BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIAO THÔNG VẬN TẢI
-----oOo-----
NGUYỄN ANH DŨNG
Đề tài:
NGHIÊN CỨU CÁC CÔNG NGHỆ CƠ BẢN VÀ
ỨNG DỤNG TRUYỀN HÌNH DI ĐỘNG
Chuyên ngành: Kỹ thuật điện tử
Mã số: 60.52.70
LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT
CÁN BỘ HƯỚNG DẪN: TS. TRẦN QUỐC THỊNH
Hà Nội 2011
CÁC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
3GPP Third Generation Partnership Project Dự án hiệp hội thế hệ ba
3GPP2 Third Generation Partnership Project 2 Dự án 2 hiệp hội thế hệ ba
Advanced Audio Coding M ã hoá âm thanh tiên tiến AAC
Asynchoronous Layered Coding M ã hoá phân lớp không đồng ALC
bộ
AMPS Advanced Mobile Phone System Hệ thống điện thoại di động
tiên tiến
Adaptive M ultirate Đa tốc độ thích nghi AMR
Automatic Repeat Request Yêu cầu phát lại tự động ARQ
Asynchronous Transfer Mode Chế độ truyền tải không đồng ATM
bộ
ATSC Advanced Television Systems Tiêu chuẩn uỷ ban các hệ
Committee Standard thống truyền hình tiên tiến
AVI Audio Video Interleaved Ghép xen Video âm thanh
BCM CS Broadcast/M ulticast Service Dịch vụ broadcast/mult icast
BICC Bearer Independent Call Control Điều khiển cuộc gọi độc lập
phần mang
BM-SC Broadcast/M ulticast Service Center Trung tâm dịch vụ broadcast
multicast
BSC Base Station Controller Bộ điều khiển trạm gốc
BTS Base Transceiver Station Trạm thu phát gốc
CDMA Code Division Multiple Access Đa truy nhập phân chia theo
mã
CIF Common Interface Format Khuôn dạng giao diện chung
CMMB China M obile Multimedia Quảng bá đa phương tiện di
Broadcasting động Trung Quốc
COFDM Coded Orthogonal Frequency Division Ghép kênh phân chia theo tần
Multiplexing số trực giao được mã hoá
CRC Cyclic Redundancy Check Kiểm tra dư chu trình
CS Circuit Switched Chuyển mạch kênh
CSCF Call State Control Function Chức năng điều khiển trạng
thái cuộc gọi
DAB Digital Audio Broadcasting Quảng bá âm thanh số
DAB-IP Digital Audio Broadcasting-Internet Quảng bá âm thanh số dựa
trên giao thức Internet Protocol
DQPSK Differential Quadrature Phase Shift Khoá dịch pha vuông góc vi
sai Keying
DRM Digital Rights Management Quản lý bản quyền số
DS-CDMA Direct Sequence Code Division Đa truy nhập phân chia theo
Multiple Access mã trải phổ chuỗi trực tiếp
Discontinous Transmission Truyền dẫn không liên tục DTX
Digital Video Broadcasting Quảng bá Video số DVB
DVB-H Digital Video Broadcasting-Handheld Quảng bá Video số tới máy
cầm tay
Entitlement Control M essage Bản tin điều khiển được phép ECM
Enhanced Data Rates for Global Các tốc độ dữ liệu tiên tiến đối EDG E
với phát triển toàn cầu
Elementary Stream Dòng sơ cấp ES
Electronic Service Guide Hướng dẫn dịch vụ điện tử ESG
European Telecommunications Viện tiêu chuẩn Viễn thông ETSI
Standards Institute Châu Âu
Evolution Data Only Chỉ dữ liệu phát triển EVDO
Evolution Data and Voice Thoại và dữ liệu phát triển EVDV
Forward Access Channel Kênh truy nhập hướng đi FACH
Frequency Division Duplex Song công phân chia theo tần FDD
số
FDM Frequency Division M ultiplexing Ghép kênh phân chia theo tần
số
Forward Error Correction Sửa lỗi hướng đi FEC
Fast Information Channel Kênh thông tin nhanh FIC
Forward Link Only Chỉ liên kết hướng đi FLO
File Transport Protocol Giao thức truyền tải tệp FTP
GERAN GSM EDGE Radio Access Network M ạng truy nhập vô tuyến
GSM EDGE
Gateway GPRS Support Node Node hỗ trợ GPRS cổng GGSN
Gateway M SC M SC cổng GMSC
General Packet Radio Service Dịch vụ vô tuyến gói tổng quát GPRS
Global Positioning System Hệ thống định vị toàn cầu GPS
Global System for Mobile Hệ thống thông tin di động GSM
communications toàn cầu
HLR Home Location Register Bộ ghi định vị thường trú
HSDPA High Speed Downlink Packet Access Truy nhập gói đường xuống
tốc độ cao
HSPA High Speed Package Access Truy nhập gói tốc độ cao
HSS Home Subscriber Server Server thuê bao thường trú
HTML Hypertext Markup Language Ngôn ngữ lập trình siêu văn
bản
HTTP Hypertext Transfer Protocol Giao thức truyền tải siêu văn
bản
IETF Internet Engineering Task Force Uỷ ban nhiệm vụ kỹ thuật
Internet
IMS IP M ultimedia System Hệ thống đa phương tiện IP
IMT-2000 International M obile Telephone 2000 Điện thoại di động Quốc tế-
2000
Internet Protocol Giao thức Internet IP
IP Encapsulation Đóng gói IP IPE
ISDB-T Integrated Services Digital Quảng bá số các dịch vụ tích
Broadcasting-T errestrial hợp-mặt đất
Intersymbol Interference Xuyên nhiễu giữa các ký hiệu ISI
International Telecommunications Hiệp hội Viễn thông Quốc tế ITU
Union
LCT Layered Coding Transport Truyền tải mã hoá được phân
lớp
Local-area Identification M ô tả vùng nội hạt LIC
Logical Link Control Điều khiển liên kết logic LLC
Local Operation Center Trung tâm khai thác nội hạt LOC
Medium Access Control Điều khiển truy nhập môi MAC
trường
MBMS Multimedia Broadcast and M ulticast Dịch vụ broadcast và multicast
Service đa phương tiện
MCCH MBMS point-to-multipoint Control Kênh điều khiển điểm-tới-đa
Channel điểm MBMS
Multiplex Configuration Information Thông tin cấu hình ghép kênh MCI
Mobile Equipment Thiết bị di động ME
MFN Multifrequency Network M ạng đa tần
MGCF Media Gateway Control Function Chức năng điều khiển
Gateway media
MBMS notification Indicator Channel Kênh chỉ thị thông báo MBM S MICH
Mobile Information Device Profile Profile thiết bị thông tin di MIDP
động
Multicast Logical Channel Kênh logic multicast MLC
Multimedia Object Transfer Truyền tải đối tượng đa MOT
phương tiện
MPE Multiprotocol Encapsulation Đóng gói đa giao thức
MPEG Motion Pictures Expert Group Nhóm chuyên gia hình ảnh
động
MM S Multimedia Messaging Service Dịch vụ bản tin đa phương tiện
MRF Multimedia Resource Function Chức năng tài nguyên đa
phương tiện
MSC Main Service Channel Kênh dịch vụ chính
MSC Mobile Switching Network M ạng chuyển mạch di động
MSCH MBMS point to multipoint Scheduling Kênh định trình điểm-tới-đa
Channel điểm MBMS
MSK MBMS Senssion Keying Khoá phiên MBMS
MTCH MBMS point-to-multipoint Traffic Kênh lưu lượng điểm-tới-đa
Channel điểm MBMS
MTK MBMS Traffic Keying Khoá lưu lượng MBM S
MUK MBMS User Keying Khoá người sử dụng MBMS
NMTS Nordic Mobile Phone Service Dịch vụ điện thoại di động
Bắc Âu
NOC National Operating Center Trung tâm khai thác Quốc gia
NPAD Non-programme Associated Data Dữ liệu kết hợp không chương
trình
OIS Overhead Information Symbols Các ký hiệu thông tin mào đầu
PAD Programme Associated Data Dữ liệu kết hợp chương trình
PDA Personal Digital Assistant Hỗ trợ số cá nhân
PDA N Packet Downlink Ack/Nack Ack/Nak đường xuống gói
PDCH Packet Data Channel Kênh dữ liệu gói
PID Particular Program Identifier Bộ mô tả chương trình đặc biệt
PS Packet Switched Chuyển mạch gói
PSS Packet-Switched Streaming Dòng chuyển mạch gói
PSTN Public Switching Telephone Network M ạng điện thoại chuyển mạch
công cộng
PPC Positioning Pilot Channel Kênh hoa tiêu vị trí
PTM Point-to-Multipoint Điểm-tới-đa điểm
PTP Point-to-Point Điểm-tới-điểm
QAM Quadrature Amplitude M odulation Điều chế biên độ vuông góc
QCELP Qualcomm Code Excited Linear M ã hoá dự đoán tuyến tính
Predictive Coding kích thích mã của Qualcomm
QCIF Quater Common Interface Format Khuôn dạng giao diện chung
một phần tư
QoS Quality of Service Chất lượng dịch vụ
QPSK Quadrature Phase Shift Keying Khoá dịch pha vuông góc
QVGA Quarter Video Graphics Array M ảng đồ hoạ Video một phần
tư
RAN Radio Access Network M ạng truy nhập vô tuyến
RDP Real Data Package Protocol Giao thức gói dữ liệu thực
RLC Radio Link Control Điều khiển liên kết vô tuyến
RNC Radio Network Controller Bộ điều khiển mạng vô tuyến
RNS Radio Network Subsystem Phân hệ mạng vô tuyến
RS Reed-Solomon M ã Reed-Solomon
R-SGW Roaming Signaling Gateway Gateway báo hiệu chuyển
vùng
RTCP Real Time Control Protocol Giao thức điều khiển thời gian
thực
RTSP Real Time Streaming Protocol Giao thức truyền tải dòng thời
gian thực
RTP Real Time Protocol Giao thức thời gian thực
SAP Service Access Protection Bảo vệ truy nhập dịch vụ
SC Synchronization Channel Kênh đồng bộ
SDP Senssion Description Protocol Giao thức mô tả phiên
SFN Single Frequency Network M ạng đơn tần
SGSN Serving GPRS Support Node Node hỗ trợ GPRS phục vụ
SI Service Information Thông tin dịch vụ
SIM Subscriber Identity M odule M odule nhận dạng thuê bao
SIP Session Initiation Protocol Giao thức khởi đầu phiên
SNA P SubNetwork Attachment Point Điểm gán mạng con
SMIL Synchronized Multimedia Integration Ngôn ngữ tích hợp đa phương
Language tiện đồng bộ
SMS Short M essage Service Dịch vụ bản tin ngắn
SS7 Signaling System No 7 Hệ thống báo hiệu số 7
SVG Scalable Vector Graphics Đồ hoạ vector có thể định
thang
TCP Transmission Control Protocol Giao thức điều khiển truyền
dẫn
TDD Time Division Duplex Song công phân chia theo thời
gian
TDMA Time Division Multiplexing Access Truy nhập ghép kênh phân
chia theo thời gian
TPC Transition Pilot Channel Kênh hoa tiêu chuyển dịch
TPS Transmitter Parameter Signaling Báo hiệu tham số máy phát
TS Transport Stream Dòng truyền tải
UDP User Datagram Protocol Giao thức datagram người sử
dụng
UE User Equipment Thiết bị người sử dụng
UHF Ultra High Frequency Tần số cực cao
UMTS Universal Mobile Dịch vụ viễn thông di động
Telecommunications Service toàn cầu
USIM UMTS Subscriber Identity M odule M odule nhận dạng thuê bao
UMTS
UTRA Universal Terrestrial Radio Access Truy nhập vô tuyến mặt đất
toàn cầu
UTRAN UMTS Terrestrial Radio Access M ạng truy nhập vô tuyến mặt
đất UMTS Network
VAD Voice Activity Detection Phát hiện kích hoạt thoại
VHF Very High Frequency Tần số rất cao
VLR Visitor Location Register Bộ ghi định vị tạm trú
WAP Wireless Application Protocol Giao thức ứng dụng vô tuyến
WCDMA Wideband Code Division Multiple Đa truy nhập phân chia theo
Access mã băng rộng
WIC Wide-area Identification Channel Kênh mô tả diện rộng
LỜI MỞ ĐẦU
Công nghệ truyền hình di động (Mobile TV) gần đây đã và đang được thử
nghiệm và triển khai thành công ở nhiều Quốc gia trên thế giới. Mobile TV là công
nghệ vô tuyến được thiết kế để có thể truyền tải được tín hiệu truyền hình trong môi
trường vô tuyến di động có băng thông hạn chế và thường xuyên chịu ảnh hưởng
của fading, nhiễu và tạp âm, trong khi phải đáp ứng được khả năng hiển thị tín hiệu
tốt trên máy đầu cuối cầm tay di động có kích thước màn hình nhỏ, công suất pin
tiêu thụ bị hạn chế. Các công nghệ truyền tải tín hiệu Mobile TV bao gồm: Mobile
TV truyền tải qua mạng di động 3G, Mobile TV phát qua mạng quảng bá số mặt đất
cho các máy cầm tay (DVB-H), Mobile TV phát qua mạng quảng bá đa phương tiện
số (DMB), M obile TV phát qua mạng M ediaFLO, Mobile TV phát qua mạng quảng
bá số các dịch vụ tích hợp-mặt đất (ISDB-T), M obile TV phát qua mạng quảng bá
âm thanh số trên nền IP (DAB-IP) và Mobile TV phát qua các mạng WiFi,
WiMAX . Trong đó, các công nghệ M obile TV truyền tải qua mạng 3G, DVB-H,
DMB, và MediaFLO đã được nghiên cứu, tiêu chuẩn hoá và sử dụng phổ biến. Ở
Việt Nam, công nghệ 3G đang được thử nghiệm, triển khai ở nhiều nhà cung cấp
dịch vụ như Tập đoàn Bưu chính Viễn thông Việt Nam (VNPT), Tổng Công ty
Viễn thông Quân đội (Viettel)…, Tổng Công ty Truyền thông đa phương tiện
(VTC) đã tiến hành thử nghiệm công nghệ DVB-H những năm trước đây, trung tâm
dịch vụ công nghệ truyền hình và đài truyền hình Việt Nam đã tiến hành thử
nghiệm công nghệ DM B vào năm 2008. Sự phát triển của các công nghệ M obile
TV thực sự đem lại những sự thay đổi lớn trong lĩnh vực truyền thông đa phương
tiện số, khi mà người sử dụng có thể xem tín hiệu truyền hình ở bất kỳ địa điểm nào
được phủ sóng truyền hình di động chỉ với một máy di động cầm tay có kích thước
nhỏ.
Với mong muốn nghiên cứu các công nghệ truyền hình di động cơ bản và
qua đó có cơ sở so sánh, đánh giá từng công nghệ từ đó có những đề xuất hướng lựa
chọn công nghệ phù hợp tình hình phát triển ở nước ta. Nội dung của đề tài được
trình bày như sau:
Chương 1: Tổng quan về Mobile TV và tình hình phát triển trên thế giới
Chương 2: Nghiên cứu kỹ thuật Streaming và Mobile Multimedia
Chương 3: Các công nghệ truyền hình di động cơ bản
Chương 4: So sánh, đánh giá các công nghệ truyền hình di động
Chương 5: Đề xuất hướng lựa chọn công nghệ, một số ứng dụng cho phát
thanh số di động, kết luận, khuyến nghị và hướng phát triển
Tóm lại, nghiên cứu các công nghệ truyền hình di động để đề xuất hướng lựa
chọn cho phù hợp tình hình ở nước ta.. Tuy nhiên việc nghiên cứu các công nghệ
truyền hình di động cũng là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi quá trình nghiên cứu kỹ
lưỡng và nghiêm túc. Do điều kiện nghiên cứu, thời gian và kiến thức còn hạn chế,
trong khuôn khổ luận văn này, tác giả đã cố gắng tìm hiểu, nghiên cứu và trình bày
các vấn đề một cách tổng quan và cơ bản nhất, và chắc chắn rằng luận văn sẽ không
tránh khỏi những thiếu sót, kính mong nhận được sự góp ý quý báu của Quí Thầy
và các bạn.
Xin chân thành cảm ơn !
Chương 1: TỔNG QUAN VỀ M OBILE TV VÀ TÌNH HÌNH
PHÁT TRIỂN TRÊN THẾ GIỚI
1.1 Tổng quan về Mobile TV
Truyền hình di động (Mobile TV) là công nghệ mã hoá và truyền dẫn các
chương trình truyền hình hoặc video để có thể thu được trên các thiết bị di động như
điện thoại di động, các thiết bị hỗ trợ số cầm tay (PDA ), các thiết bị đa p hương tiện
vô tuyến, các máy điện thoại có khả năng thu tín hiệu truyền hình di động [1]. Đối
với M obile TV, người xem có thể truy nhập các chương trình truyền hình trong khi
di chuyển. Các chương trình truyền hình có thể được truyền tải dòng (streaming) tới
máy di động để xem ở tốc độ giống như khi được phát hoặc các chương trình có thể
được xem với trễ thời gian hoặc có thể được ghi lại toàn bộ giống như băng cassette
video hoặc đĩa DVD. Mobile TV không chỉ cho phép truyền dẫn một chiều thông
thường mà còn cho phép truyền tín hiệu truyền hình tương tác nhờ sử dụng các
kênh phản hồi cung cấp bởi mạng tế bào. Các chương trình có thể được phát ở chế
độ quảng bá (broadcast) trong một vùng phủ sóng hoặc phát tới một người sử dụng
theo yêu cầu (chế độ unicast) hoặc có thể phát tới một nhóm người sử dụng (chế độ
multicast).
Các công nghệ truyền hình truyền thống được thiết kế đối với các máy thu cố
định, có kích thước màn hình lớn trong đó công suất tiêu thụ không là vấn đề quan
trọng. Trong khi đó các máy thu di động có công suất pin hạn chế, kích thước màn
hình nhỏ, anten nhỏ được tích hợp ở bên trong máy và có bộ nhớ giới hạn, hơn nữa
máy thu có thể chuyển động với tốc độ lên tới 200 km/h [1,5]. Do đó, Mobile TV là
công nghệ được thiết kế để đáp ứng được các y êu cầu truyền dẫn tín hiệu truyền
hình trong môi trường vô tuyến di động có băng thông hạn chế, máy thu đầu cuối di
động có công suất pin tiêu thụ nhỏ kích thước màn hình nhỏ, và giới hạn về tốc độ
làm tươi . Các ảnh hưởng quan trọng của môi trường vô tuyến di động bao gồm
truyền dẫn đa đường, fading, và hiệu ứng Doppler; trong khi đó hạn chế của máy
thu di động là công suất pin nhỏ và anten tích hợp bên trong có độ tăng ích nhỏ. Các
công nghệ M obile TV đã được phát triển để khắc phục các hạn chế của môi trường
truyền dẫn tín hiệu truyền hình di động cũng như các hạn chế của máy thu tín hiệu
truyền hình di động nói trên. Các yêu cầu về mặt công nghệ hỗ trợ việc truyền dẫn
tín hiệu truyền hình di động là [1]:
- Truyền dẫn theo khuôn dạng lý tưởng phù hợp với các thiết bị truyền hình
di động, ví dụ các độ phân giải QCIF (176 X 144 pixels), CIF (352 X 288 pixels),
hoặc QVGA (320 X 240 pixels) với mã hoá hiệu quả cao;
- Công nghệ tiêu thụ công suất thấp;
- Thu nhận tín hiệu ổn định khi di động;
- Chất lượng hình ảnh rõ nét mặc dù bị tổn hao tín hiệu do fading và hiệu
ứng đa đường;
- Hỗ trợ di động ở tốc độ lên tới 250 km/h hoặc cao hơn;
- Có khả năng thu tín hiệu trong một vùng rộng khi di chuyển.
Hình 1.1: Mô hình chung thu phát đối với truyền hình di động
Hình 1.1 mô tả mô hình chung thu phát đối với truyền hình di động. Ở đầu
phát, các chương trình truyền hình di động trước tiên được mã hoá nguồn (khuôn
dạng chuẩn H.264, MPEG-4, HE-AA C, AM R...), sau đó được mã hoá kênh (mã
xoắn, mã turbo...), ghép xen, ghép kênh với chương trình khác, rồi đưa tới bộ điều
chế, khuếch đại công suất và đưa tới anten phát ra mạng truyền dẫn vô tuyến. Ở đầu
thu, máy cầm tay di động thu được tín hiệu truyền hình di động sẽ thực hiện các
chức năng ngược với phần phát bao gồm: giải điều chế, giải ghép xen, giải mã kênh
và giải mã nguồn để có thể xem các chương trình truyền hình trên máy di động.
Hiện nay có hai phương pháp chính để phát tín hiệu truyền hình di động.
Phương pháp thứ nhất là p hát qua mạng tế bào hai chiều và p hương pháp thứ hai là
phát qua mạng quảng bá dành riêng, một chiều. Mỗi phương pháp có các ưu nhược
điểm riêng:
- Phát tín hiệu truyền hình qua mạng tế bào có ưu điểm là sử dụng được cơ
sở hạ tầng mạng đã được thiết lập, do đó sẽ giảm chi phí triển khai. Đồng thời, nhà
khai thác đã có sẵn thị trường truy nhập tới các thuê bao hiện tại, các thuê bao này
chỉ cần đăng ký dịch vụ truyền hình di động mà họ muốn sử dụng. Nhược điểm
chính khi phát tín hiệu truyền hình qua các mạng tế bào (2G hoặc 3G) là vấn đề
băng thông hạn chế, điều này có thể làm giảm chất lượng các dịch vụ thoại truyền
thống. Tốc độ dữ liệu cao của truyền hình di động có thể làm giảm dung lượng của
mạng tế bào. Hơn nữa để thu được tín hiệu truyền hình di động máy đầu cuối cũng
cần được thay thế và thiết kế lại (các vấn đề như kích thước màn hình, cường độ tín
hiệu thu, công suất pin và khả năng xử lý là các vấn đề cần xem xét khi thiết kế máy
thu). Nhiều nhà khai thác dịch vụ di động 2G và hầu hết các nhà cung cấp dịch vụ
3G đang cung cấp dịch vụ video theo yêu cầu và dòng truyền tải video. Các dịch vụ
này phát ở chế độ unicast với dung lượng truyền dẫn giới hạn và được xây dựng
trên nền các công nghệ sử dụng hệ thống tế bào như G SM , WCDMA hoặc
CDMA2000. Một ví dụ về công nghệ được thiết kế trên nền mạng 3G là công nghệ
phát dịch vụ broadcast và multicast đa phương tiện (M BM S), hệ thống này có thể
hoạt động ở chế độ unicast hoặc multicast. MBMS được thiết kế bởi dự án hiệp hội
3G (3GPP) để p hát các dịch vụ truyền hình di động qua mạng GSM và mạng
WCDMA. M BMS hoạt động ở băng thông 5 M Hz WCDMA, hỗ trợ sáu dịch vụ
truyền tải dòng quảng bá thời gian thực, song song, mỗi dịch vụ có tốc độ 128
kbit/s, trên kênh vô tuyến có băng thông 5 MHz.
- Các hệ thống Mobile TV dành riêng được thiết kế để tối ưu hoá sự phân
phát tín hiệu truyền hình di động. Các hệ thống này có thể phát trên mặt đất, phát
qua vệ tinh hoặc kết hợp cả mặt đất và vệ tinh. Một trong những ưu điểm chính của
các hệ thống Mobile TV dành riêng là nội dung Mobile TV có thể được phát quảng
bá tới nhiều người sử dụng đồng thời. Nhược điểm của các hệ thống này là yêu cầu
đầu tư đáng kể vào cơ sở hạ tầng mạng và các lựa chọn nội dung bị hạn chế.
Các công nghệ Mobile TV cạnh tranh nhau để đạt được thị phần chia sẻ thị
trường, chúng có nguồn gốc khác nhau và được phát triển với các mục đích khác
nhau. Các công nghệ M obile TV được phân loại như trên Hình 1.2.
Hình 1.2: Phân loại các công nghệ Mobile TV.
Như vậy, Mobile TV được phân loại thành Mobile TV dựa trên các mạng
3G, các mạng quảng bá mặt đất và vệ tinh, và các mạng vô tuyến băng rộng. Đối
với mạng 3G, các dịch vụ được chia thành chế độ quảng bá, multicast và chế độ
unicast. Tất cả các công nghệ trên đều đang tiếp tục được phát triển do sự phát triển
của các dịch vụ truyền hình di động. Hình 1.3 mô tả tổng quan về các công nghệ
Mobile TV.
Hình 1.3: Tổng quan về các công nghệ Mobile TV.
1.2 Các tiêu chuẩn đối với Mobile TV
Mobile TV có khoảng trên 30 loại khuôn dạng file âm thanh gồm dạng các
file đơn giản có đuôi .wav, .mpg, Real, QuickTime, Windows M edia 9 và các khuôn
dạng file khác. Video có khoảng 25 khuôn dạng khác nhau từ các file video không
nén đến file nén có khuôn dạng M PEG-4, M PEG-4-AVC/H.264. Video có thể có
một dải rộng độ phân giải, kích thước khung và tốc độ. Các tiêu chuẩn được sử
dụng làm nền tảng chung cho việc phân phát các dịch vụ Mobile TV. Các tiêu
chuẩn có thể khác nhau dựa trên công nghệ nhưng đã đạt được sự thống nhất chung.
Điều này đòi hỏi các nhóm phải làm việc cùng nhau. Các nhóm này bao gồm các
nhà thiết kế chip, các nhà chế tạo để vận hành hệ thống, các nhà thiết kế phần mềm
ứng dụng, các nhà thiết kế và sản xuất máy đầu cuối, các nhà phát triển phần mềm,
cộng đồng quảng bá tín hiệu truyền hình, các nhà khai thác mạng 3G, và các nhà
khai thác tín hiệu truyền hình quảng bá qua vệ tinh. Ngoài ra, việc tiêu chuẩn hoá
cũng liên quan đến ngành công nghiệp chế tạo nội dung để thiết kế nội dung âm
thanh và video cho các máy đầu cuối di động; ngành công nghiệp di động tế bào để
thiết lập các hệ thống truyền dẫn tín hiệu truyền hình di động và nhiều ngành công
nghiệp khác. Các tiêu chuẩn Mobile TV được tổng kết trong khuyến nghị ITU-R
BT.1833, ngoài các tiêu chuẩn trong khuyến nghị này, còn có các công nghệ truyền
hình di động đã được tiêu chuẩn hoá và được triển khai ở nhiều nước trên thế giới
như công nghệ VSB tiên tiến, hệ thống quảng bá đa phương tiện di động ở Trung
Quốc (CMM B).
1.3 Các nguồn tài nguyên đối với Mobile TV
Đối với Mobile TV, một nguồn tài nguyên chung quan trọng là phổ tần số. Ở
Anh và M ỹ phổ tần số dành cho truyền hình truyền thống nằm trong dải VHF và
UHF. Ở Anh công ty BT Movio đã sử dụng phổ tần dành cho quảng bá âm thanh số
(DAB) để p hát tín hiệu truyền hình di động sử dụng tiêu chuẩn DAB-IP. Ở Hàn
Quốc phổ tần DAB dành cho các dịch vụ vệ tinh được sử dụng để phát dịch vụ
truyền hình di động theo khuôn dạng tín hiệu quảng bá đa phương tiện số qua vệ
tinh (DM B-S). Hàn Quốc cũng cho phép sử dụng phổ tần VHF để cung cấp dịch vụ
truyền hình di động sử dụng công nghệ quảng bá đa phương tiện số mặt đất (DVB-
T). Công nghệ quảng bá đa phương tiện số cho các máy cầm tay (DVB-H) là một
tiêu chuẩn được thiết kế sử dụng các mạng DVB-T để phát các dịch vụ DVB-H và
sử dụng chung phổ tần của DVB-T. Ở M ỹ, Modeo, nhà khai thác DVB-H, đã thiết
lập một mạng hoàn toàn mới dựa trên DVB-H sử dụng băng tần L ở 1670 MHz;
HiWire, một nhà khai thác khác sử dụng phổ tần 700 MHz để phát dịch vụ DVB-H.
1.4 Công nghệ broadcast và unicast đối với Mobile TV
Có hai chế độ phân phát nội dung tới thiết bị M obile TV là: chế độ broadcast
và chế độ unicast. Ở chế độ broadcast, cùng nội dung giống nhau được phát tới số
lượng không hạn chế người sử dụng, trong khi ở chế độ unicast nội dung được phát
theo yêu cầu tới người sử dụng cụ thể dựa trên việc lựa chọn nội dung.
1.4.1 Công nghệ broadcast
Hình 1.4: Truyền dẫn broadcast đối với Mobile TV.
Công nghệ cung cấp tới nhiều người sử dụng cùng nội dung ở cùng thời
điểm được gọi là broadcast [1,5], ví dụ như sự quảng bá tín hiệu truyền hình tương
tự và radio. Công nghệ này có tính cá nhân thấp vì tất cả người sử dụng đều thu
được cùng nội dung. Tuy nhiên, công nghệ này phù hợp với thị trường vì không bị
hạn chế kỹ thuật về số lượng người sử dụng có thể thu nội dung ở cùng thời điểm.
Các công nghệ quảng bá phát tín hiệu truyền hình di động gồm: MBMS,
DMB-T, DM B-S, DVB-H, ISDB-T, ISDB-S, DAB, DAB-IP và MediaFLO. Như
vậy, công nghệ quảng bá được sử dụng tốt nhất để phân phát hiệu quả các kênh
truyền hình phổ biến tới số lượng lớn người sử dụng trong một vùng địa lý nhất
định.
1.4.2 Công nghệ unicast
Công nghệ cung cấp tín hiệu truyền hình di động theo chế độ một-tới-một
được gọi là unicast [1,5]. Công nghệ này có tính cá nhân cao vì mỗi người sử dụng
chỉ xem dòng truyền tải unicast của mình. Unicast cũng có ưu điểm là các nguồn tài
nguyên mạng chỉ được sử dụng khi một người sử dụng kích hoạt việc sử dụng dịch
vụ. Hơn nữa, với unicast, mạng có thể tối ưu về mặt truyền dẫn đối với mỗi người
sử dụng đơn lẻ. Tuy nhiên các mạng unicast bị hạn chế về số lượng người sử dụng
được hỗ trợ bởi vì nguồn tài nguyên là hữu hạn vì băng thông hạn chế. Ví dụ, truyền
tải dòng video của một sự kiện thể thao như bóng đá, bóng chuyền… có thể được
lựa chọn bởi hàng trăm nghìn người sử dụng, điều này làm cho nguồn tài nguyên
mạng bị cạn kiệt. Các tốc độ truyền dẫn ở các mạng tế bào UMTS điển hình là 64
kbps (chuyển mạch kênh, CS), hoặc 220-320 kbps (chuyển mạch gói, PS). Các
mạng GPRS cung cấp tốc độ trong khoảng 30-40 kbps (PS), các mạng EDG E có tốc
độ điển hình trong khoảng 100-130 kbps (PS) và HSDPA có thể đạt tốc độ từ 550-
1100 kbps (PS). Mặc dù bị giới hạn về băng thông, công nghệ unicast phù hợp cho
việc cung cấp dịch vụ video theo yêu cầu và sự tương tác cho các dịch vụ truyền
hình di động.
Hình 1.5: Truyền dẫn Unicast đối với Mobile TV.
1.5 Mobile TV sử dụng các mạng tế bào
Sự triển khai các công nghệ 2.5G với tốc độ dữ liệu cao hơn đã cho phép các
nhà khai thác mạng di động cung cấp các dịch vụ đa phương tiện như video, âm
thanh giống như truyền tải dòng IP qua mạng Internet. Tuy nhiên, do các điều kiện
truyền dẫn và mạng, tín hiệu clip video bị trễ và chất lượng tín hiệu không cao do
tốc độ khung thấp. Sự phát triển từ công nghệ 2.5G đến 3G đã tăng tốc độ dữ liệu,
sự phát triển các giao thức âm thanh và video cùng với kỹ thuật mã hoá nguồn hiệu
quả M PEG-4 dẫn tới mạng 3G có thể cung cấp các kênh video trực tiếp ở tốc độ
128 kbps hoặc cao hơn. Các mạng 3G được thiết kế để có thể cung cấp tốc độ dữ
liệu cao lên tới 384 kbps, do đó các mạng 3G có thể được sử dụng để cung cấp các
dịch vụ truyền hình di động. Mạng 3G đã được triển khai ở nhiều nước khác nhau
trên thế giới, một số nhà khai thác mạng 3G điển hình ở các nước như [1]: Mỹ
(Sprint, Cingular, M idwest Wireless, Alltel, Cellular South, Verizon), Mêxicô
(Telcel), Peru (Moviestar), Canada (Bell, Rogers, TELUS), Anh (Orange, Three)…
Hiệp hội Viễn thông Quốc tế (ITU) đã thống nhất các mạng 3G với tên gọi là IMT-
2000 dựa trên hai công nghệ lõi cơ bản là: UMTS và CDMA2000. Công nghệ
UMTS (WCDM A) được phát triển đối với các nước đang khai thác mạng GSM, các
tần số 3G ở UM TS được phân bổ rời rạc trong phổ tần của UMTS. Trong khi đó
công nghệ CDM A2000 được thiết kế tương thích với các mạng CDMAOne. Các
dịch vụ Mobile TV dựa trên mạng 3G có thể cung cấp dòng truyền tải dữ liệu di
động chấp nhận được ở tốc độ lên tới 300 kbps, tương đương với 10 cuộc gọi trong
mạng. Điều này có nghĩa là để cung cấp một dòng truyền tải video, mạng 3G bị tổn
thất 10 cuộc gọi. Do băng thông khả dụng bị hạn chế, các mạng 3G không tối ưu để
phát tín hiệu truyền hình di động tới số lượng lớn người sử dụng đồng thời. Dự án
3GPP đang phát triển các công nghệ mới để tăng tốc độ, mở rộng vùng phủ và các
loại hình dịch vụ có thể cung cấp trên các mạng 3G. Ví dụ như công nghệ truy nhập
gói đường xuống tốc độ cao (HSDPA) và công nghệ broadcast và multicast đa
phương tiện (MBMS) đã được phát triển để hỗ trợ các dịch vụ âm thanh và video.
Trong điều kiện bình thường, mạng HSDPA có thể phát ở tốc độ 384 kbps
tới 50 người sử dụng trong một tế bào, HSDPA có thể tăng tốc độ bit lên tới 10
Mbps hoặc thậm chí cao hơn (đường xuống) trên các mạng 5 MHz 3G nhờ sử dụng
mã hoá và điều chế thích nghi, định trình gói nhanh và kỹ thuật chọn tế bào nhanh
[1]. Ưu điểm chính của HSDPA là được xây dựng trên cơ sở hạ tầng mạng 3G hiện
tại, do đó các nhà khai thác có thể sử dụng giấy phép mạng 3G mà không cần đầu tư
xin thêm các tần số mới.
- Với mạng 3G, công nghệ broadcast và multicast đa phương tiện (MBMS)
được tiêu chuẩn hoá để phát tín hiệu ở chế độ quảng bá, sự triển khai M BM S bắt
đầu vào năm 2008, bổ sung khả năng phát quảng bá cho các mạng 3G [9]. Tốc độ
phát dữ liệu của các mạng này có thể đạt được từ 64 đến 256 kbps sử dụng giao
thức MBMS/UMTS, và từ 32 đến 128 kbps sử dụng giao thức M BM S/GSM. Tuy
nhiên công nghệ này có thể sử dụng tới 30% dung lượng của mạng tế bào, điều này
có thể làm giảm chất lượng dịch vụ thoại truyền thống và yêu cầu đầu tư đáng kể
vào cơ sở hạ tầng mạng [5]. Công nghệ MBMS có hai chế độ cung cấp dịch vụ tới
số lượng lớn người sử dụng. Phiên bản thứ sáu 3GPP định nghĩa MBMS có các chế
độ cung cấp dịch vụ sau [1]:
+ Chế độ multicast truyền tín hiệu từ nguồn phát tới tất cả các thiết bị trong
một nhóm multicast. Các thiết bị này có thể nằm ở các tế bào khác nhau hoặc đang
di chuyển. Do đó, truyền dẫn multicast không phát dữ liệu tới tất cả người sử dụng
trong một vùng nhất định, mà sự phân phát dữ liệu này có tính chọn lọc.
+ Chế độ broadcast truyền tín hiệu tới tất cả người sử dụng trong một vùng
nhất định.
1.6 Mobile TV sử dụng truyền dẫn số mặt đất và vệ tinh
Các công nghệ Mobile TV sử dụng truyền dẫn số mặt đất và vệ tinh bao
gồm: DVB-H, DMB-T, ISDB-T, DA B-IP, MediaFLO, DVB-SH, DMB-S, ISDB-S,
ATSC-M/H. Các công nghệ này được tổng kết ngắn gọn như dưới đây.
- Công nghệ quảng bá đa phương tiện số cho các máy cầm tay (D VB-H)
[1,2,4,5,8]: Công nghệ này dựa trên tiêu chuẩn quảng bá đa phương tiện số mặt đất
(DVB-T) được tối ưu cho các máy đầu cuối cầm tay, sử dụng chung phổ tần của
DVB-T. DVB-H sử dụng các khuôn dạng mã hoá nguồn MPEG-4 hoặc Windows
Media 9 đối với video và mã hoá nguồn AA C . DVB-H sử dụng dòng truyền tải IP
qua M PEG-2 TS; và sử dụng kỹ thuật cắt lát thời gian (time-slicing) để giảm công
suất tiêu thụ và hỗ trợ chuyển giao giữa các tế bào. DVB-H sử dụng điều chế
COFDM với các sơ đồ điều chế khác nhau như QPSK, 16 QA M hoặc 64 QAM để
khắc phục các ảnh hưởng của nhiễu đa đường đối với máy thu di động. Hệ thống
DVB-H cũng hỗ trợ chế độ điều chế OFDM 4K phù hợp với môi trường di động
bên cạnh các chế độ 2K và 8K. DVB-H được thiết kế hoạt động ở các băng thông 5
MHz, 6 MHz, 7 MHz và 8 MHz, đây là các băng thông được sử dụng cho các dịch
vụ quảng bá trên thế giới. Kỹ thuật mã hoá kênh được sử dụng ở DVB-H là mã
xoắn kết hợp với mã Reed Solomon. DVB-H hoạt động ở băng tần UH F hoặc băng
tần L (ở Mỹ). DVB-H được sử dụng ở Châu Âu, M ỹ, và một số nước Châu Á.
- Công nghệ quảng bá đa phương tiện số phát qua mặt đất (DMB-T)
[1,2,14,15]: Công nghệ này phát triển từ hệ thống Eureka-147 cho quảng bá âm
thanh số (DAB) để cung cấp các dịch vụ đa phương tiện gồm video, âm thanh và
các dịch vụ tương tác cho các máy cầm tay di động. DMB là sự mở rộng của tiêu
chuẩn DA B nhờ thêm vào lớp sửa lỗi nhằm truyền các dịch vụ đa phương tiện.
DMB sử dụng dải phổ đã được phân bổ cho DA B, nên việc triển khai DMB trở nên
dễ dàng và đã thành công. Có hai phiên bản DMB là DMB-T (quảng bá đa phương
tiện số mặt đất) và DM B-S (quảng bá đa phương tiện số qua vệ tinh). Đối với
truyền dẫn số mặt đất DMB-T, băng tần VHF và U HF được sử dụng. DMB-T chia
khe VHF 6 MHz thành ba sóng mang, mỗi sóng mang có băng thông 1.54 MHz, có
thể truyền tải bốn kênh video và các kênh âm thanh phụ. DM B-T sử dụng kỹ thuật
mã hoá nguồn H.264 M PEG-4 đối với video và mã hoá nguồn BSAC, MP2 đối với
âm thanh; dòng truyền tải là M PEG-2 TS; ghép kênh theo tần số FDM, sử dụng
điều chế DQ PSK; mã hoá kênh được sử dụng là mã xoắn kết hợp với mã Reed
Solomon. DMB-T không hỗ trợ kỹ thuật tiết kiệm nguồn nên đây là vấn đề quan
trọng đối với các máy di động cầm tay có công suất pin thấp. DMB đã được triển
khai đầu tiên ở Hàn Quốc và các nước Châu Âu như Đ ức, Anh.
- Công nghệ quảng bá đa phương tiện số phát qua vệ tinh (DMB-S)
[1,2,14,15]: DM B-S là phiên bản ghép lai của công nghệ quảng bá đa phương tiện
số. DMB-S sử dụng băng tần L (1452-1492 MHz) và băng tần S (2170-2200 MHz)
của IMT và phân phát khoảng 18 kênh truyền hình ở tốc độ 128 Kbps ở băng thông
15 MHz. DMB-S tích hợp một vệ tinh địa tĩnh công suất cao (M BSat 1). Để đảm
bảo thu được tín hiệu trong nhà, các toà nhà được trang bị thêm các bộ lặp băng tần
S để phát lặp tín hiệu mặt đất. Hàn Quốc là nước đầu tiên khai trương dịch vụ
DMB-S vào ngày 1 tháng 5 năm 2005. Nhà cung cấp dịch vụ là TU Media, chi
nhánh của SK Telecom. Các kênh Video DMB-S có khoảng cỡ 20 kênh bao gồm
các kênh thể thao, phim ảnh, hoạt hình, kịch và các chương trình giáo dục (ví dụ
như CNN, National Geographic Channels, BBC...), các kênh âm thanh có khoảng
13 kênh bao gồm các kênh phát bằng tiếng anh. Chất lượng âm thanh đạt xấp xỉ
chất lượng CD với mã hoá AA C ở tốc độ 128 Kbps. Hai kênh trả cước phí khi xem
(PPV) là phim ảnh và kênh dành cho người lớn.
- Công nghệ quảng bá số các dịch vụ tích hợp-mặt đất (ISDB-T) [1,2] :
Khuyến nghị ITU-R BT.1833 mô tả hai hệ thống ISDB-T riêng biệt: Hệ thống thứ
nhất dựa trên công nghệ ISDB-T-một segment (sử dụng 1/13 băng thông của truyền
dẫn số mặt đất), hoạt động ở băng thông 429 kHz, 500 kHz, hoặc 571 kHz; hệ thống
thứ hai là hệ thống kết hợp mặt đất/vệ tinh, hoạt động ở băng thông 25 MHz. ISDB-
T sử dụng kỹ thuật mã hoá nguồn H.264 MPEG-4/AVC đối với video, mã hoá
nguồn MPEG-2 AAC đối với âm thanh; dòng truyền tải là MPEG-2 TS; sử dụng
điều chế COFDM với các sơ đồ điều chế như Q PSK, DQPSK, 16 QAM và 64
QAM . Hơn nữa, hệ thống ISDB-T hỗ trợ chế độ điều chế OFDM 4K phù hợp với
môi trường di động bên cạnh các chế độ 2K và 8K. ISDB-T được sử dụng ở Nhật
Bản, Brazil và Peru.
- Công nghệ chỉ liên kết hướng đi đa phương tiện (MediaFLO) [1,2,7,16]:
Đây là một hệ thống đầu cuối-tới-đầu cuối cho phép phát quảng bá các dòng truyền
tải video, âm thanh, các file đa phương tiện số… tới máy thu di động. Hệ thống này
được phát triển bởi hãng Qualcomm, được thiết kế để tối ưu vùng phủ, dung lượng
và công suất tiêu thụ của máy thu. Hệ thống hoạt động ở băng tần 700 MHz (ở Mỹ),
băng tần UH F hoặc băng tần L (MediaFLO có thể hoạt động ở tần số bất kì từ 300
MHz – 1.5 GHz, và được thiết kế tối ưu sử dụng trong băng UH F ; với các băng
thông 5 MHz, 6 MHz, 7 M Hz hoặc 8 MHz. Nhờ sử dụng máy phát có công suất cao
nên M ediaFLO có thể p hát tới khoảng cách xa tới 50 km. Chỉ cần ba hoặc bốn máy
phát FLO có thể phủ sóng toàn bộ một vùng thành phố. M ediaFLO được triển khai
ở Mỹ và được thử nghiệm ở Đức và Anh.
- Công nghệ các hệ thống truyền hình tiến tiến- tới-máy di động/cầm tay
(ATSC-M /H) [1,2]: ATSC-M/H (Uỷ ban các hệ thống truyền hình tiên tiến - tới –
máy di động/cầm tay) là một tiêu chuẩn được sử dụng ở Mỹ để phát quảng bá các
kênh truyền hình tới các thiết bị thu di động. ATSC-M /H là sự mở rộng của tiêu
chuẩn ATSC A/53. ATSC-M/H sử dụng các sơ đồ mã hoá kênh mới để chống lại
ảnh hưởng của dịch tần Doppler và hiệu ứng truyền dẫn đa đường. ATSC-M/H sử
dụng mã hoá bên ngoài là mã Reed Solomon và mã xoắn. Khả năng sửa lỗi được cải
thiện bằng cách sử dụng kỹ thuật kiểm tra tổng CRC và kỹ thuật giải mã tẩy. Một
bộ mã hoá lưới cũng được sử dụng nhằm tương thích với các máy thu A/53. ATSC-
M/H là một dịch vụ đối với các máy thu truyền hình di động và sử dụng một phần
tốc độ 19.39 Mbit/s của dòng truyền tải ATSC 8VSB. Tiêu chuẩn ATSC-M /H định
nghĩa một cấu trúc dòng truyền tải cố định, dựa trên các khung M/H, các khung này
thiết lập vị trí nội dung M/H trong các khung VSB và cho phép dễ dàng xử lý bởi
máy thu M/H. Dữ liệu được bảo vệ bởi mã sửa lỗi hướng đi FEC, chẳng hạn như
các mã xoắn và ghép xen. Để cải thiện chất lượng tín hiệu ở máy thu, ATSC-M /H
sử dụng các chuỗi san bằng kênh cho phép sự ước lượng kênh ở máy thu. ATSC-
M/H sử dụng kỹ thuật cắt lát theo thời gian để tiết kiệm pin cho máy thu, kỹ thuật
này dựa trên việc truyền dẫn ghép kênh phân chia theo thời gian các dịch vụ khác
nhau.
Các công nghệ Mobile TV khác đang trong giai đoạn tiêu chuẩn hoá hoặc
được triển khai gồm:
- Công nghệ Mobile TV quảng bá âm thanh số dựa trên nền IP (DAB-IP)
[1,12,13]: Công nghệ này là một phiên bản của tiêu chuẩn ETSI DA B và đã được
tiêu chuẩn hoá bởi ETSI vào giữa năm 2006. DAB-IP có thể cung cấp các dịch vụ
Mobile TV với các khe phổ tần 1.5 M Hz khả dụng cho công nghệ DAB [1]. Tiêu
chuẩn DA B-IP sử dụng lớp IP để truyền tải các dòng dữ liệu âm thanh, video và IP.
Nội dung được phân phát bởi chế độ IP multicast. DA B-IP sử dụng nhiều kỹ thuật
mã hoá nguồn đối với video và âm thanh (ví dụ mã hoá nguồn H.264 hoặc
Windows Media 9 đối với video và AAC+ hoặc BSAC đối với âm thanh). Lớp IP
có thể được truyền tải qua nhiều loại mạng quảng bá và unicast như DA B, DVB-H
hoặc mạng 3G (UM TS). Công nghệ này có số lượng kênh hạn chế so với công nghệ
DVB-H hoặc MediaFLO và đã được triển khai thương mại ở Anh vào năm 2006.
- Công nghệ quảng bá đa phương tiện di động ở Trung Quốc (CMMB) [1]:
Đây là một hệ thống quảng bá vô tuyến mặt đất/vệ tinh. Hệ thống này hoạt động ở
băng thông 2 MHz hoặc 8 MHz, sử dụng điều chế OFDM , và hỗ trợ các dịch vụ
tương tác.
1.7 Mobile TV sử dụng công nghệ vô tuyến băng rộng
Các mạng vô tuyến đã và đang được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu. Các
mạng này được xem là có tiềm năng lớn để truyền tải các dịch vụ đa phương tiện và
các dịch vụ truyền hình di động.
1.7.1 Mobile TV sử dụng công nghệ WiFi
Các mạng WiFi (802.11x) đã trở nên phổ biến trong việc cung cấp dịch vụ
truy nhập Internet. Các mạng WiFi ngày nay đang được sử dụng nhiều trong các
khu vực công cộng như các toà nhà, quán càfê, bệnh viện, khách sạn, sân
bay…WiFi cho phép truyền dẫn ở tốc độ cao hơn so với các mạng di động. Tiêu
chuẩn WiFi 802.11b có thể cung cấp tốc độ lên tới 11 Mbps, trong khi đó tiêu chuẩn
WiFi 802.11g tương thích với 802.11b có thể cung cấp tốc độ lên tới 54 Mbps. Do
truyền dẫn dữ liệu ở tốc độ cao, WiFi được xem là một phương thức để truyền dẫn
tín hiệu truyền hình di động. Với WiFi người sử dụng di động có thể tải các nội
dung truyền hình qua Internet sử dụng máy di động cầm tay. Nội dung có thể được
xem không trực tuyến sau đó. WiFi có chi phí hiệu quả vì không yêu cầu giấy phép
mạng, và tương đối rẻ để triển khai. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại các vấn đề cần giải
quyết như chuyển vùng giữa mạng WiFi và các mạng tế bào, vấn đề tính cước…
1.7.2 Mobile TV sử dụng công nghệ WiMAX
Công nghệ WiM AX là công nghệ cho phép truyền dẫn các dịch vụ dữ liệu
trong một vùng phủ rộng hơn so với WiFi. WiMAX có thể cung cấp dung lượng
cao hơn và do đó đắt hơn so với WiFi. WiM AX rất phù hợp để truyền dẫn video và
nội dung đa phương tiện. WiM AX có thể cung cấp dịch vụ truy nhập Internet vô
tuyến tốc độ cao khi máy thu đang chuyển động thậm chí lên tới tốc độ 60 km/h [1].
Các ứng dụng điển hình của WiM AX là âm thanh và video theo yêu cầu. Với
WiMAX , người sử dụng di động có thể tải về hoặc xem dòng video trực tiếp khi
đang di chuyển trên tàu, ôtô…WiMAX hỗ trợ sự chuyển vùng giữa mạng WiM AX
và các mạng di động, các máy cầm tay di động có thể chuyển từ mạng di động tới
các kết nối vô tuyến. Tuy nhiên, nhược điểm của WiM AX là việc sử dụng dải phổ
tần số cần được cấp phép, không giống như WiFi. WiMAX có thể cung cấp tốc độ
cao hơn 20 Mbps và vùng phủ rộng toàn thành phố với một số ít máy phát. WiMAX
được đặc tả bởi hai tiêu chuẩn: WiMAX truy nhập vô tuyến cố định (IEEE 802.16d)
có thể cung cấp tốc độ dữ liệu trong khoảng 70-100 M bps. IEEE 802.16d sử dụng
công nghệ điều chế OFDM đa sóng mang (256 sóng mang) và kỹ thuật truy nhập
OFDM A với 2048 sóng mang để khắc phục các ảnh hưởng của fading đa đường và
fading chọn lọc theo tần số. WiMAX truy nhập vô tuyến cố định đã được triển khai
ở Châu Âu, Mỹ, Singapore, Hồng Kông và nhiều nước khác. Trong khi đó WiMAX
di động (IEEE 802.16e) sử dụng điều chế OFDMA có thể cung cấp tốc độ dữ liệu
lên tới 15 Mbps trong phạm vi 10 km, cho phép máy cầm tay di chuyển ở tốc độ lên
tới 150 km/h [1]. WiMAX di động là công nghệ tiềm năng cung cấp các dịch vụ đa
phương tiện với các lý do sau [1]:
- Đa số các công nghệ phân phát đa p hương tiện di động dựa trên chế độ IP
unicast hoặc multicast, ví dụ như các dịch vụ M BM S multicast; DVB-H với IP data
casting; DAB-IP…
- Các công nghệ WiMAX cung cấp môi trường để phân phát dịch vụ đa
phương tiện trên nền IP, và được xem là công nghệ tiềm năng khi phổ tần của các
mạng 3G và DVB-H hạn hẹp.
- Các máy điện thoại di động đã bắt đầu cung cấp các giao diện WiFi
(802.16b), WiMAX hoặc WiBro (tiêu chuẩn vô tuyến băng rộng được phát triển bởi
Viện nghiên cứu điện tử và viễn thông Hàn Quốc ETRI).
- Các ứng dụng khả dụng có thể cung cấp dịch vụ Mobile TV trên nền
WiMAX hoặc vô tuyến băng rộng với sự tương thích toàn cầu.
Ưu điểm của WiMAX và WiFi là chúng đều cung cấp chế độ unicast điểm-
tới-điểm cũng như phát nội dung quảng bá trong một mạng. Điều này làm cho
WiMAX và WiFi phù hợp để cung cấp các dịch vụ quảng bá truyền hình di động,
truyền tải dòng video và video theo yêu cầu với sự tương tác đối với người sử dụng
di động.
1.8 Kết luận chương
Trong chương này, tác giả muốn giới thiệu tổng quan về truyền hình di động
và mô tả sơ lược mô hình thu phát truyền hình di động, cũng như phương pháp
chính phát tín hiệu truyền hình di động bên cạnh đó nêu những ưu, nhược điểm từng
phương pháp và phân loại các công nghệ truyền hình di động. Thế nào là chế độ
broadcast, multicast và unicast, thế nào là công nghệ truyền hình di động sử dụng
mạng tế bào và truyền hình di động sử dụng truyền dẫn số mặt đất, vệ tinh, mobile
tv sử dụng công nghệ vô tuyến băng rộng như: công nghệ wifi và wimax nhằm giúp
cho đọc giả khái quát quá trình phát triển, thấy sự đa dạng của các công nghệ truyền
hình di động trên thế giới.
Chương 2: NGHIÊN CỨU KỸ THUẬT
STREAMING VÀ MOB ILE MULTIMEDIA
2.1 Định nghĩa về Mobile Multimedia
Mobile M ultimedia (đa phương tiện di động) bao gồm việc tạo ra nội dung
được thiết kế cho các mạng di động, truyền dẫn và phân phát nội dung này sử dụng
các giao thức tiêu chuẩn [1]. Nội dung có thể có nhiều dạng như: đồ hoạ, hình ảnh,
âm thanh và video trực tiếp, các bản tin đa phương tiện, các trò chơi, VoIP, truyền
tải dòng âm thanh và video… Nội dung đa phương tiện trong môi trường di động
cần được thiết kế phù hợp với việc sử dụng được ở máy thu đầu cuối di động (phù
hợp với băng thông truyền dẫn; môi trường truyền dẫn di động; công suất pin tiêu
thụ và khả năng xử lý, kích thước màn hình, bộ nhớ của máy thu di động; các công
nghệ truyền dẫn như G SM, GPRS, 3G-GSM , CDM A, 1xEV-DO ). Điều này được
thực hiện bằng cách định nghĩa các profile của các file đa phương tiện, các giao
thức, hoặc các ứng dụng trở thành các tiêu chuẩn cho Mobile Multimedia. Hình 2.1
mô tả các phần tử của Mobile Multimedia.
Hình 2.1: Các phần tử của Mobile Multimedia.
2.2 Streaming
Streaming (truyền tải dòng) nội dung như âm thanh, video đã trở thành công
nghệ phổ biến cùng với sự phát triển của Internet vào những năm 1990. Một
phương pháp truyền tải dữ liệu video đó là người sử dụng sẽ tải về các file âm thanh
và video và bắt đầu xem chương trình khi đã tải xong, phương pháp này có nhược
điểm là do kích thước của các file có thể lớn (ví dụ 20 Mbytes) nên thời gian chờ để
tải về là rất dài. Ở chế độ streaming dữ liệu âm thanh và video được phân phát tới
người sử dụng di động hoặc các thiết bị khác ở cùng tốc độ trung bình giống như
khi dữ liệu này được xem. Ví dụ, với kết nối 128 kbps, dữ liệu video ở tốc độ 64-
100 kbps có thể được truyền tải dòng liên tục, cho phép người sử dụng truy nhập
trực tiếp tới nội dung đa phương tiện. Streaming thực hiện được nhờ sử dụng các bộ
mã hoá có tốc độ nén cao cùng với công nghệ truyền tải dòng nội dung bằng cách
biến đổi khuôn dạng file dữ liệu lưu giữ thành khuôn dạng gói phù hợp với với
truyền tải qua mạng Internet.
Có hai phương pháp để truyền tải dòng. Dữ liệu âm thanh, video, các trang
Web có thể được cung cấp bằng cách sử dụng giao thức HTTP. Phương pháp này
được gọi là truyền tải dòng tiên tiến (progressive streaming), và thực hiện được khi
kênh phân phát có khả năng phân phát dữ liệu HTTP ở các tốc độ bit yêu cầu.
Phương pháp thực tế hơn đó là phương pháp truyền tải dòng thời gian thực (real-
time streaming), phương pháp này yêu cầu sử dụng các giao thức đặc biệt (giao thức
thời gian thực RTP, các giao thức multicasting…) và các server đặc biệt (Apple
QuickTime server, RealTime server, Windows Media server).
Streaming bao gồm các bước sau:
Bắt giữ và mã hoá nội dung
Biến đổi file thành khuôn dạng streaming
Stream serving
Truyền tải dòng qua các mạng IP
Chạy chương trình trên media player
2.2.1 Quá trình bắt giữ và mã hoá nội dung
Quá trình bắt giữ nội dung bao gồm việc tiếp nhận dòng âm thanh và video ở
khuôn dạng tương thích với card bắt giữ video của máy tính PC hoặc server. Khuôn
dạng có thể là A VI hoặc các ứng dụng chuyên nghiệp, dạng SDI. Card bắt giữ gồm
các bộ mã hoá phần cứng có thể tiếp nhận nội dung ở khuôn dạng YC, RGB… Sau
khi bắt giữ, các file được lưu giữ trên đĩa ví dụ ở khuôn dạng .avi trước khi nén. Sau
khi nén các file được lưu giữ ở khuôn dạng nén phù hợp như .mpg, .mp4… phụ
thuộc vào bộ mã hoá được sử dụng.
2.2.2 Biến đổi file thành khuôn dạng streaming
Để các file được truyền tải dòng streaming theo thời gian thực, các file này
cần có thông tin điều khiển thời gian, thông tin này được sử dụng bởi server để quản
lý tốc độ phát. Do đó các file được biến đổi thành khuôn dạng streaming bằng cách
thêm vào thông tin điều khiển thời gian và metadata giúp cho việc phân phát có thứ
tự dữ liệu streaming đối với các ứng dụng. Ví dụ QuickTime sử dụng một tính năng
gọi là Hint Tracks để cung cấp thông tin điều khiển nhằm xác định thông tin âm
thanh và video đã được streaming.
2.2.3 Stream serving
Stream serving là một ứng dụng đặc biệt được sử dụng ở chế độ client server
để phát chuỗi liên tục các gói qua mạng IP đến máy client. Ứng dụng streaming sử
dụng các giao thức trao đổi file thời gian thực đa phương tiện được phát triển bởi
IETF. Các giao thức này bao gồm: giao thức thời gian thực RTP, giao thức điều
khiển thời gian thực RTCP và giao thức truyền tải dòng thời gian thực (RTSP).
Quá trình streaming bao gồm hai kênh riêng rẽ được thiết lập cho phiên
streaming. Kênh dữ liệu cung cấp việc truyền tải dữ liệu âm thanh và video, trong
khi đó kênh điều khiển cung cấp phản hồi từ streaming client (ví dụ như media
player) tới server. Dữ liệu âm thanh và video trong quá trình streaming được điều
khiển bởi giao thức RTP, giao thức này sử dụng giao thức UDP và IP làm các lớp
bên dưới. Do đó dữ liệu được phân phát theo chuỗi datagram mà không cần xác
nhận. Điều này tạo thành kênh dữ liệu trong quá trình streaming.
Hình 2.2: Giá giao thức streaming.
Client cung cấp thông tin như số lượng gói thu được và chất lượng kênh qua
kênh RTCP. Server dựa trên thông tin thu được sẽ biết tình trạng lỗi và tắc nghẽn
của mạng và tốc độ mà client thực sự thu được các gói. Nhờ đó server có thể thực
hiện phân phát gói ở tốc độ chính xác. Ví dụ, dựa trên thông tin phản hồi từ client,
server có thể chọn một trong các tốc độ bit truyền tải dòng khả dụng (chẳng hạn 64,
128, 256 kbps) hoặc chọn tốc độ khung thấp hơn để đảm bảo tốc độ dữ liệu truyền
tải không vượt quá khả năng của kênh IP. Kênh điều khiển sử dụng giao thức
RTSP, giao thức này hoạt động trên nền giao thức TCP và IP. RTSP do đó điều
khiển việc phân phát nội dung streaming tới client qua mạng IP. RTSP hỗ trợ các
chức năng điều khiển như xem lại (playback), xem (play), tua đi (forward), tua lại
(reverse) và dừng tạm thời (pause), kết hợp với media player của client sẽ cung cấp
cho người sử dụng đầy đủ chức năng điều khiển trong quá trình xem lại qua truyền
tải dòng streaming.
2.2.4 Streaming serving và quản lý băng thông
Streaming server và media client (thực hiện thiết lập kết nối đến server để
truyền tải dòng) hoạt động ở chế độ bắt tay như mô tả trên Hình 2.3.
`
Hình 2.3: Stream serving.
Dòng media được gửi theo các khối dữ liệu, các khối này được biến đổi
thành các gói RTP. Mỗi gói RTP bao gồm phần tiêu đề và dữ liệu. Tiêu đề có phần
mô tả dòng truyền tải, dấu thời gian, và số thứ tự của gói dữ liệu. Thông tin này rất
cần thiết trong việc ghép lại các gói theo thứ tự chính xác ở máy thu đầu cuối. Giao
thức RTP duy trì tốc độ phân phát dữ liệu đã được cố định và được thoả thuận qua
kết nối UDP/IP, trong khi đó giao thức RTSP hỗ trợ sự tương tác client với các
chức năng như xem và dừng tạm thời. Khi một kết nối được thiết lập, RTSP được
sử dụng để tạo kết nối ở tốc độ bit cao nhất mà mạng IP hỗ trợ (có thể gồm các
đường liên kết vô tuyến hoặc các mạng GSM/GPRS hoặc 3G, CDM A). Các gói
truyền tải (âm thanh và video) được xử lý liên tục khi chúng tới media player.
Client cần thực hiện lưu đệm dữ liệu vì tốc độ bit truyền dẫn thay đổi. Nếu tốc độ
dữ liệu thấp hoặc tỷ lệ lỗi cao do điều kiện đường liên kết thì client sẽ gửi tín hiệu
tới server yêu cầu thực hiện chuyển mạch sang truyền tải dòng thông minh hoặc đo
tốc độ khung bị rớt. Quá trình này tạo thành kết nối unicast. Đối với mỗi client (ví
dụ như máy di động hoặc media player), có một số dòng truyền tải (kênh dữ liệu
riêng rẽ và kênh điều khiển riêng rẽ) được thiết lập để thực hiện quá trình streaming
thành công. Tuy nhiên dạng kết nối này không lý tưởng khi có một số lượng lớn
người sử dụng muốn truy nhập cùng một nội dung, vì khi đó số dòng truyền tải và
dữ liệu được cung cấp tăng lên nhanh chóng.
Chế độ truyền dẫn khác là chế độ multicast, trong đó nhiều người sử dụng
cùng thu được nội dung, khi đó dữ liệu được phát multicast. Các bộ định tuyến
trong mạng thu được dòng multicast thực hiện phát lặp dữ liệu tới các đường liên
kết khác trong mạng. Thay vì hàng trăm nghìn phiên unicast, mỗi đường liên kết
truyền tải chỉ một dòng nội dung multicast. Phương pháp này có nhiều ưu điểm, tuy
nhiên các client không có cơ chế điều khiển để yêu cầu server thay đổi tốc độ bit
truyền dẫn khi xảy ra lỗi hoặc tắc nghẽn mạng…
Với M PEG-4 có cơ chế khác để cung cấp tốc độ bit cao hơn tới các client khi
mạng có băng thông cao hơn. Server truyền tải dòng MPEG-4 sẽ phát dòng cơ sở có
độ phân dải thấp và một số dòng phụ. Client thu dòng cơ sở và các dòng phụ này
khi băng thông khả dụng làm cho chất lượng hình ảnh tốt hơn.
2.3 Chương trình xem và server streaming
2.3.1 Khuôn dạng Media của Microsoft Windows
Windows Media là họ các bộ mã hoá và bộ giải mã cũng như server và
player truyền tải dòng, gồm các thành phần sau:
Họ các bộ mã hoá Windows Media
Windows Media Service (server)
Các bộ mã hoá/giải mã âm thanh và Video Windows Media
Các bộ mã hoá có thể lưu giữ các file video ở các khuôn dạng như .avi và tạo
ra các file ở khuôn dạng . wmv hoặc . asf. Các bộ mã hoá/giải mã gồm hai loại: dựa
trên dạng Windows Media và M PEG-4. Chương trình Windows Media là một phần
của hệ điều hành Windows. Server của Windows Media truyền tải dòng các file ở
khuôn dạng . wmv (khuôn dạng Windows Media video) hoặc . asf (khuôn dạng
streaming tiên tiến).
Hình 2.4: Xử lý dữ liệu đã được lưu giữ ở bộ đệm trong chế độ streaming.
Phiên bản 9 của Windows Media cung cấp các tính năng tiên tiến như truyền
tải dòng nhanh và lập trình nội dung động. Truyền tải dòng nhanh cung cấp truyền
tải dòng ngay tức khắc, tức là không cần lưu giữ đệm trước khi bật chương trình và
các tính năng “luôn sẵn sàng” phù hợp với kết nối băng rộng. Điều này đảm bảo
không có sự ngắt quãng trong quá trình xem chương trình. Truyền tải dòng
Windows Media là công nghệ bản quyền và không dựa trên giao thức thời gian thực
RTP, giao thức truyền tải dòng thời gian thực RTSP và giao thức mô tả phiên SDP.
Multicasting được hỗ trợ bởi IGM Pv3, Windows Media hỗ trợ Ipv6.
Hình 2.5: Media Player.
2.3.2 Apple QuickTime
QuickTime của Apple là tập các các công cụ và player để điều khiển dữ liệu
đa phương tiện và truyền tải dòng streaming. Các thành phần của QuickTime gồm:
Một trình duyệt, hoặc player đa phương tiện QuickTime và QuickTime streaming
server. QuickTime sử dụng giao thức RTP và RTSP và tiêu chuẩn nén là M PEG-4.
2.4 Rich Media-Ngôn ngữ đa phương tiện đồng bộ
Rất nhiều ứng dụng yêu cầu hiển thị nhiều hình ảnh, đồ hoạ hoặc file âm
thanh; các file này cần được đồng bộ và biểu diễn ở dạng media tích hợp. Ví dụ như
âm thanh được kết hợp với hình ảnh, thoại được kết hợp với phần trình bày. Ngôn
ngữ tích hợp đa phương tiện đồng bộ (SMIL) là một kỹ thuật thực hiện việc đồng
bộ trên. SMIL được hỗ trợ bởi RealM edia và Apple Quick Time. Cũng có thể bổ
sung chức năng đồng bộ media vào ngôn ngữ HTML bằng cách sử dụng ngôn ngữ
XML cho phép mô tả các tham số đồng bộ truyền tải dòng video, hình ảnh và văn
bản. SMIL là một tiêu chuẩn cho phép viết các ứng dụng đa phương tiện tương tác
bao gồm các đối tượng đa phương tiện và siêu liên kết hyperlink, cho phép điều
khiển đầy đủ việc hiển thị trên màn hình. SMIL có các tham số xác định vị trí và
thứ tự hiển thị theo dạng tuần tự và quy định dạng trình bày nội dung, như văn bản,
video và đồ hoạ. Ví dụ Hình 2.6 là một mô tả SMIL, truyền tải dòng hai video clip,
theo sau bởi một bản tin thời tiết bao gồm video, một cửa sổ dạng văn bản và một
đồng hồ dạng văn bản.
Hình 2.6: Truyền tải dòng nội dung dựa trên SMIL.
2.5 Mobile Multimedia
2.5.1 Các phần tử của Mobile Multimedia
Các phần tử của Mobile M ultimedia gồm:
Các file đa phương tiện;
Các thủ tục thiết lập và giải phóng cuộc gọi để phân phát dữ liệu đa
phương tiện;
Các giao thức truyền tải dữ liệu đa phương tiện;
Các player đa phương tiện và các client đầu cuối.
Ví dụ một ứng dụng có thể là một file Windows M edia được truyền tải dòng
tới máy điện thoại di động bằng cách sử dụng giao thức 3G-PSS qua mạng 3G. File
này yêu cầu chương trình Windows Media player để chạy. M obile TV là một ứng
dụng khác, sử dụng giao thức truyền tải dòng chuyển mạch gói 3GPP và các khuôn
dạng file được nén tốc độ cao được định nghĩa bởi 3GPP, cho phép dòng truyền tải
liên tục được phân phát, giải mã và hiển thị trên máy thu di động. M ột số ứng dụng
cho M obile Multimedia được mô tả ở Hình 2.7.
Hình 2.7: Các ứng dụng của Mobile Multimedia.
MMS là giao thức mở rộng của SMS và được định nghĩa là một tiêu chuẩn
mới. Các bản tin MMS có nhiều kiểu nội dung như văn bản, hình ảnh (.jpg hoặc
.gif), âm thanh, video. Thông tin có thể được biểu diễn đồng bộ bởi ngôn ngữ
SMIL.
Dịch vụ tải về Video clip là dịch vụ thường được sử dụng trong các mạng di
động. Người sử dụng gửi yêu cầu về clip qua tin nhắn SMS hoặc sử dụng kết nối
WAP. Nội dung được thu bởi giao thức M MS hoặc tải về sử dụng giao thức WAP.
Máy thu di động khi đó cần có chương trình player phù hợp như Real hoặc
Windows Media để chạy nội dung đã tải về.
Video streaming có thể được sử dụng để thu nội dung trực tiếp (như các trận
bóng đá, lưu lượng giao thông…). Đây là một dịch vụ theo yêu cầu, đã được tiêu
chuẩn hoá sử dụng các giao thức PSS và phát ở chế độ unicast từ server tới người sử
dụng.
Video calling được thực hiện nếu cả chủ gọi và bị gọi đều sử dụng điện thoại
có camera. Các tiêu chuẩn gọi video đã được hình thành bởi các tiêu chuẩn 3G-
324M, sử dụng kết nối chuyển mạch kênh đảm bảo một tốc độ bit không đổi. Dịch
vụ gọi video có thể mở rộng thành dịch vụ hội nghị truyền hình.
Hình 2.8: Các dịch vụ Mobile Multimedia phổ biến.
2.5.2 Sự tiêu chuẩn hoá Multimedia đối với các mạng di động
Các nhà khai thác dịch vụ di động, các nhà chế tạo thiết bị và các nhà bán
hàng thiết bị di động cũng như các tổ chức tiêu chuẩn đã nỗ lực thực hiện tiêu chuẩn
hoá các khuôn dạng file, các giao thức, các thủ tục thiết lập cuộc gọi và các ứng
dụng đối với các mạng di động. Tiêu chuẩn đã được thực hiện bởi các dự án hiệp
hội 3G (3GPP). 3GPP là một dự án gồm một số tổ chức tiêu chuẩn nhằm thiết lập
các tiêu chuẩn cho các dịch vụ di động tế bào thế hệ ba. Trên thực tế có hai diễn đàn
thực hiện các nỗ lực tiêu chuẩn hoá này là 3GPP (khởi đầu từ các nhà khai thác
mạng GSM, GPRS, EDGE, và 3G -WCDMA) và 3GPP2 (các nhà khai thác mạng
CDMA2000, CDMA1X, CDMA3X…). 3GPP hình thành năm 1998 và có mục tiêu
là cung cấp các đặc tả kỹ thuật ứng dụng toàn cầu cho hệ thống di động thế hệ ba
khi phát triển từ các công nghệ 2G và 2.5G. Các phiên bản mới nhất của 3GPP và
3GPP2 trình bày bức tranh hài hoà về các khuôn dạng file, các giao thức, các thủ
tục thiết lập cuộc gọi và các khả năng thiết bị người sử dụng. Các phiên bản 3GPP
bao gồm các tiêu chuẩn mã hoá và giải mã âm thanh, đồ hoạ, video, dữ liệu, các thủ
tục điều khiển cuộc gọi, máy di động, và các thiết bị người sử dụng.
2.6 Kết luận chương
Nội dung trong chương này tác giả chủ yếu nghiên cứu kỹ thuật streaming và
phương pháp truyền tải dòng, quá trình streaming như: bắt giữ và mã hóa nội dung,
biến đổi file thành khuôn dạng streaming, phân tích quá trình streaming. Ứng dụng
streaming sử dụng các giao thức trao đổi file thời gian thực đa phương tiện. Phân
tích các giao thức thời gian thực, giao thức điều khiển thời gian thực và giao thức
truyền tải dòng thời gian thực. Giới thiệu chương trình xem và server streaming, tìm
hiểu sơ lược về mobile multimedia như các phần tử của mobile multimedia, sự tiêu
chuẩn hóa multimedia và các ứng dụng của Mobile Multimedia.
Chương 3: CÁC CÔNG NGHỆ TRUYỀN HÌNH DI ĐỘNG
CƠ BẢN
3.1 Mobile TV sử dụng mạng 3G
3.1.1 Giới thiệu chung
Các mạng 2.5G và 2.75G như GPRS, CDMA 1xRTT và EDG E được phát
triển bởi các nhà khai thác mạng 2G để có thể cung cấp các ứng dụng dữ liệu và
truyền tải dòng âm thanh, video.... Công nghệ 3G-UM TS có thể cung cấp các kết
nối chuyển mạch kênh lên tới tốc độ hơn 384 kbps và cung cấp các kết nối chuyển
mạch gói lên tới tốc độ 2 Mbps bằng cách sử dụng các sóng mang 5 MHz, cải tiến
các giao diện vô tuyến và các cấu trúc mạng lõi. Công nghệ CDMA2000 EV-DO có
thể cung cấp các dịch vụ với tốc độ từ 400-700 kbps, và có thể lên tới 2 Mbps [1].
Do khả năng cung cấp tốc độ truyền dẫn cao của các mạng di động 3G, nên
việc triển khai cung cấp tín hiệu truyền hình di động M obile TV qua các mạng 3G
là hoàn toàn khả thi. Những năm trước đây, nhiều nhà khai thác mạng tế bào đã bắt
đầu cung cấp các dịch vụ Mobile TV trên các mạng 2.5G và 3G. Các nhà khai thác
đã cung cấp các dịch vụ M obile TV trên mạng unicast 3G sử dụng công nghệ truyền
tải dòng chuyển mạch gói (PSS). Ngày nay PSS được hỗ trợ bởi các nhà sản xuất
thiết bị đầu cuối và cung cấp các dịch vụ truyền tải dòng có chất lượng chấp nhận
được. Chất lượng được cải thiện hơn nhờ sử dụng bộ mã hoá/giải mã video H.264
và sử dụng các phần mang truyền tải dòng có hỗ trợ QoS [6]. Chất lượng và dung
lượng cũng được cải thiện nhờ sử dụng công nghệ truy nhập gói đường xuống tốc
độ cao HSDPA.
Nhược điểm chính của công nghệ unicast là dung lượng mạng giảm khi có
nhiều người xem cùng chương trình truyền hình đồng thời. Khi đó, công nghệ
broadcast là công nghệ truyền tải thích hợp hơn. Dự án hiệp hội thế hệ ba 3GPP đã
hoàn thành đặc tả công nghệ dịch vụ broadcast và multicast đa phương tiện
(M BMS) ở phiên bản UMTS 6. Dự án 3GPP2 đặc tả công nghệ dịch vụ broadcast
và multicast (BCMCS) đối với CDM A2000 [10]. 3GPP M BMS và 3GPP2 BCMCS
có nhiều điểm tương đồng. Cả MBM S và BCM CS đều yêu cầu sự thay đổi nhỏ đối
với các giao thức mạng lõi và vô tuyến hiện tại. Điều này làm giảm chi phí thực
hiện ở các thiết bị đầu cuối và mạng, làm cho công nghệ quảng bá tế bào có chi phí
tương đối rẻ so với các công nghệ quảng bá khác như DVB-H, DMB (các công
nghệ này yêu cầu phần cứng máy thu mới ở thiết bị đầu cuối và đầu tư đáng kể vào
cơ sở hạ tầng mạng).
3.1.2 Các yêu cầu đối với việc truyền tải tín hiệu Mobile TV qua các mạng di
động
Để có thể truyền tải các file đa phương tiện âm thanh và video hoặc tín hiệu
truyền hình trực tiếp truyền tải dòng, các mạng di động tế bào cần đáp ứng được các
yêu cầu sau đây [1]:
- Mạng cần có các giao thức đã được tiêu chuẩn hoá và thống nhất để thiết
lập cuộc gọi, trả lời, thiết lập cuộc gọi video hoặc truyền tải dòng video. Các giao
thức này cần được tuân theo đồng nhất qua các mạng để các cuộc gọi có thể được
thiết lập giữa những người sử dụng ở các mạng khác nhau. Các giao thức được tiêu
chuẩn hoá cũng giúp các nhà sản xuất thiết bị đầu cuối cung cấp các máy di động có
thể làm việc đồng nhất qua các mạng khác nhau. Các thủ tục để thiết lập các cuộc
gọi cũng như truyền tải dòng chuyển mạch gói đã được hình thành bởi khuyến nghị
3G-324M đối với các cuộc gọi video và 3GPP-PSS đối với truyền tải dòng tương
ứng.
- Mạng phải có các tiêu chuẩn để mã hoá âm thanh và video đối với các ứng
dụng khác nhau như truyền tải dòng video và cuộc gọi video. Các giao thức sử dụng
các thuật toán nén hiệu quả cao như MPEG-4 hoặc H.264 để giảm băng thông yêu
cầu đối với âm thanh và video đã được mã hoá. Với kích thước màn hình nhỏ của
máy di động, có thể sử dụng các profile đơn giản đối với video mà không cần mã
hoá số lượng lớn các đối tượng.
- Mạng phải đáp ứng được tốc độ dữ liệu phù hợp để có thể truyền tải các
khung video liên tục không bị ngắt quãng.
3.1.3 Truyền tải dòng Mobile TV sử dụng các tiêu chuẩn 3GPP-Dịch vụ truyền
tải dòng chuyển mạch gói 3GPP (PSS )
Việc cung cấp tín hiệu Mobile TV hoặc tín hiệu video qua truyền tải dòng
streaming là một trong những phương pháp phổ biến nhất để phân phát tín hiệu
video. Tiêu chuẩn truyền tải dòng chuyển mạch gói PSS được phát triển bởi 3GPP
là tiêu chuẩn chủ yếu được sử dụng để truyền tải dòng unicast trong các mạng tế
bào. Mục tiêu chính của PSS là định nghĩa một ứng dụng cung cấp truyền tải dòng
đồng bộ các tín hiệu media như âm thanh, video và văn bản. PSS cũng định nghĩa
ứng dụng dựa trên ngôn ngữ tích hợp đa phương tiện đồng bộ (SMIL) để biểu diễn
tín hiệu đa phương tiện, kết hợp các dòng âm thanh với các hình ảnh, đồ hoạ và văn
bản đã được tải về; PSS cũng định nghĩa ứng dụng để tải về các file 3GP. Mục đích
chính của các đặc tả đối với dịch vụ truyền tải dòng được đồng nhất ở các điểm sau
[1]:
- Định nghĩa các khuôn dạng file âm thanh, video tới máy di động;
- Định nghĩa các tiêu chuẩn mã hoá;
- Định nghĩa các thủ tục thiết lập cuộc gọi đối với dịch vụ truyền tải dòng;
- Định nghĩa các giao thức đối với dịch vụ truyền tải dòng;
- Các vấn đề QoS;
- Vấn đề quản lý bản quyền số đối với các dịch vụ truyền tải dòng.
3GPP-PSS chủ yếu dựa trên các giao thức được phát triển bởi IETF. 3GPP-
PSS định nghĩa giá giao thức cho việc thiết lập và truyền tải dữ liệu sử dụng lớp IP
(Hình 3.1). Các khuôn dạng file âm thanh, video, đồ hoạ, mô tả hình ảnh và biểu
diễn thông tin cũng được mô tả. Giá giao thức 3GPP-PSS thống nhất việc thiết lập
cuộc gọi và truyền tải dữ liệu đa phương tiện qua các mạng khác nhau thậm chí khi
các mạng này có các giao diện vô tuyến khác nhau.
Các giao thức chính gồm giao thức truyền tải dòng thời gian thực (RTSP) để
điều khiển phiên, giao thức mô tả phiên (SDP) để mô tả phần biểu diễn và giao thức
truyền tải thời gian thực để truyền tải tín hiệu media. Ngoài ra giao thức HTTP
được sử dụng để tải về các mô tả biểu diễn và hình ảnh.
Hình 3.1: Giá giao thức dịch vụ truyền tải dòng gói 3GPP.
Thủ tục để thiết lập các phiên giao thức truyền tải dòng thời gian thực
(RTSP) unicast giữa một máy di động và một Streaming server được mô tả như
dưới đây. Client trên máy di động (ví dụ như HTTP client) chọn vị trí của file media
với một RTSP URL. Chuỗi sự kiện diễn ra như sau:
- Media p layer kết nối tới Streaming server và đưa ra một lệnh mô tả RTSP;
- Server đáp ứng với một bản tin giao thức mô tả phiên (SDP) đưa ra mô tả
loại media, số dòng truyền tải và băng thông yêu cầu;
- Player hoặc client media sẽ phân tích phần mô tả và đưa ra một lệnh thiết
lập RTSP SETUP đối với mỗi dòng được truyền tải;
- Sau khi các dòng được thiết lập, client sẽ đưa ra dòng lện PLAY. Khi thu
được dòng lệnh PLAY, Streaming server bắt đầu gửi các gói RTP tới client sử dụng
giao thức UDP;
- Kết nối được huỷ bởi client bằng cách đưa ra lệnh TEARDOWN.
Hình 3.2: Thiết lập phiên truyền tải dòng trong 3GPP-PSS.
PSS bao gồm một số tính năng nhằm cải thiện chất lượng truyền tải dòng qua
mạng. Một trong những tính năng này là truyền tải dòng thích nghi. Truyền tải dòng
thích nghi cho phép dịch vụ truyền tải dòng thích nghi với các điều kiện của mạng.
Điều này là cần thiết vì để xem một dòng truyền tải đa phương tiện thì mạng truyền
tải phải cung cấp được thông lượng ít nhất cao hơn tốc độ của nội dung đã được mã
hoá. Mặc dù các mạng có nỗ lực cao nhất (best-effort) có thể cung cấp tốc độ bit
yêu cầu, các mạng này không thể đảm bảo tính khả dụng của tốc độ bit yêu cầu
trong suốt thời gian tồn tại của phiên, đặc biệt là trong các đường truyền vô tuyến di
động khi mà thông lượng thay đổi do tính chất của kênh vô tuyến. Hơn nữa, các
công nghệ truy nhập vô tuyến như G PRS, WCDMA, HSDPA có các giới hạn cực
đại khác nhau về tốc độ bit khả dụng trung bình, nên sự chuyển giao giữa các hệ
thống (ví dụ từ WCDM A sang GPRS và ngược lại) sẽ có các đặc tính đường liên
kết vô tuyến khác nhau đáng kể.
Một trong những vấn đề của tiêu chuẩn PSS hiện nay là PSS không hỗ trợ sự
chuyển kênh nhanh (zapping) như truyền hình thông thường, PSS thường mất 8 đến
10 s để chuyển từ kênh này sang kênh khác. Sự chuyển kênh trong PSS yêu cầu
ngắt phiên truyền tải dòng đang tiếp diễn, thiết lập một p hiên mới và điền đầy dữ
liệu vào bộ đệm client trước khi xem trở lại. Điều này được khắc phục bằng cách
chia sẻ một phiên truyền tải dòng đối với tất cả các kênh được sử dụng trong suốt
một phiên M obile TV. Nếu một người sử dụng chọn một kênh nào đó, số của kênh
đã được chọn sẽ được thông báo tới Streaming server, Streaming server lập tức
chuyển tiếp dữ liệu media của kênh mới tới client.
Một ví dụ điển hình về truyền tải tín hiệu 3GPP Mobile TV được mô tả ở
Hình 3.3, trong đó gồm hai server:
- Broadcast server thực hiện mã hoá nội dung âm thanh, video và đóng gói
IP thành các gói IP UD P/RTP;
- Streaming server để cung cấp nhiều dòng truyền tải RTP unicast tới nhiều
máy di động cầm tay.
Hình 3.3: Truyền tải tín hiệu Mobile TV theo chuẩn 3GPP.
Các nguồn âm thanh và video có thể là các máy quay phim video hoặc máy
thu/giải mã tín hiệu từ vệ tinh hoặc nội dung video, băng video đã được lưu giữ.
Broadcast server mã hoá video sử dụng chuẩn H.263 và mã hoá âm thanh theo
chuẩn AMR, và cung cấp các gói IP truyền qua RTP/UDP. Đ ộ phân giải video của
dòng đã được mã hoá được giới hạn bởi 3GPP, ví dụ kích thước QCIF có tốc độ
khung là 15-30 fps. Mã hoá âm thanh có thể là AM R có tốc độ từ 4.7 đến 12.3 kbps
[1].
Streaming server thiết lập các kết nối unicast một-tới-một tới các máy di
động muốn thu tín hiệu video theo chế độ streaming.
Dữ liệu âm thanh, video được giải mã ở máy thu di động sử dụng chương
trình 3GPP player được tích hợp trong máy di động.
3.1.4 Tiêu chuẩn 3G-324M
Trong khi mục tiêu của các dự án 3GPP và 3GPP2 là hướng tới hệ thống
IM S (3GPP) và hệ thống miền đa phương tiện (3GPP2), cả hai hệ thống đều dựa
trên nền mạng lõi IP. Để thực hiện việc truyền tải tín hiệu video qua các mạng 3G,
hai dự án đã thống nhất sử dụng tiêu chuẩn 3G-324M. Tiêu chuẩn này cung cấp các
dịch vụ di động sử dụng băng thông của mạng 3G chưa yêu cầu cơ sở hạ tầng mạng
IP. Dịch vụ sử dụng kênh dữ liệu tốc độ 64 kbps, cung cấp giao diện có khả năng
khắc phục lỗi và có tốc độ bit không đổi cho các ứng dụng (các tốc độ bit đạt được
không phụ thuộc vào số người sử dụng kích hoạt trong mạng đối với các dịch vụ dữ
liệu).
Hình 3.4: Mạng 3G-324M.
Trong mạng di động, nội dung video dựa trên tiêu chuẩn 3G-324M được
truyền tải bởi dòng H.223 64 kbps, H.223 thực hiện ghép kênh các tín hiệu âm
thanh, video, dữ liệu và thông tin điều khiển. Phần video của H.223 dựa trên chuẩn
nén M PEG-4, phần âm thanh dựa trên chuẩn nén NB-AM R, phần điều khiển dựa
trên giao thức H.245, giao thức này thực hiện trao đổi tham số kênh và điều khiển
phiên.
3.1.5 Công nghệ MBMS và BCMCS
Với công nghệ unicast, nội dung được phân phát qua các kết nối điểm-tới-
điểm, điều này yêu cầu mạng phải xử lý nhiều yêu cầu đối với cùng nội dung một
cách tuần tự, do đó sẽ lãng phí các nguồn tài nguyên trong các mạng lõi và các
mạng truy nhập vô tuyến. Với sự phát triển của các ứng dụng yêu cầu băng thông
cao, đặc biệt với số lượng lớn các thiết bị người sử dụng muốn thu cùng một nội
dung dịch vụ, broadcast và multicast là phương thức phân phát dữ liệu hiệu quả
hơn. Các phương pháp này làm giảm lượng dữ liệu được phát trong mạng, do đó
dẫn tới giảm chi phí đáng kể.
Ví dụ sau minh hoạ ưu điểm đạt được nhờ sử dụng công nghệ broadcast để
truyền tải các dòng dịch vụ. Hình 3.5 mô tả trường hợp trong đó một số người sử
dụng dịch vụ Mobile TV đang xem ba kênh khác nhau được truyền tải dòng theo
unicast. Trong trường hợp này, mỗi người sử dụng yêu cầu một kết nối streaming
riêng rẽ tới server. Server và tải lưu lượng mạng do đó liên kết trực tiếp với số
người sử dụng. Ở trường hợp này, server streaming phải có mười kết nối streaming,
bởi vì có mười người sử dụng Mobile TV. Rõ ràng là khi số người sử dụng tăng lên,
tải server sẽ tăng và lưu lượng được tạo ra trong các mạng truy nhập vô tuyến và
các mạng lõi sẽ lớn.
Hình 3.5: Quảng bá qua các kết nối Unicast.
Hình 3.6 mô tả trường hợp tương tự khi dịch vụ Mobile TV được cung cấp
bởi công nghệ M BMS. Server phân phát chỉ một dòng stream trên mỗi kênh tới
trung tâm dịch vụ broadcast/multicast (BM-SC). Dòng dữ liệu đối với mỗi kênh
trong mạng lõi và mạng vô tuyến được phát lặp khi cần thiết. Ở trường hợp này,
server streaming chỉ cần cung cấp ba kết nối streaming đồng thời. Hơn nữa, các
nguồn tài nguyên vô tuyến trong tế bào chỉ cần được phân bổ ba kênh truyền dẫn
quảng bá song song thay vì sáu kênh truyền dẫn unicast riêng rẽ. Tải server, mạng,
và tế bào độc lập với số lượng người sử dụng.
Hình 3.6: Quảng bá qua các kết nối Multicast.
Công nghệ dịch vụ broadcast và multicast đa phương tiện (M BM S) và công
nghệ dịch vụ broadcast và multicast (BCMCS) được đặc tả bởi 3GPP và 3GPP2
tương ứng. MBMS và BCMCS bổ sung các tính năng sau vào các mạng di động
[11]:
- Tập các chức năng điều khiển dịch vụ phân phát broadcast/multicast, ở
MBM S gọi là trung tâm dịch vụ broadcast/multicast (BM-SC), còn ở BCMCS gọi
là bộ điều khiển BCMCS;
- Định tuyến broadcast/multicast các luồng dữ liệu trong mạng lõi;
- Các phần mang vô tuyến (bear) hiệu quả đối với truyền dẫn vô tuyến từ
điểm-tới-đa điểm trong một tế bào.
Ngoài ra, MBM S và BCMCS cũng đặc tả các giao thức và các bộ mã
hoá/giải mã đối với việc phân phát dữ liệu đa phương tiện. M ột số ít các giao thức
và không có bộ mã hoá/giải mã nào cần bổ sung thêm các tính năng mới, chúng
được chia sẻ với các dịch vụ khác như truyền tải dòng unicast theo yêu cầu. MBM S
và BCMCS hỗ trợ hai kiểu kết nối từ điểm-tới-đa điểm sau:
- Chế độ broadcast: Mạng phát dữ liệu tới tất cả người sử dụng trong một
vùng quảng bá xác định;
- Chế độ multicast: Mạng phát dữ liệu chỉ tới những người sử dụng yêu cầu
dữ liệu này.
Ngoài việc cung cấp dịch vụ streaming media, các nhà cung cấp nội dung có
thể sử dụng MBMS, BCMCS để cung cấp dịch vụ download, phân phối các file tới
các nhóm đông người sử dụng.
3.1.5.1 Kiến trúc MBMS
Hình 3.7: Kiến trúc MBMS.
Hình 3.7 mô tả kiến trúc M BMS. Để hỗ trợ M BMS, những sự thay đổi là cần
thiết ở hầu hết các node của mạng chuyển mạch gói. Những sự thay đổi này được
thực hiện bằng cách nâng cấp phần mềm. M BM S khả dụng với cả mạng truy nhập
vô tuyến GSM/EDG E (GERAN) và mạng truy nhập vô tuyến mặt đất UMTS
(UTRAN).
Trung tâm dịch vụ broadcast/multicast (BM-SC) được bổ sung vào mạng.
BM-SC thực hiện việc cung cấp và p hân phát các dịch vụ quảng bá di động. BM-SC
đóng vai trò là điểm vào đối với các dịch vụ phân phát nội dung muốn sử dụng BM-
SC. BM-SC thiết lập và điều khiển các phần mang truyền tải tới mạng lõi di động
và có thể được sử dụng để định trình và p hân phát các kênh truyền dẫn MBMS.
BM-SC cũng cung cấp các thông báo dịch vụ tới các thiết bị đầu cuối. Các thông
báo này bao gồm tất cả các thông tin cần thiết (như mô tả dịch vụ multicast, các địa
chỉ multicast IP, thời gian truyền dẫn, các mô tả media…) mà thiết bị đầu cuối cần
để có thể tham gia vào một dịch vụ M BMS. BM -SC có thể được sử dụng để tạo ra
các bản tin tính cước đối với dữ liệu đã được phát từ nhà cung cấp nội dung, và
quản lý các chức năng bảo mật được đặc tả bởi 3GPP cho chế độ multicast.
BM-SC cung cấp hai giao diện tới mạng lõi. Qua giao diện Gmb, BM-SC
trao đổi thông tin điều khiển với node hỗ trợ Gateway GPRS (GGSN). Giao diện Gi
truyền tải dữ liệu nội dung tới GG SN. Các nhà cung cấp nội dung phân phát các
nội dung của mình tới BM-SC (nhà cung cấp nội dung không phát nội dung tới tất
cả người sử dụng qua các kênh dành riêng mà chỉ phát nội dung tới BM -SC). BM-
SC sẽ phân phát các nội dung này tới người sử dụng. Giao diện giữa BM-SC và
content server có thể được đặt ở trong mạng di động hoặc ở ngoài mạng.
Tiêu chuẩn MBMS không yêu cầu bắt buộc các chức năng BM-SC được
thực hiện như thế nào. Một số nhà cung cấp có thể cung cấp các chức năng này ở
một node riêng rẽ, các nhà cung cấp khác có thể tích hợp các chức năng này trong
các node mạng dịch vụ và mạng lõi hiện tại. Trong mạng lõi, MBMS và BCMCS bổ
sung các chức năng và các bản tin giao thức cần thiết để tạo và quản lý các cây phân
bố dữ liệu broadcast và multicast.
Một tính năng đặc biệt của MBM S là MBM S cho phép các nhà khai thác
định nghĩa các dịch vụ broadcast và multicast đối với các vùng địa lý cụ thể. Các
vùng địa lý này được cấu hình qua vùng dịch vụ M BM S. Mỗi node trong mạng lõi
sử dụng danh sách các node downstream để xác định node nào nên được sử dụng để
chuyển tiếp dữ liệu dịch vụ M BM S. Ở mức GGSN, danh sách bao gồm mọi node
serving GSN (SGSN) mà dữ liệu sẽ được chuyển tiếp . Ở mức SGSN, danh sách
bao gồm mọi node bộ điều khiển mạng vô tuyến (RNC) của mạng truy nhập vô
tuyến mặt đất WCDMA hoặc trong trường hợp của mạng truy nhập vô tuyến GSM
sẽ bao gồm mọi bộ điều khiển trạm gốc (BSC) cần thu dữ liệu. Đối với các dịch vụ
hoạt động ở chế độ multicast, mạng lõi quản lý cây phân bổ dữ liệu động bằng cách
giám sát những người sử dụng đăng ký sử dụng dịch vụ. Giống như IP multicast,
mỗi node mạng lõi chuyển tiếp dữ liệu MBMS tới các node downstream đang phục
vụ những người sử dụng đã đăng ký sử dụng dịch vụ.
3.1.5.2 Các chế độ của MBMS
Hình 3.8: Các chế độ và phương pháp phân phát dữ liệu MBMS.
Dịch vụ MBMS cung cấp ba chế độ để phân phát dữ liệu: broadcast,
broadcast tiên tiến và multicast. Sự khác nhau giữa các chế độ này là mức quản lý
nhóm trong mạng lõi và mạng vô tuyến:
- Ở chế độ MBMS broadcast, BM-SC xác định vùng quảng bá khi kích hoạt
các phần mang phân phối. M ạng không có bất kỳ thông tin gì về các máy thu kích
hoạt trong vùng quảng bá và không thể tối ưu nguồn tài nguyên được sử dụng.
- Chế độ MBMS broadcast tiên tiến cho phép sử dụng hiệu quả hơn việc
phân phát tài nguyên so với chế độ broadcast. Người sử dụng chỉ thị dịch vụ
“joining” tới mạng vô tuyến. Mạng vô tuyến có thể thực hiện thủ tục “counting”
hoặc “re-counting” để xác định số lượng người sử dụng trong mỗi tế bào. Cơ chế
này dựa trên bản tin đáp ứng “counting” MBMS được gửi bởi người sử dụng UE
khi UE thu được yêu cầu “counting”. Số đếm người sử dụng này được sử dụng để
xác định kiểu truyền tải được sử dụng. Nếu có ít người sử dụng yêu cầu dịch vụ
MBM S trong một tế bào thì việc phân phát dữ liệu MBMS theo các kênh dành riêng
điểm-tới-điểm hoặc các kênh được chia sẻ của HSDPA sẽ hiệu quả hơn, vì truyền
dẫn trên các kênh này có thể được tối ưu theo điều kiện thu vô tuyến của thiết bị đầu
cuối tương ứng. Phân phát dữ liệu M BM S điểm-tới-đa điểm trở nên hiệu quả nếu có
số lượng lớn người sử dụng yêu cầu dịch vụ trong cùng một tế bào [6] .
- Ở chế độ MBMS multicast, người sử dụng chỉ thị dịch vụ “joining” tới
mạng lõi. Mạng giám sát trạng thái “joining” này ở các node GG SN, SGSN và ở
các bộ điều khiển mạng vô tuyến RNC. Khi thiết bị đầu cuối người sử dụng di
chuyển từ vùng này sang vùng khác, trạng thái “joining” đối với tất cả các dịch vụ
đã được tham gia bởi người sử dụng được chuyển tới một node phục vụ mới. Các
RNC có thể sử dụng thủ tục “counting” hoặc “re-counting” để xác định số lượng
người sử dụng yêu cầu dịch vụ M BMS multicast thực sự. Do đó, mạng giám sát
được người sử dụng dịch vụ và thiết lập cây phân phối đối với mặt phẳng người sử
dụng MBMS rất hiệu quả.
3.1.5.3 Truy nhập tới các dịch vụ MBMS
Quá trình khởi đầu phiên
Hình 3.9: Luồng phiên MBMS.
Hình 3.9 mô tả luồng điển hình các phiên M BMS. Chế độ broadcast cho
phép truyền dẫn dữ liệu đa phương tiện theo một chiều từ điểm-tới-đa điểm. Chế độ
broadcast không yêu cầu người sử dụng phải đăng ký trước hoặc “joining”. Tất cả
người sử dụng trong một vùng dịch vụ quảng bá được định nghĩa bởi nhà khai thác
mạng đều có thể thu được dữ liệu. Tuy nhiên, khi người sử dụng không muốn thu
dữ liệu này thì người sử dụng có thể cấu hình thiết bị đầu cuối UE của mình ở chế
độ không thu dữ liệu. Chế độ multicast yêu cầu người sử dụng phải đăng ký để thu
được các dịch vụ M BM S. Người sử dụng giám sát các bản tin thông báo dịch vụ và
quyết định tham gia sử dụng một hoặc nhiều dịch vụ. Tính cước được thực hiện dựa
trên việc đăng ký trả trước hoặc dựa trên việc mua các khoá cho phép truy nhập tới
dữ liệu đã được phát.
Khởi đầu, thông tin về một dịch vụ MBMS đặc biệt được gửi tới server cung
cấp dịch vụ. Thông tin này được gọi là thông báo dịch vụ. Các thông báo dịch vụ
cung cấp thông tin về dịch vụ và bằng cách nào các thiết bị đầu cuối có thể truy
nhập tới dịch vụ đó. Có nhiều cách để phân phát các thông báo dịch vụ tới người sử
dụng, như lưu giữ các thông báo này ở web server mà từ đó chúng có thể được tải
về bởi giao thức HTTP hoặc giao thức truy nhập vô tuyến WAP hoặc phân phát các
thông báo dịch vụ bằng bản tin SMS hoặc bản tin MM S hoặc sử dụng một kênh
thông báo dịch vụ MBMS đặc biệt.
Nếu dịch vụ là broadcast, thiết bị đầu cuối chỉ cần điều chỉnh tới kênh có các
tham số được mô tả trong thông báo dịch vụ. Nếu dịch vụ là dịch vụ multicast, một
yêu cầu tham gia phiên (session join) phải được gửi tới mạng với các tham số được
tách ra từ thông báo dịch vụ. Thiết bị đầu cuối người sử dụng trở thành một thành
viên của nhóm dịch vụ MBMS tương ứng và thu tất cả dữ liệu được phát bởi dịch
vụ.
Trước khi truyền dẫn dữ liệu bắt đầu, BM-SC phải gửi một y êu cầu khởi đầu
phiên (senssion start) tới GGSN trong mạng lõi. GGSN xác định các nguồn tài
nguyên nội bộ cần thiết và chuyển tiếp yêu cầu tới các SGSN liên quan. Các SGSN
lại yêu cầu phân bổ các nguồn tài nguyên vô tuyến cần thiết để cung cấp chất lượng
dịch vụ QoS yêu cầu. Cuối cùng, các thiết bị đầu cuối của nhóm dịch vụ MBM S
tương ứng được thông báo rằng dịch vụ là để p hân phát nội dung.
Sau đó server có thể gửi dữ liệu đa phương tiện tới BM -SC, BM-SC chuyển
tiếp dữ liệu tới MBMS bearer. Ở chế độ multicast, dữ liệu được mật mã hoá và
được phát tới mọi thiết bị đầu cuối tham gia phiên MBMS.
Sau cùng, server gửi một thông báo kết thúc phiên (session stop) để chỉ thị
rằng pha truyền dẫn dữ liệu đã kết thúc.
Người sử dụng muốn rời khỏi một dịch vụ multicast M BMS gửi một yêu cầu
rời khỏi dịch vụ (service leave) tới mạng, mạng sau đó sẽ loại bỏ người sử dụng từ
nhóm dịch vụ M BMS liên quan.
Các giao thức và các bộ mã hoá/giải mã
Các dịch vụ người sử dụng MBM S sử dụng giá giao thức được mô tả ở Hình
3.10. Có hai phương pháp phân phát dữ liệu là: Phương pháp phân phát download
và phương pháp phân phát streaming.
Hình 3.10: Giá giao thức MBMS.
Phương pháp phân phát streaming được sử dụng để thu và play-out liên tục
các ứng dụng như các ứng dụng Mobile TV. Streaming sử dụng giao thức truyền tải
thời gian thực RTP để truyền tải dữ liệu đa p hương tiện, RTP lại sử dụng giao thức
UDP ở lớp dưới. Mã sửa lỗi hướng đi (FEC) Raptor được sử dụng để tăng độ tin
cậy truyền dẫn MBMS.
Phương pháp phân phát download được sử dụng cho các dịch vụ phân phối
file, cho phép lưu giữ dữ liệu thu được ở thiết bị đầu cuối. Phương pháp này được
sử dụng để phân phát các file từ một nguồn tới nhiều máy thu một cách hiệu quả.
Phương pháp phân phát download có ba sơ đồ khắc phục lỗi gói: Sơ đồ quan
trọng nhất là sơ đồ sử dụng mã sửa lỗi FEC, cho phép khắc phục các gói bị tổn thất
mà không cần tương tác với server. MBMS cũng cung cấp hai thủ tục sửa file: Một
thủ tục sử dụng các phần mang tương tác điểm-tới-điểm (PTP), còn thủ tục thứ hai
sử dụng phần mang điểm-tới-đa điểm (PTM ).
Mạng truy nhập vô tuyến
Truy nhập vô tuyến broadcast/multicast GSM
Ở các hệ thống GSM, MBMS sử dụng các sơ đồ mã hoá và điều chế GPRS
và EDGE (CS1-4 và M CS1-9). M BMS cũng sử dụng kênh dữ liệu gói (PDCH)
GPRS và EDGE để truyền dẫn từ điểm-tới-đa điểm, và sử dụng các giao thức điều
khiển liên kết vô tuyến/điều khiển truy nhập môi trường (RLC/M AC). Đối với
truyền dẫn điểm-tới-điểm, MBMS hỗ trợ chế độ đa khe thời gian. Trong trường hợp
này, mạng vô tuyến có thể sử dụng tới 4 khe thời gian trên một phiên M BM S. Ở
mạng truy nhập vô tuyến GERAN, có hai chế độ để thực hiện các dịch vụ phần
mang MBMS là:
- RLC/M AC với yêu cầu phát lại tự động (ARQ), còn được gọi là chế độ
Ack/Nack đường xuống gói (PDA N). Ở chế độ này, có thể lên tới 16 thiết bị đầu
cuối trong một tế bào cung cấp phản hồi về các gói đã được truyền dẫn. Bằng cách
này, các khối dữ liệu không thu được chính xác bởi thiết bị đầu cuối sẽ được phát
quảng bá lại qua phần mang vô tuyến MBM S.
- RLC/M AC không ARQ, còn gọi là chế độ phát lặp mù. Ở chế độ này, các
khối RLC được phát lặp với số lần đã được xác định trước, sử dụng kỹ thuật độ dư
tăng từng phần, trước khi khối RLC kế tiếp được phát.
Các thiết bị đầu cuối M BMS có thể dựa trên phần cứng EDG E hiện tại với
nâng cấp phần mềm để hỗ trợ các thủ tục báo hiệu MBMS. Ở GSM, phần mang vô
tuyến MBMS có thể được ghép kênh với các luồng dữ liệu GPRS/EDGE thậm chí
trên các khe thời gian giống nhau. Một kịch bản triển khai có thể là kích hoạt
MBM S trong một vùng có mật độ người sử dụng cao trong đó EDG E đã được triển
khai; trong các vùng chưa có EDGE, MBMS có thể được cung cấp theo chế độ
GPRS điểm-tới-điểm. Một kịch bản triển khai khác có thể là bắt đầu cung cấp dịch
vụ MBM S broadcast sau đó bổ sung dịch vụ MBM S multicast. Điều này tiết kiệm
dung lượng trong các tế bào không có người sử dụng yêu cầu dịch vụ.
Truy nhập vô tuyến broadcast/multicast UMTS
Ở mạng UM TS, MBMS tái sử dụng các kênh vật lý và các kênh logic hiện
tại. Thực tế UM TS yêu cầu ba kênh logic mới và một kênh vật lý cho M BMS, đó là:
- Kênh điều khiển điểm-tới-đa điểm MBMS (MCCH): Kênh logic truyền tải
thông tin về các phiên MBMS hiện tại và các phiên MBM S mới;
- Kênh lưu lượng điểm-tới-đa điểm MBMS (MTCH): Kênh logic truyền tải
dữ liệu ứng dụng M BM S thực sự;
- Kênh định trình điểm-tới-đa điểm MBMS (MSCH): Kênh logic cung cấp
thông tin về dữ liệu được định trình trên kênh MTCH;
- Kênh chỉ thị thông báo M BMS (MICH): Kênh vật lý được sử dụng để
thông báo cho thiết bị đầu cuối về thông tin MBMS khả dụng trên kênh MCCH.
Ba kênh logic M CCH, MSCH, và MTCH tái sử dụng kênh truyền tải FACH
(kênh truy nhập hướng đi) và kênh S-CCPCH (kênh vật lý điều khiển chung thứ
cấp). Lớp RLC và MAC tái sử dụng phần lớn các giá giao thức hiện tại của UMTS.
Dung lượng cao của UMTS dựa vào cơ chế điều khiển công suất, cơ chế này
hiệu chỉnh công suất phát theo khoảng cách giữa người sử dụng và trạm gốc, do đó
làm giảm nhiễu. Ngược với các kênh được dành riêng có điều khiển công suất, kênh
chung như kênh FACH không có điều khiển công suất. Do đó các dịch vụ MBMS
sẽ tiêu tốn nhiều tài nguyên nếu kênh FACH được sử dụng cho một số lượng ít
người sử dụng không ở gần biên của tế bào. Vì vậy sự quyết định là cần thiết để xác
định nên sử dụng kênh FACH hay các kênh được dành riêng để cung cấp dịch vụ
MBM S cho người sử dụng.
Tốc độ dữ liệu MBMS có thể lên tới 128 kbps đối với mỗi phần mang GPRS
và 256 kbps đối với UMTS . MBMS trong mạng truy nhập GERAN có thể sử dụng
tới 5 khe thời gian trong đường xuống cho một kênh MBMS đơn. Phụ thuộc vào sơ
đồ điều chế và việc định cỡ mạng, tốc độ kênh có thể đạt được từ 32 kbps tới 128
kbps . Dung lượng tế bào tổng cộng phụ thuộc vào số lượng tần số được hỗ trợ bởi
tế bào đó. MBM S phiên bản 6 (3GPP) đã giới thiệu một số phương pháp để tăng
dung lượng kênh M TCH, trong đó phương pháp kết hợp mềm được đặc biệt chú ý.
Phương pháp kết hợp mềm được định nghĩa là phương pháp kết hợp ở thiết bị đầu
cuối các tín hiệu vô tuyến thu được từ một số máy phát trong các tế bào lân cận phát
cùng loại dịch vụ . Phương pháp kết hợp mềm yêu cầu truyền dẫn tín hiệu vô tuyến
cần được đồng bộ giữa các tế bào. Hai độ sâu ghép xen (TTI) được sử dụng trong
MBM S cho kênh M TCH là: 40 ms và 80 ms. Sự lựa chọn độ sâu ghép xen TTI dài
cung cấp tăng ích phân tập lớn trong miền thời gian, do đó cải thiện chất lượng tín
hiệu thu và tăng tốc độ truyền dẫn. Với công nghệ UM TS MBMS, một sóng mang 5
MHz có thể hỗ trợ 16 kênh MBM S điểm-tới-đa điểm ở tốc độ bit người sử dụng 64
kbps trên mỗi kênh. Kỹ thuật phân tập thu anten, kỹ thuật thu tiên tiến như G-
RAKE cải thiện đáng kể dung lượng kênh trên mỗi sóng mang tế bào.
Truy nhập vô tuyến broadcast/multicast CDMA2000
Giống như UMTS, CDMA2000 sử dụng các kênh vật lý hiện tại đã được
định nghĩa cho IS-2000 (1x) và IS-856 (1xEV-DO). Để bù lại việc không có giao
thức truyền dẫn lại ở liên kết vô tuyến trong chế độ điểm-tới-đa điểm (không có
PDAN), CDMA2000 sử dụng thêm một lớp mã sửa lỗi bên trên lớp mã hiện tại, và
được áp dụng trong mạng truy nhập vô tuyến, cho phép kết hợp tối ưu hai lớp giải
mã ở máy thu. Mã là một mã trận có các hàng cấu thành nên các khung hiện tại và
kiểu mã là mã Turbo, một tập các mã Reed-Solomon trải dài các cột, mỗi cột có độ
rộng 1 octet. Ma trận có k hàng mang thông tin, mã Reed-Solomon trải dài các cột
thêm vào n-k hàng. Tất cả các hàng được mã hoá riêng lẻ bằng mã Turbo và được
phát tới máy thu, máy thu sẽ kết hợp mềm các tín hiệu BCMCS từ nhiều trạm gốc.
Độ phức tạp thêm vào của lớp mã mới và độ phức tạp liên quan đến việc xử lý dòng
dữ liệu media có thể làm giảm tốc độ bit. Do đó, tốc độ bit người sử dụng đầu cuối
BCMCS tương tự như tốc độ bit MBMS ở UMTS.
Với các hệ thống di động, máy thu có thể thu được các tín hiệu khác nhau từ
các tế bào lân cận, do đó kỹ thuật triệt nhiễu cần được sử dụng. Các dịch vụ quảng
bá, tuy nhiên, phát cùng nội dung giống nhau, nên không cần triệt nhiễu tín hiệu từ
các tế bào lân cận. Do đó, một phần mang mới cho hệ thống 1xEV-DO đã được đề
nghị để phát thông tin ở chế độ broadcast và multicast, ví dụ như dựa trên kỹ thuật
ghép kênh phân chia theo tần số trực giao OFDM, hoặc sử dụng kỹ thuật trải phổ
CDMA hiện tại và máy thu tiên tiến hơn. Nhà khai thác mạng khi muốn triển khai
dịch vụ BCM CS do đó có thể chọn giữa các giải pháp sử dụng kênh hiện tại, kênh
mới hoặc kết hợp cả hai.
3.1.6 Kiến trúc điển hình hệ thống cung cấp tín hiệu Mobile TV qua mạng 3G
Hình 3.11 mô tả kiến trúc điển hình hệ thống truyền tín hiệu Mobile TV qua
mạng 3G.
Hình 3.11: Kiến trúc hệ thống cung cấp tín hiệu Mobile TV qua mạng 3G.
Trung tâm dịch vụ broadcast/multicast (BM-SC) là một phần tử logic được
định nghĩa bởi 3GPP. Trong thực tế, chức năng của BM-SC được phân chia bởi một
số phần tử vật lý.
TV server là điểm giao tiếp đầu tiên giữa thiết bị đầu cuối và đơn vị điều
khiển trung tâm của dịch vụ truyền hình di động. Khối ESG (hướng dẫn dịch vụ
điện tử) phiên dịch và kết hợp thông tin chương trình từ các nhà cung cấp nội dung
và chèn thông tin này vào ESG.
Bộ điều khiển media phân phối các dòng nội dung tới các thiết bị người sử
dụng UE theo chế độ unicast và broadcast. Bộ mật mã hoá thực hiện mật mã các
dòng broadcast dưới sự giám sát của chức năng bảo vệ truy nhập dịch vụ SAP. Các
dòng unicast không yêu cầu chức năng bảo vệ truy nhập này, vì các cơ chế bảo mật
unicast theo chuẩn 3G đã được áp dụng.
Bộ điều khiển broadcast thiết lập và giải phóng các phần mang MBMS qua
mạng lõi và mạng vô tuyến.
Bộ mã hoá tín hiệu trực tiếp, podcast TV, và các server phát tín hiệu TV theo
yêu cầu sẽ thực hiện mã hoá nội dung TV theo khuôn dạng phù hợp với các thiết bị
di động và đóng gói khuôn dạng này theo các giao thức có thể ứng dụng để thực
hiện phân phối.
3.2 Mobile TV sử dụng công nghệ DVB-H
3.2.1 Giới thiệu chung
Với sự thay thế thành công truyền hình tương tự bằng truyền dẫn truyền hình
số, truyền dẫn quảng bá video số-mặt đất (DVB-T) đã được lựa chọn ở nhiều nước
trên thế giới. Công nghệ DVB-T được thiết kế để truyền dẫn tín hiệu video tới các
máy thu hình TV cố định đặt ở nhà với anten có kích thước lớn đặt trên mái nhà và
không bị hạn chế về công suất tiêu thụ. Điều này làm cho DVB-T không phù hợp để
truyền tín hiệu tới máy thu cầm tay di động, có anten nhỏ được tích hợp bên trong,
và bị hạn chế về công suất pin tiêu thụ, trong khi môi trường vô tuyến di động
thường xuyên chịu ảnh hưởng của fading đa đường, nhiễu và tạp âm.
Dự án quảng bá video số (DVB) bắt đầu nghiên cứu khả năng thu di động
các tín hiệu DVB-T vào năm 1998. Dự án này kết luận rằng khả năng thu di động là
hoàn toàn khả thi nếu thực hiện việc cập nhật và mở rộng tiêu chuẩn DVB-T. Công
việc sau đó hướng tới xây dựng phiên bản mới cho tiêu chuẩn. Thời gian 5 năm sau
khi bắt đầu, tiêu chuẩn DVB-T cho thấy khả năng linh hoạt cho phép sự triển khai
các dịch vụ quảng bá di động ở các thành phố như ở Singapore và Đức. Tuy nhiên,
trong thời gian này thói quen của người sử dụng đã thay đổi, và vào đầu năm 2002,
cộng đồng DVB đã được yêu cầu cung cấp các đặc tả kỹ thuật để cho phép phân
phát các nội dung đa phương tiện tới các máy đầu cuối di dộng. Điều này dẫn tới
việc thu các tín hiệu như truyền hình là hoàn toàn có thể trên các thiết bị cầm tay, có
kích thước nhỏ như máy điện thoại di động.
Hệ thống truyền dẫn có khả năng cung cấp tín hiệu như trên cần có các tính
năng cụ thể sau:
- Vì các máy cầm tay di động có công suất pin hạn chế nên hệ thống truyền
dẫn phải cung cấp cho các thiết bị này khả năng tắt nguồn lặp lại trong khoảng thời
gian nào đó để tăng khả năng sử dụng pin của máy cầm tay di động.
- Vì công nghệ hướng tới người sử dụng di động, hệ thống truyền dẫn phải
cung cấp khả năng chuyển giao tần số để đảm bảo truy nhập không bị ngắt quãng
tới dịch vụ khi người sử dụng di động di chuyển từ một tế bào truyền dẫn này sang
một tế bào truyền dẫn khác.
- Vì việc phân phát dịch vụ diễn ra trong môi trường vô tuyến di động chịu
ảnh hưởng của fading đa đường, nhiễu, tạp âm và hiệu ứng Doppler, nên hệ thống
phải khắc phục được các ảnh hưởng này.
- Hệ thống phải cho phép truy nhập được các dịch vụ không chỉ ở khu vực
bên trong nhà, ngoài trời, mà cả khi người sử dụng di chuyển với các tốc độ khác
nhau như đi bộ, ngồi trên ôtô, tàu… trong khi phải đảm bảo tối ưu vùng phủ sóng.
- Hệ thống sử dụng phổ tần số giống như phổ tần số dành cho quảng bá mặt
đất và được sử dụng linh hoạt ở các băng tần truyền dẫn và băng thông kênh khác
nhau, vì vậy hệ thống có thể được sử dụng ở nhiều nơi trên thế giới.
- Hệ thống phải hoàn toàn tương thích với hệ thống DVB-T để đảm bảo chi
phí cực tiểu thông qua việc sử dụng chung cơ sở hạ tầng với mạng DVB-T.
Lớp vật lý của DVB-H có bốn sự mở rộng từ lớp vật lý của DVB-T:
- Thứ nhất, p hần báo hiệu tham số máy phát (TPS) được bổ sung thêm hai
bit để chỉ thị sự tồn tại của các dịch vụ DVB-H và khả năng sử dụng mã sửa lỗi
MPE-FEC.
- Thứ hai, chế độ ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM ) 4K
được lựa chọn để cân đối giữa tính di động và kích thước tế bào của mạng đơn tần
số (SFN), điều này cho phép việc thu nhận tín hiệu bằng anten đơn lẻ trong các môi
trường SFN ở tốc độ rất cao, cho phép tính linh hoạt trong việc thiết kế mạng. Đồng
thời tất cả các dạng điều chế như QPSK, 16QAM và 64QAM với các chế độ phân
cấp và không phân cấp có thể được sử dụng cho DVB-H.
- Thứ ba, DVB-H định nghĩa một p hương thức ghép xen ký hiệu mới. Ở chế
độ 2K và 4K, các nhà khai thác có thể chọn phương thức ghép xen theo độ sâu (in-
depth interleaver) để ghép xen các bit qua hai hoặc bốn ký hiệu OFDM tương ứng.
Phương thức này có khả năng chống tạp âm tốt như ở chế độ 8K và cải thiện chất
lượng tín hiệu trong môi trường vô tuyến di động.
- Thứ tư, băng thông kênh 5 M Hz được sử dụng trong các băng tần không
dành cho quảng bá.
Ở lớp liên kết dữ liệu, các phần đóng gói đa giao thức (M PE) được phát.
DVB-H có các cải tiến sau:
- Kỹ thuật cắt lát thời gian (Time Slicing): Một phương pháp truyền dẫn dữ
liệu cho phép tiết kiệm công suất tiêu thụ cho các máy di động cầm tay có công suất
pin hạn chế và cho phép chuyển giao tần số khi người sử dụng rời khỏi một vùng
phục vụ tới một tế bào mới. Sử dụng kỹ thuật cắt lát thời gian là yêu cầu bắt buộc
trong DVB-H.
- Mã sửa lỗi hướng đi MPE-FEC: Sử dụng mã sửa lỗi hướng đi (FEC) cho
dữ liệu được đóng gói đa giao thức (MPE) cải thiện tỷ số sóng mang trên tạp âm
(C/N), khắc phục được nhiễu và hiệu ứng Doppler trong môi trường vô tuyến di
động. Sử dụng MPE-FEC là không bắt buộc trong DVB-H.
Kỹ thuật cắt lát thời gian và mã sửa lỗi hướng đi M PE-FEC ở lớp liên kết dữ
liệu nên không ảnh hưởng tới lớp vật lý DVB-T. Điều này có nghĩa là các máy thu
hiện nay của DVB-T không bị ảnh hưởng bởi các tín hiệu DVB-H. DVB-H hoàn
toàn tương thích với DVB-T, có nghĩa là DVB-H có thể sử dụng cơ sở hạ tầng hiện
tại của DVB-T. Tải trọng của DVB-H là các IP-datagram hoặc các datagram lớp
mạng khác được đóng gói thành các phần M PE. Do các tốc độ truyền dữ liệu hạn
chế được đề nghị cho các dịch vụ DVB-H và kích thước màn hình nhỏ của máy cầm
tay di động, các sơ đồ mã hoá âm thanh và video sử dụng trong quảng bá số không
phù hợp với DVB-H, sơ đồ mã hoá MPEG-2 cho video quảng bá số được thay thế
bằng sơ đồ mã hoá theo chuẩn H.264/AVC hoặc các sơ đồ mã hoá video hiệu quả
cao hơn.
DVB-H có thể cung cấp ở bộ ghép kênh DVB-H từ 20 tới 40 kênh hoặc hơn
(tuỳ thuộc vào tốc độ bit) tới hàng triệu người sử dụng ở chế độ quảng bá. Trong
khi các dịch vụ DVB-T được phát ở tốc độ dữ liệu có thể lên tới 24 Mbps, các dịch
vụ DVB-H được phát ở tốc độ dữ liệu có thể lên tới 15 M bps[1]. DVB-H dựa trên
các tiêu chuẩn mở và tương thích với DVB-T. DVB-H tuân theo mô hình IP
datacast và toàn bộ mạng là IP từ đầu cuối-tới-đầu cuối.
3.2.2 Kiến trúc hệ thống DVB-H
Hình 3.12 mô tả mô hình hệ thống DVB-H truyền dẫn các dịch vụ IP. Trong
mô hình này, cả các dịch vụ M PEG-2 truyền thống và các dịch vụ DVB-H đều được
truyền tải qua cùng bộ ghép kênh. Máy đầu cuối cầm tay chỉ giải mã và sử dụng các
dịch vụ IP. Vì lý do tương thích trong trường hợp bộ ghép kênh được chia sẻ giữa
các dịch vụ cho máy thu DVB-T cố định và các dịch vụ cho DVB-H, nên chế độ 4K
OFDM và ghép xen theo độ sâu không được sử dụng.
Hình 3.12: Mô tả hệ thống DVB-H.
3.2.3 Kiến trúc phân lớp của DVB-H
DVB-H là một hệ thống truyền dẫn đa phương tiện cung cấp nhiều ứng dụng
và nhiều khuôn dạng file như: Truyền tải dòng âm thanh và video, truyền file,
hướng dẫn dịch vụ điện tử, dữ liệu HTM L. Do đó tiêu chuẩn được thiết kế với cấu
trúc giao thức được phân lớp phù hợp để truyền tải các ứng dụng qua lớp IP
datacasting. Giá giao thức DVB-H gồm một số lớp được mô tả ở Hình 3.13.
Hình 3.13: Giá giao thức DVB-H.
Lớp vật lý cung cấp truyền tải MPEG-2 và truyền dẫn nội dung dựa trên
COFDM, các đặc tả này được định nghĩa bởi tiêu chuẩn ETSI EN 302 304. Lớp IP
datacasting cho phép nội dung được phân phát ở dạng gói qua mạng vật lý DVB-H.
Lớp này sử dụng UDP/IP ở lớp mạng và MPE ở lớp liên kết dữ liệu. Datacasting
trong DVB-H được định nghĩa dựa trên IPv6. Điều này cung cấp tính linh hoạt
trong việc quản lý các ứng dụng và tương thích với các yêu cầu trong tương lai của
các ứng dụng IP.
3.2.3.1 Lớp vật lý DVB-H
Truyền dẫn OFDM
Hình 3.14: Các chế độ truyền dẫn trong DVB-H.
Hệ thống DVB-H sử dụng truyền dẫn OFDM . Hai chế độ truyền dẫn OFDM
chính được sử dụng trong hệ thống DVB-T là 2K và 8K (tương ứng với số các điểm
của chuyển đổi Fourier nhanh là 2048 và 8192). DVB-H định nghĩa thêm chế độ lựa
chọn 4K. Các tham số chi tiết của ba chế độ DVB-H OFDM được mô tả ở Bảng 3.1.
Bảng 3.1. Các tham số của các chế độ DVB-H OFDM
Tham số OFDM 2K 4K 8K
Số sóng mang toàn 2048 4096 8192
cầu
Số sóng mang được
điều chế 1705 3409 6817
Số sóng mang hữu
ích 1512 3024 6048
Thời gian tồn tại một 224 448 896
ký hiệu OFDM (µs)
Thời gian khoảng
bảo vệ (µs) 7, 14, 28, 56 14, 28, 56, 112 28, 56, 112, 224
Khoảng cách giữa
các sóng mang (kHz) 4464 2232 1116
Khoảng cách phủ
sóng cực đại của máy 17 33 67
phát (km)
Trong DVB-T, tín hiệu được phát trong các khung OFDM gồm 68 ký hiệu.
Mỗi ký hiệu gồm 6817 sóng mang ở chế độ 8K, 3409 sóng mang ở chế độ 4K và
1705 sóng mang ở chế độ 2K. Mỗi ký hiệu OFDM gồm phần thông tin hữu ích
(phần tải trọng) và một khoảng bảo vệ. Bốn khung liên tiếp tạo thành một siêu
khung.
Một khung OFDM cũng gồm các phần thông tin khác là:
- Các tín hiệu hoa tiêu (pilot) được sử dụng bởi máy thu để san bằng kênh và
đồng bộ.
- Phần báo hiệu tham số truyền dẫn (TPS).
Mục tiêu của chế độ 4K OFDM trong hệ thống DVB-H là để cung cấp sự
cân đối giữa kích thước của các tế bào truyền dẫn (tối ưu ở chế độ 2K) và chất
lượng tín hiệu thu di động (đạt được tốt nhất ở chế độ 8K), cung cấp khả năng linh
hoạt trong việc thiết kế mạng. Nhà khai thác mạng DVB-H dành riêng có thể chọn
lựa một trong ba chế độ truyền dẫn này để đáp ứng tốt nhất các nhu cầu thực sự. Sự
cân đối (trade-off) ở ba chế độ như sau:
- Chế độ DVB-T 8K có thể được sử dụng cho cả chế độ máy phát đơn (các
mạng đa tần [MFN]) và cho các mạng đơn tần nhỏ, trung bình và lớn (SFN). Chế độ
này khắc phục được ảnh hưởng của hiệu ứng Doppler ở tốc độ di chuyển cao.
- Chế độ DVB-T 4K có thể được sử dụng cho cả chế độ máy phát đơn và
các mạng đơn tần SFN nhỏ và trung bình. Chế độ này khắc phục được ảnh hưởng
của hiệu ứng Doppler ở tốc độ di chuyển rất cao.
- Chế độ DVB-T 2K cung cấp chất lượng tín hiệu thu tốt nhất vì có khoảng
cách giữa các sóng mang lớn. Tuy nhiên, vì khoảng bảo vệ nhỏ nên chế độ này chỉ
phù hợp với các mạng đơn tần SFN có kích thước nhỏ. Chế độ này khắc phục được
ảnh hưởng của hiệu ứng Doppler ở tốc độ di chuyển cực cao.
Hình 3.15 mô tả vùng phủ sóng và khoảng cách truyền dẫn cực đại có thể đạt
được nhờ sử dụng máy phát ở các chế độ truyền dẫn khác nhau. Chú ý rằng khoảng
cách thay đổi phụ thuộc vào công suất phát và chế độ OFDM được lựa chọn.
Hình 3.15: Khoảng cách máy phát cực đại.
Hệ thống DVB-T cho phép truyền dẫn phân cấp, có nghĩa là hai dòng truyền
tải khác nhau có thể được phát đồng thời. Điển hình, hệ thống được sử dụng để phát
hai dòng trên cùng một sóng mang, một dòng có tốc độ bit thấp và một dòng có tốc
độ bit cao hơn, cho phép máy thu chuyển mạch động giữa hai dòng tuỳ thuộc vào
điều kiện thu và khả năng của máy thu.
Chế độ ghép xen theo độ sâu
Hình 3.16: Ghép xen theo độ sâu sử dụng các chế độ khác nhau.
Để cải thiện chất lượng tín hiệu thu trên các kênh vô tuyến di động chịu ảnh
hưởng của fading, nhiễu, DVB-H sử dụng bộ nhớ của bộ ghép xen ký hiệu 8K được
thực hiện ở máy thu để cung cấp bộ ghép xen theo độ sâu được sử dụng với các chế
độ truyền dẫn 2K và 4K. Khi bộ ghép xen theo độ sâu được lựa chọn cho chế độ
truyền dẫn 2K, ghép xen được mở rộng qua bốn ký hiệu 2K OFDM, còn nếu chế độ
4K được chọn thì ghép xen được mở rộng qua hai ký hiệu 4K OFDM . Phương pháp
này cho phép khắc phục được nhiễu, tạp âm khi sử dụng chế độ 2K và 4K đạt tới
mức như ở chế độ 8K. Hình 3.16 mô tả các chế độ ghép xen.
Các bit báo hiệu tham số máy phát
Bởi vì các dịch vụ DVB-H cắt lát theo thời gian và các dịch vụ DVB-T
không cắt lát theo thời gian có thể sử dụng chung bộ ghép kênh, nên để phân biệt
hai dịch vụ này, DVB-H sử dụng các bit báo hiệu ở lớp vật lý để chỉ thị tín hiệu thu
có phải là DVB-H hay không và mã sửa lỗi MPE-FEC có được sử dụng hay không.
Khung báo hiệu ở DVB-T gồm 68 bit báo hiệu tham số máy phát (TPS), 23
bit được sử dụng cho các tham số DVB-T để mang thông tin về chế độ truyền dẫn
và mô tả tế bào (bit S25 tới bit S47). Phần mô tả tế bào trong các bit TPS được sử
dụng để hỗ trợ quét tín hiệu nhanh và chuyển giao tần số ở các máy thu di động.
Các bit S48 và S49 được sử dụng để chỉ thị kỹ thuật cắt lát thời gian hoặc mã sửa
lỗi MPE-FEC có được sử dụng hay không. Bảng 3.2 mô tả sự kết hợp các bit S48,
S49 và mô tả báo hiệu DVB-H tương ứng. Ngoài ra, các bit TPS còn lại có thể
mang thông tin, ví dụ như dịch vụ DVB-H có ở bộ ghép kênh DVB hay không và
chế độ được sử dụng là 4K hay 8K.
Bảng 3.2: Các bit báo hiệu DVB-H
S48 S49 Báo hiệu DVB-H
0 X Cắt lát thời gian không được sử dụng
1 X Cắt lát thời gian được sử dụng = DVB-H
X 0 MPE-FEC không được sử dụng
X 1 MPE-FEC được sử dụng
Băng thông truyền dẫn
Một trong những điều kiện ràng buộc trong thiết kế hệ thống DVB-T là hệ
thống này phải tương thích với phổ tần số VHF và UHF hiện nay đang được sử
dụng cho truyền dẫn tương tự, ở Châu Âu, độ rộng băng thông 7 MHz được sử dụng
ở dải VHF và độ rộng 8 M Hz được sử dụng ở dải UHF, độ rộng 6 M Hz được sử
dụng ở các nơi khác trên thế giới. Hệ thống OFDM mô tả ở phần trên do đó được
định nghĩa có các băng thông kênh là 8, 7 và 6 MHz. Các băng thông này được hỗ
trợ bởi DVB-H; ngoài ra, chế độ 5 M Hz cũng được lựa chọn cho băng tần ở ngoài
các băng tần dành cho quảng bá truyền thống.
3.2.3.2 Lớp liên kết dữ liệu DVB-H
Đóng gói đa giao thức
Ở lớp liên kết dữ liệu của hệ thống DVB-H, đóng gói đa giao thức (MPE) là
phương pháp tiêu chuẩn để truyền tải dữ liệu. MPE được giới thiệu bởi dự án DVB
(ETSI EN 301 192) để truyền tải các gói dữ liệu từ các giao thức khác nhau qua các
kênh quảng bá DVB-H, đó là các dòng truyền tải MPEG-2 ở lớp vật lý. MPE có thể
được sử dụng để truyền tải các giao thức dạng gói khác IP, sử dụng phương pháp
đóng gói điều khiển liên kết logic/điểm gán mạng con (LLC/SNA P) [2]. Tuy nhiên,
MPE được tối ưu để truyền gói IP. Các phần MPE được sử dụng để phát các IP
datagram trong DVB-H có các tính chất sau: M PE không sử dụng giao thức
LLC/SNA P; các IP datagram được chèn trực tiếp vào phần tải trọng của MPE, phần
tải trọng này có kích thước không ít hơn 4086 byte, đây cũng là kích thước cực đại
của một IP datagram trong mạng DVB. Một phần MPE tương ứng chính xác với
một IP datagram. DVB-H hỗ trợ cả IPv4 và IPv6.
Một phần MPE do đó có cấu trúc tổng quát như sau: Phần tiêu đề có độ dài cố
định 12 byte, phần IP datagram, phần kiểm tra dữ liệu có độ dài 4 byte, phần kiểm
tra này hoặc là kiểm tra tổng hoặc là kiểm tra dư chu trình 32 bit (CRC-32).
Nguyên lý cắt lát thời gian
Hình 3.17: Nguyên lý cắt lát thời gian.
Công nghệ DVB có thể truyền tải các IP datagram trong một dòng truyền tải
MPEG-2 TS sử dụng đóng gói đa giao thức (MPE). Với MPE, mỗi IP datagram
được đóng gói thành một phần M PE. Một dòng các phần MPE sau đó được đưa tới
dòng sơ cấp ES (một dòng các gói M PEG-2 TS với phần mô tả chương trình đặc
biệt (PID)). Trong thực tế các máy thu DVB-H có thể thu các dịch vụ âm thanh,
video được phát qua IP trên các dòng sơ cấp ES có tốc độ bit tương đối thấp, ví dụ
như 250 kbps. M ột dòng truyền tải M PEG-2 TS, tuy nhiên, có thể có tốc độ bit
tương đối cao, ví dụ như 10 M bps. Dòng sơ cấp ES mà máy thu quan tâm do đó
chiếm dụng chỉ một phần nhỏ (ở ví dụ này là 2.5%) tốc độ bit của dòng MPEG-2
TS tổng. Để giảm công suất tiêu thụ, máy thu mong muốn chỉ giải điều chế và giải
mã trong 2.5% p hần quan tâm của mình. Điều này thực hiện được bằng kỹ thuật cát
lát thời gian (time slicing).
Nguyên lý của cắt lát thời gian là phát dữ liệu MPE của một dòng sơ cấp ES
trong các cụm có tốc độ bit cao tương ứng với một dịch vụ. Trong khoảng thời gian
giữa các cụm (off-time), không có phần MPE nào của dòng ES này được phát [8].
Điều này cho phép máy thu chỉ kích hoạt trong thời gian thu dịch vụ của mình và tắt
nguồn trong thời gian off-time (Hình 3.17).
Máy thu, tuy nhiên, sẽ phải biết khi nào bật nguồn trở lại để thu cụm kế tiếp.
Trong một cụm đặc biệt, thời điểm bắt đầu của cụm kế tiếp của cùng một dòng sơ
cấp ES được báo hiệu qua tham số delta_t trong phần tiêu đề của tất cả các phần của
cụm, nhờ đó sẽ có khả năng chống lỗi truyền dẫn tốt hơn. Trong thời gian off-time,
các cụm từ các dòng sơ cấp ES khác được cắt lát thời gian được phát. Hai tham số
có thể tác động tới việc thiết lập tham số delta_t phù hợp: Tham số thứ nhất là khả
năng bị jitter trên đường truyền dẫn tín hiệu, có thể làm cho cụm bắt đầu chậm hơn
so với dự kiến. Điều này có thể khắc phục bằng cách giảm thời gian delta_t của
cụm, theo khuyến nghị ETSI TR 102 377, jitter cỡ 10 ms là có thể chấp nhận được;
Tham số thứ hai là thời gian đồng bộ của máy thu, đó là thời gian máy thu cần để
bật nguồn, hiệu chỉnh tới tín hiệu phù hợp và bắt đầu thu tín hiệu này. Tham số này
phụ thuộc vào việc thực hiện máy thu, do đó chỉ được hiệu chỉnh bởi chính máy thu.
Tốc độ bit đỉnh của các cụm có thể là tốc độ bit của dòng truyền tải MPEG-2
TS, nhưng cũng có thể có tốc độ thấp hơn được phân bổ cho dòng sơ cấp ES. Nếu
tốc độ thấp hơn tốc độ bit đỉnh, thì các gói của dòng M PEG-2 TS của một cụm đặc
biệt có thể được ghép xen với các gói MPEG-2 TS của các dòng sơ cấp khác.
Nhờ sử dụng báo hiệu tham số delta_t linh hoạt, nên không yêu cầu các cụm
có kích thước cố định hoặc thời gian giữa các cụm là cố định. Do đó, một dòng
video được mã hoá có tốc độ bit thay đổi có thể sử dụng cụm có kích thước thay đổi
và thời gian thay đổi giữa các cụm. Chú ý rằng một cụm có thể có nhiều dịch vụ,
chia sẻ mã nhận dạng chương trình PID, nhưng có thể được phân biệt bởi các địa
chỉ IP khác nhau. Các tham số được sử dụng trong kỹ thuật cắt lát thời gian được
thiết kế dựa trên công suất tiêu thụ và các tham số khác như thời gian truy nhập dịch
vụ và chất lượng tín hiệu. Nhờ sử dụng kỹ thuật cắt lát thời gian nên máy thu đầu
cuối có thể tiết kiệm 90% - 95% công suất tiêu thụ [8, 1, 5].
Hỗ trợ chuyển giao
Một ưu điểm khác của kỹ thuật cắt lát thời gian là tối ưu hoá sự chuyển giao
giữa các tế bào, tức là khả năng thay đổi tần số và dòng dữ liệu thu cùng nội dung
trong tế bào khác. Điều này đặc biệt quan trọng trong mạng quảng bá DVB-H, trong
đó không có kênh đường lên và không có cách nào cơ sở hạ tầng mạng biết được
người sử dụng đang tiến đến biên giới giữa hai tế bào. Chuyển giao dịch vụ được
yêu cầu trong trường hợp tế bào lân cận cung cấp tín hiệu tốt hơn với cùng nội dung
so với tế bào hiện tại. Để đảm bảo chất lượng dịch vụ, sự chuyển giao phải không
ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng hiển thị trên máy cầm tay di động.
Khung MPE-FEC
MPE-FEC
Hình 3.18: Cấu trúc khung MPE-FEC
(1 khung FEC=255 byte x 1024 (M ax) = 255 Kbyte).
Dữ liệu âm thanh và video trong môi trường DVB-H được phân phát sử dụng
IP datacast, nghĩa là dữ liệu được đóng gói với các tiêu đề IP và được phát theo
phương thức như được phát qua mạng Internet. Tuy nhiên, môi trường vô tuyến
thường bị lỗi cao do ảnh hưởng của fading, nhiễu và các hiệu ứng truyền dẫn khác.
Mặc dù kỹ thuật OFDM được sử dụng để khắc phục các ảnh hưởng của fading chọn
lọc theo tần số, dữ liệu yêu cầu cần được bảo vệ tốt hơn bằng cách sử dụng mã sửa
lỗi hướng đi (MPE-FEC). Mã FEC được thực hiện ở lớp vật lý. MPE-FEC là không
bắt buộc đối với DVB-H ở máy phát cũng như ở máy thu. MPE-FEC được thực
hiện theo cách mà máy thu không có module xử lý MPE-FEC vẫn có thể thu và hiển
thị dữ liệu được mang bởi một dòng sơ cấp sử dụng M PE-FEC.
Nguyên lý của MPE-FEC là bổ sung thêm các mã Reed-Solomon (RS) tới
mỗi cụm được cắt lát thời gian. Các bit chẵn lẻ RS được tính toán từ các IP
datagram của cụm. Dữ liệu RS được đóng gói thành các phần MPE-FEC, cũng là
một phần của cụm, và được phát ngay lập tức sau phần MPE cuối cùng của cụm
trong cùng dòng sơ cấp ES; phần MPE-FEC có table_id khác các phần MPE, điều
này cho phép máy thu phân biệt được giữa hai phần này trong dòng ES. Cấu trúc
khung MPE-FEC được mô tả trên Hình 3.18. M ột khung gồm hai phần: Bảng dữ
liệu ứng dụng gồm các datagram và bảng dữ liệu Reed-Solom on với các bit chẵn lẻ.
Dữ liệu được phát cột theo cột và từ trên xuống dưới mỗi cột bắt đầu từ góc trái trên
cùng của khung. Kích thước của một phần tử của các toạ độ duy nhất (hàng, cột) là
1 byte. Khung có thể có 256, 512, 768 hoặc 1024 hàng.
Trong bảng dữ liệu ứng dụng, các datagram được sắp xếp cột theo cột trong
khung. Nếu kích thước của một datagram lớn hơn kích thước của một cột thì
datagram được tiếp tục ở cột tiếp theo, ví dụ như datagram 1 và datagram 2 ở Hình
3.18. Độ dài của bảng dữ liệu ứng dụng là 191 cột, nếu có ít dữ liệu hơn tổng dung
lượng của bảng, thì các vị trí byte còn lại được đệm bằng các byte zero sau
datagram IP cuối cùng.
Độ dài của bảng dữ liệu RS là 64 cột. Trên mỗi hàng 64 byte chẵn lẻ của
bảng dữ liệu RS được tính toán từ 191 byte IP datagram (và các byte đệm, nếu có) ở
cùng hàng, sử dụng mã Reed-Solomon RS (255, 191); nhờ đó tạo ra ghép xen thời
gian lớn, vì tất cả các byte dữ liệu RS được tính toán từ các IP datagram được phân
bố qua tất cả các cụm. Một đặc tính lựa chọn của MPE-FEC là puncturing, nghĩa là
một số cột RS cuối cùng không thực sự được phát, do đó làm giảm phần mào đầu
Truyền dẫn dữ liệu MPE-FEC
của dữ liệu RS tạo ra bởi các cột đệm.
Mỗi IP datagram được phát trong một p hần MPE và mỗi cột của bảng dữ liệu
RS được phát trong một phần MPE-FEC. Tất cả các tiêu đề của các phần MPE và
MPE-FEC bao gồm trường các tham số thời gian thực có kích thước 4 byte, trong
đó có 12 bit địa chỉ khởi đầu chỉ thị số byte (được đếm từ điểm khởi đầu của bảng)
của vị trí khởi đầu của IP datagram hoặc của cột dữ liệu RS tương ứng, 18 bit tham
số delta_t và các cờ độ dài 1 bit để thông báo điểm cuối của bảng và cuối của
khung. Các phần tiêu đề của các phần M PE-FEC cũng mang thông tin về số các cột
đệm trong bảng dữ liệu ứng dụng, vì thông tin này phải được biết trước khi thực
Giải mã ở m áy thu
hiện giải mã RS.
Một trong những chiến lược giải mã ở máy thu như sau [8]:
Máy thu kiểm tra CRC-32 của tất cả các phần thu được của dòng sơ cấp ES
được chọn. Kiểm tra CRC-32 cho phép phát hiện ra các phần lỗi, các phần lỗi này
có thể bị loại bỏ bởi máy thu. Bằng cách này, chỉ có các phần chính xác được đưa
tới giải mã MPE-FEC. Mỗi IP datagram hoặc cột dữ liệu RS thu được chính xác
được đặt ở vị trí chính xác trong khung MPE-FEC nhờ sử dụng thông tin của địa chỉ
khởi đầu của mỗi phần. Nếu có lỗi truyền dẫn, sẽ có một số khoảng trống còn lại
trong khung MPE-FEC, tương ứng với các phần bị tổn thất. Máy thu sẽ coi tất cả
các byte thu được chính xác là tin cậy và các vị trí byte khác là không tin cậy. Do
đó máy thu có thể thực hiện chiến lược giải mã dựa trên-việc tẩy (erasure-based
decoding) của mã RS(255, 191), cho phép sửa hai lần số byte lỗi, trong trường hợp
đang xét là 64 byte trên mỗi hàng. Giả sử một IP datagram tương ứng với một cột
thì khả năng sửa lỗi là 64 cột bị tổn thất trên mỗi khung.
3.2.4 Các mạng truyền dẫn DVB-H
3.2.4.1 Hệ thống DVB-H sử dụng IP datacasting
Hình 3.19 mô tả một hệ thống IPDC (IP Datacast) bao gồm các thành phần
khác nhau của hệ thống. Hệ thống dịch vụ được sử dụng để cung cấp các dòng IP
khác nhau (ví dụ như các dòng video) tới mạng. Các dòng IP này được phân phối
qua mạng multicast intranet tới các bộ đóng gói IP, đầu ra các bộ đóng gói này là
các dòng truyền tải DVB-H sử dụng kỹ thuật cắt lát thời gian và mã sửa lỗi MPE-
FEC. Các dòng truyền tải TS này sau đó được phân phối tới các máy phát DVB-T/H
của mạng quảng bá. Hệ thống IPDC có thể gồm các chức năng khác như tương tác
với các mạng GPRS hay UMTS.
Hình 3.19: Hệ thống IPDC điển hình.
3.2.4.2 Các cấu hình mạng DVB-H
Tiêu chuẩn DVB-H được thiết kế để cho phép các hệ thống quảng bá video
hoạt động một cách linh hoạt với nhiều cấu hình tương thích với các mạng truyền
hình số hiện tại hoặc có thể được lắp đặt mới. DVB-H có ba cấu hình hoạt động
được mô tả dưới đây.
Mạng DVB-H chia sẻ (chia sẻ bộ ghép kênh MPEG-2)
Mạng DVB-H chia sẻ được mô tả ở Hình 3.20. Đó là một mạng gồm các
máy phát DVB-T phục vụ cả các thiết bị đầu cuối DVB-H và thiết bị đầu cuối
DVB-T. Mạng DVB-T hiện tại phải được thiết kế đảm bảo sự thu được tín hiệu
trong nhà, do đó DVB-T có thể cung cấp cường độ tín hiệu đủ lớn cho các máy cầm
tay di động trong một vùng phục vụ nào đó. Sự thay đổi được yêu cầu ở máy phát
chỉ là bổ sung các bit báo hiệu DVB-H và các bit mô tả tế bào (Cell ID) vào thông
tin TPS của máy phát.
Hình 3.20: DVB-H chia sẻ bộ ghép kênh với DVB-T.
Trong mạng DVB-H chia sẻ, các kênh M obile TV sau khi được đóng gói bởi
bộ đóng gói IP (IPE) (MPE của dữ liệu IP, cắt lát thời gian và mã sửa lỗi M PE-FEC
được thực hiện) sẽ chia sẻ bộ ghép kênh DVB-T với các chương trình truyền hình
mặt đất khác. Các chương trình truyền hình mặt đất được mã hoá M PEG-2, trong
khi đó các chương trình truyền hình di động được mã hoá MPEG-4 và đưa tới bộ
IPE. Bộ ghép kênh sẽ kết hợp các chương trình này thành một dòng phát đơn và
dòng tín hiệu này được phát sau khi thực hiện điều chế.
Mạng phân cấp DVB-H (chia sẻ với DVB-T bằng phân cấp)
Hình 3.21: Hệ thống truyền dẫn Mobile TV sử dụng DVB-H.
Với DVB-H, các dịch vụ truyền hình và âm thanh được mã hoá bởi các bộ
mã hoá khác nhau. Các bộ mã hoá được kết nối qua một chuyển mạch IP tới bộ
đóng gói IP (IPE). IPE kết hợp tất cả các dịch vụ âm thanh và video cùng với phần
mô tả dịch vụ như hướng dẫn dịch vụ điện tử (EPG), các tín hiệu thông tin dịch vụ
(SI) thành các khung IP. IPE sau đó biến đổi các dòng IP thành dòng truyền tải
DVB-H sử dụng đóng gói đa giao thức (MPE), thực hiện kỹ thuật cắt lát thời gian
và sử dụng mã sửa lỗi MPE-FEC khi cần thiết. Đầu ra của IPE sau đó được điều chế
bởi bộ điều chế COFDM với các sóng mang 4K hoặc 8K. Tiêu chuẩn DVB-T cung
cấp chế độ 2K và 8K khi điều chế COFDM. Ở mạng phân cấp, bộ điều chế được
phân cấp với hai dòng truyền tải DVB-H và DVB-T, đầu ra của bộ điều chế là giống
nhau. Tín hiệu DVB-T được điều chế như là dòng truyền tải có mức ưu tiên thấp và
tín hiệu DVB-H được điều chế như là dòng truyền tải có mức ưu tiên cao. Ở mức
ưu tiên cao, các sơ đồ điều chế có khả năng chống lỗi tốt hơn sẽ được sử dụng, ví dụ
Mạng DVB-H dành riêng
như QPSK; còn ở mức ưu tiên thấp, sơ đồ điều chế như 16QAM sẽ được sử dụng.
Mạng DVB-H dành riêng được thiết kế bởi các nhà khai thác mới chưa có cơ
sở hạ tầng mạng quảng bá số mặt đất. Mạng DVB-H dành riêng được mô tả ở Hình
3.22.
Hình 3.22: Mạng DVB-H dành riêng.
Mạng gồm một số vùng mạng đơn tần (SFN), mỗi vùng SFN được phân bổ
tần số riêng. Kích thước cực đại của một vùng SFN phụ thuộc vào kích thước FFT,
khoảng bảo vệ và tính chất địa lý của vùng trong mạng, bán kính điển hình có thể là
vài chục km. Mỗi vùng SFN có một số máy phát được đồng bộ-GPS được hỗ trợ
bởi một số bộ lặp để phủ sóng tới các khu vực nhỏ hơn. Bởi vì cường độ trường tín
hiệu yêu cầu trong mạng DVB-H là tương đối cao và công suất nhiễu tổng cộng
được cho phép bị giới hạn, vì vậy số lượng máy phát chính được đồng bộ nên nhiều
và công suất máy phát, độ cao anten nên thấp hơn so với ở mạng DVB-T truyền
thống. Mạng này được gọi là mạng SFN dày đặc. Chi phí thiết kế mạng DVB-H
dành riêng sẽ cao hơn so với việc chia sẻ với mạng DVB-T truyền thống, nhưng số
dịch vụ trong một bộ ghép kênh sẽ nhiều hơn khoảng 10 lần so với ở mạng DVB-T
[8].
3.2.4.3 Các mạng máy phát DVB-H
Tiêu chuẩn ETSI 102 377 cung cấp phần máy thu tham chiếu, có thể tham
khảo để thực hiện thiết kế hệ thống DVB-H. Tuỳ thuộc vào yêu cầu của vùng phủ
sóng, các hệ thống DVB-H có thể được thiết kế với các mạng đơn tần hoặc với các
Tế bào DVB-H
mạng đa tần.
Một thị trấn nhỏ có thể được phủ sóng bằng một tế bào DVB-H gồm một máy
phát và 10-20 bộ lặp [1]. Các bộ lặp được yêu cầu để phủ sóng các vùng bóng dâm
do địa hình địa lý. Một bộ lặp là một máy phát nhỏ với anten có độ tăng ích cao để
thu các tín hiệu từ máy phát chính. Do các yêu cầu của mạng đơn tần (SFN), cấu
hình trên không thể mở rộng ra ngoài một khoảng xác định, vì trễ thời gian thu tín
hiệu từ máy phát chính sẽ dẫn tới tín hiệu được phát lại từ bộ lặp bị lệch pha so với
máy phát chính.
Số lượng bộ lặp trong một tế bào DVB-H được quyết định bởi công suất của
máy phát chính cũng như độ cao tháp anten. Tháp anten rất cao sẽ giảm các vùng
Các m ạng đơn tần
bóng dâm và số lượng bộ lặp cần thiết trong một khu vực địa lý nhất định.
Hình 3.23: Các mạng đơn tần DVB-H.
Các khu vực lớn như các thành phố có bán kính khoảng 50 km có thể được
phủ sóng bằng cách sử dụng một mạng đơn tần SFN [1]. Mạng SFN gồm một số tế
bào DVB-H, mỗi tế bào có một máy phát và một số bộ lặp (Hình 3.23). Các máy
phát thu tín hiệu ở dạng dòng truyền tải MPEG-2 từ IPE. Một mạng IP được sử
dụng để phân phối tín hiệu tới tất cả máy phát trong một khu vực xác định. Tất cả
máy phát do đó thu cùng tín hiệu được đồng bộ thời gian bằng đồng hồ dựa trên
GPS. Ở mỗi máy phát, bộ điều chế COFDM đồng bộ tín hiệu sử dụng tham chiếu
thời gian GPS để tất cả máy phát phát tín hiệu được đồng bộ thời gian mặc dù vị trí
địa lý của chúng là khác nhau. Số lượng bộ lặp được sử dụng với mỗi máy phát có
Các m ạng đa tần
thể tăng để đảm bảo thu được tín hiệu ở trong nhà.
Khi kích thước vùng phủ sóng lớn (ví dụ như toàn bộ vùng có bán kính vài
trăm km) thì việc phát nguồn tín hiệu từ một IPE đơn lẻ trở nên không thực tế do
các trễ thời gian trong việc phân phát tín hiệu tới tất cả máy phát. Trong trường hợp
này, các máy phát nằm ngoài một khoảng cách nào đó sẽ sử dụng các tần số khác
nhau. Dựa trên cấu hình vùng địa lý, 5 hoặc 6 khe tần số là cần thiết để p hủ sóng
toàn vùng. Trong các trường hợp như vậy, thường phân phối tín hiệu sử dụng vệ
tinh để hàng trăm máy phát có thể được phủ sóng, bao gồm cả các khu vực ở xa.
3.2.5 Thiết bị đầu cuối DVB-H
Hình 3.24: Thiết bị đầu cuối DVB-H.
Thiết bị đầu cuối DVB-H bao gồm các chức năng sau đây [8]:
- Máy thu DVB-H (gồm một bộ giải điều chế DVB-T, một module cắt lát
thời gian và một module M PE-FEC lựa chọn). Bộ giải điều chế DVB-T khôi phục
các gói M PEG-2 TS từ tín hiệu vô tuyến DVB-T. Bộ giải điều chế cung cấp ba chế
độ truyền dẫn tương ứng: 8K, 4K, và 2K với tín hiệu tương ứng. Module cắt lát thời
gian điều khiển máy thu để giải mã dịch vụ mong muốn và tắt nguồn trong khoảng
thời gian của dịch vụ khác. Module cắt lát thời gian giảm công suất tiêu thụ của
máy thu và cho phép chuyển giao tần số giữa các tế bào. Module MPE-FEC cung
cấp thêm khả năng sửa lỗi, ngoài khả năng sửa lỗi ở lớp vật lý, cho phép máy thu có
thể thu được tín hiệu trong các điều kiện khó khăn.
- Bản thân thiết bị đầu cuối DVB-H: Máy cầm tay đầu cuối giải mã/ sử dụng
các dịch vụ dựa trên IP. Chú ý rằng chế độ 4K và các bộ ghép xen theo độ sâu là
không khả dụng trong trường hợp bộ ghép kênh được chia sẻ giữa các dịch vụ dành
cho các máy thu DVB-T cố định và các dịch vụ dành cho các thiết bị DVB-H.
3.3 Mobile TV sử dụng công nghệ DMB
3.3.1 Giới thiệu chung
Công nghệ quảng bá đa phương tiện số (DMB) là sự mở rộng của công nghệ
quảng bá âm thanh số (DAB). Hệ thống DA B được sử dụng ở khoảng 35 nước trên
thế giới để phát quảng bá tín hiệu âm thanh số, bao gồm: Canada, Úc, Nam Phi,
Châu Âu, Châu Á gồm cả Trung Quốc. Tín hiệu quảng bá số DA B có thể thu được
bởi nhiều máy thu di chuyển hay máy thu cố định. DA B được phát triển bởi dự án
thứ 147 của EUREKA nên được gọi là hệ thống EUREKA -147. Hệ thống
EUREKA -147 được sử dụng để phát quảng bá tín hiệu âm thanh số mặt đất và qua
vệ tinh, hệ thống này sử dụng bộ ghép kênh số thực hiện ghép kênh theo chương
trình để truyền tải một số chương trình ở các tốc độ bit khác nhau.
Hình 3.25: Hệ thống DAB EUREKA-147.
Các băng thông ở sơ đồ DAB được phân bổ cho các kênh âm thanh là tương
đối rộng, ví dụ như 256 kbps cho dịch vụ M USICAM (MPEG-1,2, lớp 2) [1]. Do đó
DAB có thể truyền tải được các kênh đa phương tiện (âm thanh và video) với mã
hoá hiệu quả cao như MPEG-4 hoặc H.264 cho video, và AA C-HE hoặc AAC+ cho
âm thanh.
3.3.2 Kiến trúc hệ thống DMB
DMB sử dụng lớp vật lý, các giao diện vô tuyến và cấu trúc ghép kênh của
DAB để truyền tải các dòng M PEG-2 TS [1]. Hình 3.26 mô tả kiến trúc hệ thống
DMB được mở rộng từ hệ thống DA B EUREKA-147.
Hình 3.26: Hệ thống DMB.
DMB sử dụng công nghệ truyền dẫn DA B với một số sự mở rộng như thêm
vào các sơ đồ mã hoá nguồn cho các nội dung âm thanh và video, sử dụng các
phương pháp hiệu quả để khắc phục các ảnh hưởng của môi trường vô tuyến di
động, cho phép thu các chương trình truyền hình di động với chất lượng cao thậm
chí khi người sử dụng di chuyển ở tốc độ lên tới 200 km/h [1]. DAB/DMB sử dụng
các kênh tần số có băng thông 1.536 MHz và tốc độ dữ liệu từ 1 đến 1.5 Mbps để
truyền dẫn các kênh truyền hình di động và dữ liệu khác. DM B hỗ trợ một số chế độ
truyền dẫn để tương thích với hiện tượng truyền dẫn đặc biệt các tín hiệu âm thanh
trong các dải tần số khác nhau, các hệ thống DMB do đó có thể hoạt động rất linh
hoạt trong dải tần giữa 30 MHz và 3 GHz. Truyền dẫn DMB có thể được thực hiện
trên các mạng mặt đất (T-DMB) hoặc phát qua vệ tinh (S-DM B). Các băng tần
truyền dẫn là: 174-240 MHz (băng III) và 1452-1492 MHz (băng L) đối với T-
DMB; 2605-2655 MHz (băng S) đối với S-DMB.
T-DM B được thực hiện bằng mạng có nhiều máy phát, hoạt động như là
mạng đơn tần (SFN) hoặc mạng đa tần (MFN). Ở mạng SFN, tất cả máy phát sử
dụng các kênh có tần số giống nhau, để tránh nhiễu đồng kênh ở máy thu, tất cả
máy phát phải phát đồng thời cùng dòng dữ liệu và do đó phải được đồng bộ với
nhau. Hầu hết các mạng SFN trong DMB chiếm dụng các kênh tần số ở băng III,
mỗi máy phát có thể phủ sóng một vùng có bán kính lên tới 100 km. Ở mạng MFN,
các máy phát sử dụng các kênh có tần số khác nhau, vùng phủ sóng của một máy
phát MFN không lớn hơn 25 km, do đó MFN có chi phí triển khai và vận hành cao
hơn so với SFN. Ngoài ra, MFN cũng yêu cầu máy thu phải thực hiện chuyển giao
khi máy thu di chuyển qua biên giới giữa hai vùng phủ sóng lân cận được phục vụ
bởi các máy phát khác nhau.
Một vệ tinh S-DMB phục vụ một vùng phủ sóng có bán kính hàng trăm km
và được đặt ở quỹ đạo địa tĩnh. Thiết bị đầu cuối có thể thu tín hiệu trực tiếp từ vệ
tinh hoặc từ mạng các bộ lặp. Các bộ lặp được sử dụng trong các khu vực mà tín
hiệu thu từ vệ tinh yếu như trong các toà nhà hoặc gần các toà nhà lớn. S-DMB
cũng hỗ trợ các mạng 3G như UM TS. Thiết bị đầu cuối 3G có thể thu tín hiệu trực
tiếp từ vệ tinh hoặc từ các trạm gốc của mạng UMTS mặt đất.
3.3.3 Kiến trúc phân lớp của DMB
Giao thức quảng bá được hỗ trợ bởi DA B/DMB được mô tả ở Hình 3.27.
DMB cung cấp các dịch vụ video, âm thanh và dữ liệu. Đối với dịch vụ video, hệ
thống DA B EUREKA-147/DMB hỗ trợ công nghệ MPEG-2 và MPEG-4. Đối với
dịch vụ dữ liệu, hệ thống DAB/DMB hỗ trợ một dải các giao thức truyền tải bao
gồm: truyền tải đối tượng đa phương tiện (M OT), đường hầm IP và kênh dữ liệu
trong suốt (TDC). Trên các giao thức này, hệ thống DAB/DMB có thể truyền tải
thông tin dữ liệu khác nhau như dữ liệu kết hợp chương trình (PA D) và dữ liệu kết
hợp không chương trình (NPAD).
Hình 3.27: Kiến trúc phân lớp của DMB.
3.3.3.1 Dịch vụ video DMB
Dịch vụ video DMB cho phép phát quảng bá số các chương trình truyền hình
di động tới thiết bị đầu cuối di động qua mạng DA B. Hình 3.28 mô tả các chức
năng quan trọng của dịch vụ video, đó là: mã hoá nguồn nhằm nén video, âm thanh
và dữ liệu phụ; chức năng đồng bộ và kết hợp các dòng dữ liệu khác nhau.
Hình 3.28: Các chức năng chính của dịch vụ video DMB.
Bởi vì băng thông của kênh được cung cấp bởi DM B bị hạn chế (cực đại là
1.5 M bps), nên phương pháp mã hoá nguồn phải hết sức hiệu quả, hơn nữa thuật
toán nén và mã hoá không được quá phức tạp, cho phép máy thu có thể giải mã với
sự tiêu thụ công suất thấp và chi phí phần cứng thiết bị đầu cuối di động không quá
đắt.
3.3.3.2 Dịch vụ âm thanh DAB
Mục tiêu của các dịch vụ âm thanh DAB là phân phối các chương trình radio
số thay thế cho các chương trình radio VHF tương tự. Sử dụng kỹ thuật số có khả
năng khắc phục và sửa được các lỗi truyền dẫn, do đó làm tăng chất lượng tín hiệu.
DAB được thiết kế để phân phối nội dung âm thanh ở chất lượng CD bằng cách sử
dụng sơ đồ mã hoá nguồn MUSICAM (MPEG-1, 2 lớp 2). Tốc độ dữ liệu yêu cầu
phụ thuộc vào chất lượng âm thanh mong muốn, có thể thay đổi từ 8-384 kbps.
Dich vụ âm thanh DAB hỗ trợ truyền dẫn các chương trình radio ở chế độ mono và
stereo. Ngoài ra, dịch vụ DAB cũng cho phép phát các bản tin ngắn mang thông tin
dữ liệu kết hợp chương trình (PAD). Các bản tin này được phát song song với
chương trình radio và được hiển thị ở thiết bị đầu cuối, ví dụ để thông báo cho
người nghe về tiêu đề chương trình, tên album và nghệ sĩ đang biểu diễn bài hát...,
hoặc để thông báo thông tin tắc nghẽn giao thông... Truyền dẫn các bản tin PAD và
thời điểm biểu diễn chúng trên thiết bị đầu cuối có thể được đồng bộ với dòng âm
thanh của các bản tin đó.
3.3.3.3 Dịch vụ dữ liệu
DMB có thể phát một dải rộng các dịch vụ dữ liệu hơn PAD. Dịch vụ dữ liệu
truyền tải các gói dữ liệu có kích thước cố định. Không giống như PAD , dữ liệu
được phát độc lập với các dòng video và âm thanh, nên được gọi là dữ liệu kết hợp
không chương trình (NPAD). Các ứng dụng quan trọng nhất của dịch vụ dữ liệu
được sử dụng là truyền tải đối tượng đa phương tiện (MOT) và đường hầm IP.
MOT cho phép truyền tải theo chu kỳ các đối tượng được yêu cầu thường
xuyên, ví dụ như các trang web, hình ảnh hoặc các chuỗi video, âm thanh. Các đối
tượng lớn được tách thành các segment nhỏ hơn, các segment này được truyền tải
độc lập. Truyền dẫn các segment được lặp lại định kỳ theo một mẫu xác định, được
gọi là carousel. Các máy thu chỉ cần đợi cho tới khi các segment của nội dung
mong muốn được phát quảng bá trên carousel và thu các segment này. Nếu một
segment nào đó bị lỗi không thể sửa được thì máy thu có thể đợi chu kỳ truyền dẫn
tiếp theo để thu được dữ liệu chính xác.
Đường hầm IP còn gọi là IP-DAB là phương thức p hát quảng bá các gói IP
qua mạng DAB/DM B. Đường hầm IP đóng gói các gói dữ liệu IP thành các gói của
dịch vụ dữ liệu, truyền tải các gói này qua mạng DAB/DMB. Bằng cách này, các
ứng dụng TCP/IP như các trình duyệt Web, giao thức truyền tải file (FTP), và
SMTP (e-mail) có thể được sử dụng trên lớp liên kết dữ liệu DA B/DMB (Hình
3.29). Vì các gói dữ liệu IP có thể có kích thước lớn hơn đáng kể so với kích thước
cho phép cực đại của gói DAB/DMB, nên gói IP được tách thành các gói có kích
thước nhỏ hơn và truyền dẫn trong các gói DAB/DMB một cách tuần tự. Đường
hầm IP do đó có thể được sử dụng để phân phối nhanh và hiệu quả nội dung
Internet qua giao diện vô tuyến.
Hình 3.29: Giá giao thức đường hầm IP.
Hình 3.29 mô tả giá giao thức đường hầm IP. Các ứng dụng không quan tâm
tới lớp truyền tải phía dưới, mà chỉ sử dụng các gói TCP/UDP mà các ứng dụng này
thu được. Giống như M OT, đường hầm IP là truyền tải đơn hướng. Do đó, để đảm
bảo thu được chính xác các gói thì các gói ở lớp liên kết dữ liệu được phát nhiều
lần. Nếu một gói chính xác được thu thì gói này sẽ được chuyển tới lớp IP.
3.3.3.4 Dịch vụ tương tác
Hình 3.30: Kết hợp các mạng DMB và GSM/UMTS
để cung cấp các dịch vụ truyền hình tương tác.
Sự kết hợp DMB với các mạng di động tế bào như GSM hoặc UMTS cho
phép phân phối các chương trình truyền hình tương tác tới người sử dụng (Hình
3.30). Dịch vụ dữ liệu (như dịch vụ bản tin ngắn SMS được cung cấp bởi mạng
GSM) của mạng di động có thể được sử dụng như là kênh phản hồi thực hiện giao
dịch của người sử dụng tới nhà cung cấp nội dung truyền hình tương tác. Các dịch
vụ phổ biến nhất được cung cấp bởi các nhà cung cấp nội dung là hướng dẫn
chương trình điện tử, tin tức, dự báo thời tiết, thông tin lưu lượng giao thông... Tuy
nhiên, các giao thức cần thiết cho dịch vụ truyền hình tương tác không được đặc tả
cố định trong các tiêu chuẩn DMB, mà hầu hết đều là các giải pháp riêng.
3.3.4 Mã hoá kênh và ghép kênh
Các dòng dữ liệu từ các dịch vụ khác nhau được mã hoá kênh để chống lại
các tác động của nhiễu trên kênh, sau đó các dòng dữ liệu đã được mã hoá của các
dịch vụ khác nhau được ghép kênh thành một dòng truyền tải chung trước khi
truyền dẫn. Hình 3.31 mô tả quá trình mã hoá kênh và ghép kênh của DAB/DMB.
Hình 3.31: Mã hoá kênh và ghép kênh DAB/DMB.
Quá trình mã hoá kênh và ghép kênh các dịch vụ DA B/DM B được mô tả như
sau:
3.3.4.1 Mã hoá kênh và ghép xen theo thời gian
Mã hoá xoắn (1):
Các dòng dữ liệu của tất cả dịch vụ được mã hoá xoắn. Mã hoá xoắn thực
hiện ánh xạ n bit đầu vào thành m bit đầu ra (m>n). Các bit đầu ra được tạo thành
bằng cách tính tích chập các đầu ra của các thanh ghi dịch phản hồi tuyến tính theo
một cách nào đó. M áy thu sử dụng thuật toán Viterbi để giải mã dòng dữ liệu vào.
Tỷ lệ giữa số bit đầu vào và số bit đầu ra bộ mã hoá được gọi là tỷ lệ mã (R=n/m).
Tỷ lệ mã càng thấp thì khả năng sửa lỗi càng cao, nhưng khi đó tốc độ dữ liệu của
kênh lại thấp. Do đó, các tiêu chuẩn DA B/DMB sử dụng một tỷ lệ mã phù hợp với
mức độ nhiễu của môi trường truyền dẫn.
Ghép xen theo thời gian (2):
Bộ giải mã Viterbi rất hiệu quả trong việc phát hiện và sửa các lỗi bit đơn.
Tuy nhiên, môi trường truyền dẫn vô tuyến thường xuyên chịu ảnh hưởng của lỗi
cụm (lỗi chùm), tức là có nhiều bit liên tiếp bị lỗi. Do đó, hệ thống DAB/DMB thực
hiện ghép xen theo thời gian để phân tán lỗi. Dòng dữ liệu được chia thành các từ
mã có độ dài cố định, các bit liên tiếp của một từ mã được hoán đổi với các bit của
các từ mã đứng trước và từ mã đứng sau theo một thuật toán nào đó. Ở máy thu, dãy
bit ban đầu được khôi phục nhờ quá trình giải ghép xen. Nhờ sử dụng ghép xen theo
thời gian các cụm lỗi được phân tán qua các từ mã, tức là lỗi cụm được chia thành
các lỗi bit đơn có thể sửa được bằng bộ giải mã Viterbi.
Nhược điểm của ghép xen theo thời gian là gây ra trễ ở máy thu, vì máy thu
phải đợi tới khi thu được tất cả các bit cần thiết để thực hiện giải ghép xen nhằm
khôi phục lại dãy dữ liệu ban đầu. Trễ này có thể lên tới hàng trăm ms, mặc dù trễ
này không là vấn đề với hầu hết các dịch vụ DA B/DM B, nhưng trễ này là quá lớn
đối với việc truyền dẫn thông tin điều khiển nhạy cảm về thời gian hay một số dịch
vụ dữ liệu khác. Do đó, dữ liệu nhạy cảm với thời gian được truyền tải trên kênh
thông tin nhanh (FIC) không sử dụng ghép xen theo thời gian. Kênh này sử dụng sơ
đồ mã xoắn có khả năng chống lỗi tốt hơn các kênh khác.
Mã hoá khối (4):
Các dòng dữ liệu của dịch vụ DM B video sử dụng thêm mã hoá khối (mã
ngoài) trước khi mã hoá xoắn ở máy phát và giải mã khối sau khi giải mã xoắn ở
máy thu để tăng khả năng chống lỗi trên kênh nhằm phục vụ người sử dụng di
chuyển ở tốc độ cao có thể lên tới 200 km/h với chất lượng chấp nhận được. Cụ thể:
dòng dữ liệu video MPEG-2 được chia thành các khối có độ dài 187 byte. Đối với
mỗi khối, một mã Reed-Solomon được tạo ra và được gán kèm khối tương ứng như
là một từ mã chẵn lẻ có độ dài 16 byte. Phương pháp này cho phép sửa được tới 8
byte bị lỗi trên một khối. Các khối liên tiếp và các từ mã chẵn lẻ kết hợp sau đó
được ghép xen theo thời gian để phân tán lỗi cụm.
3.3.4.2 Ghép kênh
Các dòng dữ liệu được ghép xen theo thời gian của các dịch vụ được kết hợp
thành dòng truyền tải chung nhờ quá trình ghép kênh. Ghép kênh được tổ chức
thành cấu trúc khung như được mô tả ở Hình 3.32. Một khung truyền dẫn được chia
thành ba trường để truyền tải dữ liệu là: kênh đồng bộ (SC), kênh thông tin nhanh
(FIC) và kênh dịch vụ chính (MSC).
- Kênh đồng bộ SC: Kênh này truyền tải mẫu bit đã được cố định, tiêu chuẩn
để đánh dấu sự khởi đầu của khung, được sử dụng bởi máy thu để thực hiện đồng
bộ với máy phát.
- Kênh thông tin nhanh FIC: Kênh này chủ yếu truyền tải thông tin cấu hình
ghép kênh (MCI), chỉ thị cấu trúc và tổ chức của bộ ghép kênh. Vì các thông tin này
là thông tin nhạy cảm với thời gian nên không được ghép xen theo thời gian.
- Kênh dịch vụ chính MSC: Kênh này truyền tải dữ liệu người sử dụng từ
các dịch vụ DAB/DMB khác nhau và được chia thành các kênh con. Mỗi kênh con
chỉ truyền tải một dòng dữ liệu của một dịch vụ nào đó (ví dụ như dịch vụ âm thanh
DAB hoặc dịch vụ DM B video), tức là nhiều dòng dữ liệu thuộc về cùng một dịch
vụ hoặc các dịch vụ khác nhau không được cho phép truyền tải trên cùng kênh con.
Kích thước các trường có thể thay đổi phụ thuộc vào tốc độ dữ liệu được yêu cầu
bởi dịch vụ tương ứng. Máy thu có thể nhận được mối liên hệ giữa các dịch vụ và
các kênh con kết hợp từ thông tin cấu hình ghép kênh MCI.
Khung truyền dẫn
Ghép xen theo thời gian
Không ghép xen thời gian
Kênh dịch vụ chính (MSC)
Kênh đồng bộ
Kênh thông tin nhanh (FIC)
Kênh con 2
Kênh con 3
Kênh con 4
Kênh con 5
Kênh con 6
Kênh con 7
Kênh con 8
Kênh con 1
Video Audio
Video
Audio
Video
Audio
Video
Audio
Chương trình Mobile TV 2
Chương trình Mobile TV 4
Chương trình Mobile TV 1
Chương trình Mobile TV 3
Hình 3.32: Cấu trúc khung truyền dẫn DAB/DMB.
Toàn bộ quá trình ghép kênh được điều khiển bởi bộ điều khiển ghép kênh
(bước (6) ở Hình 3.31). Trước tiên, các dòng dữ liệu độc lập được kết hợp ở bộ
ghép kênh M SC (7). Sau đó bộ ghép kênh MSC thực hiện ghép kênh dữ liệu kênh
thông tin nhanh FIC với kênh dữ liệu chính MSC. Thông tin của bộ điều khiển ghép
kênh cũng được mã hoá xoắn một cách độc lập với mỗi dòng dữ liệu để chọn một
tốc độ mã p hù hợp.
Vị trí của một kênh con trong khung truyền dẫn được thông báo tới máy thu
bằng thông tin cấu hình ghép kênh M CI. Do đó, máy thu chỉ cần thu và giải mã các
kênh con mà nó quan tâm và không kích hoạt trong thời gian thu các kênh con khác,
điều này làm giảm công suất tiêu thụ của máy thu (tức là máy thu sử dụng kỹ thuật
cắt lát thời gian nhằm tiết kiệm pin). Ví dụ như khung truyền dẫn gồm bốn kênh
truyền hình di động, mà người sử dụng chỉ quan tâm tới một kênh nào đó, thì máy
thu chỉ kích hoạt trong thời điểm thu kênh truyền hình đó và không kích hoạt trong
3/4 thời gian còn lại.
3.3.5 Điều chế và các chế độ truyền dẫn
3.3.5.1 Các chế độ truyền dẫn của DMB
Như đã nghiên cứu ở trên, kênh vô tuyến DAB/DM B có băng thông 1.536
MHz và đạt được tốc độ dữ liệu từ 1-1.5 Mbps, tuỳ thuộc vào các tỷ lệ mã xoắn
được sử dụng cho các dòng dữ liệu khác nhau, bán kính phủ sóng của một máy phát
DAB/DM B đơn có thể lên tới 100 km. Vấn đề chủ yếu khi phát dữ liệu tốc độ cao
qua khoảng cách lớn là tín hiệu dễ bị tác động của nhiễu. Các ảnh hưởng quan trọng
khi truyền dẫn tín hiệu trong môi trường vô tuyến di động gồm [2]: hiệu ứng đa
đường, tổn hao, tạp âm, bóng dâm gây bởi các toà nhà, và dịch tần Doppler khi máy
thu chuyển động. M ột trong những nguyên nhân quan trọng gây ra lỗi truyền dẫn
đối với DAB/DMB là hiện tượng xuyên nhiễu giữa các ký hiệu (ISI). Để khắc phục
ảnh hưởng của ISI và sử dụng hiệu quả băng tần, các hệ thống DMB sử dụng kỹ
thuật ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM ). Một kênh có băng thông
1.536 MHz được chia thành N sóng mang con trực giao với nhau, mỗi sóng mang
con sẽ truyền tải dữ liệu độc lập nhau.
Hình 3.33: Ghép kênh phân chia theo tần số trực giao (OFDM)
sử dụng trong hệ thống DMB.
Hệ thống DMB cung cấp bốn chế độ truyền dẫn, khác nhau về số sóng mang
con trong kênh có băng thông 1.536 MHz, về khoảng thời gian tồn tại của ký hiệu
và độ dài khung truyền dẫn. Việc lựa chọn sử dụng chế độ nào phụ thuộc vào loại
truyền dẫn (mặt đất hay vệ tinh), dải tần số được phân bổ và loại hình khu vực phủ
sóng (vùng nông thông, ngoại ô hay thành phố). Nếu truyền dẫn mặt đất T-DM B
được sử dụng, thì cần phân biệt giữa các mạng đơn tần SFN và các mạng đa tần
MFN. Bảng 3.3 mô tả các tham số tương ứng với bốn chế độ truyền dẫn.
Bảng 3.3. Các tham số của các chế độ truyền dẫn DMB
Chế độ I Chế độ II Chế độ III Chế độ IV
Mạng SFN M FN Cáp hoặc Mặt đất hoặc vệ
vệ tinh tinh
Dải tần số 174-216 1452-1467 < 3GHz T: 1452-1467
MHz MHz MHz
S: 1467-1492
MHz
48 km Khoảng cách 96 km 24 km 12 km
768 Số sóng mang 1536 384 192
con
Khoảng cách 1 kHz 4 kHz 8 kHz 2 kHz
giữa các sóng
mang con
Thời gian 1 ms 250 µs 125 µs 500 µs
symbol
Thời gian 246 µs 62 µs 31 µs 123 µs
khoảng bảo
vệ
Số bit/ 3072 768 384 1536
symbol
OFDM
Thời gian tồn 96 ms 24 ms 24 ms 48 ms
tại khung
Các chế độ có số sóng mang con nhiều và độ dài ký hiệu lớn được lựa chọn
cho các mạng bao gồm các máy phát DA B/DM B có khoảng cách phủ sóng lớn, vì
trong các mạng này tín hiệu có trải trễ lớn và bị ISI lớn. Các chế độ này đặc biệt phù
hợp với các mạng đơn tần, trong đó máy thu còn thu được cả tín hiệu từ các máy
phát lân cận. Trong những trường hợp đó, hệ thống DAB/DM B nên sử dụng chế độ
truyền dẫn I, có 1536 sóng mang con, khoảng cách giữa các sóng mang con là 1
KHz, độ dài ký hiệu là 1 ms. Trong các mạng mà tín hiệu có trải trễ nhỏ hơn, các
chế độ có số sóng mang con ít hơn và độ dài ký hiệu nhỏ hơn nên được sử dụng, ví
dụ như truyền dẫn vệ tinh có thể sử dụng chế độ III, có 192 sóng mang con, và độ
dài ký hiệu là 125 µs. ISI được khắc phục hơn nữa bằng cách sử dụng các khoảng
bảo vệ giữa các ký hiệu liên tiếp.
3.3.5.2 Điều chế và ghép xen tần số trong DMB
Hình 3.34: Điều chế sóng mang sử dụng DQPSK trong DMB.
Các khung truyền dẫn được tạo ra nhờ quá trình ghép kênh được điều chế
trên các sóng mang con của kênh vô tuyến OFDM. Hệ thống DA B/DM B sử dụng
sơ đồ điều chế khoá dịch pha vuông góc vi sai (DQPSK), trong đó pha của mỗi
sóng mang con được dịch phụ thuộc vào ký hiệu được phát. Bốn ký hiệu “00”, “01”, “11” và “10” được ánh xạ cho các dịch pha 00, 900, 1800 và -900. Đối với một
ký hiệu được phát, p ha của mỗi sóng mang con được thay đổi theo dịch pha tương
ứng và p hụ thuộc vào pha của ký hiệu trước đó (Hình 3.34).
Để khắc phục ảnh hưởng của lỗi cụm xảy ra khi nhiễu trải ra qua một số
sóng mang con lân cận, hệ thống DA B/DMB sử dụng kỹ thuật ghép xen theo tần số,
tương tự như ghép xen theo thời gian. Các khung truyền dẫn được chia thành các ký
hiệu OFDM, mỗi ký hiệu gồm N sóng mang con, tương ứng với N ký hiệu DQ PSK.
Các ký hiệu DQ PSK không được ánh xạ thành chuỗi tới các sóng mang con mà
được trộn theo một thuật toán nào đó theo cách mà các ký hiệu DQPSK liên tiếp
không được phát trong các sóng mang con lân cận. Hình 3.35 mô tả trường hợp
ghép xen theo tần số đối với một kênh vô tuyến OFDM sử dụng N=8 sóng mang
con.
Hình 3.35: Ghép xen theo tần số trong DMB.
Phụ thuộc vào độ rộng của dải tần số được phân bổ, một số kênh DAB/DM B
có thể được thực hiện song song. Ví dụ như ở Hình 3.36, dải tần số 7 hoặc 8 M Hz
tương ứng với băng thông của một kênh truyền hình tương tự có thể tích hợp bốn
kênh radio DAB/DMB để truyền dẫn đồng thời 15-20 chương trình truyền hình di
động.
Hình 3.36: Bốn kênh radio DAB/DMB trong băng tần 7-8 MHz.
3.4 Mobile TV sử dụng công nghệ MediaFlo
3.4.1 Giới thiệu chung
Công nghệ MediaFLO (chỉ có liên kết hướng đi - từ mạng tới thiết bị) là một
hệ thống multicast đa phương tiện di động mặt đất được phát triển bởi hãng
QUA LCOM M [17]. Công nghệ MediaFLO được thiết kế để có thể phát multicast
hiệu quả và kinh tế nội dung đa phương tiện tới hàng triệu người sử dụng di động
đồng thời. Công nghệ MediaFLO không hỗ trợ sự tương thích với các hệ thống
khác. Cụ thể hơn, lớp vật lý FLO truyền dẫn ở các băng tần VHF/UHF/L, với các
băng thông 5, 6, 7, và 8 MHz. Do đó, cơ sở hạ tầng mạng và máy thu FLO là hoàn
toàn riêng rẽ với mạng di động tế bào. FLO hỗ trợ nhiều dịch vụ đa p hương tiện,
bao gồm các dịch vụ thời gian thực như streaming video, âm thanh, tele-text, các
dịch vụ không thời gian thực như clip cast, tải file về để xem sau đó... và dịch vụ IP
datacast. Hệ thống MediaFLO được thiết kế tối ưu qua tất cả các lớp của giá giao
thức và là một giải pháp tích hợp để p hân phát multicast. Lớp vật lý FLO được thiết
kế để đảm bảo cơ chế tiết kiệm công suất tiêu thụ, giảm thiểu thời gian chuyển kênh
trong khi lại đạt được tăng ích phân tập thời gian và tần số ở thiết bị đầu cuối di
động. Hơn nữa, FLO cũng được thiết kế để đảm bảo tính linh hoạt trong việc triển
khai hệ thống, và đạt được hiệu quả sử dụng phổ cao, ví dụ FLO có thể hỗ trợ
truyền dẫn khoảng 20 dịch vụ thời gian thực trên băng thông 6 M Hz.
Công nghệ MediaFLO được triển khai ở M ỹ (băng 700 M Hz – UHF kênh
55) và là công nghệ quảng bá di động cho các dịch vụ truyền hình di động trực tiếp
của hãng AT&T và Verizon Wireless. Công nghệ MediaFLO là một tiêu chuẩn mở
được tham chiếu bởi các khuyến nghị ITU-R và là tiêu chuẩn được xuất bản bởi
TIA TR47.1 Subcommittee, bao gồm: TIA-1099, TIA-1120 (giao diện vô tuyến),
TIA-1102, TIA-1103, TIA-1104 (các đặc tả chất lượng).
3.4.2 Kiến trúc hệ thống FLO
3.4.2.1 Mô tả hệ thống
Một hệ thống FLO bao gồm bốn phân hệ: Trung tâm điều hành mạng, các
máy phát FLO, mạng 3G và các thiết bị đầu cuối FLO.
- Trung tâm điều hành mạng gồm trung tâm điều hành quốc gia (NOC) và
các trung tâm điều hành địa phương (LOC).Trung tâm điều hành quốc gia thực hiện
việc tính cước, phân phát và quản lý nội dung. NO C quản lý các phần tử khác nhau
của mạng và đóng vai trò là điểm truy nhập để các nhà cung cấp nội dung phân phát
nội dung và thông tin hướng dẫn chương trình tới thiết bị đầu cuối di động. NO C
cũng quản lý thông tin đăng ký sử dụng dịch vụ, phân phát các khoá truy nhập và
khoá mật mã, cung cấp thông tin cước tới các nhà khai thác di động. NOC có thể
gồm nhiều LOC phục vụ như là điểm truy nhập mà từ đó các nhà cung cấp nội dung
địa phương phân phát nội dung địa p hương tới thiết bị đầu cuối di động.
- Các máy phát FLO thực hiện phát tín hiệu dạng sóng FLO tới các thiết bị
đầu cuối di động trong vùng phục vụ.
- Các mạng 3G hỗ trợ các dịch vụ tương tác, cho phép các thiết bị đầu cuối
di động giao tiếp với NOC để đăng ký dịch vụ và được phân phát khoá mật mã.
- Các thiết bị đầu cuối di động FLO có thể thu các dạng sóng FLO bao gồm
các dịch vụ nội dung và thông tin hướng dẫn chương trình. Bởi vì tất cả ứng dụng
trên thiết bị đầu cuối chia sẻ nguồn tài nguyên chung, nên thiết bị đầu cuối cần phải
tiết kiệm công suất tiêu thụ. Do đó, FLO đã được thiết kế để tối ưu công suất tiêu
thụ qua sự tích hợp thông minh trên thiết bị và sự phân phát được tối ưu qua mạng.
Hình 3.37: Mạng MediaFLO.
3.4.2.2 Phân phát nội dung
Trong mạng FLO, nội dung biểu diễn kênh thời gian thực tuyến tính (dạng
truyền hình thông thường) được thu trực tiếp từ các nhà cung cấp nội dung, điển
hình qua vệ tinh ở băng C với khuôn dạng MPEG-2 (704 hoặc 720 x 480 hoặc 576
pixel), sử dụng thiết bị cơ sở hạ tầng sẵn có. Mạng FLO cũng hỗ trợ độ phân giải
QVGA (352 x 240 pixel), sử dụng nhiều kiểu mã hoá nguồn hiệu quả H.264,
MPEG-4, Windows Media, và RealVideo [1].
Nội dung không có dạng thời gian thực được thu bởi content server, điển
hình qua đường liên kết IP, sau đó được tạo khuôn dạng thành các dòng gói FLO và
được phân phát lại qua mạng đơn tần SFN. Nội dung không có dạng thời gian thực
được phân phát theo một lịch trình đã định trước.
Chỉ các thiết bị đầu cuối di động đã đăng ký sử dụng dịch vụ mới thu được
nội dung, nội dung có thể được lưu giữ trên thiết bị để xem sau đó với một hướng
dẫn chương trình dịch vụ hoặc nội dung có thể được phân phát theo thời gian thực
tới thiết bị. Nội dung có thể là các file âm thanh (M PEG-4 HE-AAC), video chất
lượng cao (QVGA) hoặc các dòng IP. M ạng 3G cung cấp các chức năng điều khiển,
hỗ trợ sự tương tác giữa người sử dụng và hệ thống FLO
3.4.3 Kiến trúc phân lớp của MediaFLO
Mô hình tham chiếu giao thức M ediaFLO được mô tả ở Hình 3.38. Đặc tả
giao diện không gian FLO gồm các giao thức và các dịch vụ tương ứng với hai lớp
của mô hình OSI là lớp 1 (lớp vật lý) và lớp 2 (lớp liên kết dữ liệu). Lớp liên kết dữ
liệu lại được chia thành hai lớp con là lớp con điều khiển truy nhập môi trường (lớp
MAC) và lớp con Stream.
Hình 3.38: Giá giao thức MediaFLO.
Các tính năng cơ bản của các lớp trên là:
Nén nội dung multimedia;
Điều khiển truy nhập tới multimedia;
Tạo khuôn dạng thông tin điều khiển.
Đặc tả giao diện không gian FLO không mô tả các lớp trên, do đó cho phép
thiết kế một cách linh hoạt nhằm hỗ trợ các ứng dụng và các dịch vụ khác nhau.
Các tính năng cơ bản của lớp Stream là:
Ghép kênh lên tới ba luồng từ các lớp trên thành một kênh logic;
Kết hợp các gói ở lớp trên thành các dòng stream đối với mỗi kênh logic;
Cung cấp chức năng đóng gói và chức năng sửa lỗi.
Các tính năng cơ bản của lớp điều khiển truy nhập môi trường là:
Điều khiển truy nhập tới lớp vật lý;
Thực hiện ánh xạ giữa các kênh logic và các kênh vật lý;
Ghép kênh các kênh logic để truyền dẫn trên kênh vật lý;
Phân kênh các kênh logic ở thiết bị đầu cuối di động;
Đảm bảo các yêu cầu về chất lượng dịch vụ (QoS).
Các tính năng cơ bản của lớp vật lý là:
Cung cấp cấu trúc kênh cho liên kết hướng đi (từ mạng tới thiết bị);
Định nghĩa các yêu cầu về tần số, điều chế và mã hoá.
Đặc tả giao diện không gian FLO bao gồm: Lớp vật lý, lớp M AC, lớp điều
khiển/stream và lớp truyền tải. Các lớp này được nghiên cứu chi tiết dưới đây.
3.4.3.1 Lớp vật lý
Lớp vật lý FLO cung cấp cấu trúc kênh, tần số, công suất đầu ra, đặc tả điều
chế và mã hoá cho các mạng FLO. Để đạt được chất lượng thu tốt và hiệu quả sử
dụng phổ cao, lớp vật lý sử dụng kỹ thuật điều chế ghép kênh phân chia theo tần số
trực giao (OFDM ) và các phương pháp mã hoá sửa lỗi gồm mã Turbo và mã Reed-
Solomon. Hơn nữa, các phần khác nhau của lớp vật lý được thiết kế cẩn thận để cải
thiện chất lượng tín hiệu thu và thoả mãn yêu cầu của người sử dụng.
Điều chế OFDM trong FLO
Lớp vật lý FLO sử dụng chế độ truyền dẫn 4K OFDM (4096 sóng mang
con), hỗ trợ việc sử dụng các sơ đồ điều chế QPSK, 16-QAM và kỹ thuật điều chế
phân lớp. Đối với truyền dẫn trong băng tần UH F/VHF, nếu sử dụng chế độ truyền
dẫn 8K sẽ làm giảm chất lượng tín hiệu thu ở tốc độ cao do tăng độ nhạy với tần số
Doppler. Hơn nữa, không gian nhớ của máy thu ở chế độ truyền dẫn 8K sẽ yêu cầu
lớn gấp hai lần so với chế độ truyền dẫn 4K (do yêu cầu tính toán khối FFT). Trong
khi đó nếu sử dụng chế độ truyền dẫn 2K, thì phải tăng hai lần phần thông tin tiêu
đề do phần cyclic prefix để hỗ trợ cùng khoảng cách máy phát như hệ thống sử
dụng chế độ 4K.
Các kênh logic multicast và ghép kênh thống kê
Mỗi dịch vụ FLO được truyền tải trên một hay nhiều kênh logic (MLC). Một
kênh MLC có thuộc tính là MLC gồm một hoặc nhiều phần tử con của một dịch vụ,
được thu độc lập theo yêu cầu, có thể giải mã được. Hơn nữa, một đặc tính quan
trọng của các M LC là các MLC phân biệt được ở lớp vật lý. Ví dụ, các phần tử âm
thanh và video của một dịch vụ nào đó có thể được gửi trên hai MLC khác nhau.
Một thiết bị quan tâm tới phần tử âm thanh chỉ thu MLC tương ứng mà không thu
MLC mang phần tử video, do đó sẽ tiết kiệm công suất ở máy thu.
Các tốc độ dữ liệu được yêu cầu bởi các dịch vụ multimedia thay đổi trong
một dải rộng, phụ thuộc vào nội dung multimedia. Trong khi tốc độ dữ liệu thấp đến
trung bình, hàng chục kbps, đủ để truyền tải các dòng stream âm thanh và dữ liệu,
dòng video stream có thể yêu cầu tốc độ tức thời từ vài kbps đến hàng Mbps, mặc
dù tốc độ trung bình là 200-300 kbps. Do đó, sử dụng ghép kênh thống kê có thể
tăng đáng kể số lượng dịch vụ được hỗ trợ bởi hệ thống multicast trên một băng
thông kênh xác định.
Trong FLO, ghép kênh thống kê các dịch vụ khác nhau (các kênh M LC),
được thực hiện bằng cách chỉ thay đổi sự phân bổ thời gian và tần số của M LC qua
một khoảng thời gian quy định để phù hợp với sự thay đổi các tốc độ nguồn của
MLC. Khả năng thay đổi chòm sao tín hiệu (constellation) và các tỷ lệ mã được gán
cho M LC được loại trừ để duy trì vùng phủ sóng không đổi đối với mỗi MLC. Cụ
thể là, các M LC được phát trên một số xác định các ký hiệu OFDM để đạt được
ghép kênh phân chia theo thời gian (TDM) và phát trên một tập con các interlace
của các ký hiệu OFDM này để đạt được ghép kênh theo tần số (FDM ). Hơn nữa,
phân bổ thời gian và tần số đối với mỗi MLC thay đổi trong khoảng truyền dẫn
MLC. Do đó, các thiết bị thu di động phải thường xuyên cập nhật các p hân bổ thời
gian và tần số của các MLC để biết khi nào cần thu một M LC cụ thể. Sự thực hiện
ghép kênh thống kê trong FLO cho phép máy thu chỉ giải điều chế và giải mã các
MLC mà nó quan tâm. Do đó, sử dụng FLO tiết kiệm được công suất tiêu thụ đáng
kể ở máy thu.
Trong trường hợp điều chế phân lớp, một dòng âm thanh hoặc video stream
có thể được phát trong hai lớp: Lớp gốc (B) cho phép thu trong một vùng phủ sóng
xác định, lớp tiên tiến (E) cải thiện chất lượng tín hiệu của người sử dụng được
cung cấp bởi lớp gốc trong một vùng phủ sóng giới hạn hơn. Các lớp gốc và lớp
tiên tiến của một dịch vụ nào đó được phát trong một MLC.
Sự lựa chọn chòm sao tín hiệu và tỷ lệ mã đối với mỗi MLC dựa trên một số
yếu tố, gồm vùng phục vụ (vùng diện rộng/vùng nội hạt), nội dung (video/âm
thanh/dữ liệu), các yêu cầu phủ sóng, điều chế phân lớp có được sử dụng hay
không. FLO cung cấp một số lựa chọn chòm sao tín hiệu và tỷ lệ mã cho phép nhà
cung cấp dịch vụ cân đối giữa hiệu quả sử dụng phổ và vùng phủ sóng.
Điều chế sóng mang con được phân lớp và đều
Mỗi sóng mang con được điều chế bằng một ký hiệu được chọn từ chòm sao
tín hiệu QAM. Trong FLO có hai lựa chọn, đó là: (1) Điều chế đều (không phân
lớp): chòm sao tín hiệu có thể là QPSK và 16-QAM; (2) Điều chế phân lớp: chòm
sao tín hiệu là một trong những chòm sao 16-QAM tổng quát. Chòm sao có bậc cao
hơn, ví dụ như 64-QAM, không được sử dụng trong FLO vì yêu cầu tỷ số tín trên
tạp (SNR) cao hơn ở máy thu.
Ý tưởng điều chế p hân lớp của FLO được hỗ trợ qua các lớp khác nhau của
giá giao thức. Do đó, ở lớp ứng dụng, các bộ mã hoá nguồn cung cấp 2 phần tử, đó
là các dòng bit lớp gốc và lớp tiên tiến, được kết hợp với cùng dịch vụ. Các thiết bị
có thể thu tin cậy các bit lớp gốc có thể cung cấp tới người sử dụng dịch vụ này, với
chất lượng thấp hơn. M ột thiết bị có thể thu tin cậy cả các bit lớp gốc và lớp tiên
tiến có thể cung cấp cùng dịch vụ tới người sử dụng ở chất lượng tốt hơn.
Hai phần tử này được xử lý độc lập ở các lớp cao hơn của giao diện không
gian FLO. Cả mã hoá bên ngoài và mã hoá bên trong được thực hiện độc lập trên
các dòng bit được kết hợp với hai phần tử, các dòng bit được mã hoá và ghép xen
cuối cùng được kết hợp khi quyết định chọn điểm trong chòm sao tín hiệu. Ký hiệu
điều chế được chọn hoặc là từ chòm sao đồng nhất hoặc là từ chòm sao không đồng
nhất 16-QAM. Trong mỗi trường hợp, các bit lớp gốc được ánh xạ thành các bit tin
cậy hơn trong chòm sao tín hiệu và các bit lớp tiên tiến được ánh xạ thành các bit ít
tin cậy hơn trong chòm sao tín hiệu. Do đó, các bit lớp gốc có thể được giải điều
chế tin cậy hơn các bit lớp tiên tiến.
Việc sử dụng điều chế phân lớp rất phù hợp và có ưu điểm đối với các ứng
dụng multicast số, trong đó cường độ tín hiệu không được phân bố đều trong toàn
bộ vùng phủ sóng, cho phép linh hoạt trong việc lập kế hoạch tính toán quỹ đường
truyền và vùng phủ sóng. Cụ thể, nhà cung cấp dịch vụ sẽ không phải thiết kế vùng
phủ sóng dựa trên trường hợp quỹ đường truyền tồi tệ nhất. Ví dụ, nhà cung cấp
dịch vụ có thể để người sử dụng trong 90% vùng phủ sóng thu tín hiệu lớp tiên tiến,
người sử dụng trong vùng phủ sóng còn lại thu tín hiệu lớp gốc. Bằng cách đó, nhà
cung cấp dịch vụ có thể cải thiện vùng phủ sóng và hiệu quả sử dụng phổ mà không
cần tăng công suất phát trong khi vẫn đáp ứng được chất lượng của người sử dụng.
3.4.3.2 Lớp truyền tải
Trong một hệ thống FLO, các ứng dụng lớp dịch vụ bên trên nhất sẽ phân
phát các gói dữ liệu multimedia qua các giao thức truyền tải media tới lớp truyền tải
FLO. Trong một lớp truyền tải FLO, các gói dịch vụ có kích thước thay đổi này sẽ
được móc nối, tách ra và kết hợp lại thành chuỗi các khung. Chức năng cơ bản của
lớp truyền tải FLO là phân phát tập các khung FLO có kích thước cố định tới lớp
Stream FLO. Ngoài ra, lớp truyền tải cung cấp chức năng mật mã/giải mật mã lựa
chọn và kiểm tra dư chu trình (CRC) hỗ trợ quá trình xử lý dữ liệu.
Dãy các gói dữ liệu của một dịch vụ hình thành một luồng. Lớp Stream tổ
chức một kênh logic M LC thành ba Stream. Chuỗi các bit được phát trong mỗi
stream qua lớp gốc hoặc lớp tiên tiến trong một siêu khung hình thành gói Stream.
Stream 0 được sử dụng để phát các thông tin điều khiển nhạy cảm với thời gian liên
quan tới hai stream khác, ví dụ như các bản tin điều khiển quyền cho phép (ECM)
nhằm hỗ trợ các hệ thống truy nhập có điều kiện. Hai stream khác được sử dụng để
truyền tải các luồng. Lớp truyền tải truyền mỗi luồng qua một Stream trong một
MLC. Việc ánh xạ các MLC và các Stream thành các luồng được thực hiện ở lớp
điều khiển.
3.5 Kết luận chương
Nội dung chương này, tác giả muốn giới thiệu các công nghệ truyền hình di
động cơ bản như : truyền hình sử dụng mạng 3G, truyền hình sử dụng công nghệ
DVB-H, DA B và M ediaFlo đang và sẽ được sử dụng rộng rãi trên thế giới. Trong
từng công nghệ, tác giả muốn trình bày những kiến trúc phân lớp, kiến trúc hệ
thống , một số kỹ thuật cơ bản trong các công nghệ, mã hóa kênh và ghép kênh,
điều chế và các chế độ truyền dẫn… Thông qua đó, để tác giả có cơ sở p hân tích, so
sánh, đánh giá, có những hướng đề xuất cho phù hợp tình hình thực tế.
Chương 4: SO SÁNH, ĐÁNH GIÁ CÁC CÔNG NGHỆ
TRUYỀN HÌNH DI ĐỘNG
4.1 Mở đầu
Tất cả các công nghệ M obile TV được nghiên cứu ở chương trước đều được
thiết kế để có thể truyền tải được dữ liệu multimedia trong môi trường vô tuyến di
động tới một số lượng lớn người sử dụng di động đồng thời, các công nghệ này phải
đảm bảo được các yếu tố sau:
- Khắc phục được các ảnh hưởng của môi trường truyền dẫn vô tuyến di
động;
- Sử dụng hiệu quả băng thông;
- Cực tiểu hoá công suất tiêu thụ ở máy thu;
- Thời gian chuyển kênh nhanh;
- Tích hợp các dịch vụ unicast và broadcast;
- Máy thu có khả năng thu được các dịch vụ broadcast và các dịch vụ di
động khác như thông tin thoại, truy nhập Internet...
Sự so sánh, đánh giá giữa các công nghệ Mobile TV là một công việc không
đơn giản bởi vì các dịch vụ được cung cấp dựa trên một số các ràng buộc như độ
khả dụng của phổ tần số, các đặc tính của các dịch vụ dựa trên unicast và các dịch
vụ dựa trên broadcast hoàn toàn khác nhau. Theo Amitabh Kumar[1], để đánh giá
các công nghệ Mobile TV chúng ta cần xem xét các tham số quan trọng sau đây:
- Khả năng khắc phục các ảnh hưởng của môi trường truyền dẫn, chất lượng
dịch vụ trong các môi trường trong nhà và ngoài trời;
- Các tính năng tiết kiệm công suất tiêu thụ;
- Thời gian chuyển kênh;
- Các đặc tính của máy cầm tay di động cần thiết để hỗ trợ dịch vụ;
- Hiệu quả sử dụng phổ tần số;
- Các chi phí khai thác dịch vụ;
- Nhiều tính năng như chất lượng, cước và các đặc tính thu nhận tín hiệu phụ
thuộc vào mạng (3G, DVB-H,…);
- Các nhu cầu của người sử dụng như độ khả dụng của vùng phủ sóng có
kích thước lớn, các kiểu máy cầm tay, độ khả dụng của dịch vụ.
Không có sự đồng thuận nào nhất trí rằng trong tất cả các công nghệ được đề
xuất sẽ tồn tại một công nghệ được xem là tốt nhất để truyền tải tín hiệu truyền hình
di động. Theo tôi là không có công nghệ nào có ưu điểm nổi trội hơn các công nghệ
còn lại khi xem xét các khía cạnh kỹ thuật của các công nghệ. Tất cả các công nghệ
đã nghiên cứu về mặt nguyên lý đều có thể truyền tải tín hiệu truyền hình di động.
Sau đây, chúng ta sẽ so sánh, đánh giá các tham số kỹ thuật của các công nghệ
Mobile TV đã được nghiên cứu ở các chương trước.
4.2 So sánh các công nghệ Mobile TV
4.2.1 So sánh về hiệu quả sử dụng phổ, số lượng kênh, tốc độ, và sự khả dụng
của dịch vụ
DVB-H
T-DMB MediaFLO
Các mạng tế bào
Unicast
Multicast
GPRS
UMTS
HSDPA
MBMS
(2.5 G)
(3G)
Bảng 4.1: Bảng so sánh các tham số
Thiết kế Được thiết
Được thiết
Được thiết
kế dựa
kế từ hệ
kế bởi Hãng
trên mạng
thống
Qualcomm
DVB-T,
Eureka-
để phát dữ
đảm bảo
147
liệu
sự cân đối
(quảng bá
multimedia
giữa kinh
âm t hanh
tới máy cầm
nghiệm
số DAB)
tay di động;
người sử
để phát
phân phát
dụng, thời
các dịch
hiệu quả,
gian
vụ
đảm bảo
chuyển
m ultimedi
tính di động,
kênh, chất
a di động.
dung lượng
lượng,
và vùng phủ
vùng phủ
sóng tối ưu.
sóng và sự
triển khai.
Khả năng
Có
Có
Có
Không Không Không
Có
phát
broadcast
Tiêu
Mở
Mở
Độc quyền
Mở
Mở
Mở
Mở
chuẩn
Tổ chức
DVB
Qualcomm
3GPP,
3GPP,
3GPP,
ETSI,
3GPP,
tiêu chuẩn
3GPP2
3GPP2
3GPP2
DAB
3GPP2
Forum
Giao diện
DVBT,
OFDM
OFDM
UTRA
UTRA
WCDMA
không
OFDM
W CD
gian
MA
Khu vực
Châu Âu,
Hàn Quốc,
Mỹ
Nhiều
Nhiều
Nhiều
Nhiều nước
Mỹ, và
đang mở
nước trên
nước
nước
trên thế
m ột số
rộng sang
thế giới
trên
trên thế
giới
nước
các nước
giới
thế
Châu Á
khác
giới
Sự khả
2005
2005
2006
Khả dụng Khả
2006
2008
dụng
dụng của
dịch vụ
Sự khả
Ngày nay
Ngày nay
2006
Khả dụng Ngày
Khả
Ngày nay
dụng của
từ một số
từ m ột số
nay từ
dụng
từ một số
máy cầm
nhà sản
nhà sản
nhà sản
m ột số
tay
xuất thiết
xuất thiết
xuất thiết
nhà
bị
bị
bị
sản
xuất
thiết bị
Hiệu quả
Cao
Cao
Cao
Thấp
Thấp
Thấp
Trung bình
phát
Mobile
TV
Cao
Cao
Cao
Thấp
Thấp
Thấp
Thấp
Chi phí
đầu tư
VHF: 174-
Băng III:
Mặt đất:
Băng tần
700 MHz
IMT S
230 MHz
174-240
1920-1980
(M ỹ), UHF
hoạt động
2000
UHF: 470-
MHz (Hàn
MHz, Mở
và băng L
862 MHz
Quốc)
rộng: 2170-
Băng L:
Băng L:
2210 MHz
1452-1492
1452-1492
MHz
MHz (Châu
Âu)
5, 6, 7, 8
1.536
5, 6, 7, 8
5 MHz
5 MHz
Băng
MHz
MHz
MHz
thông
kênh
Hiệu quả
0.46-1.86
0.2-1.2
0.47-1.87
0.15-0.35
sử dụng
bps/Hz
bps/Hz
bps/Hz
bps/Hz
phổ
Số lượng
Ở băng
Ở băng
Ở băng tần
13 kênh
kênh
tần UHF:
thông 6
UHF:
(128
- 9 kênh ở
MHZ
- 20 kênh ở
Kbps/kênh)
băng
(VHF):
băng thông
thông 6
- 3 kênh
6 MHz (300
MHZ (300
(768
Kbps/kênh)
Kbps/kênh
kbps/kênh
- 27 kênh ở
)
)
băng thông
- 12 kênh
- 6 kênh
8 MHz (300
ở băng
(384
Kbps/kênh)
thông 8
Kbps/kênh
MHz (300
)
Kbps/kênh
- 9 kênh
)
(256
Kbps/kênh )
Tốc độ lý
27.7 Mbps
1.8 Mbps
24 Mbps
115 Kbps
384
14 Mbps
1.5 Mbps
thuyết cực
Kbps
đại
Tốc độ
Lên t ới 15
Lên tới
Lên tới 15
30 Kbps
30-300
550
128 Kbps
thực tế
Mbps
1.4 Mbps
Mbps
Kbps
Kbps-
(lên tới 1.5
1100
Mbps)
Kbps
Lựa chọn
Công
Cắt lát
Phân kênh
Lựa chọn
mã
nghệ tiết
thời gian
thời gian,
mã, CDMA
kiệm
chuyển
Qualcomm
nguồn
đổi
Fourier
chọn lọc
~ 1.5
Thời gian
~ 5 giây
~ 1.5 giây
~ 1.5 giây
~ 1.5 giây
chuyển
giây
kênh
Từ bảng 4.1 chúng ta thấy rằng công nghệ DVB-H và MediaFLO có hiệu
quả sử dụng phổ cao hơn so với các công nghệ Mobile TV khác, các hệ thống này
có nhiều khả năng tìm được các kênh tần số khả dụng ở các băng tần quảng bá khác
nhau.
Ví dụ nếu một hệ thống Mobile TV được thiết kế để truyền tải 40 kênh âm
thanh ở tốc độ 64 Kbps và 10 kênh truyền hình ở tốc độ 384 Kbps, thì tốc độ bit
tổng cộng được truyền tải trên hệ thống là 6.4 Mbps. Nếu điều kiện truyền dẫn cực
tốt, thì hệ thống chỉ cần một bộ ghép kênh DVB-H hoặc một bộ ghép kênh
MediaFLO trên mỗi tế bào, sử dụng băng thông 5 MHz. Nếu bộ ghép kênh DVB-H
hoặc bộ ghép kênh MediaFLO được phân bổ cho kênh có băng thông 8 MHz và tỷ
số C/N yêu cầu là 12 dB, thì một hệ thống chống tạp âm và nhiễu tốt hơn với các
tham số điều chế và mã hoá, có thể được hiệu chỉnh để vẫn phù hợp với hiệu quả sử
dụng phổ 1.25 bps/Hz. Trong khi đó, để phát lượng kênh âm thanh và truyền hình
nói trên, chúng ta cần ít nhất bốn bộ ghép kênh T-DMB, do đó T-DMB sẽ có chi phí
đắt hơn. Hệ thống 3G không thể truyền tải lượng kênh âm thanh và truyền hình nói
trên, bởi vì băng thông kênh 5 MHz chỉ có thể truyền tải tốc độ dữ liệu cực đại là
1.5 M bps (M BMS). Tuy nhiên M BM S sử dụng băng tần dành cho các mạng 3G, cơ
sở hạ tầng mạng 3G là sẵn có, đã được triển khai ở nhiều nước, nên MBMS có thể
cung cấp dịch vụ ngay lập tức mà không cần đợi có giấy phép mạng mới hoặc phải
cài đặt các anten mới. MBMS là công nghệ rẻ nhất để phát số lượng ít các kênh
quảng bá truyền hình di động.
Từ bảng 4.1 chúng ta cũng thấy rằng các mạng tế bào có tốc độ bit thấp, do đó
không thể truyền tải được tín hiệu truyền hình di động với chất lượng đặc biệt thậm
chí khi sử dụng kỹ thuật nén hiệu quả như M PEG-4, dung lượng mạng sẽ giảm khi
số lượng người sử dụng dịch vụ đồng thời tăng lên. Tuy nhiên, các mạng tế bào có
chi phí đầu tư thấp, phổ tần số khả dụng, hỗ trợ tính di động và phủ sóng tốt hơn.
Trong khi đó các công nghệ quảng bá DVB-H, T-DMB, và M ediaFLO có dung
lượng lớn, truyền tải được nhiều kênh truyền hình di động với chất lượng cao, ở tốc
độ bit cao hơn, phù hợp với việc phát quảng bá các kênh truyền hình di động tới số
lượng lớn người sử dụng đồng thời. Tuy nhiên, các công nghệ quảng bá yêu cầu chi
phí đầu tư cơ sở hạ tầng mạng lớn, phổ tần số không đồng nhất.
Trong trường hợp T-DM B, truyền dẫn các dịch vụ tốc độ cao không được
khuyến nghị từ quan điểm tiêu thụ công suất. Điều này được giải thích như sau:
Trong các hệ thống hỗ trợ cơ chế tiết kiệm nguồn, ví dụ như sử dụng kỹ thuật cắt lát
thời gian, các dịch vụ có tốc độ bit thấp (như các kênh âm thanh) tiêu thụ công suất
ít hơn so với các dịch vụ có tốc độ bit cao (như các kênh truyền hình). Nếu cùng
một kênh truyền hình được phát trong các hệ thống DVB-H, T-DMB và MediaFLO
với cùng tốc độ bit, ví dụ như 570 kbps, thì máy thu DVB-H và máy thu M ediaFLO
chỉ cần hoạt động 3.8 % thời gian, trong khi đó máy thu T-DMB phải hoạt động 40
% thời gian, đó là vì DVB-H và MediaFLO hỗ trợ cơ chế tiết kiệm nguồn hiệu quả
hơn.
Công nghệ DVB-H có thời gian chuyển kênh lớn hơn so với các công nghệ
Mobile TV khác (thời gian chuyển kênh của DVB-H là khoảng 5 giây, trong khi các
công nghệ M obile TV khác là khoảng 1.5 giây).
4.2.2 So sánh các tham số truyền dẫn
DVB-H
T-DMB
MediaFLO
MBMS
Điều chế
COFDM
COFDM
COFDM
WCDMA
Chòm sao tín
QPSK, 16
DQPSK
QPSK, 16
QPSK
hiệu
QAM, 64QAM
QAM
OIS
Báo hiệu lớp
TPS
TII
MICH/MCCH
vật lý
Khoảng bảo
1/4, 1/8, 1/16,
1/4
1/8
vệ
1/32
246 µs (chế độ
Thời gian
224 µs đến 7 µs
69.2 µs đến 92.2
truyền dẫn I)
µs
khoảng bảo vệ
Bảng 4.2: So sánh các tham số truyền dẫn
62 µs (chế độ
truyền dẫn II)
123 µs (chế độ
truyền dẫn IV)
Kích thước
2k, 4k, 8k
256, 512, 1k,
4k
FFT
2k
Sơ đồ mã hoá
Mã xoắn
Mã xoắn
Mã Turbo, 1/3,
Mã Turbo, R=1/3
bên trong
R=1/2...7/8
1/4...4/5
1/2, 2/3
Chu kỳ cắt lát
>100 m s đến 40
Lý thuyết từ 24
Thay đổi
Tương ứng với
DRX; linh hoạt,
thời gian
s
ms đến
được định nghĩa
hàng phút
bởi kênh MCCH
và MSCH
Khoảng thời
Kích t hước cụm
24 ms
Thay đổi
20, 40, 80 ms độ
dài TT I
gian của cụm
cực đại/tốc độ
bit cụm đỉnh
Ghép xen thời
Có (với MPE-
Có (trên 16
Trên 4 cụm
Có, trong một T TI
gian
FEC)
cụm dữ liệu =
384 ms)
Hỗ trợ QoS
Có, khác nhau
Có
Có
Có
trên mỗi kênh
đối với mỗi cắt
lát thời gian
Điều chế phân
Có
Không
Có
Không
cấp
Mã Reed-
Mã RS
Mã RS (16,12)
MPE-FEC
Solomon
(Mã hoá
ngoài)
Khả năng thu
Có
Có
Có
Có
song song các
dịch vụ trên
cùng bộ ghép
kênh
Từ bảng 4.2 chúng ta thấy rằng điều chế COFDM (DVB-H, T-DM B,
MediaFLO) được sử dụng nhiều hơn so với sơ đồ đa truy nhập phân chia theo mã
băng rộng WCDMA (MBMS) trong các hệ thống phát quảng bá truyền hình di
động. Ưu điểm của WCDMA so với các giao diện vô tuyến khác là nhiều người sử
dụng có thể p hát dữ liệu đồng thời, tuy nhiên, trong chế độ phát quảng bá thì chỉ có
một anten truyền dẫn, không chia sẻ giao diện vô tuyến. Trong các hệ thống sử
dụng OFDM , DVB-H là hệ thống hỗ trợ nhiều tham số điều chế và mã hoá, nên
DVB-H có thể được triển khai ở nhiều địa điểm với nhiều cấu hình khác nhau. Các
hệ thống truyền dẫn tín hiệu M obile TV đều sử dụng các sơ đồ mã hoá ở bên trong
với các tỷ lệ mã khác nhau (DVB-H và T-DMB sử dụng mã xoắn, MediaFLO và
MBM S sử dụng mã hiệu quả hơn là mã Turbo). DVB-H và M ediaFLO còn sử dụng
mã hoá ngoài Reed-Solomon để tăng khả năng chống lỗi trong môi trường truyền
dẫn. Cả bốn hệ thống DVB-H, T-DM B, MediaFLO và MBM S đều sử dụng kỹ thuật
ghép xen theo thời gian để phân tán lỗi cụm gặp phải trong quá trình truyền dẫn.
DVB-H sử dụng điều chế phân cấp để phân biệt giữa hai dòng truyền tải DVB-T có
mức ưu tiên thấp và dòng truyền tải DVB-H có mức ưu tiên cao; MediaFLO sử
dụng sơ đồ điều chế phân cấp để đảm bảo sự cân đối giữa kích thước vùng phủ sóng
và tốc độ dữ liệu.
4.2.3 So sánh các tham số mạng máy phát
DVB-H
T-DMB
MediaFLO
MBMS
Khoảng cách
25-40 km
Lên tới 80 km
2-25 km
500 m -2 km
m áy phát điển
hình
Công suất máy
100 W -100 kW Lên tới 10 kW Lên t ới 50 kW
600 W
phát
Bảng 4.3: So sánh các tham số mạng máy phát
Khả năng thu ở
Có
Có
Có
Có
tốc độ 120
km/h
Hỗ trợ chuyển
Có
Có
Có
Có
giao
Các đặc điểm chính của các hệ thống quảng bá di động nên có, đó là hỗ trợ
tính di động của máy thu và hỗ trợ sự chuyển giao tín hiệu khi máy thu di chuyển
sang vùng phục vụ của máy phát khác. Từ bảng 4.3 chúng ta thấy rằng các hệ thống
Mobile TV đều hỗ trợ các đặc tính này, bán kính phủ sóng của các hệ thống DVB-
H, T-DM B và M ediaFLO lớn hơn nhiều so với bán kính phủ sóng của các mạng tế
bào. Do đó DVB-H, T-DM B, và M ediaFLO yêu cầu số lượng máy phát ít hơn so
với M BM S, nên chi phí thực hiện mạng sẽ thấp hơn.
4.2.4 So sánh lớp truyền tải
DVB-H
T-DMB
MediaFLO
MBMS
Phiên bản IP
IPv4, IPv6
IPv4, Ipv6 phát
IPv4, IPv6
IPv4, IPv6
qua mạng
DAB/DMB
Phân phát
RTP
MPEG2+MPEG4
Lớp đồng bộ
RTP
dòng stream
FLO
Phân phát File
FLUTE
MOT
FLUTE
MFD
Bảng 4.4: So sánh lớp truyền tải
Từ bảng 4.4 chúng ta thấy rằng các hệ thống M obile TV đều hỗ trợ lớp
truyền tải IP với hai phiên bản là IPv4 và IPv6.
4.2.5 So sánh lớp dịch vụ
DVB-H
T-DMB
MediFLO
MBMS
Bảng 4.5: So sánh lớp dịch vụ
Dịch vụ
Nhiều
Lựa chọn
Nhiều
Nhiều
Sơ đồ
DVB-CBMS
FLO SI
OMA BCAST 1.0
DAB
Mã hoá
GZIP, BiM
XML, GZIP
GZIP
XML
hoặc ASN1 PER
Phân phát
FLUTE
MOT
Truyền tải FLO
FLUTE hoặc ALC
4.2.6 So sánh sơ đồ âm thanh/ video
DVB-H
T-DMB
MediaFLO
MBMS
Khuôn dạng
H.264, lựa
H.264
H.264 tiên tiến
H.264
Video
chọn VC1
Mức và Profile
1, 1.2
1, 1.2
H.264+
Profile mức 1b
Video cực đại
(hỗ trợ m ức 1.2)
Kích thước
QCIF, QVGA
m ax (QVGA)
QQVGA,
QCIF (QVGA
hình ảnh
QVGA, CIF,
nếu m ức 1.2
QCIF
được hỗ trợ)
Tốc độ khung
15-30 fps
Lên tới 30 fps
Lên t ới 30 fps
15 fps (lên tới
30 fps nếu mức
1.2 được hỗ trợ)
Tốc độ bit
B: 384 kbps,
Lên t ới 1
1 Mbps
128 kbps (256
Video cực đại
C: 768 kbps
Mbps, điển
kbps nếu m ức
1.2 được hỗ trợ)
hình: 256-544
kbps
Đóng gói
RTP (RFC
H.264/AVC:
Lớp đồng bộ
RFC 3984
Video
3984)
FLO
RFC 3984
VC-1: RFC
4425
Chế độ đóng
Không quyết
MPEG-2 TS,
Chế độ đơn vị
gói A/V
định
MPEG-4 SL
NAL đơn, chế
Bảng 4.6: So sánh sơ đồ âm thanh/video
độ ghép xen và
không ghép xen
Khuôn dạng
HE-AAC V2
MPEG-4
HE-AAC V2
AMR-NB,
âm t hanh
ERBSAC,
AMR-WB, E-
HE-AAC ở
AMR-W B, HE-
Châu Âu
AAC V2
Tốc độ âm
192 kbps ở chế
192 kbps
192 kbps
thanh cực đại
độ stereo
Đóng gói âm
RFC 3640
BSAC, HE
Lớp đồng bộ
RFC 3267
thanh
AAC V2
FLO
RFC 4352
RFC 3640
Từ bảng 4.6 chúng ta thấy rằng các công nghệ M obile TV đều sử dụng các sơ
đồ mã hoá nguồn hiệu quả cao như H.264, HE-AA C V2, và độ phân giải hình ảnh
đạt được là QCIF (176 X 144 pixels), CIF (352 X 288 pixels), và QVGA (320 X
240 pixels), chất lượng âm thanh lên tới 192 kbps.
4.3 Đánh giá các công nghệ Mobile TV
Dựa trên các nghiên cứu ở phần trước và sự so sánh giữa các công nghệ
Mobile TV, chúng ta đánh giá các công nghệ M obile TV theo một số tiêu chí một
cách ngắn gọn như dưới đây.
4.3.1 Công nghệ DVB-H
- Khắc phục các ảnh hưởng của môi trường truyền dẫn vô tuyến di động:
DVB-H sử dụng điều chế OFDM với các sơ đồ điều chế QPSK, 16 QA M, 64
QAM có hiệu quả sử dụng phổ cao để san bằng kênh, chống xuyên nhiễu ISI. Chế
độ điều chế 4K được sử dụng nhằm đảm bảo sự cân đối giữa tính di động và kích
thước tế bào. DVB-H cũng sử dụng điều chế phân cấp để truyền tải các dịch vụ
DVB-T ở mức độ ưu tiên thấp và các dịch vụ DVB-H ở mức độ ưu tiên cao hơn. Để
khắc phục lỗi trên kênh, DVB-H sử dụng mã hoá xoắn ở bên trong với các tỷ lệ mã
hoá khác nhau và mã hoá Reed-Solomon ở bên ngoài. Ghép xen theo độ sâu trên
miền thời gian và miền tần số được sử dụng ở DVB-H để phân tán lỗi cụm trên
kênh, nhờ đó sử dụng mã hoá xoắn ở bên trong có thể khắc phục được các lỗi
truyền dẫn.
- Hiệu quả sử dụng phổ:
DVB-H sử dụng các băng tần VHF (174-230 M Hz), UHF (470-862 MHz), L
(1452-1492 MHz), dải tần (1670-1675 MHz) mở rộng được sử dụng ở Mỹ, ngoài ra
dải tần 700 MHz có thể được sử dụng. Các băng thông của kênh là 5, 6 ,7, 8 M Hz.
Các băng tần của DVB-H tương thích với các băng tần của DVB-T, băng tần UHF
rất lý tưởng để truyền tín hiệu truyền hình di động, tuy nhiên băng tần này hầu như
đã kín để truyền dẫn các kênh truyền hình mặt đất. Do đó, phổ tần số khả dụng đối
với DVB-H bị hạn chế. DVB-H đạt được hiệu quả sử dụng phổ cao (0.46-1.86
bps/Hz) do sử dụng OFDM với các sơ đồ điều chế bậc cao.
- Tiết kiệm công suất tiêu thụ ở máy cầm tay:
DVB-H sử dụng kỹ thuật cắt lát thời gian để tiết kiệm công suất tiêu thụ ở
máy thu, máy thu chỉ kích hoạt trong thời gian thu dịch vụ của mình và tắt nguồn
trong các khoảng thời gian khác.
- Tốc độ dữ liệu và số lượng kênh:
Tốc độ dữ liệu của DVB-H về mặt lý thuyết có thể lên tới 27.7 M bps, và
thực tế có thể lên tới 15 M bps. Với việc sử dụng các sơ đồ mã hoá nguồn hiệu quả
cao như H.264/AVC, HE-AA C V2, DVB-H có thể truyền tải 20-40 kênh truyền
hình di động ở tốc độ 128 kbps. DVB-H có thể cung cấp nhiều kênh trên cùng một
bộ ghép kênh. Độ phân giải hình ảnh có thể đạt được là QCIF (176 X 144 pixels),
CIF (352 X 288 pixels), và QVGA (320 X 240 pixels).
- Thời gian chuyển kênh:
DVB-H có thời gian chuyển kênh cao khoảng 3-5 giây, đó là do kỹ thuật cắt
lát thời gian gây ra trễ tín hiệu khi máy thu thực hiện chuyển từ một kênh này sang
một kênh khác, máy thu cần thực hiện đồng bộ để hiệu chỉnh tới tín hiệu phù hợp và
thu tín hiệu này. Thời gian chuyển kênh cao tác động tới kinh nghiệm người xem tín
hiệu truyền hình.
- Vùng phủ sóng:
DVB-H hỗ trợ chuyển giao nhờ sử dụng kỹ thuật cắt lát thời gian. DVB-H có
thể phủ sóng tới 17 km ở chế độ truyền dẫn 2K, 33km ở chế độ truyền dẫn 4K và 67
km ở chế độ truyền dẫn 8K. Công suất máy phát cao khoảng từ 100 W-100 kW, do
đó để phủ sóng vùng có diện tích lớn chúng ta chỉ cần lắp đặt số lượng máy phát ít,
điều này sẽ hiệu quả về mặt chi phí. Tỷ lệ mã hoá và sơ đồ điều chế khác nhau cho
phép hỗ trợ vùng phủ sóng và các yêu cầu chất lượng dịch vụ khác nhau cho các
ứng dụng khác nhau. Trong trường hợp DVB-H chia sẻ cơ sở hạ tầng mạng với
DVB-T, việc xây dựng mạng DVB-H sẽ chỉ cần đầu tư thêm vào cơ sở hạ tầng
mạng sẵn có, do đó sẽ hiệu quả về mặt chi phí. Trong trường hợp xây dựng mạng
DVB-H dành riêng thì chi phí thiết kế mạng sẽ cao hơn, nhưng số lượng dịch vụ
được cung cấp trong một bộ ghép kênh sẽ nhiều hơn so với trường hợp chia sẻ với
mạng DVB-T.
- Thiết bị đầu cuối di động:
Máy cầm tay di động DVB-H có cấu trúc thu phức tạp, được thiết kế để thu
được tín hiệu DVB-H, không tương thích với các mạng di động tế bào, nên chi phí
trong thời gian khai trương ban đầu sẽ cao.
- Sự khả dụng của dịch vụ:
DVB-H đã được triển khai ở nhiều nước trên thế giới, trong đó có nhiều
nước Châu Âu, một số nước Châu Á và M ỹ, với nhiều loại hình dịch vụ khác nhau.
4.3.2 Công nghệ T-DMB
- Khắc phục các ảnh hưởng của môi trường truyền dẫn vô tuyến di động:
T-DM B sử dụng điều chế OFDM với sơ đồ điều chế DQPSK để san bằng
kênh và chống xuyên nhiễu ISI, chế độ truyền dẫn được sử dụng là 2K. Để khắc
phục lỗi trên kênh, T-DMB sử dụng mã hoá khối Reed-Solomon ở bên ngoài và mã
hoá xoắn ở bên trong với các tỷ lệ mã hoá khác nhau. T-DMB sử dụng ghép xen
thời gian và ghép xen tần số để phân tán lỗi cụm trên kênh, nhờ đó sử dụng mã hoá
xoắn ở bên trong có thể khắc phục được lỗi truyền dẫn.
- Hiệu quả sử dụng phổ:
T-DM B sử dụng dải tần số dành cho phát thanh quảng bá âm thanh số DAB,
băng tần III (174-240 MHz) (Hàn Quốc) và băng tần L (1452-1492 MHz) (Châu
Âu), băng thông của kênh là 1.536 M Hz. Hiệu quả sử dụng phổ của T-DMB không
cao (0.2-1.2 bps/Hz). T-DMB sử dụng nguồn tài nguyên tần số hiệu quả do việc gán
dải tần số độc lập cho các nhà khai thác. Tuy nhiên, T-DM B cần bổ sung thêm phổ
tần số nếu số lượng lớn kênh dịch vụ được cung cấp.
- Tiết kiệm công suất tiêu thụ ở máy cầm tay:
Máy thu T-DMB sử dụng kỹ thuật phân kênh theo thời gian để tiết kiệm
công suất, vị trí của một kênh con trong khung truyền dẫn được thông báo tới máy
thu bằng thông tin cấu hình ghép kênh M CI, máy thu chỉ cần thu và giải mã các
kênh con mà nó quan tâm và không kích hoạt trong khoảng thời gian của các kênh
con khác. Tuy nhiên, kỹ thuật này có hiệu quả tiết kiệm công suất chưa cao, nên sẽ
tác động lớn đến khả năng sử dụng và tiếp nhận dịch vụ của người sử dụng.
- Tốc độ dữ liệu và số lượng kênh:
T-DM B có thể đạt tới tốc độ 1.8 Mbps về lý thuyết và thực tế có thể đạt tới
tốc độ 1.4 M bps. Tốc độ dữ liệu cao không được khuyến nghị cho T-DMB vì khi đó
máy thu sẽ tiêu tốn công suất tiêu thụ. Bằng cách sử dụng sơ đồ mã hóa nguồn hiệu
quả cao như MPEG-4 AVC (H.264), hai đến ba kênh truyền hình hoặc một kênh
truyền hình và một số kênh âm thanh, kênh dữ liệu có thể được ghép kênh trên độ
rộng băng thông 1.536 MHz. Một kênh truyền hình tương tự có độ rộng băng thông
6 MHz có thể truyền tải tới 6-9 kênh video, 12-15 kênh âm thanh, và 8 kênh dữ liệu.
T-DM B cung cấp tín hiệu âm thanh stereo chất lượng CD và tín hiệu video chất
lượng VCD (CIF hoặc QVGA ).
- Thời gian chuyển kênh:
T-DM B có thời gian chuyển kênh nhanh, khoảng 1.5 giây.
- Vùng phủ sóng:
T-DM B có bán kính phủ sóng lên tới 80 km. Công suất máy phát lên tới 10
kW. Do công suất truyền dẫn thấp, đối với một thành phố lớn, chất lượng thu tín
hiệu trong nhà và dưới mặt đất không được đảm bảo, do đó cần một số lượng lớn
máy phát để cung cấp vùng phủ sóng phù hợp. Dung lượng máy phát tăng nhờ triển
khai mạng đơn tần SFN. T-DMB hỗ trợ chuyển giao tần số khi máy thu di chuyển
từ vùng phục vụ của máy phát này sang vùng phục vụ của máy phát khác.
Đối với các nước đã có mạng DA B thì chi phí triển khai mạng T-DMB thấp,
vì T-DMB sử dụng lớp vật lý, các giao diện vô tuyến và cấu trúc ghép kênh của
DAB để truyền tải tín hiệu truyền hình di động. Theo kinh nghiệm của các nước đã
triển khai dịch vụ T-DMB như H àn Quốc thì chi phí truy nhập các chương trình
truyền hình di động của hệ thống T-DMB thấp, thậm chí miễn phí vì các nhà cung
cấp dịch vụ T-DMB muốn phát quảng bá các chương trình quảng cáo để tạo ra lợi
nhuận.
- Thiết bị đầu cuối di động:
Máy cầm tay T-DM B có cấu trúc thu đơn giản, đã được sản xuất bởi một số
nhà sản xuất thiết bị ở Hàn Quốc. Các máy cầm tay T-DM B có thể hỗ trợ sự tương
tác với các mạng di động tế bào.
- Sự khả dụng của dịch vụ:
T-DM B đã được triển khai ở Hàn Quốc và đã được thử nghiệm ở một số
nước khác.
4.3.3 Công nghệ MediaFLO
- Khắc phục các ảnh hưởng của môi trường truyền dẫn vô tuyến di động:
MediaFLO sử dụng điều chế OFD M với các sơ đồ điều chế QPSK, 16 QAM
để đạt được hiệu quả sử dụng phổ cao, san bằng kênh, và chống xuyên nhiễu ISI,
chế độ truyền dẫn là 4K . M ediaFLO sử dụng điều chế phân cấp để đảm bảo sự cân
đối giữa hiệu quả sử dụng phổ và vùng phủ sóng. Để khắc phục lỗi trên kênh,
MediaFLO sử dụng mã hoá Turbo ở bên trong với các tỷ lệ mã khác nhau và mã
hoá Reed-Solomon ở bên ngoài. MediaFLO sử dụng cấu trúc interlace để đạt được
tăng ích phân tập tần số.
- Hiệu quả sử dụng phổ:
MediaFLO truyền dẫn ở các băng tần VHF/UHF/L, với các băng thông 5, 6,
7, và 8 M Hz, hệ thống đã triển khai ở M ỹ sử dụng băng tần 700 MHz. MediaFLO
đạt được hiệu quả sử dụng phổ cao (0.47-1.87 bps/Hz) do sử dụng OFDM và các sơ
đồ điều chế bậc cao.
- Tiết kiệm công suất tiêu thụ ở máy cầm tay:
Máy thu MediaFLO sử dụng kỹ thuật ghép kênh phân chia theo thời gian để
tiết kiệm công suất.
- Tốc độ dữ liệu và số lượng kênh:
MediaFLO có thể đạt tới tốc độ 24 M bps về lý thuyết và thực tế có thể đạt
tới tốc độ 15 Mbps. Trên băng thông 6 MHz, M ediaFLO có thể truyền tải 20 kênh
dịch vụ thời gian thực ở tốc độ 300 Kbps. M ediaFLO hỗ trợ độ phân giải QVGA
(352 x 240 pixel), sử dụng nhiều kiểu mã hoá nguồn hiệu quả H.264, M PEG-4 HE-
AAC, Windows Media, và RealVideo.
- Thời gian chuyển kênh:
MediaFLO có thời gian chuyển kênh nhanh, khoảng 1.5 giây.
- Vùng phủ sóng:
MediaFLO có bán kính phủ sóng điển hình khoảng 2-25 km. Công suất máy
phát có thể lên tới 50 kW. Với công suất máy phát cao ở tần số tương đối thấp, nên
MediaFLO yêu cầu số lượng ít máy phát để phục vụ vùng có diện tích rộng, do đó
sẽ hiệu quả về mặt chi phí. M ediaFLO sử dụng tỷ lệ mã hoá và các sơ đồ điều chế
khác nhau, nên hỗ trợ các vùng phủ sóng và các yêu cầu chất lượng dịch vụ khác
nhau cho các ứng dụng khác nhau. M ediaFLO hỗ trợ chuyển giao tần số khi máy
thu di chuyển sang vùng phục vụ của máy phát khác cung cấp tín hiệu tốt hơn.
- Thiết bị đầu cuối di động:
MediaFLO là giải pháp của hãng Qualcomm, nên máy cầm tay mang tính
độc quyền của Qualcomm. Mạng 3G cung cấp các chức năng điều khiển, hỗ trợ sự
tương tác giữa máy cầm tay và hệ thống MediaFLO.
- Sự khả dụng của dịch vụ:
MediaFLO đã được triển khai thương mại ở M ỹ và đang được thử nghiệm ở
Anh, Hồng Kông và Đ ài Loan.
4.3.4 Công nghệ 3G (MBMS)
- Khắc phục các ảnh hưởng của môi trường truyền dẫn vô tuyến di động:
Công nghệ mạng 3G phát broadcast và multicast tín hiệu truyền hình di động
đã được nghiên cứu là MBMS. M BM S sử dụng kỹ thuật đa truy nhập phân chia
theo mã băng rộng (WCDMA), với sơ đồ điều chế QPSK. Để khắc phục lỗi trên
kênh, MBMS sử dụng mã Turbo có tỷ lệ mã R=1/3. Hai độ sâu ghép xen (TTI)
được sử dụng trong MBMS cho kênh lưu lượng từ điểm-tới-đa điểm (M TCH) là 40
ms và 80 ms, do đó MBMS đạt được tăng ích phân tập trong miền thời gian. M BMS
cũng sử dụng kỹ thuật phân tập thu anten, máy thu G-RAKE để cải thiện chất lượng
tín hiệu thu.
- Hiệu quả sử dụng phổ:
MBM S sử dụng băng tần dành cho các mạng 3G (mặt đất: 1920-1980 MHz,
mở rộng: 2170-2210 M Hz) với băng thông kênh là 5 MHz. Do đó, phổ tần số không
cần phân bổ lại cho MBMS để truyền tải các dịch vụ truyền hình di động. MBMS
có hiệu quả sử dụng phổ thấp (0.15-0.35 bps/Hz).
- Tiết kiệm công suất tiêu thụ ở máy cầm tay:
MBM S lựa chọn mã trải phổ để đảm bảo sự tiết kiệm công suất ở máy thu.
- Tốc độ dữ liệu và số lượng kênh:
Tốc độ về mặt lý thuyết mà M BM S có thể đạt được lên tới 1.5 M bps, tốc độ
điển hình đạt được trong thực tế là 128 Kbps. M ột sóng mang 5 MHz có thể hỗ trợ
13 kênh có tốc độ 128 Kbps. Dung lượng tế bào tổng cộng phụ thuộc vào số lượng
tần số được hỗ trợ bởi tế bào đó, MBMS sử dụng phương pháp kết hợp mềm để
tăng dung lượng. Độ phân giải màn hình đạt được là Q CIF, QVGA.
- Thời gian chuyển kênh:
MBM S có thời gian chuyển kênh nhanh, khoảng 1.5 giây.
- Vùng phủ sóng:
MBM S có bán kính vùng phủ sóng từ 500m-2000 m, công suất máy phát
khoảng 600 W. Sử dụng M BMS sẽ giảm chi phí thực hiện cho cả mạng 3G và thiết
bị đầu cuối 3G vì mạng 3G đã được triển khai và thiết bị đầu cuối 3G khả dụng trên
thị trường. M BMS hỗ trợ chuyển giao tần số khi máy thu đi vào vùng phục vụ của
máy phát khác cung cấp tín hiệu tốt hơn.
- Thiết bị đầu cuối di động:
Thiết bị đầu cuối di động 3G đã được sản xuất bởi nhiều nhà cung cấp thiết
bị ở nhiều nơi trên thế giới, và có giá thành không cao.
- Sự khả dụng của dịch vụ:
Dịch vụ MBMS khả dụng ở nhiều nơi trên thế giới khi mà mạng di động 3G
được triển khai.
4.4 Kết luận chương
Trong chương này, tác giả so sánh các tham số của những công nghệ truyền
hình di đông cơ bản đã được nghiên cứu ở phần trước như: công nghệ DVB-H,
DMB, FLO, và công nghệ 3G. Như so sánh về hiệu quả sử dụng phổ, số lượng
kênh, tốc độ, sự khả dụng dịch vụ; so sánh các tham số truyền dẫn; so sánh tham số
mạng máy phát; so sánh lớp truyền tải, dịch dụ, sơ đồ âm thanh/video. Dựa trên
những tham số đó làm cơ sở để đánh giá các công nghệ và chúng ta đánh giá các
công nghệ truyền hình di động theo một số tiêu chí một cách ngắn gọn như dưới
đây: Khắc phục các ảnh hưởng của môi trường truyền dẫn vô tuyến di động, hiệu
quả sử dụng phổ, tiết kiệm công suất tiêu thụ ở máy cầm tay, tốc độ dữ liệu và số
lượng kênh, thời gian chuyển kênh, vùng phủ sóng, thiết bị đầu cuối di động, sự khả
dụng của dịch vụ để làm cơ sở để cho tác giả có hướng đề xuất ứng dụng cho các
công nghệ truyền hình di động.
Chương 5: ĐỀ XUẤT HƯỚNG LỰA CHỌN CÔNG NGHỆ,
MỘT SỐ ỨNG DỤNG CH O PHÁ T THANH SỐ DI ĐỘNG,
KẾT LUẬN, KHUYẾN NGHỊ VÀ HƯỚNG PHÁT TRIỂN
5.1 Đề xuất hướng lựa chọn công nghệ và phát triển Mobile TV
Các công nghệ Mobile TV đã nghiên cứu đều có các ưu nhược điểm riêng,
tuy nhiên các công nghệ này đều có khả năng truyền tải các tín hiệu truyền hình di
động. Công nghệ 3G đã được triển khai ở nhiều quốc gia trên thế giới, trong đó
Mobile TV là một loại hình dịch vụ được cung cấp trên nền mạng 3G; công nghệ
DVB-H được triển khai rộng rãi ở các nước Châu Âu; trong khi đó công nghệ DM B
được triển khai chủ yếu ở Hàn Quốc. Các công nghệ 3G, DVB-H và T-DM B là các
công nghệ tiềm năng để truyền tải tín hiệu Mobile TV ở Việt Nam; thực tế, công
nghệ 3G đang bắt đầu được triển khai bởi một số nhà khai thác mạng di động ở Việt
Nam, DVB-H đã được triển khai bởi Tổng Công ty Truyền thông đa phương tiện số
(VTC), T-DMB đã được thử nghiệm bởi Trung tâm D ịch vụ Truyền hình – Đài
Truyền hình Việt Nam.
5.1.1 Hướng lựa chọn Mobile TV phát trên mạng 3G
Trong thực tế, các mạng di động đã và đang được triển khai ở nhiều nước,
truyền hình di động là một loại hình dịch vụ được cung cấp trên các mạng này. Các
dịch vụ truyền hình di động sử dụng các mạng 3G được cung cấp ở chế độ unicast.
Tuy nhiên, khi số lượng người sử dụng dịch vụ Mobile TV đồng thời tăng lên, ví dụ
như số lượng người sử dụng yêu cầu được cung cấp dịch vụ video theo yêu cầu
(VoD) tăng lên, thì chất lượng các dịch vụ truyền thống khác như thoại sẽ bị ảnh
hưởng bởi vì băng thông của mạng 3G bị hạn chế. Ở dạng thông thường nhất,
truyền hình di động có thể khả dụng trên các mạng 2.5G hoặc các mạng 3G ở dạng
cung cấp dịch vụ VoD hoặc Streaming video. Các dịch vụ này dựa trên các kênh
truyền dẫn dành riêng cho mỗi người sử dụng, do đó khả năng xảy ra tắc nghẽn
trong mạng là rất lớn khi số lượng người sử dụng đồng thời tăng lên, đặc biệt là khi
những người sử dụng này yêu cầu được cung cấp các dịch vụ có băng thông lớn.
Mặc dù có băng thông hạn chế, các mạng 3G vẫn có khả năng đảm bảo truyền tải
các tín hiệu truyền hình di động, tác giả đề xuất hướng lựa chọn công nghệ 3G để
truyền tải tín hiệu truyền hình di động ở Việt Nam với các lý do chính như sau:
- Cơ sở hạ tầng mạng: Khi các Doanh nghiệp Viễn thông đã thiết lập cơ sở
hạ tầng mạng di động, để có thể cung cấp các dịch vụ truyền hình di động thì yêu
cầu bổ sung rất ít cơ sở hạ tầng mạng. Điều này là hoàn toàn khả thi với các mạng
3G vì dung lượng truyền dẫn của các mạng này cao hơn so với các mạng 2.5G.
- Không yêu cầu bổ sung thêm phổ tần số: Phổ tần số dành cho 3G đã được
phân bổ, lập kế hoạch. Về mặt lý thuyết, không yêu cầu bổ sung thêm phổ tần số để
có thể cung cấp các dịch vụ truyền hình di động bởi vì nội dung được truyền tải bởi
mạng di động dựa trên phổ tần số hiện tại được dành cho mạng này. Tuy nhiên,
trong thực tế, sự cần thiết bổ sung thêm phổ tần số sẽ liên kết với thuê bao được
cung cấp dịch vụ bởi mạng di động.
- Các máy cầm tay di động khả dụng trên thị trường: Hầu hết các máy cầm
tay di động 3G đều có thể xem được các chương trình truyền hình di động, các máy
cầm tay di động này có giá thành không cao.
- Cước trả khi tải dữ liệu: Sử dụng công nghệ 3G dựa trên việc phân phát nội
dung khi dữ liệu được tải bởi thuê bao, do đó cước được tính khi dữ liệu được tải
về.
- Vùng phủ sóng rộng: Các mạng 3G có vùng phủ sóng rộng lớn, do đó dịch
vụ Mobile TV sẽ được cung cấp tới nhiều khu vực miễn là ở đó có phủ sóng di
động 3G.
- Công nghệ 3G sẽ tiếp tục được nâng cấp để có thể truyền tải dữ liệu ở tốc
độ cao hơn:
Công nghệ M BMS: Công nghệ dịch vụ broadcast và multicast đa
phương tiện (MBMS) như đã được nghiên cứu là sự mở rộng của công nghệ UMTS,
được thiết kế để hoạt động trên nền mạng 3G. Công nghệ này cho phép kênh lưu
lượng được chia sẻ bởi tất cả người sử dụng khi những người sử dụng này đồng thời
xem cùng chương trình trong cùng một vùng phục vụ. MBMS cung cấp phương
pháp phân phát streaming và phương pháp phân phát download. Phương pháp phân
phát streaming có thể được ứng dụng cho các dịch vụ Mobile TV, trong khi đó
phương pháp download ứng dụng cho các dịch vụ theo yêu cầu như VoD (nội dung
được download về thiết bị di động). M BMS là công nghệ multicast và broadcast
tiềm năng trên mạng 3G khi số lượng người sử dụng đồng thời một chương trình
truyền hình là lớn. Sự nâng cấp hệ thống 3G triển khai ở Việt Nam lên hệ thống
MBM S cũng cần thời gian sau khi 3G được cung cấp phổ biến ở Việt Nam.
Công nghệ mới như HSPA cung cấp tốc độ dữ liệu tăng đáng kể lên tới
14 Mbps, do đó cung cấp băng thông lớn hơn để truyền tải các dịch vụ Mobile TV.
Các dịch vụ sẽ được cung cấp trên mạng 3G được triển khai tại Việt Nam
gồm:
Nhóm dịch vụ liên lạc:
- Điện thoại truyền hình (Video call): Cho phép người gọi và người nghe có
thể nhìn thấy hình ảnh của nhau trên điện thoại di động, giống như hai người đang
nói chuyện trực tiếp với nhau;
- Truyền tải đồng thời âm thanh, dữ liệu: Tải các file âm thanh với dung
lượng lớn hơn và tốc độ nhanh hơn (hiện tại GPRS cũng cho tải nhưng với những
file âm thanh có dung lượng thấp và tốc độ chậm);
- Nhắn tin đa p hương tiện (M MS): cho phép truyền tải đồng thời hình ảnh
và âm thanh, các đoạn video clip (dữ liệu động) và văn bản (text) cùng lúc trên bản
tin với tốc độ nhanh và dung lượng lớn.
Nhóm dịch vụ nội dung giải trí bao gồm:
- Tải phim (Video Dowloading) từ điện thoại di động;
- Xem phim trực tuyến (Video Streaming) trên điện thoại di động với chất
lượng hình ảnh, âm thanh tốt, không bị giật hình hay trễ tiếng (thay vì truy cập
Internet để tải và xem phim );
- Tải nhạc Full Track: Cho phép tải các clip ca nhạc với dung lượng lớn.
Nhóm dịch vụ thanh toán điện tử (Mobile Payment):
Cho phép thanh toán hóa đơn hay giao giao dịch chuyển tiền…qua tin nhắn
điện thoại di động (nếu khách hàng có tài khoản mở tại ngân hàng và có liên kết với
nhà cung cấp dịch vụ di động). Băng thông rộng sẽ giúp cho thông tin giao dịch
được truyền tải nhanh hơn.
Nhóm thông tin xã hội bao gồm:
- Truy nhập Internet di động;
- Quảng cáo di động (Mobile Advertizing): Cho phép thực hiện quảng cáo
bằng text (như hiện nay) hoặc quảng cáo dưới dạng tin nhắn đa phương tiện M MS
(video clip) từ nhà cung cấp dịch vụ tới thuê bao theo ngày, giờ, nhất định dựa trên
nhu cầu của khách hàng.
Nhóm hỗ trợ cá nhân bao gồm:
- Truyền dữ liệu;
- Sao lưu dự phòng dữ liệu;
- Thông báo gửi và nhận email;
- Kết nối từ xa tới mạng Intranet: Cho phép người dùng có thể kết nối từ xa
trên điện thoại di động với các thiết bị điện tử tại văn phòng hay ở nhà…
Như vậy, truyền hình di động là một loại hình dịch vụ tiềm năng được cung
cấp trên mạng 3G tại Việt Nam.
5.1.2 Hướng lựa chọn công nghệ DVB-H
Trong các công nghệ M obile TV, công nghệ quảng bá số tới máy cầm tay
(DVB-H) là công nghệ được thị trường chấp nhận và hỗ trợ nhiều nhất trên toàn thế
giới với hàng trăm công ty phát triển các dịch vụ, thiết bị, phần cứng và phần mềm
cho tiêu chuẩn. DVB-H là sự mở rộng của công nghệ quảng bá video số mặt đất
(DVB-T) với các tính năng được thiết kế để có thể tiết kiệm nguồn ở máy thu (do
công suất pin hạn chế) và đảm bảo chất lượng thu tốt trong môi trường vô tuyến di
động. Các ưu điểm chính của DVB-H là:
- Đây là một tiêu chuẩn mở và đã được triển khai thương mại rộng rãi ở hơn
35 nước trên thế giới. DVB-H được sử dụng phổ biến ở Châu Âu để truyền dẫn tín
hiệu truyền hình di động mặt đất và qua vệ tinh ở chế độ công suất thấp cho các
thiết bị có công suất pin tiêu thụ thấp. Bởi vì DVB-H là một tiêu chuẩn mở, điều
này tạo ra sự cạnh tranh và phát triển, do đó sẽ làm giảm giá thành máy đầu cuối
Mobile TV và các gói dịch vụ.
- DVB-H sử dụng giao diện không gian OFDM . OFDM cung cấp hiệu quả
sử dụng phổ tần số, khắc phục ảnh hưởng của truyền dẫn đa đường và cung cấp chất
lượng thu tốt. OFDM làm việc tốt trong các mạng đơn tần được sử dụng cho M obile
TV.
- Kỹ thuật để tiết kiệm nguồn trong DVB-H là kỹ thuật cắt lát thời gian,
trong đó các dịch vụ truyền hình khác nhau được phát thành các cụm. Điều này cho
phép máy thu ở chế độ sleep và chỉ bật nguồn khi thu tín hiệu của dịch vụ mong
muốn. Kỹ thuật này có thể tiết kiệm tới 90% năng lượng so với DVB-T.
- DVB-H cung cấp tốc độ cao lên tới 15 Mbps, cho phép truyền dẫn đồng
thời nhiều kênh Mobile TV tuỳ thuộc vào chất lượng mong muốn.
- DVB-H là một tiêu chuẩn linh hoạt với một dải rộng các lựa chọn để thiết
kế mạng.
- Công nghệ này cũng hỗ trợ các dịch vụ âm thanh và radio số và bổ sung
các dịch vụ tải clip khả dụng trên mạng tế bào.
- Máy cầm tay yêu cầu công suất tiêu thụ thấp với thông lượng dữ liệu cao.
- Công nghệ này có thể chia sẻ phổ tần số và cơ sở hạ tầng với các mạng
truyền hình số mặt đất DVB-T đã được triển khai ở Việt Nam.
Mặc dù có các ưu điểm trên, DVB-H cũng tồn tại một số nhược điểm cần chú
ý sau đây:
- DVB-H dễ bị ảnh hưởng bởi sự biến đổi tín hiệu và các vấn đề đồng bộ;
- Thời gian chuyển kênh cao;
- Các máy cầm tay để thu được dịch vụ có giá thành cao;
- DVB-H yêu cầu công suất máy phát cao; DVB-H yêu cầu mật độ máy phát
cao tương tự như mạng tế bào, để cung cấp vùng phủ sóng trong nhà chấp nhận
được ở các vùng đô thị.
- Các tần số UHF lý tưởng để truyền tín hiệu DVB-H, tuy nhiên băng tần
này hầu như đã kín để truyền tải các chương trình truyền hình mặt đất ở Việt Nam.
Với các phân tích trên và các nghiên cứu, đánh giá về công nghệ DVB-H, tác
giả đề xuất hướng lựa chọn công nghệ DVB-H để truyền tải tín hiệu truyền hình di
động ở Việt Nam.
Mô hình triển khai hệ thống DVB-H của VTC
Thực tế, tổng công ty truyền thông đa p hương tiện số VTC, cụ thể hơn là công
ty truyền hình di động VTC đã tiến hành cung cấp dịch vụ DVB-H tới người sử
dụng ở Việt Nam vào cuối năm 2006.
Để các kênh truyền hình có thể hiện thị rõ nét với chất lượng cao trên các thiết
bị xem truyền hình di động và đi kèm với nó là các tiện ích tương tác đặc thù; các
luồng tín hiệu chứa nội dung phải được đóng gói, truyền tải và giải mã trong một
quy trình khép kín, đồng bộ. Đó là một trong những thế mạnh vượt trội của chuẩn
công nghệ truyền hình di động DVB-H. Hình 5.1 mô tả mô hình triển khai dịch vụ
truyền hình di động DVB-H của VTC.
Hình 5.1: M ô hình triển khai DVB-H của VTC.
Đầu tiên, nội dung các kênh truyền hình (VTC1, VTC2, VTC3, …) sẽ được
tự động sửa đổi cho phù hợp với tiêu chuẩn DVB-H. Sau đó những nội dung này sẽ
được đưa tới “Hệ thống quản lý truyền hình di động (VTC MOBILE TV)” và được
chuyển trực tiếp tới module “Đóng gói dịch vụ” (IP Encapsulator & IP Encapsulator
Mangager). Tại đây nội dung các chương trình được đóng gói lại thành dòng dữ liệu
IP và dòng tín hiệu IP này tiếp tục được mã hóa theo một cách thức đã được ngầm
định sẵn. Để giải mã được dòng IP này cần phải có khóa giải mã chương trình. Ở
quy trình tiếp theo, dòng IP tiếp tục được đóng thành các gói MPE-FEC (nhằm tác
dụng sửa các gói tin bị lỗi xảy ra khi truyền tải). Các gói MPE-FEC này sau đó
được thực hiện cắt lát cắt thời gian (time slicing – có tác dụng tiết kiệm năng lượng
cho các thiết bị thu). Cuối cùng các gói tin này tiếp tục được nén thành dòng truyền
tải M PEG-2, sẵn sàng truyền ra “Mạng phát hình DVB-H”. Tín hiệu được đưa ra
máy phát sóng kỹ thuật số DVB-H để phát quảng bá giống như truyền hình số mặt
đất.
Toàn bộ các thao tác trong quy trình “Đóng gói dịch vụ” đều nằm dưới tầm
kiểm soát của khối “quản lý dịch vụ quảng bá” (Broadcast Service M anager -
BSM). Khối BSM này sẽ điều khiển khối “Đóng gói dịch vụ” để khối này có thể
nhận đúng những dòng tín hiệu của các kênh chương trình được đưa vào cũng như
cách thức mã hóa các gói IP. Đồng thời với quy trình đó, BSM sẽ phát ra khóa giải
mã chương trình và đưa tới khối “Quản lý thuê bao” (Broadcast Account Manager -
BAM), sẵn sàng chuyển tới thiết bị di động để giải mã dòng tín hiệu các nội dung
phát sóng. Ngoài ra, BSM còn tạo ra một hướng dẫn dịch vụ điện tử ESG
(Electronic Service Guide) gửi tới khối “Đóng gói dịch vụ”. Khối này sẽ đóng gói
các tín hiệu ESG theo một cách riêng và chuyển tới máy phát để phát kèm các luồng
tín hiệu chính nhằm giúp khán giả có thể trực tiếp truy cập thông tin về các kênh
dịch vụ, lịch phát sóng, các thông tin mô tả chương trình, các dịch vụ giá trị gia tăng
kèm theo chương trình hay liệt kê về giá của các gói dịch vụ truyền hình...
Như vậy là dòng tín hiệu sau khi ra khỏi khối “Đóng gói dịch vụ” sẽ được
phát quảng bá qua các máy phát hình DVB-H (giống như tín hiệu truyền hình số
mặt đất nhưng đích đến là các thiết bị di động cầm tay). Tại các thiết bị thu và giải
mã sóng truyền hình di động (điện thoại di động có chức năng xem truyền hình),
khán giả đã có thể xem được các chương trình cũng như sử dụng các dịch vụ miễn
phí. Đối với các dịch vụ phải trả phí thì người dùng sẽ mua dịch vụ bằng cách gửi
yêu cầu mua dịch vụ từ thiết bị di động của mình tới hệ thống “Quản lý thuê bao” –
BAM của VTCmobile thông qua đường truyền của mạng điện thoại di động mà họ
đang sử dụng. Như trong hình vẽ miêu tả, thiết bị cầm tay di động sẽ gửi yêu cầu
mua dịch vụ thông qua kết nối GPRS của “Mạng điện thoại di động” (được cung
cấp bởi Vinaphone, Viettel, M obiphone,…), tại đây những yêu cầu đó tiếp tục được
bộ phận quản lý mạng điện thoại di động gửi tới bộ phận quản lý thuê bao BAM.
Hoặc nếu thiết bị có khả năng kết nối WLAN thì thiết bị cầm tay di động có thể gửi
yêu cầu mua kênh trực tiếp tới hệ thống quản lý truyền hình di động qua kết nối
WLAN truyền ngay trên Internet.
Sau khi nhận được yêu cầu từ người sử dụng, hệ thống quản lý thuê bao
BAM truyền hình di động cùng với hệ thống tính cước sẽ kiểm tra thông tin của
người sử dụng (kiểm tra tài khoản dịch vụ của người sử dụng, cặp IMEI - SeriSIM,
…) xem có đầy đủ thông tin hợp lệ hay không, nếu hợp lệ thì khóa giải mã sẽ được
hệ thống gửi ngược trở lại máy di động của khán giả qua đường GPRS để thiết bị có
thể giải mã được những nội dung chương trình và các tiện ích đi kèm. Thiết bị cầm
tay di động sau khi nhận được khóa giải mã thì sẽ dùng nó để giải mã dòng chương
trình và người sử dụng sẽ mở được nội dung mà mình muốn xem. Ngược lại nếu
thông tin kiểm tra thấy không hợp lệ thì hệ thống quản lý truyền hình di động sẽ gửi
ngược lại cho máy di động một thông báo lỗi để người sử dụng dịch vụ biết đã có
lỗi xảy ra trong quá trình thao tác sử dụng hoặc yêu cầu sử dụng dịch vụ.
Tuy nhiên, vấn đề chính khi phát triển dịch vụ truyền hình di động của VTC
là thiết bị đầu cuối di động, hiện tại trên thị trường Việt Nam chỉ có máy cầm tay
DVB-H do Nokia cung cấp, các máy cầm tay này không có khả năng tương tác với
các mạng di động tế bào và giá thành còn tương đối cao.
Với các ưu nhược điểm trên và sự triển khai thử nghiệm thực tế của công ty
truyền hình di động VTC tại Việt Nam, công nghệ DVB-H hứa hẹn là công nghệ
truyền hình di động tiềm năng ở Việt Nam khi máy đầu cuối cầm tay di động trở
nên phổ thông, cước phí giảm, và các nội dung được cung cấp trở nên phong phú
hơn.
5.1.3 Hướng lựa chọn công nghệ DMB
Công nghệ quảng bá đa phương tiện số (DMB) là công nghệ phát triển dựa
trên hệ thống Eureka 147 đối với quảng bá âm thanh số. DMB sử dụng ghép kênh
phân chia theo thời gian, cho phép máy thu tắt nguồn trong các khoảng lấy mẫu để
tiết kiệm công suất, tuy nhiên kỹ thuật này chưa đạt được hiệu quả tiết kiệm công
suất cao. DM B sử dụng các phân bổ băng thông 1.5 M Hz để truyền tải tín hiệu
truyền hình di động. Các ưu điểm chính của DMB là:
- DM B là tiêu chuẩn mở và đã được triển khai thương mại rộng rãi ở hơn 11
nước trên thế giới, đặc biệt là ở Hàn Quốc;
- DM B có khả năng chống nhiễu tốt;
- Công suất truyền dẫn yêu cầu đối với T-DMB thấp;
- Thời gian chuyển kênh thấp;
- Các mạng quảng bá âm thanh số (DAB) dựa trên công nghệ Eureka 147 có
thể được sử dụng cho T-DMB;
- Băng tần VHF và băng tần L có thể được sử dụng cho DMB.
Mặc dù có các ưu điểm trên, DMB có một số nhược điểm cần chú ý là:
- Số lượng kênh truyền hình di động ít;
- Phổ tần số yêu cầu bổ sung nếu số lượng lớn kênh truyền hình di động
được truyền tải;
- Số lượng lớn các máy phát được yêu cầu để cung cấp vùng phủ sóng phù
hợp.
- Máy thu DMB hiện nay chưa phổ biến.
Thử nghiệm công nghệ T-DM B của Đài truyền hình Việt Nam
Ở Việt Nam, công nghệ T-DMB đã được triển khai thử nghiệm bởi Trung
tâm dịch vụ truyền hình – Đài truyền hình Việt Nam vào năm 2008. Quá trình thử
nghiệm các loại thiết bị đầu cuối và nội dung dịch vụ tại Việt Nam đã cho kết quả
tốt sau khi hơn 50 thiết bị đầu cuối với các chủng loại khác nhau được phân cho
biên tập viên, các chuyên gia và cán bộ Đài Truyền hình Việt Nam ở các lứa tuổi
khác nhau để đánh giá, phân tích.
Kế hoạch thử nghiệm công nghệ T-DMB tại Việt Nam diễn ra vào tháng
9.2008, với các nhóm tham gia thử nghiệm gồm: Trung tâm dịch vụ truyền hình –
Đài truyền hình Việt Nam (BroadtechSC), Viện nghiên cứu điện tử viễn thông Hàn
Quốc (ETRI), Học viện công nghệ Bưu chính Viễn thông (PTIT). Thử nghiệm T-
DMB được phát trên kênh 10 (tần số: 206 – 214 M Hz) với máy phát số có công suất
300 W, bán kính phủ sóng khoảng 3 km, địa điểm thử nghiệm đánh giá là tại Hà
Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Hình 5.2: Sơ đồ khối thử nghiệm T-DMB tại Hà Nội.
Mục tiêu của kế hoạch thử nghiệm là để đánh giá các đặc tính chính của hệ
thống, bao gồm:
- Đánh giá nhiễu;
- Truyền dẫn trên băng tần VHF với máy thu di động;
- Đánh giá các máy thu T-DM B của các nhà sản xuất khác nhau;
- Phân bổ 4 khối T-DM B tuân theo tiêu chuẩn Châu Âu và H àn Quốc để lựa
chọn tiêu chuẩn phù hợp với Việt Nam;
- Mở rộng vùng phủ sóng để đánh giá chính xác tất cả các đặc tính của hệ
thống khi làm việc với công suất cao.
Các đặc tính của hệ thống thử nghiệm:
- Số chương trình: 02;
- Tần số phát: Kênh 10 (206 – 214 MHz);
- Số khối DMB: 4 khối tuân theo tiêu chuẩn của Châu Âu và Hàn Quốc;
- Công suất phát: 300 W/kênh số;
- Vùng phủ sóng: ~ 3 Km;
- Anten phát: Sử dụng anten lưỡng cực, băng tần hoạt động VHF, 04 panel
phát quảng bá đi 4 hướng, chiều cao anten ~100 m.
Các kết quả thử nghiệm cho thấy:
- Chất lượng hình ảnh rõ nét;
- Phát quảng bá tín hiệu T-DM B trên kênh 10 không gây nhiễu tới các kênh
khác;
- Vùng phủ sóng có bán kính rộng mặc dù công suất máy phát thấp chỉ cỡ
300 W.
Qua giai đoạn thử nghiệm công nghệ T-DM B tại Việt Nam, một số kết
luận được rút ra là:
- T-DMB truyền dẫn rất hiệu quả đối với máy thu di động do sử dụng băng
tần III trong dải tần VHF;
- T-DMB có phân bổ chương trình linh hoạt bởi vì băng thông của khối chỉ
là 1.536 MHz;
- Các máy thu (bao gồm cả máy thu cầm tay, máy thu trên ô tô...) được hỗ
trợ rộng rãi;
- Có khả năng thiết kế mạng đơn tần SFN;
- T-DMB có khả năng cung cấp truyền hình tương tác, Video theo yêu cầu
(VoD)...
Trong tương lai, thử nghiệm công nghệ T-DMB tại Việt Nam sẽ cần mở rộng
vùng phủ sóng để kiểm tra đầy đủ nhiễu và tính di động, thiết kế mạng đơn tần SFN
và các bộ gap-filler để tăng vùng phủ sóng trong nhà, đề nghị chính sách phân bổ
tần số ở băng tần III trong dải tần VHF cho phát thanh số di động và truyền hình di
động.
Việc triển khai dịch vụ Truyền hình số di động T-DMB tại Việt Nam nhằm
đáp ứng chủ trương số hóa phát thanh, truyền hình của Chính phủ, theo kịp xu thế
trên thế giới. Dịch vụ T-DMB khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên tần số trên băng
III. T-DMB sẽ đáp ứng được nhu cầu của xã hội về giao thông, thời tiết, cảnh báo
thiên tai…
Theo tính toán của đề án, với một triệu điện thoại bán ra thị trường được hỗ
trợ công nghệ T-DMB và số người sử dụng dịch vụ thường xuyên khoảng 300.000
người trên cả nước, dịch vụ này có khả năng đem lợi nhuận nhanh.
Như vậy, với các ưu nhược điểm riêng về mặt công nghệ và thực trạng về về
tình hình triển khai, thử nghiệm của các công ty, doanh nghiệp viễn thông, Đài
truyền hình Việt Nam, các công nghệ 3G, DVB-H và T-DMB là các công nghệ tiềm
năng để truyền tải tín hiệu di động ở Việt Nam.
5.2 Một số ứng dụng cho phát thanh số di động
5.2.1 Dịch vụ âm thanh
Mục tiêu của các dịch vụ âm thanh là phân phối các chương trình radio số thay
thế radio VHF tương tự. So với radio tương tự, các dịch vụ âm thanh đạt được chất
lượng CD nhờ sử dụng kỹ thuật mã hoá nguồn MUSICAM (MPEG-1, 2 Lớp 2).
Các chương trình radio được phát bởi dịch vụ này có thể ở chế độ mono hoặc
stereo.
5.2.2 Dịch vụ video
Dịch vụ video cho phép phân phát nội dung đa phương tiện tới các máy cầm
tay di động. Vấn đề chính khi phân phát dịch vụ video là băng thông hạn chế. Do
đó, dịch vụ video cần sử dụng các thuật toán nén hiệu quả như mã hoá video tiên
tiến MPEG-4 (MPEG-4 AVC) hay còn gọi là H.264. Độ phân giải thông thường
nhất đối với video trong môi trường vô tuyến di động là CIF (352 x 288 pixels) với
tốc độ làm tươi là 30 khung/giây. CIF yêu cầu tốc độ dữ liệu khoảng 250-300 Kbps.
Các độ phân giải khác đạt được là QCIF (176 x 144 pixels), QVGA (320 x240) và
WDF (384 x 244 pixels), ở tốc độ làm tươi là 30 khung/giây.
5.2.3 Dịch vụ dữ liệu
Dịch vụ dữ liệu được cung cấp trên nền IP. Đường hầm IP cho phép đóng
gói các gói IP thành các gói dịch vụ dữ liệu. Nhờ đó các ứng dụng phổ biến TCP/IP
như Web, giao thức truyền tải tệp (FTP), và SM TP (e-mail) có thể được truyền tải.
5.3 Kết luận, khuyến nghị, hướng phát triển
5.3.1 Kết luận: Đề tài đã nghiên cứu các công nghệ truyền hình di động bao gồm: Truyền
hình di động phát qua mạng 3G, công nghệ DVB-H, công nghệ DM B và công nghệ
MediaFLO. Các công nghệ này đã và đang được thử nghiệm, triển khai ở nhiều
quốc gia trên thế giới và được tiêu chuẩn hoá bởi các tổ chức tiêu chuẩn Quốc tế
như ETSI, TIA, IEC, IETF, và ITU. Mỗi công nghệ truyền hình di động đều có các
ưu nhược điểm riêng, tuy nhiên như đã nghiên cứu và phân tích, các công nghệ này
đều có khả năng truyền tải các tín hiệu truyền hình di động. Tác giả của đề tài đã đề
xuất hướng lựa chọn công nghệ Mobile TV phát qua mạng 3G, và công nghệ DVB-
H tại Việt Nam.
- Công nghệ 3G có thể truyền tải tín hiệu truyền hình di động ở chế độ
unicast từ điểm-tới-điểm, khi nâng cấp lên công nghệ MBMS thì khả năng truyền
multicast và broadcast tới nhiều người sử dụng là dễ dàng. Công nghệ 3G có băng
thông hạn chế, nên số lượng người sử dụng đồng thời dịch vụ không nhiều và tốc độ
truyền tải dữ liệu không cao, khi số lượng người sử dụng dịch vụ đồng thời tăng lên
thì chất lượng của các dịch vụ truyền thống khác như thoại sẽ bị ảnh hưởng. Tuy
nhiên, công nghệ 3G lại có ưu điểm nổi trội là phổ tần số không cần phân bổ lại cho
dịch vụ truyền hình di động, vùng phủ sóng của mạng 3G rộng khắp, thiết bị đầu
cuối di động phong phú về chủng loại và có giá thành không cao. Tương lai, khi
công nghệ 3G được nâng cấp lên HSPA thì băng thông sẽ đảm bảo lớn hơn. Ở Việt
Nam, các nhà khai thác mạng di động đã và đang bắt đầu triển khai công nghệ 3G,
do vậy, truyền hình di động sẽ là một dịch vụ tiềm năng được cung cấp trên các
mạng này. M ột trong những tiêu chí để thu hút người sử dụng dịch vụ M obile TV
qua mạng 3G là cần đảm bảo chất lượng dịch vụ, do đó hạ tầng mạng cần phải được
tối ưu thường xuyên. Nội dung M obile TV cung cấp qua mạng 3G cũng cần phong
phú, phù hợp với nhu cầu của người sử dụng tại Việt Nam. M ột trong những tiêu
chí quan trọng khác là giá cước dịch vụ cần được áp dụng hợp lý để thu hút người
sử dụng dịch vụ. Thị trường thiết bị đầu cuối 3G, trong đó có cài đặt các ứng dụng
để truy nhập dịch vụ M obile TV, cũng là một trong những yếu tố hết sức quan trọng
thúc đẩy sự phát triển loại hình dịch vụ này.
- Công nghệ DVB-H là công nghệ broadcast phát tín hiệu truyền hình di
động đã được thương mại hoá rộng rãi ở các nước Châu Âu và triển khai, thử
nghiệm ở một số nước Châu Á, M ỹ. Công nghệ DVB-H khắc phục được các ảnh
hưởng của môi trường truyền dẫn vô tuyến di động với các kỹ thuật như mã hoá
xoắn, mã Reed-Solomon, ghép xen theo độ sâu, điều chế OFDM . DVB-H sử dụng
kỹ thuật cắt lát thời gian để tiết kiệm pin, hiệu quả sử dụng phổ cao, hỗ trợ chuyển
giao tốt và có bán kính phủ sóng lớn. DVB-H có thể cung cấp nhiều kênh truyền
hình di động đồng thời, và có tốc độ truyền tải cao. DVB-H tiết kiệm chi phí đầu tư
vào cơ sở hạ tầng mạng với các nước đã có sẵn mạng DVB-T truyền tải tín hiệu
truyền hình số mặt đất. DVB-H truyền dẫn lý tưởng trên băng tần UHF, tuy nhiên
băng tần này hầu như đã kín để truyền các kênh truyền hình mặt đất. Ở Việt Nam,
công nghệ DVB-H đã được triển khai bởi VTC vào cuối năm 2006 trên cơ sở hạ
tầng mạng DVB-T đã thiết lập của VTC. Tuy nhiên, hiện nay trên thị trường ở Việt
Nam, thiết bị đầu cuối di động DVB-H chưa phong phú về chủng loại.
- Công nghệ T-DM B là công nghệ broadcast phát tín hiệu truyền hình di
động đã được thương mại hoá chủ yếu ở Hàn Quốc và triển khai thử nghiệm ở một
số nước Châu Âu, Châu Á. T-DM B có khả năng khắc phục được các ảnh hưởng của
môi trường truyền dẫn vô tuyến di động, với các kỹ thuật như mã xoắn, mã Reed-
Solomon, ghép xen theo thời gian, ghép xen theo tần số, điều chế OFDM . T-DMB
sử dụng kỹ thuật phân kênh theo thời gian để tiết kiệm pin, nhưng hiệu quả tiết
kiệm không cao. T-DM B có bán kính phủ sóng lớn, hiệu quả sử dụng phổ không
cao, tốc độ truyền tải dữ liệu thấp hơn so với DVB-H và cung cấp số lượng kênh
truyền hình di động không nhiều. Thiết bị đầu cuối di động T-DMB được cung cấp
bởi một số nhà sản xuất ở Hàn Quốc và cũng chưa phổ biến. Ở Việt Nam, Trung
tâm dịch vụ truyền hình – Đài truyền hình Việt Nam phối hợp với Viện ETRI Hàn
Quốc, Học viện Bưu chính Viễn thông PTIT đã tiến hành thử nghiệm công nghệ T-
DMB trong phạm vi bán kính nhỏ tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vào năm
2008, kết quả thử nghiệm cho thấy T-DMB có chất lượng tín hiệu khá tốt.
- Công nghệ MediaFLO là công nghệ độc quyền của hãng Qualcomm, được
triển khai ở Mỹ, thử nghiệm ở Anh, Hồng Kông và Đài Loan. MediaFLO khắc phục
được các ảnh hưởng của môi trường vô tuyến di động với các kỹ thuật như mã
Turbo, mã Reed-Solomon, cấu trúc interlace, điều chế OFDM . MediaFLO sử dụng
kỹ thuật ghép kênh phân chia theo thời gian để tiết kiệm pin, hiệu quả sử dụng phổ
cao, số lượng kênh truyền hình di động khá nhiều, tốc độ truyền tải dữ liệu cao, bán
kính phủ sóng rộng, hỗ trợ chuyển giao tốt. Thiết bị đầu cuối di động mang tính độc
quyền của Qualcomm.
5.3.2 Khuyến nghị:
- Theo tác giả, ở Việt Nam, công nghệ quảng bá được đề xuất sử dụng là
DVB-H sẽ có ưu điểm khi phát các kênh truyền hình quảng bá không theo yêu cầu.
Còn khi phát các kênh truyền hình theo yêu cầu (dưới dạng clip ngắn) thì công nghệ
3G nên được sử dụng. Để phát quảng bá các kênh truyền hình di động qua mạng 3G
thì bắt buộc phải nâng cấp lên công nghệ MBM S.
- Đối với triển khai DVB-H sẽ có thuận lợi là công nghệ đã được tiêu chuẩn
hoá và chấp thuận triển khai ở Châu Âu, hiệu quả sử dụng phổ tần cao, số lượng
kênh chương trình trên băng thông truyền hình lớn, kế thừa được hạ tầng của DVB-
T, sẽ được các nhà sản xuất thiết bị lớn hỗ trợ, phù hợp đối với các nhà khai thác
truyền hình số quảng bá đang sử dụng DVB-T.
- Đối với triển khai 3G sẽ có nhiều thuận lợi nhờ ưu thế về số lượng thuê
bao, mạng phủ sóng và được hỗ trợ bởi nhiều nhà sản xuất thiết bị di động lớn, phù
hợp với các nhà khai thác di động hiện nay (đặc biệt là các nhà khai thác di động đã
được cấp phép 3G).
- Đối với các nhà quản lý chính sách:
+ Các nhà quản lý chính sách nên có chính sách khuyến khích sự phát triển
dịch vụ truyền hình di động ở Việt Nam, đặc biệt là thị trường máy đầu cuối di
động; đưa ra các chuẩn công nghệ, xây dựng các tiêu chuẩn và quy chuẩn đối với
truyền hình di động cho phù hợp tại Việt Nam; khuyến khích việc kết hợp giữa các
nhà cung cấp nội dung và các nhà khai thác có cơ sở hạ tầng mạng.
+ Phổ tần số: Vấn đề chính khi triển khai hệ thống Mobile TV là truy nhập
tới phổ tần số cần thiết để hỗ trợ các dịch vụ. Sự khả dụng và chi phí phổ tần sẽ
quyết định lựa chọn triển khai công nghệ khả dụng tới nhà khai thác. Phổ tần số khả
dụng nên được phân bổ hợp lý cho các đơn vị, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ
Mobile TV để đảm bảo hiệu quả sử dụng phổ tần số, không gây nhiễu và không bị
ảnh hưởng bởi nhiễu của các dải tần số lân cận.
+ Cơ sở hạ tầng mạng: Để tiết kiệm chi phí khi triển khai dịch vụ M obile
TV, các đơn vị, doanh nghiệp nên sử dụng tối đa cơ sở hạ tầng mạng hiện có nếu cơ
sở hạ tầng mạng phù hợp nâng cấp để cung cấp dịch vụ M obile TV.
+ Hiện nay đang có xu thế hội tụ giữa viễn thông và quảng bá, các công
nghệ này chính là những nhân tố chính cho quá trình hội tụ này. Trên thế giới hiện
nay, chưa có một mô hình kinh doanh truyền hình di động nào mang lại hiệu quả
kinh doanh như mong đợi vì việc triển khai dịch vụ hầu hết được thực hiện do đơn
lẻ nhà cung cấp: hoặc là nhà cung cấp dịch vụ quảng bá đứng độc lập (đối với
DVB-H hoặc T-DM B) hoặc là nhà cung cấp dịch vụ viễn thông độc lập. Vì vậy, các
nhà quản lý chính sách nên khuyến khích việc kết hợp giữa các nhà cung cấp dịch
vụ quảng bá và nhà cung cấp dịch vụ viễn thông kết hợp với nhau để mang lại hiệu
quả thực sự cho việc triển khai dịch vụ ở Việt Nam.
- Đối với các doanh nghiệp, nhà khai thác dịch vụ Mobile TV:
+ Các nhà khai thác triển khai các dịch vụ Mobile TV nên tập trung vào đảm
bảo chất lượng kinh nghiệm người xem, và p hân phát các dịch vụ đáp ứng yêu cầu
của khách hàng ở giá cả hợp lý. Các đặc tính quyết định chất lượng kinh nghiệm
người xem gồm:
Chất lượng video
Chất lượng âm thanh
Thời gian truy nhập chương trình TV
Tốc độ chuyển kênh
Nội dung hấp dẫn: Người sử dụng có xu hướng lựa chọn các dịch vụ
Mobile TV nếu nhà khai thác cải tiến nội dung thu hút họ.
+ Triển khai Mobile TV được xem là thành công nếu nó đóng góp tích cực
vào kinh doanh của nhà khai thác. Các nhà khai thác tạo ra các dịch vụ video hấp
dẫn có thể thu được lợi nhuận đáng kể và trở thành nhà cung cấp có thương hiệu
hàng đầu.
+ Vùng phủ sóng: Dịch vụ Mobile TV nên được cung cấp với vùng phủ sóng
rộng khắp và đảm bảo chất lượng tốt cho khách hàng (dịch vụ cần được cung cấp ở
mọi thời điểm và ở mọi nơi, chất lượng hình ảnh và âm thanh yêu cầu đảm bảo, đặc
biệt là vùng phủ sóng trong nhà).
+ Nội dung Mobile TV: Nội dung giữ vai trò quan trọng quyết định sự lựa
chọn dịch vụ Mobile TV. Bởi vì người xem dịch vụ mobile TV trong một khoảng
thời gian ngắn, chuyển kênh nhanh hơn và thường xuyên hơn, nên nhà cung cấp nội
dung nên tạo ra nội dung và dịch vụ phong phú, có thời lượng ngắn và tương tác
nhanh, phù hợp với khán giả. Mọi người hướng tới xem Mobile TV trong khi đi du
lịch, ở nhà hoặc giờ ăn trưa ở công sở, nên các nội dung sau sẽ thu hút người xem:
Các kênh truyền hình trực tiếp các sự kiện
TV theo chủ đề: Tổng hợp, thời sự, tin tức, thể thao, giải trí, âm nhạc,
tuổi trẻ, khám phá, phim ngắn, phim hoạt hình, hài hước, quảng cáo, shopping…
Các nghiên cứu cho thấy rằng, khách hàng mong muốn có hướng dẫn
chương trình điện tử (EPG) khi xem nội dung Mobile TV. Nội dung cần phải được
bảo vệ từ việc bị sao chép.
- Thiết bị đầu cuối di động: Thiết kế điện thoại mới nhỏ, pin tiêu thụ thấp,
bộ nhớ lớn, chất lượng thu tốt và có độ phân giải màn hình với hình ảnh sáng rõ,
mẫu mã phong phú, giá cả hợp lý, có khả năng tương tác với các mạng tế bào. Thiết
kế giao diện dễ sử dụng là đặc tính quan trọng quyết định sự thành công của M obile
TV.
- Các nhà khai thác có thể thực hiện nhiều lựa chọn thanh toán cước cho các
dịch vụ Mobile TV, mỗi phương thức có các ưu nhược điểm riêng. Các lựa chọn
khác nhau có thể phù hợp với các kiểu khách hàng khác nhau hoặc các kiểu nội
dung khác nhau.
- Các công nghệ phải cung cấp kênh phản hồi cho phép các dịch vụ tương
tác hoặc các dịch vụ chuyển giao.
- Mô hình kinh doanh: Hiện nay trên thế giới chưa có một mô hình kinh
doanh nào được xem là tốt nhất đối với các công nghệ Mobile TV, do đó các đơn vị,
doanh nghiệp nên nghiên cứu và triển khai mô hình kinh doanh phù hợp tại Việt
Nam để đạt được lợi nhuận khi cung cấp dịch vụ M obile TV.
5.3.3 Hướng phát triển
- Nghiên cứu tiếp về các dịch vụ tương tác và phối hợp giữa các nhà khai
thác di động và truyền hình quảng bá.
TÀI LIỆU THAM KH ẢO
[1] Amitabh Kumar, Mobile TV: DVB-H, DMB, 3G Systems and Rich Media
Applications, Elservier Inc, 2007.
[2] Borko Furht, Syed Ahson, Handbook of Mobile Broadcasting: DVB-H, DMB,
ISDB-T, AND MEDIAFLO, CRC Press, 2008.
[3] Clint Smith, Daniel Collins, 3G Wireless Networks, M cGraw-Hill, 2002.
[4] Daniel M inoli, IP Multicast with Applications to IPTV and Mobile DVB-H, John
Wiley & Sons, 2008.
[5] Kamel Haddad, DVB-H in Denmark Technical and Economic Aspects, Master’s
Thesis, Technical University of Denmark, 2007.
[6] Frank Hartung, Uw e Horn, Jorg Huschke, Markus Kampmann, Thorsten
Lohmar, and M agnus Lundevall, “Delivery of Broadcast Services in 3G
Networks”, IEEE Transactions on Broadcasting, Vol. 53, No. 1, March 2007.
[7] Murali R. Chari, Fuyun Ling, Ashok Mantravadi, Raghuraman Krishnamoorthi,
Rajiv Vijayan, G. Kent Walker, and Rob Chandhok, “FLO Physical Layer: An
Overview”, IEEE Transactions on Broadcasting, Vol. 53, No. 1, March 2007.
[8] Gerard Faria, Jukka A. Henriksson, Erik Stare, and Pekka Talmola, “DVB-H:
Digital Broadcast Services to Handheld Devices”, Proceedings of The IEEE,
Vol. 94, No. 1, January 2006.
[9] Juan-Antonio Ibanez, Thorsten Lohmar, Dalibor Turnia, and Aurelie Zanin,
“Mobile TV over 3G Networks – Services and Enablers Evolution”, Ericsson
Review, No. 1, 2008.
[10] Rainer Hoeckmann, Ralf Toenjes, and Michael Knappmeyer, “Multimedia
Broadcast Multicast Services in Mobile Networks”, 2006.
[11] Martin Bakhuizen and Uwe Horn, “Mobile Broadcast/Multicast in Mobile
Networks”, 2005.
[12] ETSI EN 300 401, “Radio Broadcasting Systems; Digital Audio Broadcasting
(DAB) to mobile, portable and fixed receivers”, 1997.
[13] ETSI ES 201 735, “Digital Audio Broadcasting (DAB); Internet Protocol (IP)
datagram tunnelling”, 2000.
[14] ETSI TS 102 428, “Digital Audio Broadcasting (DAB); DMB video service;
User Application Specification”, 2005.
[15] ETSI TS 102 427, “Digital Audio Broadcasting (DAB); Data Broadcasting –
MPEG–2 TS streaming”, 2005.
[16] ETSI TS 102 589, “Forward Link O nly Air Interface; Specification for
Terrestrial Mobile; Multimedia Multicast”, 2009.
[17] Revolutionizing M ultimedia, “FLO Technology Overview”, QU ALCOMM.
[18] ITU-R BT.1833, “Broadcasting of Multimedia and Data Applications for
Mobile Reception by Handheld Receivers ”, 200