phạm
pháp luật có lỗi do hành vi của mình dẫn đến việc ban hành văn bản quy phạm
pháp luật trái pháp luật, gây hậu quả nghiêm trọng cho nhà nước và xã hội thì
phải chịu trách nhiệm pháp lý theo hướng hậu quả pháp lý bất lợi. Nếu có thể
nên quy định trách nhiệm pháp lý đối với từng cá nhân hoặc từng bộ phận tham
gia soạn thảo, thẩm định, thẩm tra, ban hành văn bản quy phạm pháp luật;
+ Tăng cường kinh phí cho các hoạt động xây dựng pháp luật. Muốn huy
động được trí tuệ, công sức của tổ chức, cá nhân vào xây dựng pháp luật cần
phải đầu tư kinh phí thỏa đáng cho hoạt động này. Tăng cường kinh phí cho các
hoạt động hội thảo khoa học hoặc tham vấn chuyên gia phục vụ công tác soạn
thảo văn bản quy phạm pháp luật;
+ Đẩy mạnh việc “Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thử nghiệm
cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số, phát
triển các mô hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo, cung cấp dịch vụ công,
quản lý và bảo vệ môi trường...”[12], đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước
trên các phương diện, theo kịp trình độ phát triển của thế giới.
Ba là, tiếp tục cải cách, hoàn thiện bộ máy nhà nước theo tinh thần nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân
64
Trách nhiệm tổ chức thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 là
thuộc bộ máy, các cơ quan, nhân viên nhà nước, những người có trách nhiệm.
Do vậy, cần “Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện có hiệu quả hệ thống pháp
luật, thể chế và các chính sách phát triển kinh tế - xã hội”[13], bởi, hiệu quả thi
hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 phụ thuộc trực tiếp vào hoạt
động có trách nhiệm của các cơ quan, nhân viên nhà nước. Đẩy nhanh công cuộc
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt: “Hoàn thiện thể
chế, chức năng, nhiệm vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.[14] Cụ thể là:
Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
nâng cao năng lực, hiệu quả quản lý, điều hành và năng lực kiến tạo phát triển,
“Xác định rõ hơn vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ
quan nhà nước, thực hiện tốt chức năng của Nhà nước, giải quyết đúng đắn mối
quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội”[15]. Tiếp tục đổi mới tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước cho phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội
hiện nay, đặc biệt là “Tăng cường hiệu lực, hiệu quả các thiết chế thi hành chế
định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013, bảo đảm chấp hành pháp luật
nghiêm minh”[16], góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của bộ máy nhà
nước.
Xây dựng cơ chế vận hành của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
trên cơ sở hoàn thiện hệ thống pháp luật, “đẩy mạnh việc hoàn thiện pháp luật
gắn với tổ chức thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Bảo
đảm pháp luật vừa là công cụ để Nhà nước quản lý xã hội, vừa là công cụ để
nhân dân làm chủ, kiểm tra, giám sát quyền lực nhà nước. Quản lý đất nước
theo pháp luật, đồng thời coi trọng xây dựng nền tảng đạo đức xã hội”[17].
Bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thực sự thuộc về nhân dân,
sự phân công, phối hợp, kiểm soát chặt chẽ, hợp lý giữa các cơ quan nhà nước
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Kiện toàn tổ chức và
nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội; cải tiến phương thức hoạt động của
65
Chính phủ, xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng
bước hiện đại hoá; tổ chức hợp lý Hội đồng nhân dân, kiện toàn các cơ quan
chuyên môn của Uỷ ban nhân dân; cải cách tổ chức, nâng cao chất lượng hoạt
động, tinh thần trách nhiệm của các cơ quan hoạt động tư pháp trong công tác
điều tra, bắt, giam, giữ, truy tố, xét xử, thi hành án, không để xảy ra những
trường hợp oan sai.
Bốn là, nâng cao chất lượng và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước trong việc thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp
2013 và tổ chức thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013
Đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch có năng lực là yếu tố quyết định
đến chất lượng của hoạt động thi hành, áp dụng pháp luật. Để có đội ngũ cán bộ,
công chức đủ năng lực, phẩm chất, thời gian tới “Đảng tập trung lãnh đạo về
đường lối chủ trương, xây dựng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, chính sách về cán
bộ, công chức. Đẩy mạnh dân chủ hóa công tác cán bộ, quy định rõ trách
nhiệm, thẩm quyền của mỗi tổ chức, mỗi cấp trong xây dựng đội ngũ cán bộ,
công chức có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, có
trình độ, năng lực chuyên môn phù hợp, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn
mới”[18]. Cần nhanh chóng xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức “có
tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng tạo dựa trên cơ chế cạnh tranh về
tuyển dụng, chế độ đãi ngộ và đề bạt; có phẩm chất đạo đức tốt và bản lĩnh
chính trị vững vàng. Quy định rõ và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; có
cơ chế khuyến khích, khơi dậy tinh thần cống hiến vì đất nước, tạo động lực và
áp lực để mọi cán bộ, công chức, viên chức hoàn thành tốt nhất nhiệm vụ được
giao, tận tụy phục vụ nhân dân; có cơ chế bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám
nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”[19].
Muốn việc thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 có hiệu
quả cao thì phải không ngừng nâng cao hiệu quả tổ chức thi hành chế định của
Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013. Các tổ chức, cá nhân nhiều khi muốn thi hành
chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 nhưng không thể làm được vì
thiếu khâu tổ chức thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 của
66
các cơ quan, người có trách nhiệm của nhà nước tổ chức cho các tổ chức, cá
nhân thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013. Ngược lại, một bộ
phận tổ chức, cá nhân không chủ động trong thi hành chế định của Quốc Hội
trong Hiến Pháp 2013, họ thường chờ mệnh lệnh của các cơ quan, cá nhân có
trách nhiệm. Do vậy, đòi hỏi bản thân đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức phải
tự mình gương mẫu thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013,
đồng thời phải có trách nhiệm tổ chức để các tổ chức, cá nhân khác nghiêm
chỉnh thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 chính xác, đầy đủ,
triệt để. Khẩn trương “Xây dựng nhanh nền hành chính hiện đại, dựa trên đội
ngũ cán bộ, công chức, viên chức có tính chuyên nghiệp cao, có năng lực sáng
tạo, phẩm chất đạo đức tốt, bản lĩnh chính trị, phục vụ người dân, doanh
nghiệp”[20]. Cần củng cố các cơ quan có trách nhiệm tổ chức thi hành chế định
của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013, quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm đối với các cơ quan đó. Không ngừng quán triệt nguyên tắc “Nhà nước
được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng
Hiến pháp và pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ”. Cần đào tạo và
đào tạo lại để không ngừng nâng cao kiến thức quản lý nhà nước, kiến thức pháp
luật cho cán bộ, công chức nhà nước.
Các tổ chức, cá nhân có thẩm quyền cần đẩy mạnh việc xét và giải quyết
khiếu nại, tố cáo về những việc làm sai trái của các cơ quan, đơn vị, cá nhân,
bảo đảm công bằng và nghiêm minh, xử lý kiên quyết đối với những người vi
phạm pháp luật làm tổn hại tới quyền, lợi ích, danh dự... của nhân dân và các tổ
chức, cơ quan, đơn vị, đồng thời phải tiến hành minh oan công khai, bồi thường
thoả đáng những thiệt hại về vật chất, phục hồi danh dự và việc làm đối với
những người bị bắt, bị giam giữ, bị truy tố, xét xử oan sai, trái pháp luật. Truy
cứu trách nhiệm pháp lý đối với những người có hành vi trả thù người khiếu nại,
tố cáo hoặc những người lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống, vu cáo
làm hại người khác.
Năm là, triển khai có hiệu quả công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
cho cán bộ, công chức và các tầng lớp nhân dân
67
Phổ biến, giáo dục pháp luật, nâng cao ý thức pháp luật, văn hoá pháp lý
cho cán bộ, đảng viên, công chức nhà nước và mọi tầng lớp nhân dân, phát huy
tính năng động, sáng tạo của các tổ chức chính trị, xã hội, nghề nghiệp vào việc
thiết lập kỷ cương, trật tự an toàn xã hội, xây dựng nếp sống văn minh, tạo thói
quen “sống, làm việc theo pháp luật” trong các cơ quan nhà nước và trong toàn
xã hội là một trong những điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả thi hành
chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013.
Việc phổ biến, giáo dục pháp luật trước hết phải nhằm vào đội ngũ cán
bộ, công chức Nhà nước, những người trực tiếp quản lý Nhà nước, quản lý xã
hội bằng pháp luật theo tinh thần: “Các cán bộ lãnh đạo và quản lý các cương vị
chủ chốt từ trung ương đến tỉnh, huyện, xã, từ tổng giám đốc đến cán bộ quản lý
cơ sở, đều phải qua các lớp bồi dưỡng định kỳ có sát hạch, theo chương trình
thiết thực và có hệ thống về đường lối, chính sách, cơ chế quản lý và kiến thức
quản lý mới, về chuyên môn, nghiệp vụ và về pháp luật”[21]. Từng bước tiến tới
tiêu chuẩn hoá về trình độ của cán bộ, công chức trong các cơ quan pháp luật.
Ngoài việc nâng cao ý thức pháp luật cho cán bộ, công chức còn phải nâng cao ý
thức pháp luật cho toàn thể nhân dân trong xã hội theo tinh thần “không ai là
không biết pháp luật”. Coi yêu cầu hiểu biết pháp luật như một trong những tiêu
chí để đánh giá, phân loại cán bộ, công chức hàng năm. Đồng thời coi trọng nội
dung thi về pháp luật khi thi tuyển dụng công chức, thi nâng bậc, chuyển ngạch
cho cán bộ, công chức.
Kết hợp giáo dục pháp luật với giáo dục tri thức, văn hóa, giáo dục chính
trị, đạo đức, nhân cách, lối sống cho nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ, từng
bước “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện, có sức khỏe, năng
lực, trình độ, có ý thức, trách nhiệm cao đối với bản thân, gia đình, xã hội và Tổ
quốc. Đẩy mạnh phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao,
đáp ứng yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và hội nhập quốc
tế”[22]. Tạo ra sự phát triển toàn diện cho mỗi con người để họ có đầy đủ năng
lực tham gia một cách chủ động, tự giác, tích cực vào các hoạt động pháp luật
với động cơ đúng đắn và hiệu quả.
68
Để phổ biến, giáo dục pháp luật đạt kết quả tốt cần kết hợp nhiều hình
thức và biện pháp đồng bộ, trong đó cần chú trọng hoàn thiện cơ chế quản lý
Nhà nước về công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Nâng cao chất lượng, đổi
mới phương pháp phổ biến, giáo dục pháp luật cho các đối tượng khác nhau; lôi
cuốn, tạo điều kiện để nhân dân tích cực tham gia vào các hoạt động pháp luật
thực tiễn; đa dạng hoá các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, các loại hình
đào tạo pháp luật; tăng cường ứng dụng khoa học - công nghệ hiện đại và các
phương tiện thông tin đại chúng vào công tác phổ biến, giáo dục pháp luật. Mở
rộng và nâng cao chất lượng các hoạt động tư vấn dịch vụ pháp lý; phát hành
rộng rãi các loại sách báo, tài liệu để phổ biến, giáo dục pháp luật. Đối với các
văn bản pháp luật quan trọng, thiết thực cần được in với số lượng lớn, bán rộng
rãi với giá rẻ (Nhà nước có thể bù lỗ cho loại tài liệu này) để mọi gia đình, cá
nhân đều có thể mua và sử dụng được; hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật
phải căn cứ vào trình độ dân trí, yêu cầu của nghề nghiệp, khu vực sinh sống...
theo tinh thần người biết nhiều nói cho người biết ít, người biết nói cho người
chưa biết để tất cả xã hội đều hiểu biết pháp luật, sống, làm việc theo Hiến pháp,
pháp luật.
Sáu là, thường xuyên kiểm tra, giám sát, theo dõi việc thi hành chế
định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013, xử lý nghiêm minh mọi vi phạm
pháp luật
Đẩy mạnh hoạt động kiểm tra, giám sát việc thi hành chế định của Quốc
Hội trong Hiến Pháp 2013, đặc biệt là hoạt động áp dụng pháp luật để kịp thời
phát hiện và khắc phục những khiếm khuyết, yếu kém của hoạt động này, xử lý
nghiêm minh những tổ chức, cá nhân có hành vi cố ý áp dụng pháp luật không
đúng, không phù hợp với mục đích đặt ra. Để nâng cao hiệu quả của công tác
kiểm tra, giám sát, theo dõi việc thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến
Pháp 2013 cần kết hợp sự kiểm tra, giám sát, theo dõi của các cơ quan nhà nước
với kiểm tra, giám sát, theo dõi của các tổ chức xã hội và của nhân dân. Phân
định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong công tác kiểm
tra, giám sát, theo dõi thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013.
69
Kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực cho các cơ quan làm công tác kiểm tra,
giám sát, theo dõi thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013.
Nghiên cứu để hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, bảo đảm cho Hiến pháp
được thực hiện chính xác.
Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các tổ chức chính trị - xã hội
và nhân dân. Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, tạo điều kiện để nhân dân
tham gia quản lý xã hội, thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng của
địa phương và của đất nước. Đồng thời tổ chức thật tốt để nhân dân kiểm tra,
giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước và những người có chức vụ, quyền
hạn. Thường xuyên “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử và xử lý nghiêm, đúng pháp luật các hành vi
tham nhũng, lãng phí. Tăng cường giám sát và phòng, chống tham nhũng trong
các cơ quan bảo vệ pháp luật. Thiết lập cơ chế giám sát và kiểm soát quyền lực
hiệu quả”[23].
Xử lý nghiêm minh mọi vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm. Mọi
hành vi xâm phạm lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức
và cá nhân đều bị xử lý theo pháp luật, "Mọi cán bộ, bất cứ ở cương vị nào, đều
phải sống và làm việc theo pháp luật, gương mẫu trong việc tôn trọng pháp luật.
Không cho phép bất cứ ai dựa vào quyền thế để làm trái pháp luật. Mọi vi phạm
đều phải được xử lý. Bất cứ ai phạm pháp đều đưa ra xét xử theo pháp luật,...
Cấm bao che hành động phạm pháp và người phạm pháp dưới bất cứ hình thức
nào"[24]. Từng bước xây dựng lối sống và thói quen sống, làm việc theo pháp
luật trong đời sống nhà nước và xã hội. Nhà nước cũng cần quy định chế độ
trách nhiệm pháp lý đối với các cơ quan hoặc cá nhân trong việc tổ chức thi
hành và áp dụng pháp luật trên thực tế để tránh hiện tượng pháp luật không được
tổ chức thi hành nhưng không ai chịu trách nhiệm về vấn đề đó.
Xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát để Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể
chính trị - xã hội, cán bộ, Đảng viên, nhân dân phát hiện và tích cực đấu tranh
chống vi phạm pháp luật. Nâng cao vai trò của các cơ quan, phương tiện thông
tin đại chúng trong cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng, buôn lậu, lãng phí,
70
quan liêu, lợi dụng chức quyền để tham ô, nhận hối lộ, làm thất thoát tài sản nhà
nước, sách nhiễu nhân dân.
Bảy là, củng cố các công cụ điều chỉnh quan hệ xã hội khác, kết hợp
hài hòa với pháp luật trong duy trì, quản lý đời sống xã hội
Ngoài việc quản lý xã hội bằng pháp luật còn cần chú ý những công cụ
khác như đạo đức, tập quán, tín điều tôn giáo... bởi, giữa chúng luôn có mối liên
hệ mật thiết với nhau, không có công cụ nào tồn tại và tác động một cách biệt
lập, mỗi công cụ luôn có ảnh hưởng và chịu ảnh hưởng bởi các công cụ quản lý
khác. Các công cụ quản lý xã hội luôn dựa vào nhau, hỗ trợ nhau để cùng tồn
tại, phát triển vì sự ổn định và trật tự xã hội, vì cuộc sống cộng đồng ổn định,
phát triển hướng tới chân, thiện, mỹ. Hiện nay chúng ta đang xây dựng Nhà
nước Việt Nam pháp quyền xã hội chủ nghĩa - một Nhà nước đề cao vị thế của
pháp luật trong xã hội, song không phải vì thế mà chúng ta xem nhẹ vai trò của
các công cụ quản lý khác trong xã hội. Pháp luật dù có hoàn thiện đến đâu thì
cũng không cần và không thể điều chỉnh được hết và có hiệu quả đối với tất cả
các quan hệ xã hội mà vẫn cần phải có sự bổ trợ của các công cụ điều chỉnh
khác trong xã hội. Do vậy, cần phải tiếp tục nghiên cứu để củng cố và sử dụng
một cách hài hoà giữa pháp luật với các công cụ quản lý xã hội khác, phát huy
những điểm phù hợp của các công cụ này để hỗ trợ cho thực hiện pháp luật, thúc
đẩy xã hội phát triển về mọi mặt, nâng cao hiệu quả điều chỉnh pháp luật đối với
các quan hệ xã hội vì một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
Tám là, đầu tư các nguồn lực thoả đáng cho hoạt động thi hành chế
định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013, thực hành tiết kiệm, chống tham
nhũng, lãng phí trong các hoạt động pháp luật
Đầu tư về nguồn lực con người, bố trí, lựa chọn những cán bộ, công
chức có đức, có tài cho các cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức thi hành chế định
của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013. Đầu tư cơ sở vật chất thỏa đáng cho hoạt
động thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013, trong đó có việc
nâng lương cho đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những người thường xuyên
trực tiếp giải quyết công việc có liên quan tới tài sản, đến các mặt trái của xã
71
hội, đủ đảm bảo cho họ có thể sống liêm khiết bằng đồng lương của mình có ý
nghĩa rất quan trọng.
Cùng với việc đầu tư thoả đáng cơ sở vật chất còn phải thực hành tiết
kiệm, chống tham ô, lãng phí trong hoạt động tổ chức thi hành chế định của
Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013. Luôn “Thực hiện kiên trì, kiên quyết, có hiệu
quả cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng
phí. Nâng cao hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, làm tốt chức
năng hỗ trợ, thúc đẩy phát triển. Không hình sự hóa các mối quan hệ kinh tế,
hành chính, dân sự. Phát huy đúng vai trò giám sát, phản biện xã hội, các hình
thức tự quản của cộng đồng, các phương thức hòa giải cấp cơ sở. Hoàn thiện cơ
chế, chính sách phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã
hội, các đoàn thể nhân dân và các cơ quan thông tin đại chúng trong quá trình
hoạch định chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội và trong việc phát
hiện, đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí”[25]. Giảm chi phí, thực
hành tiết kiệm trong tổ chức thi hành và thi hành chế định của Quốc Hội trong
Hiến Pháp 2013 cho nhà nước, các tổ chức, cá nhân là giải pháp quan trọng để
nâng cao hiệu quả thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 ở nước
ta hiện nay.
Chín là, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, sự gương mẫu của đảng
viên và các tổ chức Đảng trong thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến
Pháp 2013
Vai trò lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam là điều kiện vô cùng quan
trọng trong việc nâng cao hiệu quả thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến
Pháp 2013 ở nước ta. Sự gương mẫu của các tổ chức đảng và các cá nhân đảng
viên trong việc thực hiện đầy đủ, nghiêm minh các quy định pháp luật sẽ là tấm
gương để nhân dân noi theo. Điều đó cũng củng cố sự tin tưởng của nhân dân
vào những giá trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân, từng bước biến những lý tưởng cao đẹp của chủ nghĩa xã hội thành hiện
thực. Trong tiến trình xây dựng, củng cố nhà nước pháp quyền, đòi hỏi các tổ
chức đảng, các tổ chức xã hội và mọi công dân, mỗi thành tố của xã hội đều phải
72
thể hiện đúng vị trí, vai trò của mình trong đời sống xã hội, nghiêm chỉnh thực
hiện đầy đủ, chính xác các quy định của pháp luật. Hiến pháp Việt Nam năm
2013 đã quy định không chỉ các tổ chức của Đảng mà còn nhấn mạnh tất cả
đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam đều phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật. Là đảng cầm quyền, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã
hội xây dựng, thực hiện và bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn tự đặt mình dưới quyền lực của Hiến pháp và pháp luật, tự giác hoạt
động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, “Các tổ chức của Đảng và
đảng viên, nhất là tổ chức, đảng viên hoạt động trong các cơ quan nhà nước
vừa phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật, vừa phải nêu cao vai trò
tiên phong trong thực hiện chủ trương, đường lối, các quy định của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước”[26]. Trong điều kiện chỉ tồn tại một đảng duy
nhất lãnh đạo nhà nước và xã hội càng cần phải tăng cường nguyên tắc pháp chế
trong mối quan hệ quyền lực giữa Đảng với Nhà nước và xã hội. Củng cố vai trò
lãnh đạo của Đảng đối với việc thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp
2013 cần tiến hành nhiều biện pháp khác nhau trong đó phải “đặc biệt coi trọng
và đẩy mạnh hơn nữa xây dựng, chỉnh đốn Đảng toàn diện về chính trị, tư
tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”[27]. Để có căn cứ cho việc lãnh đạo cần
“Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy
trình cụ thể và công khai để cán bộ, đảng viên và nhân dân biết, giám sát việc
thực hiện”[28]. Từng bước khắc phục sự yếu kém trong chỉ đạo, tổ chức thực
hiện mà Đảng đã chỉ ra bằng việc “Nâng cao bản lĩnh, năng lực dự báo và chất
lượng công tác hoạch định đường lối, chính sách phù hợp với thực tiễn Việt
Nam và xu hướng phát triển của thời đại. Kịp thời thể chế hóa, cụ thể hoá, triển
khai đúng đắn, hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước, khắc phục sự yếu kém trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện”[29].
Với sự lãnh đạo sáng suốt và quyết tâm của Đảng, sự tích cực quản lý của
73
Nhà nước, sự ủng hộ nhiệt thành của các tổ chức và các tầng lớp nhân dân đối
với Đảng và Nhà nước nhất định chúng ta sẽ thực hiện thằng lợi Chiến lược phát
triển kinh tế- xã hội mà Đảng đã đề ra trong Văn kiện Đại hội lần thứ XIII, trong
đó có việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
thi hành chế định của Quốc Hội trong Hiến Pháp 2013 và các chính sách phát
triển kinh tế- xã hội của đất nước.
74
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu về chế định Quốc hội trong Hiến pháp 2013 để
người đọc người nghe có thể nắm chắc hơn về các chế định của Quốc Hội những
nội dung sau đây :
Thứ nhất, cần đổi mới quan niệm về đại biểu Quốc hội và thành phần đại
biểu Quốc hội.
Không nên quan niệm với việc “cơ cấu” một cách chi tiết, tỉ mỉ thành
phần đại biểu thuộc mọi dân tộc, mọi địa bàn, mọi thành phần, lĩnh vực hoạt
động trong xã hội là đã có một Quốc hội đại diện cho nhân dân cả nước. Càng
không nên quan niệm rằng, cứ phải có một chị nông dân trong Quốc hội thì mới
có người đại diện cho giai cấp nông dân cũng như không phải cứ có một nhà
khoa học ngồi trong Quốc hội thì mới có tiếng nói của tầng lớp tri thức trong
Quốc hội. “Đại diện” ở đây cần là đại diện cho cái “tâm”, cái “trí”, cái “dũng”
hơn là đại diện bởi con người cụ thể. Một nhà khoa học có cái “tâm” vì người
nông dân, có cái “trí” để hiểu cuộc sống của người nông dân, có cái “dũng” để
mạnh dạn nói lên tiếng nói vì người nông dân tại diễn đàn Quốc hội tại sao
không thể coi là người đại diện chân chính cho giai cấp nông dân? Và ngược
lại? Theo chúng tôi, vấn đề xác định “cơ cấu” đại biểu Quốc hội cần tính thêm,
không nên nặng về mặt cơ cấu hình thức như hiện nay.
Chúng ta cũng không nên quan niệm rằng, chỉ đại biểu Quốc hội hoạt
động ở lĩnh vực nào thì mới là người “có kiến thức thực tế”, đại diện được cho
những người hoạt động trong lĩnh vực đó. Tư duy và quan niệm như vậy vốn chỉ
phù hợp trong giai đoạn trước cách mạng khoa học và công nghệ, trước bùng nổ
thông tin. Tư duy và quan niệm này thực tế đã tạo dựng nên Quốc hội với đa
phần là những đại biểu hoạt động bán chuyên trách với hầu hết các đại biểu hoạt
động ở một lĩnh vực nào đó và được coi là những người duy nhất am hiểu thực
tế về lĩnh vực họ đang làm. Tuy nhiên, cuộc cách mạng về công nghệ thông tin
hiện nay cho phép một người chỉ ở thành phố cũng có thể nắm bắt được khá đầy
đủ cuộc sống ở nông thôn, nếu như người đó thực sự quan tâm đến nông dân...
Ngoài ra, để bảo đảm tính đại diện cho nhân dân của đại biểu Quốc hội,
75
cần giảm bớt đến mức tối đa số đại biểu là công chức trong các cơ quan quản lý
nhà nước, các cơ quan toà án và kiểm sát; tạo điều kiện để cử tri có thể bầu
những người thuộc mọi thành phần rộng rãi khác trong xã hội đại diện cho mình
tham gia Quốc hội. Nếu thành phần đại biểu Quốc hội vẫn chủ yếu là công chức
nhà nước thuộc các lĩnh vực hoạt động trên thì vô hình chung, thành phần đại
biểu Quốc hội đã nghiêng về phía đại diện cho lĩnh vực công quyền, Quốc hội
trở thành “cơ quan đại biểu cao nhất của các cơ quan nhà nước” chứ không còn
là cơ quan “đại biểu cao nhất của nhân dân”. Chưa kể, đại biểu Quốc hội là công
chức sẽ không ai muốn từ bỏ vị trí, công việc “ổn định” của mình trong cơ quan
nhà nước để hoạt động chuyên trách theo nhiệm kỳ tại Quốc hội. Do vậy, họ
phải tập trung thời gian và sức lực cho công việc mà họ đang đảm nhiệm, không
thể dành nhiều thời gian và sức lực cho việc thực hiện nhiệm vụ “đại diện cho
nhân dân” tại Quốc hội như nhân dân mong muốn.
Thứ hai, cần đổi mới tổ chức, nhiệm vụ và quyền hạn của Quốc hội theo
hướng để Quốc hội có thực quyền hơn và có đủ điều kiện làm tròn mọi nhiệm vụ
được nhân dân giao cho.
Hiện nay, theo quy định có tính nguyên tắc của Hiến pháp và các đạo luật
khác, Quốc hội có rất nhiều quyền hạn, thực sự là “cơ quan quyền lực nhà nước
cao nhất”. Tuy nhiên, để thực hiện những quy định có tính nguyên tắc này, pháp
luật lại chưa có đủ các quy định cụ thể cần thiết cũng như chưa có đủ điều kiện
vật chất cần thiết (như tổ chức bộ máy, nhân sự, phương tiện…) để Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội thực hiện. Chức năng giám sát,
chức năng quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, nhất là đối với lĩnh
vực quyết định về ngân sách, giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan
nhà nước… dường như vẫn là những bài toán chưa có lời giải đối với Quốc hội.
Nói một cách hình ảnh, Quốc hội như người nông dân có trâu nhưng không có
cày, chỉ đứng nhìn cánh đồng bát ngát chưa cày vỡ khi mùa gieo trồng đến mà lo
lắng. Tuy nhiên, khác với người nông dân, Quốc hội có thể và nhất định sẽ phải
trang bị “cái cày” cho mình, vấn đề là khi nào? Theo chúng tôi, việc Nghị quyết
Hội nghị Ban chấp hành trung ương 7 (khoá VIII) đề ra nhiệm vụ nghiên cứu,
76
sửa đổi những quy định có liên quan tới tổ chức bộ máy nhà nước trong Hiến
pháp năm 1992 và trong các luật về tổ chức Nhà nước là một dịp để thể hiện
quyền lực của Quốc hội cần nắm bắt.
Thứ ba, về mặt pháp luật và tổ chức thực hiện, cần có cơ chế tạo điều kiện
để nhân dân và các tổ chức xã hội tham gia một cách rộng rãi, thực chất vào mọi
hoạt động của Quốc hội.
Chỉ với việc Quốc hội cho phép truyền hình trực tiếp các buổi chất vấn tại
phiên họp Quốc hội để nhân dân theo dõi đã góp phần tạo ra một sự gắn kết
không nhỏ giữa Quốc hội và nhân dân, tạo ra sức mạnh cho người đại biểu Quốc
hội mạnh dạn hơn trong việc chất vấn những người nắm giữ trọng trách trong bộ
máy nhà nước. Điều này cũng buộc những người bị chất vấn phải nghiêm túc
hơn, có trách nhiệm hơn đối với những vấn đề phải trả lời tại Quốc hội, đồng
thời phải nâng cao trách nhiệm hơn trong công tác quản lý mà mình đảm nhiệm.
Đây là một bài học thực tiễn về sự gắn kết giữa Quốc hội và nhân dân (mặc dù
mới chỉ thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, chưa phải là sự gắn kết
trong hoạt động thực tiễn) đã có hiệu quả như thế nào đối với hoạt động của
Quốc hội.
Nghiêm túc đánh giá lại thực tiễn hoạt động của Quốc hội thời gian qua
cho thấy, nhân dân dường như có rất ít điều kiện tham gia và giám sát hoạt động
của cơ quan do nhân dân bầu ra để đại diện cho mình cũng như chính Quốc hội,
các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội còn chưa mạnh dạn dựa vào dân,
chưa phát huy được sức mạnh của nhân dân trong hoạt động của mình. Một
trong những hoạt động bị đánh giá là hạn chế nhất của Quốc hội là hoạt động
giám sát mà theo chúng tôi, nguyên nhân quan trọng nhất là chưa biết dựa vào
“tai, mắt” của nhân dân, chưa biết huy động sức mạnh của nhân dân vào hoạt
động đặc biệt khó khăn, phức tạp nhưng cực kỳ quan trọng này. Theo chúng tôi,
trong hoạt động giám sát của Quốc hội cần phải thể hiện được nội dung có tính
nguyên tắc về sự tham gia của nhân dân vào hoạt động giám sát của Quốc hội,
cần xác định đây là một trong những yếu tố cơ bản quyết định hiệu quả công tác
giám sát của Quốc hội.
77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đăng Dung (Chủ biên) (2007), Quốc hội Việt Nam trong
Nhà nước pháp quyền, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
2. Trần Thị Hạnh Dung (2010), “Những yếu tố ảnh hưởng đến chức
năng đại diện của Quốc hội”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (16), tr 12-14.
3. Nguyễn Sĩ Dũng (Chủ biên) (2002), Tổ chức và hoạt động của Quốc
hội một số nước, Văn phòng Quốc hội, Hà Nội.
4. Nguyễn Sĩ Dũng (2003), “Đại biểu Quốc hội, chuyên trách hay
chuyên nghiệp”, Quốc hội Việt Nam - những vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb
Tư pháp 2006, tr. 147-151.
5. Nguyễn Sĩ Dũng, Trần Tuyết Mai, Nguyễn Đức Lam, Hoàng Minh
Hiếu (2006), Thường thức về hoạt động giám sát của Quốc hội, Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1986), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1990), Nghị quyết Trung ương 8B khóa
VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Hoàng Duy - Hoàng Minh Hiếu (2000), “Trao đổi về hoạt động giám
sát của Quốc hội”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, (3), tr.12-15
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội
11. Đoàn thư ký kỳ họp Quốc hội khóa XIII (2014), Báo cáo kết quả kỳ
họp thứ 7 ngày 24/6/2014 và Báo cáo
12. kết quả kỳ họp thứ 8 ngày 28/11/2014, Hà Nội