VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG THỊ DUNG

NGHIÊN CỨU ĐẶC TRƯNG SỰ CHUYỂN NGHĨA

TỪ LOẠI DANH TỪ SANG ĐẠI TỪ VÀ DANH TỪ SANG TÍNH TỪ

TRONG TIẾNG VIỆT

(TRÊN NGỮ LIỆU MỘT SỐ NHÓM TỪ)

Ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 9.22.90.20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Hà Nội - 2023

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG THỊ DUNG

NGHIÊN CỨU ĐẶC TRƯNG SỰ CHUYỂN NGHĨA

TỪ LOẠI DANH TỪ SANG ĐẠI TỪ VÀ DANH TỪ SANG TÍNH TỪ

TRONG TIẾNG VIỆT

(TRÊN NGỮ LIỆU MỘT SỐ NHÓM TỪ)

Ngành: Ngôn ngữ học

Mã số: 9.22.90.20

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

GS. TS. LÊ QUANG THIÊM

Hà Nội - 2023

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số

liệu, kết quả trình bày trong Luận án là trung thực và chưa từng được ai công

bố trong bất cứ công trình nào khác.

Tác giả luận án

Dương Thị Dung

i

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ

LUẬN ................................................................................................................ 9

1.1. Dẫn nhập ................................................................................................ 9 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan ............................................ 9

1.2.1. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa ở ngoài nước và trong nước ............................................................................................... 10

1.2.2. Tình hình nghiên cứu chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ .......................... 21

1.3. Cơ sở lý luận ........................................................................................ 24

1.3.1. Một số lý luận về ngữ nghĩa học từ vựng ..................................... 24

1.3.2. Về hiện tượng chuyển nghĩa và chuyển nghĩa từ vựng ................ 33

1.3.3. Nghĩa của từ trong từ loại tiếng Việt ............................................ 41 1.4. Tiểu kết ................................................................................................. 47

Chương 2: ĐẶC TRƯNG CHUYỂN BIẾN NGHĨA CỦA DANH TỪ

MANG THUỘC TÍNH NGHĨA ĐẠI TỪ (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG

HỢP) ................................................................................................................ 48

2.1. Giới thiệu về nhóm danh từ lựa chọn để nghiên cứu ........................... 48

2.2. Thực tiễn và khả năng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ .................................................................................................. 49

2.3. Phân tích và diễn giải nhóm danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ .... 51 2.3.1. Trường hợp từ "bác" ..................................................................... 52

2.3.2. Trường hợp từ "cô" ....................................................................... 63

2.3.3. Trường hợp cặp từ "ông/bà" ......................................................... 72

2.3.4. Trường hợp cặp từ "cha/mẹ" ......................................................... 83

2.4. Đặc trưng ngữ nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ .......... 96

2.4.1. Cơ sở của sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ .............................................................................................................. 96

2.4.2. Sự phân ly về nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ .... 98

2.4.3. Cơ chế chuyển biến nghĩa của các đơn vị danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ .............................................................................................. 99

ii

2.5. Tiểu kết ............................................................................................... 100

Chương 3: ĐẶC TRƯNG CHUYỂN BIẾN NGHĨA CỦA DANH TỪ

MANG THUỘC TÍNH NGHĨA TÍNH TỪ (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG

HỢP) .............................................................................................................. 102

3.1. Giới thiệu về nhóm danh từ lựa chọn để nghiên cứu ......................... 102

3.2. Thực tiễn và khả năng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính

nghĩa tính từ...................................................................................................105

3.3. Phân tích và diễn giải nhóm danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ . 106

3.3.1. Trường hợp từ "anh hùng" .......................................................... 107

3.3.2. Trường hợp từ "bình dân" ........................................................... 114

3.3.3. Trường hợp từ "cách mạng" ........................................................ 118

3.3.4. Trường hợp từ "phúc" ................................................................. 123

3.3.5. Trường hợp từ "quê" ................................................................... 127 3.3.6. Trường hợp từ "sách vở" ............................................................. 131

3.3.7. Trường hợp từ "bụi" .................................................................... 136

3.3.8. Trường hợp từ "gan" ................................................................... 142

3.4. Đặc trưng ngữ nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ ...... 147

3.4.1. Cơ sở của sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ .................................................................................................... 147

3.4.2. Sự phân ly về nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ 149

3.4.3. Cơ chế chuyển biến nghĩa của các đơn vị danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ .......................................................................................... 151

3.4.4. Nguyên nhân chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ .......................................................................................... 152 3.5. Tiểu kết ............................................................................................... 153

KẾT LUẬN ................................................................................................... 155

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ................. 159

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 160

NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT

PHỤ LỤC

iii

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

TĐHTC:

TĐKT:

TĐĐVT:

TĐTN: TĐVT:

TĐLVĐ:

TĐHP:

TĐTV:

Đại Nam quấc âm tự vị, Huình Tịnh Paulus Của, Sài Gòn, 1895 -1896. Bản in năm 1975 đổi tên thành Ðại Nam quốc âm tự vị , Nxb Trẻ tái bản mới nhất năm 1998. Việt Nam tự điển, Hội Khai trí Tiến đức, Hà Nội, 1931; tái bản, 1954 Tự điển Việt Nam phổ thông, Đào Văn Tập, Vĩnh – Bảo Sài Gòn. Việt Nam tân tự điển, Thanh Nghị, Sài Gòn, 1952. Từ điển tiếng Việt, Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm,... Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967; tái bản, có sửa chữa, bổ sung, Hà Nội, 1977, 1994. Việt Nam tự điển, Lê Văn Đức, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970. Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên), Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, xuất bản lần đầu 1988 và tái bản nhiều lần cho đến năm 2012. Từ điển tiếng Việt.

iv

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bác" trong các Từ điển tiếng Việt 55

Bảng 2.2: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "cô" trong các Từ điển tiếng Việt. 66

Bảng 2.3: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "ông" trong các Từ điển tiếng Việt 74

Bảng 2.4: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bà" trong các Từ điển tiếng Việt. 77

Bảng 2.5: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "cha" trong các Từ điển tiếng Việt 87

Bảng 2.6: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "mẹ" trong các Từ điển tiếng Việt 88

Bảng 3.1: Cấu tạo mục từ chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính

nghĩa tính từ trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê ................................. 103

Bảng 3.2: Nguồn gốc mục từ chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính

nghĩa tính từ trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê ................................. 104

Bảng 3.3: Nhóm danh từ thuộc tính nghĩa tính từ trong Từ điển tiếng Việt của

Hoàng Phê ..................................................................................................... 104

v

DANH MỤC SƠ ĐỒ

Sơ đồ 1: Tầng nghĩa và kiểu nghĩa từ vựng .................................................... 32

Sơ đồ 2: Mô hình chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ ... 98

Sơ đồ 3: Mô hình chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ 150

vi

DANH MỤC TƯ LIỆU TIẾNG VIỆT

1. Đại Nam quấc âm tự vị, Huình Tịnh Paulus Của, 1895 -1896), Sài Gòn.

Bản in năm 1975 đổi tên thành Ðại Nam quốc âm tự vị , Nxb Trẻ tái bản mới

nhất năm 1998.

2. Việt Nam tự điển, Hội Khai trí Tiến đức, Hà Nội, 1931; tái bản, S. - H., 1954.

3. Tự điển Việt Nam phổ thông, Đào Văn Tập, Vĩnh - Bảo Sài Gòn.

4. Việt Nam tân tự điển, Thanh Nghị, Sài Gòn, 1952.

5. Từ điển tiếng Việt, Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm,... Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội, 1967; tái bản, có sửa chữa, bổ sung, H., 1977, 1994.

6. Việt Nam tự điển, Lê Văn Đức, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn 1970.

7. Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên), Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà

Nẵng, năm 1988 và tái bản năm 2012.

vii

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Ngữ nghĩa học nói chung và ngữ nghĩa học từ vựng nói riêng ngày

càng quan trọng trong thuyết ngôn ngữ học. Các nghiên cứu về ngữ nghĩa

học trên thế giới và Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ ở

cả mặt đồng đại và lịch đại. Trong nghiên cứu ngữ nghĩa học, các học giả

đặc biệt quan tâm đến hiện tượng chuyển nghĩa. Chuyển nghĩa (Change

meaning, shift meaning) còn gọi biến đổi nghĩa (semantic change) là một hiện

tượng phổ quát, tồn tại trong hầu hết mọi ngôn ngữ. Sự chuyển nghĩa của các

đơn vị từ vựng trong các ngôn ngữ biến hình thường kèm theo những dấu

hiệu về hình thái nên rất dễ nhận biết; còn sự chuyển nghĩa của các đơn vị từ

vựng trong các ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt được thể hiện qua các dấu

hiệu ngữ nghĩa, diễn ra trong nội dung của từ, nên khó nhận biết qua hình

thức bên ngoài.

Ch.Morris - người sáng lập ra ngành kí hiệu học đã phân chia kí hiệu

học thành: nghĩa học (semantics), kết học (syntactic) và dụng học

(pragmatics). Như vậy nghĩa học (semantics) là lĩnh vực quan trọng và cần

được đào sâu nghiên cứu. Tuy nhiên, trong Việt ngữ học, lĩnh vực này còn

chưa được quan tâm, đặc biệt là trong việc nghiên cứu kết hợp luận với thực

tiễn từ điển học.

Hiện tượng chuyển nghĩa có thể diễn ra trong các phạm vi nội bộ thực

từ, nội bộ hư từ hoặc giữa thực từ và hư từ. Nghiên cứu về hiện tượng này có

thể kể đến các công trình nghiên cứu của Vũ Văn Thi với luận án Phó tiến sĩ

Quá trình chuyển hóa của một số thực từ thành giới từ trong tiếng Việt (1995)

và Trần Thị Nhàn với công trình Hiện tượng chuyển hóa từ thực từ sang hư từ

trong tiếng Việt (theo thuyết ngữ pháp hóa) (2004). Tuy nhiên, nghiên cứu

1

chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính đại từ và danh từ mang thuộc tính

tính từ chưa được nghiên cứu.

Ngôn ngữ học truyền thống coi từ loại thuộc phạm trù từ vựng - ngữ

pháp. Điều này có nghĩa, từ loại trong phạm trù này vừa có đặc tính từ vựng

(nghĩa từ vựng) vừa có đặc trưng ngữ pháp (nghĩa ngữ pháp). Vấn đề đặt ra,

cần phải trả lời là trong quá trình chuyển nghĩa, nghĩa từ vựng xảy ra như thế

nào? Kết quả nghiên cứu của Vũ Văn Thi và Trần Thị Nhàn đã chứng minh

có hiện tượng chuyển hóa từ thực từ "sang" hư từ. Vấn đề đặt ra cần tiếp tục

nghiên cứu nhằm góp phần giải thích sâu hơn về hiện tượng chuyển nghĩa:

Một là, đối với sự chuyển nghĩa trong nội bộ thực từ (cụ thể là từ danh từ

mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ) xảy ra

như thế nào? Hai là, từ loại là một phạm trù từ vựng - ngữ pháp: vậy về mặt

nghĩa từ vựng, những đơn vị này chuyển nghĩa như thế nào?

Chính vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài "Nghiên cứu đặc trưng sự

chuyển nghĩa từ loại danh từ sang đại từ và danh từ sang tính từ trong

tiếng Việt (Trên ngữ liệu một số nhóm từ)" để nghiên cứu. Do sự thay đổi đề

tài mà dùng từ "sang", thực chất luận án chỉ tìm hiểu nghĩa của danh từ

mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

(trên cơ sở ngữ liệu một số nhóm từ).

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu sự biến đổi và chuyển nghĩa của một số đơn vị từ để làm rõ

sự chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc

tính nghĩa tính từ. Trên cơ sở đó, làm rõ hơn nội dung của sự chuyển nghĩa

của đơn vị thực từ.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích đã nêu ở trên, luận án tập trung giải quyết những

nhiệm vụ cụ thể như sau:

2

- Tổng quan tình hình nghiên cứu và xây dựng cơ sở luận cho luận án;

- Xác định cách hiểu về bản chất nghĩa từ vựng danh từ, sự chuyển nghĩa

mang thuộc tính nghĩa đại từ và sự chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa tính

từ (nghiên cứu trường hợp);

- Miêu tả, phân tích nội dung ngữ nghĩa, biểu hiện ngữ nghĩa, tiến trình

phát triển nghĩa, chuyển nghĩa của một số đơn vị danh từ mang thuộc tính

nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ (nghiên cứu trường hợp).

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là các danh từ mang thuộc tính nghĩa

đại từ và các danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ trong tiếng Việt.

3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Luận án nghiên cứu đặc trưng nghĩa của các danh từ mang thuộc tính

nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ (nghiên cứu trường

hợp). Cụ thể là: danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ (bác, cô, ông, bà, cha,

mẹ), nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ (anh hùng, bình dân, cách

mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan);

- Luận án nghiên cứu sự chuyển biến nghĩa của những đơn vị thực từ

mang thuộc tính nghĩa ở ba phạm vi chính là danh từ, đại từ và tính từ (nghiên

cứu trường hợp);

- Ngữ nghĩa của các đơn vị nghiên cứu được thể hiện trong lời định nghĩa

các mục từ thuộc các công trình Từ điển tiếng Việt cũng như từ nghĩa của văn

cảnh/ngữ cảnh mà từ hoạt động.

4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án

4.1. Phương pháp nghiên cứu

Luận án áp dụng các phương pháp, thủ pháp sau:

4.1.1 Phương pháp miêu tả

Phương pháp miêu tả được dùng để miêu tả nghĩa của các danh từ và đặc

3

trưng sự chuyển nghĩa của danh từ, đại từ và tính từ trong tiếng Việt.

4.1.2. Phương pháp phân tích thành tố nghĩa

Sử dụng phương pháp này, luận án muốn chỉ ra đặc trưng cấu trúc nghĩa

của từ ở mặt đồng đại và lịch đại. Về mặt đồng đại, nghĩa của từ được phân

tích để chỉ ra các đặc trưng về cấu trúc, thứ bậc của các nghĩa, nét nghĩa. Về

mặt lịch đại, nghĩa của từ được so sánh theo một tiến trình lịch sử. Cụ thể, luận án phân

tích sự chuyển biến nghĩa của từ thuộc từ loại này\từ loại khác được thể hiện

trong lời định nghĩa của các công trình Từ điển tiếng Việt xuất bản từ những

năm 1895-1896 đến 2012 để thấy được tiến trình phát triển nghĩa của các từ

loại thực từ (chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh

từ mang thuộc tính nghĩa tính từ). Từ đó xác định đặc trưng nghĩa của các đơn vị

chuyển nghĩa từ loại đó.

Các phương pháp trên được sử dụng để phân tích sự chuyển nghĩa của

danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính

từ. Quán triệt nghĩa của hai bình diện trên tức là phân tích thành tố nghĩa bao

gồm: nghĩa được cấu tạo từ các nét nghĩa hay các nét nghĩa là thành tố cấu tạo

nghĩa từ vựng. Các nghĩa từ vựng trong hệ thống con ngữ nghĩa tạo nên cơ

cấu nghĩa của từ đa nghĩa. Đây là phương pháp chủ đạo được sử dụng trong

luận án.

4.1.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp (case study)

Trong luận án, các đơn vị từ vựng được lựa chọn nghiên cứu là những

đơn vị mang tính điển hình. Nhóm các danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ

được luận án lựa chọn là bác, cô, ông, bà, cha, mẹ; các danh từ mang thuộc

tính nghĩa tính từ được lựa chọn nghiên cứu là anh hùng, bình dân, cách

mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan.

4.1.4. Thủ pháp thống kê, phân loại

Thủ pháp thống kê được sử dụng để xác định số lượng các danh từ mang

thuộc tính nghĩa đại từ và tính từ trong Từ điển tiếng Việt; tần số xuất hiện các

ngữ cảnh danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và tính từ trong Chương trình

4

tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam.

Các kết quả thống kê được tổng hợp dưới hình thức bảng biểu và được hệ

thống hóa qua các sơ đồ để biểu hiện kết quả nghiên cứu.

4.1.5. Theo suốt các phương pháp, thủ pháp đã nêu trên là hai phương pháp

luận cơ bản trong nghiên cứu khoa học là diễn dịch và quy nạp.

4.2. Nguồn ngữ liệu nghiên cứu

- Để chứng minh cho những nhận định đưa ra, luận án sử dụng tư liệu,

ngữ liệu của Từ điển tiếng Việt (từ điển giải thích nghĩa để phân tích, miêu tả

nghĩa trong từ điển), gồm bảy cuốn từ điển sau: Đại Nam quấc âm tự vị

(Huình Tịnh Paulus Của), Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến Đức), Tự điển

Việt Nam phổ thông (Đào Văn Tập), Việt Nam tân tự điển (Thanh Nghị), Từ

điển tiếng Việt (Văn Tân), Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức), Từ điển tiếng Việt

(Hoàng Phê). Đây là các công trình Từ điển ngữ văn điển hình, được biên

soạn bởi các nhà ngôn ngữ học có uy tín và từ điển trải dài theo tiến trình thời

gian lịch sử từ cuối thế kỉ XIX cho đến nay. Chúng tôi cho rằng, các công

trình từ điển trên cung cấp một bức tranh toàn cảnh và thành tựu của Từ điển

tiếng Việt theo tiến trình thời gian đầy đủ và chân thực nhất. Đó cũng là

nguồn ngữ liệu khá đầy đủ để chúng tôi thực hiện nghiên cứu hiện tượng

chuyển nghĩa của luận án. Việc đối chiếu ý nghĩa của các từ ngữ được ghi

trong bảy công trình từ điển nói trên và được trải dài theo nhiều giai đoạn

khác nhau trong lịch sử là một trong những cơ sở cho thấy tiến trình phát triển

nghĩa của các đơn vị từ vựng trong tiếng Việt. Trên cơ sở định nghĩa của các

từ điển này, luận án rút ra được những nét nghĩa để so sánh, tìm ra nét nghĩa

nào thuộc danh từ, nét nghĩa nào thuộc đại từ và tính từ.

- Nguồn ngữ liệu nữa được luận án sử dụng là các ngữ cảnh có sự hiện

diện của các đơn vị từ vựng đang được xem xét. Để thực hiện được điều này,

luận án khai thác và sử dụng các ngữ cảnh/văn cảnh trong Chương trình tra

5

cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam1.

Đây là chương trình quản lý hơn ba mươi triệu âm tiết thuộc các từ ngữ tiếng

Việt trong nhiều thể loại (truyện, thơ, ca dao, báo chí, ...). Các nét nghĩa được

thể hiện trong lời định nghĩa của từ điển và trong những văn cảnh có liên quan.

Trên cơ sở đó luận án có nguồn ngữ liệu về các đơn vị chuyển nghĩa

của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ. Các đơn vị từ vựng này bản chất là nghĩa danh từ nhưng mang thuộc

tính nghĩa đại từ và nghĩa tính từ. Cụ thể, luận án thu thập được 13 trường hợp

danh từ chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa đại từ (đại từ xưng hô) và 336

trường hợp danh từ chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa tính từ (Có phụ lục

kèm theo). Tuy nhiên, vì dung lượng của luận án, chúng tôi chọn sáu trường

hợp danh từ chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa đại từ (bác, cô, ông, bà, cha,

mẹ) và tám trường hợp danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ (anh hùng, bình

dân, cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan) để miêu tả và phân tích. Để

minh chứng cho những nhận định, luận án thu thập 48 ngữ cảnh, trong đó có

26 ngữ cảnh liên quan danh từ chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa đại từ và

22 ngữ cảnh liên quan danh từ chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa tính từ

(Có phụ lục kèm theo).

5. Đóng góp mới về khoa học của luận án

5.1. Đóng góp về mặt luận

Kết quả nghiên cứu của luận án góp thêm vào việc vận dụng luận về

ngôn ngữ học trong các lĩnh vực ngữ nghĩa học, từ điển học thực hành và các

lĩnh vực nghiên cứu đa ngành, đa phạm vi trong ngôn ngữ học.

5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng trong việc học tập,

1 Được trích xuất từ Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam. Đây là kho ngữ liệu thực tế được rút ra từ đầu sách, truyện, bài viết, bài in, báo mạng,... nhằm mục đích tra cứu ngữ cảnh của các từ, cụm từ.

6

nghiên cứu và giảng dạy tiếng Việt. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu này cũng

đóng góp vào việc biên soạn các mục từ trong từ điển giải thích được chính

xác, khoa học.

6. Ý nghĩa của luận án

6.1. Ý nghĩa luận

- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giải thích và làm sáng tỏ đặc trưng

của sự chuyển nghĩa dựa vào các từ loại chính của thực từ đó là danh từ, đại

từ và tính từ. Xác định bản chất nghĩa từ vựng danh từ mang thuộc tính nghĩa

đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ;

- Việc nghiên cứu góp phần làm rõ xu hướng biến đổi và phát triển

nghĩa từ vựng của tiếng Việt trong tiến trình thời gian;

- Bên cạnh đó, kết quả của luận án cũng mang ý nghĩa khác, là: (i) Góp

phần chứng minh sự biến đổi về nghĩa không ngừng trong hệ thống ngôn ngữ;

(ii) Thể hiện được sự nghiên cứu đa ngành, đa phạm vi trong ngôn ngữ, theo

hướng kết hợp đồng đại và lịch đại.

6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Kết quả nghiên cứu của luận án chỉ rõ sự biến đổi và phát triển nghĩa

trong nội bộ giữa các từ loại chính; sự biến đổi và biện chứng của quá trình

chuyển nghĩa. Nó cũng giúp cho việc xác định cương vị của các đơn vị từ

vựng theo đặc trưng ngữ nghĩa.

Như vậy, kết quả nghiên cứu của luận án như một gợi ý có căn cứ khoa

học, một mặt giúp cho những nhà từ điển học có thể ứng dụng cụ thể vào việc

biên soạn từ điển; mặt khác góp phần giúp cho người học và người dạy tiếng Việt

trong nhà trường nắm bắt tốt hơn về nghĩa từ vựng.

7. Cấu trúc của luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nguồn ngữ liệu

khảo sát và Phụ lục, nội dung của luận án được thể hiện ở ba chương sau:

Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và Cơ sở luận

7

Luận án tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước (tiếng

Anh, tiếng Hán) về hiện tượng chuyển nghĩa. Bên cạnh đó, luận án cũng hệ

thống hóa quan điểm luận về ngữ nghĩa học từ vựng; hiện tượng chuyển

nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa từ vựng trong tiếng Việt; nghĩa của từ trong

từ loại tiếng Việt.

Chương 2: Đặc trưng chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính

nghĩa đại từ (Nghiên cứu trường hợp)

Luận án xác định phạm vi chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính

nghĩa của đại từ, nghiên cứu trường hợp với các từ chỉ quan hệ thân tộc, cụ thể

nghiên cứu các trường hợp sau: bác, cô, ông, bà, cha, mẹ. Khảo sát, thống kê và

phân tích sự chuyển biến nghĩa mang thuộc tính nghĩa đại từ và được minh

chứng trong các từ điển. Từ đó rút ra một số nhận xét thực tiễn về sự chuyển

biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa của đại từ.

Chương 3: Đặc trưng chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính

nghĩa tính từ (Nghiên cứu trường hợp)

Luận án tiến hành phân tích sự chuyển biến nghĩa của danh mang thuộc

tính nghĩa của tính từ và nghiên cứu các trường hợp sau: anh hùng, bình dân,

cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan. Trên cơ sở đó đưa ra một số nhận

xét bước đầu về cơ chế biến đổi nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa của tính

từ trong tiếng Việt.

8

Chương 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1. Dẫn nhập

Trong chương này, sau khi điểm qua tình hình nghiên cứu trong và ngoài

nước về hiện tượng chuyển nghĩa, luận án xác định những tri thức luận làm

tiền đề triển khai đề tài luận án, tập trung các vấn đề sau: Lý thuyết ngữ nghĩa

học từ vựng; Hiện tượng chuyển nghĩa và chuyển nghĩa từ vựng trong tiếng

Việt; Nghĩa của từ trong từ loại tiếng Việt. Trên cơ sở đó, luận án khảo sát và

nghiên cứu chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ

mang thuộc tính nghĩa tính từ trong tiếng Việt.

Trước tiên, chúng tôi xác định nội hàm của thuật ngữ "chuyển nghĩa"

trong luận án. Chuyển nghĩa (Change meaning, shift meaning) còn gọi biến

đổi nghĩa (Semantic Change). Chuyển nghĩa theo cách hiểu của chúng tôi trong

luận án này là sự chuyển biến nghĩa (sự biến đổi nghĩa) thuộc từ loại thực từ.

Chuyển biến là "biến đổi sang trạng thái khác với trước, thường là theo hướng

tích cực" [80, tr. 188]. Như vậy, giá trị của sự chuyển biến nghĩa là sự thay

đổi nội dung nghĩa, tức là có thể chuyển biến nghĩa của danh từ/đại từ và danh

từ/tính từ, nghĩa từ vựng này/nghĩa từ vựng khác qua một số nhóm từ cụ thể là

nhóm danh từ thân tộc/đại từ xưng hô và nhóm danh từ có chuyển nghĩa tính

chất. Luận án sẽ đi vào tìm hiểu sự chuyển biến nghĩa ấy trong tiếng Việt -

một loại hình ngôn ngữ đơn lập phân tiết điển hình.

1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan

Hiện tượng chuyển nghĩa nói chung đã được các nhà ngôn ngữ học trên

thế giới và Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, việc nghiên cứu

chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang

thuộc tính nghĩa tính từ chưa được nghiên cứu sâu.

9

1.2.1. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa ở ngoài nước và

trong nước

1.2.1.1. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa ở ngoài nước

Điểm qua các công trình nghiên cứu chuyển nghĩa trên thế giới, luận án

chọn hai ngôn ngữ là tiếng Anh - thuộc ngôn ngữ biến hình và tiếng Hán - ngôn

ngữ cùng loại hình với tiếng Việt - ngôn ngữ đơn lập. Mục đích chọn hai loại

hình ngôn ngữ khác nhau để chứng minh có sự chuyển nghĩa trong các ngôn

ngữ, tuy hình thức biểu hiện của mỗi ngôn ngữ không giống nhau.

a. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Anh

Hiện tượng chuyển nghĩa là nội dung được quan tâm trong các nghiên

cứu về nghĩa của từ, biến đổi và phát triển nghĩa. Nghiên cứu về chuyển nghĩa

thường được gắn với nghiên cứu về nghĩa hoặc phát triển nghĩa của từ.

Nghiên cứu về hiện tượng này trong tiếng Anh đã có từ thời cổ đại, tiếp tục

phát triển ở đầu thế kỉ XIX và phát triển mạnh đến ngày nay. Tuy nhiên, từ

góc độ ngôn ngữ học cấu trúc, nghiên cứu về nghĩa nói chung và nghiên cứu

hiện tượng chuyển nghĩa của từ nói riêng, có thể phân thành ba thời kì chính

là thời kì tiền cấu trúc luận, thời kì cấu trúc luận và thời kì hậu cấu trúc luận.

Thời kì tiền cấu trúc luận, các nghiên cứu về chuyển nghĩa của từ chủ

yếu đi tìm các quy luật chuyển nghĩa của từ, trước hết từ góc độ thời gian lịch

sử, như Agathon Benary, Karl Reisig, Oskar Hey, Friedrich Haase, v.v. Tiêu

biểu cho giai đoạn này là công trình Essai de Sesmantique (Sciece des

significations) của Michel Breál [154]. Cùng với nghiên cứu các quy luật

chuyển nghĩa của từ, các tác giả cũng đã giải sự chuyển nghĩa theo quan điểm

lịch sử. Nghiên cứu và giải sự chuyển nghĩa trong giai đoạn này gắn với các

tên tuổi như Ch.Ogden, V.Lady Welly, Peirce, Richards, v.v. Trong thời kì

tiền cấu trúc luận, các tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân của sự chuyển nghĩa,

trong đó nhấn mạnh đến nhân tố biểu cảm.

Thời kì cấu trúc luận, các nhà nghiên cứu tiếp tục quan tâm đến sự

10

chuyển nghĩa của từ. Tuy nhiên, nghiên cứu ngữ nghĩa giai đoạn này được

thực hiện cùng với tâm lý học thực nghiệm và logic toán. Nghiên cứu ngữ

nghĩa nói chung, sự chuyển nghĩa nói riêng gắn với các nhà nghiên cứu

Bloomfield, A.Taski, B. Russell, G.Frege, R.Montague, v.v. Thời kì này, các

tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân của sự chuyển nghĩa, khác với thời kì tiền cấu

trúc luận nhấn mạnh nhân tố biểu cảm, trong giai đoạn này, các nhà nghiên

cứu lại nhấn mạnh đến nhân tố hiệu quả.

Kế thừa các kết quả nghiên cứu của các nhà đi trước, những năm tiếp

theo của thế kỉ XX, có nhiều nghiên cứu về hiện tượng chuyển nghĩa của từ.

Khác với những nghiên cứu thời kì tiền cấu trúc luận và cấu trúc luận, nghiên

cứu ngữ nghĩa theo hướng logic, các nghiên cứu giai đoạn này được mở rộng

ra nhiều lĩnh vực khác, như triết học, tâm lý học, lịch sử, xã hội học, v.v.

Nghiên cứu chuyển nghĩa theo hướng này được khởi xướng bởi W. Wundt

(1990), sau đó là các tác giả khác như K.Nyrop (1913), H.Paul (1920). Những

nghiên cứu ban đầu này đã có tác dụng thúc đẩy nghiên cứu chuyển nghĩa.

Nghiên cứu chuyển nghĩa theo hướng này đã đạt được nhiều thành tựu quan

trọng, đặc biệt là thiết lập các quy luật biến đổi nghĩa. Nhiều nhà nghiên cứu

đã bàn đến nội dung này, như G.Stern; C. Reisig; F. Hasse; v.v. Tiêu biểu cho

nghiên cứu theo hướng này là công trình Meaning and change of meaning:

with special reference to the English language của G. Stern (1931) [146],

trong đó cung cấp những lý thuyết cơ sở về ngữ nghĩa, các quy luật chuyển

nghĩa và giải thích các quy luật chuyển nghĩa, sau đó là thảo luận về chức

năng của ngôn ngữ, ngữ nghĩa của từ, nguyên nhân và điều kiện biến đổi

nghĩa,... Ngoài ra, cuốn sách còn chỉ ra bảy lớp hạng biến đổi nghĩa, bao gồm:

sự thay thế (substitution), sự loại suy (analogy), rút ngắn (shortening), định

danh (nomination), chuyển đổi (transfer-regular), sự đổi trật tự (permutation),

sự tương xứng (adequation). Sau này, S. Ullmann trong công trình Các

nguyên lý Ngữ nghĩa học [116] kế thừa và chỉ ra các nhân tố làm thay đổi

11

nghĩa của từ gồm: cách gián đoạn di truyền (discontinuous), sự mơ hồ trong ý

nghĩa (vagueness), mất nguồn đối (loss of motivation), tồn tại đa nghĩa

(flexibility), văn cảnh tối nghĩa (ambiguous contexts) và cấu trúc của vốn từ

(structure of the vocabulary).

Theo Wellander - người đại diện cho khuynh hướng nghiên cứu theo

lịch sử quan niệm: “sự chuyển hóa ý nghĩa là một quá trình lịch sử, chỉ khi

nào nó được chứng thực trong quá trình thực tế trưởng thành của nó, quá

trình này mới được trưởng thành một cách vừa ý” [Dẫn theo Đào Duy Anh, 1,

tr.50]. Với phương châm này, các nhà nghiên cứu chú trọng đi tìm sự trả lời

cho câu hỏi là ý nghĩa mới của từ nảy sinh như thế nào trong lịch sử. Họ cho

rằng kết quả của quá trình chuyển nghĩa được bảo lưu trong ý nghĩa mới của

từ. Các nhà nghiên cứu về hiện tượng này cũng đi đến thống nhất là nguyên

nhân chủ yếu của hiện tượng chuyển nghĩa là do sự biến đổi của lịch sự xã

hội. Lịch sử xã hội thay đổi kéo theo sự thay đổi/biến đổi/ chuyển nghĩa của

từ. Cùng với việc đi tìm nguyên nhân nảy sinh ý nghĩa của từ, các tác giả

cũng đưa ra các nhận định khác nhau về các hình thức phát triển nghĩa của từ.

Mặc dù vẫn còn một số tranh cãi, tuy nhiên theo nhiều nhà ngôn ngôn ngữ

trong tiếng Anh có bốn hình thức phát triển nghĩa là mở rộng, thu hẹp, chia

nhánh và chuyển đổi.

Một nội dung quan trọng được các nhà ngôn ngữ học quan tâm khi

nghiên cứu nghĩa của từ nói chung, sự chuyển nghĩa của từ nói riêng chính là

tìm ra các những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến sự phát

triển nghĩa của từ. Từ những góc nhìn khác nhau, đối với mỗi ngôn ngữ khác

nhau, các tác giả đưa ra những nguyên nhân ảnh hưởng khác nhau. Theo

Aitchison, có hai nguyên nhân chính nguyên nhân chủ quan do đặc điểm

thuộc về bản chất của ngôn ngữ và tâm lý của người sử dụng và nguyên nhân

khách quan thuộc về yếu tố xã hội. Đồng quan điểm trên, nhưng F.de Sausure

lại nhấn mạnh đến yếu tố dân tộc, theo ông: “phong tục của một dân tộc có

12

tác động mạnh đến ngôn ngữ và mặt khác trong chừng mực khá quan trọng

chính ngôn ngữ làm nên dân tộc” [36]. Ngược lại một số tác giả khác, tiêu

biểu là Fromkin cho rằng có hai nguyên nhân chính cho hiện tượng này là do

sự tái cấu trúc ngôn ngữ trong quá trình học tiếng của trẻ và sự thay đổi tâm

sinh lý của người học qua nhiều thế hệ. Lyons cho rằng nguyên nhân của sự

thay đổi ngôn ngữ chính là sự thay đổi của xã hội.

Những năm gần đây, hiện tượng chuyển nghĩa được nghiên cứu nhiều

hơn với nhiều nội dung hơn, có thể kể đến các tác giả như J. Williams (1976,

1980), A. Lehrer (1974, 1981), A. F. Kitay (1987) (nghiên cứu theo trường

nghĩa); hay như E. Sweeter (1990), B. Heine (1991), S. Kemmer (1992), P.J.

Hopper và E.C. Traugott (1993) (nghiên cứu theo hướng ngữ pháp hóa và

ngữ dụng học), ...

Như vậy, nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Anh đã đạt

được nhiều kết quả quan trọng. Các nghiên cứu này đã đứng từ nhiều góc

nhìn khác nhau như logic, tâm lý, lịch sử, triết học, xã hội,... để bàn luận, giải

thích các quy luật chuyển nghĩa, các lớp nghĩa và các nguyên nhân chuyển

nghĩa. Hiện tượng chuyển nghĩa nói riêng, nghĩa của từ nói chung luôn luôn

vận động không ngừng nên việc nghiên cứu này vẫn còn là công việc tiếp tục

trong tương lai của các nhà nghiên cứu.

b. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Hán

Những năm gần đây, hiện tượng chuyển nghĩa từ trong tiếng Hán cũng

được tập trung nghiên cứu và các nghiên cứu đó chủ yếu tiếp cận từ hai góc độ:

cấu trúc truyền thống và tri nhận luận. Từ góc độ cấu trúc truyền thống thể

hiện trên bốn phương diện sau: (i) Nguồn gốc đặc trưng của hiện tượng chuyển

nghĩa từ trong tiếng Hán; (ii) Bản chất của chuyển nghĩa và tính chất chuyển

hoá từ là hoạt dụng hay kiêm loại, cách sử dụng là dùng lâm thời hay dùng cố

định; (iii) Đặc trưng ngữ nghĩa của hiện tượng chuyển nghĩa; (iv) Từ góc độ từ

vựng - ngữ pháp và ngữ dụng để tìm hiểu quá trình chuyển nghĩa từ. Từ góc độ

13

tri nhận luận, các nhà Hán ngữ tập trung vào chuyển nghĩa trong nội bộ thực từ

và các nghiên cứu tập trung chủ yếu là từ danh từ/động từ/tính từ.

Dựa vào đặc trưng ngữ nghĩa, theo Trình Trì (2015) [163] có thể thấy

sự thay đổi của nghĩa gọi tên và nghĩa tính chất là sơ sở của quá trình chuyển

nghĩa từ loại từ danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ. Đàm Cảnh Xuân

(2001) [157] chỉ ra nét nghĩa rộng của một từ bao gồm hai yếu tố là nghĩa

khái niệm (nghĩa hẹp) và nghĩa kèm theo, tương ứng với nghĩa của danh từ và

nghĩa của tính từ. Nghĩa khái niệm là nghĩa cơ bản, phản ánh đặc trưng của sự

vật, hiện tượng. Tác giả đưa ra công thức của “nghĩa khái niệm = nghĩa tố tính

chất (còn gọi là nghĩa tính chất nội tại) + nghĩa tố thuộc loại”. Nghĩa kèm theo

sẽ bao gồm nghĩa nội tại (còn gọi nghĩa tính chất kèm theo), nghĩa tình cảm,

nghĩa phong cách, v.v. Khi nghĩa tính chất nội tại và nghĩa kèm theo kết hợp

với nhau để trở thành nghĩa tính chất cho nên “có một số từ nếu nghĩa tính

chất kèm theo dùng lâu, dùng nhiều sẽ dần dần dẫn đến xu thế ổn định, thì có

khả năng cố định trong nghĩa của từ, từ đó chuyển biến nghĩa tính chất nội

tại”. Trong công trình "Cơ sở ngữ nghĩa và các vấn đề liên quan đến danh từ

chuyển loại tính từ" (1998), Đàm Cảnh Xuân cũng chỉ ra: nghĩa tính chất các

tiểu loại danh từ có thứ tự từ mạnh đến yếu, từ danh từ trừu tượng > danh từ

chỉ người > danh từ chỉ vật > danh từ chuyên hữu [156, tr. 368-377]. Đây là

một trong những quan điểm đầu tiên về sự hình thành của hiện tượng chuyển

nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ trong tiếng Hán hiện đại và

có ý nghĩa lớn. Sau này có hàng loạt các tác giả cũng kế thừa quan điểm đó

như Trương Quốc Hiến (2006), Giả Quân Phương (2008), Kasevich VB., v.v.

Tiếp cận từ góc độ tri nhận, có nhiều hướng nghiên cứu mới. Từ luận

phạm trù hoá trong ngôn ngữ, Lưu Chính Quang (2006) đưa ra một số đặc

trưng cơ chế tri nhận của hiện tượng danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

trong tiếng Hán. So với các nghiên cứu trước đây, công trình này không chỉ

miêu tả mà giải thích cơ chế của sự chuyển nghĩa bao gồm “tính nhị nguyên

14

là phi phạm trù hoá và kết cấu khái niệm” [160]. Điều này xuất phát từ đặc

trưng của mỗi từ loại, danh từ với nghĩa định danh, gọi tên sự vật, hiện tượng;

còn tính từ mang nghĩa tính chất, trần thuật.

Về loại hình chuyển nghĩa từ danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ, có

nhiều quan điểm khác nhau. Trình Quyên (2004) trong “Khảo sát đo lường

nét nghĩa chức năng từ ngữ trong “Từ điển tiếng Hán hiện đại”’ đã đưa ra các

loại hình chuyển biến nghĩa là: 1. “từ sự vật cụ thể dẫn đến chỉ sự vật có trạng

thái nào đó”; 2. “từ sự vật trừu tượng dẫn đến chỉ sự vật có tính chất nào đó”

[162]. Theo tác giả Giả Quân Phương (2008), loại hình chuyển nghĩa từ loại có

ba loại là “loại bao hàm ngữ tố, loại hàm chứa ngữ nghĩa, loại có ngữ cảnh”

[158]. Mỗi tác giả dựa trên quan điểm và lập luận khác nhau để phân chia loại

hình chuyển nghĩa từ loại, điểm thống nhất trong nghiên cứu của họ đó là dựa

vào đặc trưng từ loại để phân chia.

Theo Nhậm Kha (2016), không chỉ dựa vào đặc trưng ngữ nghĩa để

giải hiện tượng chuyển nghĩa, một số nghiên cứu chỉ ra phương thức và con

đường chuyển nghĩa của danh từ có thuộc tính tính từ. Muốn thực hiện được

quá trình danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ cần căn cứ vào đặc tính

(special) và lượng tính (quality) bởi đây là điều kiện tiên quyết để phát sinh

sự chuyển hoá [159].

Như vậy, các tác giả kể trên đã nghiên cứu theo hướng chuyển nghĩa

dẫn đến hệ quả biến đổi nghĩa và cao hơn là dẫn đến chuyển loại từ thuộc từ

loại danh từ sang từ thuộc từ loại khác (tính từ). Các công trình nghiên cứu

theo hướng truyền thống đã xuất phát từ ngữ nghĩa để giải quá trình chuyển

nghĩa danh từ có thuộc tính tính từ. Tuy nhiên, có thể thấy, những công trình

nghiên cứu kể trên mới chỉ dừng lại ở việc miêu tả, chưa đi sâu giải thích đặc

điểm, cũng như đưa ra đặc trưng cơ bản khi chuyển nghĩa danh từ có thuộc

tính tính từ.

15

1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa ở trong nước

Khi nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa, các nhà Việt ngữ học tập trung

vào hai khuynh hướng: chuyển nghĩa trong nội bộ từ đa nghĩa và chuyển

nghĩa là biến đổi, chuyển biến nghĩa dẫn đến chuyển loại.

Khuynh hướng thứ nhất, các công trình nghiên cứu về chuyển nghĩa

trong nội bộ từ đa nghĩa thường bàn về các nội dung như phương thức chuyển

nghĩa, nguyên nhân chuyển nghĩa, mối quan hệ giữa nghĩa cũ và nghĩa mới.

Có thể kể đến các nghiên cứu của Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp,...

Nghiên cứu về phương thức chuyển nghĩa đã có nhiều công trình quan

tâm, hầu hết các nhà ngôn ngữ học đều cho rằng trong tiếng Việt có hai

phương thức chuyển nghĩa dựa trên quan hệ liên tưởng tương đồng và liên

tưởng tương cận đó là phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ và phương thức

chuyển nghĩa hoán dụ. Các nhà nghiên cứu cũng cho rằng mỗi ngôn ngữ có

các phương thức, cách thức chuyển nghĩa riêng. Dựa trên sự liên tưởng khác

nhau do sự chi phối của nền văn hóa dân tộc tạo nên các cách thức chuyển

nghĩa khác nhau của từ. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này, có thể kể đến

các công trình như Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy của

Nguyễn Đức Tồn [104]; Tâm lý văn hóa người Việt phản ánh chuyển nghĩa từ

của Kỳ Quảng Mưu [68]; Về hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa trong tiếng

Việt của Hoàng Dũng và Tăng Thị Tuyết Mai [28], v.v.

Nguyên nhân của sự chuyển nghĩa cũng là vấn đề được các tác giả đề cập

đến khi bàn về sự phát triển nghĩa của từ. Theo Đỗ Hữu Châu (1998), sự phát

triển nghĩa của từ tiếng Việt vì nguyên nhân đơn giản nhằm đáp ứng nhu cầu

tạo thêm từ mới giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là tính vô hạn của sự vật

hiện tượng trong thực tế khách quan với một bên là tính hữu hạn của các yếu

tố ngôn ngữ. Theo tác giả, động lực thúc đẩy sự chuyển nghĩa chính là: 1/“Do

bản thân sự thay đổi của sự vật hiện tượng được gọi tên làm cho từ phải thay

đổi cấu trúc khái niệm”; 2/ “Do sự kiêng kỵ cũng khiến nghĩa của từ biến đổi”.

16

Tuy nhiên, tác giả cũng nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu thúc đẩy sự chuyển

đổi ý nghĩa vẫn là những nhu cầu giao tiếp” [16, tr.125]. Đồng quan điểm trên,

tác giả Nguyễn Thiện Giáp (1998) cho rằng: chuyển nghĩa do nhiều nguyên

nhân khác nhau nhưng có ba nguyên nhân quan trọng nhất chính là “sự biến

đổi và phát triển không ngừng của đời sống, sự phát triển của nhận thức và sự

phát triển của hệ thống ngôn ngữ” [38, tr. 80].

Ngoài ra, khi nghiên cứu so sánh sự nghĩa chuyển trong các ngôn ngữ

khác nhau cũng được nhiều nghiên cứu bàn đến. Tác giả Lê Quang Thiêm

trong công trình Phân tích đối chiếu ngữ nghĩa từ đa nghĩa chỉ quan hệ họ

hàng Bungari - Việt [95] đã tiến hành đối chiếu giữa tiếng Bulgaria và tiếng

Việt. Công trình là tiền đề cho nhiều nghiên cứu về đối chiếu từ ngữ nói

chung, sự chuyển nghĩa của từ nói riêng giữa các ngôn ngữ. Tiếp theo nghiên

cứu này, có nhiều nghiên cứu về đối chiếu nghĩa, đó là Đặng Đức Hoàng (Đối

chiếu tiếng Anh và tiếng Việt trên bình diện chuyển đổi ngữ nghĩa) [50], Lê Thị

Thanh Tâm (Cơ sở tri nhận của hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Việt (trên

cứ liệu nhóm từ định hướng và nhóm từ vị trí, có liên hệ với tiếng Nga) [87], v.v.

Tác giả Lý Toàn Thắng cũng có nhiều nghiên cứu về hiện tượng chuyển

nghĩa, ông đã so sánh hiện tượng chuyển nghĩa của một số từ chỉ bộ phận cơ

thể người trong tiếng Việt với các từ chỉ bộ phận đồ vật và định vị không gian

với các từ tương ứng trong tiếng Anh, thông qua nó để thấy được cách nhận

thức về hiện thực của từng dân tộc [91].

Nghiên cứu về sự chuyển nghĩa của một nhóm từ, nghiên cứu sự

chuyển nghĩa trong một phạm vi cũng được nhiều tác giả quan tâm, như

nghiên cứu các từ chỉ không gian, Nguyễn Đức Dân (1992) trong “Triết lý

tiếng Việt: không gian - điểm nhìn và sự chuyển nghĩa của từ” [24] đã nghiên

cứu những quan hệ không gian của nhóm từ chỉ hướng không gian. Nguyễn

Lai trong cuốn sách “Nhóm từ chỉ hướng vận động trong tiếng Việt” [60] đã

đi sâu nghiên cứu sự phát triển nghĩa của nhóm từ này đồng thời với sự phát

17

triển nhận thức, tư duy của người Việt. Vũ Thị Tuyết trong luận án "Đặc điểm

ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt" [111] cũng bàn đến

sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ thực vật và vật thể nhân tạo trong ca dao tình

yêu người Việt, v.v.

Khuynh hướng thứ hai, chuyển nghĩa là biến đổi, chuyển biến nghĩa

dẫn đến chuyển loại. Tiêu biểu trong công trình nghiên cứu của Vũ Văn Thi,

Trần Thị Nhàn, ...

Năm 1995, trong luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn “Quá trình

chuyển hóa của một số thực từ thành giới từ trong tiếng Việt” của tác giả Vũ

Văn Thi đã đề cập tới sự “chuyển hóa”. Chuyển hóa tức là “biến đổi sang

dạng hoặc hình thái khác” [93, tr. 188], đây thực chất là hiện tượng chuyển

loại. Tác giả nghiên cứu quá trình “chuyển hóa” của một số thực từ sang giới

từ (không nói đến hư từ vì quá nhiều từ loại nên lấy trường hợp điển hình là

giới từ). Về đặc điểm của phương thức chuyển hóa và hư hóa trong quá trình

ngữ pháp hóa đó là: “các từ mất dần nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp được

tăng cường trong chức vụ ngữ pháp mới, trong một cấu trúc cú pháp mới

nhằm mở rộng khả năng diễn đạt của câu, cho nên có thể gọi đây là quá trình

hư hóa - ngữ pháp hóa. Cơ chế của quá trình này là việc sử dụng từ vào một

cấu trúc mới khác thường tạo nên hiện tượng mờ dần và mất dần nghĩa trong

quá trình sử dụng” [93, tr. 144]. Từ quan điểm đồng đại và lịch đại, để khảo

sát các nhóm từ chỉ hướng vận động (đi, ra, vào, lên, xuống, đến, tới, sang,

qua, về), nhóm từ chỉ vị trí (trên, dưới, trong, ngoài), từ chỉ sự tồn tại (“ở”),

từ chỉ quan hệ sở hữu (“của”), từ chỉ sự ban phát - tiếp nhận (“cho”). Luận án

này khai thác trên nguồn tư liệu là các văn bản thơ chữ Hán, chữ Nôm, thơ

văn hiện đại và từ điển của Alexandre de Rhodes. Trong quá trình nghiên cứu

về quá trình chuyển hóa, tác giả sử dụng thao tác cải biên để thấy được sự

chuyển biến về ngữ nghĩa và sự chuyển đổi về chức vụ cú pháp. Từ đó, tác

18

giả đi đến nhận định cơ chế của quá trình hư hóa - ngữ pháp hóa đó là “việc

sử dụng từ vào một cấu trúc khác thường tạo nên hiện tượng mờ dần và mất

dần nghĩa trong quá trình sử dụng. Song song với quá trình trên là quá trình hình

thành và ổn định chức năng mới của từ trong cấu trúc theo mức độ hư hóa khác

nhau” [93, tr. 144]. Tác giả đưa ra ví dụ:

Về nhà  Chạy về nhà  Thảo luận về vấn đề này

Động từ Phó từ chỉ hướng Giới từ

Kết quả của luận án cho thấy, quá trình hư hóa tiếng Việt có một số

phương thức chuyển hóa cơ bản và các phương thức này được thể hiện qua 3

khuynh hướng đó là:

(a) Phương thức chuyển hóa bắt đầu từ một nghĩa tố với nhiều bước

chuyển hóa, bước hư hóa trước làm tiền đề cho bước hư hóa sau (như sự

chuyển hóa của từ: về, đến, tới, vào, lên, xuống, cho).

(b) Phương thức chuyển hóa bắt đầu từ các nghĩa tố của từ, mỗi nghĩa

tố lại tạo thành một hướng chuyển hóa riêng hay một tiền đề có thể tạo nên

các xu hướng chuyển hóa khác nhau (như: đi, ra, qua).

(c) Phương thức chuyển hóa đơn giản thực từ - giới từ; dạng quá độ

cũng là dạng hiện nay của từ (như: của, ở, trên, dưới, trong, ngoài).

Có thể thấy, luận án “Quá trình chuyển hóa của một số thực từ thành

giới từ trong tiếng Việt” đã thấy nhiều điểm mới: xác định cơ chế chuyển hóa từ

thực từ sang giới từ nói riêng và xác định cơ chế chuyển hóa thực từ thành hư từ

tiếng Việt nói chung; đặc điểm, phương thức chuyển hóa cũng như mức độ hư

hóa của quá trình này; quá trình chuyển hóa giải tính “đa chức năng” của từ để

từ đó xác định chức năng của từ; thấy được đặc điểm riêng của giới từ tiếng Việt

và vai trò của nó đối với sự phát triển của tiếng Việt.

Năm 2004, trên cơ sở luận án tiến sĩ Ngữ văn “Hiện tượng chuyển hóa

từ thực từ sang hư từ trong tiếng Việt (theo lý thuyết ngữ pháp hóa)” [75], tác

giả Trần Thị Nhàn đã phát triển thành chuyên khảo “Lý thuyết ngữ pháp hóa

19

và thực trạng ngữ pháp hóa một số từ trong tiếng Việt” (2009) [76] nhằm giới

thiệu khái niệm và nội dung cơ bản của thuyết ngữ pháp hóa

(grammaticalization). Thông qua việc khảo sát, miêu tả hiện tượng chuyển

hóa thực từ sang hư từ trong tiếng Việt, tác giả đưa ra nhận định hiện tượng

ngữ pháp hóa các thực từ là “hiện tượng về những từ có cùng vỏ ngữ âm, có

sự liên hệ ít nhiều về ngữ nghĩa, được sử dụng với ý nghĩa và chức năng khác

nhau trong các cấu trúc cú pháp và các kiểu câu khác nhau” [76, tr. 233].

Đây là một đặc trưng có tính chất loại hình của tiếng Việt, được nghiên cứu

trên quan điểm đồng đại, thể hiện trong cấu trúc ngữ đoạn, trong việc tạo câu.

Kết quả nghiên cứu cũng chỉ rõ, “giữa các từ loại và ngay trong nội bộ từ loại

thực từ, các yếu tố từ vựng có con đường ngữ pháp hóa và các mức độ ngữ

pháp hóa khác nhau trong cấu trúc câu và trong sử dụng” [76, tr. 235]. Cùng

là một sự chuyển hóa nhưng bao quát hơn là thực từ sang hư từ, điểm này

khác với công trình nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Thi là hư từ (cụ thể là giới

từ). Tác giả Trần Thị Nhàn đi vào hai lớp lớn của từ đó là thực từ và hư từ,

thấy được sự chuyển hóa về mặt ngữ pháp. Tác giả đã phân tích con đường

ngữ pháp hóa của một số danh từ (của, bằng, trên, dưới, trong, ngoài), một số

động từ (cho, có, được, mất, ra, vào, lên, xuống, đi, đến, lại, về), một số tính

từ (liền, vừa, mới, đã). Ví dụ, có thể thấy con đường ngữ pháp hóa của từ

“của” đó là:

1. Của là danh từ: Của biếu là của lo, của cho là của nợ.

2. Của mở đầu cho một giới ngữ trong kết cấu danh ngữ: Mọi điều

tiếng xấu xa của cả gia đình đều đổ lên đầu anh.

3. Của trong kết cấu động ngữ làm thành phần câu, từ “của” đi liền sau

các động từ vị ngữ kiểu: cướp, chiếm, mượn, vay, gửi, nhận, nợ, lấy, v.v. có

chức năng đánh dấu bổ ngữ chỉ người bị tổn thất: Tôi có mượn của bà Hoàng

Thị Sẹo một đôi hoa tai bằng vàng.

20

4. Giới ngữ mở đầu bằng của có chức năng tham gia vào cấu tạo câu và

cấu tạo ngữ đoạn lớn hơn với tư cách một thành phần phụ. Có thể làm chủ

ngữ (Của tôi tốt hơn của anh); làm vị ngữ (Bà choáng người. Hai chiếc giầy

là của cùng một chân); làm bổ ngữ (Bắt lấy nó! Ối ông đội xếp ơi! Nó ăn cắp

của tôi); làm định ngữ trong ngữ đoạn danh từ (Mọi sự nhầm lẫn của kẻ lớn

đều do quá tham mà ra).

Những đóng góp của các tác giả Vũ Văn Thi, Trần Thị Nhàn không chỉ

chứng minh có hiện tượng ngữ pháp hóa trong tiếng Việt mà còn chứng minh

có hiện tượng chuyển nghĩa. Có thể nhận thấy các công trình nghiên cứu trên

chỉ nghiên cứu về lĩnh vực ngữ pháp và tập trung chuyển nghĩa giữa thực từ

sang hư từ hoặc hư từ sang hư từ chứ chưa nghiên cứu trong nội bộ thực từ.

Điểm qua các công trình nghiên cứu chuyển nghĩa trên thế giới và Việt

Nam có thể thấy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về chuyển nghĩa, tuy

nhiên, việc nghiên cứu chuyển nghĩa trong nội bộ thực từ, cụ thể là danh từ

mang thuộc tính nghĩa đại từ, chưa được nghiên cứu một cách chính thức,

đặc biệt là kết hợp giữa lý luận và thực hành từ điển.

1.2.2. Tình hình nghiên cứu chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính

nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

a. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

Trong tiếng Việt, vấn đề từ xưng hô nói chung, từ thân tộc nói riêng đã

được nghiên cứu từ sớm. Từ điển Việt Nam - Bồ Đào Nha - Latinh của

Alexandre de Rhodes (1651) [3] cũng đã đề cập đến các danh từ thân tộc có

chức năng xưng hô như bác, ông, bà, v.v. nhưng vẫn còn rất sơ lược. Theo

dòng chảy thời gian, từ xưng hô tiếp tục được nghiên cứu. Có thể kể ra:

Trương Vĩnh Ký trong Grammare de la langue annamite (1884) đã dành 30

trang để nói về đại từ, chủ yếu là đại danh từ nhân xưng [Dẫn theo Nguyễn

Phú Phong, 82, tr. 8]. Trần Trọng Kim trong Việt Nam văn phạm (1940) gọi là

nhóm danh từ này là "đại danh từ" vì theo ông, phần nhiều các danh từ này do

21

danh từ mà ra [59, tr.66]. Một trong những công trình nghiên cứu khá đầy đủ

về đại từ xưng hô đó là công trình Studies in Vietnamese (Annamese)

Grammar của M.B Emeneau (1951) [128] đã tập trung vào nhóm từ xưng hô

lâm thời có nguồn gốc danh từ mà ông gọi là "đại từ cương vị" và quan tâm

đến mô tả hệ thống cấu trúc của từ xưng hô tiếng Việt. Theo Emeneau, các

nhân tố chi phối cách sử dụng từ xưng hô trong tiếng Việt là: tuổi tác, địa vị

xã hội, giới tính, nghề nghiệp, v.v. Còn L.C. Thompson (1987) [147] lại quan

tâm đến mức độ (levels) biểu cảm của từ xưng hô. Quan điểm của Thompson

cho rằng: các sắc thái biểu cảm của ngôn từ có vai trò quan trọng trong việc

sử dụng hình thức xưng hô và quy chiếu trên hoạt động lời nói. Từ đó, ông

xác định nhân tố tác động từ xưng hô là: tình huống xưng hô, thái độ của

người nói và cương vị của những nhân vật hội thoại. Qua đó, ông mô tả hệ

thống gia tộc Việt và các danh từ chỉ quan hệ thân tộc.

Từ trước đến nay, như đã dẫn trên, từ thân tộc được nghiên cứu nhiều,

tuy nhiên việc nghiên cứu chuyển nghĩa từ thân tộc mang thuộc tính nghĩa đại

từ chưa được nghiên cứu toàn diện.

Trong những năm gần đây, các luận án nghiên cứu về từ thân tộc cũng

đã nghiên cứu nhiều về danh từ thân tộc, có thể kể ra như: Ngữ nghĩa nhóm từ

chỉ quan hệ thân tộc trong tiếng Anh và tiếng Việt của Dương Thị Nụ (2003)

[77] tập trung nghiên cứu và đối chiếu đặc trưng ngữ nghĩa của từ thân tộc

tiếng Anh và tiếng Việt trên hai cấp độ: nghĩa cơ bản và nghĩa mở rộng. Trên

cơ sở của luận án tiến sĩ ngữ văn Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc

trong giao tiếp tiếng Việt [25], Trương Thị Diễm (2013) phát triển thành sách

Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc [26]. Tác giả trên cơ sở miêu tả

cấu trúc nghĩa của các danh từ thân tộc Việt để lý giải các cơ sở của sự

chuyển nghĩa để đảm nhận chức năng xưng hô của danh từ thân tộc Việt: cơ

sở ngôn ngữ học và cơ sở văn hóa - xã hội. Đây là một trong những công trình

22

gợi mở quan trọng cho chúng tôi khi nghiên cứu chuyển nghĩa của danh từ

mang thuộc tính nghĩa đại từ.

b. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

Nghiên cứu về chuyển nghĩa đã đạt được một số thành tựu nhất định,

tuy nhiên các công trình nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể chuyển nghĩa trong

nội bộ thực từ theo tìm hiểu của chúng tôi là chưa nhiều. Nghiên cứu hiện

tượng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ trong tiếng

Việt cũng được một số tác giả quan tâm nghiên cứu như: Nguyễn Ngọc Trâm,

Hoàng Văn Hành, Đỗ Hữu Châu, Chu Bích Thu, v.v.

Trong bài báo nghiên cứu "Về cấu trúc nghĩa của tính từ tiếng Việt

(trong sự so sánh với tiếng Nga)" (1982), Hoàng Văn Hành đã so sánh đối

chiếu với tiếng Nga (tiêu biểu cho ngôn ngữ biến hình) với tiếng Việt (tiêu

biểu cho ngôn ngữ đơn lập) để rút ra đặc trưng nghĩa của tính từ. Theo tác giả,

tiếng Việt "không có tính từ quan hệ (và tính từ sở thuộc) với nghĩa chân

chính của thuật ngữ này. Vì thế tính quan hệ (và tính sở thuộc) trong tiếng

Việt thường diễn đạt bằng các phương tiện từ vựng" [43, tr.1] cho nên dựa

vào các "thang độ" để phân loại tính từ quan hệ thành hai nhóm là: tính từ

đánh giá theo thang độ và tính từ không được đánh giá theo thang độ. Đây là một

trong những đặc trưng của ngôn ngữ đơn lập nói riêng, trong đó có tiếng Việt.

Đỗ Hữu Châu (1986) dựa trên cấu trúc ngữ nghĩa để phân loại các

nhóm tính từ đơn âm tiết thành: 1. tính từ có tính chất vật lý, có độ đo, theo

chiều không gian (to, nhỏ, cao, thấp, v.v.); 2. tính từ có tính chất vật lý, có

dạng hình học, trong không gian (vuông, tròn, méo, v.v.); 3. tính từ có tính

chất vật lý, có biểu hiện hình học của không gian (phẳng, lõm, cong, thẳng);

4. tính từ có tính chất vật lý, có tư thế (xiêu, ngay, thẳng, v.v.); 5. tính từ có

tính chất vật lý, có cảm giác xúc giác (lạnh, nóng, v.v.); 6. tính từ có tính chất

vật lý, có cảm giác vị giác (chua, cay, mặn, ngọt, v.v.); 7. tính từ có tính chất

vật lý, có cảm giác khứu giác (thơm, thối, hôi, tanh, v.v.); 8. tính từ có tính

23

chất vật lý, có cảm giác thị giác về màu sắc (xanh, đỏ, tím, vàng, v.v.) [14,

tr.112]. Trong đó, các nhóm lại được phân thành các tiểu nhóm khác nhau dựa

trên sự khu biệt về nét nghĩa dụng học.

Chu Bích Thu trong luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn (1996) -

“Những đặc trưng ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt hiện đại” [101], từ cách tiếp

cận quan điểm chức năng công trình nghiên cứu cấu trúc ngữ nghĩa của tính từ.

Bằng phương pháp phân tích thành tố ngữ nghĩa, công trình phân tích ngữ nghĩa

của 8 nhóm tính từ biểu thị: màu, mùi, vị, kích thước, hình dáng, nhiệt độ, phẩm

chất, đánh giá phẩm chất. Kết quả nghiên cứu đưa ra các kiểu cấu trúc ngữ

nghĩa của tính từ đơn âm tiết và qua đó thấy được vai trò quan trọng đối với tính

từ của thành tố đánh giá. Luận án đã chỉ ra được đặc trưng ngữ nghĩa cơ bản của

tính từ, tuy vậy, những nghiên cứu đó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu nghĩa

tính từ trong hệ thống, chứ chưa chú ý đến nghĩa trong ngữ lưu hay phát ngôn.

Các nghiên cứu trong Việt ngữ học có đề cập tới hiện tượng chuyển nghĩa

của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ, tuy vậy số lượng còn chưa nhiều.

Với những trình bày đã nêu ở trên, luận án tập trung tìm hiểu về chuyển

nghĩa, cụ thể là, nghiên cứu đặc trưng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc

tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ.

1.3. Cơ sở luận

1.3.1. Một số luận về ngữ nghĩa học từ vựng

1.3.1.1. Quan điểm về nghĩa từ vựng theo các định hướng thuyết

Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, ngữ nghĩa được nghiên cứu từ sớm, theo

J.Lyons (1977) từ Aristotle, Platon thuộc thời cổ đại Hy Lạp cũng đã quan

tâm đến từ và sự biểu nghĩa. Ngay từ thời kì này, các nhà ngôn ngữ học cũng

đã quan tâm đến nghĩa của từ hơn là chức năng ngữ pháp của nó. Từ đó cho

thấy, vai trò quan trọng của nghĩa trong ngôn ngữ học, có thể minh chứng

thêm bằng quan điểm của Jakobson. R: “Language without meaning is

meaningless” (Ngôn ngữ không có nghĩa là vô nghĩa) [Dẫn theo Nguyễn Thị

Dự (2004), 29, tr.12].

24

Xét trong địa hạt ngôn ngữ học, nghĩa thuộc phạm trù bên trong, bình

diện nội dung; biểu hiện ở mặt cấu tạo, hành chức ngôn ngữ, trí tuệ tư duy

con người, v.v. Quá trình giao tiếp của con người, ngữ nghĩa trở thành một

yếu tố cơ bản, chi phối hoạt động ngôn ngữ - tư duy.

Khi nghiên cứu về hiện tượng chuyển nghĩa, luận án quan tâm nhiều

đến nghĩa của từ, bởi “nghĩa của từ không chỉ nói lên cách phản ánh sự vật

độc đáo ở mỗi cộng đồng ngôn ngữ, quá trình hình thành trong lịch sử, mà

còn thể hiện tính đa dạng và linh hoạt của con người khi phản ánh sự vật...”

[92, tr. 119]. Có thể thấy, nghĩa của từ được nhìn nhận trong hành chức và

thực hiện chức năng giao tiếp và tư duy của ngôn ngữ. Đây là hướng nghiên

cứu hiện đại, gắn với thực tế ngôn ngữ, cách nhìn bao quát, toàn diện.

Trước đây, các nhà biên soạn từ điển dựa vào cấu trúc để tạo ra mô

hình đồng hình tuyến tính theo khuôn khổ và áp dụng phạm trù ngữ nghĩa

kèm theo. Chẳng hạn, khi giải thích nghĩa các từ chỉ quan hệ thân tộc đều sử

dụng cấu trúc chung: cha - người đàn ông có con, trong quan hệ với con; mẹ -

người phụ nữ có con, trong quan hệ với con.

Hiện nay, các nhà biên soạn từ điển đã tiếp cận các thuyết mới về ngôn

ngữ học tri nhận, ngữ nghĩa học tri nhận để phân tích nghĩa, tổ hợp các nét nghĩa

vào việc biên soạn nghĩa của từ. Điều đó có thể thấy, cùng phân tích nét nghĩa, tổ

hợp nét nghĩa để tạo thành nghĩa của từ nhưng nét nghĩa bây giờ được nhận thức

khác. Đó là cách định nghĩa dựa vào văn cảnh đã được khúc xạ qua ý thức và

khả năng nhận thức của con người. Cách tiếp cận này khác với cách định nghĩa

trước kia là: dựa theo lối chân trị (tức là lấy sự vật khách quan) để làm căn cứ.

Cho đến nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nghĩa của từ, nhưng tựu

chung lại được xem xét trên hai phương diện coi nghĩa của từ “như là một bản

thể nào đó (ví dụ như đối tượng, khái niệm, sự phản ánh...) và như là một quan

hệ nào đó (quan hệ của từ với đối tượng hay khái niệm...)” [77, tr. 22]. Nhiều

quan điểm, tư tưởng chứng minh cụ thể của các nhà ngôn ngữ học trong và

ngoài nước thuộc hai phương diện nói trên. Theo A.I.Smirnitckiy, nghĩa của từ

25

là "sự phản ánh hiển nhiên của sự vật, hiện tượng hay quan hệ trong ý thức

(hay là sự cấu tạo tâm lý tương tự về tính chất, hình thành trên sự phản ánh

những yếu tố riêng lẻ của thực tế) nằm trong cấu trúc của từ với tư cách là mặt

bên trong của từ" [Dẫn theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp (1998) 38, tr, 119].

Các nhà Việt ngữ học đã tiếp thu quan điểm nghĩa của từ và dựa vào đặc

trưng tiếng Việt đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về nghĩa của từ. Hoàng Phê

(1975) quan niệm về nghĩa của từ: (i) là một tập hợp những nét nghĩa có quan

hệ quy định lẫn nhau; (ii) giá trị của những nét nghĩa không như nhau (giữa các

nét nghĩa có quan hệ cấp bậc), biểu hiện ở khả năng tham gia khác nhau vào

việc thực hiện chức năng thông báo; (iii) các nét nghĩa có tính độc lập tương

đối, biểu hiện ở khả năng độc lập tổ hợp và tác động qua lại với những nét

nghĩa của những từ khác khi từ tổ hợp với nhau. Cấu trúc của nghĩa từ là một

cấu trúc động [78, tr. 10-26]. Cũng theo quan niệm này, tác giả Nguyễn Đức

Tồn (2013) cho rằng: “đó chỉ là sự phân tích lời giải thích cụ thể của một cách

hiểu về nghĩa của từ và cái gọi là cấu trúc nghĩa của từ như đã nêu chỉ là cấu

trúc của lời diễn giải về nghĩa của từ mà thôi” [105].

Luận án quan tâm đến nghĩa trong ngôn ngữ thuộc phạm vi nghĩa từ

vựng (lexical meaning) thuộc ngữ nghĩa học từ vựng bởi nghĩa từ vựng có vai

trò quyết định, thay đổi tính chất của sự chuyển biến nghĩa. Tác giả Lê Quang

Thiêm (2008) quan niệm: “nghĩa từ vựng là một thực thể tinh thần trừu

tượng tồn tại trong mọi biểu hiện, cấp độ của ngôn ngữ để ngôn ngữ thực

hiện chức năng công cụ của giao tiếp và tư duy cũng như mọi loại chức

năng cụ thể đa dạng khác, đặc biệt là trong lời nói, trong văn bản, trong

diễn ngôn” [97, tr.86]. Luận án dựa vào cách hiểu nghĩa từ vựng trên để vận

dụng vào quá trình nghiên cứu. Nghiên cứu sự chuyển nghĩa của các đơn vị từ

có sự chuyển nghĩa sẽ được chuyển ở mức độ và phạm vi sâu hơn là ở phạm

vi tư duy khoa học. Khi đó, chúng được định hình với những kiểu nghĩa chức

năng từ vựng mới và những phẩm chất mới.

26

1.3.1.2. Một số khái niệm có liên quan

- Cấu trúc ngữ nghĩa của từ: là toàn bộ tất cả các nghĩa của từ và có mối

quan hệ hữu cơ với nhau. Trong hệ thống từ vựng của ngôn ngữ, cấu trúc

nghĩa của từ như là một yếu tố của hệ thống từ vựng đó.

Trong các Từ điển tiếng Việt, cấu trúc ngữ nghĩa thường được trình bày

theo các cấp hệ khác nhau: một là tập hợp các nét nghĩa để tạo thành nghĩa vị;

hai là tập hợp các nghĩa vị để tạo thành ý nghĩa của từ. Nói cách khác, đối với

cấp hệ đầu tiên thể hiện ở các nghĩa cụ thể của từ đơn nghĩa, còn cấp hệ thứ

hai là các nghĩa cụ thể của từ đa nghĩa.

- Nghĩa của từ: là sự phản ánh hiện thực khách quan về thế giới thông qua

phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ. Sự phản ánh hiện thực khách quan đó được

thể hiện cụ thể trong mối quan hệ biện chứng theo một tôn ti trật tự nhất định của

cấu trúc ngữ nghĩa và bao gồm các thành tố lớn nhỏ khác nhau theo một trật tự

xác định.

- Nét nghĩa (semantic feature): là một đơn vị nhỏ nhất không thể chia cắt

được nữa. Nét nghĩa được phân xuất trên cơ sở thành tố nghĩa và nét nghĩa

còn là cơ sở của nghĩa từ vựng. Các nét nghĩa kết hợp với nhau để tạo thành

nghĩa như một hệ thống. Hệ thống nghĩa của từ đơn nghĩa và từ đa nghĩa.

Ví dụ: Danh từ "đàn ông" được giải thích chỉ có một nghĩa "Người lớn

thuộc nam giới (nói khái quát)" [80, tr.283]. Phân tích cấu trúc nghĩa của từ

"đàn ông" gồm ba nét nghĩa: (người)1 (trưởng thành)2 (giới tính nam)3. Ba nét

nghĩa trên đã phản ánh, miêu tả định danh, khái niệm về đối tượng cụ thể. Ba

nét nghĩa đó được người biên soạn từ điển giải thích nghĩa của danh từ "đàn

ông" trong tiếng Việt.

Tính từ "đơn điệu" được giải thích hai nghĩa: "1. Chỉ có một điệu, một

giọng lặp đi lặp lại, nghe không hay, không hấp dẫn. 2. Ít thay đổi, lặp đi lặp lại

cùng một kiểu, gây cảm giác buồn chán" [80, tr. 349]. Phân tích cấu trúc nghĩa

của từ "đơn điệu": Nghĩa thứ nhất có ba nét nghĩa (chỉ có một điệu, một giọng)1

27

(lặp đi lặp lại)2 (nghe không hay, không hấp dẫn)3. Nghĩa thứ hai có ba nét

nghĩa: (ít thay đổi)1 (lặp đi lặp lại cùng một kiểu)2 (gây cảm giác buồn chán)3.

Cả hai nghĩa đều có thuộc tính chung phản ánh tính chất lặp đi lặp lại. Mỗi

nghĩa giải thích nội dung khác nhau, nghĩa thứ nhất chỉ về điệu/giọng, nghĩa

thứ hai chỉ về tính chất ít thay đổi. Đây cũng là hai nghĩa khác nhau của từ đa

nghĩa "đơn điệu".

- Nghĩa cơ sở/nghĩa phái sinh: Nghĩa cơ sở (hay nghĩa gốc, nghĩa cơ bản)

được hiểu là "nghĩa đầu tiên hoặc nghĩa có trước, trên cơ sở nghĩa đó mà

người ta xây dựng nên nghĩa khác" [19, tr. 173]. Nghĩa phái sinh (hay nghĩa

chuyển) là "nghĩa được hình thành dựa trên nghĩa gốc và vì vậy chúng thường

là nghĩa có lý do; và được nhận ra qua nghĩa gốc của từ" [19, tr. 174]. Nói

cách khác: nghĩa cơ sở là nghĩa có trước, còn nghĩa phái sinh là các nghĩa

được hình thành sau này và dựa trên nghĩa gốc, có quan hệ với nghĩa gốc. Đối

với nghĩa gốc dễ nhận biết và không cần phải phụ thuộc vào các nghĩa khác,

còn nghĩa phái sinh ngược lại.

Tất cả các nghĩa mới xuất hiện đều có cơ sở từ nghĩa đầu tiên. Giữa

nghĩa gốc và nghĩa phái sinh có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi cùng duy

trì một nét nghĩa chung. Cơ sở của sự chuyển nghĩa của từ và cơ sở cho sự

lĩnh hội các nghĩa chuyển của từ chính là từ các nét nghĩa chung. Các nghĩa

phái sinh có quan hệ trực tiếp hoặc có quan hệ gián tiếp với nghĩa gốc thông

qua một ý nghĩa khác, song tất cả các nghĩa đều có mối liên hệ với nhau và

tạo thành một hệ thống. Sự chuyển biến ý nghĩa của từ như vậy thể hiện rõ

tính hệ thống của ngôn ngữ. Muốn xác định ngữ nghĩa của từ, một mặt cần

tách các nghĩa khác nhau và mặt khác phải làm sáng tỏ những mối liên hệ và

sự quy định lẫn nhau giữa các nghĩa đó.

- Nghĩa đen/nghĩa bóng: Nghĩa đen là nghĩa vốn có, nghĩa chính của từ và

không có hình tượng. Nghĩa bóng (nghĩa được ẩn sau) là nghĩa có tính hình

28

tượng. Muốn hiểu được nghĩa bóng cần hiểu về từ vựng - ngữ nghĩa cũng như

dựa vào ngữ cảnh.

- Nghĩa cơ bản/nghĩa không cơ bản: Cách phân chia nghĩa đen và nghĩa

bóng như nói trên không triệt để bởi nghĩa đen có lúc lại trùng với nghĩa gốc

và nghĩa này ít lệ thuộc vào ngữ cảnh. Cho nên có thể phân biệt nghĩa của các

từ đa nghĩa là nghĩa cơ bản và nghĩa không cơ bản. Nghĩa cơ bản (còn gọi

nghĩa chính, nghĩa cơ sở, nghĩa đen) là nghĩa mang "nhiều nét nghĩa chính,

nét nghĩa tự do, nó đã đi vào cơ cấu chung ổn định của nghĩa từ và được nhận

thức một cách ổn định, như nhau trong các hoàn cảnh khác nhau" [2, tr. 31].

Khác với nghĩa cơ bản, nghĩa không cơ bản (còn gọi nghĩa phụ, nghĩa bóng)

của tu từ và hình ảnh (còn gọi ẩn dụ và hoán dụ) bao gồm "nét nghĩa cơ bản

tổ hợp và nét nghĩa phụ, nét nghĩa không tự do và thường lệ phụ thuộc vào

văn cảnh" [2, tr. 31]. Nghĩa không cơ bản thường gặp nhiều trong văn học

(thơ, truyện dân gian, v.v), trong ngôn ngữ giao tiếp, v.v.

- Cơ sở phân tích thành tố nghĩa

Khi phân tích thành tố nghĩa thường dựa trên hai nguyên tắc cơ bản là: Một

là, ý nghĩa của mỗi từ bao gồm một tập hợp các yếu tố nghĩa tối thiểu; Hai là, tất

cả thành phần từ ngữ của ngôn ngữ đều có thể được miêu tả nhờ các các yếu tố

nghĩa nhỏ nhất này với một số lượng ít. Trong đó, nguyên tắc thứ nhất được

minh họa qua phân tích thành tố nghĩa của các đại từ. Theo đó, ý nghĩa của các

khái niệm định danh của đại từ được phân xuất trên cơ sở đối lập ngữ nghĩa của

các thành tố nhỏ nhất có nghĩa và mỗi thành tố được đánh dấu bằng chữ cái khác

nhau. Và tập hợp của tất các khái niệm định danh được miêu tả dưới dạng những

kết hợp chữ cái đó. Còn ở nguyên tắc thứ hai là các thành tố nghĩa nhỏ nhất xuất

hiện với tư cách là những đơn vị xuất phát cho nên thuộc về nét nghĩa (còn gọi

dấu hiệu khu biệt nghĩa, nhân tử ngữ nghĩa). Các nhân tử ngữ nghĩa này được

tạo ra trực tiếp cho nên các đơn vị này thường có cấu trúc đơn giản và được sử

dụng rộng rãi, trong đó có lĩnh vực từ điển.

29

Trong Từ điển tường giải tiếng Việt, ý nghĩa của từ thường được trình bày

theo cấu trúc hai cấp: (i) Tập hợp các nét nghĩa để tạo thành nghĩa vị (hay nghĩa

cụ thể của từ); (ii) Tập hợp các nghĩa vị (hay nghĩa cụ thể trong từ đa nghĩa).

Hoàng Phê trong Phân tích ngữ nghĩa coi hiện tượng đẳng cấu ngữ nghĩa là

"nghĩa của các từ" có số lượng nét nghĩa như nhau, trật tự giữa các nét nghĩa

giống nhau, quan hệ giữa các nét nghĩa giống nhau (tức là chúng có cùng một

kiểu cấu trúc). Từ những phân tích đó, tác giả quan niệm "với hiện tượng đẳng

cấu ngữ nghĩa, cấu trúc nghĩa có thể là một cơ sở để phân loại từ" [78, tr. 17].

Trong luận án này, chúng tôi sử dụng ngữ liệu là các định nghĩa trong

TĐTV nên việc phân tích các nét nghĩa có ý nghĩa trong việc chứng minh cho

sự chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang

thuộc tính nghĩa tính từ.

1.3.1.3. Các loại nghĩa từ vựng của từ

Từ có liên hệ với nhiều nhân tố và hiện tượng khác nhau, cho nên

nghĩa của từ cũng gồm nhiều thành phần nghĩa khác nhau. Dựa vào chức

năng, các nhà Việt ngữ học hiện đại phân chia và gọi tên cho các thành phần

nghĩa khác nhau, đó là: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm, nghĩa ngữ pháp,

nghĩa tình thái. Ngoài bốn thành phần nghĩa trên, Đỗ Hữu Châu (2009) [16,

tr. 103-105] có thêm thành phần nghĩa liên hội - đây là một trong những thành

phần nghĩa có tác động lớn đến các nghĩa hành vi và chi phối đến việc dùng từ.

Tác giả Nguyễn Thiện Giáp (1998) [38, tr.125-133], đưa ra các thành

phần nghĩa đó là:

+ Nghĩa sở chỉ (referentive meaning): quan hệ của từ với sự vật,

hiện tượng, tính chất, quá trình, v.v. mà từ biểu thị. Bản thân các đối tượng đó

được gọi là biểu vật hay cái biểu vật (denotat).

+ Nghĩa sở biểu (significative meaning): quan hệ của từ với ý, tức là

với khái niệm hoặc biểu tượng mà từ biểu hiện.

30

+ Nghĩa sở dụng (pragmatical meaning) còn gọi nghĩa biểu thái,

nghĩa hàm chỉ (connotative meaning): mối quan hệ của từ với người sử dụng

(người đọc, người nói, người nghe) bộc lộ qua thái độ, cảm xúc. Chẳng hạn:

Từ “ăn”, “xơi”, “chén” mang sắc thái khác nhau: “ăn” - mang sắc tình cảm

trung hòa - bình thường), “xơi”- mang sắc thái tình cảm kính trọng, “chén”

mang sắc thái tình cảm suồng sã, thân mật.

+ Nghĩa kết cấu (structural meaning): mối quan hệ giữa từ này với

những từ khác trong hệ thống từ vựng. Quan hệ này được biểu hiện trên hai trục:

trục đối vị (paradigmatical axis) - giúp xác định giá trị của từ và khu biệt các từ

với nhau, và trục ngữ đoạn (syntagmatical axis) - giúp xác định ngữ trị của từ.

Trong hệ thống ngôn ngữ, muốn phân biệt được các đơn vị ngôn ngữ

cần dựa vào nghĩa sở chỉ và nghĩa sở biểu, nghĩa cấu trúc tồn tại ở hầu hết các đơn

vị từ vựng, còn nghĩa sở dụng còn tùy thuộc vào từng đơn vị từ vựng.

Trong những nghiên cứu Việt ngữ học về nghiên cứu về từ vựng -

ngữ nghĩa theo định hướng lịch đại và đồng đại động mới được chú ý, nổi bật

là trong công trình nghiên cứu về tầng nghĩa, kiểu nghĩa chức năng từ vựng

của tác giả Lê Quang Thiêm [97], [98].

Phạm trù nghĩa là một "thực thể tinh thần trừu tượng" và được biểu

hiện bằng ngôn ngữ cho nên có thể quy loại, phân xuất nó thành các dạng thể

tồn tại phân lập xác định. Đó là "các tầng nghĩa, các kiểu nghĩa, các quan hệ

nghĩa, các hệ thống và cấu trúc nghĩa". Từ quan niệm, trong các nhân tố tác

động và quy định nghĩa từ vựng, nhân tố "vai trò của chủ thể ngôn ngữ và sự

tri nhận nghĩa" là nhân tố cần được ưu tiên hàng đầu. Cho nên, nghĩa chức

năng của tác giả Lê Quang Thiêm có sáu kiểu nghĩa tương ứng với sáu kiểu

trường: trường nghĩa biểu niệm, trường nghĩa biểu hiện, trường nghĩa biểu

thị, trường nghĩa biểu chỉ, trường nghĩa biểu trưng và trường nghĩa biểu

tượng. Sáu kiểu trường nghĩa này sẽ nằm trong ba trường tầng nghĩa: trường

tầng nghĩa trí tuệ (gồm có nghĩa biểu niệm và nghĩa biểu hiện), trường tầng

31

nghĩa thực tiễn (gồm có nghĩa biểu thị và nghĩa biểu chỉ), trường tầng nghĩa

biểu trưng (gồm nghĩa biểu trưng và nghĩa biểu tượng).

Sơ đồ 1: Tầng nghĩa và kiểu nghĩa từ vựng

Nghĩa biểu niệm - Khái niệm khoa học

p h ổ

- Tầng nghĩa trí tuệ (scientific concept)

(intellectual stratum) ý niệm quy ước

m e a n i n g f u l

Nghĩa biểu hiện

(sense - relation) giá trị hệ thống

n g h ĩ a t ừ v ự n g

Nghĩa biểu thị (denotational meaning)

- Tầng nghĩa thực tiễn

( l e x i c a l

(practical stratum) Nghĩa biểu chỉ (designated meaning)

Nghĩa biểu trưng (symbolized meaning)

- Tầng nghĩa biểu trưng

(symbolized stratum) Nghĩa biểu tượng (imaginatuve meaning)

Nguồn: Lê Quang Thiêm, 2008

Đây là hướng nghiên cứu sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt trong

cơ chế động khi phân xuất hệ thống chung nghĩa từ vựng của từ thành các hệ

thống con với những đơn vị cơ sở theo tầng bậc từ cao đến thấp.

1.3.1.4. Phạm vi nghĩa của các đơn vị từ vựng

Phạm vi nghĩa của các đơn vị từ vựng mà luận án nghiên cứu bao hàm

ba tầng nghĩa và sáu kiểu nghĩa từ vựng - phổ nghĩa mà tác giả Lê Quang

Thiêm đề xuất.

Nghĩa biểu niệm và nghĩa biểu hiện của các đơn vị từ loại được phản

ánh trong nhận thức, tư duy của chủ thể ngôn ngữ như danh từ chỉ sự vật,

động từ chỉ hoạt động, tính từ chỉ tính chất, đại từ là xưng gọi, v.v. và phản

ánh được các hiện tượng, quá trình, thuộc tính, v.v. trong ngôn ngữ.

32

Nghĩa biểu thị và nghĩa biểu chỉ là kiểu nghĩa của những từ thông

thường vì mang tính cụ thể trong lời nói. Chức năng quan trọng của nghĩa

biểu thị từ thể hiện là "định danh" về sự vật, hoạt động, tính chất trong đời

sống. Nghĩa biểu chỉ là kiểu nghĩa chỉ ra, quy chiếu đến mà nội dung ít phản

ánh, biểu thị thuộc tính của sự vật, hiện tượng. Đó là các từ thay thế, dán nhãn

của các từ chỉ xuất và các đại từ.

Nghĩa biểu trưng và nghĩa biểu tượng được hoạt động và thể hiện trong

văn bản nghệ thuật. Khi nói tới nghĩa của từ và hiện tượng chuyển nghĩa,

không thể không nói tới nghĩa biểu trưng. Đây là "nghĩa biểu đạt một cách

tượng trưng âm thanh hay hình dáng mà từ gợi ra, người nói, người nghe có

thể hình dung, liên tưởng đến”. Nghĩa biểu tượng là nội dung có được do hình

dung, tưởng tượng và đây là kiểu nghĩa biểu cảm - văn hóa gắn với chức năng

thẩm mĩ của từ, ngữ. Đơn giản kiểu nghĩa này linh hoạt theo chức năng

nghĩa, đi vào hoạt động năng động dụng học giao tiếp sinh động mà tích

hợp các thuộc tính mới sáng tạo linh hoạt.

Sự chuyển nghĩa từ có liên quan đến sự chuyển tầng nghĩa “một đơn vị

từ vựng vốn thuộc tầng nghĩa xác định này chuyển qua tầng nghĩa khác trong

phổ nghĩa là một sự kiện của sự biến đổi, phát triển” [98, tr.176]. Các đơn vị

chuyển nghĩa danh từ thân tộc mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang

thuộc tính nghĩa tính từ mà luận án nghiên cứu thuộc các kiểu nghĩa: nghĩa

biểu niệm, nghĩa biểu chỉ, nghĩa biểu trưng, nghĩa biểu tượng thuộc tầng

nghĩa trí tuệ, tầng nghĩa thực tiễn và tầng nghĩa biểu trưng. Mỗi đơn vị từ

vựng có thể bao gồm một hoặc nhiều kiểu nghĩa khác nhau, ngay cả trong một

từ loại cũng kiêm thêm nghĩa của từ loại khác.

1.3.2. Về hiện tượng chuyển nghĩa và chuyển nghĩa từ vựng

1.3.2.1. Quan niệm về hiện tượng chuyển nghĩa và chuyển nghĩa từ vựng

Từ tình hình nghiên cứu về hiện tượng chuyển nghĩa trên có thể thấy,

chuyển nghĩa phổ biến trong mọi ngôn ngữ. Cách tiếp cận hiện tượng này có

33

hai quan điểm:

- Quan điểm 1: coi chuyển nghĩa là thay đổi số lượng nghĩa trong nội

bộ từ đa nghĩa. Theo quan niệm này, từ nghĩa cơ sở đến các nghĩa phái sinh

và các nghĩa khác nhau là của từ đa nghĩa. Trong Việt ngữ học, tiêu biểu cho

quan niệm này là hai tác giả Nguyễn Thiện Giáp và Đỗ Hữu Châu.

Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: Chuyển nghĩa là "thay đổi số lượng nghĩa

vốn có của từ (cụm từ), làm cho nó có khả năng gọi tên sự vật, hiện tượng, hành

động hoặc thuộc tính khác nhau nhưng liên quan với nhau về phương diện nào

đó (nhưng vẫn trong phạm vi một từ)" [13, tr. 139].

Đồng quan điểm trên, tác giả Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “sự biến

đổi và phát triển không ngừng của đời sống, sự phát triển của nhận thức và sự

phát triển của hệ thống ngôn ngữ là ba nguyên nhân dẫn đến nên hiện tượng

chuyển nghĩa - hiện tượng phái sinh ngữ nghĩa trong từ, khiến cho một từ có

thể trở nên nhiều nghĩa (từ đa nghĩa)” [38, tr.148]. Chẳng hạn: Từ miệng là

một từ chỉ bộ phận cơ thể (miệng rộng thì sang, miệng cười tươi, há miệng chờ

sung, v.v.), được chuyển sang để chỉ người (nhà 10 miệng ăn), hoặc được

chuyển sang phạm vi đồ vật, vật thể địa lý chỉ bộ phận các đối tượng này (miệng

bát, miệng hang, v.v.).

- Quan điểm 2: coi chuyển nghĩa là sự chuyển biến, biến đổi về nghĩa.

Tiêu biểu nhóm này có: Gustaf Stern, S.Ulmannn,...

Gustaf Stern cho rằng "Sự biến đổi nghĩa như là một sự điều chỉnh theo

thói quen của một số lượng người nói tương đối lớn về độ rộng ngữ nghĩa

truyền thống của từ ngữ vốn bắt nguồn từ việc sử dụng từ ngữ (1) để trỏ một

hoặc một cái chỉ vật trước đây chưa được đề cập, hoặc (2) để biểu hiện một

cách hiểu mới lạ về một hoặc hơn một cái chỉ vật" [40, tr.42]. Nói như vậy

nghĩa là hiện tượng chuyển biến nghĩa (biến đổi nghĩa) chính là sự biến động

về nghĩa từ vựng trong từ loại, một từ vừa có thuộc tính nghĩa của chính từ

34

loại đó đảm nhận, vừa mang thuộc tính nghĩa của từ loại khác. Trong luận án

này, chúng tôi chấp nhận quan điểm của Gustaf Stern.

Hai xu hướng chuyển nghĩa tạo nên hệ quả khác nhau: Chuyển nghĩa theo

xu hướng thứ nhất tạo nên sự đa nghĩa của từ. Chẳng hạn, Trong Từ điển tiếng

Việt (TĐHP) giải thích nghĩa từ đầu:

đầu.

1. Phần trên cùng của thân thể con người hay phần trước nhất của thân thể

động vật, nơi có bộ óc và nhiều giác quan khác. 2. (dùng hạn chế trong một số

tổ hợp). Đầu của con người, coi là biểu tượng của suy nghĩ, nhận thức. 3. Phần

có tóc mọc ở trên đầu con người; tóc (nói tổng quát). 4. Phần trước nhất hoặc

phần trên cùng của một số vật. 5. Phần có điểm xuất phát của một khoảng

không gian hoặc thời gian; đối lập với cuối. 6. Phần ở tận cùng, giống nhau ở

hai phía đối lập trên chiều dài của một vật. 7. Vị trí hoặc thời điểm thứ nhất,

trên hoặc trước tất cả những vị trí, thời điểm khác. 8. Từ dùng để chỉ từng đơn

vị để tính đổ đồng về người, gia súc, đơn vị diện tích. 9. (kết hợp hạn chế). Từ

dùng để chỉ từng đơn vị máy móc, nói chung [80, tr. 299].

Từ ví dụ trên có thể thấy, từ đầu trong tiếng Việt là từ đa nghĩa gồm chín

nghĩa, các nghĩa khác nhau của từ đầu vẫn nằm trong một cấu trúc nghĩa của từ,

các nghĩa chuyển đều có quan hệ với nghĩa gốc do một hoặc một số nét nghĩa

trong cấu trúc nghĩa của từ chi phối.

Còn chuyển nghĩa theo xu hướng thứ hai là chuyển biến nghĩa, biến đổi

nghĩa dẫn đến sự thay đổi cấu trúc nghĩa của từ để tạo thành nội dung mới mang

thuộc tính nghĩa khác với thuộc tính nghĩa cơ sở. Chẳng hạn: Trong Từ điển

tiếng Việt (TĐHP) định nghĩa từ bác học có hai nghĩa với hai cấu trúc nghĩa

"bác học

khác nhau (nghĩa danh từ và nghĩa tính từ):

I. dt. Người học rộng, hiểu biết sâu về một hoặc nhiều ngành khoa học.

II. tt. Theo lối của nhà bác học; có tính chất khó hiểu, không bình dân.

Lối hành văn bác học [80, tr. 24].

35

Hệ quả của xu hướng biến đổi nghĩa ở mức cao hơn tạo thành từ loại mới

khác với từ loại xuất phát (hiện tượng chuyển loại - conversion). Bản chất của

chuyển loại không chỉ là "hệ quả của sự chuyển nghĩa nói chung, mà là sự tổ

chức lại kiểu cơ cấu nghĩa này thành một kiểu cơ cấu nghĩa khác. Trong quá

trình đó, có thể có sự thêm, bớt và thay đổi tôn ti các thành tố nghĩa” [46, tr. 83].

Từ quan niệm này có thể thấy, phương thức chuyển nghĩa mà tác giả muốn nhấn

mạnh ở đây là từ chuyển nghĩa dẫn đến chuyển loại, quá trình này diễn ra đều

đặn, có tính quy tắc rõ ràng chứ không phải là hiện tượng ngẫu nhiên. Tuy nhiên

trong phạm vi luận án chúng tôi không bàn về vấn đề này, bởi hiện tượng

chuyển loại là “một phương thức cấu tạo từ, nhờ đó mà một từ mới thuộc phạm

trù từ loại này được tạo ra từ một từ loại khác mà vẫn giữ nguyên vỏ âm thanh,

đồng thời tạo ra ý nghĩa mới có quan hệ nhất định với ý nghĩa của từ xuất phát,

và nhận những đặc trưng ngữ pháp mới (thể hiện khả năng kết hợp và chức năng

làm thành phần câu) khác với đặc trưng ngữ pháp của từ xuất phát” [69, tr. 87].

Điều đó có nghĩa, khi nghiên cứu về hiện tượng chuyển loại cần sử dụng đồng

thời ba tiêu chí: sự biến đổi cấu trúc nghĩa của từ, khả năng kết hợp của từ và

chức năng cú pháp.

Nghiên cứu về biến đổi nghĩa có nhiều cách tiếp cận khác nhau, bởi vì,

"khi một từ được sử dụng để biểu hiện một nghĩa nào đó, mà nghĩa trước đây

chưa được biểu hiện, thì khi đứng trên một quan điểm có tính phổ niệm về từ

ngữ, chúng ta thấy có một sự biến đổi nghĩa. Thông thường thì sự biến đổi về

nghĩa cũng là sự biến đổi về chỉ vật; đứng từ sự xem xét về một chỉ vật mới, như

thế, chúng ta có một sự thay đổi về tên gọi. Như vậy, cách nhìn nhận thứ nhất là

cách nhìn nhận của ngữ nghĩa học từ vựng (lexical semantics), cách nhìn nhận

thứ hai là cách nhìn nhận của định danh học (onomasiology) [40, tr. 41]. Từ đó

có thể thấy, khi nghiên cứu sự biến đổi nghĩa sẽ được tiếp cận từ ngữ nghĩa học

từ vựng và định danh học. Hai cách tiếp cận này giúp chúng ta có thể hiểu đối

tượng một cách toàn diện hơn ở cả nội dung và hình thức. Đối với định danh

36

học, nghiên cứu sẽ bắt đầu từ nội dung, có một khái niệm nào đó và người ta đi

tìm vỏ hình thức từ vựng hợp để thể hiện khái niệm đó. Ngược lại, đối với ngữ

nghĩa học từ vựng, từ một vỏ ngữ âm, một biểu thức, người ta đi tìm cái nội

dung bên trong, cái gì được biểu đạt, được thể hiện. Chính vì vậy, mỗi lĩnh vực

sẽ tiếp cận theo các góc độ khác nhau "ngữ nghĩa học từ vựng thường giải

quyết các biến dạng ngữ nghĩa; định danh học thường giải quyết các biến dạng

ngữ âm" [27, tr.51]. Trong luận án, chúng tôi nghiên cứu sự biến đổi nghĩa theo

hướng của ngữ nghĩa học từ vựng.

Quá trình chuyển nghĩa thường được diễn ra theo cùng một hướng, “các

từ có nghĩa biểu vật cùng thuộc một phạm vi hoặc có ý nghĩa biểu niệm cùng

một cấu trúc thì chuyển biến ý nghĩa theo cùng một hướng giống nhau” [31, tr.

148]. Tuy nhiên, sự chuyển hướng của phạm vi nghĩa đó không phải cố định.

Sự phát triển nghĩa của các đơn vị từ vựng là quá trình con người nhận

thức ngày một sâu sắc hiện thực khách quan bằng cách tạo ra cho từ ngữ những

mối liên hệ, quan hệ mới nhờ những nhận thức mới của mình về thế giới khách

quan hoặc tạo ra những khả năng kết hợp mới cho những đơn vị ngôn ngữ đã

có. Cơ sở của sự phát triển và biến đổi ý nghĩa của từ là sự phát triển của nhận

thức cũng như sự hình thành sự vật, hiện tượng mới.

1.3.2.2. Các hình thức chuyển nghĩa

Mối liên hệ giữa nghĩa gốc với các nghĩa phái sinh "có thể diễn ra sự

biến đổi theo kiểu móc xích: nghĩa đầu tiên (S0) chuyển sang nghĩa S1, từ S1

chuyển sang S2" hoặc theo kiểu "toả ra từ nghĩa gốc": từ nghĩa đầu tiên (S0)

chyển sang nghĩa phái sinh 1 (S1), nghĩa phái sinh 2 (S2)" [13, tr. 137]. Đây

cũng là hình thức chuyển nghĩa thường gặp trong tiếng Việt: chuyển nghĩa

theo dạng móc xích và dạng tỏa ra.

37

Sự chuyển nghĩa thường diễn ra theo các quy tắc chung với hai hình

thức chuyển nghĩa theo dạng móc xích và dạng tỏa ra. Có thể hình dung qua

sơ đồ sau:

S0 S1 S2 Sn S0 S1

S2

Sn

[71, tr. 209]

Trong đó, phần lớn các trường hợp của chuyển biến theo phương thức

“tỏa ra” nghĩa là các nghĩa mới đều dựa vào nghĩa đầu tiên mà xuất hiện.

1.3.2.3. Phương thức chuyển nghĩa

Khi xác định các tiêu chí phân loại phương thức chuyển nghĩa, theo các

nhà ngữ học căn cứ vào quy luật phát triển nghĩa của từ trong quá trình hành

chức (sử dụng). Trong Việt ngữ học, nghiên cứu ngữ nghĩa học theo hướng lịch

đại, các nhà ngữ nghĩa học thường đề cập đến các phương thức chuyển nghĩa.

Các phương thức chuyển nghĩa thường gặp là: ẩn dụ (metaphor), hoán dụ

(metonymy), loại suy/tương suy (analogy), mở rộng (extension/expending), thu

hẹp (restriction/narrowing), khái quát hóa (generalization), chuyên biệt hóa

(specialization), cá biệt hóa (particulization), xấu nghĩa (pejoration), tốt nghĩa

(amelioration/melioration), thay thế (substitution),...

Trong phạm vi luận án này chúng tôi đề cập đến các phương thức

chuyển nghĩa là hoán dụ (metonymy), ẩn dụ (metaphor), loại suy/tương suy

(analogy), mở rộng (extension/expending), thu hẹp (restriction/narrowing),

xấu nghĩa (pejoration), tốt nghĩa (amelioration/ melioration).

Ẩn dụ (metaphor) là "sự chuyển nghĩa dựa theo sự giống nhau về hình

thức, màu sắc, đặc tính vận động" [98, tr. 246] và vận dụng vào hệ thống con

nghĩa được biểu hiện "có sự liên hệ các nét nghĩa chung trong kết cấu nội

dung nghĩa của từ mà các nghĩa của từ chưa phân ly thành đồng âm" [98, tr.

38

246]. Đây là một trong những phương thức chuyển nghĩa điển hình và được

sử dụng nhiều trong ngôn ngữ.

Hoán dụ (metonymy): Nếu ẩn dụ là sự chuyển nghĩa dựa theo sự tương

đồng thì hoán dụ là sự chuyển nghĩa dựa theo sự tương cận của các hình thức,

đặc tính, v.v. Trong thuộc tính chuyển nghĩa, ẩn dụ ngữ nghĩa có tính linh

hoạt hơn bởi có lợi thế hơn trong phát triển, sử dụng tư duy trừu tượng, hình

ảnh, biểu tượng, v.v. còn hoán dụ ngữ nghĩa có tính khách quan hơn ẩn dụ.

Ẩn dụ và hoán dụ là hai phương thức chuyển nghĩa cơ bản được sử dụng

trong quá trình phát triển nghĩa và biến đổi ý nghĩa của các đơn vị từ vựng.

Mở rộng (extension/expending): Mở rộng ý nghĩa của từ là "quá trình

phát triển nghĩa đi từ nghĩa cụ thể đến nghĩa trừu tượng" [71, tr.155]. Ngoài

cách gọi mở rộng nghĩa, trong Việt ngữ học, khái niệm này còn được gọi là

khái quát hóa.

Thu hẹp (restriction/narrowing): Theo Gustaf stern, “nếu như vì một lý

do nào đó, một biểu thức ghép đã bị “rơi” mất một từ nào đó (khỏi kiến trúc

từ của mình) mà ngữ nghĩa của nó vẫn được bảo tồn, thì từ hay những từ còn

lại ấy phải mang trong mình toàn bộ các nghĩa mà trước đây đã thuộc về toàn

bộ biểu thức ghép. Nếu như sự “rơi” mất nghĩa kia đã trở thành quen thuộc,

thì kết quả có thể là từ hay những từ ngữ còn lại đã mang một sự biển đổi

nghĩa” [40, tr. 49]. Thu hẹp nghĩa của từ là "quá trình phát triển ý nghĩa của từ

từ cái nghĩa chung, nghĩa khái quát, nghĩa trừu tượng đến nghĩa cụ thể hơn, hẹp

hơn" [71, tr.190]. Ngoài cách gọi thu hẹp nghĩa, trong Việt ngữ học, khái

niệm này còn được gọi là chuyên biệt hóa.

Loại suy/tương suy (analogy): Loại suy có thể hiểu một cách đơn giản,

chính là “hiện tượng một hay một nhóm những yếu tố ngôn ngữ biến đổi và

phát triển theo đặc tính hình thái hay nội dung của một nhóm yếu tố khác, do

áp lực của vận động hệ thống muốn hướng tới sự ổn định, thống nhất và có

sức sản sinh cao” [61, tr. 19]. So với các loại biến đổi nghĩa khác thì trường

39

hợp biến đổi nghĩa theo kiểu loại suy có sự khác biệt. Nếu như các loại biến

đổi khác, nghĩa mới có của từ không liên quan gì đến các từ khác thì trường

hợp loại suy, nghĩa mới của từ có liên quan đến một từ khác, hoặc được sao

chép từ một từ khác. Biến đổi nghĩa theo loại suy có các trường hợp: 1/Loại

suy xảy ra giữa hai yếu tố ngôn ngữ đứng cạnh nhau có quan hệ với nhau về

mặt, hoặc là cú pháp, hoặc là ngữ âm, hoặc là ngữ nghĩa, trong đó một yếu tố

nào đó, vì những lý do nhất định, sẽ bị lược đi, và do đó yếu tố còn lại sẽ

phải đảm nhận toàn nội dung ngữ nghĩa của biểu thức lớn hơn chứa nó. 2/

Loại suy xảy ra với các yếu tố ngôn ngữ độc lập, mà giữa chúng có tồn tại

mối quan hệ tương liên về mặt ngữ nghĩa. 3/ Loại suy xảy ra với các yếu tố

độc lập, mà giữa chúng có tồn tại mối quan hệ tương đồng với nhau về mặt

ngữ âm [61, tr. 20].

Xấu nghĩa: Khác với ẩn dụ, hoán dụ, loại suy, mở rộng, thu hẹp thường

xảy ra đối với các nghĩa biểu vật (denotational meaning) thì xấu nghĩa thường

xảy ra đối với các nghĩa phi biểu vật (non-datonatioal meaning). Biến đổi

nghĩa theo lối xấu nghĩa thường được xét theo tiêu chí nghĩa mới được phát

triển từ nghĩa cũ theo chiều hướng tiêu cực về thang đánh giá.

Tốt nghĩa: Giống như xấu nghĩa, tốt nghĩa thường xảy ra đối với các

nghĩa phi biểu vật. Tuy nhiên, khác với xấu nghĩa, biến đổi nghĩa theo lối xấu

nghĩa thường được xét theo tiêu chí nghĩa mới được phát triển từ nghĩa cũ

theo chiều hướng tích cực về thang đánh giá.

Bên cạnh các con đường biến đổi nghĩa phổ biến như trên, các nhà

nghiên cứu còn đề cập đến nhiều trường hợp biến đổi nghĩa khác nữa, như

thay thế (substitution). Theo Gustaf stern, thay thế là "những biến đổi vì

những yếu tố phi ngôn ngữ, những yếu tố ngoại tại” [40, tr.48]. Tác giả cũng

giải thích nguyên nhân của những biến chuyển này, cũng như của những biến

chuyển về nghĩa của từ chính là sự phát triển của các yếu tố nằm ngoài ngôn

40

ngữ như khoa học kỹ thuật, xã hội, các yếu tố văn hoá. Ngôn ngữ góp phần

quan trọng khi ghi lại những thay đổi này.

Trong luận án chúng tôi nghiên cứu các đặc trưng chuyển nghĩa của

danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

cho nên cũng áp dụng một số phương thức chuyển nghĩa trên (ẩn dụ, hoán dụ,

mở rộng, thu hẹp,...). Chúng tôi đối chiếu ý nghĩa của các các từ điển được

biên soạn trong các giai đoạn khác nhau để thấy được quá trình phát triển

nghĩa của các đơn vị từ vựng trong tiếng Việt. Cơ sở của sự phát triển và

chuyển nghĩa của từ là sự phát triển của nhận thức cũng như sự hình thành sự

vật, hiện tượng mới.

1.3.3. Nghĩa của từ trong từ loại tiếng Việt

1.3.3.1. Quan niệm về nghĩa của từ trong từ loại tiếng Việt

Trong ngữ nghĩa học, nghĩa của từ là một trong những khái niệm hết sức

quan trọng, bởi theo B. Whorf, nói tới ngôn ngữ là nói tới nghĩa, vì thực chất

của ngôn ngữ học chính là tìm hiểu nghĩa [Dẫn theo Hoàng Phê, 79]. Nghĩa

của từ (cũng như của các đơn vị ngôn ngữ khác) là quan hệ của từ với cái gì

đó nằm ngoài bản thân nó. Hiểu nghĩa của một đơn vị nào đó là hiểu đơn vị

ấy có quan hệ với cái gì, tức là nó biểu thị cái gì [38, tr. 217]. Xét về mặt

nghĩa, tất cả từ loại đều có nội dung nghĩa. Từ loại được phân chia thành thực

từ (có nghĩa từ vựng rõ ràng) và hư từ (chỉ có nghĩa ngữ pháp, không có nghĩa

từ vựng).

Thực từ được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm, bàn luận. Theo Nguyễn

Văn Tu trong Từ vựng học tiếng Việt hiện đại thì “người ta gọi những từ có ý

nghĩa chân thực như từ 'nhà' là thực từ. Thực từ có giá trị đầy đủ và có vị trí

độc lập, rõ ràng, không cần bàn cãi” [110, tr. 31]. Theo Nguyễn Kim Thản

trong Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt thì “những từ có ý nghĩa từ vựng

chân thực và có thể làm thành phần câu gọi là thực từ” [90, tr. 147]. Nguyễn

41

Tài Cẩn cũng cho rằng “độc lập, thực, chính là những yếu tố xưa nay ta

thường quen gọi là thực từ” [11, tr. 33].

Nếu thực từ là những từ có ý nghĩa từ vựng thì hư từ lại là những từ

không có ý nghĩa này. Theo Nguyễn Văn Tu, hư từ "dùng để biểu thị ý nghĩa

ngữ pháp và không có ý nghĩa từ vị” [110, tr. 196]. Nguyễn Kim Thản “hư từ

là những từ không có ý nghĩa từ vựng chân thực, mà chỉ có tác dụng làm công

cụ ngữ pháp để chỉ các ý nghĩa ngữ pháp khác nhau của các từ” [90, tr. 35].

Đây cũng là quan điểm chung của các nhà Việt ngữ học, như Nguyễn Như Ý,

Nguyễn Tài Cẩn, Đinh Văn Đức, …

Trong tiếng Việt, hư từ bao gồm phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ. Thực từ

bao gồm danh từ, động từ, tính từ, đại từ, số từ,...

Phần dưới đây, luận án đi vào thuộc tính đặc trưng nghĩa của ba từ

loại được sử dụng làm đối tượng nghiên cứu của luận án là danh từ, đại từ

và tính từ.

1.3.3.2. Thuộc tính đặc trưng nghĩa của danh từ, đại từ và tính từ

a. Khái niệm về thuộc tính và quan hệ thuộc tính

Trong số các quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của hệ thống từ vựng (gồm: gộp

nghĩa (inclusion), sở hữu (possesse), đồng nghĩa (synonyms), trái nghĩa

(antonyms), ...) thì thuộc tính (attribute) một trong những quan hệ có vị trí và

vai trò quan trọng của các ngôn ngữ.

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê giải thích thuật ngữ thuộc tính là "đặc

tính vốn có của một sự vật, nhờ đó sự vật tồn tại và qua đó con người nhận

thức được sự vật, phân biệt được sự vật này với sự vật khác. Màu sắc là một

thuộc tính của mọi vật thể. Thuộc tính vật lí" [80, tr. 965]. Từ điển thuật ngữ

Ngôn ngữ học đối chiếu Anh - Việt, Việt - Anh của Cao Xuân Hạo - Hoàng

Dũng, attribute được hiểu theo hai nghĩa: "(1) đặc trưng, thuộc tính; (2) định

ngữ, tính ngữ" [42, tr. 34]. Từ điển Thuật ngữ Ngôn ngữ học của Diệp Quang

Ban, định nghĩa thuộc tính (attribute) trong ngữ nghĩa học được hiểu: "một

42

cách xác định đặc trưng vốn có của vật thể, như tính 'dương' là đặc trưng về

giống của bull 'con bò đực', trong khi tính 'âm' thuộc về cow 'con bò cái'" [8,

tr. 466]. Dựa vào lời giải thích nghĩa của từ "thuộc tính" trong các công trình

từ điển trên, luận án chấp nhận các cách hiểu đó.

Trong ngôn ngữ học, quan hệ thuộc tính (attribute relationship) có chức

năng như chiếc cầu nối giữa các đơn vị từ vựng của từ loại này với đơn vị từ

vựng của từ loại khác. Theo đó, quan hệ thuộc tính là "quan hệ tồn tại giữa

đơn vị ngôn ngữ chỉ thực thể, đơn vị ngôn ngữ chỉ quá trình với đơn vị ngôn

ngữ chỉ tính chất/thuộc tính của thực thể hay quá trình. Nói một cách đơn

giản, quan hệ thuộc tính là quan hệ giữa một danh từ, động từ và một tính từ

vốn có tác dụng biểu thị cái giá trị được quy gán cho chính danh từ, động từ

ấy..." [62]. Điều này xuất phát từ đặc trưng riêng của các từ loại, danh từ biểu

thị thực thể, động từ biểu thị quá trình, tính từ biểu thị tính chất,... Trong hệ

thống từ vựng tiếng Việt, quan hệ thuộc tính là "một quan hệ ngữ nghĩa thực

thụ trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, có cơ sở tâm lý, nhận thức và ngôn ngữ

riêng của mình. Quan hệ thuộc tính trong từ vựng tiếng Việt có thể được nhận

diện một cách dễ dàng qua các khung nhận diện là các biểu thức ngôn ngữ tự

nhiên, các biểu thức ngôn ngữ này cũng chính là những biểu thức thường xuất

hiện trong các lời giải thích về nghĩa từ" [62]. Luận án nghiên cứu sự chuyển

nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ tức là nghiên cứu sự chuyển nghĩa của danh từ mang đặc trưng nghĩa

tính từ (xét trong trường hợp nghiên cứu).

b. Khái quát một số đặc trưng (hay thuộc tính) ngữ nghĩa của danh từ, đại

từ và tính từ

b.1. Đặc trưng (hay thuộc tính) ngữ nghĩa của danh từ

Danh từ là từ loại quan trọng, với ý nghĩa phản ánh sự vật, hiện tượng

cho nên tồn tại cụ thể hơn so với các từ loại khác. Ở đây chúng tôi chỉ xét về

danh từ chung, còn danh từ riêng không xét. Về ý nghĩa danh từ là "ý nghĩa của

43

một từ loại chỉ sự vật và những khái niệm được người bản ngữ tri nhận một

cách độc lập như là những sự vật" [33, tr.49]. Qua định nghĩa này đã thấy được

bản chất của danh từ, ý nghĩa của danh từ là ý nghĩa thực thể tính (substantive).

Danh từ cũng là đơn vị từ vựng và là đơn vị ngôn ngữ nên sẽ nó có ý

nghĩa/ nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Tức là nội dung trừu tượng - khái

quát về sự vật được gọi tên hay khái niệm về sự vật được gọi tên. Thuộc về

nội hàm từ vựng tức là nói về đặc tính/thuộc tính của sự vật ấy. Nghĩa từ vựng

của danh từ chỉ có ở các từ cụ thể. Chẳng hạn, trong từ điển thuật ngữ, hay

khái niệm khoa học đều định nghĩa về nghĩa đó. Ví dụ: 1. Nước là chất lỏng,

không màu, không mùi. 2. Bàn là vật dụng trong gia đình; có thể cấu tạo bằng

ba chân, bốn chân; có mặt phẳng; được làm bằng gỗ, kim loại, nhựa, v.v.

Những mô tả ấy thuộc về nội dung nghĩa từ vựng của từ nước và từ bàn.

Danh từ là một phạm trù từ vựng - ngữ pháp cho nên có ý nghĩa từ

vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Đối với ý nghĩa từ vựng thường liên quan đến sự

vật, đến khái niệm, đến nội dung biểu đạt.

Khi nói đến từ loại danh từ, ngữ pháp truyền thống coi đây là một từ

loại mang ý nghĩa “sự vật tính” biểu hiện tên gọi về sự vật trong thế giới

khách quan như người, vật, việc, hiện tượng, khái niệm trừu tượng. Đây là

đặc trưng cơ bản của danh từ và để phân loại với các từ loại khác. Yếu tố “sự

vật tính” tức là muốn “nhấn mạnh các yếu tố từ vựng được khái quát lên

thành nội hàm ý nghĩa của danh từ” [34, tr. 60]. Do đó, khi nghiên cứu về

danh từ nên nghiên cứu đồng thời với yếu tố ngữ pháp. Nói cách khác, khi

nghiên cứu về từ loại danh từ cần kết hợp cả hai yếu tố từ vựng – ngữ pháp,

đây là vấn đề cốt lõi để phân định từ loại danh từ.

b.2. Đặc trưng (hay thuộc tính) ngữ nghĩa của đại từ

Trong hệ thống từ loại, đại từ được xem là một trong những từ loại đặc

biệt, có chức năng chuyển ngôn ngữ nói chung thành các lời nói. Với ý nghĩa

và vai trò to lớn là từ thay thế cho các từ loại khác, chủ yếu danh từ, động từ,

44

giới từ, v.v. Hơn nữa, do cấu trúc đặc biệt là những từ ngắn, có khả năng biến

đổi từ cho nên có chức năng khái quát hơn là dùng để chỉ. Mặc dù có nhiều

quan điểm khác nhau, tuy nhiên các tư tưởng đều thống nhất ở chỗ: xem đại từ

có chức năng là “thay thế”, khác với danh từ là định danh sự vật, hiện tượng.

Tác giả Đinh Văn Đức (2015) quan niệm ý nghĩa của đại từ là “một ý

nghĩa có tính chất chức năng” [34, tr. 197]. “Chức năng” mà tác giả nói ở đây

là chức năng thay thế. Khác với ý nghĩa của các từ loại khác mang ý nghĩa

phản ánh thực tại trực tiếp, ý nghĩa của đại từ lại là sự phản ánh gián tiếp “đó

là một hình thức trung gian của mối quan hệ giữa các khái niệm trong khi

phản ánh”. Cụ thể, các khái niệm được tồn tại trong tư duy được “thay thế cho

một nội dung phản ánh thực tại vốn được diễn đạt các khái niệm (do thực từ

biểu đạt) và được tổ chức bằng các quy tắc lô gich”. Điều này cho thấy, vai

trò, ý nghĩa của đại từ là biểu thị cho một khái niệm với thực tại bằng phương

thức “quy chiếu” [34, tr. 197-198]. Đây là một trong đặc trưng cơ bản của đại

từ, lâm thời biểu thị khái niệm trong hoàn cảnh giao tiếp nào đó. Cũng có

nghĩa là hoạt động ngữ pháp thay đổi dựa vào ngữ cảnh/văn cảnh sử dụng.

Khi giao tiếp, người Việt sử dụng "danh từ chỉ quan hệ thân thuộc đều

thường dùng lâm thời như đại từ, để thay thế cho đại từ ở cả ba ngôi" [10, tr.

146], cho nên khi nghiên cứu chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa

đại từ, vốn từ có yếu tố chuyển nghĩa tập trung nhiều ở nhóm từ này. Trong

lời định nghĩa của các từ điển, đại từ “thường dùng để xưng gọi”.

b.3. Đặc trưng (hay thuộc tính) ngữ nghĩa của tính từ

Trong hệ thống thực từ tiếng Việt, tính từ được coi là một trong những

từ loại quan trọng và cơ bản. Tính từ là từ loại chỉ về phẩm chất, tính chất,

đặc trưng. VD: tốt, xấu, đẹp, đỏ, trắng, v.v. Nghĩa của tính từ không chỉ là gọi

tên mà tên ấy để chỉ về phẩm chất, thuộc về đặc điểm. Theo tác giả Đinh Văn

Đức (2001), tính từ là "từ loại chỉ ra đặc trưng của tất cả những gì (khái niệm)

được biểu đạt bằng danh từ và động từ" [33, tr. 182]. Như vậy, nghĩa tính từ

45

thuộc về tính chất đặc điểm và thường là tính chất thuộc tính của sự vật. Ví

dụ: nhà đẹp; xe tốt, v.v.

Trong thế giới khách quan, các sự vật (thực thể) tồn tại dưới hai dạng

khác nhau là trong sự vận động và trong sự đa dạng. Thuộc tính tồn tại trong

sự vận động là cơ sở hình thành ý nghĩa từ loại của động từ; còn thuộc tính

tồn tại trong sự đa dạng không giống nhau giữa các sự vật. Sự vật được hình

thành trong thế giới muôn hình vạn trạng, cho nên nét khu biệt về trọng

lượng, màu sắc, kích thước và các khía cạnh của chất lượng đã hình thành nên

các đặc trưng khu biệt cho chủ thể. Đó là các đặc trưng của chủ thể và cũng là

cơ sở ngữ nghĩa của từ loại tính từ. V. Vinogradov đề xuất, đặc trưng phản

ánh thực tại như một phương diện trong việc xác định ý nghĩa các từ loại

[Dẫn theo Đinh Văn Đức, 33, tr.101] cho nên, với thuộc tính từ vựng, ý nghĩa

của tính từ có liên quan đến trực tiếp đến nội dung phản ánh thực tại. Tuy

nhiên, tính từ còn bao gồm đặc trưng được hình thành theo nhận thức chủ

quan của con người trong quan hệ với đối tượng - những quan hệ về trạng thái

tình cảm và những liên hệ trừu tượng hơn. Đây cũng là một trong những đặc

trưng khu biệt tính từ với từ loại danh từ và động từ.

Tính từ có vai trò quan trọng trong việc cấu tạo từ cũng như có tác

dụng miêu tả các đơn vị ngôn ngữ và làm phong phú khả năng diễn đạt. Về

mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp, tính từ trở thành lớp từ gián tiếp, phụ thuộc vào

chức năng của danh từ. Cho nên, tính từ không có phạm vi đối tượng riêng,

độc lập cho nên phải tiếp nhận ngoại diên của danh từ mà chúng hạn định và

bổ sung thêm nội hàm cho danh từ mà nó đi kèm.

Theo quan niệm của ngữ pháp truyền thống, danh từ biểu thị người, sự

vật, hiện tượng; còn tính từ biểu thị tính chất, đặc trưng. Cũng có quan niệm

coi danh từ biểu thị tên gọi của sự vật, hiện tượng; còn tính từ miêu tả trạng

thái tính chất của sự vật, hiện tượng. Từ quan điểm trên có thể thấy rằng, giữa

danh từ và tính từ có mối quan hệ và cũng có khác biệt nhất định.

46

1.4. Tiểu kết

Qua nghiên cứu tổng quan và cơ sở lý luận về hiện tượng chuyển nghĩa

của từ, luận án cho thấy:

1. Vấn đề hiện tượng chuyển nghĩa của từ đã được nghiên cứu nhiều

trên thế giới và Việt Nam. Các hướng nghiên cứu tập trung vào quan điểm

chuyển nghĩa, phương thức chuyển nghĩa, nguyên nhân chuyển nghĩa, mối

quan hệ giữa nghĩa cũ và nghĩa mới. Việc nghiên cứu hiện tượng chuyển

nghĩa cũng được nghiên cứu ở các góc nhìn khác nhau như logic, tâm lý,

lịch sử, triết học, v.v. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào được tiến

hành một cách bài bản, hệ thống, đầy đủ, về đặc trưng chuyển nghĩa của danh

từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ.

2. Hiện tượng chuyển nghĩa (biến đổi nghĩa) chính là hiện tượng biến

động về nghĩa từ vựng trong từ loại, một từ vừa có thuộc tính nghĩa của

chính từ loại đó đảm nhận, vừa mang thuộc tính nghĩa của từ loại khác. Bản

chất của hiện tượng chuyển biến nghĩa là sự biến động về nghĩa từ vựng, thể

hiện trong cấu trúc nghĩa của từ, nghĩa của từ có thể thêm, bớt, biến chuyển,

hoặc cùng là một nghĩa nhưng phải thay đổi về bản chất thì nó mới có thể

chuyển thành nghĩa của một từ loại khác.

3. Danh từ, đại từ, tính từ là ba từ loại thực từ quan trọng. Theo quan

niệm truyền thống, thực từ là những từ mà nội dung nghĩa của nó có quan hệ

phản ánh biểu hiện sự vật, tính chất, quan hệ thuộc tính thực tại. Danh từ

dùng để biểu đạt sự vật cụ thể và trừu tượng. Tính từ dùng để phản ánh và

biểu đạt tính chất. Đại từ dùng để phản ánh và biểu đạt xưng hô và thay thế

cho các thực từ khác. Nghiên cứu ngữ nghĩa học quan tâm đến ba từ loại này

nói chung và sự chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và

danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ là hợp và cần thiết.

Những khái niệm cơ bản được nêu trong chương này là tiền đề thuyết

cơ bản giúp chúng tôi triển khai luận án ở chương 2 và chương 3 tiếp theo.

47

Chương 2

ĐẶC TRƯNG CHUYỂN BIẾN NGHĨA CỦA DANH TỪ

MANG THUỘC TÍNH NGHĨA ĐẠI TỪ

(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP)

Trong chương 2 chúng tôi tập trung nghiên cứu sự chuyển biến nghĩa

trong phạm vi từ vựng của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ qua nghiên

cứu các trường hợp: bác, cô, ông, bà, cha, mẹ. Từ đó rút ra một số đặc trưng

nghĩa của hiện tượng chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa

đại từ trong tiếng Việt.

2.1. Giới thiệu về nhóm danh từ lựa chọn để nghiên cứu

Khi nghiên cứu chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa

đại từ, chúng tôi chỉ dừng lại nghiên cứu đại từ nhân xưng (hay còn gọi đại từ

chỉ ngôi). Đây là các đại từ chỉ người, có chức năng xưng gọi các đối tượng

tham gia giao tiếp trực tiếp hoặc gián tiếp, thuộc vào ngôi thứ nhất, ngôi thứ

hai và ngôi thứ ba. Lựa chọn nhóm danh từ thân tộc và đại từ xưng hô để

nghiên cứu sự chuyển biến nghĩa bởi vì: Thứ nhất, giữa hai nhóm từ này có

nhiều điểm tương đồng về thuộc tính ý nghĩa từ vựng để có thể đảm nhận

nhiệm vụ xưng hô (trong gia đình và xã hội); Thứ hai, trong cấu trúc nghĩa

của hai loại này có nhiều nét nghĩa tương đồng để tạo điều kiện cho quá trình

chuyển biến nghĩa. Do các đại từ nhân xưng được thay thế chủ yếu cho các

danh từ thân tộc, cho nên luận án nghiên cứu lớp danh từ thân tộc có tham gia

vào quá trình chuyển biến nghĩa thành từ xưng hô lâm thời (nghĩa chức năng).

Trong tiếng Việt, có một bộ phận danh từ thân tộc như: cụ, ông, bà,

cha, mẹ, cô, dì, chú, bác, thím, cậu, mợ, anh, chị, em, con, cháu,... được sử

dụng trong phạm vi giao tiếp gia đình với vai trò là đại từ xưng hô, nhưng

chúng cũng được sử dụng phổ biến trong giao tiếp xã hội. Trong đó, nổi bật là

nhóm từ: bác, cô, ông, bà, cha, mẹ.

48

Có nhiều quan niệm về danh từ thân tộc, trong luận án này chúng tôi theo

quan điểm của Nguyễn Văn Chiến (1992) quan niệm danh từ thân tộc là “những

từ biểu thị những khái niệm và quan hệ thân tộc gia đình” [17, tr. 28-42].

Nhóm danh từ luận án lựa chọn để nghiên cứu là nhóm danh từ chỉ

quan hệ thân tộc. Luận án tập trung nghiên cứu sự chuyển biến nghĩa của

danh từ thân tộc mang thuộc tính nghĩa đại từ xưng hô. Các danh từ cơ bản và

điển hình được chúng tôi tập trung nghiên cứu là: bác, cô, ông, bà, cha, mẹ.

Sở dĩ chúng tôi chọn sáu trường hợp để nghiên cứu trong chương 2 bởi

vì: (i) Nhóm từ (bác, cô, ông, bà, cha, mẹ) là các danh từ mang thuộc tính

nghĩa đại từ, vừa xuất hiện trong phạm vi giao tiếp gia đình (với tư cách là

danh từ thân tộc), vừa xuất hiện trong phạm vi giao tiếp xã hội (với tư cách là

từ dùng để xưng hô). Vấn đề đặt ra ở đây là quá trình chuyển biến nghĩa của

nhóm từ này diễn ra như thế nào khi nhóm từ này vốn là các từ được sử dụng

chủ yếu trong phạm vi giao tiếp gia đình. (ii) Nhóm từ này đã thể hiện rõ nét

nghĩa bậc và giới tính: Nếu lấy Ego (BẢN THÂN/TÔI) (G0) làm cơ sở, bác/cô

là thế hệ bậc trên cùng hàng với cha mẹ (G1), ông/bà/cha/mẹ lại là bậc trên nữa

(G2); về giới tính (nam/nữ). Điều đó cho thấy, đây là các từ tiêu biểu cho nhóm

từ thân tộc và cũng là những danh từ nguyên khởi.

2.2. Thực tiễn và khả năng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính

nghĩa đại từ

Thực tế, trong Từ điển tiếng Việt theo trục lịch sử cũng đã tách các

nghĩa khác nhau giữa danh từ và đại từ. Ví dụ: Mục từ bác trong hai từ điển

TĐVT và TĐHP đã tách các nghĩa khác nhau: Nghĩa thuộc về định danh

(danh từ) và nghĩa thuộc về xưng gọi (đại từ).

Từ điển tiếng Việt (Văn Tân) Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê)

bác. A. dt. 1. Anh của cha hoặc chị dâu bác.

A. dt. đt. 1. Anh hoặc chị của cha của cha (có thể dùng để xưng gọi).

49

hoặc của mẹ mình. 2. (phg.). Cô, cậu hoặc dì ở hàng anh hay

2. Từ dùng để gọi bác mình, để tự chị của cha mẹ.

xưng với con của em mình. 3. Từ dùng trong đối thoại để gọi người

3. Từ dùng để gọi người ngang coi như bậc bác của mình với ý kính

hàng với cha mình hoặc để tự trọng, hoặc để tự xưng một cách thân

xưng với người đáng tuổi cháu. mật với người coi như hàng cháu của

4. Từ dùng để gọi người ngang mình.

hàng với mình trong giao thiệp 4. Từ dùng để chỉ người lớn tuổi với ý

giữa những người đứng tuổi trở tôn trọng, hoặc chỉ người nhiều tuổi hơn

lên. cha mẹ mình.

5. Từ dùng để gọi những người 5. Từ dùng để gọi nhau giữa người nhiều

đứng tuổi hoặc có tuổi. tuổi với ý kính trọng một cách thân mật.

Trong văn cảnh sử dụng cũng tách thành các nghĩa khác nhau, xem xét

qua ví dụ sau:

1 2

Con chú con bác1. Cháu gọi cô Hoa là bác2.

Từ ví dụ trên có thể thấy: từ bác1 trong cột 1 chỉ người trong quan hệ gia

đình nên thuộc về nghĩa định danh, khái niệm (danh từ). Còn từ bác2 trong cột

2 để xưng gọi về bác trong quan hệ xã hội thuộc về nghĩa thay thế (đại từ).

Qua các công trình nghiên cứu, trong thực tế từ điển và ngữ cảnh sử

dụng như đã phân tích trên, đã thấy "le lói" và mầm mống về sự chuyển biến

nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ.

50

2.3. Phân tích và diễn giải nhóm danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ

Các nhóm từ được xét ở ba nội dung chính:

(i) Sự biểu hiện ngữ nghĩa của các trường hợp nghiên cứu trong các Từ

điển tiếng Việt: Miêu tả, so sánh lời giải thích nghĩa của bảy công trình TĐTV

theo hướng lịch đại để thấy được tiến trình phát triển, chuyển biến nghĩa của

danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ trong tiếng Việt.

(ii) Cấu trúc ngữ nghĩa của trường hợp nghiên cứu. Cách xác định cấu trúc

ngữ nghĩa của các trường hợp nghiên cứu ở chương hai (bác, cô, ông, bà, cha,

mẹ) dựa vào: Một là, cách miêu tả nghĩa của Từ điển tiếng Việt để xác định

nghĩa cơ sở của từ thân tộc là nghĩa chỉ quan hệ thân thuộc; Hai là, phân tích cấu

trúc nghĩa của nghĩa cơ sở dựa trên đặc trưng của phạm trù thân tộc. Đó là các

đặc trưng về chỉ người, quan hệ gia đình, quan hệ huyết thống, giới tính, bậc,

đằng nội/đằng ngoại. Các đặc trưng này tạo thành hệ thống và để phân biệt giữa

các danh từ thân tộc với nhau dựa vào sự đối lập của các yếu tố đó. Các đặc

trưng của phạm trù thân tộc đó cũng là các nét nghĩa cơ bản của các danh từ thân

tộc nghiên cứu; Ba là, phân tích cấu trúc nghĩa của nghĩa chuyển (là nghĩa được

mở rộng trong phạm vi sử dụng của từ) cũng dựa vào các nét nghĩa cơ bản trên.

Tuy nhiên, nghĩa chuyển có các nét nghĩa đặc trưng để phân biệt với nghĩa cơ sở

là dùng để xưng gọi; biểu thị sự tôn kính, thân mật.

Để phân biệt các cấu trúc nghĩa khác nhau của các trường hợp phân tích,

chúng tôi kí hiệu các cấu trúc là các chữ cái in hoa (A, A', B, B'...). Dấu () thể

hiện nét nghĩa của từ; dấu [] thể hiện cấu trúc nghĩa của từ.

(iii) Biểu hiện và cách dùng của các trường hợp nghiên cứu trong các vai

giao tiếp. Dựa vào Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển

học và Bách khoa thư Việt Nam để thấy được: trong các tình huống giao tiếp

khác nhau biểu hiện nội dung ngữ nghĩa khác nhau.

51

2.3.1. Trường hợp từ “bác”

Luận án chọn từ bác để nghiên cứu vì hai lý do sau: (i) bác thuộc thế hệ

trung tâm trên Ego; (ii) tính địa phương của trường hợp bác về giới là nam

hoặc nữ tùy thuộc vào cách gọi của từng vùng miền khác nhau. Miền Bắc

nghĩa của từ bác chỉ là người anh hoặc chị của cha, không phân biệt nam nữ.

Còn miền Nam và miền Trung chỉ được dùng để gọi người anh của cha. Đối

với nữ thuộc hàng trên không gọi là bác (thường gọi là cô), bởi theo tư tưởng dân

gian cũ “nữ nhân ngoại tộc”.

Khi nói đến quan hệ huyết thống có yếu tố đi kèm với bác theo cấu

trúc: BÁC + thể hiện rõ nghĩa mối quan hệ này như bác ruột, bác họ, bác

mình, v.v. Về giới, đối với nữ giới gọi là bà bác, bác dâu (chị dâu của cha),

riêng đối với trường hợp bác gái có thể là quan hệ gia đình hoặc không phải

quan hệ gia đình. Trong trường hợp từ bác đã có sự kết hợp của nét nghĩa thế

hệ và nét nghĩa địa phương. Hai nét nghĩa này rất quan trọng và được dùng để

phân biệt sự đối lập trong quan hệ nội/ngoại.

2.3.1.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bác" trong các Từ điển tiếng Việt

Dựa vào lời định nghĩa của các công trình từ điển theo chiều lịch sử, có

thể thấy được sự biến đổi và phát triển nghĩa của trường hợp từ bác. Bởi vì

"một cuốn từ điển là một danh mục được sắp xếp có hệ thống của các hình

thức ngôn ngữ đã được xã hội hóa (socialized) thu nhận những thói quen nói

năng của một cộng đồng ngôn ngữ nhất định và được biên soạn chú giải sao cho

người đọc với một trình độ nhất định hiểu được ý nghĩa của từng hình thức ngôn

ngữ riêng rẽ và biết được những điều cần yếu về chức năng của nó trong cộng

đồng ngôn ngữ ấy" [153, tr. 245]. Cho nên, cùng một nghĩa nhưng các từ điển

khác nhau có cách miêu tả khác nhau. Để thấy được sự phát triển nghĩa cần dựa

vào nội hàm nghĩa của từ được rút ra trong hình thức miêu tả nghĩa đó.

Trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của (1895-1896) từ bác

được ghi nhận chỉ một nghĩa: "Bác. c. Anh cha, vai lớn hơn cha" [21, tr. 20]. Dựa

52

vào lời định nghĩa có thể thấy cấu trúc nghĩa của từ bác đó là: (chỉ người)1,

(quan hệ huyết thống)2, (bậc trên)3. Từ đó có thể thấy, công trình này chỉ có

nét nghĩa quan hệ thân tộc, không có nét nghĩa xã hội, hay nói cách khác: các

nét nghĩa chưa được xã hội hóa. Công trình này cũng chỉ dừng lại nghĩa của

danh từ, chưa thấy nghĩa đại từ.

Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến đức (1931), từ bác được ghi

nhận có sáu nghĩa:

bác.

I. Cũng như tiếng "bá" nghĩa thứ nhất: Bác ruột (anh ruột cha mình). Bác họ

(anh họ cha mình). Bác trai (bác mình). Bác gái (vợ bác mình). II. Tiếng

dùng để gọi cha. III. Tiếng gọi người ngang vai hay là bạn thân với cha mình.

IV. Tiếng tự-xưng đối với con anh em bạn thân mình mà người bạn vẫn coi

mình là đàn anh. V. Tiếng anh em bạn gọi nhau. VI. Tiếng gọi người dưng,

không khinh mà có ý không trọng [52, tr. 21].

Về mặt kỹ thuật, công trình này đã xử lý đa nghĩa và phân tách các nghĩa

khác nhau: nghĩa biểu niệm trong quan hệ gia đình (nghĩa I); xưng gọi ngoài xã

hội (nghĩa II) và nghĩa xưng gọi trong liên hệ xã hội (nghĩa III, IV, V, VI). Từ

định nghĩa này đã thấy được sự khác nhau về định danh đối tượng trong quan hệ

gia đình và xưng gọi ngoài xã hội.

Đến Tự điển Việt Nam phổ thông (1951), từ bác được ghi nhận có bốn nghĩa:

bác.

1. Anh của cha. 2. ngr. Anh, chị của cha hay của mẹ. 3. Cha: bác mẹ sinh

thành. 4. Tiếng gọi những người coi như bác: gọi bạn cha bằng bác, là coi

ông bạn đó như anh cha mình; hai bạn gọi nhau bằng bác, là gọi hộ con [89,

tr. 26].

Trong đó, các nghĩa biểu niệm (nghĩa thứ nhất, nghĩa thứ hai, nghĩa thứ

ba) chỉ người trong quan hệ gia đình. Nghĩa thứ tư dùng để xưng gọi ngoài xã

hội (Tiếng gọi những người coi như bác).

53

Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị (1952), từ bác được ghi nhận có

ba nghĩa:

bác. dt.

I. Anh cha mình, vợ anh cha mình.

II. Kẻ lớn tuổi hay bạn với cha mình.

III. Tiếng xưng với anh em bạn [73, tr.55].

So với các công trình trước đó, công trình này đã chú từ loại danh từ

(dt). Nghĩa biểu niệm chỉ người trong quan hệ gia đình (Anh cha mình, vợ anh

cha mình) và quan hệ xã hội (Kẻ lớn tuổi hay bạn với cha mình). Nghĩa thứ ba

được dùng để xưng gọi với anh em bạn bè cùng trang lứa.

Từ điển tiếng Việt của Văn Tân (1967), từ bác được ghi nhận có năm nghĩa:

bác. dt. đt.

1. Anh hoặc chị của cha hoặc của mẹ mình. 2. Từ dùng để gọi bác mình, để

tự xưng với con của em mình. 3. Từ dùng để gọi người ngang hàng với cha

mình hoặc để tự xưng với người đáng tuổi cháu. 4. Từ dùng để gọi người

ngang hàng với mình trong giao thiệp giữa những người đứng tuổi trở lên. 5.

Từ dùng để gọi những người đứng tuổi hoặc có tuổi [88, tr. 36].

Trong đó, nghĩa thứ nhất là nghĩa biểu niệm chỉ người trong quan hệ gia

đình. Các nghĩa còn lại được dùng để xưng gọi trong gia đình (nghĩa thứ hai,

nghĩa thứ ba) và xưng gọi ngoài xã hội (nghĩa thứ tư, nghĩa thứ năm). So với

công trình Việt Nam tân tự điển, công trình này có chú thêm từ loại đại từ (đt).

Đến Việt Nam tự điển (1970), từ bác được ghi nhận có hai nghĩa và

trong công trình này đã có chú từ loại là danh từ, tuy nhiên thực chất nghĩa

thứ hai là nghĩa thuộc đại từ (tiếng gọi).

Bác.

1. dt. Bá, tiếng gọi, vai người anh ruột hoặc anh bà con của cha mình hay cha

vợ mình. 2. dt. Tiếng gọi người bạn thân với cha mẹ mình, người bạn thân

kém tuổi hơn mình, giữa hai bạn thân, người có nghề nhứt-định hoặc chức-vị

như bác tài, bác xã, bác phó... [30, tr. 48].

54

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, từ bác được ghi nhận có năm nghĩa:

bác.

A. dt. 1. Anh của cha hoặc chị dâu của cha (có thể dùng để xưng gọi). 2.

(phg.). Cô, cậu hoặc dì ở hàng anh hay chị của cha mẹ. 3. Từ dùng trong đối

thoại để gọi người coi như bậc bác của mình với ý kính trọng, hoặc để tự

xưng một cách thân mật với người coi như hàng cháu của mình. 4. Từ dùng

để chỉ người lớn tuổi với ý tôn trọng, hoặc chỉ người nhiều tuổi hơn cha mẹ

mình. 5. Từ dùng để gọi nhau giữa người nhiều tuổi với ý kính trọng một

cách thân mật [80, tr. 21].

Trong đó, nghĩa biểu niệm chỉ người trong quan hệ gia đình (nghĩa thứ

nhất và nghĩa thứ hai). Nghĩa dùng để xưng gọi trong gia đình (nghĩa thứ ba)

và xưng gọi ngoài xã hội (nghĩa thứ tư và nghĩa thứ năm).

Luận án lấy Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (2012) làm mốc để thấy

được sự hiện diện ngữ nghĩa của từ bác qua các Từ điển tiếng Việt trong các

mốc thời gian khác nhau. Có thể hình dung sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ bác

trong các Từ điển tiếng Việt qua bảng 2.1 sau:

TĐHP (2012)

TĐKT (1931)

TĐĐVT (1951)

TĐTN (1952)

TĐVT (1967)

TĐLVĐ (1970)

TĐHTC (1895- 1896) 1

1 2 3 4 5

1 4 3 5 6 2

1, 2 4 3

1 3 2

1 2 3 5 4

1 4

Từ điển Nghĩa Nghĩa 1 Nghĩa 2 Nghĩa 3 Nghĩa 4 Nghĩa 5 Nghĩa 6 Nghĩa 7

Bảng 2.1: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bác" trong các Từ điển tiếng Việt

Từ bảng 2.1 có thể hiểu như sau: Cách miêu tả nghĩa thứ nhất của từ

bác trong TĐHP sẽ tương ứng với cách miêu tả nghĩa ở tất cả nghĩa thứ nhất

ở các từ điển khác, riêng TĐĐVT tương ứng cách miêu tả nghĩa thứ nhất và

55

nghĩa thứ hai. Cách miêu tả nghĩa thứ hai của TĐHP chỉ tương ứng với nghĩa

thứ hai của TĐVT. Cách miêu tả nghĩa thứ ba của TĐHP tương ứng cách

miêu tả nghĩa thứ ba (TĐTN, TĐVT), nghĩa thứ tư (TĐKT, TĐĐVT). Cách

miêu tả nghĩa thứ tư của TĐHP tương ứng với nghĩa thứ tư (TĐLVĐ), nghĩa

thứ ba (TĐKT), nghĩa thứ hai (TĐTN), nghĩa thứ năm (TĐVT). Cách miêu tả

nghĩa thứ năm của TĐHP tương ứng nghĩa thứ năm (TĐKT) và nghĩa thứ tư

(TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ hai và thứ sáu của TĐKT và nghĩa thứ ba của

TĐĐVT không tương ứng với các công trình khác.

So sánh cách giải thích nghĩa của từ bác qua một số từ điển xuất bản

trong suốt chiều dài lịch sử từ những năm cuối thế kỉ XIX đến những năm

cuối thế kỉ XX chúng ta thấy được quá trình phát triển và chuyển biến nghĩa

khá rõ. Từ điển của Alexandro (Alexandre) de Rhodes (1651), Taberd Jean-

Louis (1838) đã có sự hiện diện của từ bác nhưng chưa được giải thích cụ thể.

Cho đến Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của (1895-1896) đã có sự

hiện diện của từ bác và có miêu tả nghĩa. Các nghĩa chính được ghi nhận

trong các công trình của từ bác là nghĩa chỉ người (danh từ) và dùng để xưng

gọi về đối tượng đó (đại từ). Dần dần, cùng với thời gian, nghĩa của từ này

được mở rộng, phát triển từ cách xưng gọi gia đình đã trở nên phổ biến trong

xưng hô ngoài xã hội. Đây cũng là cơ sở chứng minh: trong từng giai đoạn

lịch sử, từng thời kì lịch sử có sự phát triển về ngữ nghĩa nói chung.

2.3.1.2. Cấu trúc ngữ nghĩa của từ “bác”

Luận án lấy Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê để thấy được sự hiện

diện đầy đủ nội dung nghĩa, sự mở rộng và phát triển nghĩa của từ bác mà các

từ điển ra đời trước đó chưa có. Dựa vào cách miêu tả nghĩa của từ bác trong

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (xem định nghĩa mục 2.3.1.1) để xác định

nghĩa cơ sở là nghĩa chỉ người trong quan hệ gia đình và nghĩa chuyển dùng

để xưng gọi ngoài xã hội.

56

Có thể khái quát cấu trúc nghĩa chung nhất của trường hợp từ bác

như sau:

(A): bác = [(chỉ người)1, (thành viên trong quan hệ gia đình)2, (có quan

hệ huyết thống được pháp luật thừa nhận hoặc không có quan hệ huyết

thống)3, (chỉ giới tính)4, (bậc trên với Ego (Tôi))5, (quan hệ gia đình là cả đằng

nội và ngoại - phương ngữ Bắc, đằng nội - phương ngữ Trung và Nam)]6.

(A’): bác = [(xưng gọi về người)1, (thành viên trong gia đình hoặc xã

hội)2, (có quan hệ huyết thống hoặc không có quan hệ huyết thống)3, (chỉ giới

tính)4, (bậc (bậc trên hoặc bậc dưới hoặc ngang bằng))5, (quan hệ gia đình là

đằng nội hoặc ngoại - phương ngữ Bắc và đằng nội - phương ngữ trung và

nam)6, (biểu thị sự tôn kính, thân mật)]7.

(dấu () thể hiện nét nghĩa của từ; dấu [] thể hiện cấu trúc nghĩa của từ).

Như vậy:

- Cùng một vỏ hình thức âm thanh (bác) nhưng có hai cấu trúc nghĩa

khác nhau: cấu trúc nghĩa định danh (trường hợp A) và cấu trúc nghĩa xưng

gọi (trường hợp A') cho đối tượng được nói đến ở trường hợp A. Ở cấu trúc

nghĩa A' được mở rộng phạm vi sử dụng của từ bác.

- Có sự tương đồng trong cấu trúc nghĩa ở hai trường hợp A và A' đó là:

(thành viên trong quan hệ gia đình), (chỉ giới tính (nam/nữ), (bậc trên với Ego,

thế hệ ngang hàng với bố mẹ), (có quan hệ huyết thống được pháp luật thừa

nhận/không có quan hệ huyết thống).

- Có sự khác nhau về cấu trúc nghĩa trong hai trường hợp A và A':

+ Ở trường hợp thứ nhất (A), nét nghĩa đầu tiên là chỉ về đối tượng (chỉ

người) - đây là nét nghĩa cơ sở, nét nghĩa đen thuộc về từ loại danh từ. Ở

trường hợp thứ hai (A'), nét nghĩa đầu tiên dùng để xưng gọi cho đối tượng

được nói tới ở nghĩa cơ sở hay nói cách khác là "thay thế" cho đối tượng đích

danh cho nên thuộc về từ loại đại từ.

57

+ Ngay trong từng nét nghĩa cũng có những khác biệt, thể hiện ở nét

nghĩa bậc và nét nghĩa quan hệ. Trong huyết thống là chỉ bậc trên, còn ngoài xã

hội có nhiều bậc khác nhau (bậc trên, bậc dưới, ngang hàng). Từ nét nghĩa quan

hệ gia đình (trường hợp A) đã phát triển thành quan hệ xã hội (trường hợp A').

- Từ sự phân tích thành tố nghĩa trên có thể thấy: Trường hợp từ bác,

cùng một vỏ âm thanh nhưng có hai cấu trúc nghĩa khác nhau (danh từ và đại

từ). Trường hợp A, nét nghĩa cơ sở (nghĩa gốc, nghĩa cơ bản, nét nghĩa chủ

yếu) chỉ về người thuộc thế hệ ngang hàng bố mẹ mình (nét nghĩa thứ nhất -

chỉ người) cho nên thể hiện tính chất của từ loại danh từ. Còn trường hợp A',

nét nghĩa thứ nhất dùng để xưng gọi cho đối tượng được thể hiện trong nghĩa

cơ sở (hay nói cách khác là "thay thế" cho đối tượng đích danh), cho nên

thuộc về nghĩa của đại từ.

Xét các ngữ cảnh sau:

(1) “Bác1 Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh

Ôi người cha đôi mắt mẹ hiền sao!” [V1]

(2) Ông Giáp gọi là bác2 mới đúng.

Từ ngữ cảnh (1) và (2) trên có thể thấy: bác là đối tượng xác định, cụ

thể xác định bằng các định ngữ “Hồ” (họ) (tên riêng cụ thể), cho nên thuộc về

danh từ. Còn trường hợp bác2 là xưng gọi cho sự vật được quy chiếu “gọi là

bác” cho nên thuộc về đại từ.

- Sự phát triển mở rộng nghĩa trong hai trường hợp A và A' nói trên:

nếu ở trường hợp A có 6 nét nghĩa, thì ở trường hợp A' có 7 nét nghĩa. Trường

hợp A' có thêm nét nghĩa thứ 6 là (biểu thị sự tôn kính/thân mật) - đây là nét

nghĩa thể hiện mục đích phát ngôn và có liên quan đến nghĩa đầu tiên của đại

từ xưng hô ở trường hợp A' (xưng gọi). Và đây cũng là nét nghĩa phân biệt

giữa hai nghĩa A và A' nói trên.

Từ “bác” rộng đến mức phát triển, mở rộng nét nghĩa từ quan hệ gia

đình đến quan hệ xã hội, từ xưng hô với người có quan hệ thân tộc đến xưng

58

hô với những người không có quan hệ thân tộc. Đây là một trong những cách

xưng hô “mô phỏng theo xưng hô thân tộc”. Sự phát triển của giao tiếp xã hội,

thể hiện tính chất “gia đình hóa xã hội” để đạt được mục đích giao tiếp tạo sự

gần gũi thân mật giữa các đối tượng tham gia giao tiếp với nhau.

Về giới, do sự ảnh hưởng của tư tưởng cũ “trọng nam khinh nữ” cho nên có

chuyển biến nghĩa từ vai gia đình đến vai xã hội do vậy nam phát triển hơn, còn

nữ ít hơn (trừ một số trường hợp như từ “bác gái” được dùng giao tiếp ngoài xã

hội). Chẳng hạn:

(3) “- Cháu gửi bác gái ngâm rượu uống. Hôm nọ bác chẳng bảo bác

gái vừa ốm dậy là gì?” [V2: tr. 180-190].

Điều này có thể thấy: trong giao tiếp, nguyên tắc là xưng khiêm hô tôn

được sử dụng nhiều để đạt được sự hợp tác cao và biểu thị sự lịch sự trong

giao tiếp.

Việt Nam gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Bác” ("Bác" được viết hoa),

không dựa trên quan hệ gia đình, thể hiện sự quý mến, cách gọi trân trọng và

tôn kính đối với người lãnh tụ vô vàn kính yêu của dân tộc. Chúng ta gặp rất

nhiều những từ, cụm từ biểu thị tình cảm của nhân dân Việt Nam đối với lãnh

tụ như “Vị cha già kính yêu của dân tộc”. Ví dụ:

(4) "Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà

Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha" [V3].

Ngoài ra, cách gọi này cũng được dùng để gọi cho những bậc lãnh đạo

được nhân dân kính trọng, như: bác Tôn - Tôn Đức Thắng [V4], bác Giáp - Võ

Nguyên Giáp [V4].

Từ những phân tích ở trên có thể thấy, từ tầng nghĩa cơ bản của từ bác

định danh về đối tượng cụ thể trong quan hệ gia đình, đã phát triển và nâng

lên tầng cao mới trở thành tầng nghĩa biểu trưng trong xã hội qua biểu tượng

“BÁC” (trong tất cả các văn bản chúng tôi khai thác, khi viết về Chủ tịch Hồ

Chí Minh đều viết hoa từ bác). Nghĩa biểu tượng của từ "BÁC" dựa vào biểu

59

tượng nói chung trong hiện thực (gọi là "mẫu gốc") cho nên cách gọi "BÁC"

dùng để gọi bậc lãnh tụ kính yêu của dân tộc, qua đó thể hiện tình cảm trân

trọng, kính yêu của nhân dân đối với vị lãnh tụ vô vàn kính yêu của dân tộc

Việt Nam. Nghĩa biểu tượng của từ "như là một kiểu nghĩa từ vựng, là một

loại nội dung của từ, một tồn tại tinh thần thuộc ngôn ngữ trong kí hiệu từ"

[98, tr.216]. Đây là kiểu nghĩa biểu cảm - văn hóa thường gắn với chức năng

thẩm mĩ của từ, ngữ. Trong hệ thống ngôn ngữ, nghĩa biểu tượng là ý nghĩa

phái sinh và có quan hệ với nghĩa gốc (nghĩa cơ bản) của từ khi biểu đạt nghĩa

gốc đó. Nghĩa biểu tượng được hình thành do kết quả của sự chuyển nghĩa từ

nghĩa cơ bản của từ đa nghĩa.

Ngoài ra, từ bác còn được dùng để gọi cho những người có tuổi, có

nghề nghiệp nhất định và gọi theo nghề nghiệp hoặc chức vụ nghề đó: bác tài,

bác phó, bác làm vườn, v.v.

Đặc trưng ngữ nghĩa của từ bác ở cả hai trường hợp, khi là danh từ

mang nghĩa đặc trưng biểu thị sự vật được định danh cho nên nét nghĩa cơ

bản (chỉ người) và thể hiện nét nghĩa (thứ bậc - bề trên). Cấu trúc nghĩa của

các danh từ không chỉ là có nghĩa chỉ sự vật mà còn kiêm thêm thuộc tính

khác là thay thế cho đối tượng được định danh thể hiện qua ý nghĩa của từ. Sự

phát triển nghĩa từ phạm vi gia đình và được mở rộng phạm vi rộng lớn hơn là

xã hội; và nét nghĩa thứ bậc được mở rộng hơn so với nghĩa của danh từ (bậc

trên, bậc dưới, ngang hàng). Nét nghĩa biểu thị (tôn kính, kính trọng) đối với

các đối tượng giao tiếp là một trong những đặc trưng của đại từ xưng hô

“bác”, đây là sự mở rộng nghĩa so với nghĩa của danh từ.

Quá trình chuyển biến nghĩa của trường hợp từ bác: Nghĩa cơ sở định danh,

khái niệm (chỉ người đàn ông/đàn bà thuộc bậc trên Ego, trong quan hệ gia đình);

nghĩa phái sinh định danh (sự thân mật, gắn bó, tôn trọng - được thể hiện ở nét

nghĩa thành viên trong gia đình và nét nghĩa bậc trên)); nghĩa chuyển (nghĩa

bóng) dùng để xưng gọi đàn ông/đàn bà trong xã hội và cao hơn phát triển thành

60

nghĩa biểu tượng (Bác Hồ). Cơ chế chuyển biến nghĩa của trường hợp này là sự

mở rộng, phát triển nghĩa (từ chỉ người và xưng gọi trong gia đình đến ngoài xã

hội). Nghĩa thứ hai được phái sinh từ nghĩa thứ nhất theo liên tưởng tương đồng

(ẩn dụ) về đối tượng định danh. Có sự phát triển, chuyển biến nghĩa từ nghĩa biểu

niệm đến nghĩa biểu tượng của trường hợp từ bác.

Từ những phân tích trên có thể thấy, từ bác vừa mang thuộc tính danh từ

thân tộc, vừa mang thuộc tính của đại từ xưng hô. Sự khác nhau trong cấu trúc

nghĩa của danh từ và đại từ chủ yếu là nét nghĩa bậc. Trong huyết thống là chỉ

bậc trên, còn ngoài xã hội có nhiều bậc khác nhau: bậc trên, bậc dưới, ngang

hàng. Chẳng hạn: Trong bài thơ “Khóc Dương Khuê”, Nguyễn Khuyến gọi

Dương Khuê là “bác” và xưng “tôi”. Về tuổi tác, hai người không có quan hệ

ngang bằng, người được gọi “bác” (Dương Khuê) ít tuổi hơn: (5) “Kể tuổi tôi

còn hơn tuổi bác/ Tôi lại đau trước bác mấy ngày” [V5: tr. 31-32]. Cách gọi của

Nguyễn Khuyến dành cho người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ của mình thể hiện

sự kính trọng, lòng kính yêu trọn vẹn ngay từ thuở đầu gặp gỡ cho đến nay.

Trong một câu thơ khác của bài này, tác giả đã giải tình cảm ấy: (6) “Nhớ từ

thuở đăng khoa ngày trước/ Những sớm hôm tôi bác cùng nhau" [V5: tr. 31-

32]. Tình cảm bạn bè thân thiết, giống như tình cảm gia đình ruột thịt. Điều

này giải cho cách dùng từ bác với người ít tuổi, xét về thứ bậc thuộc bậc trên

với Ego.

2.3.1.3. Biểu hiện và cách dùng từ "bác" trong các vai giao tiếp

Khảo sát trường hợp từ bác trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng

Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam. Kết quả thu được

13.995 ngữ cảnh có từ bác được sử dụng trong các vai giao tiếp ở cả ngôi thứ

nhất (ngôi) xưng và ngôi thứ hai (ngôi gọi). Trong cả hai ngôi (xưng và gọi)

có số lượng cách dùng phong phú, ở ngôi thứ hai (gọi) có nhiều cách dùng

hơn (năm cách dùng) so với ngôi thứ nhất (xưng). Có sự phát triển, mở rộng

nghĩa của từ bác trong giao tiếp, từ nghĩa cơ bản xưng gọi người thuộc bậc

61

trên trong quan hệ gia đình mở rộng để xưng gọi ngoài xã hội. Đây là ảnh

hưởng của xã hội, yếu tố “gia đình hóa” giúp cải thiện giao tiếp và rút ngắn

khoảng cách giao tiếp giữa các đối tượng giao tiếp từ xa lạ trở nên thân thiết,

gần gũi hơn. Về cơ bản trong cả hai ngôi xưng và gọi, nét nghĩa cơ bản của từ

bác [bậc trên Ego] thể hiện nét nghĩa “kính trọng”, cho nên đây cũng là nét

nghĩa cơ bản hiện thực hóa chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại

từ. Quá trình chuyển biến nghĩa của từ bác, từ xưng hô trong gia đình đã mở

rộng, phát triển trong xưng hô phổ biến ngoài xã hội qua phương thức ẩn dụ.

Muốn nhận biết sự khác biệt trong cấu trúc nghĩa danh từ và đại từ ở trường

hợp này có thể xét vai giao tiếp: đối với nghĩa danh từ, vai giao tiếp thuộc bậc

trên theo thứ bậc trong gia đình (bác thuộc bậc trên Ego). Còn đối với nghĩa

đại từ, mở rộng thứ bậc (bậc trên, bậc dưới, bậc ngang hàng) trong giao tiếp

ngoài xã hội.

Cách xưng gọi bác trong cả hai ngôi rất đa dạng, để minh chứng chúng

tôi chứng minh cụ thể qua cách xưng gọi của từ "Bác Hồ". Từ "Bác Hồ" được

dùng để xưng "bác" trong quan hệ: (i) Cách xưng thứ nhất, trong khi gọi nhi

đồng, Người xưng bác và gọi cháu (bác – cháu), với cương vị là chủ tịch nước,

Người lớn tuổi xưng với cháu là tự nhiên. Ví dụ: (7) “Bác cảm ơn các cháu.

Bác khuyên các cháu: Biết giữ kỉ luật, siêng học siêng làm, yêu Chúa yêu nước.

Bác hôn các cháu" [V6]; (ii) Cách xưng thứ hai, trong quan hệ với người kém

tuổi mình: xưng “bác” gọi “cô/chú”. Ví dụ: (8) “Biết tôi là cán bộ phụ trách,

khi bắt tay tôi, Bác nhẹ nhàng nói nhỏ: "Lần đầu đón Bác, chú mặc thế nào

cũng được, nhưng từ nay về sau nhớ chỉ nâu sồng thôi nhé!" [V7: tr. 1-140].

Chúng tôi thử lấy 1000 ngữ cảnh của từ Bác Hồ trong Chương trình tra

cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, có

thể thấy từ Bác Hồ xuất hiện tần số rất cao và xuất hiện trong lĩnh vực khác

nhau: báo chí (940/1000), văn học (50/1000), sách văn hoá chính trị xã hội

(10/1000).

62

Trong các tình huống giao tiếp khác nhau, biểu hiện nội dung ngữ nghĩa

khác nhau, cho nên ngữ nghĩa của trường hợp từ bác không cố định. Với tần suất

sử dụng cao của từ bác trong các ngữ cảnh, được dùng phổ biến trong báo chí

chính luận. Ngoài ra, từ bác được sử dụng nhiều trong hội thoại giao tiếp đời

thường và xuất hiện cả trong ngôn ngữ toàn dân và địa phương.

Như vậy, qua những phân tích trên cho thấy: có sự phát triển, mở rộng

nghĩa của từ “bác”, từ trong quan hệ gia đình đến quan hệ xã hội. Từ bác có

các nét nghĩa về thế hệ (thuộc G-1), dòng thân tộc (bàng hệ), giới tính (với miền

Bắc là anh/chị của cha/mẹ), hàng (trên G-0), tuyến thân tộc. Ngoài ra từ bác biểu

hiện về quan hệ, vị trí, chức năng, quyền hạn và nghĩa vụ. Trên nền tảng đó để

phát triển nét nghĩa xã hội. Đây cũng là một trong những biểu hiện của sự

chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ của trường hợp từ bác.

2.3.2. Trường hợp từ "cô"

Nếu lấy BẢN THÂN/TÔI (Ego) làm cơ sở (G0), thì cô là thế hệ bậc

trên Ego, cùng hàng với cha mẹ (G1). Trong gia đình, cô được dùng cho cả

dòng trực hệ và bàng hệ. Cô thuộc quan hệ đằng nội. Cách dùng từ cô để gọi

người thuộc thế hệ ngang hàng bố mẹ của mình và để gọi thay cho con của

mình. Như vậy, trong quá trình chuyển nghĩa, từ cô không những được sử

dụng trong phạm vi gia đình mà đã được phát triển thêm nghĩa mới và được

sử dụng để xưng hô ngoài xã hội.

2.3.2.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "cô" trong các Từ điển tiếng Việt

Trong Đại Nam quấc âm tự vị, từ cô được miêu tả nghĩa như sau:

"Cô. c. Chị em bên cha. Con gái nhà quan hoặc là người danh giá" [21,

tr.175].

Từ điển này, từ cô được miêu tả với nghĩa: nghĩa biểu niệm chỉ người

trong quan hệ gia đình (Chị em bên cha) và trong liên hệ xã hội (Con gái nhà

quan hoặc là người danh giá).

63

Khác với Đại Nam quấc âm tự vị, đến Việt Nam tự điển [52, tr. 87]

cũng chưa chú từ loại, nhưng đã tách thành hai nghĩa khác nhau đối với

trường hợp từ cô: 1. dùng để xưng gọi trong gia đình (Tiếng gọi chị hay là em

cha) và 2. xưng gọi ngoài xã hội (Tiếng gọi con quan, người đàn bà trẻ tuổi).

Ở đây có sự khác nhau về định danh đối tượng (trong quan hệ gia đình và

ngoài xã hội). Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ cô để thấy sự chuyển

biến đó:

(B): cô = [(Người đàn bà)1, (em gái hoặc chị của cha)2, (có quan hệ

huyết thống)3]

(B'): cô = [(Người đàn bà)1, (thân mật, được coi trọng)2, (không có

quan hệ huyết thống)3]

Từ cấu trúc B và B' cho thấy: Cả hai trường hợp này giống nhau ở nét

nghĩa thứ nhất là nét nghĩa cơ sở (chỉ người đàn bà), khác nhau ở các nét

nghĩa thứ hai và thứ ba. Trong đó, nghĩa thứ hai (B) là nghĩa phái sinh định

danh - bậc dưới (em gái) hoặc bậc trên (chị của cha) cho nét nghĩa thứ hai

(B') (thân mật, được coi trọng). Phương thức chuyển nghĩa của từ cô, nghĩa

thứ hai được phái sinh từ nghĩa thứ nhất dựa trên sự tương đồng giữa đối

tượng định danh (ẩn dụ). Có sự chuyển biến, mở rộng nghĩa từ chỉ người

trong gia đình (Chị em bên cha) và dùng để xưng gọi ngoài xã hội (Con gái

nhà quan, người đàn bà trẻ tuổi).

Trong Tự điển Việt Nam phổ thông [89, tr. 123], từ cô được ghi nhận có

mười nghĩa. Nghĩa thứ nhất chỉ người (Em gái (hoặc chị) của cha). Các nghĩa

còn lại dùng để xưng gọi trong gia đình (Tiếng gọi những người kể như cô

mình hay cô của con mình (gọi hộ con) và Mẹ chồng) và xưng gọi ngoài xã

hội (Con gái các quan hay các nhà phú quý; Tiếng lịch-sự gọi người đàn bà

giang-hồ; Thiếu-nữ ít tuổi hay chưa có chồng).

Đến Việt Nam tân tự điển, từ cô được miêu tả cụ thể hơn chỉ người

trong gia đình và ngoài xã hội:

64

cô. dt.

I. 1. Tiếng gọi chị hay là em cha; tiếng của mình kêu em hay chị gái khi nói

với con. 2. Anh em con cô con cậu.

II. 1. Tiếng gọi chung các cô gái, hay các đàn-bà trẻ nhà khá-giả. Hỡi cô tát

nước bên đàng, Cớ sao hớt ánh trăng vàng đổ đi (C. d) Ba cô đội gạo lên

chùa, Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư (C. d). 2. Cô ả (itd); Cô dâu. Cô dì. Cô

đầu. Cô đỡ, cũng gọi là cô mụ. Cô gái. Cô giáo. Cô nương. Cô mình. Cô hồn,

cô đồng bóng [73, tr. 232].

Đến Từ điển tiếng Việt (TĐVT) [88, tr. 204], từ cô ghi nhận có bốn nghĩa

và có chú từ loại danh từ và đại từ: Nghĩa danh từ dùng để chỉ người (Em gái

của cha mình) và nghĩa đại từ dùng để xưng gọi trong gia đình (Từ dùng để gọi

cô mình, để xưng với em của cha mình, để gọi em gái mình) và xưng gọi ngoài

xã hội (Từ dùng để gọi người nữ giáo viên dạy mình hoặc người đáng tuổi cô

mình; Từ dùng để gọi người con gái còn thanh niên hoặc đáng tuổi em mình).

Trong Việt Nam tự điển [30, tr. 207], từ cô được ghi nhận có năm nghĩa

khác nhau. Trong đó, nghĩa danh từ được dùng để chỉ người chị hay em gái

của cha mình. Nghĩa đại từ được dùng để xưng gọi trong gia đình (Tiếng gọi

chị hay em gái của cha mình; Tiếng anh và chị dâu gọi tâng em gái (gọi theo

con)) và xưng gọi ngoài xã hội (Tiếng gọi các gái chưa chồng hoặc có chồng

mà không thân lắm; Tiếng gọi các người đàn-bà có nghề làm ăn mua-bán

hoặc chồng họ có các nghề ấy; Tiếng gọi các hồn ma con gái).

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, từ cô được ghi nhận có năm nghĩa

khác nhau:

cô. dt.

1. Em gái hoặc chị của cha (có thể dùng để xưng gọi). Cô ruột. Bà cô họ. Cô

đợi cháu với. 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người con gái hoặc người phụ nữ

trẻ tuổi, thường là chưa có chồng. Cô bé. Cô thợ trẻ. 3. Từ dùng để gọi cô

giáo hoặc cô giáo dùng để tự xưng khi nói với học sinh. Cô cho phép em

nghỉ học một buổi. 4. Từ dùng trong đối thoại để gọi người phụ nữ coi như

65

bậc cô của mình với ý yêu mến, kính trọng, hoặc để người phụ nữ tự xưng

một cách thân mật với người coi như hàng cháu của mình. 5. Từ dùng trong

đối thoại để gọi em gái đã lớn tuổi với ý coi trọng, hoặc để gọi một cách thân

mật người phụ nữ coi như vai em của mình (gọi theo cách gọi của con mình).

[80, tr. 202]

Trong năm nghĩa trên, nghĩa thứ nhất chỉ người trong quan hệ gia đình

(Cô ruột, Bà cô họ,…) và các nghĩa còn lại được dùng để “xưng gọi” trong

liên hệ xã hội (cô bé; cô thợ trẻ, cô giáo,...).

So với Đại Nam quấc âm tự vị, từ cô trong Từ điển tiếng Việt có sự mở

rộng nghĩa, phát triển theo chiều hướng văn hóa - lịch sử - xã hội. Trong Đại

Nam quấc âm tự vị là từ quan hệ gia đình, phát triển thành quan hệ xã hội

nhưng thuộc phạm vi xã hội phong kiến “bề trên - con dân” với nghĩa tôn

kính. Đến Từ điển tiếng Việt, từ quan hệ gia đình đã mở rộng và phát triển

không chỉ quan hệ xã hội theo bậc trên - dưới với nghĩa tôn kính (cô giáo) mà

còn có cả bậc ngang dưới (cô em).

Có thể hình dung sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ cô trong các từ điển

qua bảng 2.2 sau:

TĐHP (2012)

TĐKT (1931)

TĐĐVT (1951)

TĐTN (1952)

TĐVT (1967)

TĐLVĐ (1970)

Từ điển Nghĩa

TĐ HTC (1895- 1896) 1

Nghĩa 1 Nghĩa 2 Nghĩa 3 Nghĩa 4 Nghĩa 5 Nghĩa 6 Nghĩa 7 Nghĩa 8 nghĩa 9

1 2 3 4 5

1 4 2 3 5

1 2

1 4 3 2

1 4 3 2

1 3 2 4 5

Bảng 2.2: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "cô" trong các Từ điển tiếng Việt

66

Từ bảng 2.2 có thể hiểu như sau: Cách miêu tả nghĩa thứ nhất của từ cô

trong TĐHP sẽ tương ứng với tất cả cách miêu tả nghĩa ở tất cả nghĩa thứ nhất

ở các từ điển khác. Cách miêu tả nghĩa thứ hai của TĐHP chỉ tương ứng với

nghĩa thứ hai (TĐKTTĐ), nghĩa thứ ba (TĐLVĐ), nghĩa thứ tư (TĐTN,

TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ ba của TĐHP tương ứng cách miêu tả nghĩa

thứ ba (TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ tư của TĐHP tương ứng với nghĩa

thứ tư (TĐĐVT), nghĩa thứ ba (TĐTN). Cách miêu tả nghĩa thứ năm của

TĐHP tương ứng nghĩa thứ hai (TĐĐVT, TĐTN, TĐVT, TĐLVĐ). Cách

miêu tả nghĩa thứ ba và thứ năm của TĐĐVT và nghĩa thứ tư, năm thứ năm

của TĐĐVT không tương ứng với các công trình khác.

Khảo sát sự biểu biện ngữ nghĩa của từ cô trong các từ điển ngữ văn đã

phản ánh tiến trình phát triển nghĩa theo trục lịch đại. Từ những năm 1895 -

1896, từ cô được dùng trong xưng hô chỉ những người thuộc bậc trên với Ego

và dùng để xưng hô ngoài xã hội. Quá trình chuyển nghĩa của trường hợp từ

cô là: từ nghĩa định danh, khái niệm (chỉ người) và được dùng để xưng gọi

trong gia đình được mở rộng dùng trong xưng hô phổ biến ngoài xã hội. Qua

nghiên cứu trường hợp từ cô cho thấy, cùng một từ (cô) vừa mang thuộc tính

nghĩa danh từ (chỉ người), vừa mang thuộc tính nghĩa đại từ (xưng gọi).

2.3.2.2. Cấu trúc ngữ nghĩa của từ “cô”

Luận án lấy định nghĩa từ cô trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê

(xem định nghĩa mục 2.3.2.1) để thấy được sự hiện diện đầy đủ nội dung

nghĩa, sự mở rộng và phát triển nghĩa của từ cô mà các từ điển ra đời trước đó

chưa có. Từ đó xác định được nghĩa cơ sở và nghĩa chuyển của từ cô để phân

tích cấu trúc nghĩa.

Có thể khái quát cấu trúc nghĩa chung nhất của trường hợp cặp từ cô

như sau:

67

(C): cô = [chỉ người]1, [thành viên trong quan hệ gia đình]2, [có quan hệ

huyết thống không trực hệ]3, [chỉ giới tính nữ]4, [bậc trên với Ego]5, [quan hệ

gia đình là đằng nội]6.

(C’): cô = [xưng gọi về người]1, [thành viên trong gia đình hoặc xã

hội]2, [có quan hệ huyết thống hoặc không có quan hệ huyết thống]3, [chỉ giới

tính nữ]4, [bậc (bậc trên hoặc bậc dưới hoặc ngang bằng)]5, [quan hệ gia đình

là đằng nội]6, [biểu thị sự thân mật, gần gũi, được coi trọng]7.

Như vậy:

- Cùng một vỏ hình thức âm thanh (cô) nhưng chứa đựng hai cấu trúc

nghĩa khác nhau (C và C’). Cấu trúc C, chỉ đối tượng định danh khái niệm;

cấu trúc C’ xưng gọi cho đối tượng được nói đến ở cấu trúc C.

- Có sự tương đồng trong cấu trúc nét nghĩa ở hai trường hợp C và C’

đó là: (thành viên trong quan hệ gia đình), (chỉ giới tính nữ), (bậc trên với

Ego, thế hệ ngang hàng với bố mẹ), (có quan hệ huyết thống được pháp luật

thừa nhận/không có quan hệ huyết thống).

- Có sự khác nhau về cấu trúc nghĩa trong hai trường hợp C và C’:

+ Khác nhau ở nét nghĩa đầu tiên: ở trường hợp thứ nhất (C), nét nghĩa

đầu tiên là chỉ về đối tượng (chỉ người) - đây là nét nghĩa cơ sở, nét nghĩa đen

thuộc về từ loại danh từ ; ở trường hợp thứ hai (C’), nét nghĩa đầu tiên dùng

để xưng gọi cho đối tượng được nói tới ở nghĩa cơ sở, hay nói cách khác là

“thay thế” cho đối tượng đích danh cho nên thuộc về từ loại đại từ.

+ Ngay trong từng nét nghĩa cũng có những khác biệt: trong huyết

thống là chỉ bậc trên, còn ngoài xã hội có nhiều bậc khác nhau (bậc trên, bậc

dưới, ngang hàng). Từ nét nghĩa quan hệ gia đình (trường hợp C) đã phát

triển thành quan hệ xã hội (trường hợp C’).

+ Có sự phát triển mở rộng nghĩa trong hai trường hợp C và C’ nói

trên: nếu ở trường hợp C có sáu nét nghĩa, thì ở trường hợp C’ có bảy nét

nghĩa (thêm nét nghĩa biểu thị sự thân mật, gần gũi và được coi trọng - đây là

68

nét nghĩa thể hiện mục đích phát ngôn và có liên quan đến nghĩa đầu tiên của

đại từ xưng hô ở trường hợp C’ (xưng gọi). Đây cũng là nét nghĩa phân biệt

giữa hai nghĩa C và C’ nói trên.

Cơ chế biến đổi nghĩa của trường hợp từ cô, từ danh từ chỉ người được

dùng để xưng gọi về chính đối tượng định danh đó. Đây là hình thức mở rộng,

phát triển thêm nghĩa mới trên cơ sở nghĩa cũ. Đây cũng là quy luật tiết kiệm

ngôn ngữ, xuất hiện nghĩa mới trên cơ sở nghĩa đã có sẵn qua phương thức

chuyển nghĩa.

Từ sự phân tích trên có thể thấy, trong cùng một một vỏ âm thanh (cô)

nhưng có hai thuộc tính nghĩa danh từ và nghĩa đại từ. Trường hợp C, nghĩa cơ

sở (nghĩa gốc, nghĩa cơ bản, nét nghĩa chủ yếu) định danh, khái niệm nét nghĩa

thứ nhất (chỉ người thuộc thế hệ ngang hàng bố mẹ mình) cho nên thể hiện đặc

trưng nghĩa danh từ. Còn trường hợp C’, nét nghĩa thứ nhất dùng để xưng gọi

cho đối tượng được thể hiện trong nghĩa cơ sở (hay nói cách khác là “thay thế”

cho đối tượng đích danh), vì vậy thuộc về đặc trưng của nghĩa đại từ.

(9) "Con cô1 con cậu thì xa, con chú con bác thật là anh em" [V8].

Xét các ngữ cảnh sau:

(10) "- Oan ức cho thầy cô2 lắm, con ơi" [V9: tr. 271].

Ngữ cảnh 9 và 10 cho thấy từ cô có nghĩa khác nhau. Ngữ cảnh 9, từ

cô1 chỉ người thuộc thế hệ ngang hàng với bố mẹ mình nên nó thuộc về nghĩa

định danh, khái niệm (danh từ); ở ngữ cảnh 10, từ cô2 dùng để xưng gọi về

người phụ nữ được kính trọng (xưng gọi theo chức danh nghề nghiệp - giáo

viên), do đó thuộc về nghĩa đại từ.

Từ những phân tích trên có thể thấy, cấu trúc nghĩa của trường hợp từ

cô biểu hiện: nghĩa cơ sở (chỉ người thuộc bậc trên Ego trong quan hệ gia

đình) - nghĩa phái sinh định danh (nét nghĩa “bậc trên”) - nghĩa chuyển (“sự

tôn trọng, thân mật”) trong xưng hô ngoài xã hội qua phương thức ẩn dụ.

69

2.3.2.3. Biểu hiện và cách dùng từ “cô” trong các vai giao tiếp

Khảo sát trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ

điển học và Bách khoa thư Việt Nam của trường hợp từ cô có thể thấy: Từ cô

có 40.176 ngữ cảnh. Các ngữ cảnh chủ yếu thu thập các văn bản thuộc báo

chí vì lĩnh vực báo chí thuộc ngữ liệu văn viết, chủng loại vô cùng phức tạp,

sử dụng tần suất cao, số lượng ngữ liệu lớn, phát sinh hiện tượng chuyển

nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ tương đối lớn.

Tần suất xuất hiện khá cao các trường hợp sau: cô gái (4.875 lần), cô

giáo (1.018 lần), cô bé (935 lần), cô em (286 lần), cô tôi (188 lần), cô ruột (34

lần), bà cô họ (14 lần),… Điều này cho thấy, các xưng hô ngoài xã hội của

trường hợp từ cô được dùng khá phổ biến.

Từ cô có nội dung ngữ nghĩa khá đa dạng, dùng để chỉ người trong gia

đình và người ngoài xã hội. Từ cô được dùng để định danh, khái niệm (chỉ

(11) “- Tôi là em ruột bố cháu. Tôi là cô ruột” [V10: tr. 201].

người thuộc thế hệ ngang hàng với cha): cô ruột, bà cô họ, … Ví dụ:

Bên cạnh đó, từ cô còn được dùng để xưng hô trong gia đình và ngoài

xã hội. Trong phạm vi gia đình, từ cô được dùng với nghĩa cơ sở: (i) Dùng để

xưng hô người thuộc thế hệ ngang hàng với bố mình (chị gái hoặc em gái của

bố). Đó là xưng hô trong gia đình tương ứng chính xác với các cặp là cô -

cháu, cháu - cô. (ii) Dùng trong đối thoại gọi em gái (hay người phụ nữ gọi

em chồng) hoặc dùng khi bố mẹ gọi thay cho con mình. Đó là xưng hô trong

gia đình tương ứng không chính xác với các cặp từ là cô - con, cô - anh, cô -

chị, con - cô, anh - cô, chị - cô. Cách dùng trong xưng hô gia đình của từ cô

mang sắc thái biểu cảm thân mật và biểu thị nét nghĩa bậc là chủ yếu. (iii)

Riêng trường hợp từ cô được dùng để gọi vợ mình (tôi - cô) với sắc thái biểu

cảm không trang trọng, không thân mật và thường dùng trong các trường hợp

có hoặc sắp có mâu thuẫn gia đình, tạo khoảng cách trong quan hệ.

70

Ở phạm vi giao tiếp xã hội, từ cô được dùng trong các trường hợp: (i) Từ

dùng để chỉ người con gái trẻ tuổi như cô bé; cô thợ trẻ, ... Trong cách xưng gọi

này thể hiện nét nghĩa thứ năm (trẻ tuổi) của trường hợp D’. Ví dụ: (12) “Thủy

bố trí bên trong các ghế gội đầu ba cô thợ trẻ là: Tuyết, Thanh, Loan, mỗi

người phụ trách một ghế” [V11: tr. 4]. (ii) Từ dùng để gọi người có địa vị xã

hội, được kính trọng (cô giáo) thể hiện ở nét nghĩa tôn trọng. Ví dụ: (13)

“Chúng em luôn kính trọng biết ơn các thầy giáo cô giáo” [V12]. (iii) Từ dùng

trong đối thoại để gọi người phụ nữ coi như bậc cô của mình với ý yêu mến,

kính trọng, hoặc để người phụ nữ tự xưng một cách thân mật với người coi như

hàng cháu của mình. Trong cách dùng này, nét nghĩa “thân mật” được ưu tiên.

Ví dụ: (14) "Cái cò lặn lội bờ ao/ Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?" [V8].

Ở phạm vi giao tiếp ngoài xã hội, cặp xưng hô tương ứng chính xác

(như cô - cháu, cháu - cô) và cặp xưng hô không chính xác (như cô - con, cô -

em, con - cô, anh - cô, chị - cô).

Như vậy, qua nghiên cứu trường hợp từ cô cho thấy có sự chuyển nghĩa

danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ trong tiếng Việt. Về số lượng nét nghĩa

(danh từ có sáu nét nghĩa và đại từ có bảy nét nghĩa), có sự chuyển nghĩa của

danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ. Quá trình chuyển nghĩa đó thể hiện ở

chỗ: trong cùng một từ vừa có thuộc tính nghĩa của chính từ loại đó đảm nhận

(danh từ), vừa mang thuộc tính nghĩa của từ loại khác (đại từ). Hai ý nghĩa đó

thuộc vào hai phạm vi khác nhau: thuộc về định danh, khái niệm (danh từ) và

thuộc về xưng gọi (đại từ). Về ngữ nghĩa, có hiện tượng phân ly nghĩa: nghĩa

cơ sở - nghĩa phái sinh định danh - nghĩa chuyển. Cơ chế biến đổi nghĩa là

mở rộng nghĩa so với nghĩa gốc ban đầu. Trong cấu trúc nghĩa của trường hợp

từ cô vừa có nét nghĩa giới tính vừa có nét nghĩa thứ bậc, vừa có nét nghĩa

thân mật.

Trường hợp từ cô diễn ra hai thế đối lập trong xưng hô gia đình và

ngoài xã hội. Nếu như xưng hô trong gia đình có xu hướng “thân mật hóa”

71

trong các quan hệ gia đình. Do đó, từ cô được dùng để gọi thay cho cả “dì, mợ,

thím”, khi đó ranh giới “đối lập nội/ngoại” bị xóa nhòa. Xu hướng đẩy mối

quan hệ ra xa trong cách dùng (tôi - cô, cô - anh, cô - chị, anh - cô, chị - cô).

Còn xưng hô ngoài xã hội có xu hướng chuyển nghĩa của từ cô là mất dần

nghĩa “thân mật”.

Nghiên cứu trường hợp bác/cô có thể thấy: Trường hợp bác có sự phát

triển nghĩa mạnh nhất và có mức độ xã hội hóa cao hơn trường hợp cô,

nguyên nhân “có lẽ vì nội dung ngữ nghĩa quá “tròn trịa” của từ bác nên trong

xưng hô giao tiếp xã hội nó được dùng phổ biến hơn, với sắc thái kính trọng,

thân mật, gần gũi hơn nhiều so với các danh từ thân tộc cùng thế hệ là chú,

cậu, cô, dì” [26, tr. 134].

2.3.3. Trường hợp cặp từ "ông/bà"

Sở dĩ chọn cặp từ ông/bà để nghiên cứu bởi vì: Cặp từ ông/bà xuất hiện

trong gia đình, trong phạm vi xưng hô giao tiếp xã hội. Trong gia đình, từ

ông/ bà thuộc thế hệ G-2, nhân vật vật trung tâm, được dùng cho cả dòng trực

hệ và bàng hệ. Cách dùng từ ông/bà để gọi người thuộc thế hệ sinh ra bố mẹ

của mình và để gọi thay cho con của mình. Từ những nét nghĩa cơ bản chủ

yếu trong gia đình, phát triển thêm các nghĩa mới ngoài xã hội.

2.3.3.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của cặp từ "ông/bà" trong các Từ điển tiếng Việt

a. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "ông" trong các Từ điển tiếng Việt

So sánh cách giải thích nghĩa của từ ông trong bảy công trình từ điển

tiếng Việt qua các mốc thời gian khác nhau có thể thấy được sự chuyển biến

nghĩa và phát triển nghĩa của từ ông rất rõ.

[21, tr. 792], người biên soạn mặc dù chỉ xử lý đơn nghĩa nhưng về mặt ngữ

Trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của (1895-1896)

nghĩa cũng đã phân biệt thành: nghĩa định danh khái niệm trong quan hệ gia

đình (cha cha mẹ mình) và nghĩa xưng gọi trong liên hệ xã hội (tiếng xưng hô

quan trưởng cùng kẻ tuổi cao tác lớn; tiếng quan trưởng xưng mình).

72

Các nghĩa trên cũng được ghi nhận trong Việt Nam tự điển (1931) [52,

tr.425] và từ điển này có thêm hai nghĩa mới: Tiếng gọi những bậc thần-thánh

anh-linh. Tiếng gọi chung những người đàn ông. Ở công trình này đã xử đa

nghĩa và tách các nghĩa riêng biệt, tuy nhiên vẫn chưa chú từ loại. Qua cách

giải thích trong từ điển, chúng ta có thể thấy được sự khác biệt của đối tượng

định danh, đây cũng là sự chuyển biến, mở rộng nghĩa, thể hiện rõ nhất ở

nghĩa thứ nhất (Cha của cha mẹ mình) và nghĩa thứu ba (Tiếng gọi người đàn

ông có phẩm-vị). Mối liên hệ giữa hai nghĩa này là nét nghĩa quan hệ gia đình

đã hàm ẩn sự thân mật và nét nghĩa bậc trên và tuổi tác hàm ẩn sự kính trọng.

Đây cũng là nét nghĩa phái sinh định danh để chuyển nghĩa xưng gọi người

đàn ông có phẩm vị ngoài xã hội (với sự kính trọng).

Các công trình về sau tiếp tục ghi nhận các nghĩa đó và khái quát với mức

độ khác nhau. Trong Tự điển Việt Nam phổ thông, từ ông được ghi nhận ba

nghĩa, không còn nghĩa "Tiếng gọi chung những người đàn ông" [89, tr. 470].

Đến Việt Nam tân tự điển điển [73, tr. 1032], từ ông được miêu tả cụ

thể: Nghĩa thứ nhất chỉ người trong quan hệ gia đình (Cha của cha mẹ mình,

hay cha của chú bác mình; ông nội, ông chú, ông bác, ông ngoại). Nghĩa thứ

hai được dùng để xưng gọi ngoài xã hội (người đàn ông có phẩm vị, đáng

kính). Nghĩa thứ ba chỉ người đàn ông hơi lớn tuổi (ông tiều; ông ăn mày;

ông nọ bà kia). Công trình này đã bắt đầu chú từ loại là danh từ (dt).

Đặc biệt, Từ điển tiếng Việt của Văn Tân [88, tr. 605], từ ông được ghi

nhận bảy nghĩa. Trong đó, hai nghĩa chỉ người và năm nghĩa được dùng để

xưng gọi. Cách dùng của các đại từ ông được thể hiện qua các ngôi (I, II, III).

Ngôi thứ I được dùng xưng với cháu và dùng để tự xưng một cách thô tục.

Ngôi thứ II chỉ một người đàn ông đã trưởng thành, không thân với mình.

Ngôi thứ III chỉ ông nội, ông ngoại. Công trình này ghi nhận số lượng và nội

dung nghĩa phong phú, chi tiết cụ thể đối với xưng gọi trong gia đình và ngoài

xã hội.

73

Việt Nam tự điển [30, tr. 1123], từ ông cũng được ghi nhận có bảy nghĩa

và có sự phân biệt nghĩa xưng gọi trong gia đình (nghĩa thứ nhất) và xưng gọi

ngoài xã hội (nghĩa thứ hai đến nghĩa thứ bảy).

Đến Từ điển tiếng Việt (TĐHP), từ ông ghi nhận có năm nghĩa. Trong đó,

nghĩa thứ nhất chỉ người trong quan hệ gia đình (ông chú, ông cháu, v.v.) và

các nghĩa sau được dùng để xưng gọi trong liên hệ xã hội (ông giáo, ông bạn,

ông Trời, v.v.).

ông. dt.

1. Người đàn ông thuộc thế hệ sinh ra cha hoặc mẹ (có thể dùng để xưng gọi).

2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người đàn ông đứng tuổi hoặc được kính trọng. 3.

(kng.). Từ người đàn ông dùng để tự xưng khi tức giận, muốn tỏ vẻ trịch

thượng hoặc hách dịch.4. (kng.). Từ dùng để gọi người đàn ông hàng bạn bè

hoặc hàng em (hàm ý thân mật). 5. (kết hợp hạn chế). Từ dùng để gọi tôn vật

được sùng bái hay kiêng sợ [80, tr. 731].

Có thể hình dung sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ ông trong các từ điển

qua bảng 2.3 sau:

TĐHP (2012)

TĐKT (1931)

TĐĐVT (1951)

TĐTN (1952)

TĐVT (1967)

TĐLVĐ (1970)

Từ điển Nghĩa

TĐHTC (1895- 1896)

Nghĩa 1

1

1

1

1

1

1

1

Nghĩa 2

2

1

2, 3

2, 3

2, 4

2

3

Nghĩa 3 Nghĩa 4 Nghĩa 5 Nghĩa 6 Nghĩa 7

3 4 5

4

6 5 3

3

2 4

Nghĩa 8 Nghĩa 9 Nghĩa 10

5 6 7

Bảng 2.3: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "ông" trong các Từ điển tiếng Việt

74

Từ bảng 2.3 có thể hiểu như sau: Cách miêu tả nghĩa thứ nhất của từ

ông trong TĐHP sẽ tương ứng với tất cả cách miêu tả nghĩa ở tất cả nghĩa thứ

nhất ở các từ điển khác. Cách miêu tả nghĩa thứ hai của TĐHP chỉ tương ứng

với nghĩa thứ hai (TĐĐVT, TĐTN, TĐVT, TĐLVĐ), nghĩa thứ ba (TĐKT,

TĐTN, TĐVT), nghĩa thứ tư (TĐLVĐ). Cách miêu tả nghĩa thứ ba của TĐHP

chỉ tương ứng cách miêu tả nghĩa thứ sáu (TĐLVĐ). Cách miêu tả nghĩa thứ

tư của TĐHP không tương ứng với nghĩa của tất cả các từ điển khác. Cách

miêu tả nghĩa thứ năm của TĐHP tương ứng nghĩa thứ năm (TĐLVĐ), nghĩa

thứ hai (TĐKT), nghĩa thứ ba (TĐĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ tư (TĐKT),

nghĩa thứ ba (TĐLVĐ) và từ nghĩa thứ tư đến nghĩa thứ bảy (TĐVT) không

tương ứng với TĐHP.

So với TĐHTC, TĐHP có sự mở rộng nghĩa, phát triển theo chiều

hướng văn hóa - lịch sử - xã hội. Trong TĐHTC là từ quan hệ gia đình, phát

triển thành quan hệ xã hội nhưng thuộc phạm vi xã hội phong kiến "bề trên -

con dân" với nghĩa tôn kính. Đến TĐHP, từ quan hệ gia đình đã mở rộng và

phát triển không chỉ quan hệ xã hội theo bậc trên - dưới với nghĩa tôn kính

(ông giáo, ông lão, ông Trời) mà còn có cả bậc ngang hàng (ông bạn). Từ

nghĩa thực thể (xưng gọi con người cụ thể trong cuộc sống với hàm ý kính

trọng - ông giáo, ông lão) đến nghĩa trừu tượng (xưng gọi các vị thuộc thế

giới siêu thực mà người dân tôn sùng - ông Trời). Điều này xuất phát từ tâm

lý "tôn sùng tự nhiên" bởi vì đó là thế giới siêu thực mà con người chưa lý

giải được các hiện tượng tự nhiên đó.

b. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bà" trong các Từ điển tiếng Việt

Trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của (1895-1896) từ bà

được định nghĩa như sau: "Mẹ cha mẹ mình. Tiếng xưng hô đờn bà lớn tuổi,

hoặc là người sang cả" [21, tr. 19]. Các nghĩa này chỉ người trong quan hệ gia

đình và xưng gọi trong liên hệ xã hội.

75

Trong Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến đức [52, tr.20], từ bà

được ghi nhận có sáu nghĩa. Trong đó, nghĩa thứ nhất dùng để xưng gọi trong

gia đình và các nghĩa còn lại được dùng để xưng gọi ngoài xã hội. Trong công

trình này, từ bà có thêm bốn nghĩa mới: Tiếng gọi những người đàn bà thần

thánh anh linh; Tiếng gọi đàn bà có phẩm vị; Tiếng gọi chung những người

đàn bà; Tiếng gọi các người đàn bà đồng bóng ở chùa ở đền. Đối tượng định

danh ngoài xã hội không chỉ là những người đàn bà lớn tuổi hoặc người sang

cả; mà còn được mở rộng thêm nhiều đối tượng khác như những người đàn bà

thần thánh anh linh, người đàn bà đồng bóng ở chùa ở đền và người đàn bà có

phẩm vị.

Đến Tự điển Việt Nam phổ thông, từ bà được ghi nhận có bốn nghĩa và

các nghĩa này về cơ bản giống các nghĩa trong hai từ điển trước.

bà.

1. Mẹ hay cô, dì, bác, thím, mợ của cha hoặc mẹ mình. 2. Đàn bà đã đứng

tuổi hay đã có địa-vị. 3. Vợ của ông. 4. Tiếng gọi các vị nữ-thần [89, tr. 25].

Việt Nam tân tự điển, từ bà được ghi nhận có ba nghĩa và công trình

này đã chú từ loại danh từ (dt):

bà. dt.

I. 1. Mẹ của cha mình. 2. Bà nội; bà ngoại; bà nhạc.

II. Đàn-bà lớn tuổi có chức-phận, danh tiếng.

III. Gọi chung đàn-bà [73, tr. 54].

Đến Từ điển tiếng Việt của Văn Tân, từ bà được ghi nhận có bảy nghĩa.

Trong đó, bốn nghĩa chỉ người và xưng gọi trong quan hệ gia đình (1. Mẹ của

cha hay của mẹ mình. 2. Từ chỉ người đàn bà trong họ ngang hàng với cha

mẹ mình.... 6. Đại từ chỉ ngôi thứ ba chỉ bà nội, bà ngoại. 7. Đại từ ngôi thứ

nhất dùng để xưng với cháu nội, cháu ngoại) và ba nghĩa chỉ người và xưng

gọi trong quan hệ xã hội (3. Từ chỉ người đàn bà đã có chồng và đứng tuổi,

hoặc người đàn bà mình phải kính trọng. 4. Từ chỉ người con gái vua chúa. 5.

76

Đại từ ngôi thứ hai nói với bà mình hoặc một người đàn bà đứng tuổi không

có quan hệ thân với mình) [88, tr. 34].

Trong Việt Nam tự điển, từ bà được ghi nhận có năm nghĩa. Trong đó,

nghĩa thứ nhất được dùng để xưng gọi trong gia đình và các nghĩa còn lại

được dùng để xưng gọi ngoài xã hội. Ở công trình này có thêm nghĩa mới:

Tiếng các người đàn-bà có tên trong sử:

Bà.

1. Tiếng gọi những người đàn-bà già, đáng bà nội bà ngoại mình trở lên. 2.

Tiếng gọi xã-giao những người đàn-bà có chồng. 3. Tiếng gọi thần thánh

đàn-bà hoặc xác phàm các người ấy. 4. Tiếng các người đàn-bà có tên trong

sử. 5. Tiếng gọi vợ các người có chức phận [30, tr. 46].

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, từ bà được ghi nhận có ba nghĩa.

Trong đó, nghĩa thứ nhất chỉ người quan hệ gia đình (Bà nội. Bà ngoại. Bà

thím, v.v.) và hai nghĩa sau được dùng để xưng gọi trong liên hệ xã hội (Bà

giáo. Bà bảo cho mà biết).

bà. dt.

1. Người đàn bà thuộc thế hệ sinh ra cha hoặc mẹ (có thể dùng để xưng gọi).

2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người đàn bà đứng tuổi hoặc được kính trọng. 3.

Từ người đàn bà dùng để tự xưng khi tức giận, muốn tỏ vẻ trịch thượng hoặc

hách dịch [80, tr. 20].

Có thể hình dung sự biểu hiện ngữ nghĩa của bà trong các từ điển qua

bảng 2.4 sau:

TĐHP (2012)

TĐKT (1931)

TĐĐVT (1951)

TĐTN (1952)

TĐVT (1967)

TĐLVĐ (1970)

TĐHTC (1895- 1896)

Từ điển Nghĩa Nghĩa 1

1

1

1

1, 3

1

1, 2, 6, 7

1

Nghĩa 2

2

1

3, 4, 5

2

2, 3

3, 4

2, 5

Bảng 2.4: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bà" trong các Từ điển tiếng Việt

77

Nghĩa 3

3

Nghĩa 4

2

4

3

Nghĩa 5

5

4

Từ bảng 2.4 có thể hiểu như sau: Cách miêu tả nghĩa thứ nhất của từ bà

trong TĐHP sẽ tương ứng với tất cả cách miêu tả nghĩa ở tất cả nghĩa thứ nhất

ở các từ điển khác; nghĩa thứ ba (TĐĐVT); nghĩa thứ hai, nghĩa thứ sáu,

nghĩa thứ bảy (TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ hai của TĐHP chỉ tương ứng

với nghĩa thứ hai (TĐĐVT, TĐTN, TĐLVĐ), nghĩa thứ ba (TĐKT, TĐTN,

TĐVT), nghĩa thứ tư (TĐKT, TĐVT), nghĩa thứ năm (TĐKT, TĐLVĐ).

Cách miêu tả nghĩa thứ ba của TĐHP không tương ứng cách miêu tả nghĩa

của các công trình còn lại. Cách miêu tả nghĩa thứ hai (TĐKT), nghĩa thứ tư

(TĐĐVT), nghĩa thứ ba (TĐLVĐ) tương ứng với nhau. Cách miêu tả nghĩa

thứ năm (TĐVT) và nghĩa thứ tư (TĐLVĐ) tương ứng với nhau.

Như vậy, so với TĐHTC thì từ bà trong TĐHP đã phát triển thêm hai

nghĩa và có sự mở rộng nghĩa, phát triển từ gia đình đến xã hội. Quá trình mở

rộng, thu hẹp nghĩa của từ bà trong từng giai đoạn khác nhau.

2.3.3.2. Cấu trúc ngữ nghĩa của cặp từ “ông/bà”

Luận án lấy Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (2012) làm mốc để thấy

được sự hiện diện ngữ nghĩa của cặp từ ông/bà. Dựa vào định nghĩa (xem

định nghĩa từ ông/bà ở phần 2.3.3.1), có thể khái quát cấu trúc nghĩa chung

nhất của trường hợp cặp từ ông/ bà như sau:

(D): ông/bà = [(chỉ người)1, (thành viên trong quan hệ gia đình)2, (chỉ giới

tính (nam (ông)/nữ (bà)))3, (bậc trên với Ego (Tôi), thế hệ sinh ra bố mẹ)4, (có

quan hệ huyết thống được pháp luật thừa nhận/không có quan hệ huyết thống,

trực hệ, trình tự gãy)]5.

(D’): ông/bà = [(xưng gọi về người)1, (thành viên trong quan hệ gia

đình/quan hệ xã hội)2, (chỉ giới tính (nam (ông), nữ (bà))3, (bậc (bậc trên/bậc

78

dưới/ngang bằng))4, (có quan hệ huyết thống/không có quan hệ huyết thống, trực

hệ, trình tự gãy)5 (biểu thị sự tôn kính/thân mật)]6.

Qua phân tích thành tố nghĩa trong hai trường hợp D và D' có thể thấy:

- Cùng một vỏ hình thức âm thanh (từ "ông" và từ "bà") nhưng có hai cấu

trúc nghĩa khác nhau (D và D').

- Có sự tương đồng trong cấu trúc nghĩa ở hai trường hợp D và D' đó là:

(thành viên trong quan hệ gia đình), (chỉ giới tính (nam (ông), nữ (bà))), (bậc

trên với Ego, thế hệ sinh ra bố mẹ), (có quan hệ huyết thống được pháp luật

thừa nhận/không có quan hệ huyết thống).

- Có sự khác nhau về cấu trúc nghĩa trong hai trường hợp D và D':

+ Khác nhau ở nét nghĩa đầu tiên: Ở trường hợp thứ nhất (D), nét nghĩa

đầu tiên là chỉ về đối tượng (chỉ người) - đây là nét nghĩa cơ sở, nét nghĩa đen

thuộc về từ loại danh từ. Ở trường hợp thứ hai (D'), nét nghĩa đầu tiên dùng

để xưng gọi cho đối tượng được nói tới ở nghĩa cơ sở hay nói cách khác là

“thay thế” cho đối tượng đích danh cho nên thuộc về từ loại đại từ.

+ Ngay trong từng nét nghĩa cũng có những khác biệt, thể hiện ở nét nghĩa bậc

và nét nghĩa quan hệ. Trong huyết thống là chỉ bậc trên, còn ngoài xã hội có nhiều

bậc khác nhau: bậc trên, bậc dưới, ngang hàng. Từ nét nghĩa D (quan hệ gia đình)

đã phát triển thành nét nghĩa D' (quan hệ xã hội).

- Có sự phát triển mở rộng nghĩa trong hai trường hợp D và D' nói trên:

nếu ở trường hợp D có năm nét nghĩa, thì ở trường hợp D' có sáu nét nghĩa.

Trường hợp D' có thêm nét nghĩa thứ sáu (biểu thị sự tôn kính/thân mật) - đây

là nét nghĩa thể hiện mục đích phát ngôn và có liên quan đến nghĩa đầu tiên

của đại từ xưng hô ở trường hợp D' (xưng gọi). Và đây cũng là nét nghĩa phân

biệt giữa hai cấu trúc D và D' nói trên.

Quá trình chuyển nghĩa của cặp từ ông/bà: nghĩa cơ sở (chỉ người và xưng

gọi trong gia đình), nghĩa phái sinh định danh (người thuộc bậc trên với hàm

ý kính trọng), nghĩa chuyển (xưng gọi người đàn ông/đàn bà trong xã hội với

79

sự kính trọng). Cơ chế chuyển nghĩa là sự mở rộng, chuyển biến nghĩa từ

xưng hô trong gia đình đến xưng hô ngoài xã hội theo phương thức ẩn dụ.

Xét các ngữ cảnh sau:

3 4

- Hai ông1 cháu. - Ông2 giáo.

- Hai bà1 cháu. - Bà2 giáo.

Qua các ngữ cảnh trong hai cột 3 và 4 ở trên có thể thấy, cặp từ ông/bà

có ngữ nghĩa khác nhau. Trong cột 3, ông1 và bà1 chỉ về người thuộc thế hệ

sinh ra bố mẹ mình, thuộc về nghĩa định danh, khái niệm (danh từ); Còn trong

cột 4, ông2 và bà2 dùng để xưng gọi về người đàn ông hoặc người đàn bà được

kính trọng (dựa vào chức danh nghề nghiệp để xưng gọi - giáo viên), thuộc về

nghĩa đại từ.

Qua nghiên cứu trường hợp cặp từ ông/bà có thể thấy: Cùng một hình

thức ngữ âm ông/bà có hai cấu trúc nghĩa khác nhau (định danh khái niệm và

xưng gọi), có sự phát triển và chuyển biến nghĩa biểu niệm/nghĩa biểu trưng,

sự phân ly nghĩa (nghĩa cơ sở (chỉ người bậc trên Ego trong quan hệ gia đình)

- nghĩa phái sinh định danh (nét nghĩa tuổi tác và giới tính) - nghĩa chuyển

(qua phương thức liên tưởng ẩn dụ xưng gọi ngoài xã hội). Cặp từ ông/bà có

xu hướng phát triển nghĩa rất rõ ràng trong từng tình huống giao tiếp cụ thể,

nhất là trong xưng hô giao tiếp xã hội cặp từ này có “tính xã hội hóa cao nhất”

[12, tr. 12-13].

2.3.3.3. Biểu hiện và cách dùng cặp từ "ông/bà" trong các vai giao tiếp

Khảo sát ngữ cảnh trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của

Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam trường hợp cặp từ ông/bà: từ ông

có 77.937 ngữ cảnh, từ bà có 40.573 ngữ cảnh. Từ số liệu này có thể thấy, từ ông

được sử dụng với tần suất xuất hiện cao và mức độ xã hội hóa cao hơn từ bà.

80

Cặp từ ông/bà có nội dung ngữ nghĩa khá đa dạng. Danh từ ông/bà

dùng để chỉ: (i) Người thuộc thế hệ sinh ra cha/mẹ như ông nội, bà nội, ông

ngoại, bà ngoại, ông chú, ông cậu, ông bác, bà thím, bà bác, bà dì, bà mợ, v.v.

Ví dụ: (15) "Trường hợp ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu

nội, cháu ngoại phải có giấy khai sinh của cháu nội, cháu ngoại và giấy khai

sinh của cha mẹ cháu có liên quan đến ông, bà nội, ông bà ngoại của cháu

hoặc sổ hộ khẩu có ghi rõ các mối quan hệ đó" [V13: tr. 3] Trong ví dụ 15, các

từ ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại để chỉ về người sinh ra bố (ông nội, bà nội)

hoặc mẹ của mình (ông ngoại, bà ngoại).

(16) "Ông chú, bà bác, hai bà thím, một người đàn ông mặc quần nâu

và sơ mi bộ đội có cầu vai, xưng là thầy dạy học văn hoá cho Đức hồi lớp

bảy" [V14: tr. 722].

Ở ví dụ 16, các từ ông chú, bà bác, bà thím để chỉ người chú, bác, vợ

của ông chú (thím) ngang hàng với cha mẹ mình.

(ii) Người cao tuổi: ông lão, bà lão, ông cụ, bà cụ, ông già, bà già.

Ví dụ:

(17) "Ông lão đánh lưới chụp lật đật đi như chạy" [V15: tr. 847].

(18) "Bà lão bật khóc, tay bà nắm chặt cái cán của chiếc mai" [V16: tr. 37].

(iii) Người có địa vị xã hội, được kính trọng: ông giáo, bà giáo, ông

hiệu trưởng, bà chủ tịch, v.v. Ví dụ: (19) - "Về dự có ông Phó chủ tịch huyện,

bà Chủ tịch hội nông dân" [V17: tr. 62].

(iv) Những người có phẩm tước cao trong thời phong kiến, hay những

người, những vật, hoặc những hiện tượng mà người ta sợ hay tôn sùng, theo

mê tín: Đức ông; ông táo; ông voi; Đức bà, bà Thánh, bà công chúa, v.v.

Cặp từ ông/bà còn được dùng để xưng hô trong gia đình và ngoài xã

hội. Trong phạm vi gia đình, cặp ông/bà được dùng với nghĩa cơ sở: (i) Dùng

để hô gọi người thuộc thế hệ sinh ra cha mẹ mình. Đó là xưng hô trong gia

đình chính xác với các cặp xưng hô (ông - cháu, bà - cháu; cháu - ông, cháu -

81

bà). (ii) Dùng khi bố mẹ gọi thay cho con mình. Đó là xưng hô trong gia đình

không chính xác với các cặp từ (ông - con, bà - con; con - ông, con - bà).

Cách dùng trong xưng hô gia đình của cặp từ ông/bà mang sắc thái biểu cảm

trang trọng, tôn kính và biểu thị nét nghĩa bậc là chủ yếu. Ở phạm vi ngoài xã

hội, cặp từ ông/bà phát triển ngữ nghĩa mang tính "xã hội hóa" rất cao. Trong

xưng hô ngoài xã hội tương ứng chính xác có các cặp xưng hô (ông - cháu, bà

- cháu, cháu - ông, cháu bà); còn xưng hô ngoài xã hội không chính xác có

cặp xưng hô (ông - con, bà - con, con - ông, con - bà). Việc dùng xưng hô

ngoài xã hội của cặp từ ông/bà có thể bộc lộ nhiều sắc thái biểu cảm khác

nhau: Khi người nói lớn tuổi tự xưng với người thuộc độ tuổi cháu mình thì

có sắc thái xưng hô trang trọng; khi người nói không cần phải tuổi cao thì có

sự trung hòa về sắc thái biểu cảm, cách sử dụng này thường gặp trong phong

cách hành chính (trong các giấy mời, các thông báo trong các văn bản hành

chính, v.v.). Ví dụ:

(20) "- Cái giấy này là: Kính gửi ông Lý A Pù ngày 17 tháng 4 năm

195... uỷ ban hành chính huyện trân trọng kính mời ông..." [V18].

Từ ông/bà còn được sử dụng trong khẩu ngữ với phong cách thân mật,

suồng sã. Ví dụ:

(21) "Lục vừa cười vừa nói với Minh: "hay là số này (tức 3 tập tiền

đôla và 20 cây vàng) tôi với ông chia đôi"" [V19: tr. 7].

Qua ví dụ 21 có thể thấy từ ông được dùng như cậu, bạn bằng tuổi nhau.

Ngoài ra, trong các tình huống giao tiếp khác nhau sẽ có sắc thái biểu cảm

khác nhau nhằm mục đích dụng học nhất định. Khi đó, yếu tố về bậc và sự tôn

trọng không được thể hiện mà thay vào đó là biểu thị sắc thái xưng hô đối lập

không lịch sự. Chẳng hạn, đoạn hội thoại giữa Chị Dậu và tên cai lệ trong trích

đoạn "Tức nước vỡ bờ" của Ngô Tất Tố: (22) "- Mày trói ngay chồng bà đi, bà

cho mày xem!" [V20]. Ở ví dụ (22), chị Dậu thay xưng "bà" và gọi tên cai lệ là

"mày" cho thấy sự thay đổi thái độ của chị với tên cai lệ để bảo vệ anh Dậu.

82

Qua nghiên cứu trường hợp cặp từ ông/bà có thể thấy sự chuyển biến,

mở rộng nghĩa từ xưng gọi trong gia đình đến xưng gọi ngoài xã hội dựa trên

nghĩa phái sinh (bậc trên và sắc thái biểu cảm thân mật và được kính trọng).

2.3.4. Trường hợp cặp từ "cha/mẹ"

Cũng giống như cặp từ ông/bà, cặp từ cha/mẹ thuộc thế hệ G-2, bậc

trên Ego. Cặp từ này được dùng để chỉ người đã sinh ra Ego và để xưng gọi.

Các nét nghĩa của cặp từ này về cơ bản giống nhau, chỉ khác nhau ở giới tính

(nam/nữ).

2.3.4.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của cặp từ "cha/mẹ" trong các Từ điển tiếng Việt

Đại Nam quấc âm tự vị, từ cha được ghi nhận có một nghĩa, trong khi

đó từ mẹ được ghi nhận với nhiều nghĩa khác nhau:

Cha. n. Kẻ sinh ra mình [21, tr. 112].

Mẹ. n. (Coi chữ mẫu). Mẹ đẻ mình, vợ cha mình, cũng hiểu về con cái trong

các loài thú vật; tiếng than [21, tr. 641].

Việt Nam tự điển định nghĩa từ cha có hai nghĩa khác nhau: nghĩa thứ

nhất giống với từ điển của TĐHTC, và thêm nghĩa mới (cha đạo). Còn từ mẹ

chỉ có một nghĩa duy nhất, thu hẹp nghĩa so với từ điển của TĐHTC:

cha.

I. Cũng nghĩa như “bố”, người đàn ông sinh ra mình: Con có cha như nhà

có nóc. Văn-liệu: Cha vàng mẹ bạc. Cha hiền con thảo... [52, tr.107].

II. Tiếng những người theo đạo Da-tô gọi các ông cố: Cha xứ Đoài, cha xứ Đông.

mẹ.

Bà thân sinh ra mình. Văn-liệu: Mẹ gà, con vịt. Mẹ tròn, con vuông [52, tr.340].

Tự điển Việt Nam phổ thông, từ cha có thêm nghĩa mới (Tiếng gọi

người đàn ông, có ý khinh rẻ hay giễu cợt). Từ mẹ phát triển thêm nghĩa thứ

hai, hàm ý nghĩa không tốt mà người biên soạn chú là (ngx. - nghĩa xấu).

cha.

1. Người đàn ông, đối với con của mình (nh. Bố): con có cha như nhà có nóc.

83

2. Tiếng người công-giáo gọi những vị linh-mục, giám-mục: Đức cha.

3. Tiếng gọi người đàn ông, có ý khinh rẻ hay giễu cợt: thằng cha ấy gàn.

[89, tr. 84]

mẹ.

1. Người đàn bà sinh ra mình. nhiều người quen gọi mẹ bằng me. Mẹ hát con

khen hay: chỉ những lời khen tặng thiên-vị của những người cùng phe, cùng

cánh.

2. ngx. Người đàn bà. mẹ ấy; con mẹ đó [89, tr. 390].

Đến Việt Nam tân tự điển, từ cha được ghi nhận với đầy đủ các nghĩa

mà các công trình trước đó đã giải thích nhưng được miêu tả cụ thể hơn. Từ

mẹ được định nghĩa hai nghĩa: nghĩa thứ nhất chỉ người trong gia đình, nghĩa

thứ hai có mở rộng chỉ người ngoài xã hội.

cha. dt.

I. 1. Người đàn ông sinh ra mình. Cha hiền con thảo. Cha sinh không bằng

mẹ dưỡng. Còn cha gót đỏ như son, Một mai cha chết gót con thâm sì (C.d).

2. Cha nào con nấy. Cha chồng, cha vợ. Cha đẻ. Cha ghẻ. Cha truyền con nối.

II. 1. Tiếng của người theo Thiên-chúa giáo gọi các ông truyền-đạo. Cha, cố.

2. Cha sở.

III. (thgt.) Người đàn-ông nào đó có ý khinh; tiếng thân-mật để chỉ bạn thân

hay người liên-quan với mình mà làm ra bộ thân. Thằng cha nào? Mấy cha

viết báo. Thôi đừng giỡn nữa cha!. Thằng cha ấy. Cha căng chú kiết, người

lạ. Cha chài chú chóp [73, tr. 232].

mẹ. dt.

1. Người đàn-bà đẻ ra mình. Mẹ tròn, con vuông. Mẹ hát, con khen. Chiều

chiều ra đứng ngỏ sau, Ngó về quê mẹ ruột đau chín chìu (C.d)

2. Mẹ chồng. Mẹ đẻ. Mẹ đĩ, mẹ đã có con gái. Mẹ ghẻ. Mẹ goá. Mẹ nuôi.

Mẹ vợ [73, tr. 890].

Từ điển tiếng Việt của Văn Tân (1967), người biên soạn đã chú từ loại (d,

đt - danh từ, đại từ). Từ cha có bốn nghĩa, trong đó ba nghĩa (1, 3, 4) giống với

84

các công trình trước và có thêm nghĩa mới (nghĩa thứ hai - Từ con dùng để gọi

cha, cha dùng để xưng với con). Ở đây đã có chuyển biến nghĩa từ nghĩa định

danh (chỉ người) và có thêm thuộc tính mới dùng để xưng gọi (thuộc về nghĩa

đại từ).

cha. dt. đt.

1. Người đàn ông sinh ra mình.

2. Từ con dùng để gọi cha, cha dùng để xưng với con.

3. Từ người theo đạo Thiên chúa dùng để gọi một linh mục.

4. Từ dùng để gọi suồng sã những người thân mật: Thôi đi cha, đừng nói tếu

nữa [88, tr. 136].

Cũng trong công trình này, từ mẹ được giải thích với nhiều nghĩa khác

với các công trình trước, trong đó nghĩa thứ ba (Từ dùng để gọi thân mật một

phụ nữ đứng tuổi hay có tuổi, được mọi người kính nể: Hội mẹ chiến sĩ) chuyển

biến, phát triển nghĩa từ xưng hô trong gia đình đến xưng hô ngoài xã hội.

Mẹ. - d, đt.

1. Người đàn bà đã có con.

2. Người đàn bà trong quan hệ với con. Mẹ tròn con vuông. Nói người đàn

bà ở cữ được bình yên mạnh khỏe. Mẹ hát con khen hay. Cùng trong nhà,

trong họ tâng bốc nhau.

3. Từ dùng để gọi thân mật một phụ nữ đứng tuổi hay có tuổi, được mọi

người kính nể: Mẹ Xim đêm đêm chèo thuyền cho bộ đội sang sông.

4. Nói động vật cái đã có con : Chim mẹ ; Chó mẹ [88, tr. 510].

Việt Nam tự điển (1970), từ cha có mở rộng thêm số lượng nghĩa (năm

nghĩa) so với Từ điển tiếng Việt của Văn Tân. Từ mẹ có thu hẹp số lượng

nghĩa (hai nghĩa).

CHA.

1. dt. Vai và tiếng gọi người đàn-ông đã cùng người đàn-bà sinh mình ra: Có

cha có mẹ thì hơn, Không cha không mẹ như đờn đứt dây; Công cha như núi

thái-sơn (CD).

85

2. Tiếng gọi không thân hoặc có ý khinh nhiều người đàn ông: Mấy cha

ghiền rượu, thằng cha thọt, thôi đi cha.

3. Tiếng gọi tôn kính các vị linh-mục đạo Da-tô: Cha Tòng, Cha Sở

4. tht. tiếng la khống khi gặp việc bất-ngờ hay khi đau thể-xác: Cha! Ngộ quá!

Cha! Nóng quá ! Ui ôi) cha!

5. Tiếng chửi: Cha mầy! Đánh chết cha đa [30, tr. 254].

mẹ.

1. dt. Má, bà thân-sinh, vai và tiếng gọi người đàn-bà sinh ra mình, tức vợ

của cha mình: Bà mẹ, cha mẹ, thấy mẹ; Có cha có mẹ thì hơn, Không cha

không mẹ như đờn đứt dây (CD). 2. (long.) Mẻ, tiếng gọi người đàn-bà cách

khinh thường: Con mẹ bán quán; Mấy mẹ đó sao chưa thấy tới? [30, tr. 907].

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, từ cha được được ghi nhận có ba

nghĩa khác nhau và ở đây có sự chuyển biến nghĩa từ xưng hô trong gia đình

đến xưng hô ngoài xã hội.

cha. dt.

1. Người đàn ông có con, trong quan hệ với con (có thể dùng để xưng gọi).

Cha nào con nấy. Con có cha như nhà có nóc (tng.). Cha bảo gì con ạ?

2. Từ dùng để gọi linh mục hoặc linh mục tự xưng khi nói với người theo

Công giáo.

3. (thgt.). Từ dùng trong một số tiếng chửi rủa, chửi mắng. Mồ cha*. Cha

đời*. Chém cha*. [80, tr. 125]

Từ mẹ được ghi nhận có năm năm nghĩa, trong đó nghĩa thứ thứ ba

(Cái gốc, cái chính từ đó sinh ra những cái khác) chưa được xuất hiện ở các

công trình trước đó.

mẹ. dt.

1. Người đàn bà có con, trong quan hệ với con (có thể dùng để xưng gọi).

Công cha nghĩa mẹ. Giống mẹ như đúc. Lại đây với mẹ. Mẹ đẻ (phân biệt với

mẹ nuôi, mẹ ghẻ). 2. (thường dùng sau dt.). Con vật cái thuộc thế hệ trước,

trong quan hệ với những con vật thuộc thế hệ sau và do nó trực tiếp sinh ra.

86

Gà mẹ gà con. Cá bố cá mẹ. 3. Cái gốc, cái chính từ đó sinh ra những cái

khác. Bom bi mẹ. Lãi mẹ đẻ lãi con*. Sạch sẽ là mẹ sức khoẻ (b.). 4. Từ dùng

để gọi người đàn bà đáng bậc mẹ (hàm ý coi trọng). Hội mẹ chiến sĩ. 5. (thgt.;

dùng phụ sau đgt.). Từ dùng trong tiếng chửi rủa. Mất mẹ nó cả ngày! Vứt

mẹ nó đi! Kệ mẹ chúng! [80, tr. 604]

Có thể hình dung sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ cha và từ mẹ trong các

từ điển qua bảng 2.5 và 2.6 sau:

Từ điển

TĐHP

TĐHTC

TĐKT

TĐĐVT

TĐTN

TĐVT

TĐLVĐ

(2012)

(1895-

(1931)

(1951)

(1952)

(1967)

(1970)

Nghĩa

1896)

Nghĩa 1

1

1

1

1

1

1, 2

1

Nghĩa 2

2

2

2

2

3

3

Nghĩa 3

3

5

Nghĩa 4

3

3

4

2

Nghĩa 5

4

Bảng 2.5: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "cha" trong các Từ điển tiếng Việt

Từ bảng 2.5 có thể hiểu như sau: Cách miêu tả nghĩa thứ nhất của từ cha

trong TĐHP sẽ tương ứng với tất cả cách miêu tả nghĩa ở tất cả nghĩa thứ nhất ở

các từ điển khác; nghĩa thứ hai (TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ hai của TĐHP

chỉ tương ứng với nghĩa thứ hai (TĐKT, TĐĐVT, TĐTN), nghĩa thứ ba (TĐVT,

TĐLVĐ). Cách miêu tả nghĩa thứ ba của TĐHP tương ứng cách miêu tả nghĩa

thứ năm (TĐLVĐ). Cách miêu tả nghĩa thứ ba (TĐĐVT, TĐTN), nghĩa thứ tư

(TĐVT), nghĩa thứ hai (TĐLVĐ) tương ứng với nhau. Cách miêu tả nghĩa thứ tư

(TĐLVĐ) không tương ứng với các công trình khác.

87

Từ điển

TĐHP

TĐHTC

TĐKT

TĐĐVT

TĐTN

TĐVT

TĐLVĐ

(2012)

(1895-

(1931)

(1951)

(1952)

(1967)

(1970)

Nghĩa

1896)

Nghĩa 1

1

1

1

1

1, 2

1, 2

1

Nghĩa 2

2

4

Nghĩa 3

3

Nghĩa 4

4

3

Nghĩa 5

5

2

2

Bảng 2.6: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "mẹ" trong các Từ điển tiếng Việt

Từ bảng 2.6 có thể hiểu như sau: Cách miêu tả nghĩa thứ nhất của từ mẹ

TĐHP sẽ tương ứng với tất cả cách miêu tả nghĩa ở tất cả nghĩa thứ nhất ở các

từ điển khác; nghĩa thứ hai (TĐTN, TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ hai của

TĐHP chỉ tương ứng với nghĩa thứ tư (TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ ba của

TĐHP không tương ứng cách miêu tả nghĩa của các công trình khác. Cách

miêu tả nghĩa thứ tư của TĐHP tương ứng nghĩa thứ ba (TĐVT). Cách miêu

tả nghĩa thứ năm của TĐHP tương ứng nghĩa thứ hai (TĐĐVT, TĐLVĐ).

Qua so sánh cách định nghĩa của cặp từ cha/mẹ trong bảy công trình từ

điển xuất bản trong những thời gian khác nhau để thấy được quá trình chuyển

biến nghĩa. Bắt đầu từ công trình TĐTV của Văn Tân (vào những năm 60 của

thế kỉ XX), có sự chuyển biến nghĩa từ nghĩa thực thể chỉ người và dùng để

xưng gọi trong gia đình đã mở rộng, phát triển nghĩa để xưng gọi ngoài xã hội.

Cho đến, TĐTV của Hoàng Phê thể hiện khá đầy đủ nội dung nghĩa và quá

trình chuyển biến nghĩa mà các công trình từ điển trước đó chưa ghi nhận.

Nguyên nhân của sự chuyển biến, phát triển nghĩa dựa trên yếu tố văn hóa -

xã hội, khi đất nước bước vào giai đoạn kháng chiến chống Pháp, hình thành

các tổ chức (Hội mẹ chiến sĩ).

88

2.3.4.2. Cấu trúc ngữ nghĩa của cặp từ "cha/mẹ"

- Dựa vào định nghĩa của từ cha và mẹ trong TĐTV của Hoàng Phê có

thể thấy:

+ Từ cha được định nghĩa với ba nghĩa, trong đó nghĩa thứ nhất (Người

đàn ông có con, trong quan hệ với con) là nghĩa cơ sở, nghĩa thứ hai (Từ dùng

để gọi linh mục hoặc linh mục tự xưng khi nói với người theo Công giáo) là

nghĩa bóng được phái sinh từ nghĩa cơ sở. Quy luật chuyển nghĩa: danh từ với

nghĩa biểu niệm (chỉ người đã sinh ra Ego) trong quan hệ gia đình (cha nào con

nấy) được dùng để xưng gọi ngoài xã hội (cha xứ, cha đạo,...) theo phương thức

ẩn dụ. Đây cũng là con đường chuyển biến nghĩa của từ cha, từ tầng nghĩa biểu

niệm chuyển tầng nghĩa biểu trưng.

Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ cha trong hai trường hợp nói trên:

(E): cha = [(người đàn ông)1 (có con)2 (trong quan hệ với con)3]

(E'): cha = [(người đàn ông)1 (chăn dắt linh hồn cho các tín đồ trong

giáo xứ)2 (trong quan hệ với các tín đồ trong giáo xứ)3]

Từ cấu trúc E và E' có thể thấy: Cả hai cấu trúc này giống nhau ở nét

nghĩa thứ nhất là nét nghĩa cơ sở (chỉ người đàn ông). Nét nghĩa thứ hai là nét

nghĩa phái sinh cơ bản giống nhau về trách nhiệm, bổn phận của người làm

cha: trường hợp E là người trụ cột trong gia đình, có trách nhiệm nuôi dưỡng,

chăm sóc, giáo dục, định hướng con về tinh thần trách nhiệm. Còn trường hợp

E' là có trách nhiệm chăn dắt các con chiên trong giáo xứ về mặt linh hồn. Nét

nghĩa thứ ba trong quan hệ với con (E) và các con chiên trong giáo xứ (E').

Sự khác nhau trong cấu trúc E và E' là: Ở cấu trúc E là người đàn ông

trong quan hệ gia đình, có mối quan hệ huyết thống với con; Ở cấu trúc E' là

người đàn ông trong quan hệ xã hội, không có quan hệ huyết thống với các

con chiên.

Quá trình chuyển nghĩa của từ cha trong trường hợp này là: từ nghĩa cơ

sở chỉ người đàn ông có quan hệ huyết thống (quan hệ gia đình), nghĩa phái

89

sinh (có trách nhiệm với con), nghĩa chuyển (nghĩa bóng) (từ dùng để gọi linh

mục) trong quan hệ xã hội. Phương thức chuyển nghĩa, nghĩa thứ hai được

phái sinh từ nghĩa thứ nhất theo liên hệ ẩn dụ. Trong trường hợp này có sự

chuyển tầng nghĩa từ nghĩa cơ bản (nghĩa biểu niệm chỉ người cha trong quan

hệ gia đình) đến tầng nghĩa biểu trưng (từ dùng để gọi linh mục). Phạm vi sử

dụng của trường hợp từ cha càng ngày càng thu hẹp, cho đến nay hầu như chỉ

xuất hiện trong xưng hô của gia đình ở các vùng quê hoặc trong các vùng

công giáo.

(23) "Con có cha1 như nhà có nóc" [V8]

(24) "Trong một lá thư gửi Cha cả Giơn (Jeune) ở Pat-xa-văng (Passavant)

khoảng cuối tháng 6-1830, Mác-săng viết: "Thưa Cha2... trên xứ sở bao la này đang

hứa hẹn một mùa gặt phong phú, mà thợ gặt thì ít ỏi quá! Mong Cha3 hãy thúc giục

các Cha4 bề trên gửi nhiều thợ gặt sang đây để nhanh chóng chất đầy kho cho Chúa

và để giành lấy từ trong tay kẻ thù cả một khối lượng lớn đó..." [V21: tr. 146].

Xét các ngữ cảnh sau:

Ngữ cảnh 23 và 24 cho thấy, từ cha có hai nghĩa khác nhau: Ngữ cảnh

23, cha1 - người đã sinh ra con, nghĩa định danh, khái niệm (danh từ). Ngữ

cảnh 24, cha2, cha3, cha4 được dùng để xưng gọi người linh mục (cha cả Giơn

(Jeune)) nên thuộc về nghĩa đại từ.

Các lớp nghĩa biểu trưng qua cách xưng gọi của trường hợp từ cha:

⁕ Gọi các linh mục ở nhà thờ (cha đạo, cha xứ, cha cố, ...) coi họ như

người cha chăm sóc phần linh hồn thiêng liêng, cao quý. Những linh mục này

đã cống hiến cho sự nghiệp, lý tưởng phục vụ Chúa và Giáo hội cho nên họ

được tôn xưng là cha. Khi dùng cách gọi cha trong tôn giáo để biểu thị sự tôn

trọng, kính nể của những người đứng đầu trong nhà thờ. Ngoài các cách gọi

thường dùng là cha đạo, cha xứ, người dân còn thêm chữ Đức ("Từ dùng đặt

trước d. chỉ thần thánh hoặc người có địa vị cao quý trong xã hội phong kiến

để tỏ ý tôn kính khi nói đến" [80, tr. 354]) như Đức cha, Đức Thánh cha, ...

90

Bên cạnh đó, còn dựa vào chức vụ, địa vị và tuổi tác trong Giáo hội để gọi

người linh mục như cha sở, cha phó, cha chánh xứ, cha phó xứ, cha hạt trưởng,

cha tuyên úy, cha tổng đại diện, cha nhà hưu dưỡng, cha chủ sự, cha cả, ...

⁕ Gọi người khai sinh, sáng lập ra học thuyết, tác phẩm, công trình, ...

nào đó. Nghĩa này cũng phát sinh trong liên tưởng ẩn dụ với nghĩa cơ sở

(Người đàn ông có con, trong quan hệ với con). Ví dụ: (25) "Năm 1973, tận

dụng các ưu điểm của bộ vi xử lý đầu tiên do Intel sản xuất, ông đã cùng

nhóm của mình tạo ra chiếc máy vi tính thực sự đầu tiên, được giới thiệu trên

quy mô toàn thế giới: Micral. Micral là "tổ tiên" của tất cả mọi thế hệ máy vi

tính hiện đại được sử dụng rộng rãi sau này - các máy vi tính cá nhân (PC).

Trương Trọng Thi được xem là "cha đẻ của chiếc máy vi tính..." [V22: tr. 3].

Ở ví dụ 25 có thể thấy, Trương Trọng Thi phát minh chiếc máy vi tính đầu

tiên nên được ví như người cha đã sinh ra đứa con vậy (cha đẻ).

⁕ Gọi người có công lao, tầm ảnh hưởng lớn, tạo động lực cho việc

khai sinh ra dân tộc. Các tôn xưng "Vị cha già dân tộc", "Người cha già vĩ đại

của dân tộc", ... để gọi về bậc lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Đây cũng là các

hình ảnh mang tính biểu trưng, dựa trên liên tưởng ẩn dụ với nghĩa cơ sở của

(26) "Lần đầu tiên, một cuốn phim ca nhạc ngợi ca Bác Hồ kính yêu của

chúng ta mang tên "Hồ Chí Minh Đẹp Nhất Tên Người" gồm 9 ca khúc quen thuộc

nói lên nỗi nhớ thương, lòng biết ơn và kính phục đối với vị Cha già dân tộc của

nhiều thế hệ nhạc sĩ VN do Hãng phim Trẻ thực hiện đã khởi quay từ đầu tháng 11-

93" [V23: tr. 6]. Trong ví dụ (26), tôn xưng "vị Cha già dân tộc" tức là nói đến Hồ

Chí Minh - Người khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.

(27) "Vào ngày sinh nhật thứ 70 của Joseph Stalin năm 1949, ông được phong

tặng chức "Cha già của các dân tộc" cho việc ông thành lập chính thể "dân chủ nhân

dân" tại các nước bị Đức Quốc xã chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai" [V4].

từ cha. Ví dụ:

91

công lao to lớn trong việc thành lập chính thể "dân chủ nhân dân" tại các nước bị

Đức Quốc xã chiếm đóng.

Ở ví dụ 27, tôn xưng "Cha già của các dân tộc" - Joseph Stalin - người có

+ Từ mẹ được định nghĩa với năm nghĩa khác nhau, trong đó, nghĩa thứ

nhất (Người đàn bà có con, trong quan hệ với con) là nghĩa cơ sở và nghĩa

thứ tư (Từ dùng để gọi người đàn bà đáng bậc mẹ (hàm ý coi trọng)) là nghĩa

phái sinh định danh từ nghĩa thứ nhất qua phương thức ẩn dụ. Quy luật

chuyển nghĩa của từ mẹ: danh với nghĩa định danh, khái niệm (chỉ người đã

sinh ra Ego) được dùng để xưng gọi trong gia đình (công cha nghĩa mẹ) và

chuyển biến nghĩa, phát triển nghĩa dùng để xưng gọi ngoài xã hội (mẹ chiến sĩ).

Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của trường hợp từ mẹ như sau:

(G): mẹ = [(người đàn bà)1 (có con)2 (trong quan hệ với con)3]

(G') mẹ = [(người đàn bà)1 (có cảm tình nồng hậu với chiến sĩ, thường

giúp đỡ, an ủi chiến sĩ)2 (trong quan hệ với người chiến sĩ)3 (hàm ý coi trọng)4]

Từ cấu trúc G và G' có thể thấy: hai cấu trúc này giống nhau ở nghĩa

thứ nhất thuộc về định danh, khái niệm (người đàn bà sinh ra Ego). Nếu ở

trường hợp G, nét nghĩa thứ hai (vai trò, trách nhiệm to lớn của mẹ trong việc

dưỡng dục con cái) và đây là vai trò, trách nhiệm trong gia đình. Thì ở trường

hợp G', nét nghĩa thứ hai (có cảm tình nồng hậu với chiến sĩ, thường giúp đỡ,

an ủi chiến sĩ) vai trò, vị trí quan hệ ngoài xã hội. Sự khác nhau giữa G và G'

là: một bên là trong quan hệ gia đình (G) và một bên trong quan hệ xã hội

(G'). Nét nghĩa thứ tư có sự mở rộng, phát triển nghĩa thiên về sắc thái biểu

cảm tôn trọng.

Quá trình chuyển nghĩa của trường hợp từ mẹ: nghĩa cơ sở định danh,

khái niệm (chỉ người đàn bà trong gia đình), nghĩa phái sinh định danh (công

ơn dưỡng dục vô cùng to lớn), nghĩa chuyển (nghĩa bóng) từ dùng để xưng

gọi người đàn bà có cảm tình nồng hậu với chiến sĩ, thường giúp đỡ, an ủi

chiến sĩ (mẹ chiến sĩ). Cơ chế chuyển nghĩa của trường hợp này là mở rộng,

92

phát triển nghĩa, nghĩa thứ hai và nghĩa thứ ba được phái sinh từ nghĩa thứ

nhất qua cơ chế ẩn dụ.

Các lớp nghĩa biểu trưng qua cách xưng gọi của trường hợp từ mẹ:

⁕ Gọi người phụ nữ có vai trò, công lao trong kháng chiến của dân tộc

(mẹ chiến sĩ). Cách xưng hô này xuất hiện trong giai đoạn kháng chiến chống

Pháp, khi bắt đầu xuất hiện các tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân nhằm

chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Đó là những người mẹ luôn che chở, yêu thương,

đùm bọc và giúp đỡ các chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ. Ví dụ: (28) - "Buồng

Mẹ - buồng tim - giấu chúng con/Đêm đêm chó sủa... Làng bên động?/ Bóng

Mẹ ngồi canh lẫn bóng cồn...” [V24].

⁕ Gọi người phụ nữ anh hùng có cống hiến, hi sinh cho sự nghiệp giải

phóng dân tộc của đất nước (Mẹ Việt Nam anh hùng, Bà mẹ Việt Nam anh

hùng). Cách dùng cụm định danh (Mẹ Việt Nam anh hùng, Bà mẹ Việt Nam

anh hùng) thay cho từ mẹ là cách rút gọn (loại suy - analogy). Nghĩa mới của

từ mẹ có liên quan đến cụm định danh này - Mẹ Việt Nam anh hùng, Bà mẹ

Việt Nam anh hùng - "danh hiệu vinh dự được Nhà nước Việt Nam phong

tặng hoặc truy tặng những phụ nữ Việt Nam có nhiều cống hiến, hi sinh vì sự

nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế" [V4].

Theo đó, cấu trúc nghĩa của từ mẹ: [(người phụ nữ anh hùng) (có cống hiến,

hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của đất nước)]. Có sự chuyển biến

nghĩa, không còn là người mẹ bình thường mà tôn lên thành người mẹ mang

tính biểu tượng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Ví dụ:

(29) - "Hát mừng những người mẹ Việt Nam,

Hát mừng những người mẹ anh hùng.

Đời hiến hiến giống nòi, mẹ sống giữa gian lao,

Vì đất nước hy sinh cả cuộc đời..." [V25].

(30) - "Chín người con, vĩnh viễn không trở về

Vành tang trắng, Mẹ khóc mờ đôi mắt

Ôi bóng Mẹ, nghiêng chao hồn Đất Nước

93

Mãi xanh màu, khúc hát... Mẹ Việt Nam!..." [V26].

Trong hai ví dụ 29 và 30, tôn xưng "mẹ Việt Nam", "mẹ anh hùng" để tôn

vinh những người mẹ đã có cống hiến to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.

- Có thể khái quát cấu trúc nghĩa danh từ và đại từ chung nhất của cặp

từ cha/mẹ như sau:

(H): cha/mẹ = [(chỉ người)1 (thành viên trong quan hệ gia đình)2 (có

quan hệ huyết thống, trực hệ, trình tự thẳng)3 (giới tính nam (cha)/nữ (mẹ))4

(không đối lập nội ngoại)5 (bậc trên Ego)6]

(H'): cha/mẹ = [(xưng gọi)1 (thành viên trong quan hệ gia đình)2 (có

quan hệ huyết thống/ không có quan hệ huyết thống)3 (giới tính nam (cha)/nữ

(mẹ))4 (không đối lập nội ngoại)5 (bậc trên Ego)6 (biểu thị sắc thái lịch sự,

thân mật, tôn trọng/ không lịch sự, thô tục)7]

Như vậy:

- Nội dung nghĩa: trong cùng một vỏ hình thức âm thanh (cha/mẹ)

nhưng có hai cấu trúc nghĩa mang hai thuộc tính khác nhau (H, H'): Cấu trúc

H nghĩa định danh, khái niệm (chỉ người đàn ông/đàn bà) (danh từ) và cấu

trúc H' là nghĩa xưng gọi về đối tượng được nói đến ở H (đại từ).

- Hai cấu trúc H và H' về cơ bản giống nhau trong các nét nghĩa từ một

đến sáu, chỉ khác nhau nét nghĩa thứ bảy (biểu thị sắc thái lịch sự, thân mật,

tôn trọng/ không lịch sự, thô tục). Nét nghĩa này được hình thành trong quá

trình chuyển biến nghĩa theo phương thức ẩn dụ.

- Số lượng các nét nghĩa: trường hợp H có sáu nét nghĩa, trường hợp H'

có bảy nét nghĩa, đây là cơ chế mở rộng, phát triển nghĩa. Từ chỉ người và

xưng gọi trong quan hệ gia đình và mở rộng quan hệ ngoài xã hội.

- Nội dung nghĩa, có sự chuyển biến nghĩa từ dùng chỉ người và xưng

gọi trong gia đình đã mở rộng, phát triển trong xưng gọi ngoài xã hội (cha xứ,

mẹ chiến sĩ, ...). Có sự chuyển biến nghĩa từ nghĩa biểu niệm (chỉ người cụ thể)

thành nghĩa biểu tượng (Cha già của dân tộc, Mẹ Việt Nam anh hùng...).

2.3.4.3. Biểu hiện và cách dùng cặp từ "cha/mẹ" trong các vai giao tiếp

94

Khảo sát cặp từ cha/mẹ trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt

của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam thu được: Từ cha có 9.805

ngữ cảnh; từ mẹ có 22.900 ngữ cảnh. Các ngữ cảnh xuất hiện trong các lĩnh vực

như báo chí, văn học, văn hóa chính trị, ... Cặp từ cha/mẹ có nội dung ngữ nghĩa

khá đa dạng, được dùng ở cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai; vừa được dùng để

định danh, vừa được dùng để xưng hô trong gia đình và ngoài xã hội.

Trong gia đình, cặp từ cha/mẹ được dùng với nghĩa sau: (i) Chỉ người

đàn ông/đàn bà đã có con, trong quan hệ với con (cha đẻ, mẹ đẻ, cha ruột, mẹ

ruột, cha chồng, mẹ chồng, cha vợ, mẹ vợ, cha nuôi, mẹ nuôi, cha dượng, mẹ

kế) và còn được dùng để xưng gọi (cha - con, mẹ - con, con - cha, con - mẹ).

Đây là nghĩa cơ cở, nghĩa xưng gọi tương ứng chính xác trong quan hệ gia

đình. (ii) Chỉ người chồng trong quan hệ với vợ/chỉ người vợ trong quan hệ

với chồng và được dùng để xưng gọi tương ứng không chính xác (cha - mẹ,

mẹ - cha). (iii) Cha/mẹ xưng gọi với con trong gia đình tương ứng không

chính xác (cha - anh, cha - chị, cha - em, cha - cô; mẹ - anh, mẹ - chị, mẹ - em,

mẹ - cô, ...). Cách dùng này dựa trên vị thế của đứa con trong gia đình để

xưng gọi, sắc thái biểu cảm (thân mật, yêu chiều hay giận dỗi). Ví dụ: (32) -

"Cơ mô cơ ni thầy mẹ cũng ừ cho anh" (Ca dao).

Ở phạm vi ngoài xã hội, cặp từ cha/mẹ được dùng với các nghĩa chính

sau: (i) Dùng để xưng gọi thân mật người đàn ông/đàn bà đứng tuổi hay có

tuổi, được mọi người kính nể (Ví dụ: cha xứ, mẹ chiến sĩ, ...). Cặp xưng hô

ngoài xã hội tương ứng chính xác (cha - con, mẹ - con, con - cha, con - mẹ).

(ii) từ dùng để gọi suồng sã (Ví dụ: Thôi đi cha, đừng nói tếu nữa) hoặc khinh

thường (Ví dụ: Con mẹ bán quán). (iii) Từ dùng trong tiếng chửi rủa (cha đời,

Mất mẹ nó cả ngày, ...)...

Tần suất xuất hiện của các từ cha/mẹ trong quan hệ gia đình như cha

ruột (43), mẹ ruột (110), cha đẻ (nghĩa gốc) (25); mẹ đẻ (135), ... Tần suất

xuất hiện của các từ cha/mẹ quan hệ ngoài xã hội như cha đẻ - (11), cha đạo

(10), cha xứ (13), cha cố (10), cha sở (6), cha chủ sự (1), cha cả (23), Đức cha

95

(16), mẹ chiến sĩ (15), mẹ Việt Nam (23), ... Đặc biệt, xuất hiện nhiều nhất là

"Bà mẹ Việt Nam anh hùng" với 262 ngữ cảnh.

Từ những miêu tả, phân tích trên có thể thấy, sự chuyển biến nghĩa

danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ của trường hợp cặp từ cha/mẹ.

2.4. Đặc trưng ngữ nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ

2.4.1. Cơ sở của sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ

Sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính đại từ dựa trên bốn yếu

tố sau:

Về cơ sở ngữ nghĩa, danh từ và đại từ là những từ loại quan trọng và

mang đặc trưng riêng về ý nghĩa từ vựng. Danh từ mang nội dung nghĩa định

danh, khái niệm nghĩa chỉ về người, còn đại từ nghĩa xưng gọi, thay thế về đối

tượng đó. Khi nghiên cứu về từ loại danh từ, Nguyễn Tài Cẩn (1975) quan

niệm về danh từ chỉ quan hệ thân thuộc là "một nhóm từ có nhiều nét khá lý

thú về mặt ngôn ngữ học... đây là một nhóm thường có thể dùng với hai nghĩa:

dùng với ý nghĩa chính xác của chúng để xưng hô với anh em bà con ở trong

gia đình; và dùng với ý nghĩa mở rộng để xưng hô ở ngoài xã hội với những

người vốn không có quan hệ thân thuộc gì với mình" [10, tr.142].

Benveniste đưa ra thuyết kí hiệu để phân biệt sự khác nhau giữa kí hiệu

danh từ và đại từ. Theo đó, nội dung kí hiệu của danh từ là “đặc” và có chức

năng định danh, còn nội dung kí hiệu của đại từ là “rỗng” và có chức năng

“thay thế” [Dẫn theo Trương Thị Diễm, 26]. Trên cơ sở đó có thể thấy, khác

với danh từ có ý nghĩa biểu vật, định danh sự vật, hiện tượng, khái niệm trong

thực tế khách quan; còn đại từ không mang các đặc điểm như vậy mà chỉ là

"trỏ" và "thay thế", và được nhận biết trong thực tế giao tiếp cụ thể.

Trong thực tế TĐTV, người biên soạn đã chú ý đến hiện tượng chuyển

biến nghĩa bằng cách xử lý đa nghĩa, các từ có thuộc tính khác nhau sẽ được

thành các nghĩa và đánh số Ả Rập (1, 2, 3,...) để phân biệt. Ngay trong lời giải

thích cũng được phân biệt nghĩa của từ loại đó, danh từ có nghĩa định danh

96

khái niệm về sự vật nên nét nghĩa "Chỉ người...." được đặt đầu tiên; còn đại từ

đại từ có nghĩa thay thế, nên nét nghĩa ''xưng gọi'' ở vị trí đầu tiên.

Trong ngữ cảnh sử dụng, khi một từ xuất hiện với đặc trưng ngữ nghĩa

mới thì về mặt logic tư duy đã được định hình trong tâm lý cũng như trong

thói quen, cách dùng của cá thể sử dụng ngôn ngữ đó và được chi phối bởi

yếu tố tác động bên ngoài của văn hóa xã hội. Đó là cách dùng của các lớp từ

mới trong giao tiếp ngôn ngữ xã hội hay là ngữ cảnh sử dụng từ vựng. Cách

dùng phản ánh thuộc tính của từ, một từ được dùng nhiều và lặp đi lặp lại trở

thành quy luật. Trong quá trình sử dụng, danh từ chuyển biến và mang thêm

thuộc tính mới "thay thế" của đại từ. Khi cá thể sử dụng ngôn ngữ có nhu cầu

biểu đạt từ vựng ngữ nghĩa mới, mở rộng phạm vi hoạt động của từ, từ đó dần

dần trở nên ổn dịnh và cố định hóa trong tư duy ngôn ngữ. Đây cũng là cơ chế

tần suất của sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ. Có

thể nói, ngữ cảnh có tác dụng rất lớn đối với hiện hiện và tiếp nhận thành

phần ngữ nghĩa, ngữ cảnh có thể biểu thị đặc trưng ngữ nghĩa của danh từ và

đại từ. Các danh từ có thuộc tính nghĩa đại từ đã định hình trong tư duy và

ngôn ngữ của cá thể sử dụng ngôn ngữ.

Yếu tố văn hóa - xã hội - lịch sử ảnh hưởng và chi phối đến các mối

quan hệ và xưng hô giao tiếp trong gia đình và xã hội. Đặc trưng văn hóa

nông nghiệp vốn trọng tình nghĩa, xưng hô giao tiếp "gia đình hóa" mở rộng

từ gia đình đến xã hội nhằm rút ngắn khoảng cách giao tiếp. Bên cạnh đó, yếu

tố tổ chức cơ cấu xã hội mang tính cộng đồng từ gia đình đến gia tộc rồi mở

rộng ra ngoài làng xã cũng ảnh hưởng cách xưng hô đó.

Từ những phân tích về cơ sở ngữ nghĩa học, thực tiễn từ điển, ngữ cảnh

sử dụng và yếu tố văn hóa - xã hội - lịch sử đã cho thấy cơ sở của sự chuyển

biến nghĩa, một từ vừa mang thuộc tính nghĩa định danh, khái niệm (danh từ);

vừa mang thuộc tính nghĩa thay thế, xưng gọi (đại từ).

97

2.4.2. Sự phân ly về nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ

Trong tiếng Việt xuất hiện hiện tượng chuyển nghĩa của danh từ mang

thuộc tính nghĩa đại từ là hiện tượng một từ vừa có thuộc tính nghĩa của chính

từ loại đó đảm nhận, vừa mang thuộc tính nghĩa của từ loại khác. Đó là,

nghĩa thuộc về nghĩa định danh sự vật, hiện tượng (danh từ) và nghĩa thuộc

về thay thế, xưng gọi (đại từ). Giữa các cặp từ chuyển nghĩa không có nét

nghĩa đồng nhất trong nội dung nghĩa từ vựng mà chỉ có các nét nghĩa hoàn

toàn khác nhau.

Sơ đồ 2: Mô hình chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ

S0 S1 S2

Trong đó: S0 là nghĩa cơ sở

S1 là nghĩa phái sinh định danh (đặc trưng các nét nghĩa của nghĩa cơ sở)

S2 là nghĩa chuyển (nghĩa bóng)

Về mặt từ vựng, đơn vị từ vựng nhưng mang hai thuộc tính từ loại khác

nhau (danh từ và đại từ). Về mặt ngữ nghĩa, có sự phân ly ngữ nghĩa với ba

cấp độ nghĩa là: (i) nghĩa cơ sở (nghĩa chính, nghĩa cơ bản hay nghĩa đen) là

nghĩa định danh, khái niệm; (ii) nghĩa phái sinh định danh biểu đạt khái niệm

(nghĩa biểu niệm); (iii) nghĩa chuyển (nghĩa bóng) của tu từ và hình ảnh (còn

gọi ẩn dụ và hoán dụ); đó là nghĩa xưng gọi và nét nghĩa này hoàn toàn trừu

tượng, giống hình ảnh, không còn cấu trúc nghĩa định danh của nghĩa cơ sở.

Khi đó, nét nghĩa trung tâm của từ vựng chủ yếu biểu hiện sự kính trọng (từ

thân tộc) - nghĩa trừu tượng. Đây là hiện tượng đồng âm ngữ nghĩa. Nét nghĩa

danh từ mang đặc trưng thể hiện trong nét nghĩa “huyết thống”, “máu mủ”,

khác với nét nghĩa đại từ với đặc trưng là nét nghĩa “xã hội”, “biểu thị sự tôn

kính/thân mật”. Quá trình danh hóa đại từ, vừa có nghĩa từ vựng đại từ nhưng

cũng vừa liên quan đến văn hóa xưng gọi.

98

Một trong những nguyên nhân của sự phân ly về nghĩa của hiện tượng

chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ là do sự đứt gãy về

quan hệ: nghĩa cơ sở biểu thị nội dung ý niệm, định danh; nghĩa phái sinh 1, 2,

3,... sau đó phát triển thành nghĩa chuyển (nghĩa bóng) thông qua các hình

ảnh/hình tượng theo quan hệ liên tưởng tương đồng (ẩn dụ) và quan hệ tương

cận (hoán dụ). Đây là một trong những cơ sở của sự chuyển biến nghĩa của

danh từ để hình thành nên nội dung nghĩa mới mang thuộc tính nghĩa đại từ.

"Quan hệ" thuộc về cấu trúc, còn "liên hệ" thuộc về quan hệ phái sinh,

ẩn dụ, hoán dụ. Mối quan hệ nội dung là các nét nghĩa. Nét nghĩa mới thuộc

về nghĩa văn hóa - xã hội - lịch sử. Đây là nét nghĩa cơ bản của đại từ. Do sự

phát triển của hoạt động danh từ làm bộc lộ thuộc tính nét nghĩa văn hóa - xã

hội - lịch sử đó ở đại từ.

2.4.3. Cơ chế chuyển biến nghĩa của các đơn vị danh từ mang thuộc tính

nghĩa đại từ

Từ kết quả đối chiếu ý nghĩa trong các cuốn từ điển tiếng Việt theo trục

thời gian có thể thấy nội hàm nghĩa và sự biến đổi nghĩa, phát triển nghĩa.

Cách giải thích nghĩa của các trường hợp (bác, cô, ông, bà, cha, mẹ) trong các

công trình từ điển xuất bản trong những thời gian khác nhau kéo dài suốt các

thập niên của nửa cuối thế kỷ XX để thấy được quá trình phát triển nghĩa từ

vựng của từ này.

Quá trình chuyển nghĩa đó thể hiện ở chỗ: trong cùng một từ vừa có

thuộc tính nghĩa của chính từ loại đó đảm nhận (danh từ), vừa mang thuộc tính

nghĩa của từ loại khác (đại từ). Hai ý nghĩa đó thuộc vào hai phạm vi khác

nhau: thuộc về định danh, khái niệm (danh từ) và thuộc về xưng gọi (đại từ).

Cơ chế biến đổi nghĩa có thể là thu hẹp hoặc mở rộng nghĩa. Chẳng

hạn, trường hợp từ bác có sự khác biệt về cấu trúc ngữ nghĩa danh từ và đại từ

tức là số lượng nét nghĩa cấu trúc ngữ nghĩa danh từ (sáu nét nghĩa) ít hơn số

lượng nét nghĩa cấu trúc ngữ nghĩa của đại từ (bảy nét nghĩa), và các nét

99

nghĩa của đại từ có thể phân xuất nhỏ hơn và có sự mở rộng nghĩa. Đây là

hiện tượng phát triển, mở rộng nghĩa.

Có sự chuyển biến từ tầng nghĩa trong quá trình chuyển biến nghĩa

danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ. Chẳng hạn, các trường hợp như bác,

cha, mẹ. Bác (chỉ người thuộc bậc trên Ego trong quan hệ gia đình - nghĩa

biểu niệm (tầng nghĩa trí tuệ)) - bác (xưng gọi ngoài xã hội như bác tài, bác

phó, ... - Nghĩa biểu thị đối tượng định danh cụ thể người lớn tuổi với hàm ý

kính trọng (tầng nghĩa trí tuệ)) - BÁC (Bác Hồ - gọi bậc lãnh tụ kính yêu của

dân tộc - nghĩa biểu tượng (tầng nghĩa biểu trưng)).

Tương tự còn có trường hợp khác như cặp từ cha và mẹ: cha (chỉ

người đàn ông sinh ra mình - nghĩa biểu niệm) - cha (cha đạo, cha xứ, ...

(xưng gọi các linh mục ở nhà thờ - nghĩa biểu trưng) ) - Vị cha già của dân

tộc (danh xưng đối với người có công lao, tầm ảnh hưởng lớn, tạo động lực

cho việc khai sinh ra dân tộc - nghĩa biểu tượng). Mẹ (chỉ người phụ nữ sinh

ra mình - nghĩa biểu niệm) - mẹ chiến sĩ (xưng gọi người phụ nữ có vai trò,

công lao trong kháng chiến của dân tộc - nghĩa biểu trưng) - Mẹ Việt Nam anh

hùng (danh xưng đối với người phụ nữ anh hùng có cống hiến, hi sinh cho sự

nghiệp giải phóng dân tộc của đất nước - nghĩa biểu tượng).

Từ những phân tích, biện giải, chứng minh các trường hợp nghiên cứu

(bác, cô, ông, bà, cha, mẹ) có thể thấy quá trình chuyển biến nghĩa của các

đơn vị từ loại danh từ thân tộc và đại từ. Quá trình chuyển biến đó "thực ra

cũng là quá trình tạo nghĩa. Nó được thực hiện một cách có quy luật theo cơ

chế hoạt động mở của ngôn ngữ" [59, tr. 72]. Từ cấu trúc nghĩa thay đổi, nội

dung nghĩa, cách dùng cũng khác nhau.

2.5. Tiểu kết

Nghiên cứu đặc trưng của hiện tượng chuyển nghĩa của danh từ mang

thuộc tính nghĩa đại từ qua một số trường hợp cụ thể của danh từ thân tộc

(bác, cô, chú, ông, bà, cha, mẹ) luận án cho thấy: hiện tượng chuyển nghĩa

của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ là một từ vừa có thuộc tính nghĩa

100

của chính từ loại đó đảm nhận, vừa mang thuộc tính nghĩa của từ loại khác:

một nghĩa thuộc về nghĩa định danh sự vật, hiện tượng (danh từ); một nghĩa

thuộc về thay thế, xưng gọi (đại từ). Về mặt ngữ nghĩa, có sự phân ly ngữ

nghĩa với ba cấp độ nghĩa là: (i) nghĩa cơ sở là nghĩa định danh, sự vật (chỉ

người); (ii) nghĩa phái sinh định danh biểu đạt khái niệm; (iii) nghĩa chuyển

(nghĩa bóng) của tu từ và hình ảnh. Về nội dung nghĩa của từ, trong một từ vừa

có nghĩa định danh khái niệm, vừa có nghĩa xưng hô (trong gia đình và trong

xã hội). Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy, có sự chuyển biến tầng nghĩa

trong quá trình chuyển biến danh từ thân tộc mang nghĩa đại từ xưng hô. Cơ

chế biến đổi nghĩa có thể là thu hẹp hoặc mở rộng nghĩa. Từ thân tộc nằm ở

tầng cơ bản của ngôn ngữ nên chỉ được dùng cho gia đình, tuy nhiên khi xã

hội hóa thì được dùng nhiều bên ngoài xã hội.

Như vậy, qua các phân tích, biện giải, chứng minh các trường hợp

nghiên cứu (bác, cô, ông, bà, cha, mẹ) có thể thấy quá trình chuyển biến

nghĩa của các đơn vị từ loại danh từ kiêm thuộc tính nghĩa đại từ.

101

Chương 3

ĐẶC TRƯNG CHUYỂN BIẾN NGHĨA CỦA DANH TỪ

MANG THUỘC TÍNH NGHĨA TÍNH TỪ

(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP)

Trong chương 3, chúng tôi tập trung khảo sát, miêu tả và phân tích đặc

trưng chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ qua

nghiên cứu trường hợp: anh hùng, bình dân, cách mạng, phúc, quê, sách vở,

bụi, gan. Luận án khảo sát hiện tượng này trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng

Phê (chủ biên) và chứng minh qua một số từ ngữ, để phản ánh đặc trưng cơ

bản của hiện tượng này.

3.1. Giới thiệu về nhóm danh từ lựa chọn để nghiên cứu

Khi thu thập nhóm danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ, có thể thấy:

⁕ Thống kê các đơn vị chuyển biến nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của

Hoàng Phê (chủ biên) [80] cho thấy: có 1442 đơn vị, trong đó chuyển biến

nghĩa từ danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ có 336 đơn vị (chiếm

23.3%). Từ đó có thể phán đoán rằng, bản thân hai từ loại danh từ và tính từ

mang những nhân tố chung, thuộc về đặc trưng của sự vật, hiện tượng, tính

chất. Và, đây cũng là một trong những điều kiện tồn tại của hiện tượng

chuyển biến nghĩa.

⁕ Các đơn vị chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính

từ có số lượng khá lớn trong tổng số đơn vị mục từ trong từ điển, đây cũng là

một trong những thành tố tạo nên cấu trúc của công trình từ điển (cấu trúc vĩ

mô và vi mô).

⁕ Với sự đa dạng và phức tạp của hiện tượng chuyển biến nghĩa nói chung

và chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ nói riêng, TĐTV

đã xử khá tốt hiện tượng này về cả hình thức cũng như nội dung.

102

Dựa vào Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, luận án đã thống kê đặc

điểm cấu tạo, nguồn gốc và phân loại các nhóm danh từ mang thuộc tính

nghĩa tính từ trong các bảng 3.1, bảng 3.2 và bảng 3.3 dưới đây.

Bảng 3.1: Cấu tạo mục từ chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê

Số lượng Tỉ lệ Nội dung

(Mục từ) (%)

122 36.3 Đơn âm tiết

Đa âm tiết 214 63.7

336 100 Tổng số

Từ kết quả thống kê trong bảng 3.1. có thể thấy: Trong tiếng Việt,

của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ chủ yếu là danh từ đa âm tiết

có 214/336 đơn vị (chiếm 63.7%), trong khi đó danh từ đơn âm tiết chỉ

có 122/336 đơn vị (chiếm tỉ lệ 36.3%). Điều này hoàn toàn phù hợp với

thực tế lượng từ song âm tiết trong tiếng Việt rất nhiều.

Các danh từ đơn âm tiết được sắp xếp theo trật tự chữ cái ABC

đến Y. Ví dụ:

M: ma, manh1, may2, mẳn, mo1, mọt, mộc2, mộc2, mốt1, một, mỡ2,

mun, mút2, mực2, mướp, v.v.

Các danh từ song âm tiết cũng được sắp xếp theo trật tự chữ cãi

ABC đến Y. Ví dụ:

H: hàn lâm, hạnh phúc, hảo tâm, hình thức, hoà bình, hoạn nạn,

hoang dã, hứng thú, v.v.

103

Bảng 3.2: Nguồn gốc mục từ chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê

Nội dung Số lượng Tỉ lệ

(Mục từ) (%)

Thuần Việt 102 30.3

Hán Việt 229 68.3

Ấn Âu 5 1.4

Tổng Số 336 100

Từ bảng 3.2 có thể thấy, các mục từ có nguồn gốc chủ yếu là Hán

Việt có 229/336 đơn vị (chiếm tỉ lệ 68.3%). Ví dụ: anh hùng, bác học,

phúc, hạnh phúc, khoa học, xuân, v.v. Còn các mục từ có nguồn gốc

Thuần Việt chủ yếu là các từ đơn tiết có 102/336 đơn vị (chiếm tỉ lệ

30.3%). Ví dụ: bã, bợm, bụi, cóc, rác, rủi, nhà quê, tí xíu, v.v. Mục từ có

nguồn gốc Ấn Âu có số lượng ít 5/336 đơn vị (chiếm tỉ lệ 1.4%), chủ

yếu là các từ phiên âm như Bonsevich, cà tong, logic, topo, Xô Viết.

Bảng 3.3: Nhóm danh từ thuộc tính nghĩa tính từ trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê

Danh từ Số lượng Tỉ lệ

Danh từ cụ thể 176 52.4

Danh từ trừu tượng 160 47.6

Tổng số 336 100

Từ bảng 3.3 có thể thấy: Danh từ cụ thể có số lượng lớn với 176/336

đơn vị (chiếm 52.4%), danh từ trừu tượng có số lượng ít hơn với 160/336 đơn

vị (chiếm tỉ lệ 47.6%).

104

Từ kết quả khảo sát định lượng trên có thể thấy: Trong Từ điển tiếng

Việt của Hoàng Phê đã thu thập số lượng khá lớn các đơn vị chuyển nghĩa của

danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ.

Khi xem xét các thành phần của danh từ có khả năng chuyển biến nghĩa

mang thuộc tính nghĩa tính từ, chúng tôi chọn nhóm từ Hán Việt và thuần

Việt. Đây là nhóm danh từ mà chúng tôi nhận thấy có khả năng chuyển nghĩa

của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ, như anh hùng, bình dân, cách

mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan, v.v.

Sở dĩ chọn các mục từ anh hùng, bình dân, cách mạng, phúc, quê, sách

vở, bụi, gan để nghiên cứu bởi vì: (i) Khảo sát trong các công trình Từ điển giải

thích tiếng Việt theo trục lịch sử, dựa vào nội dung lời định nghĩa, người biên

soạn đã tách thành các nghĩa khác nhau và chú từ loại (danh từ và tính từ) riêng

biệt. Thực tế trong các văn cảnh cũng đã phân tách thành các nghĩa danh từ và

nghĩa tính từ. (ii) Dựa trên kết quả khảo sát của Từ điển tiếng Việt (TĐHP), căn

cứ vào nguồn gốc của các mục từ chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính

nghĩa tính từ chủ yếu là Hán Việt và thuần Việt nên luận án cũng dựa vào đó để

lựa chọn các trường hợp nghiên cứu. Đây cũng là cơ sở để luận án nghiên cứu sự

chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ qua trường hợp các

từ anh hùng, bình dân, cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan.

3.2. Thực tiễn và khả năng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính

nghĩa tính từ

Thực tế Từ điển tiếng Việt của Văn Tân và Từ điển tiếng Việt của

Hoàng Phê đã xử lý các mục từ có hiện tượng chuyển biến nghĩa bằng cách

tách các nghĩa riêng biệt của danh từ và tính từ. Ví dụ, mục từ anh hùng trong

Từ điển tiếng Việt (Văn Tân) và Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê) đã tách các

nghĩa khác nhau: nghĩa thuộc về danh từ và nghĩa thuộc về tính từ.

105

Từ điển tiếng Việt (Văn Tân) Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê)

anh hùng I d. 1. Người lập nên công anh hùng.

I. d. 1. Người có tài năng đức độ rất trạng lớn lao đối với nhân dân, đất

cao, mà việc làm có ảnh hưởng đến sự nước. 2 Nhân vật thần thoại có tài

tiến hoá của xã hội : Nguyễn Huệ là năng và khí phách lớn, làm nên

một bậc anh hùng. 2. Người có nhiều những việc phi thường. 3 Danh hiệu

thành tích về chiến đấu, về sản xuất, vinh dự cao nhất của nhà nước tặng

được nhân dân và chính phủ công thưởng cho người hoặc đơn vị có

nhận : Anh hùng lao động. thành tích và cống hiến đặc biệt xuất

II. t. Dũng cảm đến cao độ : Dân tộc sắc trong lao động hoặc chiến đấu. II

anh hùng. t. Có tính chất của người anh hùng.

Trong thực tế văn cảnh cũng đã có sự phân tách các nhóm mục từ này.

Xét các ngữ cảnh sau:

- Nguyễn Huệ là một anh hùng dân tộc. [80, tr.6]

- Hành động anh hùng. [80, tr.6]

5 6

Ở ví dụ cột 5, từ "anh hùng" chỉ về đối tượng cụ thể (Nguyễn Huệ); còn từ

"anh hùng" trong ví dụ cột 6 chỉ về đặc trưng, tính chất của "hành động". Do đó,

từ "anh hùng" trong ví dụ cột 5 thuộc về danh từ, còn từ "anh hùng" trong ví dụ

cột 6 thuộc về tính từ.

Từ thực tiễn từ điển và ngữ cảnh sử dụng như đã phân tích trên đã cho

thấy: có sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ.

3.3. Phân tích và diễn giải nhóm danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

Các nhóm từ được xét ở ba nội dung chính:

(i) Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ trong các Từ điển tiếng Việt: Từ lời định

nghĩa của bảy công trình TĐTV theo hướng lịch đại để thấy được tiến trình

phát triển của nghĩa tiếng Việt và sự chuyển biến nghĩa của danh từ mang

106

thuộc tính nghĩa tính từ của các trường hợp nghiên cứu (anh hùng, bình dân,

cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan).

(ii) Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp nghiên cứu: Chúng tôi lấy Từ điển

tiếng Việt của Hoàng Phê để phân tích nội dung ngữ nghĩa của trường hợp

nghiên cứu và dựa vào cách giải thích nghĩa để xác định nghĩa cơ sở, nghĩa phái

sinh định danh và nghĩa chuyển. Từ đó, phân tích cấu trúc nghĩa của danh từ và

tính từ để rút ra được quy tắc, phương thức chuyển nghĩa và cấu trúc nghĩa.

(iii) Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ của trường hợp nghiên cứu: Dựa vào Chương trình tra cứu ngữ cảnh

tiếng Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam để khảo sát số

lượng các ngữ cảnh và tần suất xuất hiện trong các lĩnh vực khác nhau của

trường hợp nghiên cứu.

3.3.1. Trường hợp từ "anh hùng"

Luận án chọn mục từ anh hùng để nghiên cứu bởi vì: Khảo sát trong

các công trình Từ điển giải thích tiếng Việt theo trục lịch sử, dựa vào nội dung

lời định nghĩa, người biên soạn đã tách thành các nghĩa khác nhau và chú từ

loại (danh từ và tính từ) riêng biệt. Đây cũng là cơ sở để chúng tôi nghiên cứu

sự chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ qua trường hợp từ

anh hùng. Từ các phạm trù cơ bản ngôn ngữ học để phân tích, chứng minh

đặc trưng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ.

3.3.1.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "anh hùng" trong các Từ điển tiếng Việt

Các từ điển Đại Nam quấc âm tự vị (1895-1896), Việt Nam tự điển (1931) và

Tự điển Việt Nam phổ thông (1951), từ anh hùng được ghi nhận có một nghĩa:

Anh hùng. Kẻ tài lực phi thường [21, tr. 13].

anh-hùng. Bậc tài giỏi và có chí to hơn người [52, tr. 6].

anh-hùng. Kẻ xuất-chúng, có tài đức hơn người [89, tr. 16].

Đến Việt Nam tân tự điển (1952), từ anh hùng ghi nhận có ba nghĩa:

107

anh hùng. dt.

1. Bậc xuất-chúng có chí-khí hơn người. 2. Anh-hùng mạt-lộ. Anh hùng hết

đường vùng vẫy, tung hoành. 3. Anh hùng rơm. Anh-hùng ở tiếng mà thôi.

[73, tr. 16]

Ở công trình này thêm hai nghĩa mới chưa được xuất hiện ở các từ điển

trước đó: "anh hùng mạt lộ" và "anh hùng rơm". Các nghĩa này được phát triển

trên cơ sở của nghĩa thứ nhất theo phương thức ẩn dụ.

Đến Từ điển tiếng Việt (1967) đã tách nghĩa danh từ và tính từ của từ

anh hùng khác nhau:

anh hùng.

I. dt. 1. Người có tài năng đức độ rất cao, mà việc làm có ảnh hưởng đến sự

tiến hoá của xã hội. 2. Người có nhiều thành tích về chiến đấu, về sản xuất, được

nhân dân và chính phủ công nhận. II. tt. Dũng cảm đến cao độ [88, tr. 21].

So với các công trình trước đó, công trình này có thêm hai nghĩa mới:

"Người có nhiều thành tích về chiến đấu, về sản xuất, được nhân dân và chính

phủ công nhận"; "Dũng cảm đến cao độ". Nghĩa mới này được phát triển từ

nghĩa thứ nhất và được miêu tả cụ thể hơn cho nét nghĩa (tài năng, công trạng).

Trong quá trình phát triển nghĩa đã hình thành nghĩa mới biểu thị tính chất,

thuộc tính "Dũng cảm đến cao độ". Nghĩa mới của từ anh hùng được hình

thành do sự biến đổi cấu trúc nghĩa cho nên một từ vừa mang nghĩa biểu thị

khái niệm định danh (danh từ), vừa biểu thị nghĩa tính chất, thuộc tính (tính từ).

Việt Nam tự điển (1970) từ anh hùng được giải thích chỉ một nghĩa, số

lượng nghĩa bị thu hẹp so với công trình từ điển trước đó:

anh hùng. dt.

Bậc tài giỏi xuất-chúng [30, tr. 25].

Trong từ điển tiếng Việt (1988, 2012) từ anh hùng được định nghĩa với

các nghĩa là:

108

anh hùng.

I. dt. 1. Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao đối với nhân dân, đất nước.

2. Nhân vật thần thoại có tài năng và khí phách lớn, làm nên những việc phi

thường.

3. Danh hiệu vinh dự cao nhất của nhà nước tặng thưởng cho người hoặc đơn

vị có thành tích và cống hiến đặc biệt xuất sắc trong lao động hoặc chiến đấu.

II. tt. Có tính chất của người anh hùng [80, tr. 6].

Như vậy, TĐHP và TĐVT có nhiều điểm giống và khác nhau. Giữa hai

từ điển này giống nhau ở chỗ đều phân biệt nghĩa danh từ và tính từ theo hình

thức chuyển nghĩa. Sự khác nhau của hai công trình này là về số lượng nghĩa:

TĐVT có hai nghĩa và TĐHP có ba nghĩa. Cả hai từ điển chỉ trùng nhau nghĩa

thứ nhất, còn nghĩa thứ hai và thứ ba của Hoàng Phê khác nhau. Nghĩa tính

chất "Có tính chất của người anh hùng" được hình thành trên cơ sở từ nghĩa

thứ nhất "Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao đối với nhân dân, đất

nước". Qua đó cho thấy, cùng với thời gian, từ anh hùng tăng thêm liên hệ về

sự vật, tính chất trong hiện thực khách quan.

Nghĩa của từ "anh hùng" trong trường hợp này đã tương đương với

nghĩa tính chất nội tại, còn nghĩa định danh khái niệm của từ “anh hùng” yếu

đi và dần dần mất đi. Nghĩa tính chất của từ "anh hùng" được hình thành trên

cơ sở của sự phát triển nghĩa tính chất của danh từ "anh hùng".

Việc chú từ loại đã có bước phát triển theo tiến trình của lịch sử của Từ

điển tiếng Việt: Từ những công trình đầu tiên không chú từ loại (TĐKT

(1931) và TĐĐVT (1951)), sau đó chú nghĩa đầu tiên là danh từ (TĐTN

(1952), TĐVT (1967) và TĐLVĐ (1970)); Cho đến TĐHP (1988) và (2012)

đã có sự phân biệt giữa danh từ và tính từ. Qua lời định nghĩa trong các

TĐTV theo hướng lịch đại để thấy được tiến trình phát triển của nghĩa tiếng

Việt và sự chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ.

109

3.3.1.2. Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp từ "anh hùng"

Luận án lấy Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê để phân tích nội dung

ngữ nghĩa của trường hợp từ anh hùng (xem định nghĩa mục 3.3.1.1). Dựa

trên vào cách giải thích nghĩa, từ danh từ anh hùng có ba nghĩa khác nhau.

Trong đó, nghĩa thứ nhất "Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao đối với

nhân dân, đất nước" là nghĩa cơ sở để chuyển biến nghĩa mang thuộc tính

nghĩa tính chất "Có tính chất của người anh hùng". Từ nét nghĩa định danh

khái niệm (tài năng và có công trạng đặc biệt lớn lao) chuyển thành nét nghĩa

tính chất, thuộc tính (có tính chất của người anh hùng). Như vậy, muốn xác

định được nghĩa cơ bản của sự chuyển nghĩa thường là dựa vào nét nghĩa gốc

ban đầu. Chính vì vậy, trong nội dung khái quát cấu trúc nghĩa, chúng tôi

cũng lấy nghĩa cơ sở (Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao đối với nhân

dân, đất nước) và nghĩa chuyển (Có tính chất của người anh hùng) để phân tích.

Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ anh hùng thành các trường hợp sau:

(I): anh hùng = [(Chỉ người)1, (tài năng)2, (có công trạng lớn lao)3].

(I'): anh hùng = [(Công trạng lớn lao)1].

Từ những phân tích thành tố nghĩa ở trên có thể thấy: Cùng một vỏ âm

thanh anh hùng nhưng có hai cấu trúc nghĩa khác nhau, trường hợp I chỉ về

đối tượng (chỉ người) nên thuộc về nghĩa của danh từ; còn trường hợp I' chỉ

đặc trưng thuộc về nghĩa tính chất thuộc về nghĩa tính từ. Nét nghĩa thứ ba

của từ anh hùng trong trường hợp I là nét nghĩa cơ bản, nét nghĩa chuyển để

hình thành nên nét nghĩa tính chất của từ anh hùng trong trường hợp I'. Đây

cũng là "sợi dây" liên hệ ngữ nghĩa mật thiết trong quan hệ giữa danh từ anh

hùng và tính từ anh hùng. Điều này cho thấy, trong cùng một hình thức ngữ

âm nhưng chứa đựng hai cấu trúc nghĩa khác nhau và "các nghĩa khác nhau

đều phát triển trên một (hoặc một vài) nét nghĩa nào đó trong một nghĩa biểu

niệm của từ đó" [2, tr. 101].

110

Qua sự phân tích trên, nhận thấy: trường hợp I, từ anh hùng mang

nghĩa định danh khái niệm; trong đó nghĩa này đã bao gồm nghĩa sự vật của

từ anh hùng. Còn trường hợp I', từ anh hùng mang nghĩa tính chất bao gồm

nghĩa đen (nghĩa có tính chất nội tại) của từ anh hùng được thể hiện rõ trong

phần in nghiêng của định nghĩa của từ điển "công trạng đặc biệt lớn lao đối với

nhân dân, đất nước". Nét nghĩa này cũng chính là nét nghĩa chuyển và mang đặc

trưng khu biệt của nét nghĩa định danh khái niệm của từ anh hùng. Như vậy,

nghĩa của từ anh hùng đã bao gồm hai loại là nghĩa định danh khái niệm (danh

từ) và nghĩa biểu đạt tính chất (tính từ). Ví dụ, trong các ngữ cảnh sau:

(31) "Tất cả được chia thành nhiều cánh quân, có thể lấy tên những vị

anh hùng tiêu biểu đặt tên cho mỗi cánh quân và đồng loạt ra quân

ngày 18-7-2000" [V27: tr. 3].

(32) "Nhà thơ Đỗ Trung Quân kể: "Hồi đó thanh niên xung phong đa số

là dân thành phố vốn ít quen cơ cực, nhưng khi nhập cuộc lại rất anh

hùng..." [V28: tr. 5].

Xem xét qua ví dụ 31 và 32 ở trên có thể thấy: Từ anh hùng có hai

nghĩa khác nhau, ví dụ 31 từ anh hùng là danh từ, còn ví dụ 32 từ anh hùng là

tính từ biểu thị tính chất. Nghĩa tính chất của từ anh hùng được phát triển trên

cơ sở của nghĩa tính chất mà ví dụ 31 hàm chứa. Nghĩa tính chất đó được hình

thành do con đường chuyển đổi nghĩa với nghĩa có tính chất nội tại tiêu biểu

của từ anh hùng.

Từ cấu trúc nghĩa của từ anh hùng có thể thấy: trường hợp I có ba nét

nghĩa và trường hợp I' chỉ có một nét nghĩa. Trong đó, trường hợp I: nghĩa cơ

sở định danh là nghĩa thứ nhất (chỉ người); nghĩa phái sinh định danh là nghĩa

thứ ba (có công trạng lớn lao) - đây cũng là nghĩa tính chất của thực thể và

làm cơ sở cho sự chuyển biến nghĩa tính chất của trường hợp I' (công trạng

lớn lao). Nghĩa chuyển của trường hợp I' là nghĩa mang tính chất, đặc trưng.

111

Danh từ anh hùng có một số đặc tính để tiến hành chuyển biến lượng tính

của tính từ. Cụ thể: Ở đây, nét nghĩa nội tại của từ anh hùng (có công trạng lớn

lao) là đặc tính cơ bản, nổi bật và từ đó nảy sinh yêu cầu biểu đạt ngữ nghĩa của

từ anh hùng mà mọi người đều tiếp nhận được đặc tính ấy. Đây chính là điều

kiện cơ bản của quá trình chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính

từ qua trường hợp từ anh hùng đó là khi một từ có các đặc tính nổi bật và các

đặc tính ấy có nhu cầu biểu đạt ngữ nghĩa của các đặc tính đó.

Từ những phân tích về ngữ nghĩa có thể thấy: từ anh hùng đã bao gồm:

nghĩa định danh khái niệm thuộc về danh từ và nghĩa tính chất thuộc về tính

từ. Nghĩa biểu đạt tính chất được phát triển trên cơ sở nghĩa biểu đạt tính chất

của danh từ - đây là mối quan hệ giữa nghĩa cơ sở và nghĩa chuyển. Phương

thức chuyển nghĩa của từ anh hùng là ẩn dụ: danh từ chỉ người có tính cách,

đặc điểm điển hình để biểu thị tính cách, đặc trưng đó.

Cấu trúc ngữ nghĩa của từ anh hùng được tổ chức theo con đường sau:

Từ nghĩa 1 (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1), nghĩa 3 (S2) lại được phái sinh

từ nghĩa 2 (S1). Như vậy, có thể hình dung quá trình chuyển nghĩa của từ anh

hùng theo sơ đồ sau:

S0 S1 S2

S3

Nghĩa của từ anh hùng được biến đổi theo con đường vừa móc xích vừa

lan tỏa.

3.3.1.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ của trường hợp từ "anh hùng"

Luận án thử khảo sát 1000 ngữ cảnh từ anh hùng trong Chương trình

tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt

Nam, có thể thấy: Trong 1000 ngữ cảnh của từ anh hùng, có 16 ngữ cảnh

(chiếm 1,6%) tổng số ngữ cảnh có chuyển nghĩa của từ anh hùng. Các ngữ

112

cảnh được sử dụng thuộc các lĩnh vực báo chí (4/16), văn học (3/16), sách

văn hóa - chính trị - xã hội (9/16), v.v. Ví dụ:

(33) "Đêm hôm đó tin và bài về hành động anh hùng của Tracy được

tung ra, các tình tiết được đưa lên màn ảnh truyền hình quốc gia, thế là câu

chuyện lan nhanh" [V29: tr. 148].

Ngoài ra, từ anh hùng còn được sử dụng nhiều trong giao tiếp đời

thường. Ví dụ: (34) "Một hành động quá anh hùng".

Ngữ cảnh có vai trò rất quan trọng để tiếp nhận thành phần ngữ nghĩa

cũng như chức năng của từ. Ngữ cảnh biểu thị đặc trưng ngữ nghĩa của danh

từ và vị trí ngữ pháp hiện thực hóa cơ sở ngữ cảnh nhất định. Từ anh hùng khi

ở vị trí định ngữ cùng với kết hợp từ chỉ mức độ thì ngữ nghĩa mang tính

miêu tả thuộc về nghĩa tính chất của danh từ. Hơn nữa, mục đích phát ngôn

cũng đã thay đổi, không còn là miêu tả như khi ở vị trí khi làm chủ ngữ, mà là

chức năng thông báo về các đặc trưng đó. Điều này có thể được lý giải khi đặt

trong ngữ cảnh cụ thể. Ví dụ: (35) "Anh ấy rất anh hùng".

Lý giải về từ anh hùng có nhiều nghĩa khác nhau nhưng khi đặt trong

ngữ cảnh cụ thể như ví dụ trên thì có thể thấy, nghĩa của từ anh hùng thuộc về

phẩm chất, đặc tính tiêu biểu. Đó là các phẩm chất gan dạ, có đạo đức cao

đẹp, sở hữu sức mạnh vượt trội, chiến đấu dũng cảm để tạo nên những chiến

công hiển hách.

Từ những phân tích trên có thể nhận thấy, trường hợp từ anh hùng đã

có sự chuyển biến nghĩa. Quy tắc chuyển nghĩa của trường hợp từ anh hùng

là danh từ chỉ người có tính chất tiêu biểu của chúng để biểu thị những đặc

trưng đó. Quá trình chuyển biến nghĩa không mang tính lẻ tẻ, riêng từng từ

mà theo một hệ thống từ vựng, có quy luật riêng. Ngoài từ anh hùng như đã

phân tích và miêu tả ở mục trên, chúng tôi còn nhận thấy trong tiếng Việt,

có một số danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ giống con đường chuyển

nghĩa của từ anh hùng. Có thể kể ra một số trường hợp khác trong tiếng

113

Việt như bình dân, thánh, chúa, ma mãnh, du côn, trưởng giả, bác học, đế

vương, v.v.

Để phân biệt giữa nghĩa danh từ và nghĩa tính từ, trong TĐHP định

nghĩa từ theo nghĩa chuyển nghĩa của từ anh hùng theo cấu trúc "có tính

chất...". Theo đó, khảo sát trong TĐHP, chúng tôi nhận thấy có nhiều trường

hợp được định nghĩa theo cấu trúc như vậy: bộ phận, công thức, dân sự, du

côn, đa diện, đại cương, đặc trưng, hàn lâm, hình thức, hoang dã, khách quan,

khoa học, kinh viện, quân phiệt, quê, thần thánh, thời đại, thời sự, tổng thể,

trẻ con, tri kỉ, truyền thống, v.v.

3.3.2. Trường hợp từ "bình dân"

3.3.2.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bình dân" trong các Từ điển tiếng Việt

Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895), Việt Nam tự điển

của Hội Khai trí Tiến đức (1931) và Tự điển Việt Nam phổ thông của Đào

Văn Tập (1951) từ bình dân được định nghĩa lần lượt là “Bình. - dân. Dân

làm ăn, không có danh phận gì với Nhà-nước” [21, tr. 58]; “bình-dân. Người

dân thường, không có danh-phận gì [thuộc bình1, IV]” [52, tr. 49] và “bình-

dân. Dân thường: Chính-phủ bình-dân" [89, tr. 52]. Như vậy, cả ba từ điển

khi định nghĩa về từ bình dân đều chỉ có một nghĩa (chỉ về người dân thường)

và các công trình từ điển này không chú từ loại.

Đến Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị (1952), từ bình dân được

giải thích có hai nghĩa và có chú từ loại là dt (danh từ): 1. Dân thường, dân

chúng. 2. Bình dân học vụ. Đảng bình-dân [73, tr. 129].

Cho đến Từ điển tiếng Việt của Văn Tân (1967) [88, tr. 81] khi giải

thích từ bình dân đã có thêm các nghĩa mới và có sự phân biệt nghĩa danh từ

và nghĩa tính từ. Nghĩa danh từ có ba nghĩa khác nhau: 1. chỉ về người cổ đại

La Mã; 2. chỉ về người dưới chế độ phong kiến và 3. chỉ về người nhân dân

lao động. Nghĩa tính từ có hai nghĩa là: 1. Phục vụ nhân dân lao động, dùng

cho nhân dân lao động; 2. Giản dị và dễ gần. Nghĩa thứ nhất của tính từ được

114

phát triển từ nghĩa thứ ba của danh từ (người nhân dân lao động). Còn nghĩa

thứ hai của tính từ được khái quát từ nghĩa tính chất chung của danh từ bình

dân .

Đến Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (1970) [30, tr. 106], khi giải thích

từ bình dân chỉ còn một nghĩa danh từ (chỉ về người dân thường) và một nghĩa

tính từ (chỉ về tính cách thông thường, bình thường).

Cho đến những thập niên 90 của thế kỉ XX, trong Từ điển tiếng Việt

(Hoàng Phê chủ biên), từ bình dân đã được giải thích với hai nghĩa danh từ và

hai nghĩa tính từ.

bình dân.

I. dt.

1. Người dân thường (nói khái quát, thường là trong xã hội cũ).

Sự đối lập giữa quý tộc và bình dân.

2. (kng.; dùng phụ sau dt.). Bình dân học vụ (nói tắt).

Giáo viên bình dân. Lớp bình dân.

II. tt.

1. Của tầng lớp bình dân, dành riêng cho tầng lớp bình dân.

Văn học bình dân. Quán cơm bình dân.

2. Bình thường, giản dị, gần gũi với quần chúng.

Tác phong bình dân. Cách nói năng rất bình dân [80, tr. 65].

So sánh cách giải thích nghĩa của từ bình dân qua các công trình từ điển

xuất bản trong những thời gian khác nhau kéo dài suốt các thập niên của nửa

cuối thế kỉ XX để thấy được quá trình phát triển nghĩa từ vựng của từ này. Từ

xử đơn nghĩa trong các từ điển trước những năm 1951 của thế kỉ XX và cùng

với thời gian đã phát triển thành đa nghĩa. Đến TĐTV của Văn Tân và Hoàng

Phê phát triển bước cao hơn là xử đồng âm từ vựng và tách các nghĩa danh từ

và nghĩa tính từ khác nhau. Quá trình chuyển nghĩa từ nghĩa danh từ chỉ về

115

đối tượng (người dân thường) phát triển thành nghĩa tính chất, thuộc tính của

sự vật, hiện tượng đó.

3.3.2.2. Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp từ "bình dân"

Luận án lấy Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê để phân tích nội dung

ngữ nghĩa của trường hợp từ bình dân. Dựa trên lời định nghĩa của Từ điển

tiếng Việt (xem định nghĩa mục 3.3.2.1), danh từ bình dân có hai nghĩa. Trong

đó, nghĩa thứ nhất (Người dân thường (nói khái quát, thường là trong xã hội

cũ)) là nghĩa cơ sở để chuyển biến sang nghĩa chuyển.

Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ bình dân thành các trường hợp sau:

(K): bình dân = [(Chỉ người)1, (bình thường, không chức phận)2].

(K’): bình dân = [(Thuộc về bình dân)1 (Bình thường)2 (giản dị, gần gũi)3]

Từ những phân tích thành tố nghĩa ở trên có thể thấy: Cùng một vỏ âm

thanh bình dân nhưng có hai cấu trúc nghĩa khác nhau, trường hợp K chỉ

người nên thuộc về nghĩa danh từ và Trường hợp K’ chỉ về thuộc tính, tính

chất bình thường, giản dị nên thuộc về nghĩa tính từ.

Trường hợp K: nghĩa cơ sở định danh là nghĩa thứ nhất (chỉ người); nghĩa

phái sinh định danh là nghĩa thứ hai (bình thường, không chức phận) - đây cũng

là nghĩa tính chất thuộc về nghĩa danh từ, làm cơ sở cho sự chuyển nghĩa sang

nghĩa tính chất của Trường hợp K’ (thuộc về bình dân) - nghĩa tính chất của tính

từ bình dân.

Ví dụ, trong các ngữ cảnh sau:

(36) "Người bình dân" [80, tr. 65].

(37) "Quán cơm bình dân" [80, tr. 65].

Ngữ cảnh trong hai ví dụ 36 và 37 có sự khác biệt về nghĩa, ở ví dụ 36 là

nghĩa sự vật chỉ về người nên thuộc về nghĩa của danh từ; còn trong ví dụ 37 là

nghĩa tính chất, thuộc tính của "quán cơm" bình thường, giản dị cho nên thuộc

về nghĩa tính từ. Mối liên hệ ngữ nghĩa giữa các từ ở ví dụ 36 và ví dụ 37 là

nghĩa tính chất của từ bình dân trong ví dụ 37 được phát triển trên cơ sở nghĩa

116

tính chất mà danh từ bình dân trong ví dụ 36 đã hàm chứa. Nghĩa tính chất của

ví dụ 37 được hình thành qua sự biến đổi về nghĩa qua phương thức ẩn dụ.

Quy luật chuyển nghĩa của danh từ bình dân mang thuộc tính nghĩa của

tính từ bình dân là: từ danh từ chỉ người có tính chất đặc trưng (thuộc nét

nghĩa "bình thường") của chúng để biểu thị những đặc trưng, thuộc tính đó.

Phương thức chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ.

Cấu trúc ngữ nghĩa của từ bình dân được tổ chức theo con đường sau:

Từ nghĩa 1 (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1), nghĩa 3 (S2) lại được phái sinh

từ nghĩa 2 (S1). Như vậy, có thể hình dung quá trình chuyển nghĩa của từ bình

dân theo sơ đồ sau:

S0 S1 S2

S3

Nghĩa của từ bình dân được biến đổi theo con đường vừa móc xích vừa

lan tỏa.

3.3.2.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ của trường hợp từ "bình dân"

Khảo sát Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển

học và Bách khoa thư Việt Nam đối với trường hợp từ bình dân có thể thấy:

Trong 429 ngữ cảnh và thuộc bốn lĩnh vực (báo chí, sách văn hóa - chính trị -

xã hội, văn học và ngữ liệu từ điển) thì tần số xuất hiện nhiều nhất là lĩnh vực

báo chí (204/429) và ít nhất là ngữ liệu từ điển (20/429).

Sự phát triển của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ của trường hợp

từ bình dân xuất hiện nhiều trong lĩnh vực báo chí bởi vì lĩnh vực báo chí

thuộc ngữ liệu văn viết, bao gồm nhiều chủ đề khác nhau, sử dụng tần suất

cao, số lượng ngữ liệu lớn, phát sinh hiện tượng chuyển nghĩa của danh từ

mang thuộc tính nghĩa tính từ tương đối lớn.

117

Ví dụ: (38) "Café ca nhạc bình dân là những quán chủ yếu dành cho đối

tượng sinh viên, học sinh như Cội nguồn, Vườn Thanh niên hay Rap

café..."[V30].

Từ những phân tích và biện giải trên có thể thấy: sự chuyển nghĩa từ

danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ của trường hợp từ bình dân. Quá trình

chuyển nghĩa đó biểu hiện ở nội dung nghĩa, sự biến đổi nghĩa về số lượng

(đơn nghĩa, đa nghĩa) và hàm nội dung nghĩa có sự biến đổi theo trục lịch đại.

3.3.3. Trường hợp từ "cách mạng"

3.3.3.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "cách mạng" trong các Từ điển tiếng Việt

Trong các cuốn từ điển Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của,

Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến đức (1931), Tự điển Việt Nam phổ

thông của Đào Văn Tập và Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị, chúng tôi

không tìm thấy mục từ cách mạng. Điều này cho thấy từ cách mạng chỉ xuất

hiện vào những năm 60 của thế kỉ XX. Trong Từ điển tiếng Việt (Văn Tân), từ

cách mạng được phân tách thành hai nghĩa danh từ.

cách mạng. dt. Cg. Cách mệnh.

1. Cuộc đấu tranh của giai cấp bị áp bức đứng lên lật đổ nền thống trị của

giai cấp áp bức, phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng một chế độ mới và tiến bộ. 2.

Sự phá bỏ tổ chức cũ xấu xa để dựng nên một hệ thống mới tốt đẹp: Cách mạng văn

hoá [88, tr. 116].

Đến Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (1970) khi định nghĩa từ cách

mạng, người biên soạn đã không phân tách nghĩa thành từng mục riêng và

cũng không chú từ loại.

cách-mạng (mệnh). bt.

Sửa-đổi chế-độ cũ cho tốt đẹp hơn hoặc thay-thế chế-độ cũ bằng chế-độ mới,

người mới với võ-lực [30, tr. 154].

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, từ cách mạng được giải thích như sau:

118

cách mạng. I d. 1 Cuộc biến đổi xã hội - chính trị lớn và căn bản, thực hiện

bằng việc lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời, lập nên một xã hội mới, tiến bộ. 2 Cuộc

đấu tranh nhằm thực hiện một cuộc cách mạng xã hội. 3 Quá trình thay đổi lớn và

căn bản theo hướng tiến bộ trong một lãnh vực nào đó. 4 (viết hoa). Cách mạng

tháng Tám (nói tắt). II t. Thuộc về cách mạng, có tính chất cách mạng [80, tr. 102].

Theo cách giải thích trên, từ cách mạng có bốn nghĩa thuộc danh từ,

trong đó nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ ba giống của TĐVT, có thêm nghĩa thứ

hai và nghĩa thứ tư. Trong quá trình phát triển nghĩa của từ cách mạng xuất

hiện nghĩa mới biểu thị tính chất, thuộc tính của từ cách mạng, chuyển biến

cấu trúc nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ. Con đường phát triển

nghĩa của từ này là một từ vừa có thuộc tính nghĩa phản ánh sự kiện, vừa có

thuộc tính nghĩa biểu thị tính chất, thuộc tính của sự kiện đó. Đây là con

đường khái quát hóa trong quá trình phát triển nghĩa, thể hiện sự sáng tạo của

cá nhân sử dụng ngôn ngữ trong tiến trình thời gian.

3.3.3.2. Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp từ "cách mạng"

Dựa vào cách giải thích nghĩa của Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê

(xem định nghĩa mục 3.3.3.1), nghĩa của từ cách mạng được ghi nhận có bốn

nghĩa khác nhau. Trong đó, nghĩa đầu tiên (Cuộc biến đổi xã hội - chính trị

lớn và căn bản, thực hiện bằng việc lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời, lập nên

một xã hội mới, tiến bộ) là cơ sở để chuyển nghĩa tính từ cách mạng (Thuộc

về cách mạng, có tính chất cách mạng).

Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ cách mạng thành các trường

hợp sau:

(L): cách mạng = [(Sự kiện)1 (có sự biến đổi lớn)2 (lật đổ cái cũ, thay

thế cái mới)3].

(L’): cách mạng = [(Biến đổi lớn)].

Từ sự phân tích thành tố nghĩa ở trên có thể thấy: Cùng một vỏ âm

thanh cách mạng nhưng có hai nghĩa khác nhau, trường hợp (L) chỉ về sự kiện

119

nên thuộc nghĩa của danh từ; còn Trường hợp (L’) chỉ về đặc trưng biến đổi

thuộc nghĩa của tính từ. Trong trường hợp L, từ cách mạng có ba nét nghĩa,

trong đó nét nghĩa thứ hai (có sự biến đổi lớn) là nét nghĩa cơ bản để chuyển

đổi nghĩa từ nét nghĩa sự vật sang nét nghĩa đặc trưng của từ cách mạng của

Trường hợp L’.

Từ cấu trúc nghĩa của từ cách mạng có thể thấy: Số lượng các nét nghĩa

trong hai cấu trúc khác nhau (trường hợp L có ba nét nghĩa và Trường hợp L’

chỉ có một nét nghĩa). Trong đó, trường hợp L: nghĩa cơ sở định danh là nghĩa

thứ nhất (chỉ sự kiện); nghĩa phái sinh định danh là nghĩa thứ hai (có sự biến

đổi lớn) - nét nghĩa cơ bản để chuyển đổi nghĩa từ nét nghĩa sự vật sang nét

nghĩa đặc trưng của từ cách mạng của Trường hợp L’.

Ví dụ trong các ngữ cảnh sau:

(39) "Cách mạng1 xã hội chủ nghĩa" [80, tr. 102].

(40) "Chính quyền cách mạng2" [80, tr. 102].

Qua các ngữ cảnh 39 và 40 có thể thấy, từ cách mạng có ngữ nghĩa khác

nhau. Từ cách mạng1 chỉ về một cuộc cách mạng cụ thể trong lịch sử (cách

mạng xã hội chủ nghĩa) cho nên thuộc về nghĩa sự vật. Từ cách mạng2 biểu thị

đặc trưng tính chất của chính quyền cho nên thuộc về nghĩa tính chất. Mối liên

hệ ngữ nghĩa giữa nghĩa của từ cách mạng trong ngữ cảnh 39 và 40 là đều chỉ về

thuộc tính (có sự biến đổi lớn) mà danh từ cách mạng1 hàm chứa.

Nghĩa tính chất nội tại của từ cách mạng thể hiện chữ in nghiêng trong

lời định nghĩa của từ điển: "cuộc biến đổi xã hội - chính trị lớn và căn bản,

thực hiện bằng việc lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời, lập nên một chế độ xã

hội mới, tiến bộ".

Quy tắc chuyển nghĩa của trường hợp từ cách mạng là: danh từ biểu thị

những thuật ngữ chính trị - xã hội, những khái niệm trừu tượng về thế giới vật

chất có thể dùng để chỉ cái gì đó thuộc về bản chất, vốn thường có ở con

người, hoặc tính linh hoạt gắn liền với cuộc sống ở con người. Phương thức

120

chuyển nghĩa của trường hợp từ cách mạng là ẩn dụ. Có thể kể ra một số

trường hợp khác trong tiếng Việt như khoa học, hàn lâm, thực tế, kinh viện, thực

tiễn, tự nhiên, hình thức, ...

Cấu trúc ngữ nghĩa của từ cách mạng được tổ chức theo con đường sau:

Từ nghĩa 1 (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1), từ nghĩa S0 lại được phái sinh

từ nghĩa 1 (S2 và S3). Như vậy, có thể hình dung quá trình chuyển nghĩa của

từ cách mạng theo sơ đồ sau:

S0 S1

S2 S3

Nghĩa của từ cách mạng được biến đổi theo con đường vừa móc xích

vừa lan tỏa. Kết cấu của từ cách mạng theo một hệ thống sơ đồ tuyến tính, từ

nghĩa thứ nhất dẫn đến nghĩa thứ hai.

Từ những phân tích trên có thể thấy, giữa danh từ cách mạng và tính từ

cách mạng đã có sự chuyển biến nghĩa.

3.3.3.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ của trường hợp từ "cách mạng"

Thử khảo sát Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển

học và Bách khoa thư Việt Nam, có thể thấy: trong 1000 ngữ cảnh của từ cách

mạng, có 100 ngữ cảnh (chiếm 10%) có chuyển nghĩa của từ cách mạng. Trong

đó, báo chí có 54/100 (chiếm 54%), lịch sử có 21/100 (chiếm 21%), văn học có

20/100 (chiếm 20%) và sách văn hóa - chính trị - xã hội có 5/100 (chiếm 5%).

Danh từ cách mạng mang thuộc tính nghĩa tính từ được phân bố ở năm

lĩnh vực (báo chí, văn học, lịch sử, sách văn hóa - chính trị - xã hội và từ

điển), tuy nhiên tần số xuất hiện khác nhau. Trong 100 ngữ cảnh chuyển

nghĩa của từ cách mạng, có 54 ngữ cảnh xuất hiện trong báo chí. Đây là lĩnh

vực có số lượng nhiều và tần suất sử dụng cao nhất, bởi vì báo chí là lĩnh vực

thuộc ngữ liệu văn viết, số lượng ngữ liệu lớn, phát sinh hiện tượng chuyển

nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ tương đối lớn, trong đó có từ

121

cách mạng. Ví dụ: (41) - "Không ai có thể thay thế nhân dân trong sự lựa

chọn tư tưởng cách mạng" [V31: tr. 2]

Lĩnh vực lịch sử có 21 ngữ cảnh chuyển nghĩa của từ cách mạng, chiếm

vị trí thứ hai trong năm lĩnh vực. Lịch sử phản ánh những sự kiện và những gì

thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội loài người. Các sự kiện chính trị, xã

hội có liên quan được miêu tả trong đó. Ví dụ: (42) - "Đặc biệt tại Ba Tơ

(Quãng Ngãi), tù chính trị đã nổi dậy, đánh chiếm đồn giặc, lập chính quyền cách

mạng và tổ chức đội du kích Ba Tơ" [V32: tr. 1-31].

Lĩnh vực văn học có 20 ngữ cảnh chuyển nghĩa của từ cách mạng,

chiếm vị trí thứ ba trong năm lĩnh vực. Văn học tái hiện lại các vấn đề, sự vật

hiện tượng trong đời sống xã hội - con người bằng ngôn ngữ. Một trong

những đặc điểm cơ bản của văn học là thông qua các hình tượng văn học phản

ánh cuộc sống, biểu đạt tình cảm và nhận thức của tác giả đối với nhân sinh

và xã hội. Để xây dựng đặc điểm cơ bản ngôn ngữ văn học dựa vào các yếu

tố: Một là, từ hiện thực cuộc sống được tác giả vận dụng các thủ pháp nghệ

thuật để xây dựng nên các hình tượng nghệ thuật; Hai là, văn học gắn liền với

liên tưởng và hư cấu trong tác phẩm; Ba là, ngôn ngữ văn học phong phú, đa

dạng. Do đó, hiện tượng chuyển nghĩa cũng thường xuất hiện trong văn học,

làm cho ngôn ngữ phong phú. Ví dụ: (43) - "Ở Liên Xô, có tổ chức bảo vệ an

ninh quốc gia, gọi là KGB, nhằm phát hiện và đấu tranh với những âm mưu

chính trị, quân sự của địch để bảo vệ chính quyền cách mạng" [V33: tr. 65].

Lĩnh vực sách văn hóa - chính trị - xã hội có năm ngữ cảnh chuyển

nghĩa của từ cách mạng. Ví dụ: (44) - "Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp

tiến hành đảo chính lật đổ chính quyền cách mạng ở Sài Gòn" [V34: tr. 178].

Để phân biệt giữa nghĩa tính từ và nghĩa danh từ của từ cách mạng,

trong TĐHP định nghĩa theo cấu trúc riêng là "thuộc về..., có tính chất...".

Theo đó, khảo sát trong TĐHP, chúng tôi nhận thấy nhiều trường hợp được

122

định nghĩa theo cấu trúc như vậy: bác học, cục bộ, giáo điều, lịch sử, phong

kiến, tập thể, vô sản, xã hội chủ nghĩa, v.v.

3.3.4. Trường hợp từ "phúc"

3.3.4.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "phúc" trong các Từ điển tiếng Việt

Trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của (1895-1896) từ

phúc được giải thích với nghĩa là:

Phúc. c. (Phước). [21, tr.822]

Từ phúc trong Việt Nam tự điển của HKTTĐ (1931) được giải thích với nghĩa:

phúc.

Điều hay, điều tốt, do việc làm nhân đức mà ra [52, tr. 445].

Đến Tự điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập (1951), từ phúc

được giải thích như sau:

phúc.

1. (h. Phước) Điều hay, điều tốt.

có phúc; phúc bất trùng lai.

2. (h. Phước) Điều nhân-đức.

làm phúc [89, tr. 493].

Việt Nam tân tự điển (TN) (1952), từ phúc được giải thích với hai nghĩa:

phúc. dt.

1. Điều hay, điều tốt, cũng gọi là phước.

Phúc chủ may thầy. Phúc nào đọ được giá nầy cha ngang (Ng.Du)

2. Làm phúc [73, tr. 1080].

Cho đến Từ điển tiếng Việt (Văn Tân) (1967), từ phúc được giải thích

với hai nghĩa: nghĩa danh từ và có thêm nghĩa tính từ. So với các công trình từ

điển trước đó, TĐVT đã chú từ loại khác nhau.

Phúc.

1. dt. Việc tốt lành :

Nhà có phúc.

123

2. tt. May mắn :

Phúc cho hắn thoát nạn [88, tr. 630].

Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức) (1970), từ phúc được giải thích có nghĩa:

PHÚC. dt. X. Phước

1. dt. (truyền): C/g.

Phúc điều tốt lành do Trời Phật ban cho người từng làm nhiều việc nhân-

đức:

Ban phước, cầu phước, có phước, chúc phước, giáng phước, hạnh-phước,

hồng-phước, hưởng phước, kiểng-phước, làm phước, ngũ phước, vĩnh-

phước, vô-phước; Có phước có phần

2. trg. May-mắn, hên:

Cũng phước, may phước, thiệt phước; Phước chủ may thầy [30, tr. 1175].

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1988, 2012), từ phúc được giải thích

thành hai nghĩa và chú từ loại (danh từ, tính từ) giống Từ điển tiếng Việt của

Văn Tân:

phúc.

I. dt. Điều may lớn, điều mang lại những sự tốt lành lớn; trái với hoạ.

Con hơn cha là nhà có phúc (tng.)

Phúc nhà anh ta còn to lắm (kng.; gặp hoạ, nhưng vẫn còn may).

II. tt. (kng.; thường dùng trong câu biểu cảm). May mắn.

Thật phúc cho nó, tai qua nạn khỏi. Như vậy là phúc lắm rồi! [80, tr.763]

Như vậy, trong khoảng thời gian gần hai thế kỉ (cuối thế kỉ 19 đến đầu

thế kỉ 21), từ phúc đã phát triển thêm nhiều nghĩa mới và cấu trúc nghĩa của

từ này được phát triển theo chiều hướng khái quát hóa. So với các công trình

trước đó (TĐHTC, TĐKT, TĐĐVT, TĐTN và TĐLVĐ) thường giải thích với

các nghĩa cụ thể thì đến TĐVT và TĐHP đã giải thích các nghĩa khái quát và

nghĩa trừu tượng tính chất của từ phúc. Nghĩa danh từ của từ phúc đều được

các công trình Từ điển tiếng Việt giải thích tuy lời giải thích và mức độ tính

124

khái quát khác nhau. Đó là nghĩa chỉ về quan điểm đánh giá về sự may mắn,

tốt lành. Trong quá trình phát triển nghĩa, từ này nảy sinh thêm nghĩa mới

biểu thị tính chất, đặc trưng.

3.3.4.2. Nội dung ngữ nghĩa của từ "phúc"

Dựa trên định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (xem định

nghĩa mục 3.3.4.1), từ phúc được định nghĩa thành hai nghĩa.

Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ phúc thành các trường hợp sau:

(M): phúc = [(Quan điểm đánh giá)1, (may mắn)2, (tốt lành)3].

(M'): phúc = [(May mắn)1].

Từ những phân tích thành tố nghĩa ở trên có thể thấy: Cùng một vỏ ngữ

âm (phúc) nhưng có hai cấu trúc nghĩa khác nhau, trường hợp M chỉ về quan

điểm đánh giá nên thuộc về nghĩa của danh từ; còn trường hợp M' chỉ đặc trưng

thuộc về nghĩa tính chất thuộc về nghĩa tính từ. Nét nghĩa thứ hai của từ phúc

trong trường hợp M là nét nghĩa cơ bản, nét nghĩa chuyển để hình thành nên

nét nghĩa tính chất của từ phúc trong trường hợp M'. Đây cũng là "sợi dây" liên

hệ ngữ nghĩa mật thiết trong quan hệ giữa danh từ phúc và tính từ phúc.

Về số lượng nghĩa trong hai trường hợp M và M' nói trên: nếu ở trường

hợp M có ba nét nghĩa thì ở trường hợp M chỉ có duy nhất một nét nghĩa. Đây là

hình thức thu hẹp nghĩa (restriction/narrowing).

Như vậy, trường hợp M, từ phúc mang nghĩa định danh khái niệm; và

nghĩa định danh khái niệm đã bao gồm nghĩa sự vật. Còn trường hợp M', từ

phúc mang nghĩa biểu đạt tính chất. Nét nghĩa này cũng chính là nét nghĩa

chuyển và mang đặc trưng khu biệt của nét nghĩa định danh khái niệm của từ

phúc. Nghĩa của từ phúc đã bao gồm hai loại là nghĩa định danh khái niệm

(danh từ) và nghĩa tính chất (tính từ).

Nghĩa chuyển của từ phúc mang đặc trưng, tính chất và có mối liên hệ

với nghĩa cơ sở chỉ sự vật (quan điểm đánh giá).

Ví dụ:

125

(45) "Phúc1 nhà anh ta còn to lắm" [80, tr. 763].

(46) "Thật phúc2 cho nó, tai qua nạn khỏi" [80, tr. 763].

Quan sát hai ví dụ 45 và 46 ở trên có thể thấy: ở ví dụ 45, từ phúc1 chỉ

quan điểm đánh giá thuộc về danh từ; còn từ phúc2 trong ví dụ thứ 46 chỉ về

đặc trưng, tính chất thuộc về tính từ.

Quy luật chuyển nghĩa của trường hợp từ phúc là: danh từ trừu tượng

biểu thị quan điểm đánh giá may, tốt về hoàn cảnh, các phạm trù đạo đức

được dùng để biểu thị tính chất, hoàn cảnh, đạo đức tương ứng. Phương thức

chuyển nghĩa của trường hợp này là ẩn dụ. Có thể kể ra một số trường hợp

khác trong tiếng Việt như hạnh phúc, phúc đức, lợi, lợi hại, nhân đạo, vinh hạnh,

văn minh, hảo tâm, nhiệt tình, kiểu cách, rủi, oan trái, hoạn nạn, v.v.

Cấu trúc ngữ nghĩa của từ phúc được tổ chức theo con đường sau:

Từ nghĩa 1 nghĩa cơ bản (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1) và (S2). Có thể

hình dung quá trình chuyển nghĩa của từ phúc theo sơ đồ sau:

S0 S1

S2

Các nghĩa phái sinh của từ phúc được phát triển theo hướng tỏa ra.

3.3.4.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ của trường hợp từ "phúc"

Thử khảo sát trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện

Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam có thể thấy: Trong 1614 ngữ cảnh từ

phúc có 100 đơn vị (chiếm 6.2%) chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa tính từ.

Trong đó, các ngữ cảnh thuộc các lĩnh vực khác nhau: văn hóa chính trị

(23/100), báo chí (14/100), ngữ liệu từ điển (7/100), ... Nhiều nhất là lĩnh vực

văn học (60/100) vì đặc trưng thể loại - văn học phản ánh toàn bộ các vấn đề

vật chất và tinh thần (tư tưởng, tình cảm, đạo đức) của con người một cách

chân thức nhất. Tần suất xuất hiện nhiều các trường hợp chuyển nghĩa danh từ

mang thuộc tính nghĩa tính từ trong các lời thoại của nhân vật mang tính đánh

126

giá, nhận xét. Bởi trong văn học, lời thoại của nhân vật là hình thức giao tiếp

thường xuyên, phổ biến nhất của ngôn ngữ, đồng thời cũng là hình thức căn

bản của mọi hoạt động ngôn ngữ khác.

Chẳng hạn:

(47) "Thôi mình đừng khóc nữa, được như vậy cũng là phúc lắm rồi".

[V35: tr. 565]

(48) "- Trời, dzậy là em tốt phúc quá!" [V36: tr. 95]

Từ ví dụ 47 và 48 cho thấy, các đánh giá "phúc lắm rồi", "tốt phúc quá"

thể hiện nghĩa tính chất rất rõ.

3.3.5. Trường hợp từ "quê"

3.3.5.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "quê" trong các Từ điển tiếng Việt

Trong Đại Nam quấc âm tự vị (1895-1896) của Huình Tịnh Của từ quê

được giải thích với một nghĩa sau: “Quê. n. Đất tổ phụ, xứ sở mình” [21, tr. 842].

Đến Từ điển Khai Trí Tiến Đức (1931) từ này được giải thích với hai

nghĩa là “ I. Nơi cỗi rễ của dòng họ nhà mình. Quê cha, đất tổ. Văn-liệu: Quê

người đất khách. Một chốn, đôi quê. Sống quê cha, ma quê chồng. Chim, gà,

cá, lợn, cành cau, Mùa nào thức ấy giữ màu nhà quê (C-d). Sống nhờ đất

khách, thác chôn quê người (K). Ngẩn-ngơ quê khách, gập-ghềnh đất xa (Nh-

đ-m). Hồn quê thơ-thẩn như dường theo ai (H-T). Lòng quê nghĩ một đôi điều

ngang-ngang (K). II. Mộc-mạc chất-phác. Ăn nói quê. Văn-liệu: Lời quê góp

nhặt dông-dài, Mua vui cũng được một vài trống canh (K)” [52, tr. 458].

Đến Tự điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập (1951), từ quê được

“quê.

1. Nơi cội rễ của dòng họ nhà mình. quê nội; quê ngoại; quê cha đất tổ; nhớ

quê chàng lại tìm đường thăm quê. 2. Nơi đồng ruộng làng mạc, đối với

thành-thị. nhà quê; thú quê. 3. Vụng về chất-phác. ăn mặc quê; điệu bộ quê;

lời quê chắp nhặt dông dài [89, tr. 507].

giải thích có ba nghĩa:

127

Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị (1952) từ quê cũng được giải

thích có ba nghĩa giống với từ điển của Đào Văn Tập:

quê.

I. dt. Nơi mình sinh đẻ: Quê cha, đất tổ. Hồn quê thơ-thẩn như dường theo ai

(Ng.h.Tự). II. bt. Nơi thôn dã: Thú quê. III. Mộc-mạc, chất-phác: Cô ấy còn

quê lắm [73, tr. 1103].

Đến TĐTV Văn Tân (1967) từ quê được giải thích với các nghĩa sau:

Quê.

I. - dt. 1. Cg. Quê hương. Nơi gốc rễ của dòng họ mình. 2. Nông thôn: Về

quê nghỉ. II. - Mộc mạc, thiếu văn vẻ (cũ): Dáng điệu trông quê lắm [88,

tr.642].

Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (1970), từ quê được giải thích với

bốn nghĩa:

QUÊ.

1. dt. Nơi xa thành-thị: Nhà-quê, thôn-quê.

2. Xứ-sở, nơi cội-rễ ông bà cha mẹ mình: Sống quê cha, ma quê chồng.

3. Chỗ ở: Một kiểng hai quê.

4. tt. Thô-kệch, mộc-mạc, kém hiểu biết: Đất quê chớ người không quê; Tới

đây lạ xứ lạ người, Trăm bề nhẫn-nhịn, đừng cười tôi quê (CD) [30, tr. 1205].

Đến TĐTV của Hoàng Phê, từ quê được giải thích có hai nghĩa:

quê.

I. dt.

1. Nơi gia đình, dòng họ đã qua nhiều đời làm ăn sinh sống, thường đối với

mình có sự gắn bó tự nhiên về tình cảm.

Về thăm quê. Quê mẹ. Chính quê ở tỉnh A. Tình quê (tình cảm quê hương).

2. Nông thôn, nơi có đồng ruộng làng mạc.

Ở quê ra tỉnh. Dân quê.

II. tt. Có tính chất quá mộc mạc, kém vẻ thanh lịch.

Cách ăn mặc còn hơi quê [80, tr. 781].

128

Như vậy, nội dung của cùng một từ quê được các từ điển giải thích

không giống nhau. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, các soạn giả đã phân tích

và tổng hợp các giá trị phản ánh và đánh giá hiện thực văn hóa để đưa vào từ

điển với những mức độ khác nhau. Từ quê được xử đa nghĩa và cho đến từ

điển của Thanh Nghị trở đi đã có chú từ loại. Đến từ điển của Hoàng Phê đã

xử thành hai từ đồng âm cùng gốc (quê dt. (danh từ) và quê tt. (tính từ)) tức

là kỹ thuật xử ở mức cao hơn là phân biệt nghĩa danh từ và tính từ.

3.3.5.2. Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp từ "quê"

Dựa trên lời định nghĩa của Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (xem định

nghĩa mục 3.3.5.1), danh từ quê được giải thích hai nghĩa, trong đó nghĩa cơ sở

là nghĩa thứ nhất (Nơi gia đình, dòng họ đã qua nhiều đời làm ăn sinh sống,

thường đối với mình có sự gắn bó tự nhiên về tình cảm) để chuyển biến nghĩa

mang thuộc tính nghĩa tính chất (Có tính chất quá mộc mạc, kém vẻ thanh lịch).

Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ quê thành các trường hợp sau:

(N): quê = [(địa điểm, nơi chốn)1 (gia đình, dòng họ sinh sống)2 (lâu

đời, mộc mạc, giản dị)3 (gắn bó tự nhiên về tình cảm)4]

(N’): quê = [(tính chất mộc mạc, kém vẻ thanh lịch)1]

Từ những phân tích trên có thể thấy, ở trường hợp N từ quê có ba nét

nghĩa: Nét nghĩa thứ nhất (địa điểm, nơi chốn); Nét nghĩa thứ hai (gia đình,

dòng họ sinh sống lâu đời); Nét nghĩa thứ ba (lâu đời, mộc mạc, giản dị); Nét

nghĩa thứ tư (gắn bó tự nhiên về tình cảm).

Còn ở trường hợp N’ là các nghĩa mới được hình thành trong quá trình

sử dụng từ quê là: tính chất mộc mạc, kém vẻ thanh lịch.

Trường hợp N: nghĩa cơ sở định danh là nghĩa thứ nhất (chỉ địa điểm,

nơi chốn); nghĩa phái sinh định danh là nghĩa thứ tư (lâu đời, mộc mạc, giản

dị) - đây cũng là nghĩa tính chất của thực thể và làm cơ sở cho sự chuyển nghĩa

tính chất của trường hợp N’ (tính chất mộc mạc, kém vẻ thanh lịch) biểu thị

nghĩa tính chất, đặc trưng.

129

Quy luật chuyển nghĩa của trường hợp từ quê là: danh từ chỉ địa điểm,

nơi chốn ở vùng xa trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa được dùng để biểu thị

tính chất mộc mạc, chân chất của con người. Có thể kể ra một số trường hợp

khác trong tiếng Việt như nhà quê, mọi rợ, rợ, hoang dã, nguyên sinh, ...

Nghĩa mới của tính từ quê mang đặc điểm riêng (nghĩa tính chất) nhưng

vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa gốc ban đầu (chỉ khái niệm, định

danh). Nghĩa chuyển của trường hợp từ quê được hình thành qua cơ chế ẩn dụ

được dùng với từ cách độc lập với nghĩa mới chỉ tính chất.

Xét các ngữ cảnh sau:

(49) "Bà Trưng quê ở châu Phong, Giận người tham-bạo, thù chồng

chẳng quên" [V8].

(50) "Mày quê quá Bảy Lâm ơi! Hổng phải trển nắng hơn dưới mình.

Nhưng đó là "mốt" mới đời nay" [V37: tr. 152].

Ngữ cảnh ví dụ 49 và 50 có sự khác biệt về nghĩa, ngữ cảnh 49 là nghĩa

sự vật, định danh khái niệm chỉ về địa điểm, nơi chốn cho nên nghĩa này

thuộc về danh từ; còn trong ngữ cảnh 50 là nghĩa tính chất chỉ vẻ mộc mạc,

kém vẻ thanh lịch cho nên nghĩa này thuộc về tính từ. Mối liên hệ ngữ nghĩa

giữa các từ ở ngữ cảnh 49 và 50 là nghĩa tính chất của từ quê trong ngữ cảnh

50 được phát triển trên cơ sở nghĩa tính chất mà danh từ quê trong ngữ cảnh

49 đã hàm chứa. Nghĩa tính chất của ngữ cảnh 50 được hình thành qua sự

biến đổi về nghĩa qua phương thức ẩn dụ.

Cấu trúc ngữ nghĩa của từ quê được tổ chức theo con đường sau:

Từ nghĩa 1 nghĩa cơ bản (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1), nghĩa 3 (S2) lại

được phái sinh từ nghĩa 2 (S1). Có thể hình dung quá trình chuyển nghĩa của

từ quê theo sơ đồ sau:

S0 S1 S2

S3

130

Các nghĩa phái sinh của từ quê được phát triển vừa theo hướng móc

xích lại vừa theo hướng lan toả.

3.3.5.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ của trường hợp từ "quê"

Thử khảo sát trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ

điển học và Bách khoa thư Việt Nam đối với trường hợp từ quê, có thể thấy:

trong 1000 ngữ cảnh của danh từ quê, có 161/1000 đơn vị (chiếm 16.1%)

mang thuộc tính nghĩa tính từ. Các trường hợp chuyển nghĩa này xuất hiện

trong các lĩnh vực sau: văn học (103/161 đơn vị), báo chí (49/161 đơn vị),

ngữ liệu từ điển (7/161 đơn vị) và sách văn hóa chính trị xã hội (2/161 đơn vị).

Lĩnh vực văn học có (103/161) ngữ cảnh, trong đó xuất hiện nhiều là

truyện và kí. Đặc trưng của thể loại văn học là lấy ngôn ngữ làm công cụ, dùng

các hình thức, hình tượng văn học để phản ánh hiện thực cuộc sống và biểu đạt

tâm tư tình cảm, nhận thức của tác giả về các vấn đề nhân sinh quan và xã hội.

Chính vì lẽ đó, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ, hiện tượng chuyển nghĩa

xuất hiện nhiều trong văn học để làm phong phú thêm vốn từ. Ví dụ: (51) "Em

ở xa nhau quá, em còn trẻ quá, còn chất quê quá... không" [V38: tr.5].

Trong báo chí cũng xuất hiện khá nhiều (49/161) ngữ cảnh. Đây là một

trong những lĩnh vực có tần suất sử dụng khá cao trong ngữ liệu văn viết cho

nên số lượng ngữ liệu lớn và cũng là điều kiện phát sinh hiện tượng chuyển

nghĩa tương đối lớn.

Ngoài ra, hiện tượng chuyển nghĩa trường hợp từ quê xuất hiện trong

ngữ liệu từ điển (7/161) và sách văn hóa chính trị xã hội (2/161).

3.3.6. Trường hợp từ "sách vở"

3.3.6.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "sách vở" trong các Từ điển tiếng Việt

Trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895 - 1896) từ

sách vở được giải thích với nghĩa là: Sách là cuốn sách, vở là bài vở, đồ biên

chép mà học, cũng là tiếng đôi chỉ nghĩa là sách [21, tr. 892].

131

Trong Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến đức (1931) [52, tr. 480]

và Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị (1952) [73, tr. 1136], từ sách vở đều

được ghi nhận có một nghĩa là chỉ đồ dùng trong học tập và nói chung về

sách.

Đến Từ điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập (1951) từ sách vở

được ghi nhận có hai nghĩa:

sách vở.

1. Quyển sách và quyển vở; chỉ chung các sách.

2. ngb. Sự học-hành [89, tr. 524].

Trong Từ điển tiếng Việt của Văn Tân (1967), từ sách vở được ghi nhận

có hai nghĩa. So với các công trình trước đó, công trình này có thêm nghĩa

tính từ và chú từ loại dt (danh từ), tt (tính từ).

Sách Vở.

1. dt. Sách và vở nói chung.

2. tt. Chỉ lệ thuộc vào tri thức trong sách vở và không sát thực tế : Con

người sách vở ; Tri thức sách vở [88, tr. 667].

Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức (1970), từ sách vở được giải thích

với hai nghĩa nhưng đều chỉ sự vật, nghĩa thứ nhất là nói về sách vở và nghĩa

thứ hai là sách nói chung:

sách vở.

1. dt. Sách và tập vở

2. (thth) Tiếng gọi chung những sách: Tủ đựng sách vở [30, tr. 1262].

Trong khi đó, Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1988, 2012) từ sách

vở cũng được giải thích với hai nghĩa (danh từ và tính từ) giống TĐTV của

Văn Tân tuy nhiên mở rộng, phát triển trong từng nét nghĩa cụ thể.

sách vở.

I. dt.

Sách và vở; tài liệu học tập, nghiên cứu (nói khái quát).

Chuẩn bị sách vở cho ngày khai trường. Vùi đầu trong sách vở.

132

II. tt.

Lệ thuộc vào sách vở, thoát li thực tế.

Kiến thức sách vở. Con người sách vở [80, tr. 813].

Như vậy, nội dung giải thích từ sách vở trong các từ điển giải thích về

cơ bản giống nhau tuy nhiên cách diễn đạt của mỗi từ điển khác nhau. Trong

mỗi giai đoạn khác nhau, các soạn giả đã phân tích và tổng hợp các giá trị

phản ánh và đánh giá hiện thực văn hóa để đưa vào từ điển với những mức độ

khác nhau. Từ sách vở được xử đa nghĩa và cho đến TĐVT trở đi đã có chú

từ loại. Đến TĐTV của Văn Tân và Hoàng Phê đã xử thành hai từ đồng âm

cùng gốc (sách vở dt. (danh từ), sách vở tt. (tính từ)) tức là kỹ thuật xử ở mức

cao hơn là phân biệt nghĩa danh từ và tính từ.

3.3.6.2. Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp từ "sách vở"

Luận án lấy Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê để phân tích nội dung

ngữ nghĩa của trường hợp từ sách vở (xem định nghĩa mục 3.3.6.1). Dựa trên

lời định nghĩa của TĐHP, từ "sách vở" sách vở có hai nghĩa, trong đó nghĩa

cơ sở chỉ thực thể (Sách và vở; tài liệu học tập, nghiên cứu (nói khái quát)) và

nghĩa tính chất trừu tượng (Lệ thuộc vào sách vở, thoát li thực tế). Như vậy,

muốn xác định được nghĩa cơ bản của sự chuyển nghĩa thường là dựa vào nét

nghĩa gốc ban đầu.

Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ "sách vở" thành các trường hợp sau:

(O): sách vở = [(Đồ dùng)1 (được sử dụng trong học tập, nghiên cứu)2]

(O'): sách vở = [(tính chất chuẩn mực, rập khuôn)1]

Như vậy:

Cùng một vỏ âm thanh sách vở nhưng có hai cấu trúc nghĩa khác nhau:

Trường hợp O, từ sách vở thuộc về nghĩa thực thể, có hai nét nghĩa: Nét nghĩa

thứ nhất (đồ dùng); Nét nghĩa thứ hai (được sử dụng trong học tập, nghiên

cứu). Còn trường hợp O', từ sách vở nghĩa bóng (nghĩa chuyển) được hình

thành trong quá trình sử dụng từ sách vở là: tính chất chuẩn mực, rập khuôn.

133

Đây là nghĩa trừu tượng tính chất. Nghĩa mới của tính từ sách vở mang đặc

điểm riêng (nghĩa tính chất) nhưng vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa gốc

ban đầu (chỉ thực thể).

Quy luật chuyển nghĩa của trường hợp từ sách vở là danh từ chỉ sự vật

dùng để làm căn cứ khi làm cái gì hoặc có tính chuẩn mực được dùng để chỉ

tính chất chuẩn mực rập khuôn trong tính cách, hoạt động của con người. Có

thể kể ra một số trường hợp khác trong tiếng Việt như máy móc, mạch lạc,

mực thước, chuẩn, chuẩn mực, tiêu chuẩn, công thức, cơ bản, đặc trưng, mẫu

mực, gương mẫu, ... Nghĩa chuyển của trường hợp từ sách vở được hình thành

qua phương thức ẩn dụ: lấy thuộc tính, đặc điểm, tính chất nổi trội vốn có của

sự vật để biểu thị tính chất, đặc điểm của sự vật khác.

Cấu trúc ngữ nghĩa của từ sách vở được tổ chức theo con đường sau:

Từ nghĩa 1 nghĩa cơ bản (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1). Có thể hình dung

quá trình chuyển nghĩa của từ sách vở theo sơ đồ sau:

S0 S1

Các nghĩa phái sinh của từ sách vở được phát triển theo hướng móc xích.

Xét các ngữ cảnh sau:

(52) "Chiều hôm sau, tôi đem sách vở1 ra sửa soạn học bài thì thấy cái

Phượng đến bên" [V10: tr. 240].

(53) "Cô bỗng thấy lúng túng vì cảm thấy những điều mình nói có gì như

sách vở2 quá" [V39: tr. 328].

Ngữ cảnh trong ví dụ 52 và 53 có các nghĩa: sách vở1 là đồ dùng học

tập; sách vở2 là luận mang tính rập khuôn. Ví dụ 52 là nghĩa biểu đạt của

danh từ; còn trong ví dụ 53 là nghĩa tính chất của tính từ.

Nghiên cứu trường hợp từ sách vở cho thấy, một từ vừa có thuộc tính

nghĩa thực thể, vừa mang thuộc tính nghĩa trừu tượng tính chất. Sự chuyển

biến nghĩa của trường hợp từ sách vở đã được dùng trong giao tiếp, phát ngôn,

trong các văn bản và được ghi nhận qua các Từ điển giải thích tiếng Việt.

134

3.3.6.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ của trường hợp từ "sách vở"

Khảo sát trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ

điển học và Bách khoa thư Việt Nam đối với trường hợp từ sách vở có thể thấy:

trong 392 ngữ cảnh của danh từ sách vở có 61/392 đơn vị (chiếm 15.6%) mang

thuộc tính nghĩa tính từ. Trong đó, các trường hợp chuyển nghĩa này xuất hiện

trong các lĩnh vực sau văn học (22/61 đơn vị), báo chí (13/61 đơn vị), ngữ liệu

từ điển (18/61 đơn vị) và sách văn hóa chính trị xã hội (8/61 đơn vị).

Lĩnh vực văn học có (22/61) ngữ cảnh, trong đó xuất hiện nhiều là

truyện và kí. Văn học tái hiện lại các vấn đề, sự vật hiện tượng trong đời sống

xã hội - con người bằng ngôn ngữ. Một trong những đặc điểm cơ bản của văn

học là thông qua các hình tượng văn học phản ánh cuộc sống, biểu đạt tình

cảm và nhận thức của tác giả đối với nhân sinh và xã hội. Để xây dựng đặc

điểm cơ bản ngôn ngữ văn học dựa vào các yếu tố: một là, từ hiện thực cuộc

sống được tác giả vận dụng các thủ pháp nghệ thuật để xây dựng nên các hình

tượng nghệ thuật; hai là, văn học gắn liền với liên tưởng và hư cấu trong tác

phẩm; ba là, ngôn ngữ văn học phong phú, đa dạng. Chính vì lẽ đó, cùng với

sự phát triển của ngôn ngữ, hiện tượng chuyển nghĩa xuất hiện nhiều trong

văn học để làm phong phú thêm vốn từ.

Ví dụ:

(54) - Nơi phương trời xa, Lục càng tiếp xúc với kiến thức sách vở lại càng

hiểu và yêu quý người yêu và người thầy đang lăn lộn trong thực tiễn [V40: tr. 902].

Trong báo chí cũng xuất hiện khá nhiều (13/61) ngữ cảnh. Là một trong

những lĩnh vực có tần suất sử dụng khá cao trong ngữ liệu văn viết cho nên số

lượng ngữ liệu lớn. Đây cũng là điều kiện phát sinh hiện tượng chuyển nghĩa

tương đối lớn.

Ví dụ:

135

(55) "- Tôi thuộc lớp người sinh vào quãng giữa thế kỷ, nên những gì

mà tôi có thể đem so sánh với trước đó đều chỉ là những so sánh có tính chất

sách vở" [V41].

Ngoài ra, hiện tượng chuyển nghĩa trường hợp từ sách vở xuất hiện

trong ngữ liệu từ điển (18/61) và sách văn hóa chính trị xã hội (8/61).

Ví dụ:

(56) "Con người sách vở" [79, tr. 813].

(57) "Theo dõi tiểu thuyết từ đầu tập 1 đến cuối tập 2, thấy rõ Hảo từ một

sinh viên còn nhiều nhận thức non nớt về xã hội, hơi "sách vở", hơi cứng khi nhìn

nhận một số vấn đề riêng tư, dần dà Hảo đã trở thành một cán bộ tốt, có những

đóng góp đáng quý trong nghiên cứu khoa học" [V42: tr. 317].

Từ những phân tích, biện giải trên cho thấy quá trình chuyển nghĩa của

danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ của trường hợp từ sách vở.

3.3.7. Trường hợp từ "bụi"

3.3.7.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bụi" trong các Từ điển tiếng Việt

Trong Đại Nam quấc âm tự vị (1895-1896) của Huình Tịnh Của, từ bụi

được ghi nhận có hai nghĩa:

Bụi. n. Đất bủn hay là vật nát ra như bột hay bay theo gió. Chòm cây cỏ lúp xúp.

[21, tr. 77]

Việt Nam tự điển (1931) của Hội Khai trí Tiến đức, từ bụi cũng được giải

thích với hai nghĩa giống với TĐHTC:

bụi.

A. Những chất nhỏ lăn-tăn bay lẫn vào trong không-khí.

B. Đám cây cỏ mọc rậm [52, tr. 60].

So với hai từ điển trên, Tự điển Việt Nam phổ thông (1951) của Đào Văn

Tập giải thích từ bụi có thêm một nghĩa bóng (tang):

bụi

1. Chòm cây rậm rạp. Bụi tre. Bụi gai.

136

2. Những mảnh vụn rất nhỏ của mọi vật, bám vào không cứ là đồ gì và bay

lên trên không nhiều hay ít tuỳ theo không khí chuyển động mạnh hay yếu.

Giũ bụi. Phủi bụi.

3. ngb. Tang. Có bụi [89, tr. 62].

Đến Việt Nam tân tự điển (1952) của Thanh Nghị, từ bụi được ghi nhận

có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất trùng với các công trình từ điển trên và có thêm

nghĩa bóng (giặc giã).

bụi A. dt.

I. Những chất nhỏ mịn lăn tăn bay lẫn vào trong không khí.

II. Ngb. Giặc giã [73, tr. 160].

Từ điển tiếng Việt (1967) của Văn Tân khi định nghĩa từ bụi, cũng giải

thích giống các từ điển trước đó và có thêm hai nghĩa mới (nghĩa thứ hai và

nghĩa thứ ba).

bụi. dt.

1. Những hạt rất nhỏ do các chất rắn vụn ra bay trong không khí hoặc phủ

trên mặt đường, đồ đạc.

2. Những điều nhơ bẩn: Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được

mình ấy vay (K).

3. Nhỏ vụn như bụi: Mưa bụi [88, tr. 101].

Tự điển Việt Nam (1970), có nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ ba được giải

thích giống các từ điển trước và thêm nghĩa bóng (2. Sự dày dạn kinh nghiệm

trên đường đời) của từ bụi:

bụi

A. 1. dt. Vật thể nhỏ bay trong không khí hoặc ở dưới đất bị gió cuốn bay

lên. Gió bụi. Phủi bụi. Quét bụi.

2. (B). Sự dày dạn kinh nghiệm trên đường đời. Nước non dường ấy tình

dường ấy, Xe ngựa bao nhiêu, bụi bấy nhiêu.

3. (R). Tang tóc. Có bụi [30, tr. 138].

137

Đến Từ điển tiếng Việt (2012) của Hoàng Phê, từ bụi được định nghĩa

như sau:

bụi.

I. dt.

1. Vụn nhỏ li ti của chất rắn có thể lơ lửng trong không khí hoặc bám trên bề mặt

các vật.

Quần áo đầy bụi. Bụi than.

2. Dạng hạt nhỏ như hạt bụi (nói về nước). Bụi nước. Mưa bụi lất phất.

3. (phg.; kết hợp hạn chế). Tang. Có bụi.

4. (kng.). Bụi đời (nói tắt). Bỏ nhà đi bụi, lang thang chán lại về.

II. tt. (kng.).

Có dáng vẻ buông thả, không theo khuôn khổ thông thường, trông giống như

của những người đi bụi. Tóc cắt trông rất bụi. Đeo chiếc ba lô bụi [80, tr. 85].

So với các công trình từ điển trước đó, TĐTV của Hoàng Phê đã có sự

phát triển và mở rộng nghĩa, không chỉ nghĩa danh từ mà có thêm thuộc tính

nghĩa tính từ. Trong đó nghĩa danh từ có thêm nghĩa "bụi đời" (nói tắt) và đây

cũng là nghĩa cơ sở để từ này mang thêm thuộc tính nghĩa mới ("Có dáng vẻ

buông thả, không theo khuôn khổ thông thường, trông giống như của những

người đi bụi"). Đây là nghĩa tính chất của tính từ.

Đối chiếu cách giải thích nghĩa của từ bụi trong các công trình Từ điển

ngữ văn theo tiến trình thời gian từ nửa cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 21 cho thấy

quá trình phát triển, biến đổi nghĩa khá rõ của từ này. Qua bảy công trình từ điển

kể trên, mục từ bụi được xử lý theo hướng đa nghĩa. Số lượng các nghĩa có sự

tăng lên theo thời gian, từ hai nghĩa (TĐHTC, TĐKT, TĐTN), ba nghĩa

(TĐĐVT, TĐLVĐ), bốn nghĩa (TĐVT, TĐHP). Các nghĩa cụ thể của từ bụi đều

được các từ điển ngữ văn giải thích tuy mức độ khái quát của lời giải thích ở mỗi

công trình khác nhau. Đó là các nghĩa chỉ về sự vật, thực thể. Bên cạnh các nghĩa

đen còn có các nghĩa bóng (tang, giặc giã).

138

Sự chuyển biến nghĩa của trường hợp từ bụi: từ nghĩa chỉ sự vật, thực

thể mang thêm thuộc tính nghĩa tính chất. Công trình từ điển tiếng Việt của

Hoàng Phê xác nhận khi chú từ loại khác nhau (danh từ và tính từ), "điều này

cho thấy xu hướng khái quát hoá trong quá trình phát triển nghĩa của từ đa

nghĩa là xu hướng chủ đạo, phản ánh quá trình sáng tạo và sử dụng của người

nói và xảy ra trong tiến trình thời gian" [71, tr. 164].

3.3.7.2. Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp từ "bụi"

Dựa vào định nghĩa của Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (xem định

nghĩa mục 3.3.7.1) có thể thấy, trường hợp từ bụi có các nghĩa khác nhau,

trong đó nghĩa thứ 4 (Bụi đời (nói tắt)) là nghĩa cơ sở để chuyển biến nghĩa

mới. Do đó, luận án sẽ phân tích cấu trúc nghĩa chung nhất của từ bụi trong

nghĩa này để thấy được mối liên hệ giữa nghĩa cơ sở và nghĩa phái sinh.

Cùng một hình thức âm thanh bụi có hai cấu trúc nghĩa sau:

(P): bụi = [(Cuộc sống)1 (lang thang, vất vưởng, không cố định, không

theo trật tự nào)2]

(P')': bụi = [(Dáng vẻ)1 (buông thả, không theo khuôn khổ thông

thường)2]

Như vậy:

Ở trường hợp P, từ bụi có hai nghĩa biểu niệm: nghĩa thứ nhất (cuộc

sống); nghĩa thứ hai (lang thang, vất vưởng, không cố định, không theo trật tự

nào). Trong đó nghĩa thứ hai là nghĩa phái sinh định danh mang thuộc tính,

tính chất của danh từ bụi. Đây là các nghĩa định danh, khái niệm nên thuộc về

nghĩa danh từ.

Còn ở trường hợp P' là cũng có hai nghĩa biểu niệm: nghĩa thứ nhất

(dáng vẻ phong cách); nghĩa thứ hai (không theo khuôn khổ thông thường).

Đây là nghĩa tính chất thuộc tính từ của trường hợp từ bụi, nghĩa này được

hình thành trên cơ sở nghĩa thứ hai của trường hợp P (sống lang thang, vất

vưởng, không cố định, không theo trật tự nào).

139

Từ sự phân tích cấu trúc nghĩa trên có thể thấy, từ bụi có hai cấu trúc

nghĩa khác nhau: trường hợp P chỉ về cuộc sống - nghĩa định danh, khái niệm

thuộc về danh từ và trường hợp P' chỉ về dáng vẻ - nghĩa chỉ tính chất, đặc

trưng thuộc về tính từ. Nghĩa cơ sở (chỉ cuộc sống), nghĩa phái sinh định

danh của trường hợp P (lang thang, vất vưởng, không cố định, không theo trật

tự nào) và nghĩa chuyển (Dáng vẻ buông thả, không theo khuôn khổ thông

thường) của trường hợp P'.

Cơ chế biến đổi nghĩa của trường hợp từ bụi là mở rộng nghĩa, trên cơ

sở mối liên hệ giữa nghĩa phái sinh định danh và nghĩa chuyển được hình

thành theo phương thức liên tưởng ẩn dụ. Quy tắc chuyển nghĩa của trường

hợp từ bụi là danh từ chỉ lối sống lang thang, vất vưởng được dùng để biểu thị

cho phong cách, tính chất đó.

Dựa vào lời định nghĩa của Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, có thể

thấy cấu trúc nghĩa của từ bụi được tổ chức theo con đường sau:

Từ nghĩa 1 nghĩa cơ sở (S0) chuyển nghĩa sang nghĩa 2 (S1) theo hình

thức phương thức ẩn dụ. Nghĩa 3 (S2) và nghĩa 4 (S3) được phái sinh từ nghĩa

cơ sở (S0) theo hướng phương thức ẩn dụ. Có thể quá trình chuyển nghĩa của

từ bụi qua sơ đồ sau:

S0 S1

S2

S3

Các nghĩa phái sinh của từ bụi được phát triển vừa theo hướng móc xích

lại vừa theo hướng lan toả.

Xét các ngữ cảnh sau:

(58) "Cha mẹ bỏ nhau, Quỳnh đi bụi3 và trở thành một tên trộm thạo

nghề" [V43: tr. 34].

140

(59) "Trang phục của cô khi xuống máy bay là chiếc quần short vải

jean thật... ngắn, chiếc áo vải không cổ cộc tay màu tím nhạt trông rất 'bụi4'

thậm chí còn hơi... nhàu nữa, như bao nhiêu khách 'ba lô' khác" [V44: tr. 37].

Từ ngữ cảnh 58 và 59 có thể thấy, từ bụi3 nói về lối sống thuộc về nghĩa

định danh khái niệm (danh từ); bụi4 nói về phong cách của chiếc áo thuộc về

nghĩa biểu đạt tính chất (tính từ).

Như vậy, qua phân tích cấu trúc nghĩa của trường hợp từ bụi có thể

thấy, Một từ nhưng mang hai thuộc tính nghĩa, vừa mang thuộc tính nghĩa

danh từ (lối sống), vừa mang thuộc tính nghĩa tính từ (dáng vẻ).

3.3.7.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ của trường hợp từ "bụi"

Khảo sát trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ

điển học và Bách khoa thư Việt Nam, có thể thấy: Trong 1.589 phiếu ngữ cảnh

của từ bụi có 70 đơn vị danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ. Các ngữ cảnh này

thuộc các phong cách chức năng khác nhau, chủ yếu là lĩnh vực báo chí. Ngoài

ra còn có các lĩnh vực khác như văn học, sách văn hóa chính trị - xã hội, ngữ

liệu từ điển.

Tần suất xuất hiện khá cao các trường hợp là sống bụi (18 lần), dân bụi

(17 lần), ngủ bụi (14 lần), ăn bụi (6 lần), mặc bụi (1 lần), v.v... Đặc biệt, xuất

hiện nhiều tổ hợp cơm bụi (20 lần). Đây là nghĩa tính chất được phát triển trên

cơ sở của nghĩa tính từ của từ bụi.

Ví dụ:

(60) "Chỉ mặc bụi, chưa ăn bụi, ngủ bụi, sống bụi... chưa phải là dân

bụi!" [V45: tr. 6]

(61) "Lấy chồng rồi dắt nhau đi mà ăn cơm bụi" [V46: tr. 34]

Từ những miêu tả trên có thể thấy sự chuyển nghĩa danh từ mang thuộc

tính nghĩa tính từ của trường hợp từ bụi.

141

3.3.8. Trường hợp từ "gan"

3.3.8.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "gan" trong các Từ điển tiếng Việt

Trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của (1895-1896), từ gan

được giải thích có hai nghĩa:

Gan. c. Lá gan; mạnh mẽ, dạn dĩ [21, tr. 345].

Nghĩa thứ nhất chỉ bộ phận cơ thể (lá gan) và nghĩa thứ hai là nghĩa

bóng (mạnh mẽ, dạn sĩ). Đây là nghĩa danh từ và tính từ của từ "gan". Có thể

thấy nghĩa tính chất của từ nãy được ghi nhận sớm, mặc dù người biên soạn

chưa chú từ loại nhưng trong quá trình giải thích đã có ý thức phân tách các

nghĩa khác nhau.

Từ gan trong Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến đức (1931) cũng

được giải thích với các nghĩa giống như Đại Nam quấc âm tự vị của Huình

Tịnh Của và có thêm nghĩa mới (Phần chũng ở giữa bàn tay, bàn chân):

gan.

A. Một bộ-phận trong ngũ-tạng. Buồng gan. Nghĩa bóng: bạo dạn: Dạn dày

cho biết gan liền tướng-quân (K). Văn-liệu: Gan vàng, dạ sắt. Gan già ma

mọi. Gan bằng gan cóc tía. Có gan ăn cướp, có gan chịu đòn. Bống có gan

bống, bớp có gan bớp. Đá vẫn trơ gan cùng tuế-nguyệt (thơ cổ). Dẫu rằng đá

cũng nát gan lọ người (K). Như nung gan sắt, như bào lòng son (K). Kiên-

trinh chẳng phải gan vừa (K). Gan chẳng đá khôn đường khá chuyển (C-o).

Dễ đem gan óc đền nghì trời mây (K).

B. Phần chũng ở giữa bàn tay, bàn chân. Gan bàn tay, gan bàn chân [52, tr. 202].

Đến Tự điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập (1951), từ gan được

giải thích giống các từ điển trước đó nhưng đã tách thành các nghĩa cụ thể

hơn:

gan.

1. Tạng-phủ tiết ra mật. buồng gan.

2. ngb. Can-đảm: non gan; có gan; cả gan.

142

3. Phần trũng ở giữa lòng bàn tay hay lòng bàn chân. gan bàn tay; gan bàn

chân [89, tr. 227].

Đối với trường hợp từ gan trong Việt Nam tân tự điển (Thanh Nghị)

(1952) khái quát các nét nghĩa cụ thể đã có trong các từ điển trước và mở rộng

thêm nghĩa bóng (lòng dạ, bạo dạn, non gan, ...):

gan. dt.

I. Một bộ-phận trong ngũ tạng, nằm bên phải bao tử: Bịnh rét hay làm đau

gan.

II. Lòng dạ: Đá vẩn trơ gan cùng tuế nguyệt (Th.Quan) Gan chẳng đá, khôn

đường khó chuyển (Ng.gia.Thiều)

III. bt.

1. Bạo dạn: Anh ấy gan lắm. Có phước làm quan có gan làm giàu (T.ng)

2. Non gan. Già gan, to gan, can đảm [73, tr. 557].

Cho đến Từ điển tiếng Việt (Văn Tân) (1967), từ gan được giải thích

như sau:

GAN.

I. dt. 1. Một bộ phận trong bộ máy tiêu hóa có nhiều chức năng, chức năng

chính là tiết ra mật để tiêu chất mỡ. 2. Mặt trong hay dưới (của bàn tay, bàn

chân).

II. tt. 1. Dám làm những việc nguy hiểm mà người bình thường e ngại: Phải

gan lắm mới xông vào đồn địch . Gan cóc tía. Quá bạo dạn. 2. Có sức bền bỉ

trước những khó khăn gian lao: Gan chịu đòn. Gan liền tướng quân. Gan góc

vô cùng. Gan vàng dạ sắt. Lòng chung thủy không thay đổi trước mọi khó

khăn [88, tr. 327].

So với các công trình trước đó, công trình TĐVT đã có chú từ loại khác

nhau (danh từ và tính từ), các nét nghĩa cụ thể được phân biệt với hai nghĩa

danh từ (chỉ về bộ phận cơ thể) và hai nghĩa tính từ (dám làm những việc

143

hiểm nguy, có sức bền bỉ trước khó khăn). Nghĩa tính chất của từ được hình

thành trên cơ sở nghĩa bóng đã có trong các từ điển trước đây.

Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức) (1970), từ gan được giải thích với ba

nghĩa sau:

gan.

1. dt. (cơth.): C/g. Can, bộ-phận lọc máu và tiết ra mật, phía phải bao-tử.

Buồng gan, lá gan, đau gan

2. tt. Dạn, không sợ. Cả gan, căm-gan, lớn gan, to gan, xung-gan; Có

phước làm quan có gan làm giàu (tng.).

3. (R) dt. Lòng, phần trũng giữa bàn tay bàn chân. gan bàn chân, gan bàn

tay [30, tr. 518].

Đến Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức khi giải thích nghĩa của từ gan

cũng có chú nghĩa từ loại khác nhau (danh từ, tính từ) và khái quát chi tiết

thêm nghĩa mở rộng danh từ (Lòng, phần trũng giữa bàn tay bàn chân).

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1988, 2012), từ gan được giải thích

thành các nghĩa khác nhau và có chú từ loại (danh từ, tính từ) giống TĐVT.

Tuy nhiên, nghĩa danh từ được miêu tả cụ thể hơn và nghĩa tính từ miêu tả

khái quát hơn so với công trình trước đó.

gan.

I. dt. 1. Bộ phận của bộ máy tiêu hoá có chức năng chính là tiết mật để tiêu

hoá chất mỡ. Buồng gan. Viêm gan. Món gan lợn. 2. (thường dùng trong một

số tổ hợp, sau đgt., tt.). Gan của con người, coi là biểu tượng của tinh thần, ý

chí mạnh mẽ, bền bỉ, không lùi bước trước khó khăn. Bền gan. Thi gan đọ sức.

Bé người mà to gan. 3. Gan của con người, coi là biểu tượng của tinh thần dám

đương đầu với nguy hiểm, dám chịu đựng. Có gan vào hang bắt cọp. Có gan

chịu đòn. Non gan*. Nhát gan*. Miệng hùm gan sứa*.

II. tt. Tỏ ra có gan, dám đương đầu với nguy hiểm hoặc dám chịu đựng. Nó

gan lắm, súng kề tai cũng không sợ. Thằng bé chịu đòn rất gan [80, tr. 365].

144

So sánh nghĩa của từ gan trong các công trình từ điển có thể thấy,

nghĩa cụ thể của từ này được ghi nhận ở hầu hết các từ điển; tuy nhiên mức độ

khái quát của lời giải thích trong từng từ điển khác nhau. Nghĩa cơ sở chỉ bộ

phận cơ thể, hình thành nghĩa bóng (bạo dạn, gan dạ...) và từ đó phát sinh các

nghĩa mới chỉ tính chất (Tỏ ra có gan, dám đương đầu với nguy hiểm hoặc

dám chịu đựng).

3.3.8.2. Nội dung ngữ nghĩa của từ "gan"

Dựa trên lời định nghĩa Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (xem định

nghĩa mục 3.3.8.1), danh từ gan có ba nghĩa khác nhau, trong đó nghĩa thứ

nhất là nghĩa cơ sở để chuyển biến nghĩa mang thuộc tính nghĩa tính chất (Tỏ

ra có gan, dám đương đầu với nguy hiểm hoặc dám chịu đựng).

Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ gan thành các trường hợp sau:

(Q): gan = [(Bộ phận cơ thể)1 (có chức năng, vai trò quan trọng chức

năng chính là tiết mật để tiêu hoá chất mỡ)2 (biểu tượng tinh thần, ý chí mạnh

mẽ, dám đương đầu nguy hiểm)3].

(Q'): gan = [(Tỏ ra có gan, dám đương đầu nguy hiểm, dám chịu đựng)1].

Từ những phân tích thành tố nghĩa ở trên có thể thấy:

Nét nghĩa thứ nhất chỉ về bộ phận cơ thể, đây là nghĩa cơ sở. Nét nghĩa

thứ hai là nghĩa chuyển (nghĩa bóng) được hình thành trên cơ sở nghĩa thứ

nhất, dựa vào nét nghĩa chức năng, vai trò (gan là cơ quan nội tạng lớn có vai

trò giống như một lá chắn giúp ngăn chặn các yếu tố độc hại xâm nhập vào

bộ máy tiêu hóa, làm giảm độc tính và thải trừ một số chất được tạo ra trong

quá trình chuyển hóa của cơ thể, ...) hình thành nghĩa định danh khái niệm

"biểu tượng tinh thần, ý chí mạnh mẽ, dám đương đầu nguy hiểm". Từ nghĩa

này, hình thành nghĩa chỉ tính chất - tỏ ra có gan, dám đương đầu nguy hiểm,

dám chịu đựng). Nghĩa chuyển của từ gan được hình thành qua phương thức

hoán dụ (có sự tương cận về chức năng giữa các sự vật).

Xét các ngữ cảnh sau:

145

(62) "Có gan1 vào hang bắt cọp" [80, tr. 365].

(63) "Thằng bé chịu đòn rất gan2" [80, tr. 365].

Quan sát hai ví dụ 62 và 63 ở trên có thể thấy: gan1 chỉ tinh thần, ý chí

khi dám vào hang bắt cọp (nghĩa định danh thuộc danh từ); gan2 tỏ ra chịu

đựng trước đòn roi (nghĩa tính chất thuộc tính từ).

Quy luật chuyển nghĩa của trường hợp từ gan là danh từ chỉ bộ phận cơ

thể người có chức năng nhất định được dùng để chỉ đặc điểm nào đó về mặt

tâm lý, tính cách của con người). Có thể kể ra một số trường hợp khác trong

tiếng Việt như gan ruột, gân guốc, mồm mép, đầu óc, ruột, xương, xương xẩu,

miệng lưỡi, ...

Cấu trúc ngữ nghĩa của từ gan được tổ chức theo con đường sau:

Từ nghĩa 1 nghĩa cơ bản (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1) và (S2). Có thể

hình dung quá trình chuyển nghĩa của từ gan theo sơ đồ sau:

S0 S1

S2

Các nghĩa phái sinh của từ gan được phát triển theo hướng tỏa ra.

3.3.8.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ của trường hợp từ "gan"

Khảo sát trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ

điển học và Bách khoa thư Việt Nam đối với trường hợp từ gan, có thể thấy:

Trong 1.366 ngữ cảnh của trường hợp từ gan thì có 105 đơn vị (chiếm 7.7%)

chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa tính từ. Trong đó, các ngữ cảnh thuộc

các lĩnh vực khác nhau: văn học (72 đơn vị), văn hóa chính trị (18 đơn vị),

báo chí (10 đơn vị), ngữ liệu từ điển (5 đơn vị),...

Ví dụ:

(64) "- Việt cộng chính hiệu, chúng gan lắm..." [V47: tr. 241].

(65) "Khi gặp cô bạn người Hà Lan lái xe tận Ultrech lên Amsterdam

dẫn chúng tôi đi chơi, tôi đòi qua đó uống cà phê, cô cười: "Gan quá ha? Biết

146

trong đó tụi nó làm gì không?" rồi đưa hai ngón tay trước miệng làm hiệu như

đang "phê' thuốc"" [V48: tr. 51].

Tần suất xuất hiện các tổ hợp cao của trường hợp này như gan lì (27

đơn vị), bạo gan (14 đơn vị), gan góc (12 đơn vị), gan vàng (11 đơn vị), gan

dạ (10 đơn vị), gan cóc tía (3 đơn vị), ...

Từ nghĩa tính từ "Tỏ ra có gan, dám đương đầu với nguy hiểm hoặc

dám chịu đựng" tiếp tục phát triển các nghĩa tính chất, trong đó xuất hiện các

thành ngữ miêu tả: gan bào ruột thắt, gan chai phổi đá, gan chí mề, gan cóc

mặt công, gan cóc tía, gan đá dạ sắt, gan đồng dạ sắt, gan héo ruột đấy, gan

lì tướng quân, gân liền tướng quân, gan như cóc tía, gan rầu ruột héo, gan

sành dạ sỏi, gan sắt lòng son, gan thắt ruột bào, gan thỏ đế, gan vàng dạ

ngọc, gan vàng dạ sắt, ...

Từ những phân tích và miêu tả trên, cho thấy: có sự chuyển nghĩa danh

từ mang thuộc tính nghĩa tính từ của trường hợp từ gan.

3.4. Đặc trưng ngữ nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

3.4.1. Cơ sở của sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

Xét về mặt nội dung nghĩa của từ gồm hai loại là nghĩa biểu đạt (còn

gọi nghĩa biểu hiện/nghĩa biểu niệm) và nghĩa định tính chất. Nghĩa biểu đạt

khái niệm là "nghĩa bản chất của từ, là mối liên hệ giữa từ ngữ âm với ý niệm

về sự vật, hiện tượng do từ biểu thị được phản ánh trong nhận thức của con

người. Nghĩa khái niệm là kết quả việc con người phản ánh trong nhận thức

một sự vật khách quan nào đấy là nội dung mà nghĩa từ chỉ ra" [70, tr. 91].

Còn nghĩa định tính chất là "nghĩa được bao hàm trong khái niệm" [70, tr.

92]. Từ đó có thể thấy, đối với nghĩa của danh từ là thuộc bình diện nghĩa

biểu niệm, còn đối với nghĩa tính từ chủ yếu là nghĩa biểu đạt tính chất. Nghĩa

biểu niệm của danh từ thể hiện ở nghĩa sự vật; còn nghĩa định tính chất của

tính từ biểu hiện ở nghĩa tính chất của tính từ.

147

Nghĩa biểu đạt khái niệm và nghĩa biểu đạt tính chất thể hiện rõ trong

từ điển, đó là: nghĩa biểu đạt khái niệm là các lời giải thích nghĩa, còn nghĩa

biểu đạt tính chất đó là các phần in nghiêng được gọi là nghĩa nội tại của từ

(nghĩa đen) và nghĩa có tính chất phụ thêm (nghĩa bóng).

Các khả năng chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ trong

TĐTV được phân thành bốn nhóm:

(i) giữa hai danh từ tuy không thể chen hư từ biểu thị quan hệ giữa

chúng song lại có thể chen được các thực từ;

(ii) có thể xen các hư từ biểu thị quan hệ vào giữa hai danh từ;

(iii) giữa hai từ không thể xen quan hệ từ;

(iv) từ đã có sự khác biệt quan trọng về cả ngữ nghĩa, khả năng kết hợp,

chức năng cú pháp.

Từ đó có thể thấy được sự chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính

nghĩa tính từ chủ yếu ở nhóm (iii) và (iv).

Các tính từ được cấu tạo theo quy tắc chuyển nghĩa thuộc nhóm này

thường được định nghĩa trong TĐHP theo cấu trúc riêng: "có tính chất..." do

danh từ tương ứng biểu thị. Cấu trúc lời định nghĩa cho thấy sự phân biệt về

nghĩa danh từ và nghĩa tính từ.

Sự khác nhau giữa danh từ và tính từ là danh từ mang nhiều đặc tính

phức tạp, còn tính từ thì đặc tính ấy đơn giản hơn, số lượng ít hơn. Chẳng hạn,

khi nói “con gấu” mà không cần nói “Thú ăn thịt, cỡ lớn, đuôi cộc, đi bằng

bàn chân, thường trèo cây ăn mật ong, v.v.”. Các đặc tính về (loài), (kích

thước), (hình dáng), (cách thức kiếm ăn), v.v. đã được thay thế bằng khái

niệm trừu tượng tổ thành “con gấu” và được mọi người chấp nhận đó là con

gấu chứ không phải là một con vật nào khác. Bởi mỗi cá thể tồn tại với những

đặc điểm riêng, hơn nữa, bản thân từ ngữ “gấu” là một khái niệm trừu tượng,

không đối ứng với vật nào khác. Muốn nhận ra được đặc điểm riêng biệt của

từng cá thể thì phải đặt vào ngữ cảnh cụ thể.

148

Từ bản thân vật chất cụ thể, lấy các đặc tính cơ bản để khái quát thành

khái niệm trừu tượng, được cố định hóa trong tư duy bằng tên gọi. Và chúng

được khu biệt với nhau và thỏa mãn nhu cầu biểu đạt sự vật, hiện tượng của con

người trong khách quan. Đó chính là đặc trưng của từ loại danh từ.

Tuy nhiên, tính từ không mang nhiều đặc tính phức tạp như danh từ,

chỉ trong sự vật để lấy ra một đặc tính cơ bản nhất, biểu trưng cho từng cá thể,

chứ không phải tất cả đặc tính của sự vật ấy. Chẳng hạn, khi nói đến tính từ

gấu, thì đặc tính (cách thức kiếm ăn) của sự vật này là nổi bật nhất “hung dữ và

hỗn láo”. Đây cũng là đặc trưng loài để phân biệt loài gấu với các loài khác. Có

thể quan sát thêm các ví dụ sau:

1. Bạn ấy rất gương mẫu.

2. Khu rừng hoang dã quá.

3. Nó ma mãnh lắm!

...

Từ những ví dụ trên có thể thấy, đối với danh từ mang nhiều đặc tính,

còn tính từ chỉ một đặc tính. Trong các đặc tính nội hàm của danh từ ở mỗi sự

vật có số lượng và nội dung khác nhau, cho nên đây là sự khu biệt khái niệm,

tên gọi của từng sự vật. Tuy nhiên, tính từ chỉ mang đặc tính cơ bản nhất miêu

tả về sự vật hay tính trạng của động tác.

3.4.2. Sự phân ly về nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

Sự phân ly về nghĩa của danh từ (nghĩa định danh, khái niệm) mang

thuộc tính nghĩa tính từ (đặc trưng, tính chất) diễn ra như sau: Từ nghĩa cơ sở

(hay nghĩa cơ bản hay nghĩa đen) thuộc về nghĩa định danh, khái niệm; nghĩa

phái sinh định danh biểu đạt khái niệm (nghĩa biểu niệm) và nghĩa chuyển

(nghĩa bóng) thuộc về đặc trưng. Kết quả của sự chuyển nghĩa này là: hiện

tượng chuyển biến nghĩa trong một từ vừa mang thuộc tính đặc trưng thuộc

tính nghĩa mà mình đảm nhận (danh từ) vừa mang thuộc tính nghĩa của đơn vị

từ loại khác (tính từ). Nói cách khác, hình thành nghĩa mới thuộc về đặc

149

trưng, tính chất và nét nghĩa này không còn cấu trúc nghĩa định danh của

nghĩa cơ sở.

Có thể khái quát mô hình chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ đó là:

Sơ đồ 3: Mô hình chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

Sự vật Sự vật

Thực thể Đặc trưng

Từ sơ đồ trên có thể thấy: nghĩa thực thể của danh từ mang thêm các

thuộc tính nghĩa đặc trưng tính chất của tính từ.

Các đơn vị chuyển nghĩa nói chung, đơn vị chuyển nghĩa của danh từ mang

thuộc tính nghĩa tính từ nói riêng không phải diễn ra đơn lẻ mà theo quy luật nhất

định. Cấu trúc về nghĩa của các mục từ chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính

nghĩa tính từ có mối liên hệ mật thiết với nhau.

Các mục từ chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

cũng đã có sự biến đổi cấu trúc nghĩa của từ, đặc trưng nghĩa của tính từ đã

mang tính chất đặc trưng mới, khác với nghĩa của danh từ. Dựa vào định nghĩa

của danh từ khai thác nét nghĩa sự vật, hiện tượng để làm rõ nghĩa của danh từ,

còn cách định nghĩa tính từ khai thác nét nghĩa tính chất, đặc trưng để làm rõ

nghĩa cho nó. Đối với các đơn vị chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính

nghĩa tính từ, nét nghĩa ban đầu chỉ thực thể đã bị mất nghĩa mà thay thế vào đó

là nét nghĩa tính chất, từ nghĩa thực thể mang thêm nghĩa trừu tượng tính chất.

150

3.4.3. Cơ chế chuyển biến nghĩa của các đơn vị danh từ mang thuộc tính

nghĩa tính từ

Giữa các đơn vị chuyển nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ ngữ nghĩa,

có thể xa hoặc gần, trực tiếp hoặc gián tiếp, v.v… Các mục từ chuyển nghĩa

của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ có mối liên hệ mật thiết về nghĩa

với nhau. Nét nghĩa thứ yếu sẽ dựa vào nét nghĩa gốc ban đầu để tạo nên

nghĩa mới. Vừa mang dấu hiệu đặc trưng của nghĩa gốc, lại vừa mang đặc

trưng của nghĩa chuyển. Bên cạnh đó, các mục từ chuyển nghĩa của danh từ

mang thuộc tính nghĩa tính từ cũng đã có sự biến đổi cấu trúc nghĩa của từ, đặc

trưng nghĩa của tính từ đã mang tính chất đặc trưng mới, khác với nghĩa của

danh từ. Cách định nghĩa của danh từ khai thác nét nghĩa sự vật, hiện tượng để

làm rõ nghĩa của danh từ, còn cách định nghĩa tính từ khai thác nét nghĩa tính

chất, đặc trưng để làm rõ nghĩa cho nó. Nói cách khác, bản chất cấu trúc ngữ

nghĩa của tính từ được thể hiện "trong bộ phận đánh giá của nghĩa, là đặc trưng

so sánh trong cấu trúc nghĩa của tính từ và sự biểu hiện của chúng trên thang độ,

và là đặc trưng trái nghĩa, một đặc trưng biểu lộ rõ nét bản chất ngữ nghĩa của

tính từ" [100, tr. 27].

Việc chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ của các

trường hợp nghiên cứu (anh hùng, bình dân, cách mạng, phúc, quê, sách vở,

bụi, gan) là có tính quy tắc, nhất quán, đồng loạt: Các từ chỉ người có tính

cách, đặc điểm điển hình nào đó được dùng để biểu thị những tính cách, đặc

điểm đó (anh hùng, bình dân); danh từ biểu thị những thuật ngữ chính trị - xã

hội, những khái niệm trừu tượng về thế giới vật chất có thể dùng để chỉ cái gì

đó thuộc về bản chất, vốn thường có ở con người, hoặc tính linh hoạt gắn liền

với cuộc sống ở con người (cách mạng); danh từ trừu tượng biểu thị quan

điểm đánh giá may, tốt về hoàn cảnh, các phạm trù đạo đức được dùng để

biểu thị tính chất, hoàn cảnh, đạo đức tương ứng (phúc); danh từ chỉ địa điểm,

151

nơi chốn ở vùng xa trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa được dùng để biểu thị

tính chất mộc mạc, chân chất của con người (quê); danh từ chỉ sự vật dùng để

làm căn cứ khi làm cái gì hoặc có tính chuẩn mực được dùng để chỉ tính chất

chuẩn mực rập khuôn trong tính cách, hoạt động của con người (sách vở);

danh từ chỉ lối sống lang thang, vất vưởng được dùng để biểu thị cho phong

cách, tính chất đó (bụi); danh từ chỉ bộ phận cơ thể người có chức năng nhất

định được dùng để chỉ đặc điểm nào đó về mặt tâm , tính cách của con người

(gan). Phương thức chuyển nghĩa cơ bản là theo sự liên tưởng tương đồng -

ẩn dụ (anh hùng, bình dân, cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi) và liên tưởng

tương cận - hoán dụ (gan).

Cơ chế chuyển biến nghĩa của các danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

thường diễn ra theo các hướng: (i) Mất nghĩa, quá trình mất nghĩa có thể hoàn

toàn hoặc không hoàn toàn. Hoàn toàn tức là tính từ có cấu trúc nghĩa khác hoàn

toàn cấu trúc nghĩa của danh từ. Không hoàn toàn nghĩa là tính từ vẫn còn lưu

giữ một số nét nghĩa của danh từ. (ii) Thay đổi tính chất một số nét nghĩa trong

cấu trúc nghĩa của từ. (iii) Thu hẹp nghĩa biểu hiện số lượng nét nghĩa và nội

dung nghĩa của nghĩa chuyển sẽ ít hơn nghĩa cơ sở. (iv) Mở rộng nghĩa, tức là

thêm hoặc phát triển một hoặc một số nét nghĩa của từ trong nghĩa chuyển so với

nghĩa cơ sở. Trên đây là bốn cơ chế chuyển nghĩa cơ bản của các danh từ mang

thuộc tính nghĩa tính từ, trong đó phổ biến là mở rộng nghĩa và thu hẹp nghĩa.

3.4.4. Nguyên nhân chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ

Hiện tượng chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ do

các nguyên nhân sau:

(i) Đặc trưng nghĩa từ loại: Danh từ dùng để chỉ thực thể (sự vật), là

một sự biểu đạt cụ thể; nhưng tính từ lại dùng để biểu thị thuộc tính (tính

chất), là một loại miêu tả trừu tượng. Sự vật là cụ thể, tính chất là trừu tượng.

Sự vật cụ thể luôn được con người dễ nhận thức hơn tính chất trừu tượng. Do

152

vậy, khi sự vật được thể hiện nổi bật với một thuộc tính nào đó thì tính chất

của nó nhất định cùng thuộc tính (với nó) mà thể hiện. Quá trình sử dụng,

nghĩa của danh từ đó sẽ nảy sinh ra nghĩa mới biểu thị đặc trưng tính chất.

(ii) Đặc trưng nghĩa của danh từ: Danh từ vừa có nghĩa định danh khái

niệm dùng để biểu đạt một sự vật hoặc một loại sự vật nào đó; vừa mang tính

chất nghĩa được hình thành từ nghĩa gốc được dùng để biểu đạt đặc trưng, tính

chất của một sự vật hoặc một loại sự vật nào đó.

(iii) Do nhu cầu tiết kiệm ngôn ngữ, một từ biểu thị được các ý nghĩa

khác nhau (sự vật và đặc trưng.

(iv) Do sự phát triển của xã hội, thói quen và nhu cầu biểu đạt, tiếp

nhận thông tin mới.

Từ những phân tích và chứng minh trên đã rút ra các đặc trưng ngữ

nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ về cơ sở ngữ nghĩa, sự phân

ly về nghĩa, cơ chế biến đổi nghĩa và nguyên nhân của sự chuyển biến nghĩa.

3.5. Tiểu kết

Nghiên cứu đặc trưng của hiện tượng chuyển biến nghĩa của danh từ

mang thuộc tính nghĩa tính từ qua một số trường hợp (anh hùng, bình dân,

cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan) cho thấy, hiện tượng chuyển nghĩa

của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ rất phổ biến, dựa trên nghĩa biểu

đạt khái niệm và nghĩa tính chất để nhận biết đặc trưng ngữ nghĩa của danh từ

và tính từ. Hiện tượng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ

dựa vào sự biến đổi về nghĩa mới. Nghĩa tính chất vốn có của danh từ đã có

mối liên hệ giống với nghĩa mới đặc trưng nảy sinh trong quá trình chuyển

nghĩa. Trong nghĩa danh từ của nhóm này đã bao hàm nét nghĩa chỉ về thuộc

tính và tính chất. Theo đó, các nét nghĩa chỉ về thuộc tính, tính chất mới có khả

năng chuyển biến thành nghĩa tính từ. Tuy nhiên, không phải tất cả các đặc tính

của danh từ đều được lựa chọn để tham gia vào chuyển hóa lượng tính mà phải

dựa vào các đặc tính đầu tiên, nổi bật, và có biểu đạt ngữ nghĩa của đặc tính đó.

153

Quá trình phát triển nghĩa của các danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ diễn ra

chủ yếu theo phương thức ẩn dụ (anh hùng, bình dân, cách mạng, phúc, quê,

sách vở, bụi) và hoán dụ (gan). Các mục từ chuyển nghĩa của danh từ mang

thuộc tính nghĩa tính từ có mối liên hệ mật thiết về nghĩa với nhau. Nét nghĩa

thứ yếu sẽ dựa vào nét nghĩa cơ sở để tạo nên nghĩa mới, vừa mang dấu hiệu

đặc trưng của nghĩa cơ sở, vừa mang đặc trưng của nghĩa chuyển.

Việc chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ không diễn ra

lẻ tẻ, riêng rẽ mà theo quy tắc, nhất quán và đồng loạt. Cơ chế biến đổi nghĩa

của các trường hợp nghiên cứu gồm bốn kiểu: mất nghĩa, triệt tiêu nghĩa, thu

hẹp, mở rộng nghĩa trong quá trình sử dụng.

Nguyên nhân của sự chuyển biến nghĩa là do đặc trưng từ loại (danh từ,

tính từ); đặc trưng nghĩa danh từ; nhu cầu tiết kiệm ngôn ngữ; sự phát triển

của xã hội, thói quen và nhu cầu biểu đạt, tiếp nhận thông tin mới.

154

KẾT LUẬN

Luận án Nghiên cứu đặc trưng sự chuyển nghĩa từ loại danh từ sang

đại từ và danh từ sang tính từ trong tiếng Việt (Trên ngữ liệu một số nhóm

từ) đã đạt được một số kết quả như sau:

1. Ngữ nghĩa từ vựng không phải "nhất thành bất biến". Sự tồn tại và

phát triển trong một môi trường nhất định do tác động của một hoặc một số

nhân tố nào đó, nghĩa một từ này có thể có thêm nghĩa khác và cao hơn là

chuyển thành nghĩa của một từ đồng âm khác. Một trong những đặc trưng

điển hình của ngôn ngữ đơn lập là vỏ âm thanh rất chắc, không phá vỡ được,

vì thế tạo nên các đơn vị từ vựng mới bằng cách chuyển nghĩa.

2. Không phải tất cả các hiện tượng chuyển nghĩa đều giống nhau tuyệt đối.

Chuyển đơn nghĩa thành đa nghĩa (hệ thống con nghĩa) là khả năng khởi đầu. Tiếp

sau là sự chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang

thuộc tính nghĩa tính từ là trường hợp luận án nghiên cứu.

3. Chuyển nghĩa là phương thức phát triển nghĩa và có thể coi là một

biện pháp cấu tạo từ vì một từ vẫn giữ nguyên vỏ âm thanh trong khi nghĩa đã

thay đổi. Bản chất của hiện tượng chuyển nghĩa là sự biến động về nghĩa từ

vựng, thể hiện trong cấu trúc nghĩa của từ: thêm, bớt, biến chuyển, hoặc cùng

một nghĩa nhưng thay đổi về bản chất thì mới có thể chuyển thành nghĩa của

một từ loại khác. Như vậy, hệ quả của biến đổi nghĩa dẫn đến sự thay đổi cấu

trúc nghĩa của từ để tạo thành nội dung mới mang thuộc tính nghĩa khác với

nghĩa cơ sở. Nói cách khác, một từ vừa có thuộc tính nghĩa của chính từ loại

đó đảm nhận (danh từ), vừa mang thuộc tính nghĩa của từ loại khác (đại từ,

tính từ).

Hiện tượng thay đổi cấu trúc nghĩa của từ dẫn đến hệ quả cao hơn là tạo

thành từ mới khác từ loại với từ xuất phát. Đó là hiện tượng chuyển loại.

Trong trường hợp này, sự biến động nghĩa đã làm phân ly cấu trúc nghĩa ban

đầu để tạo ra cấu trúc nghĩa mới và nghĩa mới của một từ mới thuộc từ loại

155

khác, nhưng nghĩa của chúng vẫn có quan hệ lô gíc với nhau (khác với nghĩa

của các từ đồng âm không có liên hệ gì với nhau cả).

4. LA đã chứng minh có sự chuyển biến nghĩa của một số từ thân tộc

mang thuộc tính nghĩa đại từ xưng hô (ví dụ: bác, cô, ông, bà, cha, mẹ,….).

Quá trình chuyển biến nghĩa của những từ đó thể hiện ở chỗ: Một từ vừa có

thuộc tính nghĩa của chính từ loại đó đảm nhận (danh từ), vừa mang thuộc

tính nghĩa của từ loại khác (đại từ). Từ nghĩa xưng hô trong gia đình mở rộng

nghĩa xưng hô ngoài xã hội. Cách xưng hô này "cực kì phổ biến" (chúng tôi

nhấn mạnh) trong xã hội nhằm thân mật hóa các mối quan hệ trong xã hội.

Tuy nhiên, khi chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ, ranh

giới giữa chúng rất khó nhận biết, phải dựa vào từng ngữ cảnh cụ thể để phân

biệt. Về nội dung nghĩa của từ, một từ vừa mang nghĩa định danh khái niệm, vừa

mang nghĩa xưng hô (trong gia đình và ngoài xã hội).

LA cũng tiến hành đối chiếu ý nghĩa trong các Từ điển tiếng Việt của

các trường hợp nghiên cứu chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính

nghĩa đại từ để thấy được tiến trình phát triển nghĩa của các đơn vị chuyển

nghĩa, đó là mở rộng nghĩa và phát triển nghĩa. Từ thân tộc nằm ở tầng nghĩa

cơ bản của ngôn ngữ nên thường được dùng xưng gọi trong gia đình, tuy

nhiên khi xã hội hóa thì lại được dùng nhiều trong giao tiếp xã hội.

5. LA đã chứng minh có sự chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc

tính nghĩa tính từ. LA xét những danh từ có bao hàm nét nghĩa chỉ về thuộc

tính và phẩm chất, vì chỉ những danh từ có những nét nghĩa chỉ thuộc tính,

phẩm chất mới có khả năng chuyển nghĩa tính từ (ví dụ: anh hùng, bình dân,

cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan,….). Nghĩa tính chất vốn có của

những danh từ này có mối liên hệ với nghĩa tính chất được nảy sinh trong quá

trình chuyển nghĩa. Phương thức chuyển nghĩa của các trường hợp nghiên cứu

là ẩn dụ và hoán dụ. Ẩn dụ là lấy thuộc tính, đặc điểm, tính chất nổi trội vốn

có của sự vật để biểu thị tính chất, đặc điểm của sự vật khác (anh hùng, bình

156

dân, cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi). Hoán dụ là lấy một đặc điểm chức

năng tương cận để biểu thị tâm lý, tính cách của sự vật (gan). LA đã chứng

minh được cơ chế chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ diễn

ra theo các hướng sau: (i) Mất một hoặc một số nét nghĩa trong cấu trúc nghĩa của

từ được cấu tạo theo chuyển nghĩa; (ii) Rút gọn cấu trúc nghĩa khi chuyển nghĩa;

(iii) Thay đổi tính chất một số nét nghĩa trong cấu trúc nghĩa của từ được cấu tạo

bằng chuyển nghĩa; (iv) Mở rộng nghĩa so với nghĩa gốc ban đầu. Nghiên cứu

cũng cho thấy, các mục từ chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa

tính từ có mối liên hệ mật thiết về nghĩa với nhau. Nghĩa thứ yếu sẽ dựa vào

nghĩa cơ sở để tạo nên nghĩa mới, chúng vừa mang dấu hiệu đặc trưng của

nghĩa cơ sở, lại vừa mang đặc trưng của nghĩa chuyển. LA chứng minh một

số trường hợp để thấy việc chuyển nghĩa từ danh từ loại này không phải là một

hiện tượng đơn nhất, riêng lẻ mà có tính quy tắc, nhất quán và đồng loạt.

6. Để xác định các đơn vị chuyển biến nghĩa, LA cho rằng cần: (i) Dựa

vào thuộc tính nội dung để phân biệt nghĩa (nghĩa phái sinh của các đơn vị

chuyển nghĩa). Đặc trưng nghĩa có sự chuyển biến thuộc vào phạm vi khác

(vốn là danh từ nhưng có phạm vi nghĩa của đại từ và nghĩa của tính từ). (ii)

Dựa vào nội dung nghĩa trừu tượng (phạm vi ngữ nghĩa học). Sự biến đổi về

số lượng nghĩa (đơn nghĩa, đa nghĩa) và hàm nội dung nghĩa theo trục thời

gian biểu hiện qua các từ điển giải thích. Như vậy, khi một từ phái sinh

chuyển biến nghĩa thì cần hai điều kiện: Một là, bản thân từ đó được sử dụng

với tần số cao (tức là từ đó thường dùng) trong tiếng Việt; Hai là, từ phái sinh

chuyển nghĩa phải thuộc vào một nội dung nghĩa mới và có tần suất sử dụng

cao. Sau khi chuyển nghĩa, các từ có nghĩa chuyển dần dần ổn định và được

cố định hóa trong vai trò chức năng mới của mình.

7. Sự phân ly về nghĩa của hiện tượng chuyển biến nghĩa trong tiếng

Việt, LA đã có đưa ra mô hình: Nghĩa cơ sở - nghĩa phái sinh định danh (đặc

trưng các nghĩa tố của nghĩa cơ sở) - nghĩa chuyển (nghĩa bóng). Sự phát

157

triển nghĩa của từ có thể xảy ra theo hướng mở rộng nghĩa và thu hẹp nghĩa;

phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ và hoán dụ. Ẩn dụ và hoán dụ là hai phương

thức phổ biến của tất cả các ngôn ngữ để tạo ra chuyển nghĩa.

8. Hiện tượng chuyển biến nghĩa có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn. Ý

nghĩa về mặt luận: Đối với trường hợp nghĩa phát triển xa so với nghĩa cơ sở

trong đa nghĩa từ vựng thì có thể xử lý phái sinh quan hệ, liên hệ nghĩa từ. Kết quả

là góp phần bổ sung một từ trở thành nhiều nghĩa. Ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu

hiện tượng chuyển nghĩa cho thấy sự phong phú về nội dung nghĩa của từ tiếng

Việt, điều này một mặt giúp các nhà biên soạn Từ điển tiếng Việt lưu ý trong quá

trình khai thác nghĩa; mặt khác có thể giúp giảng viên và sinh viên chuyên ngành

trong quá trình dạy và học môn ngữ nghĩa học.

Kết quả nghiên cứu của luận án cũng cho thấy, dù đã cố gắng rất nhiều

nhưng vẫn còn nhiều nội dung cần được tiếp tục nghiên cứu. Trong đó rõ nhất

là việc nghiên cứu sự chuyển nghĩa của một số nhóm khác nữa, ngoài các

nhóm mà chúng tôi đã khảo sát. Chúng tôi hi vọng sẽ có cơ hội để tiếp tục

nghiên cứu sâu hơn về đề tài này và có nhiều đóng góp hơn nữa để có thể

dựng nên một bức tranh toàn diện về hệ thống chuyển biến nghĩa trong tiếng

Việt, nhất là hệ thống thực từ./.

158

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ

1. "Sự chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ (Nghiên cứu

trường hợp từ "anh hùng")", Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 9 (344) 2023;

tr.8-14.

2. "Sự chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ (nghiên cứu trường

hợp từ "cô" trên ngữ liệu từ điển tiếng Việt)", Tạp chí Từ điển học và Bách

khoa thư Việt Nam, số 4 (84), 11-2023; tr.27-36.

3. "Nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Việt", Kỉ yếu Hội thảo

"Ngôn ngữ học máy tính: Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Hội Ngôn ngữ

học Việt Nam phối hợp với Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Tp. Hồ Chí

Minh tổ chức, 10-2023, tr.325-337.

159

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. TIẾNG VIỆT

1. Đào Duy Anh. 1978. “Để hiểu từ nghĩa, cần biết từ nguyên”. Ngôn

ngữ, số 4, tr. 45-50.

2. Lê Thị Lan Anh. 2015. Nghiên cứu sự chuyển đổi chức năng - nghĩa từ

vựng trong tiếng Việt (Trên tư liệu thuật ngữ), Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ

học. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia

Hà Nội.

3. Alexandre de Rhodes.1651. Từ điển Việt Nam - Bồ Đào Nha - Latinh,

Rome, Typir, & formptibus ciofdecn Sacr. Coogreg.

4. Võ Thị Ngọc Ân. 2013. “Tổng quan về hiện tượng chuyển loại trong

tiếng Việt và tiếng Anh”, Tuyển tập Việt Nam học, Nxb Đại học quốc

gia, Thành phố Hồ Chí Minh.

5. Trần Hoàng Anh, Đặng Thanh Hải. 2014. “Chuyển loại của từ trong

tiếng Việt”, Tạp chí Diễn đàn trao đổi, số 15.

6. Diệp Quang Ban. 1985. “Thử bàn về một cơ chế chuyển di từ loại trong

tiếng Việt (qua từ “cho”)”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr. 5-7.

7. Diệp Quang Ban. 2009. Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

8. Diệp Quang Ban. 2010. Từ điển Thuật ngữ Ngôn ngữ học (Sơ thảo), Nxb

Giáo dục Việt Nam.

9. Lê Biên. 1998. Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Nguyễn Tài Cẩn. 1975. Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb

Khoa học xã hội.

11. Nguyễn Tài Cẩn. 1999. Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

12. Hoàng Thị Châu. 1995. “Vài đề nghị về chuẩn hóa cách xưng hô trong

xã giao”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 3, tr. 12-13.

13. Đỗ Hữu Châu. 1981. Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt. Nxb. Giáo dục, Hà Nội.

14. Đỗ Hữu Châu. 1986. Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

160

15. Đỗ Hữu Châu. 1998. Cơ sở nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Đỗ Hữu Châu. 2009. Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội.

17. Nguyễn Văn Chiến. 1992. “Danh từ thân tộc Việt trong hai loại hình

ngôn ngữ đối chiếu: Khơme, Lào, Nga, Tiệp, Anh”, Nghiên cứu ngôn

ngữ Đông Nam Á, số 3, tr. 28-42.

18. Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê. 1963. Khảo luận về ngữ pháp Việt

Nam, Đại học Huế.

19. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến. 1997. Cơ sở ngôn

ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

20. Nguyễn Hồng Cổn. 2003. “Về vấn đề phân định từ loại trong tiếng

Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 36-46.

21. Huình Tịnh Paulus Của. 1895 -1896. Đại Nam quốc âm tự vị, Nxb Trẻ.

22. Nguyễn Đức Dân. 1987. Lôgic - Ngữ nghĩa - cú pháp, Nxb Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

23. Nguyễn Đức Dân. 1992. “Về một kiểu chuyển hóa từ loại”, Tiếng Việt và

các ngôn ngữ dân tộc phía Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

24. Nguyễn Đức Dân. 1992. “Triết lý tiếng Việt: không gian - điểm nhìn và

sự chuyển nghĩa của từ”, Nghiên cứu khoa học, Đại học Tổng hợp Thành

phố Hồ Chí Minh, số 1, tr. 5-14.

25. Trương Thị Diễm. 2002. Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc

trong giao tiếp tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ, Đại học Vinh.

26. Trương Thị Diễm. 2013. Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc. Nxb

Văn học.

27. Dirk Geeraerts. 2010. Các thuyết Ngữ nghĩa học từ vựng (Người dịch:

Phạm Văn Lam), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

28. Hoàng Dũng, Tăng Thị Tuyết Mai. 2011. "Về hiện tượng tốt nghĩa và

xấu nghĩa trong tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 38-46.

29. Nguyễn Thị Dự. 2004. Ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của nhóm tính từ chỉ

không gian (trên ngữ liệu Anh - Việt), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Bảo vệ

161

tại Viện Ngôn ngữ học.

30. Lê Văn Đức. 1970. Việt Nam tự điển, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.

31. Đinh Văn Đức. 1986. Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung

học chuyên nghiệp.

32. Đinh Văn Đức. 1993. “Một vài cảm nhận về ngữ pháp chức năng và

cách nhìn về ngữ pháp tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 40-43.

33. Đinh Văn Đức. 2001. Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội.

34. Đinh Văn Đức. 2015. Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại I & II, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

35. Emeneau M.B. 1951. Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Tài liệu dịch

(Rônêô), Đại học Tổng hợp Hà Nội.

36. Ferdinand De Saussure. 2005. Giáo trình Ngôn ngữ học Đại cương

(Người dịch Cao Xuân Hạo), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

37. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên). 1994. Dẫn luận Ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.

38. Nguyễn Thiện Giáp. 1998. Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

39. Nguyễn Thiện Giáp. 2014. Nghĩa học Việt ngữ, Nxb Giáo dục Việt Nam,

Hà Nội.

40. Gustaf Stern. 2006. Nghĩa và biến đổi nghĩa, (Người dịch: Phạm Văn

Lam), Hà Nội.

41. Cao Xuân Hạo. 1998. Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ

nghĩa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. Cao Xuân Hạo - Hoàng Dũng. 2005. Từ điển thuật ngữ Ngôn ngữ học

đối chiếu Anh - Việt, Việt - Anh, Nxb Khoa học xã hội.

43. Hoàng Văn Hành. 1982. "Về cấu trúc nghĩa của tính từ tiếng Việt (trong

sự so sánh với tiếng Nga), Tạp chí Ngôn ngữ. số 3, tr. 1-10.

44. Hoàng Văn Hành. 1988. "Nghĩa của tính từ tiếng Việt", Tiếng Việt, số 1,

tr.15-16.

162

45. Hoàng Văn Hành (chủ biên), Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khang. 1998.

Từ tiếng Việt: Hình thái - cấu trúc - từ láy - từ ghép - chuyển loại (tái

bản lần thứ nhất), Nxb Văn hóa Sài Gòn.

46. Hoàng Văn Hành. 2010. Tuyển tập Ngôn ngữ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

47. Nguyễn Văn Hiệp. 2008. Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb Giáo dục.

48. Phan Thị Nguyệt Hoa. 2009. “Một số tiền đề cần thiết để phân tích định

lượng từ đa nghĩa từ vựng trong tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, tr.

46-53.

49. Phan Thị Nguyệt Hoa. 2012. Từ đa nghĩa từ vựng trong tiếng Việt hiện

đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

50. Đặng Đức Hoàng. 2013. Đối chiếu tiếng Anh và tiếng Việt trên bình diện

chuyển đổi ngữ nghĩa. Luận án tiến sĩ Ngữ văn. Học viện Khoa học Xã hội.

51. Howard Maclay, Tổng thuật về ngữ nghĩa học, Bản dịch của Viện Ngôn

ngữ học.

52. Hội Khai trí Tiến đức. 1931. Việt Nam tự điển, Hà Nội.

53. J. Lyons. 1996. Nhập môn ngôn ngữ học thuyết (người dịch Vương Hữu

Lễ), Nxb Giáo dục.

54. Kasevich V.B. 1998. Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

55. Nguyễn Thị Ly Kha. 1998. “Sự hư hóa của danh từ hay là sự chuyển loại

từ danh từ thành giới từ”, Kỉ yếu hội thảo Ngữ học trẻ 98, Hội Ngôn ngữ

học Việt Nam, Hà Nội, tr. 60-65.

56. Nguyễn Văn Khang. 1999. Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn đề cơ bản,

Nxb Khoa học xã hội Hà Nội.

57. Nguyễn Thúy Khanh. 1996. Đặc điểm trường từ vựng ngữ nghĩa tên gọi

động vật (Trên tư liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga), Luận án Phó

Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học.

58. Phan Khôi. 1955. Việt ngữ nghiên cứu, Nxb Hà Nội.

59. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm. 1940. Việt Nam văn phạm,

Nxb Sài Gòn.

163

60. Nguyễn Lai. 1990. Nhóm từ chỉ hướng vận động trong tiếng Việt, Đại

học Tổng hợp, Hà Nội.

61. Phạm Văn Lam. 2007. Bước đầu khảo sát sự phát triển nghĩa của một số

nhóm từ trong tiếng Việt từ năm 1945 đến nay, Luận văn Thạc sĩ Ngôn

ngữ học, Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường Đại học Khoa học xã hội và

Nhân văn.

62. Phạm Văn Lam - Lê Thị Hương Lan. 2015. "Khái quát về quan hệ thuộc

tính và quan hệ thuộc tính trong hệ thống từ ghép tiếng Việt", Đề tài

nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước "Nghiên cứu, xây dựng và phát triển

một số tài nguyên và công cụ thiết yếu cho xử văn bản tiếng Việt", Mã

số KC.01.20/11-15, thuộc chương trình KC.01/11-15 do Công ty Cổ

phần Dịch vụ Công nghệ Thông tin Naiscorp chủ trì thực hiện.

63. Hồ Lê. 1976. Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

64. Nguyễn Thế Lịch. 1983. "Nghĩa của từ chỉ quan hệ họ hàng trong lối nói

có hàm ngôn", Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, tr. 52-59.

65. Nguyễn Thế Lịch. 1987. "Các hướng chuyển nghĩa của nhóm danh từ

biểu thị tên gọi động vật", Tạp chí Ngôn ngữ, số 1-2, tr. 58-66.

66. J. Lyons. 1995. Ngữ nghĩa học dẫn luận, (bản dịch của Nguyễn Văn

Hiệp (2005), Nxb Giáo dục.

67. J. Lyons. 1996. Nhập môn ngôn ngữ học lý thuyết, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

68. Kỳ Quảng Mưu. 2003. "Tâm lý văn hóa người Việt phản ánh trong sự

chuyển nghĩa của từ", Ngôn ngữ, số 3, tr. 20-22.

69. Hà Quang Năng. 1998. “Đặc trưng ngữ nghĩa của hiện tượng chuyển loại

các đơn vị từ vựng tiếng Việt”, Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 141-145.

70. Hà Quang Năng. 2005. Hiện tượng chuyển loại các đơn vị từ vựng trong

tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học - Viện Khoa học xã hội Việt Nam.

164

71. Hà Quang Năng (Chủ biên). 2009. "Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt

nửa sau thế kỉ XX", Đề tài khoa học độc lập thuộc Viện Hàn lâm Khoa

học Xã hội Việt Nam.

72. Nguyễn Thanh Nga. 1994. “Các kiểu danh từ có khả năng chuyển loại

thành tính từ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 45-52.

73. Thanh Nghị. 1952. Việt Nam tân tự điển, Sài Gòn.

74. Bùi Trọng Ngoãn. 2004. Khảo sát các động từ tình thái trong tiếng Việt,

Luận án Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

75. Trần Thị Nhàn. 2004. Hiện tượng chuyển hóa từ thực từ sang hư từ

trong tiếng Việt (theo lý thuyết ngữ pháp hóa), Luận án tiến sĩ Ngữ văn,

Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.

76. Trần Thị Nhàn. 2009. Lý thuyết ngữ pháp hóa và thực trạng ngữ pháp

hóa một số từ trong tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

77. Dương Thị Nụ. 2003. Ngữ nghĩa nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc trong

tiếng Anh và tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Bảo vệ tại Viện Ngôn

ngữ học.

78. Hoàng Phê. 1975. "Phân tích ngữ nghĩa", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 10-26.

79. Hoàng Phê. 1981. "Ngữ nghĩa của lời", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2-4, tr. 3-23.

80. Hoàng Phê (Chủ biên). 2012. Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

81. Hoàng Phê, Vũ Xuân Lương, Hoàng Thị Tuyền Linh. 1995. Từ điển

tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học (Vietlex).

82. Nguyễn Phú Phong. 1996. "Đại danh từ nhân xưng tiếng Việt", Tạp chí

Ngôn ngữ, số 1, tr. 7-19.

83. Nguyễn Anh Quế.1988. Hư từ trong tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

84. Nguyễn Thị Quy. 1995. “Vị từ hành động tiếng Việt và các tham số của

nó” (So sánh với tiếng Nga và tiếng Anh), Ngữ pháp tiếng Việt - Những

vấn đề luận, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

85. Shkarban L.I. 1995. “Tính từ và một số vấn đề lý thuyết về loại hình học

và các hệ thống loại từ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr. 89-92.

165

86. Sokolovskaja N.V. 1984. “Tiêu chuẩn thông báo trong phân ranh giới từ

thực và từ hư (trên cứ liệu tiếng Việt)”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 45-51.

87. Lê Thị Thanh Tâm. 2011. Cơ sở tri nhận của hiện tượng chuyển nghĩa

trong tiếng Việt (trên cứ liệu nhóm từ định hướng và nhóm từ vị trí, có

liên hệ với tiếng Nga). Luận án Tiến sĩ Ngữ văn. Trường Đại học Khoa

học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

88. Văn Tân (chủ biên). 1994. Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội.

89. Đào Văn Tập. 1951. Tự điển Việt Nam phổ thông, Vĩnh - Bảo Sài Gòn.

90. Nguyễn Kim Thản. 1997. Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

91. Lý Toàn Thắng. 2005. Ngôn ngữ học tri nhận - Từ thuyết đại cương đến

thực tiễn tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

92. Bùi Khánh Thế. 1995. Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.

93. Vũ Văn Thi. 1995. Quá trình chuyển hóa một số thực từ thành giới từ trong

tiếng Việt, Luận án phó tiến sĩ, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.

94. Lê Quang Thiêm. 1988. “Về vai trò của những nhân tố ngữ pháp trong

phân định các biến thể từ vựng ngữ nghĩa”, Những vấn đề ngữ pháp

tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

95. Lê Quang Thiêm. 1980. "Phân tích đối chiếu ngữ nghĩa từ đa nghĩa chỉ

quan hệ họ hàng Bungari-Việt // Xôphia - Bungari". Ngôn ngữ học đối

chiếu, số 2.

96. Lê Quang Thiêm. 2003. Lịch sử Từ vựng tiếng Việt thời kì 1858-1945,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

97. Lê Quang Thiêm. 2008. Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục.

98. Lê Quang Thiêm. 2015. Sự phát triển nghĩa Từ vựng tiếng Việt từ 1945-

2005, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

99. Huỳnh Văn Thông. 2000. “Mấy nhận xét về vị từ tình thái và ý nghĩa thể

(aspect) trong tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 8, tr. 51-58.

100. Chu Bích Thu. 1989. “Thành phần đánh giá trong ngữ nghĩa một số tính

từ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1-2, tr. 56-62.

166

101. Chu Bích Thu. 1996. Những đặc trưng ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt

hiện đại, Luận án phó tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học.

102. Nguyễn Minh Thuyết. 1986. “Thảo luận về vấn đề xác định hư từ trong

tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 39-43.

103. Bùi Minh Toán. 1996. “Từ loại tiếng Việt: Khả năng thực hiện hành vi

hỏi”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 63-67.

104. Nguyễn Đức Tồn. 2008. Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và

tư duy, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

105. Nguyễn Đức Tồn. 2013. Những vấn đề của ngôn ngữ học cấu trúc dưới

ánh sáng thuyết ngôn ngữ học hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

106. Nguyễn Ngọc Trâm. 1975. "Tìm hiểu về nhóm từ biểu thị tâm lý - tình

cảm trong tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr.19-28.

107. Nguyễn Ngọc Trâm. 1991. Đặc trưng ngữ nghĩa - ngữ pháp của nhóm từ

biểu thị tâm lý tình cảm trong tiếng Việt, Luận án phó tiến sĩ khoa học

ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học.

108. Hồ Ngọc Trung. 2014. “Hiện tượng chuyển đổi từ loại các từ chỉ bộ

phận cơ thể người trong tiếng Anh (Trong sự liên hệ với tiếng Việt)”, Đề

tài Nghiên cứu cấp viện, Viện Đại học Mở Hà Nội.

109. Trung tâm KHXH và nhân văn Quốc gia. 2002. Ngữ pháp tiếng Việt,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

110. Nguyễn Văn Tu. 1978. Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học và

Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

111. Vũ Thị Tuyết. 2018. Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu

người Việt, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội.

112. Viện Ngôn ngữ học. 2000. Loại từ trong các ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

113. Viện Ngôn ngữ học. 2003. Nguyễn Kim Thản tuyển tập, Nxb Khoa học

Xã hội.

114. Viện KHXH Việt Nam. 2008. Viện Ngôn ngữ học, Ngữ pháp tiếng Việt -

Những vấn đề luận, Nxb Khoa học Xã hội.

167

115. Phạm Hùng Việt. 2003. Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

116. Ullmann S. 1975. Các nguyên ngữ nghĩa học, (Phan Ngọc dịch), Viện

Ngôn ngữ học, Hà Nội.

117. Ủy ban Khoa học Xã hội. 1983. Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

118. Trần Quốc Vượng. 2000. Văn hoá việt nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb

Văn hoá dân tộc.

119. Nguyễn Như Ý (chủ biên). 1999. Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

B. TIẾNG ANH

120. Adams, Valerie. 1973. An Introduction to Modern English Word-

formation. London: Longman.

121. Arnol, Doug, Atkinson, M., Durand, J., Grover, C. and Sadler, L.(eds).

1989. Essays on Grammatical Theory and Universal Grammar. Oxford:

Clarendon Press.

122. Asher, Ronald E. (ed.). 1994. The Encyclopedia of Language and

Linguistics, 10 vol. Oxford and New York: Pergamon Press.

123. Back, Kent, and Harnish, R. 1979. Linguistic Communication and

Speech Acts. Cambridge, MA: MIT Press.

124. Bright, William (ed.). 1992. International Encyclopedia of Linguistics, 4

vols. Oxford University Press.

125. Chafe.W.L. 1971. Meaning and the struture of language, Chicago and

London.

126. Chomsky Noam. 1972. Studies on Semantics in Generative Grammar.

The Hague: Mouton.

127. Cole, Peter, and Morgan, J.L (ed.). 1975. Syntax and Semantics, 3:

Speech Acts.New Yord and London: Academic Press.

128. Emeneau. M.B. 1951. Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar,

Cambridge University Press, London, England.

168

129. Hognadó ttir, Ingunn. 2010. Role of Metonymy in Unmarked Change of

Word Category. B.A. Essay. University of Iceland-School of Humanities.

130. Jackendoff, Ray S. 1983. Semantics and Cognition. Cambridge. MA:

MIT Press.

131. Jackendoff, Ray S. 1990. Semantics Structures. Cambridge. MA: MIT Press.

132. Jean Aitchison. 2000. Language Change: Progress or Decay? Cambridge

University Press; 3rd edition.

133. Kovecses, Zoltán and Radden, Gunter. 1998. Metonymy: Developing a

Cognitive Linguistic View. Cognitive Linguistics 9-1, pg. 37-77.

134. Lakoff G. and Johnson M. 1980. Metaphor we live by, Chicago,

University of Chicago Press.

135. Lakoff, G. 1993. The contemporary theory of metaphor, In Metaphor

and thoughts, Ortony, A. (eds.). Cambridge: Cambridge University Press.

136. Lakoff G. & Johnson M. 1999. Philosophy in the Flesh, The embodied

Mind and its Challenge to Western Thought, New York, Basic Books.

137. Lichtenberk. F. 1991. Semantic change and heterosemy in

grammaticalization, Language, Vol.67, No.3.

138. Lyon John. 1977. Semantics, Two volumes. Cambridge University Press.

139. Lyons John. 1987. ‘Semantics’. In Lyons et al.

140. Lyon John. 1995. Linguistic Semantics- An introduction. Cambridge

University Press.

141. Maclaury. R.E. Social and cognitice motivation of change: measuring

variability in color semantics, Language, Vol.67, N.1.

142. Peter Lang. 2007. trong “The Directionnality of Conversion in English:

A Dia-synchronic Study”.

143. Plag, Ingo. 1999. Morphological Productivity Structural Constraints in

English Derivation. (Topics in English Linguistics 28). Berlin/New York:

Mouton de Gruyter.

144. Quirk, Randolph et al. 1985. A Comprehensive Grammar of the English

Language. London: Longman.

169

145. Sapir E. 1931. Conceptual categories in primitive languages // Science, v.74.

146. Stern G. 1931. Meaning and change of meaning, with special reference

to the Enghlish language, Bipomington Indiana University Press.

147. Thompson. L.C. 1987. A Vietnamese Reference Grammar, University of

Hawa'i Press, Honolulu.

148. Talmy L. 1975. Semantics and syntax of motion //Semantics and Syntax

(ed. Kimbald J.), V. 4. N. Y.

149. Talmy L. 1983. How language structures space // Spatial orientation:

theory, research, and application. N. Y.

150. Taylor J. 1989. Linguistic categorization, Prototypes in linguistics theory,

Oxford, Oxford University Press.

151. Ungerer F. and Schmid H. 1996. An introduction to cognitive linguistics,

London and N. Y.

152. Wierzbicka A. 1985. Lexicography and conceptual anylysis, Ann Arbor.

153. Zgusta. L. 1980. Theory and method in lexicography: Western and non-

western perspectives, Horn Beam Press Icn.

C. TIẾNG PHÁP

154. Michel Bréal. 1897. Essai de sémantique (Science des significations).

Lambert-Lucas.

D. TIẾNG HÁN

155. 高航.认知语法与汉语转类问题[M].上海:上海交通大学出版社,20

09 (Cao Hàng. 2009. Ngữ pháp tri nhận và vấn đề chuyển loại tiếng Hán,

Nxb Đại học giao thông Thượng Hải).

156. 谭景春.名形词类转变的语义基础及相关问题[J].中国语文,1998

(Đàm Cảnh Xuân. 1998. Cơ sở ngữ nghĩa và vấn đề liên quan đến danh

từ chuyển loại tính từ, Ngữ văn Trung Quốc).

157. 谭景春,关于由名词转变成的形容词的释义问题,辞书研究,

170

2001. (Đàm Cảnh Xuân. 2001. Liên quan vấn đề giải thích danh từ

chuyển loại sang tính từ, Nghiên cứu từ thư).

158. 贾君芳,名词功能游移的语义阐释,郧阳师范高等专科学校学,

2008 (Giả Quân Phương. 2008. Giải thích ngữ nghĩa thay đổi chức

năng của danh từ, Báo của trường cao đẳng chuyên ngành sư phạm

Vẫn Dương).

159. 任珂. 汉语名词与形容词跨类现象中特性与量性的转变.

南方科技大学语言中心,广东 深圳 , 2016 年第 30 期 (Nhậm Kha.

2016. Chuyển biến đặc tính và lượng tính trong hiện tượng danh từ chuyển

loại sang tính từ trong tiếng Hán, Trung tâm ngôn ngữ Đại học Khoa học

kỹ thuật Phương nam, Thâm Quyến Quảng Đông, Kì 30 năm 2016).

160. 刘正光.语言非范畴化——

语言范畴化理论的重要组成部分[M].上海:上海外语教育出版社,

2006 (Lưu Chính Quang. 2006. Ngôn ngữ phi phạm trù hóa - Bộ phận

tổ thành quan trọng của luận phạm trù hóa ngôn ngữ, Nxb Giáo dục

ngoại ngữ Thượng Hải).

161. 刘顺.现代汉语名词的多视角研究[M].上海:学林出版社,2003

(Lưu Thuận. 2003. Nghiên cứu đa góc nhìn danh từ tiếng Hán hiện đại,

Nxb Học Lâm, Thượng Hải).

162. 程娟,《现代汉语词典》词语功能义项计量考察,语文研究,

2004 (Trình Quyên. 2004. Khảo sát đo lường nét nghĩa chức năng từ

ngữ trong “Từ điển tiếng Hán hiện đại”, Nghiên cứu ngữ văn).

163. 程驰. 浅析现代汉语中名词的形容词化现象.

河南大学文学院,天中学刊,2015 年 6 月,第 3 期 (Trình Trì. 2015. "Hiện

171

tượng danh từ chuyển loại sanh tính từ trong tiếng Hán hiện đại", Học viện

văn học Đại học Hà Nam, Báo Thiên Trung, Kì 3 tháng 6 năm 2015).

164. 张伯江,词类活用的功能解释,中国语文,1994. (Trương Bác

Giang, Giả thích công năng hoạt dụng của từ loại, Ngữ văn Trung

Quốc, 1994).

165. 张谊生.名词的语义基础及功能转化与副词修饰名词[J].语言教学与

研究,1996, 1997 (Trương Nghị Sinh (1996-1997), "Cơ sở ngữ nghĩa

và chức năng chuyển hóa của danh từ với phó từ tu sức cho danh từ",

Dạy và nghiên cứu ngôn ngữ).

166. 张国宪,现代汉语形容词功能与认知研究,北京“商务印书馆,

2006 (Trương Quốc Hiến. 2006, Nghiên cứu chức năng và tri nhận hình

dung từ trong tiếng Hán hiện đại, Bắc kinh- thương vụ đồ thư quán).

172

NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT

Kí hiệu Ngữ cảnh

V1:

Bác Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh Ôi người cha đôi mắt mẹ hiền sao!

V2:

Cháu gửi bác gái ngâm rượu uống. Hôm nọ bác chẳng bảo bác gái vừa ốm dậy là gì?

V3:

Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà, Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha.

V4:

Tên VB + Nguồn trích xuất Tố Hữu. 1998. tháng "Sáng năm", Thơ Tố Hữu, Nxb Giáo dục. Nguyễn Thành 2001. Long. "Lặng lẽ Sapa", Sách Giáo khoa Ngữ văn lớp 9, tập 1, Nxb Giáo dục, tr. 180-190 Tố Hữu. 1969. “Bác ơi!”, Ra trận, Nxb Văn học Vi.wikipedia.org - Tôn Đức Thắng (1888-1980) là một nhà cách mạng, chính khách của Việt Nam. Ông là Chủ tịch nước thứ hai của Việt Nam (nhiệm kỳ từ 22 tháng 9 năm 1969 cho đến 2 tháng 7 năm 1976); trước đó là Phó Chủ tịch nước (1960-1969) và Quyền Chủ tịch nước (từ 2 tháng 9 cho đến 22 tháng 9 năm 1969), Trưởng ban Thường trực Quốc hội Việt Nam (1955-1960) - tương đương với Chủ tịch Quốc hội bây giờ. - Võ Nguyên Giáp (1911 - 2013) là một tướng lĩnh trong Quân đội Nhân dân Việt Nam và là

1

V5:

một chính trị gia. Ông là Đại tướng đầu tiên, Tổng Tư lệnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, cũng là người chỉ huy đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, là một trong những người góp công thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Chính phủ Việt Nam đánh giá là "người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh", là chỉ huy chính trong các chiến dịch và chiến thắng chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) đánh bại Thực dân Pháp, Chiến tranh Việt Nam (1960–1975) chống Mỹ, thống nhất đất nước và Chiến tranh biên giới Việt – Trung (1979) chống quân Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc. - Vào ngày sinh nhật thứ 70 của Joseph Stalin năm 1949, ông được phong tặng chức "Cha già của các dân tộc" cho việc ông thành lập chính thể "dân chủ nhân dân" tại các nước bị Đức Quốc xã chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai. - Bà mẹ Việt Nam anh hùng - danh hiệu vinh dự được Nhà nước Việt Nam phong tặng hoặc truy tặng những phụ nữ Việt Nam có nhiều cống hiến, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. - Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác Tôi lại đau trước bác mấy ngày. - Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước, Những sớm hôm tôi bác cùng nhau.

V6:

Bác cảm ơn các cháu. Bác khuyên các cháu: Biết giữ kỉ luật, siêng học siêng làm, yêu Chúa yêu nước. Bác hôn các cháu. Nguyễn Khuyến. 2003. Dương Khóc Khuê, Ngữ văn lớp 11, Nxb Giáo dục Hồ Chí Minh. lời 1947. “Trả thư chúc mừng

2

V7:

- Biết tôi là cán bộ phụ trách, khi bắt tay tôi, Bác nhẹ nhàng nói nhỏ: "Lần đầu đón Bác, chú mặc thế nào cũng được, nhưng từ nay về sau nhớ chỉ nâu sồng thôi nhé!

V8:

- Con cô con cậu thì xa, con chú con bác thật là anh em.

- Cái cò lặn lội bờ ao Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?

của Hội Nhi đồng Công giáo khu Thượng Mỹ, Phú huyện Hà Xuyên, Đông", ngày 10/5/1947, Hồ Chí Minh toàn tập. Nguyễn Minh Đường. 2003. Công Nghệ 6, Nxb Giáo dục, tr. 1-140. Vũ Ngọc Phan. 2017. Tục ngữ, Ca dao, Dân ca Việt Nam. Nxb Văn Học - Con có cha như nhà có nóc.

- Bà Trưng quê ở châu Phong, Giận người tham-bạo, thù chồng chẳng quên.

- Oan ức cho thầy cô lắm, con ơi. V9:

Nguyễn Mạnh Tuấn. 2020. Phần hồn, Nxb Thanh niên

- Tôi là em ruột bố cháu. Tôi là cô ruột. - Chiều hôm sau, tôi đem sách vở ra sửa soạn học bài thì thấy cái Phượng đến bên.

V10: Nguyễn Minh 2001. Châu. “Những ngày lưu lạc”, trong Nguyễn Minh Châu toàn tập, Tập 4, Nxb Văn học, Hà Nội

3

V11:

Thủy bố trí bên trong các ghế gội đầu ba cô thợ trẻ là: Tuyết, Thanh, Loan, mỗi người phụ trách một ghế.

V12:

Chúng em luôn kính trọng biết ơn các thầy giáo cô giáo.

1998. P.V. “Quán Năm Cô”, Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh, Số 652, ngày 04.7.1998 PHV. Tiếng Việt, Nxb Thanh niên, Số L3T1

Trường hợp ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại phải có giấy khai sinh của cháu nội, cháu ngoại và giấy khai sinh của cha mẹ cháu có liên quan đến ông, bà nội, ông bà ngoại của cháu hoặc sổ hộ khẩu có ghi rõ các mối quan hệ đó.

V13: H.B. 2000. "Các hợp trường thuộc diện không chịu thuế chuyển quyền sử dụng đất", Báo Sài Gòn Giải phóng, Số 8385 (07/11/2000), tr. 3

Ông chú, bà bác, hai bà thím, một người đàn ông mặc quần nâu và sơ mi bộ đội có cầu vai, xưng là thầy dạy học văn hoá cho Đức hồi lớp bảy.

Ông lão đánh lưới chụp lật đật đi như chạy.

V14: Nguyễn Minh 2001. Châu. "Cảnh và người ven đường", Nguyễn Minh Châu toàn tập (Tập 4), Nxb Văn học, tr. 722 V15: Nguyễn Minh 2001. Châu. "Buổi sáng ở cửa Thuận An", Nguyễn Minh

4

Bà lão bật khóc, tay bà nắm chặt cái cán của chiếc mai.

Châu toàn tập (Tập 4), Nxb Văn học, tr. 847 V16: Vũ Anh Tuấn - Đàm Lan. 2012. Nụ hôn muộn, Nxb Hội nhà văn, tr.37

V17: Mang

Về dự có ông Phó chủ tịch huyên, bà Chủ tịch hội nông dân.

Cái giấy này là: Kính gửi ông Lý A Pù ngày 17 tháng 4 năm 195... uỷ ban hành chính huyện trân trọng kính mời ông.

Viên Long. 2011. Một thời để thương yêu, Nxb Hội nhà văn V18: Nguyên Ngọc. "Truyện 2001. ngắn Rẻo cao", Báo Nhân dân, Số: 925 (14/10/2001)

Lục vừa cười vừa nói với Minh "hay là số này (tức 3 tập tiền đôla và 20 cây vàng) tôi với ông chia đôi".

V19: Đỗ Lâm. 2000. "Vụ án tham ô ở Phòng CSPCTP về ma túy (CA Nghệ An)", Báo Sài Gòn giải phóng, Số: 8265 (10/07/2000)

- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!

V20: Ngô Tất Tố. 2003. "Tức nước vỡ bờ" (Tắt đèn), Ngữ văn 8, Nxb Giáo dục

5

V21: Nguyễn

Phan Quang. 2002. Lê Văn Khôi và sự biến thành phiên an (1833-1835), Nxb Văn học, tr.146

V22: H.K.

2000. "Trương Trọng Thi cha đẻ của máy vi tính", Báo Sài Gòn giải phóng, Số 8298

V23:

Tường Giang. 1993. "Tin vắn", an Công Số: TPHCM, 386 (15/12/1993)

Trong một lá thư gửi Cha cả Giơn (Jeune) ở Pat-xa-văng (Passavant) khoảng cuối tháng 6- 1830, Mác-săng viết: "Thưa Cha... trên xứ sở bao la này đang hứa hẹn một mùa gặt phong phú, mà thợ gặt thì ít ỏi quá! Mong Cha hãy thúc giục các Cha bề trên gửi nhiều thợ gặt sang đây để nhanh chóng chất đầy kho cho Chúa và để giành lấy từ trong tay kẻ thù cả một khối lượng lớn đó. Năm 1973, tận dụng các ưu điểm của bộ vi xử lý đầu tiên do Intel sản xuất, ông đã cùng nhóm của mình tạo ra chiếc máy vi tính thực sự đầu tiên, được giới thiệu trên quy mô toàn thế giới: Micral. Micral là "tổ tiên" của tất cả mọi thế hệ máy vi tính hiện đại được sử dụng rộng rãi sau này - các máy vi tính cá nhân (PC). Trương Trọng Thi được xem là "cha đẻ của chiếc máy vi tính... Lần đầu tiên, một cuốn phim ca nhạc ngợi ca Bác Hồ kính yêu của chúng ta mang tên "Hồ Chí Minh Đẹp Nhất Tên Người" gồm 9 ca khúc quen thuộc nói lên nỗi nhớ thương, lòng biết ơn và kính phục đối với vị Cha già dân tộc của nhiều thế hệ nhạc sĩ VN do Hãng phim Trẻ thực hiện đã khởi quay từ đầu tháng 11-93.

V24:

Buồng Mẹ - buồng tim - giấu chúng con Đêm đêm chó sủa... Làng bên động? Bóng Mẹ ngồi canh lẫn bóng cồn...

Tố Hữu. 1981. "Mẹ Tơm", Gió lộng, Nxb Văn học. V25: An

thuyên (1994), Lời bài hát Mẹ Việt Nam anh hùng. Hát mừng những người mẹ Việt Nam, Hát mừng những người mẹ anh hùng. Đời hiến hiến giống nòi, mẹ sống giữa gian lao, Vì đất nước hy sinh cả cuộc đời...

6

V26: Vọng

Chín người con, vĩnh viễn không trở về Vành tang trắng, Mẹ khóc mờ đôi mắt Ôi bóng Mẹ, nghiêng chao hồn Đất Nước Mãi xanh màu, khúc hát... Mẹ Việt Nam!...

Tất cả được chia thành nhiều cánh quân, có thể lấy tên những vị anh hùng tiêu biểu đặt tên cho mỗi cánh quân và đồng loạt ra quân ngày 18-7- 2000.

Thanh. "Có những người mẹ thầm lặng", Chương tra cứu trình ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển và học Bách khoa thư Việt Nam V27: Quang Kim Ha. "Chiến 2000. dịch tình nguyện Mùa hè xanh 2000", Báo Sài Gòn Giải phóng, 8197 Số: (03/05/2000)

V28: Xuân

Nhà thơ Đỗ Trung Quân kể: "Hồi đó thanh niên xung phong đa số là dân thành phố vốn ít quen cơ cực, nhưng khi nhập cuộc lại rất anh hùng..."

V29:

Thái. 2000. "Văn hóa văn nghệ", Báo Sài Gòn Giải phóng, Ra ngày 12/07/2000. Sidney Sheldon. 2011. Nếu còn có ngày mai, Nxb Văn học

V30: Ngân

Đêm hôm đó tin và bài về hành động anh hùng của Tracy được tung ra, các tình tiết được đưa lên màn ảnh truyền hình quốc gia, thế là câu chuyện lan nhanh. Café ca nhạc bình dân là những quán chủ yếu dành cho đối tượng sinh viên, học sinh như Cội nguồn, Vườn Thanh niên hay Rap café...

Long. 2000. "Café ca nhạc", Báo Sài Gòn giải phóng. 8280 Số:

7

(25/07/2000)

Không ai có thể thay thế nhân dân trong sự lựa chọn tư tưởng cách mạng.

V31: Nguyễn Dương. 2000. "Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Thành ủy Trần Văn tư Tạo: Làm tưởng phải thấm nhuần quan điểm cách mạng tiến công", Báo Sài Gòn Giải phóng, Số: 8287 (01/08/2000), tr.2 V32: Hồ

Đặc biệt tại Ba Tơ (Quãng Ngãi), tù chính trị đã nổi dậy, đánh chiếm đồn giặc, lập chính quyền cách mạng và tổ chức đội du kích Ba Tơ.

Song - Nguyễn Kiên. 2004. Lịch sử 9 (Tập 2), Nxb Giáo dục, tr. 1- 31

V34:

Ở Liên Xô, có tổ chức bảo vệ an ninh quốc gia, gọi là KGB, nhằm phát hiện và đấu tranh với những âm mưu chính trị, quân sự của địch để bảo vệ chính quyền cách mạng. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tiến hành đảo chính lật đổ chính quyền cách mạng ở Sài Gòn.

V33: Hữu Mai. 2002. Đêm yên tĩnh, Nxb Công an nhân dân, tr.65. Lưu Văn Lợi - Nguyễn Hồng Trạch. 2002. Pháp tái chiếm đông dương và chiến tranh lạnh, Nxb Công an nhân dân,

8

V35:

Thôi mình đừng khóc nữa, được như vậy cũng là phúc lắm rồi.

- Trời, dzậy là em tốt phúc quá! V36:

tr.178 Trần Thị Sen. 2000. "Những dòng kỉ niệm", Nam Cao con người tác phẩm, Nxb Hội nhà văn Phương. Trúc "Phận 2021. thuyền quyên", Báo Văn nghệ, Số: 3 (3179) (16/1/2021), tr.20 V37: Kiều

- Mày quê quá Bảy Lâm ơi! Hổng phải trển nắng hơn dưới mình. Nhưng đó là "mốt" mới đời nay.

Phong. 1993. "Một cuộc thư hùng", Báo an Công Số: TPHCM, 384 (01/12/1993)

Em ở xa nhau quá, em còn trẻ quá, còn chất quê quá... không.

V38: Nguyễn Ngọc Thụy Khanh. 2012. Rẽ thẳng. Nxb Hội nhà văn

Cô bỗng thấy lúng túng vì cảm thấy những điều mình nói có gì như sách vở quá.

V39: Hoàng Minh Tường. 1996. Thuỷ hoả đạo tặc, Nxb Văn học

V40: Nguyễn Minh Nơi phương trời xa, Lục càng tiếp xúc với kiến

9

thức sách vở lại càng hiểu và yêu quý người yêu và người thầy đang lăn lộn trong thực tiễn.

Châu. 2001. "Hái hoa rừng Lào", Nguyễn Minh Châu tập toàn (tập 4), Nxb Văn học

V41: Quỳnh

Tôi thuộc lớp người sinh vào quãng giữa thế kỷ, nên những gì mà tôi có thể đem so sánh với trước đó đều chỉ là những so sánh có tính chất sách vở.

Theo dõi tiểu thuyết từ đầu tập 1 đến cuối tập 2, thấy rõ Hảo từ một sinh viên còn nhiều nhận thức non nớt về xã hội, hơi "sách vở", hơi cứng khi nhìn nhận một số vấn đề riêng tư, dần dà Hảo đã trở thành một cán bộ tốt, có những đóng góp đáng quý trong nghiên cứu khoa học.

V43:

Cha mẹ bỏ nhau, Quỳnh đi bụi và trở thành một tên trộm thạo nghề.

V44:

Nhi. 2001. "Bản sắc Việt người Báo Nam", Nhân dân, Số: 900, ngày Ngày XB: 19/09/2001 V42: Nguyễn Ngọc 2001. Thiện. "Hữu Mai và tiểu Vùng thuyết trời", Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ, Nxb Hội nhà văn "Theo dấu bọn trộm cắp nhí", an Công Số: TPHCM, 3499, Ngày 25/03/1999 Ngọc Trần Tuấn. 1996. Người đẹp Việt Nam, Số 13 (10/01/1996) Trang phục của cô khi xuống máy bay là chiếc quần short vải jean thật... ngắn, chiếc áo vải không cổ cộc tay màu tím nhạt trông rất "bụi" thậm chí còn hơi... nhàu nữa, như bao nhiêu khách "ba lô" khác.

Khải. Chỉ mặc bụi, chưa ăn bụi, ngủ bụi, sống bụi... chưa V45: Quang

10

phải là dân bụi!

1998. "Trẻ 'Đi bụi' - lời cảnh báo cho gia đình và xã hội", Công an TPHCM, Số: 627, Ngày 07/04/1998

Lấy chồng rồi dắt nhau đi mà ăn cơm bụ. V46: Nguyễn

Việt cộng chính hiệu, chúng gan lắm... V47:

Thị Vân. 2002. Nghê đá ở miếu cô cậu, Nxb Hội nhà văn Trần Áng Sơn. 2012. Rẽ thẳng, Nxb Hội nhà văn

Khi gặp cô bạn người Hà Lan lái xe tận Ultrech lên Amsterdam dẫn chúng tôi đi chơi, tôi đòi qua đó uống cà phê, cô cười: "Gan quá ha? Biết trong đó tụi nó làm gì không?" rồi đưa hai ngón tay trước miệng làm hiệu như đang "phê" thuốc.

V48: Ngô Thị Giáng 2011. Uyên. Bánh mì thơm cà phê đắng, Nxb Trẻ

11

PHỤ LỤC

12

PHỤ LỤC 1

BẢNG ĐỊNH NGHĨA MỤC TỪ DANH TỪ MANG THUỘC TÍNH NGHĨA

ĐẠI TỪ TRONG CÁC TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

MỤC TỪ

STT

1.

bác

2.

3.

chú

4.

ông

5.

6.

cha

7.

mẹ

8.

cậu

9.

mợ

10.

11.

anh

12.

chị

13.

em

Bảng 1.1: Định nghĩa mục từ “bác” trong các Từ điển tiếng Việt

STT TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

1

Đại Nam

Bác. c. Anh cha, vai lớn hơn cha.

quấc âm tự

vị (1895)

2 Việt Nam tự

điển (1931)

bác. I. Cũng như tiếng "bá" nghĩa thứ nhất: Bác ruột (anh ruột

cha mình). Bác họ (anh họ cha mình). Bác trai (bác mình). Bác gái (vợ bác mình). II. Tiếng dùng để gọi cha. III. Tiếng gọi người ngang vai hay là bạn thân với cha mình. IV. Tiếng tự-xưng đối với con anh em bạn thân mình mà người bạn vẫn coi mình là đàn anh. V. Tiếng anh em bạn gọi nhau. VI. Tiếng gọi người dưng, không khinh mà có ý không trọng.

3

Tự điển

bác.

13

Việt Nam

1. Anh của cha.2. ngr. Anh, chị của cha hay của mẹ. 3.

phổ thông (1951)

Cha: bác mẹ sinh thành. 4. Tiếng gọi những người coi như bác: gọi bạn cha bằng bác, là coi ông bạn đó như anh

cha mình; hai bạn gọi nhau bằng bác, là gọi hộ con.

4

Việt Nam

bác. dt.

tân tự điển (1952)

I. Anh cha mình, vợ anh cha mình. II. Kẻ lớn tuổi hay bạn với cha mình. III. Tiếng xưng với anh em bạn.

5

Từ điển

bác. dt. đt.

tiếng Việt

1. Anh hoặc chị của cha hoặc của mẹ mình. 2. Từ dùng

(1967)

để gọi bác mình, để tự xưng với con của em mình. 3. Từ dùng để gọi người ngang hàng với cha mình hoặc để tự

xưng với người đáng tuổi cháu. 4. Từ dùng để gọi người

ngang hàng với mình trong giao thiệp giữa những người

đứng tuổi trở lên. 5. Từ dùng để gọi những người đứng tuổi hoặc có tuổi.

6

Việt Nam

tự điển (1970)

Bác. 1. dt. Bá, tiếng gọi, vai người anh ruột hoặc anh bà con của cha mình hay cha vợ mình.

2. dt. Tiếng gọi người bạn thân với cha mẹ mình, người

bạn thân kém tuổi hơn mình, giữa hai bạn thân, người có

nghề nhứt-định hoặc chức-vị như bác tài, bác xã, bác

phó...

7

Từ điển

bác. dt.

tiếng Việt

1. Anh của cha hoặc chị dâu của cha (có thể dùng để

(2012)

xưng gọi). 2. (phg.). Cô, cậu hoặc dì ở hàng anh hay chị

của cha mẹ. 3. Từ dùng trong đối thoại để gọi người coi như bậc bác của mình với ý kính trọng, hoặc để tự xưng một cách thân mật với người coi như hàng cháu của

mình. 4. Từ dùng để chỉ người lớn tuổi với ý tôn trọng, hoặc chỉ người nhiều tuổi hơn cha mẹ mình. 5. Từ dùng để gọi nhau giữa người nhiều tuổi với ý kính trọng một cách thân mật.

14

Bảng 1.2: Định nghĩa mục từ “cô” trong các Từ điển tiếng Việt

STT

TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

1 Đại Nam quấc

Cô. c. Chị em bên cha. Con gái nhà quan hoặc là người

âm tự vị (1895)

danh giá

2 Việt Nam tự

điển (1931)

cô. I. Tiếng gọi chị hay là em cha. Có khi dùng để gọi những bậc ngang hàng với mẹ, như vợ thầy học, vợ lẽ bố. Theo

lối Tàu có khi dùng chữ "cô" để gọi mẹ chồng, cũng như

chữ "cữu" là bố chồng.

II. Tiếng gọi các con gái nhà quan. Tiếng thông-thường gọi các đàn bà trẻ tuổi. Văn-liệu

Cô là con gái nhà ai, Cái đầu xức sáp, cái tai đeo vàng

(C-d). Ba cô đội gạo lên chùa, Một cô yếm thắm bỏ bùa

cho sư (C-d). Cô kia đứng ở bên sông, Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang (C-d). Cô còn nước lọ cơm niêu,

Chồng con chẳng lấy bỏ liều thân du? (C-d). Có cô thì chợ

cũng đông, Cô đi lấy chồng thì chợ cũng vui (C-d).

3

Tự điển Việt

Nam phổ thông

cô. 1. Em gái (h. chị) của cha:

(1951)

hai cô cháu.

2. Tiếng gọi những người kể như cô mình hay cô của con

mình (gọi hộ con).

3. dgh.

Mẹ chồng:

cô cữu. 4. (tcu.) Con gái các quan hay các nhà phú quí. 5. Tiếng lịch-sự gọi người đàn bà giang-hồ: cô Kiều; cô Tư Hồng. 6. Thiếu-nữ ít tuổi hay chưa có chồng: cô thiếu-nữ; cô con gái; có cô thì chợ thêm đông, cô đi lấy chồng thì chợ cũng vui.

4

Việt Nam tân

cô.

15

tự điển (1952)

A. dt.

I. 1. Tiếng gọi chị hay là em cha; tiếng của mình kêu em hay chị gái khi nói với con. 2. Anh em con cô con cậu.

II. 1. Tiếng gọi chung các cô gái, hay các đàn-bà trẻ nhà

khá-giả. Hỡi cô tát nước bên đàng, Cớ sao hớt ánh trăng

vàng đổ đi (C. d) Ba cô đội gạo lên chùa, Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư (C. d). 2. Cô ả (itd); Cô dâu. Cô dì. Cô

đầu. Cô đỡ, cũng gọi là cô mụ. Cô gái. Cô giáo. Cô nương. Cô mình. Cô hồn, cô đồng bóng.

5 Từ điển tiếng

cô. dt. đt.

Việt (1967)

1. Em gái của cha mình. 2. Từ dùng để gọi cô mình, để xưng với em của cha

mình, để gọi em gái mình.

3. Từ dùng để gọi người nữ giáo viên dạy mình hoặc

người đáng tuổi cô mình.

4. Từ dùng để gọi người con gái còn thanh niên hoặc

đáng tuổi em mình:

Cô bán hàng bách hoá.

6

Việt Nam tự

điển (1970)

CÔ. 1. đgt. C/g.

O, vai và tiếng gọi chị hay em gái của cha mình.

Chú, bác, cô một họ; dì dượng, cậu khác dòng (tng).

2. đgt.

Tiếng anh và chị dâu gọi tâng em gái (gọi theo con).

3. đgt.

Tiếng gọi các gái chưa chồng hoặc có chồng mà không

thân lắm. Hỡi cô da đỏ má hồng, Cô đi theo chồng cô bỏ xứ cha (CD). 4. đgt. Tiếng gọi các người đàn-bà có nghề làm ăn mua-bán hoặc chồng họ có các nghề ấy. Cô đỡ, cô mụ, cô giáo, cô ký, cô thông; Còn cô bán rượu

anh còn say-sưa (CD).

16

5. đgt.

Tiếng gọi các hồn ma con gái. Cốt cô, xác cô Hai.

7

Từ điển tiếng

cô. dt.

Việt (2012)

1. Em gái hoặc chị của cha (có thể dùng để xưng gọi).

Cô ruột. Bà cô họ. Cô đợi cháu với. 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người con gái hoặc người phụ

nữ trẻ tuổi, thường là chưa có chồng.

Cô bé. Cô thợ trẻ.

3. Từ dùng để gọi cô giáo hoặc cô giáo dùng để tự xưng

khi nói với học sinh. Cô cho phép em nghỉ học một buổi.

4. Từ dùng trong đối thoại để gọi người phụ nữ coi như

bậc cô của mình với ý yêu mến, kính trọng, hoặc để người

phụ nữ tự xưng một cách thân mật với người coi như hàng

cháu của mình.

5. Từ dùng trong đối thoại để gọi em gái đã lớn tuổi với ý

coi trọng, hoặc để gọi một cách thân mật người phụ nữ coi

như vai em của mình (gọi theo cách gọi của con mình).

Bảng 1.3: Định nghĩa mục từ “chú” trong các Từ điển tiếng Việt

STT TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

Chú. n. Tiếng xưng hô, em cha, hoặc người nhỏ tuổi hơn

1. Đại Nam quấc âm tự

cha, hoặc vai nhỏ hơn cha, hoặc là em mình, nhỏ tuổi

vị (1895)

hơn mình, vai nhỏ tuổi hơn mình.

2. Việt Nam

tự điển (1931)

chú. I. Em trai của cha: Chú ruột, chú họ. Cũng có khi người anh dùng tiếng chú mà gọi người em, nghĩa là chú của con mình: Miệng ngọt nhạt của anh như của chú. Văn-liệu: Xảy cha còn chú. Chú cũng như cha. Cháu lú có chú nó khôn. II. Tiếng gọi những người nh-tráng, người hầu-hạ: Chú quyền, chú tiểu. Văn-liệu: Chú khi ni, mi khi khác.

3. Tự điển

chú.

17

Việt Nam

1. Em trai (ruột h. họ) của cha:

phổ thông (1951)

sểnh cha còn chú; chú ruột; chú họ. 2. Tiếng gọi những người kể như cha hay em trai (tl. Chú

của con mình):

chú thợ; chú lái đò; chú tiểu.

4. Việt Nam tân tự điển

chú. dt. I.

(1952)

1. Em trai của cha mình.

Chú cũng như cha. Anh anh, chú chú mừng hớn hỏi, Rượu

rượu chè chè thết tả tơi (Ng.b.Khiêm).

2. Chú bác. II. dt. và đgt.

1. Tiếng gọi người đàn-ông hầu-hạ, nh-tráng

Chú nh, chú tiểu.

2. Chú khách. Chú rể.

III. bt.

Bạn ít tuổi của cha mình.

chú. dt. đt.

5. Từ điển tiếng Việt

1. Em của cha mình và là đàn ông:

(1967)

Sảy cha còn chú, sảy mẹ bú dì (tng).

2. Từ đặt trước một danh từ chỉ một người con trai hàng

dưới mình:

Chú bé.

3. Ngôi thứ nhất dùng để tự xưng khi nói với cháu mình

hoặc những người coi như cháu mình:

Cháu ngoan, chú mua quà cho.

4. Ngôi thứ hai dùng để gọi người em bố mình hoặc người ngang hàng với em bố mình: Chú cho cháu mượn cái xe đạp. 5. Ngôi thứ hai dùng để gọi em mình hoặc người ngang hàng với em mình, khi mình đã đến một tuổi nào: Chú đi bỏ hộ anh cái thư. 6. Ngôi thứ ba dùng để chỉ em mình, em chồng mình, em

bố mình:

18

Con đừng nghịch sách của chú, chú về chú mắng cho.

6. Việt Nam

tự điển

Chú. 1. dt.

(1970)

Vai và tiếng gọi người em trai của cha mình hoặc tiếng gọi

tâng em trai mình (nếu mình là đàn-ông) hay em trai của

chồng mình (nếu mình là đàn-bà); tiếng gọi những người đàn-ông ngang vai với chú mình hoặc gọi tâng những người

trai-tráng:

Chú bác, chú em, chú rể, chú tiểu

2. Tiếng nói trại (trạnh) người khách-trú là ((các chú)) và

do đó gọi là chú: Chú tiệm, chú bán tàu-hủ, chú Ba

3. Tiếng gọi những người có nghề chuyên-môn không vào

hàng trí-thức:

Chú cai, thầy chú, chú, chú thợ, chú nh.

7. Từ điển tiếng Việt

chú. A. dt.

(2012)

1. Em trai của cha (có thể dùng để xưng gọi).

Chú ruột. Ông chú họ. Sẩy cha còn chú (tng.). Chú bảo gì

cháu?

2. Từ thiếu nhi dùng để chỉ hoặc gọi người đàn ông đáng

bậc chú mình, với ý yêu mến, kính trọng.

Cháu yêu chú bộ đội.

3. Từ dùng để chỉ thiếu nhi với ý yêu mến, thân mật.

Chú bé.

4. (dùng hạn chế trong một số tổ hợp).

Từ dùng để chỉ người con trai hoặc người đàn ông trẻ tuổi. Chú tiểu. Chú rể. 5. Từ dùng để chỉ con vật theo lối nhân cách hoá, với ý hài hước. Chú dế mèn. Chú chuột đi chợ đàng xa... (cd.). 6. Từ dùng trong đối thoại để gọi người đàn ông coi như bậc chú của mình với ý yêu mến, kính trọng, hoặc để người

đàn ông tự xưng một cách thân mật với người coi như hàng

19

cháu của mình.

7. Từ người đàn ông dùng trong đối thoại để gọi em trai (hay là người phụ nữ dùng để gọi em trai chồng) đã lớn tuổi

với ý coi trọng, hoặc người đàn ông dùng để gọi một cách

thân mật người đàn ông khác coi như vai em của mình (gọi

theo cách gọi của con mình).

Bảng 1.4: Định nghĩa mục từ “ông” trong các Từ điển tiếng Việt

STT TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

1

Đại Nam quấc âm tự

Ông. c. Cha cha mẹ mình; tiếng xưng hô quan trưởng cùng kẻ tuổi cao tác lớn; tiếng quan trưởng xưng mình.

vị (1895)

Việt Nam

2

tự

điển

ông. I. Cha của cha mẹ mình. II. Tiếng gọi những bậc thần-thánh

(1931)

anh-linh. III. Tiếng gọi người đàn ông có phẩm-vị. IV.

Tiếng gọi chung những người đàn ông.

Tự

điển

3

Việt Nam

ông. 1. Cha, chú, bác hay cậu của cha hay mẹ mình. 2. Đàn ông

phổ thông

đã đứng tuổi hay có địa-vị. 3. Tiếng gọi những bậc thần

(1951)

thánh.

Việt Nam

4

tân tự điển

ông. dt. I. 1. Cha của cha mẹ mình, hay cha của chú bác mình. 2.

(1952)

Ông nội. Ông chú, ông bác. Ông ngoại. II. 1. Tiếng gọi đàn

ông có phẩm vị, đáng kính. 2. Ông giám đốc. Ông hàn lâm. Ông Trời. III. 1. Tiếng gọi chung các người đàn ông hơi lớn tuổi. 2. Ông anh. Ông chồng. Ông già, ông lão.

5

Từ điển tiếng Việt (1967)

ÔNG. - d, đt. 1. Cha của cha hay của mẹ mình.2. Người đàn ông đã trưởng thành. 3. Từ dùng để chỉ những người có phẩm tước cao trong thời phong kiến, hay những người, những vật,

hoặc những hiện tượng mà người ta sợ hay tôn sùng, theo

20

mê tín. 4. Đại từ ngôi thứ hai chỉ một người đàn ông đã

trưởng thành, không thân với mình. 5. Đại từ ngôi thứ ba chỉ ông nội, ông ngoại. 6. Đại từ ngôi thứ nhất dùng để tự

xưng với cháu mình. 7. Đại từ ngôi thứ nhất dùng để tự

xưng một cách thô tục.

6

Việt Nam điển tự

ÔNG. 1. đgt. Tiếng gọi những người đàn-ông già, đáng chú bác

(1970)

cha ông mình trở lên. 2. Tiếng gọi xã-giao những người

đàn-ông lạ hoặc quen mà không thân.3. Tiếng gọi tôn-xưng

kẻ khuất mày khuất mặt. 4. Tiếng gọi các người có địa vị

cao. 5. Tiếng gọi cách kiêng-sợ những thú dữ to lớn. 6. Tiếng người đàn-ông tự-xưng khi giận.

Từ

điển

7

tiếng Việt (2012)

ông. dt. 1. Người đàn ông thuộc thế hệ sinh ra cha hoặc mẹ (có thể dùng để xưng gọi). 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người đàn

ông đứng tuổi hoặc được kính trọng. 3. (kng.). Từ người

đàn ông dùng để tự xưng khi tức giận, muốn tỏ vẻ trịch

thượng hoặc hách dịch.4. (kng.). Từ dùng để gọi người đàn

ông hàng bạn bè hoặc hàng em (hàm ý thân mật). 5. (kết

hợp hạn chế). Từ dùng để gọi tôn vật được sùng bái hay

kiêng sợ.

Bảng 1.5: Định nghĩa mục từ “bà” trong các Từ điển tiếng Việt

STT TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

Đại Nam

Bà. n. Mẹ cha mẹ mình. Tiếng xưng hô đờn bà lớn tuổi,

1

quấc âm tự

hoặc là người sang cả.

vị (1895)

2

Việt Nam tự điển (1931)

bà. I. Tiếng gọi mẹ của cha mẹ mình. II. Tiếng gọi những người đàn bà thần thánh anh linh. III. Tiếng gọi đàn bà có phẩm vị. IV. Tiếng gọi chung những người đàn bà. V. Tiếng gọi chung người đàn bà có tuổi và ngang hàng với bà mình. VI. Tiếng gọi các người đàn bà đồng bóng ở chùa ở

đền.

21

Tự điển

3

Việt Nam phổ thông

bà. 1. Mẹ hay cô, dì, bác, thím, mợ của cha hoặc mẹ mình. 2. Đàn bà đã đứng tuổi hay đã có địa-vị. 3. Vợ của ông. 4.

(1951)

Tiếng gọi các vị nữ-thần.

Việt Nam

4

tân tự điển (1952)

bà. dt. I. 1. Mẹ của cha mình. 2. Bà nội; bà ngoại; bà nhạc. II. Đàn-bà lớn tuổi có chức-phận, danh tiếng. III. Gọi chung

đàn-bà.

Từ điển

5

tiếng Việt (1967)

bà. dt., đt. 1. Mẹ của cha hay của mẹ mình. 2. Từ chỉ người đàn bà trong họ ngang hàng với cha mẹ mình, khi nói với người

khác. 3. Từ chỉ người đàn bà đã có chồng và đứng tuổi,

hoặc người đàn bà mình phải kính. 4. Từ chỉ người con gái

vua chúa. 5. Đại từ ngôi thứ hai nói với bà mình hoặc một người đàn bà đứng tuổi không có quan hệ thân với mình. 6.

Đại từ chỉ ngôi thứ ba chỉ bà nội, bà ngoại. 7. Đại từ ngôi

thứ nhất dùng để xưng với cháu nội, cháu ngoại.

Việt Nam

6

tự điển

Bà. A. dt. Tiếng gọi, vai những người đàn-bà thuộc bà con bên

(1970)

nội hay bên ngoại, từ hàng cha mẹ của cha mẹ mình trở lên.

B. 1. Tiếng gọi những người đàn-bà già, đáng bà nội bà

ngoại mình trở lên. 2. Tiếng gọi xã-giao những người đàn-

bà có chồng. 3. Tiếng gọi thần thánh đàn-bà hoặc xác phàm

các người ấy. 4. Tiếng các người đàn-bà có tên trong sử. 5.

Tiếng gọi vợ các người có chức phận.

7

Từ điển tiếng Việt (2012)

bà. dt. 1. Người đàn bà thuộc thế hệ sinh ra cha hoặc mẹ (có thể dùng để xưng gọi). 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người đàn bà

đứng tuổi hoặc được kính trọng. 3. Từ người đàn bà dùng để tự xưng khi tức giận, muốn tỏ vẻ trịch thượng hoặc hách dịch.

22

Bảng 1.6: Định nghĩa mục từ “cha” trong các Từ điển tiếng Việt

STT TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

Cha. n. Kẻ sinh ra mình.

1. Đại Nam quấc âm tự

vị (1895)

2. Việt Nam tự điển (1931)

cha. I. Cũng nghĩa như “bố”, người đàn ông sinh ra mình:

Con có cha như nhà có nóc. Văn-liệu: Cha vàng mẹ bạc.

Cha hiền con thảo. Cha hươu mẹ vượn. Cha nào con ấy.

Cha già con mọn. Cha sinh không tầy mẹ dưỡng. Chửi cha không bằng pha tiếng. Một đời cha ba đời con. Trẻ

cậy cha, già cậy con. Đời cha ăn mặn, đời con khát

nước. Cha ngảnh mặt đi con giại, cha ngảnh mặt lại con

khôn. Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì. Cha chung không ai khóc. Cha sinh con, trời sinh tính. Cha gánh lon, con

gánh vại. Cha đánh chẳng lo bằng ăn no giã gạo. Cha

làm sao đẻ con hao-hao làm vậy. Cha mẹ giàu con có,

cha mẹ khó con không. Còn cha gót đỏ như son, Cha

chết thì gót mẹ gót con thâm sì. Cha chài chú chóp. Cha

căng chú kiết. Thương tình con trẻ cha già (K). Rày đừng

vây cánh cha con (Nh-đ-m). Làm con đâu dám cưỡng

cha (L-V-T). Dạy rằng cha cả mẹ già những mong (L-V-

T).

II. Tiếng những người theo đạo Da-tô gọi các ông cố:

Cha xứ Đoài, cha xứ Đông.

3.

Tự điển Việt Nam phổ thông (1951)

cha. 1. Người đàn ông, đối với con của mình (nh. Bố): con có cha như nhà có nóc. 2. Tiếng người công-giáo gọi những vị linh-mục, giám- mục: Đức cha. 3. Tiếng gọi người đàn ông, có ý khinh rẻ hay giễu cợt: thằng cha ấy gàn.

4. Việt Nam

cha. dt.

23

tân tự điển

I. 1. Người đàn ông sinh ra mình. Cha hiền con thảo.

(1952)

Cha sinh không bằng mẹ dưỡng. Còn cha gót đỏ như son, Một mai cha chết gót con thâm sì (C.d). 2. Cha nào

con nấy. Cha chồng, cha vợ. Cha đẻ. Cha ghẻ. Cha

truyền con nối.

II. 1. Tiếng của người theo Thiên-chúa giáo gọi các ông truyền-đạo. Cha, cố. 2. Cha sở.

III. (thgt.) Người đàn-ông nào đó có ý khinh; tiếng thân- mật để chỉ bạn thân hay người liên-quan với mình mà làm ra bộ thân. Thằng cha nào? Mấy cha viết báo. Thôi

đừng giỡn nữa cha!. Thằng cha ấy. Cha căng chú kiết,

người lạ. Cha chài chú chóp.

5. Từ điển tiếng Việt

cha. dt. đt. 1. Người đàn ông sinh ra mình.

(1967)

2. Từ con dùng để gọi cha, cha dùng để xưng với con.

3. Từ người theo đạo Thiên chúa dùng để gọi một linh

mục.

4. Từ dùng để gọi suồng sã những người thân mật:

Thôi đi cha, đừng nói tếu nữa.

6. Việt Nam

tự điển

CHA. 1. dt. Vai và tiếng gọi người đàn-ông đã cùng người

(1970)

đàn-bà sinh mình ra:

Có cha có mẹ thì hơn, Không cha không mẹ như đờn đứt

dây; Công cha như núi thái-sơn (CD).

2. Tiếng gọi không thân hoặc có ý khinh nhiều người đàn

ông:

Mấy cha ghiền rượu, thằng cha thọt, thôi đi cha. 3. Tiếng gọi tôn kính các vị linh-mục đạo Da-tô: Cha Tòng, Cha Sở 4. tht. tiếng la khống khi gặp việc bất-ngờ hay khi đau thể-xác: Cha! Ngộ quá! Cha! Nóng quá ! Ui ôi) cha! 5. Tiếng chửi: Cha mầy! Đánh chết cha đa.

7.

Từ điển

cha. dt.

24

tiếng Việt

1. Người đàn ông có con, trong quan hệ với con (có thể

(2012)

dùng để xưng gọi). Cha nào con nấy. Con có cha như nhà có nóc (tng.). Cha

bảo gì con ạ?

2. Từ dùng để gọi linh mục hoặc linh mục tự xưng khi

nói với người theo Công giáo. 3. (thgt.).

Từ dùng trong một số tiếng chửi rủa, chửi mắng. Mồ cha*. Cha đời*. Chém cha*.

Bảng 1.7: Định nghĩa mục từ “mẹ” trong các Từ điển tiếng Việt

ĐỊNH NGHĨA Mẹ. n. (Coi chữ mẫu). Mẹ đẻ mình, vợ cha mình, cũng

hiểu về con cái trong các loài thú vật; tiếng than.

STT TỪ ĐIỂN 1. Đại Nam quấc âm tự vị (1895)

2. Việt Nam tự điển (1931)

mẹ. Bà thân sinh ra mình. Văn-liệu: Mẹ gà, con vịt. Mẹ tròn, con vuông. Mẹ goá, con côi. Mẹ hát, con khen. Cha sinh không bằng mẹ dưỡng. Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, Con nuôi mẹ con kể từng ngày. Mẹ già như chuối chín cây (T-ng).

3.

Tự điển Việt Nam phổ thông (1951)

4. Việt Nam tân tự điển (1952)

mẹ. 1. Người đàn bà sinh ra mình. nhiều người quen gọi mẹ bằng me. Mẹ hát con khen hay: chỉ những lời khen tặng thiên-vị của những người cùng phe, cùng cánh. 2. ngx. Người đàn bà. mẹ ấy; con mẹ đó. mẹ. dt. 1. Người đàn-bà đẻ ra mình Mẹ tròn, con vuông. Mẹ hát, con khen. Chiều chiều ra đứng ngỏ sau, Ngó về quê mẹ ruột đau chín chìu (C.d) 2. Mẹ chồng. Mẹ đẻ. Mẹ đĩ, mẹ đã có con gái. Mẹ ghẻ. Mẹ goá. Mẹ nuôi. Mẹ vợ.

5. Từ điển Mẹ. - d, đt.

25

tiếng Việt (1967)

1. Người đàn bà đã có con. 2. Người đàn bà trong quan hệ với con. Mẹ tròn con vuông. Nói người đàn bà ở cữ được bình yên mạnh khỏe. Mẹ hát con khen hay. Cùng trong nhà, trong họ tâng bốc nhau. 3. Từ dùng để gọi thân mật một phụ nữ đứng tuổi hay có tuổi, được mọi người kính nể : Mẹ Xim đêm đêm chèo thuyền cho bộ đội sang sông. 4. Nói động vật cái đã có con : Chim mẹ ; Chó mẹ.

6. Việt Nam

tự điển (1970)

mẹ. 1. dt. Má, bà thân-sinh, vai và tiếng gọi người đàn-bà sinh ra mình, tức vợ của cha mình: Bà mẹ, cha mẹ, thấy mẹ; Có cha có mẹ thì hơn, Không cha không mẹ như đờn đứt dây (CD). 2. (long.) Mẻ, tiếng gọi người đàn-bà cách khinh thường: Con mẹ bán quán; Mấy mẹ đó sao chưa thấy tới ?

7.

Từ điển tiếng Việt (2012)

mẹ. dt. 1. Người đàn bà có con, trong quan hệ với con (có thể dùng để xưng gọi). Công cha nghĩa mẹ. Giống mẹ như đúc. Lại đây với mẹ. Mẹ đẻ (phân biệt với mẹ nuôi, mẹ ghẻ). 2. (thường dùng sau dt.). Con vật cái thuộc thế hệ trước, trong quan hệ với những con vật thuộc thế hệ sau và do nó trực tiếp sinh ra. Gà mẹ gà con. Cá bố cá mẹ. 3. Cái gốc, cái chính từ đó sinh ra những cái khác. Bom bi mẹ. Lãi mẹ đẻ lãi con*. Sạch sẽ là mẹ sức khoẻ (b.). 4. Từ dùng để gọi người đàn bà đáng bậc mẹ (hàm ý coi trọng). Hội mẹ chiến sĩ. 5. (thgt.; dùng phụ sau đgt.). Từ dùng trong tiếng chửi rủa. Mất mẹ nó cả ngày! Vứt mẹ nó đi! Kệ mẹ chúng!

26

Bảng 1.8: Định nghĩa mục từ “cậu” trong các Từ điển tiếng Việt

STT TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

Cậu. c. Anh em với mẹ mình, tiếng xưng hô các con quan,

1. Đại Nam quấc âm tự

các kẻ có chức phận, hoặc là bà con với quan.

vị (1895)

2. Việt Nam tự điển (1931)

cậu. I. Tiếng gọi anh hay em trai mẹ. Văn-liệu

Con cô con cậu thì xa, Con chú con bác thật là anh em (C-

d). Chồng cô vợ cậu chồng dì, Trong ba người ấy chết thì không tang (Gia-lễ). Sáo sậu là cậu sáo đen, Bắt được sáo

đá thì lèn cho đau (C-d).

II. Tiếng gọi con các quan hay gọi chung các người con

trai ít tuổi:

Cậu ấm, cậu cả, cậu hai v.v.

3.

Tự điển

Việt Nam

cậu. 1. Em trai (h. anh) mẹ:

phổ thông

con cô con cậu thì xa, con chú con bác thật là anh em.

(1951)

2. Cha. Cậu mợ:

cha mẹ.

3. Tiếng vợ gọi chồng.

4. (tcu.)

Con trai các quan hay thanh-niên sang trọng: cậu ấm.

5. ngr.

Thanh-niên ít tuổi:

cậu học-trò.

cậu. dt.

4. Việt Nam tân tự điển (1952)

I. Anh hay em trai mẹ Con cô con cậu thì xa (T. ng) II. 1. Tiếng gọi con trai ít tuổi có vợ hay chưa thường là con trai nhà quan Cậu ấm, cậu hai, cậu công-tử v. v. . .

2. Cậu ấm. Cậu cả, Con trai đầu hay cậu bậc trên hết.

27

cậu. dt. đt.

5. Từ điển tiếng Việt (1967)

1. Em trai của mẹ mình. (đph) Anh trai của mẹ mình. 2. Từ dùng để gọi cậu mình, để tự xưng với con của chị

mình.

3. Từ con dùng để gọi cha, cha dùng để xưng với con.

4. Từ vợ dùng để gọi chồng. 5. Từ dùng để gọi thân mật người bạn trai cùng tuổi.

6. Từ dùng để gọi người con trai còn bé hoặc còn thanh niên: Cậu chỉ giúp anh đường lên huyện.

6. Việt Nam

tự điển (1970)

Cậu. 1. dt. Cựu, tiếng gọi anh hoặc em, của mẹ.

Ví dầu cậu giận cậu hờn, Cháu theo cùng cậu kéo đờn cậu

nghe (CD).

2. dt.

Tiếng gọi tâng em vợ mình.

3. dt.

Tiếng gọi tâng con các nhà quyền quý.

4. dt.

Tiếng vợ gọi chồng.

ấy! Em nói với cậu có sai đâu.

5. dt.

Tiếng gọi các hồn ma trẻ sơ-sinh nhập vào xác đồng.

Bà cậu, xác cậu, dinh cậu.

7.

Từ điển

cậu. dt.

tiếng Việt

1. Em trai hoặc anh của mẹ (có thể dùng để xưng gọi).

(2012)

Cậu ruột. Cậu và mợ. 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người con trai còn nhỏ tuổi, thường với ý mến trọng. Cậu bé. Cậu học trò. 3. (cũ). Từ trong xã hội cũ dùng để chỉ hoặc gọi người con trai nhà giàu sang, hoặc cai, nh, với ý coi trọng. Cậu ấm*. Cậu cai.

4. Từ dùng để gọi nhau một cách thân mật giữa bạn bè

28

còn ít tuổi.

Cậu làm giúp tớ. 5. Từ người chị dùng để gọi em trai, hoặc người anh rể

dùng để gọi em trai của vợ đã lớn tuổi với ý coi trọng (gọi

theo cách gọi của con mình).

6. Từ người cha dùng để tự xưng với con, người con gọi cha (trong một số gia đình, thường là ở thành phố), hoặc

người vợ gọi chồng (gọi theo cách gọi của con cái trong gia đình).

Bảng 1.9: Định nghĩa mục từ “mợ” trong các Từ điển tiếng Việt

ĐỊNH NGHĨA

STT TỪ ĐIỂN

Mợ. n. Vợ cậu; vợ các con quan, cũng là tiếng xưng mẹ.

1. Đại Nam quấc âm tự

vị (1895)

2. Việt Nam tự điển (1931)

mợ. I. Tiếng cháu gọi vợ cậu. Văn-liệu

Có mợ thì chợ cũng đông, Không mợ thì chợ chẳng không

bữa nào (C-d).

II. Tiếng gọi vợ các cậu ấm. Mợ cả dâu quan Tuần.

3.

Tự điển

Việt Nam phổ thông

mợ. 1. Vợ của cậu. 2. Cha.

(1951)

nhiều người quen gọi cha mẹ là cậu mợ.

3. ngr.

Tiếng chồng gọi vợ.

4. Việt Nam tân tự điển (1952)

mợ. đgt. I. Vợ của cậu. II. Ngr. Tiếng gọi vợ các cậu ấm, các người đàn bà trẻ có chút địa- vị hay tiếng trẻ con gọi mẹ nó: Có mợ thì chợ cũng đông. Không mợ thì chợ cũng không

bữa nào (C.d)

29

Mợ. - d, đ .

5. Từ điển tiếng Việt (1967)

1. Vợ của cậu. 2. Vợ các cậu ấm thời xưa :

Mợ Tú, dâu cụ Nghè.

3. Từ người chồng dùng để gọi vợ.

4. Từ con dùng để gọi mẹ : Mợ đi chợ nhớ mua quà cho con.

5. Từ bố mẹ chồng dùng để gọi nàng dâu.

6. Việt Nam

tự điển

Mợ. 1. đgt.

(1970)

Vai và tiếng gọi người vợ của cậu mình: Ví dầu cậu giận mợ hờn, Cháu theo cùng cậu kéo đờn cậu

nghe (CD).

2. (R)

Tiếng chị chồng gọi tưng em dâu, mẹ chồng gọi nàng dâu

trong nhà:

Có mợ thì chợ cũng đông, Không mợ thì chợ cũng không

bữa nào (CD).

7.

Từ điển

mợ. dt.

tiếng Việt

1. Vợ của cậu (có thể dùng để xưng gọi).

(2012)

2. Mẹ (dùng để xưng gọi trong một số gia đình trung lưu,

thượng lưu thời trước).

3. Từ người chồng dùng để gọi vợ còn trẻ trong một số

gia đình trung lưu thời trước (gọi theo cách gọi của con cái

trong gia đình).

4. Từ cha mẹ chồng dùng để gọi con dâu trong một số gia

đình trung lưu, thượng lưu thời trước. 5. Từ thời trước dùng để chỉ hoặc gọi người đàn bà trẻ có chồng là công chức trung cấp, với ý coi trọng. Mợ phán.

30

Bảng 1.10: Định nghĩa mục từ “dì” trong các Từ điển tiếng Việt

STT TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

1. Đại Nam

Dì. c. Tiếng xưng hô các chị em với mẹ mình, cũng là tiếng

quấc âm tự

các chị em gái gọi nhau.

vị (1895)

2. Việt Nam tự

dì.

điển (1931)

1. Tiếng gọi các chị hay em gái mẹ:

Sẩy mẹ, bú dì.

2. Chị gái gọi em gái thay con:

Con chị, con dì.

3. Tiếng gọi vợ thứ của cha mình. Thường nói là dì ghẻ:

Dì ghẻ con chồng.

3.

Tự điển

dì.

Việt Nam

1. Chị hay em gái mẹ:

phổ thông

đôi con dì.

(1951)

2. ngh.

Em gái của mẹ (đv. Già):

con dì con già.

3. Vợ bé của cha.

4. Việt Nam

dì. dt.

tân tự điển

Chị hay em gái mẹ:

(1952)

Dì như mẹ.

5. Từ điển

dì. dt. đt.

tiếng Việt

1. Em gái của mẹ mình.

(1967)

2. Từ dùng để gọi dì mình, để xưng với con của chị mình, để

gọi em gái của vợ mình.

3. Từ dùng để gọi vợ kế hay vợ lẽ của cha mình.

6. Việt Nam

Dì.

tự điển

1. dt.

31

(1970)

Vai và tiếng gọi chị hay em gái của mẹ mình:

Không cha đeo chân chú, không mẹ níu vú dì

2. Tiếng gọi tâng dì của con mình

3. Tiếng gọi vợ bé hay vợ sau của cha mình

4. Tiếng gọi những người đàn-bà trang lứa với mẹ mình.

7.

Từ điển

dì. dt.

tiếng Việt

1. Em gái hoặc chị của mẹ (có thể dùng để xưng gọi).

(2012)

Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì (tng.).

2. Từ chị hoặc anh rể dùng để gọi em gái hoặc em gái vợ đã

lớn, theo cách gọi của con mình (hàm ý coi trọng).

3. Vợ lẽ của cha (chỉ dùng để xưng gọi).

Bảng 1.11: Định nghĩa mục từ “anh” trong các Từ điển tiếng Việt

STT

TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

Đại

Nam

Anh. c.n. Thường là tiếng con một nhà gọi nhau, đẻ trước

1

quấc âm tự vị

làm anh, đẻ sau làm em; vai anh, vai lớn; con thơ

(1895)

Việt Nam tự

2

điển (1931)

anh. A. I. Con trai cùng một cha, đẻ trước hay là con vợ cả thì

gọi là anh. II. Trong một họ, dù nội dù ngoại, cùng một

hàng mà là bề trên thì gọi là anh. III. Đối với người ngoài

ai hơn tuổi thì gọi là anh, hay là bè-bạn gọi lẫn nhau. IV.

Gọi người ngoài hơi có ý khinh. V. Tiếng vợ gọi chồng hay

chồng tự xưng với vợ. VI. Tiếng thân của con gái gọi con trai, hay của con trai tự-xưng với con gái.

3

Tự điển Việt phổ Nam thông (1951)

anh. 1. Tiếng chỉ chung anh ruột, anh họ, anh rể anh vợ, anh chồng. 2. Tiếng chỉ những người có thể trực-tiếp hay gián- tiếp coi như những người kể trên. 3. Tiếng dùng để chỉ anh ruột.

Việt Nam tân

4

tự điển (1952)

anh. dt. I. Con trai cùng một cha mẹ hay một mẹ đẻ trước. II.

32

Trong một họ, dù nội, dù ngoại, cùng một hàng bề trên thì

gọi anh. III. bt. Giữa người dưng, hơn tuổi, gọi là anh hay bạn bè gọi nhau. IV. đạit. Tiếng vợ gọi chồng hay chồng

tự-xưng với vợ. V. đại t. Tiếng thân-yêu giữa con gái gọi

con trai hay con trai tự xưng với con gái. VI. đạit. Tiếng gọi

người lạ không cho là quan trọng lắm.

Từ điển tiếng

5

Việt (1967)

anh. đt., dt. 1. Người con trai sinh trước mình, cùng cha và cùng mẹ,

hoặc chỉ cùng cha hay cùng mẹ với mình. 2. Người con trai

là con vợ cả của cha mình khi mình là con vợ lẽ. 3. Con trai

bác mình hay bá mình. 4. Từ dùng để gọi anh mình, để tự xưng với em mình, để chồng tự xưng với vợ, để vợ gọi

chồng, để cha mẹ gọi con trai đã trưởng thành, để cha mẹ

gọi con rể. 5. Từ người con trai dùng để tự xưng với người

đáng tuổi em mình. 6. Từ chỉ một người bạn trai, người đàn

ông ngang hàng hoặc một người con trai nào.

Việt Nam tự

6

điển (1970)

ANH. 1. dt. Người trai sinh trước đối với những người trai hoặc

gái sinh sau cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, hoặc

cùng mẹ khác cha. 2. Con trai của người vai lớn trong vòng

bà-con đối với người vai nhỏ, không luận tuổi. 3. Chồng

người vai chị đối với những người vai em. 4. Trai trẻ hoặc

người đàn-ông lớn tuổi đối với người nhỏ tuổi hơn nam hay

nữ không trong vòng bà-con. 5. Trai trẻ hoặc đàn-ông đối

với những người khác ngang tuổi hoặc lớn hơn trong

trường-hợp được gọi tưng hoặc có ý khinh. 6. Chồng đối

với vợ hoặc chồng tự xưng. 7. Người trai hoặc đàn-ông tự- xưng thân-mật với người kém tuổi hơn hoặc ruột-thịt, hoặc bà-con, hoặc người dưng. 8. Tiếng gọi những người làm nghề thấp kém.

7

Từ điển tiếng Việt (2012)

anh. dt. 1. Người con trai cùng một thế hệ trong gia đình, trong họ, nhưng thuộc hàng trên (sinh trước, là con nhà bác, v.v.; có

thể dùng để xưng gọi). 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người

33

đàn ông còn trẻ; hay là dùng để gọi người đàn ông cùng

tuổi hoặc vai anh mình. 3. Từ phụ nữ dùng để gọi chồng, người yêu, hoặc người đàn ông dùng để tự xưng khi nói với

vợ, người yêu. 4. Từ dùng để gọi người đàn ông thuộc thế

hệ sau mình (như cha mẹ gọi con rể hoặc con trai đã trưởng

thành, v.v.) với ý coi trọng (gọi theo cách gọi của những con còn nhỏ tuổi của mình).

Bảng 1.12: Định nghĩa mục từ “chị” trong các Từ điển tiếng Việt

STT TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

Đại Nam

Chị. n. Tiếng xưng hô đờn bà, con gái lớn tuổi hơn mình,

1

quấc âm tự

hoặc vai lớn hơn hoặc là đờn bà ở nhà tu, nhà phước.

vị (1895)

Việt Nam

chị. Vai trên mình về hàng gái trong nhà trong họ.

2

tự

điển

(1931)

Tự

điển

3

Việt Nam

chị. 1. Tiếng chỉ chung chị ruột, chị họ, chị dâu, chị vợ, chị

phổ

thông

chồng. 2. Tiếng chỉ người có thể trực-tiếp hay gián-tiếp coi

(1951)

như những người kể trên đây. 3. Tiếng dùng để chỉ chị ruột.

Việt Nam

4

tân tự điển

chị. dt. I. 1. Vai trên mình về hàng gái trong nhà, trong họ. 2. Chị

(1952)

chồng. II. Người đàn bà nào đó trên tuổi mình. III. 1. Tiếng

gọi thân các cô gái cùng tuổi hay hơi lớn tuổi hơn mình.2.

Chị bạn, chị em bạn gái lớn tuổi hơn mình.

5

điển Từ tiếng Việt (1967)

chị. dt., đt. 1. Người con gái sinh trước mình, cùng cha và cùng mẹ hoặc chỉ cùng cha hay cùng mẹ với mình. 2. Người con gái con vợ cả của cha mình khi mình là con vợ sau, vợ lẽ. 3. Con gái bác mình. 4. Từ dùng để gọi chị mình, để tự xưng với em mình, để cha mẹ chồng gọi con dâu. 5. Từ người phụ nữ dùng để tự xưng với người đáng tuổi em mình. 6. Từ chỉ người bạn gái, một người phụ nữ ngang hàng, một người phụ nữ còn trẻ. 7.

Lớn hơn một tí.

34

Việt Nam

6

điển

tự (1970)

Chị. 1. dt. Vai và tiếng gọi người con gái cùng cha mẹ mà sinh trước mình. 2. (R) Vai và tiếng gọi những người đàn bà dính-

dáng xa gần với mình mà vào hàng chị mình. 3. Tiếng gọi

người đàn-bà quen hoặc không, xuýt-xoát tuổi với mình. 4.

Tiếng người gái hoặc đàn-bà tự-xưng với người nhỏ tuổi hơn.

Từ

điển

7

tiếng Việt

chị. dt. 1. Người phụ nữ cùng một thế hệ trong gia đình, trong họ,

(2012)

nhưng thuộc hàng trên (sinh trước, là con nhà bác, v.v.),

trong quan hệ với em của mình (có thể dùng để xưng gọi). 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người phụ nữ còn trẻ, hay là dùng

để gọi người phụ nữ cùng tuổi hoặc vai chị mình; hoặc người

phụ nữ thường là còn trẻ dùng để tự xưng một cách thân mật

khi nói với người vai em mình. 3. Từ dùng để gọi người phụ

nữ thuộc thế hệ sau mình (như cha mẹ gọi con dâu hoặc con

gái đã trưởng thành, v.v.), với ý coi trọng (gọi theo cách gọi

của những con còn nhỏ tuổi của mình).

Bảng 1.13: Định nghĩa mục từ “em” trong các Từ điển tiếng Việt

STT TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

Em. n. tiếng con một nhà kêu nhau, lớn là anh chị, nhỏ là em

1. Đại Nam quấc âm tự

út, chẳng kỳ gái trai; cũng là tiếng gọi người tuổi nhỏ,

vị (1895)

vai nhỏ; chồng kêu vợ cũng bằng em.

2. Việt Nam tự điển (1931)

em. I. Con trai, con gái cùng một cha mẹ nhưng sinh sau, hay là

con vợ lẽ đối với con vợ cả. II. Trong một họ, dù nội dù ngoại cùng một hàng mà là bề dưới thì gọi là em. Em họ. III. Tiếng chung của người lớn gọi người nhỏ, coi như em mình. Em ơi, em làm hộ anh việc này. IV. Tiếng người đàn-bà tự xưng khi nói chuyện. Mai em xin đến chơi hầu chị.

3. Tự

điển em.

35

Việt Nam

1. Tiếng chỉ chung em ruột, em họ, em dâu, em rể, em vợ,

thông

phổ (1951)

em chồng. 2. Tiếng chỉ những người trực-tiếp hay gián-tiếp coi như

những người kể trên.

đàn ông thường gọi vợ bằng em; nhiều người quen gọi

những người nhỏ tuổi hơn mình bằng em. 3. ngh. tl. Em ruột.

4. Việt Nam tân tự điển

em. dt. I. 1. Con trai hay con gái cùng cha mẹ (hay cùng cha khác

(1952)

mẹ, cùng mẹ khác cha), sinh sau. 2. Em gái. Em trai. Em

dâu. Em ruột. Em rể. II. Trong một họ, bên nội hay bên ngoại cùng một hàng, bề

dưới thì gọi là em.

III. đgt. Đại danh-từ dùng để gọi người nhỏ hơn mình, hay

người nhỏ xưng với người lớn.

Em đi trước anh sẽ theo sau.

IV. đgt. Tiếng xưng hô của người đàn bà đối với chồng hay

tình nhân.

Khách không ở: lòng em cô-độc quá, Khách ngồi lại cùng

em ! đây gối lả (X.Diệu) Em sợ lang quân em biết được,

Nghi ngờ đến cái tiết-trinh em (H.m.Tử)

5. Từ

điển

tiếng Việt

em. dt. đt. 1. Người con trai hay người con gái sinh sau mình, cùng cha

(1967)

cùng mẹ hoặc chỉ cùng cha hay cùng mẹ với mình.

2. Người con trai hay người con gái con vợ kế hay vợ lẽ của

cha mình khi mình là con vợ cả.

3. Con trai hay con gái của chú, cậu, cô, dì mình. 4. Từ dùng để gọi em mình, để xưng với anh và chị mình, để vợ xưng với chồng, để chồng gọi vợ. 5. Từ dùng để xưng với người đáng tuổi anh hoặc chị mình, để học sinh xưng với thầy giáo và cô giáo, để giáo viên gọi học sinh. 6. Bé hơn :

Buồng cau chị, buồng cau em.

36

6. Việt Nam điển

tự (1970)

em. 1. đgt. Vai, tiếng gọi và tiếng tự-xưng của người sinh sau đối với người sinh trước cùng cha mẹ

Em tôi khát sữa bú tay (CD)

2. Vai, tiếng gọi và tiếng tự-xưng của những người con nhà

chú đối với con nhà bác, hoặc bà-con cô cậu, bạn dì mà thuộc vai nhỏ hơn

Em nhà chú, em cô cậu, em bạn dì 3. Tiếng gọi và tiếng tự-xưng người bạn nhỏ tuổi hơn hoặc vợ đối với chồng

Em bạn; Em là con gái Phụng-thiên, Bán rau mua bút mua

nghiên cho chồng; Lạy trời phò-hộ cho em, Cho em chóng

lớn em lên cõi già (CD); Đàn em, em út

4. Tiếng người lớn gọi người nhỏ cách thân-mật

Em làm ơn mở giùm cửa qua vô

5. Vai, tiếng gọi và tiếng tự-xưng của con vợ đối với con

chồng trong gia-đình chắp-nối.

7. Từ

điển

tiếng Việt

em. dt. 1. Người cùng một thế hệ trong gia đình, trong họ, nhưng

(2012)

thuộc hàng dưới (sinh sau, là con nhà chú, v.v.; có thể dùng

để xưng gọi).

Em ruột. Em họ. Em dâu. Chị ngã em nâng (tng.).

2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người còn nhỏ tuổi, hay dùng để

gọi người vai em mình một cách thân mật hoặc để tự xưng

một cách thân mật với người vai anh, chị mình.

Em học sinh. Các em thiếu nhi quàng khăn đỏ. 3. Từ người đàn ông dùng để gọi vợ, người yêu, hoặc người phụ nữ dùng để tự xưng khi nói với chồng, người yêu.

37

PHỤ LỤC 2

BẢNG ĐỊNH NGHĨA MỤC TỪ DANH TỪ MANG THUỘC TÍNH NGHĨA

TÍNH TỪ TRONG CÁC TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT

STT

MỤC TỪ

1.

anh hùng

2.

bình dân

3.

cách mạng

4.

phúc

5.

quê

6.

sách vở

7.

bụi

8.

gan

Bảng 2.1: Định nghĩa mục từ “anh hùng” trong các Từ điển tiếng Việt

STT

TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

Anh hùng. Kẻ tài lực phi thường

1. Đại Nam quấc vị

âm

tự

(1895)

2. Việt Nam tự điển (1931)

anh-hùng. Bậc tài giỏi và có chí to hơn người.

3. Tự điển Việt phổ

Nam

anh-hùng. Kẻ xuất-chúng, có tài đức hơn người.

thông (1951)

4. Việt Nam tân tự điển (1952)

anh hùng. dt. 1. Bậc xuất-chúng có chí-khí hơn người. 2. Anh-hùng

mạt-lộ. Anh hùng hết đường vùng vẫy, tung hoành. 3.

Anh hùng rơm. Anh-hùng ở tiếng mà thôi.

5. Từ điển tiếng Việt (1967)

anh hùng. I. dt. 1. Người có tài năng đức độ rất cao, mà việc làm có ảnh hưởng đến sự tiến hoá của xã hội. 2. Người có nhiều thành tích về chiến đấu, về sản xuất, được nhân dân và chính phủ công nhận. II. tt. Dũng cảm đến cao độ.

6. Việt Nam tự anh hùng. dt.

38

điển (1970)

Bậc tài giỏi xuất-chúng.

7. Từ điển tiếng Việt (2012)

anh hùng. I. dt. 1. Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao đối

với nhân dân, đất nước. 2. Nhân vật thần thoại có tài

năng và khí phách lớn, làm nên những việc phi thường.

3. Danh hiệu vinh dự cao nhất của nhà nước tặng thưởng cho người hoặc đơn vị có thành tích và cống

hiến đặc biệt xuất sắc trong lao động hoặc chiến đấu. II.

tt. Có tính chất của người anh hùng.

Bảng 2.2: Định nghĩa mục từ “bình dân” trong các Từ điển tiếng Việt

STT

TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

1. Đại

Nam

Bình dân. Dân làm ăn, không có danh phận gì với Nhà-

quấc âm tự vị

nước.

(1895)

2. Việt Nam tự điển (1931)

bình-dân. Người dân thường, không có danh-phận gì. [thuộc

bình1, IV]

3. Tự điển Việt phổ

Nam

bình-dân. Dân thường: Chính-phủ bình-dân.

thông (1951)

4. Việt Nam tự điển

tân

bình-dân. dt. 1. Dân thường, dân-chúng.

(1952)

2. Bình-dân học vụ. Đảng bình-dân: Đảng gồm có dân

cày và thợ thuyền ở Mỹ (Năm 1892): Đảng có xu-

hướng dân-chúng ở Đức và ý.

5. Từ điển tiếng Việt (1967)

bình dân. I. dt. 1. Những người ở cổ đại La Mã không ở giai cấp quý tộc mà cũng không ở giai cấp nô lệ. 2. Những người dưới chế độ phong kiến gồm có thị dân, công nhân, thợ thủ công và nông dân. 3. Nhân dân lao động, tức công nhân, nông dân, lao động trí óc. II. tt. 1. Phục vụ nhân dân lao động, dùng cho nhân

dân lao động: Quán cơm bình dân. 2. Giản dị và dễ gần:

39

Tính tình bình dân, sát quần chúng.

6. Việt Nam tự điển (1970)

bình-dân. 1. dt. Dân thường, không chức-phận, danh-vọng: Người

bình-dân.

2. tt. Tính-cách thông-thường, bình-thường: Tiếng nói

bình-dân, nếp sống bình-dân.

7. Từ

điển

tiếng

Việt

bình dân. I. dt. 1. Người dân thường (nói khái quát, thường là

(2012)

trong xã hội cũ). Sự đối lập giữa quý tộc và bình dân. 2.

(kng.; dùng phụ sau dt.). Bình dân học vụ (nói tắt). Giáo viên bình dân. Lớp bình dân.

II. tt. 1. Của tầng lớp bình dân, dành riêng cho tầng lớp

bình dân. Văn học bình dân. Quán cơm bình dân. 2.

Bình thường, giản dị, gần gũi với quần chúng. Tác phong bình dân. Cách nói năng rất bình dân.

Bảng 2.3: Định nghĩa mục từ “cách mạng” trong các Từ điển tiếng Việt

STT TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

cách mạng. dt. Cg. Cách mệnh.

1. Từ điển tiếng Việt

1. Cuộc đấu tranh của giai cấp bị áp bức đứng lên lật đổ

(1967)

nền thống trị của giai cấp áp bức, phá vỡ quan hệ sản xuất

cũ, xây dựng một chế độ mới và tiến bộ. 2. Sự phá bỏ tổ

chức cũ xấu xa để dựng nên một hệ thống mới tốt đẹp: Cách mạng văn hoá.

2. Việt Nam

tự điển (1970)

cách-mạng (mệnh). bt. Sửa-đổi chế-độ cũ cho tốt đẹp hơn hoặc thay-thế chế-độ cũ bằng chế-độ mới, người mới với võ-lực.

3.

Từ điển tiếng Việt (2012)

cách mạng. I d. 1 Cuộc biến đổi xã hội - chính trị lớn và căn bản, thực hiện bằng việc lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời, lập nên một xã hội mới, tiến bộ. 2 Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện một cuộc cách mạng xã hội. 3 Quá trình thay đổi lớn và căn bản theo hướng tiến bộ trong một lãnh vực nào đó. 4 (viết hoa). Cách mạng tháng Tám (nói tắt).

II t. Thuộc về cách mạng, có tính chất cách mạng.

40

Bảng 2.4: Định nghĩa mục từ “phúc” trong các Từ điển tiếng Việt

STT

TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

1. Đại Nam

Phúc. c. (Phước).

quấc âm tự vị

(1895)

2. Việt Nam tự điển (1931)

phúc. Điều hay, điều tốt, do việc làm nhân đức mà ra.

Nhà có phúc. Làm phúc. Văn-liệu: Phúc chủ, lộc thầy.

Có phúc, có phần. Phúc đức tại mẫu. Làm phúc phải tội. Phúc chẳng hai, tai chẳng một. Có phúc đẻ con biết

lội, Có tội đẻ con biết trèo. Có phúc lấy được vợ già,

Sạch cửa, sạch nhà lại ngọt cơm canh. Vô phúc lấy phải

trẻ ranh, Nó ăn, nó bỏ tung tành nó đi (C d). Phúc nào đọ được giá này cho ngang (K). Duyên ta mà cũng phúc

trời chi đây (K). Một nhà phúc lộc gồm hai (K). Quyền

hoạ phúc trời tranh mất cả, Món tiện nghi chẳng trả

phần ai (C o). Dẫu vương nạn ấy ắt dành phúc kia (Nh

đ m). Nợ xưa nhẹ lánh, phúc sau dành phần (Nh đ m).

3. Tự điển Việt

Nam phổ

phúc. 1. (h. Phước) Điều hay, điều tốt. có phúc; phúc bất

thông (1951)

trùng lai.

2. (h. Phước) Điều nhân-đức. làm phúc.

3. Bụng. tâm-phúc.

4. Đổ. khuynh-phúc.

5. Trở lại lần nữa. phúc lại cái án cũ. 6. Trả lời. phúc thơ.

phúc. dt.

4. Việt Nam tân tự điển (1952)

1. Điều hay, điều tốt, cũng gọi là phước. Phúc chủ may thầy. Phúc nào đọ được giá nầy cha ngang (Ng.Du) 2. Làm phúc.

5. Từ điển tiếng Việt (1967)

PhúC. 1. dt. Việc tốt lành : Nhà có phúc.

2. tt. May mắn : Phúc cho hắn thoát nạn.

41

6. Việt Nam tự điển (1970)

PHÚC. 1. dt. Cái bụng 2. (R). Nỗi niềm ôm-ấp trong lòng: Tâm-phúc

7.

Từ điển

tiếng Việt

phúc. I. dt. Điều may lớn, điều mang lại những sự tốt lành

(2012)

lớn; trái với hoạ. Con hơn cha là nhà có phúc (tng.) Phúc nhà anh ta còn to lắm (kng.; gặp hoạ, nhưng vẫn

còn may).

II. tt. (kng.; thường dùng trong câu biểu cảm).

May mắn. Thật phúc cho nó, tai qua nạn khỏi. Như vậy

là phúc lắm rồi!

Bảng 2.5: Định nghĩa mục từ “quê” trong các Từ điển tiếng Việt

STT TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

1

Đại Nam

Quê. n. Đất tổ phụ, xứ sở mình.

quấc âm tự

vị (1895)

2 Việt Nam

tự

điển

quê. I. Nơi cỗi rễ của dòng họ nhà mình.

(1931)

Quê cha, đất tổ. Văn-liệu: Quê người đất khách. Một chốn,

đôi quê. Sống quê cha, ma quê chồng. Chim, gà, cá, lợn,

cành cau, Mùa nào thức ấy giữ màu nhà quê (C-d). Sống

nhờ đất khách, thác chôn quê người (K). Ngẩn-ngơ quê khách, gập-ghềnh đất xa (Nh-đ-m). Hồn quê thơ-thẩn như

dường theo ai (H-T). Lòng quê nghĩ một đôi điều ngang-

ngang (K).

II. Mộc-mạc chất-phác. Ăn nói quê. Văn-liệu: Lời quê góp nhặt rông-dài, Mua vui cũng được một vài trống canh (K).

3

Tự điển Việt Nam phổ thông (1951)

quê. 1. Nơi cội rễ của dòng họ nhà mình. quê nội; quê ngoại; quê cha đất tổ; nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.

2. Nơi đồng ruộng làng mạc, đối với thành-thị.

42

nhà quê; thú quê.

3. Vụng về chất-phác. ăn mặc quê; điệu bộ quê; lời quê chắp nhặt dông dài.

4

Việt Nam

tân tự điển

quê. I. dt.

(1952)

Nơi mình sinh đẻ Quê cha, đất tổ. Hồn quê thơ-thẩn như dường theo ai

(Ng.h.Tự)

II. bt.

Nơi thôn dã

Thú quê. III. Mộc-mạc, chất-phác

Cô ấy còn quê lắm.

5 Từ

điển tiếng Việt

Quê. I. - dt.

(1967)

1. Cg. Quê hương. Nơi gốc rễ của dòng họ mình.

2. Nông thôn: Về quê nghỉ.

II. -

Mộc mạc, thiếu văn vẻ (cũ). Dáng điệu trông quê lắm.

6

Việt Nam

tự

điển

QUÊ. 1. dt. Nơi xa thành-thị:

(1970)

Nhà-quê, thôn-quê.

2. Xứ-sở, nơi cội-rễ ông bà cha mẹ mình:

Sống quê cha, ma quê chồng.

3. Chỗ ở:

Một kiểng hai quê. 4. tt. Thô-kệch, mộc-mạc, kém hiểu biết: Đất quê chớ người không quê; Tới đây lạ xứ lạ người, Trăm bề nhẫn-nhịn, đừng cười tôi quê (CD).

7

Từ điển tiếng Việt (2012)

quê. I. dt. 1. Nơi gia đình, dòng họ đã qua nhiều đời làm ăn sinh

sống, thường đối với mình có sự gắn bó tự nhiên về tình

43

cảm.

Về thăm quê. Quê mẹ. Chính quê ở tỉnh A. Tình quê (tình cảm quê hương).

2. Nông thôn, nơi có đồng ruộng làng mạc.

Ở quê ra tỉnh. Dân quê.

II. tt. Có tính chất quá mộc mạc, kém vẻ thanh lịch.

Cách ăn mặc còn hơi quê.

Bảng 2.6: Định nghĩa mục từ “sách vở” trong các Từ điển tiếng Việt

ĐỊNH NGHĨA

STT TỪ ĐIỂN

Sách vở. Sách là cuốn sách, vở là bài vở, đồ biên chép mà

học, cũng là tiếng đôi chỉ nghĩa là sách.

1. Đại Nam quấc âm tự

vị (1895)

2. Việt Nam

sách-vở. Sách và vở, thường nói chung về sách.

tự điển

(1931)

3.

Tự điển

Việt Nam

sách vở. 1. Quyển sách và quyển vở; chỉ chung các sách.

phổ thông

2. ngb. Sự học-hành.

(1951)

4. Việt Nam tân tự điển

sách-vở. dt. Nói chung về sách. Kiểm-duyệt sách vở.

(1952)

5. Từ điển tiếng Việt (1967)

Sách Vở. 1. dt. Sách và vở nói chung. 2. tt. Chỉ lệ thuộc vào tri thức trong sách vở và không sát thực tế : Con người sách vở ; Tri thức sách vở.

6. Việt Nam

tự điển (1970)

sách vở. 1. dt. Sách và tập vở 2. (thth) Tiếng gọi chung những sách: Tủ đựng sách vở.

44

7.

Từ điển

tiếng Việt (2012)

sách vở. I. dt. Sách và vở; tài liệu học tập, nghiên cứu (nói khái quát). Chuẩn bị sách vở cho ngày khai trường. Vùi đầu

trong sách vở.

II. tt. Lệ thuộc vào sách vở, thoát li thực tế. Kiến thức sách

vở. Con người sách vở.

Bảng 2.7: Định nghĩa mục từ “bụi” trong các Từ điển tiếng Việt

STT TỪ ĐIỂN

ĐỊNH NGHĨA

1. Đại Nam quấc âm tự

Bụi. n. Đất bủn hay là vật nát ra như bột hay bay theo gió. Chòm cây cỏ lúp xúp.

vị (1895)

2. Việt Nam

tự điển

bụi. 1. Những chất nhỏ lăn-tăn bay lẫn vào trong không-khí:

(1931)

Dặm hồng bụi cuốn chinh-an (K). Bụi nào cho đục được

mình ấy vay (K). Nghĩa bóng là người có tang, không được

quang-quẻ: Người có bụi không đi đến những đám vui

mừng. Nghĩa bóng nữa là giặc-giã: Dẹp yên khói giặc quét thanh bụi Hồ (L-V-T). Thủa trời đất nổi cơn gió bụi (Ch-

ph). Văn-liệu: Còn chen vào đám bụi trần làm chi (Q-â). Cỏ

cây chẳng chút bụi trần (thơ Thiên-thai).

2. Đám cây cỏ mọc rậm:

Bụi tre. Bụi gai. Bụi xương-rồng v.v. Văn-liệu: Cuốc trong

bụi rậm nhảy ra chia phần (C-d). Giếng sâu bụi rậm trước

sau tìm quàng (K). Lạy ông tôi ở bụi này (T-ng). Ném đất

bụi tre (T-ng). Suýt chó vào bụi rậm (T-ng). Toan tìm khe suối bụi bờ nghỉ chân (L-V-T).

45

3.

Tự điển Việt Nam phổ thông (1951)

bụi 1. Chòm cây rậm rạp. Bụi tre. Bụi gai. 2. Những mảnh vụn rất nhỏ của mọi vật, bám vào không cứ là đồ gì và bay lên trên không nhiều hay ít tuỳ theo không khí chuyển động mạnh hay yếu. Gi ũ bụi. Phủi bụi. 3. ngb. Tang. Có bụi.

4. Việt Nam tân tự điển (1952)

5. Từ điển tiếng Việt (1967)

6. Việt Nam

tự điển (1970)

7.

Từ điển tiếng Việt (2012)

bụi A. dt. I. Những chất nhỏ mịn lăn tăn bay lẫn vào trong không khí. Thuở trời đất nổi cơn gió bụi. II. Ngb. Giặc giã. Dẹp yên khói giặc quét thanh bụi hồ (Đ. Chiểu). bụi. dt. 1. Những hạt rất nhỏ do các chất rắn vụn ra bay trong không khí hoặc phủ trên mặt đường, đồ đạc. 2. Những điều nhơ bẩn: Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay (K). 3. Nhỏ vụn như bụi: Mưa bụi. bụi 1. dt. Vật thể nhỏ bay trong không khí hoặc ở dưới đất bị gió cuốn bay lên. Gió bụi. Phủi bụi. Quét bụi. 2. (B). Sự dày dạn kinh nghiệm trên đường đời. Nước non dường ấy tình dường ấy, Xe ngựa bao nhiêu, bụi bấy nhiêu. 3. (R). Tang tóc. Có bụi. bụi. I. dt. 1. Vụn nhỏ li ti của chất rắn có thể lơ lửng trong không khí hoặc bám trên bề mặt các vật. Quần áo đầy bụi. Bụi than. 2. Dạng hạt nhỏ như hạt bụi (nói về nước). Bụi nước. Mưa bụi lất phất. 3. (phg.; kết hợp hạn chế). Tang. Có bụi. 4. (kng.). Bụi đời (nói tắt). Bỏ nhà đi bụi, lang thang chán lại về. II. tt. (kng.). Có dáng vẻ buông thả, không theo khuôn khổ thông thường, trông giống như của những người đi bụi. Tóc cắt trông rất bụi. Đeo chiếc ba lô bụi.

46

Bảng 2.8: Định nghĩa mục từ “gan” trong các Từ điển tiếng Việt

ĐỊNH NGHĨA

Gan. c. Lá gan; mạnh mẽ, dạn dĩ.

STT TỪ ĐIỂN 1. Đại Nam quấc âm tự vị (1895) 2. Việt Nam

tự điển (1931)

3.

Tự điển Việt Nam phổ thông (1951)

4. Việt Nam tân tự điển (1952)

5. Từ điển tiếng Việt (1967)

gan. Một bộ-phận trong ngũ-tạng. Buồng gan. Nghĩa bóng: bạo dạn: Dạn dày cho biết gan liền tướng-quân (K). Văn-liệu: Gan vàng, dạ sắt. Gan già ma mọi. Gan bằng gan cóc tía. Có gan ăn cướp, có gan chịu đòn. Bống có gan bống, bớp có gan bớp. Đá vẫn trơ gan cùng tuế-nguyệt (thơ cổ). Dẫu rằng đá cũng nát gan lọ người (K). Như nung gan sắt, như bào lòng son (K). Kiên-trinh chẳng phải gan vừa (K). Gan chẳng đá khôn đường khá chuyển (C-o). Dễ đem gan óc đền nghì trời mây (K). gan. 1. Tạng-phủ tiết ra mật. buồng gan. 2. ngb. Can-đảm: non gan; có gan; cả gan. 3. Phần trũng ở giữa lòng bàn tay hay lòng bàn chân. gan bàn tay; gan bàn chân. gan. dt. I. Một bộ-phận trong ngũ tạng, nằm bên phải bao tử Bịnh rét hay làm đau gan. II. Lòng dạ Đá vẩn trơ gan cùng tuế nguyệt (Th.Quan) Gan chẳng đá, khôn đường khó chuyển (Ng.gia.Thiều) III. bt. 1. Bạo dạn Anh ấy gan lắm. Có phước làm quan có gan làm giàu (T.ng) 2. Non gan. Già gan, to gan, can đảm. GAN. I. dt. 1. Một bộ phận trong bộ máy tiêu hóa có nhiều chức năng, chức năng chính là tiết ra mật để tiêu chất mỡ. 2. Mặt trong hay dưới (của bàn tay, bàn chân).

47

6. Việt Nam

tự điển (1970)

7.

Từ điển tiếng Việt (2012)

II. tt. 1. Dám làm những việc nguy hiểm mà người bình thường e ngại : Phải gan lắm mới xông vào đồn địch . Gan cóc tía. Quá bạo dạn. 2. Có sức bền bỉ trước những khó khăn gian lao : Gan chịu đòn. Gan liền tướng quân. Gan góc vô cùng. Gan vàng dạ sắt. Lòng chung thủy không thay đổi trước mọi khó khăn. gan. 1. dt. (cơth.): C/g. Can, bộ-phận lọc máu và tiết ra mật, phía phải bao-tử Buồng gan, lá gan, đau gan 2. tt. Dạn, không sợ Cả gan, căm-gan, lớn gan, to gan, xung-gan; Có phước làm quan có gan làm giàu (tng.). 3. (R) dt. Lòng, phần trũng giữa bàn tay bàn chân gan bàn chân, gan bàn tay. gan. I. dt. 1. Bộ phận của bộ máy tiêu hoá có chức năng chính là tiết mật để tiêu hoá chất mỡ. Buồng gan. Viêm gan. Món gan lợn. 2. (thường dùng trong một số tổ hợp, sau đgt., tt.). Gan của con người, coi là biểu tượng của tinh thần, ý chí mạnh mẽ, bền bỉ, không lùi bước trước khó khăn. Bền gan. Thi gan đọ sức. Bé người mà to gan. 3. Gan của con người, coi là biểu tượng của tinh thần dám đương đầu với nguy hiểm, dám chịu đựng. Có gan vào hang bắt cọp. Có gan chịu đòn. Non gan*. Nhát gan*. Miệng hùm gan sứa*. II. tt. Tỏ ra có gan, dám đương đầu với nguy hiểm hoặc dám chịu đựng. Nó gan lắm, súng kề tai cũng không sợ. Thằng bé chịu đòn rất gan.

48

PHỤ LỤC 3: MỤC TỪ CHUYỂN BIẾN NGHĨA DANH TỪ

MANG THUỘC TÍNH NGHĨA TÍNH TỪ TRONG

TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT CỦA HOÀNG PHÊ

STT

d-t

1. ác ôn

I d. Kẻ tham gia nguỵ quyền có nhiều tội ác với nhân dân.

II t. (kng) Có nhiều hành động tàn ác, dã man.

2. âm tần

I d. Tần số âm thanh.

II t Có tần số cỡ tần số âm thanh.

3. âm1

I d. 1 Một trong hai nguyên cơ bản của trời đất. 2 (vch., hoặc chm). Từ

dùng để chỉ một trong hai mặt đối lập nhau (thường coi là mặt tiêu cực; mặt

kia là dương), như đêm (đối lập với ngày), mặt trăng (đối lập với mặt trời),

nữ (đối lập với nam), chết (đối lập với sống), ngửa (đối lập với sấp), v.v. II t. (chm). 1 (Sự kiện) mang tính chất tĩnh, lạnh, hay (sự vật) thuộc về nữ

tính hoặc về huyết dịch, theo quan niệm của đông y. 2 Bé hơn số không.

4. ân tình

I d. Tình cảm thắm thiết do có ơn sâu đối với nhau.

II t. Đầy ân tình hoặc đầy tình cảm thắm thiết, nói chung.

5. ánh

I d. 1 Những tia sáng do một vật phát ra hoặc phản chiếu lại (nói tổng quát.

2 (chm). Mảng ánh sáng có màu sắc.

II t. Có nhiều tia sáng phản chiếu lóng lánh.

6. anh hùng

I d. 1. Người lập nên công trạng lớn lao đối với nhân dân, đất nước. 2 Nhân vật thần thoại có tài năng và khí phách lớn, làm nên những việc phi thường. 3 Danh hiệu vinh dự cao nhất của nhà nước tặng thưởng cho người hoặc đơn vị có thành tích và cống hiến đặc biệt xuất sắc trong lao động hoặc chiến đấu. II t. Có tính chất của người anh hùng.

7. anh linh

49

I d. Linh hồn cao đẹp, thiêng liêng (của người chết).

II t. (trtr). Như linh thiêng.

8. bã

I d. Phần xác còn lại sau khi đã lấy hết chất nước cốt.

II t. 1 Rời, nát và nhạt nhẽo như chỉ là cái bã còn lại. 2 Mệt mỏi đến mức

có cảm giác như chân tay rã rời, không còn gắng gượng để hoạt động bình thường được.

9. ba bị

I d. Tên gọi một hình người quái dị bịa ra để doạ trẻ con.

II t. (kng). 1 Xấu xí, tồi tàn. 2 Thiếu nhân cách, lăng nhăng, chẳng ra gì.

10. ba rọi

I d. Ba chỉ.

II t. (ph). 1 Nửa đùa nửa thật, có ý xỏ xiên. 2 Pha tạp một cách lố lăng.

11. bác học

I d. Người học rộng, hiểu biết sâu về một hay nhiều ngành khoa học.

II t. Theo lối của nhà bác học; có tính chất khó hiểu, không bình dân.

12. bề thế

I d. 1 Quy mô, phạm vi rộng lớn. 2 (cũ; id). Thế lực do địa vị mà có.

II t. Có bề thế.

13. bệnh

I d. 1 Trạng thái cơ thể hoặc bộ phận cơ thể hoạt động không bình thường.

2 Trạng thái hư hỏng bộ phận làm cho máy móc hoạt động không bình

thường. 3 Thói xấu hoặc khuyết điểm về tư tưởng làm cho có những hành

động đáng chê trách hoặc gây hại.

II t. (ph). ốm.

14. bệnh hoạn

I d. Trạng thái bị đau đớn, bệnh tật (nói khái quát). II t. Đau ốm, không khoẻ mạnh.

15. biệt tài

I d. Tài năng đặc biệt, ít người có. II t. có biệt tài.

16. bình dân

I d. 1 Người dân thường (nói khái quát, thường là trong xã hội cũ). 2 (kng;

dùng phụ sau d.). Bình dân học vụ (nói tắt).

50

II t. 1 Của tầng lớp bình dân dành riêng cho tầng lớp bình dân. 2 Bình

thường, giản dị, gần gũi với quần chúng.

17. bộ phận

I d. Phần của một chỉnh thể, trong quan hệ với chỉnh thể.

II t. Có tính chất bộ phận.

18. bợm

I d. 1 (kng; dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Kẻ sành sỏi về ăn chơi. 2

Kẻ chuyên lừa bịp, trôm cắp, có nhiều mánh khoé.

II t. (kng). Sành sỏi và khôn khéo, có nhiều mánh khoé táo tợn.

19. bợm bãi

I d. (id). Kẻ chuyên lừa bịp; bợm (nói khái quát).

II t. Có nhiều mánh khoé lừa bịp (nói khái quát).

20. bợn

I d. Cái ít nhiều làm cho bẩn đi, làm cho vẩn đục.

II t. 1 Có chút gì làm cho bẩn đi. 2 (Tâm trí) có chút gì làm cho vướng víu,

bận bịu.

21. bóng1

I d. 1 Vùng không được ánh sáng chiếu tới do bị một vật che khuất hoặc

hình của vật ấy trên nền. 2 (dùng sau đg; kết hợp hạn chế). Bóng của người

có thế lực, dùng để ví sự che chở. 3 (chm). Mảng sáng tối trên bề mặt của

vật do sự tác dụng của ánh sáng. 4 (kết hợp hạn chế). ánh, ánh sáng. 5 Hình

ảnh do phản chiếu mà có. 6 Hình dạng không rõ nét hoặc thấp thoáng. 7

(thường dùng sau đg., trong một số tổ hợp). Hình ảnh gián tiếp hoặc vu vơ. 8 (ph.) ảnh.

II t. Có bề mặt nhẵn tới mức phản chiếu được ánh sáng gần như mặt gương.

22. bonsevich

I d. Người Đảng viên Đảng cộng sản Nga; người cộng sản theo chủ nghĩa bonsevich. II t. Theo chủ nghĩa bonsevich, theo chủ nghiã Marx - Lênin.

23. bứa

I d. Cây to cùng họ với măng cụt, cành ngang, quả màu vàng, quanh hạt có cùi ngọt ăn được. II t. (kng; id) Ngang bướng, không kể gì phải trái.

24. bụi

51

I d. 1 Vụn nhỏ li ti của chất rắn có thể lơ lửng trên không khí hoặc bám vào

bề mặt các vật. 2 Dạng hạt nhỏ như hạt bụi (nói về nước). 3 (ph; kết hợp hạn chế). Tang. 4 (kng). Bụi đời (nói tắt).

II t. (kng). Có dáng vẻ buông thả, không theo khuôn khổ thông thường,

trông giống như của những người đi bụi.

25. cá thể

I d. Vật riêng lẻ, phân biệt với chủng loại (thường nói về sinh vật).

II t. Riêng lẻ từng người, không phải tập thể.

26. cà tong

I d. Hươu có sừng khuỳnh rộng và dẹp. II t. (ph; thường nói cà tong, cà teo) Cao và gầy, mảnh khảnh.

27. cách mạng

I d. 1 Cuộc biến đổi xã hội - chính trị lớn và căn bản, thực hiện bằng việc

lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời, lập nên một xã hội mới, tiến bộ. 2 Cuộc

đấu tranh nhằm thực hiện một cuộc cách mạng xã hội. 3 Quá trình thay đổi

lớn và căn bản theo hướng tiến bộ trong một lãnh vực nào đó. 4 (viết hoa).

Cách mạng tháng Tám (nói tắt). II t. Thuộc về cách mạng, có tính chất cách mạng.

28. cái1

I d. 1 (cũ). Mẹ. 2 (kng; dùng trước tên người. từ dùng để gọi người con gái ngang hàng hoặc hàng dưới một cách thân mật. 3 Giống để gây ra mọt chất

chua. 4 vai chủ một ván bài, mọtt đám bạc hay một bát họ. 5 Phần chất đặc,

thường là phần chính trong món ăn có nước.

II t. 1 (Động vật) thuộc về giống có thể đẻ con hoặc đẻ trứng. 2 (Hoa)

không có nhị đực, chỉ có nhị cái, hoặc cây chỉ có hoa như thế. 3 (dùmh phụ

sau d.; trong một số tổ hợp). Thuộc loại to, thường là chính so với những cái khác, loại phụ hoặc nhỏ hơn.

29. can trường

I d. (vch; id) Gan và ruột; chỉ nỗi lòng, tâm tình. II t. (vch; id) Gan góc, không sợ nguy hiểm.

30. cáo

I d. 1 Thú ăn thịt, sống ở rừng, gần với chó nhưng chân thấp, tai to và mõm nhọn, rất tinh khôn.

II t. (kng). Tinh ranh, gian giảo.

52

31. cao dày

I d. (cũ; vch). Trời cao và đất dày; dùng để chỉ đấng thiêng liêng theo quan niệm thời xưa.

II t. (id). (Công ơn, công đức) lớn lao như trời đất.

32. cao độ

I d. 1 (chm.). Độ cao (thường nói về âm thanh). 2 (không dùng làm chủ ngữ). Mức độ cao.

II t. ở mức độ cao.

33. cao kiến

I d. (id). ý kiến hay và sáng suốt hơn hẳn những ý kiến thông thường. II t. Có nhiều ý kiến hay và sáng suốt, có khả năng nhìn xa thấy trước hơn

hẳn người thường.

34. cao su

I d. 1 Cây to cùng họ với thầu dầu, thân có nhiều nhựa mủ. 2 Hợp chất dễ

đàn hồi và dai, chế từ mủ cây cao su hoặc bằng phương pháp tổng hợp.

II t. (kng). Có thể co giãn, không cố định.

35. cáu

I d. Chất bụi bẩn bám vào da hoặc chất cặn bẩn bám vào vật.

II t. Có cáu bám vào.

36. cầu1

I d. 1 Đồ chơi bằng vải, hình tròn như quả cam, dùng để tung bắt. 2 Đồ

chơi gồm một đế nhỏ hình tròn, trên mặt cắm lông chim hoặc túm giấy

mỏng, dùng để đá chuyền qua lại cho nhau hoặc để đánh qua lại bằng vợt. II t. (chm). Thuộc về hình cầu hay mặt cầu.

37. chai1

I d Chỗ da dày và cứng lại do bị cọ sát nhiều. II t. 1 (Da) đã trở thành dày và cứng do bị cọ sát nhiều. 2 (Đất) đã trở nên cứng, không tơi xốp, khó cày bừa. 3 Đã trở thành trơ lì vì đã quá quen.

38. chân tình

I d. Lòng chân thành. II t. Đầy chân tình.

39. chi tiết

I d. 1 Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng. 2

Thành phần riêng lẻ hoặc tổ hợp đơn giản nhất của chúng, có thể tháo lắp

53

được như đinh, ốc, trục bánh xe... trong máy móc, thiết bị.

II t. Có đầy đủ các điểm nhỏ nhất; tỉ mỉ.

40. chiếc

I d. 1 Từ dùng để từng đơn vị một số đồ vật vốn dùng thành đôi mà tách lẻ

ra. 2 Từ dùng để chỉ từng đơn vị thuộc một số vật vô sinh.

II t. (hay d.). (vch; dùng hạn chế trong một vài tổ hợp). Không còn thành đôi, lẻ loi.

41. chiến lược

I d. 1 cn chiến lược quân sự. Phương châm và biện pháp quân sự có tính

chất toàn cục, được vận dụng trong suốt cuộc chiến tranh nhằm thực hiện mục đích quân sự, chính trị, kinh tế nhất định. 2 cn chiến lược quân sự Bộ

phận chủ đạo của nghệ thuật quân sự, nghiên cứu quy luật, phương pháp

chuẩn bị và tiến hành các hoạt động quân sự có tính chất toàn cục trong

chiến tranh và trong khởi nghĩa. 3 Phương châm và kế hoạchcó tính chất toàn cục, xác định mục tiêu chủ yếu và sự sắp xếp lực lượng trong suốt cả

một thời kì của cuộc đấu tranh xã hội - chính trị.

II t. Thuộc về chiến lược, phục vụ cho chiến lược hoặc dùng riêng cho

chiến tranh.

42. chiến thuật

I d. 1 Cách đánh trong từng trận. 2 Bộ phận của nghệ thuật quân sự, nghiên

cứu quy luật, phương pháp chuẩn bị và tiến hành chiến đấu. 3 Cách xử các

tình huống trong thi đấu thể thao, để đạt thành tích cao nhất. 4 (cũ). Sách

lược.

II t. Thuộc về chiến thuật, phục vụ chiến thuật.

43. chính nghĩa

I d. Điều chính đáng, cao cả, hợp đạo . II t. Hợp với chính nghĩa, vì chính nghĩa.

44. chủ

I d. 1 Người có quyền sở hữu về tài sản nào đó. 2 Người có quyền quản , xử toàn bộ các công việc theo lợi ích của mình. 3 Kẻ thuê người làm, trong quan hệ với người làm thuê. 4 Người tiếp khách trong quan hệ với khách. II t. (kết hợp hạn chế). Chính, chủ yếu.

45. chùa

I d. Công trình được xây cất lên làm nơi thờ Phật.

54

II t. (kng). Thuộc về nhà chùa, của chung, không phải của mình, cho mình

(nên không biết tiếc, không có trách nhiệm).

46. chúa.

I. dt.;(cũ).1. (cũ). Chủ. Vắng chúa nhà gà bới bếp (tng.). 2. Người có quyền

lực cao nhất trong một miền hay trong một nước có vua thời phong kiến.

Chúa phong kiến. Chúa Trịnh. 3. (cũ; dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Người nắm quyền cai quản. Chúa ngục. Chúa đảo. 4. (thường viết hoa).

Đấng tạo ra trời đất, làm chủ muôn loài, theo Công giáo. Cầu Chúa. 5. Con

cái, chuyên việc sinh đẻ trong một số loài sâu bọ sống thành đàn. Tan tác

như ong mất chúa.

II. tt. (kng.). Rất giỏi, rất tài về một việc gì (thường là việc đáng chê; hàm ý mỉa mai).

Về khoa nói thì chúa lắm.

47. chuẩn1

I d. 1 Cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà làm cho

đúng. 2 (chm). Vật được chọn làm mẫu để thể hiện một đơn vị đo lường. 3

Cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc theo thói quen xã hội.

II t. Đúng chuẩn.

48. chưởng

I d. 1 (thgt). Đòn mạnh đánh bằng bàn tay. 2 Tiểu thuyết chưởng (nói tắt).

II t. (Truyện, phim) thuộc loại truyện mô tả những chuyện tưởng tượng

đánh nhau rất li kì bằng phép thuật phóng ra từ lòng bàn tay những sức

mạnh ghê gớm.

49. chuyên môn I d. Lĩnh vực kiến thức riêng của một ngành khoa học. II t.

(kng). Chỉ làm hoặc hầu như chỉ làm một việc gì.

50. chuyên nghiệp

I d. (dùng phụ cho d. trong một số tổ hợp). Nghề nghiệp chuyên môn. II t. Chuyên làm một nghề, lấy một việc, một hoạt động nào đó làm nghề chuyên môn; phân biệt với nghiệp dư.

51. cỡ

I d. 1 Loại, phân theo lớn, nhỏ. 2 Độ lớn, mức thông thường, theo ước định. 3 Khoảng cách dùng làm chuẩn; cữ. 4 (kng; hoặc ph.; dùng trước d. số lượng). Độ, chừng.

II t. (kng). Có cỡ lớn, có tầm cỡ đáng kể.

55

52. cơ bản

I d. (id). Cái làm cơ sở cho những cái khác trong toàn bộ hệ thống. II t. Có tác dụng làm cơ sở cho những cái khác trong toàn bộ hệ thống.

53. cơ chỉ

I d. (cũ, id). Nền móng của nhà cửa.

II t. Biết tính toán chắc chắn, cẩn trọng trong việc làm ăn.

54. cơ giới

I d. 1 Công cụ bằng máy dùng trong sản xuất (nói khái quát). 2 Binh chủng

của lục quân, trang bị cơ động và tác chiến bằng xe tăng, xe bọc thép...

II t. 1 Được trang bị hoặc hoạt động bằng máy móc. 2 (cũ). Máy móc.

55. cơ học

I d. Môn học nghiên cứu sự chuyển động và sự cân bằng của các vật thể.

II t. Thuộc về cơ học.

56. cơ hội

I d. Hoàn cảnh thuận tiện gặp được để làm việc gì thường mong ước.

II t. Cơ hội chủ nghĩa (nói tắt).

57. cóc1

I d. Động vật thuộc loài ếch nhái, mõm ngắn, da xù xì, thường ở cạn, di

chuyển bằng cách nhảy.

II t. (kng; kết hợp hạn chế sau d., trong một vài tổ hợp). Nhỏ và không cố

định ở một chỗ, có thể thay đổi địa điểm nhanh, ví như lối nhảy của con

cóc.

58. cộng đồng

I d. (dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Toàn thể những người cùng sống,

có những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối tronmg sinh hoạt xã hội.

II t. (id). Cùng chung với nhau giữa một số người.

59. công hiệu

I d. Kết quả, tác dụng thấy rõ ngay. II t. Có công hiệu.

60. công phu

I d. Sức lao động và thì giờ, thường là nhiều, bỏ ra để làm việc gì. II t. Rất kỹ lưỡng, chu đáo, mất nhiều công sức.

61. cộng sản nguyên thuỷ I d. Chế độ cộng sản nguyên thuỷ. II t. Thuộc về

chế độ cộng sản nguyên thuỷ.

56

62. công thần

I d. Quan có công lớn đối với nhà nước phong kiến. II t. Có tư tưởng ỷ vào công lao mà sinh ra kiêu ngạo và đòi hỏi đãi ngộ

quá đáng.

63. công thức

I d. 1 (chm). Nhóm kí hiệu diễn tả gọn một sự kiện tổng quát, một quy tắc, nguyên hoặc khái niệm. 2 (chm). Nhóm kí hiệu hoá học biểu diễn thành

phần phân tử của một chất. 3 Tập hợp những điều (phương pháp, quy tắc...)

đã được định sẵn, cần và phải làm theo để làm một việc nào đó đạt kết quả

mong muốn. 4 Tổ hợp dùng từ không thay đổi theo thói quen hoặc theo quy

ước, trong những dịp nhất định. II t. Có tính chất dập khuôn, máy móc.

64. cừ khôi

I d. (cũ; id). Người cầm đầu một phe đảng, thủ lĩnh. II t. (kng). Tài giỏi hơn người.

65. cửa quyền

I d. (cũ; id). Nơi có quyền thế thời trước, trong quan hệ với những người dưới quyền.

II t. (Thái độ) tự cho là mình nắm quyền trong tay, tỏ ra hách dịch với ai có

việc gì cần đến mình.

66. cục bộ

I d. (id). Một bộ phận nào đó của toàn bộ tình hình.

II t. 1 Thuộc về một bộ phận của toàn bộ tình hình; có tính chất bộ phận. 2

(Tư tưởng) chỉ chú ý đến bộ phận mình mà không quan tâm đến toàn cục.

67. cùng cực

I d. (kết hợp hạn chế). Mức tột cùng (thường hàm ý không hay).

II t. Nghèo túng và khổ cực đến mức không còn có thể hơn.

68. cùng1

I d. (kết hợp hạn chế). Chỗ hoặc lúc đến đấy là hết giới hạn của cái gì. II t. 1 (Chỗ hoặc lúc) đến đấy là hết giới hạn của cái gì. 2 ở tình trạng lâm vào thế không có lối thoát, không còn biết làm sao được nữa. 3 (cũ; hoặc ph). Khắp cả trong giới hạn của cái gì.

69. đa diện

I d. Khối giới hạn bởi một mặt khép kín gồm nhiều đa giác.

57

II t. (id). Có tính chất nhiều mặt.

70. dà1

I d. Cây nhỡ, vỏ màu nâu đỏ, dùng để nhuộm vải, sợi hay để xảm thuyền.

II t. (Màu) nâu đỏ.

71. đá1 I d. 1 Chất rắn cấu tạo nên vỏ trái đất, thường thành từng mảng, từng

hòn. 2 (kng). Nước đá (nói tắt). II t. (thgt). Keo kiệt quá mức.

72. đặc trưng

I d. Nét riêng biệt và tiêu biểu, được xem là dấu hiệu để phân biệt với các

sự vật khác.

II t. (hoặc đg.). Có tính chất riêng biệt và tiêu biểu, làm cho phân biệt được với các sự vật khác.

73. đài các

I d. (cũ). Nền cao và nhà gác; chỉ nơi ở của những người giàu sang, quyền

quý ngày xưa.

II t. Có dáng vẻ, điệu bộ của người giàu sang, quyền quý.

74. đại chúng

I d. (cũ). Quần chúng đông đảo.

II t. 1 (cũ). Của quần chúng đông đảo, giành riêng cho quần chúng đông

đảo. 2 Phù hợp với trình độ của quần chúng đông đảo.

75. đại cương

I d. Những điều chủ yếu (nói tổng quát).

II t. Có tính chất tổng quát.

76. đăm chiêu

I d. (cũ). (Bên phải và bên trái). Bốn bên, cả các phía, nhiều bề.

II t. (hay đg.). Có vẻ đang bận lòng suy nghĩ, băn khoăn nhiều bề.

77. dân gian

I d. Phạm vi đông đảo những người dân thường trong xã hội. II t. Được sáng tạo ra và lưu truyền tự nhiên, rộng rãi trong dân gian.

78. dân sự

I d. 1 (id). Việc có quan hệ đến dân(nói khái quát). 2 (cũ, id). Nhân dân trong quan hệ với người cầm quyền. 3 Việc thuộc về quan hệ tài sản, hoặc hôn nhân, gia đình...do toà án xét xử (nói khái quát); phân biệt với hình sự.

II t. Có tính chất việc của nhân dân; phân biệt với quân sự.

58

79. dẫn xuất

I d. Chất hoá học chế ra từ một chất hoá học khác. II t. (dùng phụ sau d.). Được tạo ra, sinh ra từ một cái khác được coi là gốc.

80. đanh

I d. (ph.) Vật bằng kim loại (hay tre, gỗ) cứng, thường có hình nấm, một

đầu nhọn, dùng để đóng, treo, giữ vật này vào vật khác, hoặc ghép các vật với nhau.

II t. 1 Có khả năng chịu tác động của lực ép mà khó biến dạng, do cấu tạo

bên trong rắn chắc. 2 (Âm thanh rất gọn , vang mà không ngân, gây cảm

giác của một cái gì rắn chắc. 3 Có vẻ cứng rắn, lạnh lùng, không biểu thị

một chút cảm xúc nào.

81. danh giá

I d. Sự coi trọng của xã hội, thường là dựa trên địa vị và biểu hiện bằng những danh dự dành riêng cho (thường nói trong xã hội cũ).

II t. Có danh giá.

82. đào1

I d. Cây ăn quả hoặc làm cảnh, cùng họ với lê, mận, hoa màu đỏ hồng, quả

hình tim, có lông mượt.

II t. (vch). Có màu hồng hoặc màu đỏ tươi.

83. đầu tiên

I d. (hay p.). Lúc đầu (nói về sự việc xảy ra trước nhất, so với những sự

việc tiếp sau).

II t. Trước tất cả những người khác, những cái khác cùng loại.

84. đế quốc

I d. 1 (id). Nước quân chủ do hoàng đế đứng đầu có lãnh thổ rất rộng hoặc

thôn tính nhiều quốc gia hoặc dân tộc khác. 2 Nước thực dân đi xâm lược các nước khác, biến các nước này thành thuộc địa hoặc phụ thuộc. 3 Nước theo chủ nghĩa đế quốc. II t. Đế quốc chủ nghĩa (nói tắt).

85. đế vương

I d. (cũ). Vua (nói khái quát). II t. (kng). (Lối sống) sang trọng tột độ (tựa như lối sống của vua chúa).

86. dê1

59

I d. Loài động vật nhai lại, sừng rỗng, cong quặp về phía sau, cằm có túm

lông làm thành râu, nuôi để lấy sữa, ăn thịt. II t. (thgt). (Đàn ông) đa dâm.

87. đĩ

I d. 1 Người phụ nữ làm nghề mại dâm (hàm ý khinh). 2 (ph.; kng). Đứa

con gái còn bé (trong gia đình nông dân). 3 (ph.; kng, dùng sau mọt số d. chỉ người). Từ dùng để gọi thân mật người nông dân có con gái đầu lòng

còn bé.

II t. (kng.). Lẳng lơ.

88. đĩ bợm

I d. (id) Phụ nữ làm nghề mại dâm (nói khái quát).

II t. Có tính hay trai gái bậy bạ; dâm đãng.

89. dị dạng

I d. Hình dạng lạ, khác thường.

II t. Có hình dáng lạ, khác thường.

90. địa phương

I d. 1 Khu vực, trong quan hệ với những vùng, khu vực khác trong nước. 2

Vùng, khu vực trong quan hệ với trung ương, với cả nước.

II t. (kng). Địa phương chủ nghĩa (nói tắt).

91. địa vị

I d. 1 Vị trí cá nhân trong quan hệ xã hội, do chức vụ, cấp bậc, quyền lực

mà có, về mặt được coi trọng nhiều hay ít. 2 Vị trí trong quan hệ xã hội,

chính trị, kinh tế do vai trò, tác dụng mà có, về mặt được coi trọng nhiều hay ít. 3 Vị trí cá nhân trong quan hệ xã hội, về mặt chỗ đứng, quyết định

cách nhìn, cách giải quyết vấn đề.

II t. (dùng hạn chế trong một số tổ hợp). (Tư tưởng) ham muốn địa vị, gắn

với quyền lợi hoặc danh lợi, chỉ lo giành lấy hoặc củng cố địa vị cá nhân.

92. điếm nhục

I d. (vch; id). Điều nhục nhã làm thành một vết nhơ. II t. (vch; id). Nhục nhã.

93. điện tử

I d. Hạt cơ bản rất nhỏ, thành phần cấu tạo của nguyên tử, mang điện tích âm, khi chuyển động tạo thành dòng điện.

II t. Thuộc về electron; thuộc về hay có sử dụng những dụng cụ được chế

60

tạo theo các phương pháp điện tử học hoặc hoạt động theo các nguyên của

điện tử học.

94. điệu bộ

I d. Các cử động của tay, chân... nhằm diễn đạt một điều gì (nói tổng quát).

II t (id). Có điệu bộ không tự nhiên, làm duyên, làm dáng.

95. điệu1

I d. 1 Đặc điểm bên ngoài về cách đi đứng, nói năng của mỗi người. 2 Đặc

điểm về hình thức diễn ra của một hoạt động; cách thức riêng. 3 Tính chất

của sự kết hợp các âm thanh trầm bổng với nhau để tạo thành ý nhạc hoàn

chỉnh của cả một chuỗi âm thanh. 4 Đặc điểm về hình thức, tính chất (nói tổng quát), làm phân biệt một kiểu tác phẩm nghệ thuật âm nhạc hoặc múa

với những kiểu khác. 5 Từ dùng để chỉ từng đơn vị những bài múa.

II t. (hoặc d.).(kng). Có cử chỉ điệu bộ, lối nói năng cố làm cho ra duyên

dáng, trở thành không tự nhiên, có vể kiểu cách.

96. định kì

I d. Từng khoảng thời gian nhất định, sau đó một việc lại xảy ra.

II t. Theo định kì.

97. độ lượng

I d. (id). Đức tính rộng lượng, dễ thông cảm với người có sai lầm và dễ tha

thứ. II t. Có độ lượng.

98. đô1

I d. (kng; id). Đô vật (nói tắt). II t. (kng). Vạm vỡ.

99. độc quyền

I d. Quyền chiếm giữ một mình, loại trừ cạnh tranh. II t. 1 Có độc quyền. 2 (Một thiểu số) tập trung vào trong tay mình mọi đặc quyền để từ đó khống chế và kiểm soát sản xuất hoặc kinh doanh trong một vài ngành.

100.

dốc1 I d. Đoạn cao dần lên hoặc thấp dần xuống trên đường đi. II t. Cao dần lên hoặc thấp dần xuống so với mặt bằng.

101.

đốm I d. 1 Chấm sáng nhỏ hiện ra trên nền tối. 2 Chấm nhỏ hiện lên trên một

61

nền khác màu.

II t. (dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Có nhiều chấm khác màu chen vào (thường nói về tóc, lông).

102.

đồng bóng I d. Người mà thần linh hoặc hồn người chết nhập vào trong một lễ cầu xin,

theo tín ngưỡng dân gian (nói khái quát). II t. (kng). Hay trở chứng, lúc thế này, lúc thế kia.

103.

đồng đảng I d. Người cùng bọn với kẻ bất lương.

II t. Thuộc cùng lớp người với kẻ bất lương.

du côn I d. Kẻ chuyên gây sự, hành hung, chỉ chơi bời lêu lổng. II t. Có

104.

tính chất của du côn.

105.

du kích. I. dt. Lực lượng nòng cốt của dân quân, đánh địch bằng lối đánh du kích.

Gia nhập du kích. Đội du kích.

II. tt. (kng.). (Tác phong công tác) phân tán, không có kế hoạch rõ ràng,

không có quy chế chính thức; trái với chính quy. Tác phong du kích.

106.

dương1 I d. 1 Một trong hai nguyên cơ bản của trời đất (đối lập với âm), từ đó tạo

nên muôn vật theo một quan niệm triết học cổ xưa ở phương Đông. 2 (vch;

hoặc chm.). Từ dùng để chỉ một trong hai mặt đối lập nhau (thường là mặt

tích cực, hoặc được quan niệm như là tích cực, mặt kia là âm), như chỉ ngày

(đối lập với đêm), mặt trời (đối lập với mặt trăng), đàn ông (đối lập với đàn bà), sống (đối lập với chết), sấp (đối lập với ngửa), thuận (đối lập với cái

được chọn làm chiều nghịch)...

II t. (chm.). 1 (Sự kiện) mang tính chất động, nóng, hay (sự vật) thuộc về

nam tính hoặc thuộc về công năng, theo quan niệm của đông y. 2 Lớn hơn số không.

107.

đường1 I d. Chất kết tinh vị ngọt, thường chế từ mía hoặc củ cải đường. II t. (dùng trong tên gọi một số hoa quả). Thuộc loại có vị ngọt.

108.

gai góc d. Gai, cây có gai (nói khái quát), thường dùng để ví những khó khăn, trở

ngại phải vượt qua.

62

II t (id). 1 Có nhiều khó khăn không dễ vượt qua, không dễ giải quyết. 2

Không dễ tính trong quan hệ với người khác, hay làm cho người khác thấy khó chịu.

109.

gai2 I d. 1 Phần cứng, nhọn nhô ra ngoài mặt thân, cành, lá hay quả của một số

cây. 2 Những cành có nhiều gai, về mặt gây khó khăn cho sự đi lại. 3 Cái thườmg xuyên tác động làm vướng mắc, khó chịu, chỉ muốn thoát khỏi

hoặc trừ bỏ đi. 4 (kết hợp hạn chế). Gai ốc (nói tắt).

II t. Có cảm giác như ớn lạnh, da nổi gai ốc, khi chịu tác động của một kích

thích bất thường.

110.

gan I d. 1 Bộ phận của bộ máy tiêu hoá có chức năng chính là tiết mật để tiêu hoá chất mỡ. 2 (thường dùng sau một số tổ hợp, sau đg., t.). Gan của con

người, coi là biểu tượng của tinh thần, ý chí mạnh mẽ, bền bỉ, không lùi bước trước khó khăn. 3 Gan của con người, coi là biểu tượng của tinh thần

dám đương đầu với nguy hiểm, 3dám chịu đựng.

II t. Tỏ ra có gan, dám đương đầu với nguy hiểm, dám chịu đựng.

111.

gân guốc I d. (id). Đường gân nổi lên trên mặt da (nói khái quát).

II t. 1 Có nhiều đường gân thớ thịt nổi lên, trông thô nhưng rắn chắc. 2 Rắn

rỏi, cứng cỏi.

112.

gan ruột I d. Gan và ruột con người, coi là biểu tượng của sự chịu đựng về tình cảm,

hay sự quan tâm của con người được giữ kín, không bộc lộ ra, nói chung.

II t. (ph.). Gan dạ.

113.

gạo cội I d. Gạo tốt, còn nguyên hạt sau khi xay giã. II t. (kng). Có tài nghệ (thường nói về diễn viên và vận động viên thể thao).

114.

gấu1 I d. Thú ăn thịt cỡ lớn, đuôi cộc, đi bằng bàn chân, thường trèo cây ăn mật ong. II t. (thgt). Hung dữ và hỗn láo.

115.

gia đình I d. Tập hợp người sống chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn

63

bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ

chồng, cha mẹ và con cái. II t. (kng). Gia đình chủ nghĩa (nói tắt).

116.

gia giáo I d. (id). Sự giáo dục trong gia đình (thường nói về gia đình phong kiến thời

trước). II t. (kết hợp hạn chế). Có nền nếp, có giáo dục (thường nói về gia đình

phong kiến thời trước).

117.

gia trưởng I d. Người đàn ông đứng đầu, nắm mọi quyền hành trong gia đình thời phong kiến.

II t. Có tư tưởng hoặc tác phong của người đứng đầu, người lãnh đạo, tự

coi mình là có mọi quyền hành, tự ý quyết định mọi việc, coi thường quyền

dân chủ của những người khác.

118.

giá4 I d (id). Trạng thái lạnh buốt.

II t. Lạnh buốt.

119.

giáo điều I d. 1 Luận điểm cơ bản của một tôn giáo, được các tín đồ tin theo một cách

tuyệt đối. 2 Luận điểm được công nhận mà không chứng minh, coi là chân bất di bất dịch.

II t. Thuộc về chủ nghĩa giáo điều, có tính chất của chủ nghĩa giáo điều.

120.

gộc I d. Phần gốc và rễ, thường là của cây đã già cỗi, còn lại sau khi cây đã bị

chặt đốn đi.

II t. (kng). Thuộc loại to, lớn quá cỡ.

121.

gụ I d. Cây to ở rừng, cùng họ với cây vang, cho gỗ quý, màu nâu sẫm, có vân đen. II t. Có màu trung gian giữa màu đỏ và màu đen, giống như màu gỗ gụ.

122.

gương mẫu I d. (cũ). Người được coi là tấm gương, là mẫu mực để những người khác noi theo.

II t. Có tác dụng làm gương cho mọi người noi theo.

64

123.

hà3 I d. Sâu cánh cứng, kí sinh trong củ khoai, làm cho khoai hỏng. II t. (Khoai) bị hà đục.

124.

hà4 I d. Sâu ăn dưới bàn chân của người và một số động vật như ngựa, lợn...

II t. (Chân) bị hà ăn.

125.

hàn lâm I d. 1 Tổ chức mà thành viên là những nhà khoa học hoặc những văn nghệ

sĩ ở một số nước. 2 (kng; id). Viện sĩ hàn lâm (nói tắt). 3 Hàm của nhà nước

phong kiến dùng để phong thưởng cho người có công. II t. (kng). Có tính chất trừu tượng, khó hiểu (như lối văn của một số viện sĩ

hàn lâm).

126.

hạnh phúc I d. Trạng thái sung sướng vì hoàn toàn đạt được ý nguyện.

II t. Có hạnh phúc, được hưởng hạnh phúc.

127.

hảo tâm I d. Lòng tốt.

II t. Có lòng tốt, sẵn sàng giúp đỡ người khác về tiền của.

128.

hẻm I d. 1 Lối đi hẹp, hai bên có vách núi cao. 2 (kng). Ngõ hẻm (nói tắt).

II t. (Đường) hẹp, khó đi, hai bên đường có tường vách.

129.

hiếu1 I d. 1 Lòng kính yêu và biết ơn cha mẹ. 2 (kết hợp hạn chế). Lễ tang cha

mẹ; lễ tang người hàng trên trong gia đình nói chung.

II t. (kết hợp hạn chế). Có lòng kính yêu, hết lòng chăm sóc cha mẹ.

130.

hình thức I d. 1 Toàn thể nói chung những gì làm thành mặt bề ngoài của sự vật, cái chứa đựng hoặc biểu hiện nội dung. 2 Cách thể hiện, cách tiến hành một hoạt động. 3 (chm). Hệ thống cơ cấu và các phương tiện ngôn ngữ để diễn đạt nội dung trong một tác phẩm văn học nghệ thuật. II t. 1 Có tính chất hình thức, chỉ có trên danh nghĩa, không có nội dung, không có thực chất. 2 (kng). Hình thức chủ nghĩa (nói tắt).

131.

hoà bình I d. Tình trạng không có chiến tranh.

65

II t. Không dùng đến chiến tranh, không dùng đến vũ lực.

132.

hoa hoè I d. Cây to thuộc họ đậu, lá kép mọc cách, hoa nhỏ màu vàng, quả thắt lại

từng quãng trông như chuỗi tràng hạt, nụ hoa phơi khô dùng làm thuốc.

II t. Được trang sức, tô điểm một cách cầu kì, loè loẹt...

133.

hoá sinh1 I d. Hoá sinh học (nói tắt).

II t. Thuộc về, có tính chất những phản ứng hoá học xảy ra trong cơ thể

sinh vật.

134.

hoạn nạn I d. Sự việc không may, gây đau khổ lớn cho con người.

II t. (id). ở hoàn cảnh gặp hoạn nạn.

135.

hoang dã I d. (id). Nơi đồng hoang hẻo lánh.

II t. Có tính chất tự nhiên của núi rừng, xa đời sống của xã hội loài người.

136.

hốc1 I d. Chỗ lõm ăn sâu vào trong thân cây, vách đá... hoặc đào sâu xuống dưới

đất.

II t. (Khuôn mặt) gầy tóp, có nhiều chỗ lõm sâu.

137.

hứng thú I d. Sự ham thích.

II t. Cảm thấy có những hứng thú, hào hứng.

138.

hứng1 I d. 1 Cảm giác thích thú thấy trong người mình có một sức thôi thúc làm

cái gì đó (thường là việc lao động sáng tạo). 2 Phương thức biểu hiện của

thơ ca, dùng hiện tượng xung quanh để gây không khí, gợi cảm xúc, rồi mới miêu tả sự vật hoặc tâm tình. II t. ở trạng thái tâm lý có hứng.

139.

hườm1 I d. Chỗ hoắm sâu. II t. (id). Hoắm sâu vào.

140.

hút1 I d. 1 Dấu vết còn lại dưới dạng một lỗ sâu của vật đã đi thẳng quá sâu vào

bên trong, vào dưới. 2 Dấu vết, hình bóng còn thoáng lưu lại khi người

66

hoặc vật sắp đi khuất hẳn.

II t. (Sâu, xa) đến mức không thể nhìn thấy được cho đến tận cùng.

141.

hữu1 I d. 1 (kết hợp hạn chế). Bên phải, trong quan hệ đối lập với tả, bên trái. 2

(thường phụ sau d.). Bộ phận thiên về bảo thủ, thoả hiệp hay phản cách

mạng trong nghị viện hoặc trong các tổ chức chính trị trong một số nước, trong quan hệ đối lập với tả, bộ phận thiên về tiến bộ, về cách mạng.

II t. (id). Hữu khuynh (nói tắt).

142.

huyền1 I d. Than đá màu đen nhánh do thân cây biến thành, dùng làm đồ trang sức. II t. Có màu đen như hạt huyền.

143.

khách quan I d. Cái tồn tại bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của con người,

trong quan hệ với chủ quan.

II t. 1 Thuộc về khách quan, không thuộc về chủ quan. 2 Có tính chất xuất

phát từ thực tế, biểu hiện thực tế một cách trung thực, không thiên lệch.

144.

khoa học I d. 1 Hệ thống tri thức tích luỹ trong quá trình lịch sử và được thực tiễn

chứng minh, phản ánh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài

cũng như của hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực. 2 Ngành của từng hệ thống tri thức nói trên.

II t. 1 Có tính chất của khoa học, thuộc về khoa học. 2 Phù hợp với những

đòi hỏi của khoa học: khách quan, chính xác, có hệ thống...

145.

khơi1 I d. Vùng biển ở xa bờ; phân biệt với lộng.

II t. (cũ; vch). Xa.

146.

kì công I d. Công lao sự nghiệp hoặc thành tựu kì diệu. II t. (kng). (Làm việc gì) đòi hỏi phải bỏ nhiều công sức một cách đặc biệt, khác thường.

147.

kỹ thuật I d. 1 Tổng thể nói chung những tư liệu và phương tiện hoạt động của con người, được tạo ra để thực hiện quá trình sản xuất và phục vụ nhu cầu phi

sản xuất của xã hội. 2 Tổng thể nói chung những phương pháp, phương

67

thức sử dụng trong một lĩnh vực hoạt động nào đó của con người.

II t. (kng). Tỏ ra có trình độ kỹ thuật cao.

148.

kích1 I d. Chỗ nối liền thân áo trước với thân áo sau ở nách.

II t. (áo ) chật ngực, chật nách.

149.

kiềm I d. Base tan trong nước, có tính chất hoá học như xút.

II t. Có tính chất của mọt base.

150.

kiệt tác I d. Tác phẩm nghệ thuật hết sức đặc sắc. II t. Đặc sắc và đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật.

151.

kiểu cách I d. Kiểu (nói khái quát).

II t. Có vẻ cố làm cho ra trang trọng, lịch sự, không phù hợp với mình hoặc

với hoàn cảnh.

152.

kim thuộc I d. (kng). Kim loại, chất kim loại.

II t. (id). Thuộc về kim loại.

153.

kinh tế I d. 1 Tổng thể nói chung những quan hệ sản xuất của một hình thái kinh tế

xã hội nhất định. 2 Tổng thể những hoạt động của con người nhằm thoả

mãn nhu cầu vật chất.

II t. 1 Có liên quan tới lợi ích vật chất của con người. 2 Có tác dụng mang

lại hiệu quả tương đối lớn so với sức người, sức của và thời gian tương đối

ít bỏ ra.

154.

kinh viện I d. 1 (cũ). Nơi giảng kinh sách thời xưa. 2 Tri thức dựa trên những biện luận trừu tượng, tách rời thực tế (nói khái quát). II t. Có tính chất của chủ nghĩa kinh viện, dựa trên những biện luận trừu tượng, tách rời thực tế.

155.

là lượt I d. Các thứ hàng tơ như là, lượt (nói khái quát). II t. (Ăn mặc) sang, diện (thường hàm ý chê).

156.

lấm

68

I d. Trạng thái ruộng đã cày bừa thành bùn nhão, thuận tiện cho việc gieo

cấy. II t. Bị dính bẩn vì bùn đất.

157.

lầm1 I d. (ph.). Bùn.

II t. 1 Có nhiều bùn hay nhiều bụi cuộn lên làm đục, làm bẩn. 2 Bị phủ lên một lớp dày bùn đất, bụi bặm.

158.

lao lung I d. (cũ; vch). Ngục tù, nơi giam hãm làm mất tự do.

II t. ở trong cảnh chịu bó buộc về vật chất lẫn tinh thần đến mức khổ ải.

159.

lầy I d. Đất bùn nhão thường xuyên ngập nước.

II t. Có nhiều bùn trơn, bẩn.

160.

lẻ I d. 1 Lượng bằng một phần mười của đấu. 2 Lượng nhỏ trong quan hệ với

chỉnh thể, toàn thể.

II t. 1 (Số) không chia hết cho 2. 2 (Phép chia) còn dư. 3 Có số dư ngoài số

tròn (từ hàng chục trở lên). 4 Riêng ra một mình, tách rời ra một mình. 5

Riêng từng cái, từng số lượng nhỏ.

161.

lễ độ I d. Thái độ được coi là đúng mực, tỏ ra biết coi trọng người khác khi tiếp

xúc (nói khái quát).

II t. Có lễ độ.

162.

lễ phép I d. (id). Thái độ được coi là đúng mực đối với người trên, tỏ ra có lòng

kính trọng (nói khái quát). II t. Có lễ phép, tỏ ra biết kính trọng người trên.

163.

tưởng I d. Mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất mà người ta phấn đấu để đạt tới. II t. Hoàn hảo, tốt đẹp nhất như trong trí tưởng tượng hoặc trên thuyết.

164.

lịch sử I d. 1 Quá trình phát sinh, phát triển đã qua hay cho đến tiêu vong của một hiện tượng, một sự vật nào đó. 2 Khoa học nghiên cứu về quá trình phát

triển của xã hội loài người nói chung, hay của một quốc gia, một dân tộc

69

nói riêng; sử học.

II t. Thuộc về lịch sử của các quốc gia, dân tộc, có tính chất ý nghĩa quan trọng trong lịch sử.

165.

linh1 I d.(id.; kết hợp hạn chế). Hồn người chết.

II t. Có phép lạ làm được những điều khiến người ta phải kính sợ, theo tín ngưỡng dân gian.

166.

loạn

I d. Sự chống đối bằng bạo lực nhằm làm mất trật tự và an ninh xã hội.

II t. ở tình trạng lộn xộn không theo một trật tự hoặc nề nếp bình thường nào cả.

167.

logic I d. 1 Khoa học nghiên cứu các quy luật và hình thức của tư duy, nghiên

cứu sự suy luận đúng đắn. 2 Trật tự chặt chẽ, tất yếu giữa các hiện tượng.

II t. 1 Hợp với quy luật logic. 2 Hợp với logic, giữa các hiện tượng có mối

quan hệ chặt chẽ, tất yếu.

168.

lỗi I d. 1 Chỗ sai sót do không thực hiện đúng quy tắc. 2 Điều sai sót, không

nên, không phải trong cách cư xử, trong hành động; khuyết điểm.

II t. 1 Có chỗ sai sót về mặt kỹ thuật. 2 (dùng trước d.). Có điều sai trái, không theo đúng đạo .

169.

lợi hại I d. Mặt lợi và mặt hại của một việc gì trong quan hệ so sánh với nhau (nói khái quát).

II t. Quan trọng vì có khả năng hoặc tác dụng lớn, có thể gây tổn thất đáng

sợ cho đối phương.

170.

lợi2 I d. 1 Cái có ích mà con người thu được khi nó nhiều hơn là con người phải bỏ ra. 2 (id). Lãi. II t. 1 Có lợi, mang lại cho con người nhiều hơn là con người phải bỏ ra. 2 (dùng trước d.). Ít tốn hơn.

171.

lùm I d. 1 Đám cành lá rậm rạp của nhiều cây kết vào nau thành vòm rộng. 2

Đống lớn có hình giống như lùm cây.

70

II t. Vồng lên trên miệng đồ đựng.

172.

lưng chừng I d. Khoảng đại khái ở giữa, không ở trên cao cũng không ở dưới thấp.

II t. (id). 1 (Làm việc gì) cũng chỉ nửa chừng, không làm cho xong, cho

trọn. 2 Do dự không dám dứt khoát ngả về bên nào trước cuộc đấu tranh

giữa hai phía: tích cực và tiêu cực.

lũng I d. Dạng địa hình lõm tương đối rộng, xung quanh có sườn dốc bao

173.

bọc, đáy phẳng, thường gặp ở miền núi đá vôi. II t. (hoặc đg). (id). Lõm,

trũng xuống.

174.

lưng2 I d. 1 (dùng trước d.). Khoảng ở giữa, không ở trên cao cũng không ở dưới thấp. 2 (thường dùng trước d.). Lượng chứa chỉ chiếm khoảng nửa vật

đựng.

II t. Không đầy, chưa đầy.

175.

lượng giác I d. Lượng giác học (nói tắt).

II t. Thuộc về lượng giác học.

176.

lụt lội I d. Lụt, về mặt gây ra ngập nước, lầy lội (nói khái quát). II t. Bị ngập nước

và lầy lội do lụt.

177.

lụt2 I đg. (Bấc đèn) đã cháy cụt đi.

II t. 1 (ph.). Cùn. 2 (id). Đuối, kém hẳn đi so với trước, không tiến lên

được.

178.

ma I d. 1 (kết hợp hạn chế). Người đã chết. 2 Sự hiện hình của người đã chết

theo mê tín. 3 (kng; dùng có kèm ý phủ định, thường trước nào). Người bất kì. II t. Chỉ có trên sổ sách hoặc báo cáo, chứ không có thật, do bịa ra nhằm đánh lừa.

179.

ma mãnh I d. (kng). Ma (nói khái quát, hàm ý coi thường). II t. (kng). Tinh ranh, quỷ quyệt.

180.

ma quái I d. Ma và quái vật (nói khái quát).

71

II t. Có vẻ, có tính chất bí ẩn, đáng sợ.

181.

mẳn1 I d. Mảnh hạt, thường là hạt tấm rất nhỏ, vụn (nói khái quát).

II t (id). Nhỏ nhen, hẹp hòi.

182.

mánh khoé I d. Lối khôn khéo đánh lừa người để mưu lợi cho mình một cách không đàng hoàng, không chính đáng.

II t. (kng). Có nhiều mánh khoé, có mánh khoé tinh vi, xảo quyệt.

183.

mánh lới I d. (kng). Cách khôn khéo đánh lừa người khác để đạt một mục đích nào đó.

II t. (kng; id). Khôn khéo, có mánh lới.

184.

manh1 I d. Từ chỉ đơn vị thật mỏng, mềm thường dùng để che thân, để đắp (hàm ý coi như không đáng kể).

II t. (id). (Vật dùng để che thân, để đắp) mỏng cũ và sờn rách.

185.

mấu chốt I d. Cái chủ yếu nhất, có ý nghĩa quyết định nhất trong toàn bộ vấn đề.

II t. Chủ yếu nhất, có tính chất quyết định nhất.

186.

mẫu mực I d. 1 (kng). Mẫu để theo đó có thể tạo ra hàng loạt những cái khác (nói

khái quát). 2 Người, cái có tác dụng làm gương cho mọi người noi theo.

II t. Có đủ những phẩm chất tốt đẹp, có tác dụng làm mẫu, làm gương.

187.

máy móc I d. Máy (nói khái quát).

II t. Thiếu linh hoạt, sáng tạo, chỉ biết theo đúng cái gì đã có sẵn, đã quy định.

188.

may2 I d. Điều tốt lành đưa đến đúng lúc. II t. ở vào tình hình được gặp may.

189.

mệnh lệnh I d. Lệnh (nói khái quát). II t. (Tác phong lãnh đạo) không đi theo đường lối quần chúng, chỉ thích

dùng biện pháp ra lệnh, bắt buộc người dưới phải làm theo.

72

190.

mĩ thuật I d. Ngành nghệ thuật nghiên cứu quy luật và phương pháp để thể hiện cái đẹp bằng đường nét, màu sắc, hình khối.

II t (kng). Đẹp, khéo, hợp với thẩm mĩ.

191.

miệng lưỡi I d. Miệng và lưỡi con người; dùng để chỉ lối ăn nói hoạt bát, lém lỉnh và thường thớ lợ, không thật thà.

II t. (kng). Có tài ăn nói hoạt bát, lém lỉnh.

192.

mỡ màng I d. (id). Mỡ để ăn (nói khái quát). II t. Mượt mà, có sắc thái tươi tốt; mỡ (nói khái quát).

193.

mo1 I d. 1 Lá bắc lớn hình thuyền bọc ngoài cụm hoa các cây họ ráy, họ cau... 2

Mo cau (nói tắt).

II t. (kng). (Vật hình tấm) bị cong lại (tựa như mo cau).

194.

mỡ2 I d. 1 Chất béo ở cơ thể động vật hoặc được chế biến từ thực vật, thường

dùng làm thức ăn. 2 Dầu nhờn hoà thêm chất làm đặc, thường dùng để làm

trơn ổ bi. 3 (kng). Thuốc mỡ (nói tắt).

II t. (kng). (Da thịt, cây lá) mượt mà, có sắc thái tươi tốt.

195.

mộc2 I d. (kết hợp hạn chế). Đồ gỗ (nói khái quát).

II t. (Đồ gỗ, gạch ngói, vải lụa...) ở trạng thái thô sơ, chưa được gia công thêm cho đẹp, bóng.

196.

mọi rợ I d. (kng). Tên gọi chung các dân tộc thiểu số chậm phát triển (hàm ý coi khinh, theo quan điểm kì thị dân tộc thời phong kiến, thực dân). II t. (id). Man rợ.

197.

mồi2 I d. 1 Con vật, về mặt làm miếng ăm cho một loại động vật khác. 2 Thức ăn của chim kiếm về nuôi con, hay của kiến tha về để dành. 3 Thức ăn mắc vào lưỡi câu hay cho vào bẫy để nhử bắt động vật. 4 Con vật dùng để nhử bắt những con vật khác cùng loài. 5 Cái có sức quyến rũ nhử người ta vào

tròng.

73

II t. (kng). (Quần áo) đẹp, sang nhất, chuyên dùng để chưng diện.

198.

mồm mép I d. (kng; id). Mồm và mép, dùng để chỉ khả năng ăn nói hoạt bát, lém lỉnh

(thường hàm ý chê).

II t. (kng). (Ăn nói) hoạt bát, lém lỉnh.

199.

mọt I d. 1 bọ cánh cứng, có hàm khoẻ, chuyên đục khoét tre, gỗ, hạt ngũ cốc

khô.

II t. Bị mọt đục.

200.

một I d. 1 Số đầu tiên trong dãy số tự nhiên. 2 (kng). Tháng mười một âm lịch

(nói tắt). 3 Từ biểu thị tính chất lần lượt của từng đơn vị giống nhau nối

tiếp nhau. 4 (dùng làm vị ngữ). Từ biểu thị tính chất toàn khối không thể

chia cắt hoặc tính chất thống nhất, nhất trí như một khối. 5 (dùng trước một

số d.). Từ biểu thị tính chất nguyên khối, không sót một thành phần nào; cả.

II t. 1 (dùng phụ sau d. trong một vài tổ hợp). Độc nhất (chứ không phải là

có nhiều). 2 (dùng phụ sau d. trong một vài tổ hợp). Dùng cho một người chứ không phải dùng cho hai người.

201.

mốt1 I d. Kiểu sinh hoạt, thường là kiểu ăn mặc được một số đông ưa chuộng trong một thời gian nào đó.

II t. (kng). Đúng mốt, hợp với mốt đang thịnh hành.

202.

mực thước I d. (cũ). Khuôn phép.

II t. Theo đúng khuôn phép, mẫu mực.

203.

mực2 I d. 1 Chất nước màu đen dùng để vết chữ Hán bằng bút lông hoặc để vẽ. 2 Chất có màu dùng để hoà tan trong nước để viết, in. II t. (Chó) có lông màu đen.

204.

mun I d. Cây lấy gỗ cùng họ với thị, lá mềm, mỏng, hoa đơn tính màu vàng, gỗ rất cứng, màu đen. II t. (kết hợp hạn chế). Đen như màu gỗ mun.

205.

mướp

74

I d. Cây trồng thân leo, hoa đơn tính màu vàng, quả dài, dùng làm thức ăn,

khi già thành xơ. II t. Rách đến mức trông tả tơi, xơ xác.

206.

mút2 I d. Đầu tận cùng của một vật có độ dài đáng kể.

II t. Xa đến tận cuối tầm nhìn.

207.

mưu lược I d. Mưu trí và sách lược (nói khái quát).

II t. (id). Có nhiều mưu trí.

208.

mưu mẹo I d. Cách khôn khéo để đánh lừa đối phương, thực hiện một ý định nào đó

(nói khái quát).

II t. (kng). Có nhiều mưu mẹo.

209.

mưu trí I d. Mưu kế và tài trí (nói khái quát).

II t. Khôn ngoan, có mưu trí.

210.

nạc I d. Thịt không có mỡ.

II t. (dùng phụ sau d., trong một số tổ hợp). Gồm toàn thành phần tốt, chắc,

hữu ích.

211.

nam1 I d. Người thuộc nam giới (nói khái quát), phân biệt với nữ.

II t.(dùng phụ sau d.). (Đồ dùng) chuyên để cho nam giới dùng.

212.

nắng I d. 1 ánh sáng trực tiếp từ mặt trời chiếu xuống. 2 Khoảng thời gian của

một ngày có nắng. II t. Có nắng.

213.

nâu I d. Cây leo ở rừng, rễ củ lớn, sần sùi, chứa nhiều chất chát, thường dùng để nhuộm vải. II t. Có màu trung gian giữa đen và đỏ hoặc giữa vàng và đỏ sẫm, tương tự màu nước củ nâu.

214.

nây I d. Thịt mỡ bèo nhèo ở bụng lợn.

75

II t. Béo hoặc mập tròn, đầy đặn.

215.

nền nếp I d. Toàn bộ nói chung những quy định và thói quen trong công việc hoặc

sinh hoạt, làm cho có trật tự, có kỉ luật, có tổ chức.

II t. Có nề nếp tốt.

216.

nếp1 I d. Loài lúa cho hạt gạo to và trắng, nấu chín thỡ trong và dẻo, thường

dùng thổi xôi, làm bánh.

II t. (dùng sau d., trong một số tổ hợp). Từ dùng trong tên gọi để phân loại

một vài thứ ngũ cốc cho hạt trắng và ăn dẻo, một vài thứ cây ăn quả hoặc một vài thứ thực phẩm loại ngon; phân biệt với tẻ.

217.

ngà I d. 1 Răng nanh hàm trên của voi, mọc chìa dài ra ngoài hai bên miệng. 2

(chm). Chất cấu tạo nên răng của thú.

II t. (kết hợp hạn chế). Có màu trắng hơi ngả màu vàng như màu ngà voi.

218.

nghề I d. Công việc chuyên làm theo sự phân công lao động của xã hội.

II t. (kng). Giỏi, thành thạo (trong một việc làm nào đó).

219.

nghi vệ I d. Vật trưng bày nơi cung thất, dinh thự hay dùng khi vua quan đi đường,

như tán, cờ, quạt, binh khí... (nói khái quát).

II t. (id). Oai nghiêm và đúng nghi thức.

220.

nghĩa khí I d. Chí khí của người nghĩa hiệp.

II t. Có nghĩa khí.

221.

ngồng I d. Thân non của một số cây, như cải, thuốc lá, mọc cao vổng lên và mang hoa. II t. (dùng phụ sau mọt số t.). Cao lớn vượt hẳn lên, trông khác thường.

222.

nguyên sinh I d. Nguyên đại thứ hai trong lịch sử Trái Đất, cách ngày nay khoảng một tỷ ba trăm triệu năm, dài khoảng tám trăm triệu năm, đã bắt đầu có di tích sinh vật cổ sơ.

II t. (Rừng) mọc tự nhiên từ thời xa xưa, chưa hề bị chặt phá; trái với thứ

76

sinh.

223.

nhà quê I d. (cũ). Nông thôn.

II t. (kng). Quê mùa, mộc mạc, kém vẻ thanh tao, lịch sự (hàm ý chê).

224.

nhách1 I d. (kng; kết hợp hạn chế). Từ dùng để chỉ từng cá thể một số loại động vật (thường là động vật nuôi) thuộc thế hệ con, khi còn rất nhỏ.

II t. (kng; kết hợp hạn chế). (Động vật) còn rất nhỏ.

225.

nhân dân I d. Đông đảo những người dân, thuộc mọi tầng lớp, đang sống trong một khu vực địa nào đó (nói tổng quát).

II t. Thuộc về nhân dân, nhằm phục vụ nhân dân.

226.

nhân đạo I d. Đạo đức thể hiện ở sự thương yêu quý trọng và bảo vệ con người.

II t. Có tính nhân đạo.

227.

nhiệt I d. 1 Hiện tượng vật có thể truyền đi được, sự tăng lên của nó thể hiện

bằng sự tăng nhiệt độ, dãn nở, những sự chuyển hoá (nóng chảy, thăng hoa,

bay hơi). 2 Nhiệt lượng (nói tắt).

II t. (Cơ thể) ở tạng nóng, biểu hiện: miệng khô, khát nước, mạch nhanh...

(theo cách nói của Đông y).

228.

nhiệt tâm I d. Lòng sốt sắng đối với công việc chung, sự nghiệp chung.

II t. (kng; id). Có nhiệt tâm.

229.

nhiệt tình I d. Tình cảm sốt sắng đối với người, với việc. II t. (kng). Có nhiệt tình.

230.

nội địa I d. Phần đất trong lục địa ở xa biển. II t. ở trong nước, do trong nước làm ra.

231.

nội tiết I d. (kng). Nội tiết tố (nói tắt). II t. Tuyến mà chất tiết ra của nó được ngấm thẳng vào máu.

232.

nôm

77

I d. Tiếng Việt, viết bằng chữ gọi là chữ Nôm; phân biệt với tiếng Hán, viết

bằng chữ nho. II t. (id). Nôm na.

233.

nõn Id. Lá non, còn cuộn hoặc bọc kín, chưa mở hết ra, ở một số cây.

II t. Mịn và mượt.

234.

nửa I d. Một trong hai phần bằng nhau của một cái gì.

II t. (Dùng hạn chế trong một số tổ hợp, trước một từ khác). Không hoàn

toàn, vừa như thế, vừa như khác thế.

235.

oan trái I d. Những điều phải gánh chịu trong kiếp này để trả cho những điều ác đã

làm ở kiếp trước, theo quan niệm của đạo Phật (nói tổng quát).

II t. (vch). Bất hạnh.

236.

pháp lệnh I d. Văn bản do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành, quy định những vấn

đề được Quốc hội giao, có hiệu lực gần như luật.

II t. Có tính chất bắt buộc thực hiện, được coi như pháp lệnh.

237.

phệnh Id. Đồ chơi trẻ con có hình một người béo phệ ngồi để hở bụng to phình,

thường làm bằng sành, sứ hoặc gỗ.

II t. (kng). To phềnh.

238.

phong kiến I d. 1 (id). Chế độ phong kiến (nói tắt). 2 Những người thuộc giai cấp thống

trị trong chế độ phong kiến (nói tổng quát).

II t. Thuộc về chế độ hoặc giai cấp phong kiến, có tính chất phong kiến.

239.

phúc I d. Điều may mắn lớn, điều mang lại những sự tốt lành lớn; trái với hoạ. II t. (kng; thường dùng trong câu biểu cảm). May mắn.

240.

phúc đức I d. Điều tốt lành để lại cho con cháu do ăn ở tốt, theo quan niệm truyền thống (nói khái quát). II t. 1 Hay làm những điều tốt lành cho người khác (thường với hi vọng để

lại tốt lành cho con cháu). 2 (kng). May mắn, tốt lành lắm.

78

241.

quần chúng I d. 1 Những người dân bình thường trong xã hội (nói tổng quát và trong quan hệ với những người lãnh ddạo). 2 Số đông người ngoài đảng và là đối

tượng lãnh đạo trực tiếp của một tổ chức đảng (nói trong quan hệ với tổ

chức đảng ấy). 3 (kng). Người ngoài đảng (nói trong quan hệ với đảng lãnh

đạo). II t. Thuộc về quần chúng, để phục vụ quần chúng hoặc hợp với quần

chúng rộng rãi.

242.

quan liêu I d. (cũ). Quan (nói tắt).

II t. (Cách lãnh đạo, chỉ đạo) thiên về dùng mệnh lệnh, giấy tờ, xa thực tế, xa quần chúng.

243.

quân phiệt I d. Kẻ theo chủ nghĩa quân phiệt. II t. Có tính chất của chủ nghĩa quân phiệt, dựa vào vũ lực để hành động

một cách độc đoán nhằm áp chế người khác.

244.

quân sự I d. Những vấn đề về xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang

(nói tổng quát).

II t. 1 Thuộc về quân đội. 2 (kng). Khẩn trương, nhanh nhẹn, gọn gàng như

trong quân đội.

245.

quanh quất I d. quanh nơi nào đó, không xa.

II t. (id). Quanh co, không thẳng.

246.

quê I d. 1 Nơi gia đình, dòng họ đã qua nhiều đời làm ăn sinh sống, thường với

mình có sự gắn bó tự nhiên về tính cảm. 2 Nông thôn, nơi có đồng ruộng, làng mạc. II t. Có tính chất quá mộc mạc, kém vẻ thanh lịch.

247.

quốc gia I d. 1 Nước. 2 (cũ). Nước nhà. II t. Theo chủ nghĩa quốc gia.

248.

quốc tế I d. (thường dùng phụ sau d.). Các nước trên thế giới trong quan hệ với

79

nhau.

II t. 1 Thuộc về quan hệ giữa các nước trên thế giới. 2 Thuộc về chủ nghĩa quốc tế, theo chủ nghĩa quốc tế.

249.

quy mô I d. Độ rộng lớn về mặt tổ chức.

II t. Có quy mô lớn.

250.

rác I d. những thứ vụn vặt bị vứt bỏ vương vãi và làm bẩn (nói tổng quát).

II t. Bẩn vì có nhiều rác.

251.

rủi I d. Điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến.

II t. ở trong tình hình gặp rủi; không may.

252.

ruột Id. 1 Phần của ống tiêu hoá từ cuối dạ dày đến hậu môn. 2 Bộ phận bên

trong của một số vật. 3 (kết hợp hạn chế). Ruột của con người, được coi là

biểu tượng của sự chịu đựng về tình cảm.

II t. (dùng phụ sau d. chỉ quan hệ gia đình thân thuộc). Thuộc về mối quan

hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa những người có cùng cha mẹ với con cái

của họ.

253.

sách vở. I. dt. Sách và vở; tài liệu học tập, nghiên cứu (nói khái quát). Chuẩn bị

sách vở cho ngày khai trường. Vùi đầu trong sách vở.

II. tt. Lệ thuộc vào sách vở, thoát li thực tế. Kiến thức sách vở. Con người sách vở.

254.

sấp ngửa I d. Lối đánh bạc thời trước, đoán đồng tiền gieo úp trong bát là sấp hay là ngửa mà ăn tiền. II t. (kng). (Dáng vẻ) vội vàng, tất tả.

255.

sâu1 I d. Dạng ấu trùng của bọ, thường ăn hại cây cối. II t. Bị sâu ăn, hay bị hư hỏng tựa như sâu ăn.

256.

sinh học I d. Tổng thể các khoa học về thế giới hữu sinh và về các quá trình sống.

II t. Thuộc về sinh học, có tính chất sinh học.

80

257.

sớm I d. Khoảng thời gian lúc mặt trời mới mọc. II t. (Xảy ra, đến, có được) trước thời điểm quy định hay trước thời điểm

thường lệ tương đối lâu; trái với muộn.

258.

son1 I d. 1 Đá đỏ mài ra làm mực viết, vẽ bằng bút lông. 2 Sáp thường màu đỏ, phụ nữ dùng để tô môi.

II t. 1 Có màu đỏ như son. 2 (cũ; vch; kết hợp hạn chế). (Lòng) ngay thẳng,

trung trinh, trước sau không phai nhạt, đổi thay.

259.

tả2 I d. 1 (kết hợp hạn chế). Bên trái, trong mối quan hệ đối lập với hữu là bên

phải. 2 (thường dùng phụ sau d.). Bộ phận thiên về tiến bộ, về cách mạng

trong nghị viện hoặc trong các tổ chức chính trị ở một số nước tư bản, trong

mối quan hệ đối lập với hữu là bộ phận thiên về bảo thủ, thoả hiệp hay phản cách mạng.

II t. Có chủ trương hành động quá mạnh, quá sớm, không thích hợp với

điều kiện thực tế.

260.

tài tử I d. (cũ). 1 (vch; thường dùng đi đôi với giai nhân). Người đàn ông có tài. 2

Diễn viên sân khấu, xiếc hay điện ảnh có tài.

II t. 1 Không phải chuyên nghiệp, chỉ do thích thú mà chơi hoặc trau dồi

một môn thể thao, văn nghệ nào đó. 2 (kng). (Phong cách, lối làm việc) tuỳ

hứng, tuỳ thích, không có sự chuyên tâm.

261.

tài2 I d. Khả năng đặc biệt làm một việc nào đó.

II t. Có tài.

262.

tam đại I d. Ba đời (đời cha, đời ông và đời cụ). II t. (kng; kết hợp hạn chế). Đã xưa lắm, cũ lắm.

263.

tâm huyết I d. Lòng nhiệt tình đối với một cái gì cao cả, xuất phát từ tình cảm, nguyện vọng thiết tha. II t. Đầy tâm huyết, xuất phát từ tình cảm, nguyện vọng thiết tha, chân thật.

264.

tâm lý

81

I d. 1 Toàn bộ nói chung sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức

con người, bao gồm nhận thức, tình cảm, ý chí... biểu hiện trong hoạt động và cử chỉ mỗi người. 2 Nguyện vọng, ý thích, thị hiếu... riêng của mỗi

người, trong mọt hoàn cảnh cụ thể nào đó.

II t. 1 Thuộc về tâm lý. 2 (kng). Hiểu tâm lý của người khác để có sự đối

xử phù hợp.

265.

tầm tầm1 I d. nơi bán đấu giá cổ vật bị tịch thu hoặc đồ cũ, thời trước.

II t. (kng). ). (Đồ dùng) đã cũ.

266.

tang thương I d. (cũ, vch). Bể dâu.

II t. Tiều tuỵ, khổ sở đến mức gợi sự đau xót, thương tâm.

267.

tập đoàn I d. 1 Tập hợp những người có chung những quyền lợi kinh tế, xã hội hoặc

có cùng một xu hướng chính trị, đối lập với những tập đoàn người khác. 2

Tập hợp những người có cùng một nghề làm ăn chung với nhau, với quymô

nhỏ. 3 Tập hợp nhiều sinh vật cùng loại sống quây quần bên nhau. II t. (id). Tập thể.

268.

tập thể I d. Tập hợp những người có quan hệ gắn bó, cùng sinh hoạt hoặc cùng làm việc chung với nhau.

II t. Thuộc về tập thể, có tính chất tập thể.

269.

tật nguyền I d. Tật tương đối lớn, nghiêm trọng (nói khái quát).

II t. Có một cơ quan quan trọng nào đó của cơ thể bị tật nặng, mất khả năng

lao động, hoạt động bình thường.

270.

tây1 I d. 1 Một trong bốn phương chính ở về phía mặt trời lặn, đối diện với phương đông. 2 (thường viết hoa). Phần đất của thế giới, nằm ở tây châu Âu. II t. Theo kiểu phương Tây, hoặc có nguồn gốc từ phương Tây, đối lập với ta.

271.

tẻ2 I d. Loại lúa cho hạt gạo nhỏ và dài, ít nhựa, thường dùng để thổi cơm.

82

II t. (dùng sau d. trong một số tổ hợp). Từ dùng trong tên gọi để phân biệt

một vài thứ ngũ cốc cho hạt ăn hơi cứng, một vài thứ cây ăn quả hoặc một vài thứ thực phẩm loại không được ngon; phân biệt với nếp.

272.

tép1 I d. 1 Động vật cùng họ với tôm nhưng nhỏ và không có càng. 2 (kng).

Tôm, cá nhỏ (nói khái quát). II t. (dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Thuộc loại nhỏ.

273.

thần thánh I d. Lực lượng siêu tự nhiên như thần thánh (nói tắt).

II t. Có tính chất thiêng liêng, vĩ đại.

274.

thân thuộc I d. Những người có quan hệ họ hàng (nói khái quát).

II t. Có quan hệ thân thiết, gần gũi.

275.

thân tình I d. Tình cảm thân mật, chân thành.

II t. Có những biểu hiện tình cảm chân thành, thân mật.

276.

thần2 I d. Lực lượng siêu tự nhiên được tôn thờ, coi là linh thiêng, có thể gây hoạ

hoặc làm phúc cho người đời, theo quan niệm duy tâm hoặc theo quan niệm

của tôn giáo.

II t. (Vật) có phép lạ của thần.

277.

thánh I d. 1 (cũ). Danh hiệu người đời tặng cho bậc vốn có hiểu biết rộng, có

phẩm chất đạo đức cao, vượt lên hẳn người cùng thời; thường dùng để chỉ

người sáng lập ra nho giáo. 2 (cũ; kết hợp hạn chế). Từ dùng để gọi tôn

vua. 3 (cũ). Thần linh hoặc nhân vật truyền thuyết, nhân vật lịch sử được tôn thờ ở đền, chùa. 4 (kng). Người có tài, có khả năng hơn hẳn người thường trong một nghề hoặc một việc gì. 5 Đấng tạo ra trời đất, chúa tể của muôn loài, theo tôn giáo. 6 Từ Kitô giáo dùng để gọi chúa Jesus và những cái thuộc về chúa. II t. (kng). Tài, giỏi khác thường.

278.

thanh niên I d. Người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành.

II t. Có đặc điểm thuộc tính của thanh niên.

83

279.

thanh niên. I. dt. Người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành. Thanh niên nam nữ. Thế hệ thanh niên.

II. tt. Có đặc điểm, thuộc tính của thanh niên. Tính rất thanh niên.

280.

thao lược I d. (cũ). Phép dùng binh. II t. (cũ; id). Có tài thao lược.

281.

thổ tả I d. (kng). Dịch tả.

II t. (thgt). Quá tồi tệ, đáng ghét.

282.

thơ1 I d. Hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh và có nhịp điệu để

thể hiện nội dung một cách hàm súc.

II t. Có vẻ đẹp, giàu sức gợi cảm; nên thơ.

283.

thời đại I d. Khoảng thời gian lịch sử dài được phân chia theo những sự kiện có đặc

trưng giống nhau.

II t. Có tính chất tiêu biểu cho một thời đại.

284.

thời sự I d. Tổng thể nói chung những sự việc ít nhiều quan trọng trong một lĩnh

vực nào đó, thường là xã hội chính trị, xảy ra trong thời gian gần nhất và

đang được nhiều người quan tâm.

II t (kng). Có tính chất thời sự, đang được nhiều người quan tâm.

285.

thủ đoạn I d. Cách làm khôn khéo, thường là xảo trá, chỉ cốt sao cho đạt được mục

đích. II t. (kng). Có nhiều thủ đoạn.

286.

thư sinh I d. Người học trò trẻ tuổi thời trước. II t. (kng). (Thanh niên) có dáng mảnh khảnh, yếu ớt của người ít lao động chân tay, như một thư sinh thời trước.

287.

thứ2 I d. 1 Từ dùng trước d. số lượng để chỉ số lượng trong sắp xếp. 2 Từ dùng

trước d. số lượng để chỉ ngày trong tuần.

84

II t. 1 (dùng hạn chế trong một vài tổ hợp). (Vợ, con) ở hàng thứ hai, sau

vợ cả. 2 (cũ). Trung bình (trong hệ thống phê điểm để xếp hạng; ưu, bình, thứ, liệt, dùng trong học tập, thi cử ngày trước).

288.

thú2 I d. Điều làm cho người ta vui thích.

II t. (hay đg.). (kng). (Làm việc gì đó) cảm thấy vui thích.

289.

thực dụng chủ nghĩa I d. (id). chủ nghĩa thực dụng.

II t. Chỉ nhằm vào những gì có thể mang lại lợi ích vật chất thiết thực và

trước mắt cho mình, không quan tâm đến những mặt khác; theo chủ nghĩa thực dụng.

290.

thực tế I d. 1 Tổng thể nói chung những gì đang tồn tại, đang diễn ra trong tự nhiên

và trong xã hội, về mặt có quan hệ đến đời sống con người. 2 Tổng thể nói

chung những gì cụ thể xảy ra xung quanh một sự việc, một vấn đề nào đó. 3

Trên thực tế, trong thực tế (nói tắt).

II t. 1 Có giá trị, có ý nghĩa thiết thực. 2 Có ý thức coi trọng thực tế và tỏ ra thiết thực trong các hoạt động của mình.

291.

thực tiễn I d. Những hoạt động của con người, trước hết là lao động sản xuất, nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của xã hội (nói tổng quát).

II t. Có ý thức coi trọng thực tiễn trong các hoạt động.

292.

tỉ lệ I d. 1 Tỉ số (thường nói về tỉ số giữa các phần của một tổng thể, hay giữa

một phần nào đó với tổng thể). 2 Tỉ số giữa các kích thước của vật trên hình

vẽ, ảnh chụp, bản đồ với kích thước của vật thật.

II t. Tỉ lệ thuận (nói tắt).

293.

tí xíu I d. (kng; id). Một chút, không đáng kể. II t. (kng). Rất nhỏ bé, nhưng xinh xắn.

294.

tiện nghi1 I d. Những trang bị cần thiết làm cho sinh hoạt hàng ngày được thuận tiện, thoải mái (nói tổng quát).

II t. (kng). Thích hợp và thuận tiện cho sinh hoạt vật chất hàng ngày.

85

295.

tiên1 I d. Nhân vật trong truyện thần thoại, đẹp khác thường, có những phép rất màu nhiệm và cuộc sống rất yên vui.

II t. Thuộc về tiên, có phép màu nhiệm.

296.

tiêu chuẩn I d. 1 Điều quy định làm căn cứ để đánh giá, phân loại. 2 Mức quy định được hưởng, được cung cấp theo chế độ.

II t. (cũ). Chuẩn.

297.

tiểu tư sản I d. Tầng lớp trung gian gồm những người sản xuất nhỏ có tư liệu sản xuất riêng và không bóc lột người khác.

II t. Thuộc tầng lớp tiểu tư sản, có tính chất của tầng lớp tiểu tư sản.

298.

tinh anh I d. Phần tinh tuý, tốt đẹp nhất (thường nói về tinh thần).

II t. (Mắt) sáng và có vẻ thông minh, lanh lợi.

299.

tình cảm I d. 1 Sự rung động trong lòng trước một đối tượng nào đó. 2 Sự yêu mến,

gắn bó giữa người với người.

II t. Tỏ ra giàu tình cảm và dễ thiên về tình cảm.

300.

tình thế I d. Tình hình xã hội cụ thể, về mặt có lợi hay không có lợi cho những hoạt

động nào đó của con người.

II t. (Giải pháp) có tính chất tạm thời, nhằm đối phó với tình hình cụ thể trước mắt.

301.

tình1 I d. 1 Sự yêu mến, gắn bó giữa người với người. 2 Sự yêu đương giữa nam và nữ. 3 Tình cảm nói chung. II t. (kng). Có vẻ duyên dáng, dễ gợi tình cảm yêu thương.

302.

tơ1 I d. 1 Sợi rất mảnh, mượt, do tằm, nhện nhả ra. 2 Tơ tằm dùng làm sợi dệt. 3 Sợi rất mảnh và mượt như tơ tằm. 4 (cũ; vch; kết hợp hạn chế). Dây đàn, dùng để chỉ cây đàn. 5 (cũ; vch; kết hợp hạn chế). Sợi dây, dùng để biểu trưng cho mối tình gắn bó đôi nam nữ.

II t. (Lông, tóc) rất mảnh sợi, mềm và mượt như tơ.

86

303.

tổng thể I d. Tập hợp nhiều sự vật có quan hệ chặt chẽ với nhau, làm thành một thể thống nhất có những đặc trưng chung.

II t. (id). Có tính chất của tổng thể.

304.

topo I d. Topo học (nói tắt). II t. Thuộc về topo học.

305.

tột bậc I d. (không dùng làm chủ ngữ). Bậc cao nhất, mức độ cao nhất.

II t. ở bậc cao nhất, không còn có thể hơn.

306.

trần ai I d. (cũ; vch). Cõi đời vất vả gian truân.

II t. (kng). Vất vả, khổ sở.

307.

trần tục I d. (vch; id). Cõi đời trên mặt đất, cõi trần.

II t. Thuộc về cuộc sống trên cõi trần, coi là vật chất tầm thường, không có

gì thanh cao.

308.

trẻ con I d. Những đứa trẻ (nói khái quát).

II t. Có tính chất của trẻ con (thường hàm ý coi thường).

309.

tri kỉ I d. Bạn rất thân, hiểu rõ lòng mình.

II t. (kng). Có tính chất tri kỉ.

310.

trưa I d. Khoảng thời gian giữa ban ngày, vào lúc mặt trời lên cao nhất.

II t. Muộn so với giờ giấc buổi sáng.

311.

trung tâm I d. 1 Nơi ở giữa của một vùng nào đó. 2 Nơi tập trung những hoạt động trong một lĩnh vực nào đó, có ảnh hưởng đối với những nơi khác. 3 Cơ quan phối hợp những hoạt động nghiên cứu hoặc dịch vụ trong một lĩnh vực nà đó. II t. Quan trọng nhất, có tác dụng quyết định, chi phối đối với những cái khác.

312.

trưởng giả

87

I d. Người xuất thân bình dân nhờ buôn bán, kinh doanh mà giàu có, trong

xã hội cũ. II t. (id). (thường dùng phụ sau d.). Giàu có và chỉ thiên về hưởng thụ.

313.

truyền thống I d. Thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được

truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. II t. Có tính chất truyền thống, được tuyền lại từ các đời trước.

314.

tư bản I d. 1 giá trị mang lại cho kẻ chiếm hữu nó giá trị thặng dư, có được bằng

cách bóc lột lao động làm thuê. 2 Người chiếm hữu tư bản, bóc lột lao động làm thuê, trong quan hệ với lao động làm thuê.

II t. Tư bản chủ nghĩa.

315.

tự do I d. 1 Phạm trù triết học chỉ khả năng biểu hiện ý chí, làm theo ý muốn của

mình trên cơ sở nhận thức được quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. 2

Trạng thái một dân tộc, một xã hội và các thành viên không bị cấm đoán,

hạn chế vô trong các hoạt động xã hội - chính trị. 3 Trạng thái không bị giam cầm hoặc không bị làm nô lệ. 4 Trạng thái không bị cấm đoán, không

bị hạn chế vô trong việc làm nào đó.

II t. 1 (kết hợp hạn chế). Các quyền tự do về xã hội - chính trị. 2 Không bị

lực lượng ngoại xâm chiếm đóng.

316.

tự nhiên I d. tất cả nói chung những gì tồn tại mà không phải do can người mới có.

II t. 1 Thuộc về tự nhiên hoặc có tính chất của tự nhiên, không phải do con

người mới có, không phải do con người tác động hoặc can thiệp vào. 2 (cử

chỉ, nói năng...) bình thường như vốn có của bản thân, không có gì là gượng gạo, kiểu cách hoặc gò bó, giả tạo. 3 (thường dùng làm phần phụ trong câu). (Sự việc xảy ra) không có hoặc không rõ lý do, tựa như là một

hiện tượng thuần tuý trong tự nhiên vậy. 4 Theo lẽ thường ở đời, phù hợp với lẽ thường của tự nhiên.

317.

tư sản I d. Người thuộc giai cấp chiếm hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, sống và làm giàu bằng cách bóc lột lao động làm thuê.

II t. Thuộc giai cấp tư sản, có tính chất của giai cấp tư sản.

88

318.

tục2 I d. 1 (kết hợp hạn chế). Cõi đời trên mặt đất, coi là vật chất tầm thường, không thanh cao, đối lập với cõi thần tiên hoặc nói chung một thế giới

tưởng tượng nào đó. 2 (dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Người đời;

trong dân gian, phân biệt với trong sách vở.

II t. Thô bỉ, tỏ ra thiếu lịch sự, thiếu văn hoá.

319.

văn minh I d. Trình độ phát triển đạt đến một mức nhất định của xã hội loài người, có

nền văn hoá vật chất và tinh thần với những đặc trưng riêng.

II t. 1 Có những đặc trưng của văn minh, của nền văn hoá phát triển cao. 2

(chm). Thuộc về giai đoạn phát triển thứ ba, sau thời đại dã man, trong lịch sử phát triển xã hội loài người kể từ khi có thuật luyện kim và chữ viết

(theo lịch sử phân kì xã hội của L. H. Morgan).

320.

vật I d. Vật học.

II t. Thuộc về vật học, có tính chất vật học.

321.

vi mô I d. Đối tượng có quy mô nhỏ trong hệ thống, được coi là cấp thấp nhất

(nói khái quát); phân biệt với vĩ mô.

II t. Thuộc cấp xí nghiệp và đơn vị kinh tế cơ sở, nói chung ; phân biệt với

vĩ mô.

322.

vĩ mô I d. Đối tượng quy mô lớn nhất; bao quát toàn hệ thống; phân biệt với vi

mô.

II t. Thuộc phạm vi toàn bộ nền kinh tế; phân biệt với vi mô.

323.

vi phân I d. Phần chính bậc nhất trong số gia của một hàm số. II t. Thuộc về vi phân.

324.

vinh hạnh I d. Điều mang lại vinh dự. II t. Sung sướng có được vinh dự.

325.

vô sản I d. 1 Người thuộc giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản(nói khái quát). 2

Người lao động không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê và bị bóc lột, nói

89

chung.

II t. 1 Thuộc giai cấp công nhân, có tính chất của giai cấp công nhân. 2 (kng). Hoàn toàn không có tài sản gì cả.

326.

vời1 I d. Vùng nước rộng ngoài xa trên mặt sông hay mặt biển.

II t. (kết hợp hạn chế). Xa lắm.

327.

vườn I d. Khu đất thường rào kín và ngay sát cạnh nhà ở, để trồng cây cỏ có ích.

II t. (kng; dùng làm phụ sau d. trong một số tổ hợp). (Người làm một nghề

nào đó) không chuyên nhghiệp và ở nông thôn (thường hàm ý coi thường).

328.

xã hội chủ nghĩa I d. (cũ). Chủ nghĩa xã hội.

II t. Thuộc về chủ nghĩa xã hội, có tính chất của chủ nghĩa xã hội.

329.

xác I d. 1 Phần thân thể con người, đối lập với phần hồn; thân hình. 2 (kng;

dùng sau đg; kết hợp hạn chế). Cái bản thân của mỗi con người (hàm ý coi

khinh). 3 Thân người hay động vật đã chết. 4 Lớp da, lớp vỏ đã trút bỏ của

một số loài động vật sau khi lột vỏ. 5 Phần võ hay bã của vật còn lại sau khi

đã dược dùng.

II t.Ở trạng thái như chỉ còn trơ trụi cái vỏ, cái hình thức bên ngoài.

330.

xơ I d. 1 Phần dai lẫn trong phần nạc của một số rau, củ hoặc trong phần vỏ

của một số quả. 2 Bản dẹt nằm chen từng đám giữa các múi mít. II t. 1 ở tình trạng như chỉ còn trơ ra những xơ, sợi do bị mòn rách, huỷ

hoại. 2 (hoặc d.). (Hiện tượng) các tế bào bị thoái hoá, cứng lại, mất chức

năng.

331.

xô viết I d. Hình thức tổ chức chính quyền chuyên chính vô sản; cơ quan chính quyền nhà nước ở Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xôviêt trước đây. II t. Thuộc về Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xôviêt trước đây.

332.

xuân I d. 1 Mùa chuyển tiếp từ đôngười sang hạ, thời tiết ấm dần lên, thường được coi là mở đầu cho một năm. 2 (vch). Năm, dùng để tính thời gian đã

trôi qua, hay tuổi đời con người.

90

II t. 1 (vch). Thuộc về tuổi trẻ, coi là tươi đẹp, tràn đầy sức sống.

333.

xung động I d. Luồng kích thích lan từ nơi này đến nơi khác của cơ thể.

II t. (Hành động) có tính bột phát, có nhận thức nhưng không tự ý, không

chủ động, thường do ảnh hưởng của những kích động mạnh.

334.

xương I d. 1 Bộ phận cứng và chắc làm nòng cốt cho cơ thể người và động vật. 2

Phần cứng làm nòng cốt, làm sườn cho một số vật.

II t. (kết hợp hạn chế). Gầy, tựa như nhìn thấy xương.

335.

xương xẩu I d. Xương của thú vật (hàm ý chê), hoặc phần xương còn lại sau khi đã ăn

hết thịt (nói khái quát); thường dùng để ví cái người khác đã vứt bỏ, không

mang lại lợi lộc bao nhiêu.

II t. Gầy đến nhô xương, nổi xương lên.

336.

ý tứ I d. 1 Những ý muốn nói (nói tổng quát). 2 Sự cẩn thận trong cử chỉ, lời nói

tránh những sơ suất làm cho người khác hiểu lầm.

II t. (kng). Có ý tứ.

91