VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DƯƠNG THỊ DUNG
NGHIÊN CỨU ĐẶC TRƯNG SỰ CHUYỂN NGHĨA
TỪ LOẠI DANH TỪ SANG ĐẠI TỪ VÀ DANH TỪ SANG TÍNH TỪ
TRONG TIẾNG VIỆT
(TRÊN NGỮ LIỆU MỘT SỐ NHÓM TỪ)
Ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9.22.90.20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
Hà Nội - 2023
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
DƯƠNG THỊ DUNG
NGHIÊN CỨU ĐẶC TRƯNG SỰ CHUYỂN NGHĨA
TỪ LOẠI DANH TỪ SANG ĐẠI TỪ VÀ DANH TỪ SANG TÍNH TỪ
TRONG TIẾNG VIỆT
(TRÊN NGỮ LIỆU MỘT SỐ NHÓM TỪ)
Ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 9.22.90.20
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. LÊ QUANG THIÊM
Hà Nội - 2023
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả trình bày trong Luận án là trung thực và chưa từng được ai công
bố trong bất cứ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Dương Thị Dung
i
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ
LUẬN ................................................................................................................ 9
1.1. Dẫn nhập ................................................................................................ 9 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan ............................................ 9
1.2.1. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa ở ngoài nước và trong nước ............................................................................................... 10
1.2.2. Tình hình nghiên cứu chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ .......................... 21
1.3. Cơ sở lý luận ........................................................................................ 24
1.3.1. Một số lý luận về ngữ nghĩa học từ vựng ..................................... 24
1.3.2. Về hiện tượng chuyển nghĩa và chuyển nghĩa từ vựng ................ 33
1.3.3. Nghĩa của từ trong từ loại tiếng Việt ............................................ 41 1.4. Tiểu kết ................................................................................................. 47
Chương 2: ĐẶC TRƯNG CHUYỂN BIẾN NGHĨA CỦA DANH TỪ
MANG THUỘC TÍNH NGHĨA ĐẠI TỪ (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG
HỢP) ................................................................................................................ 48
2.1. Giới thiệu về nhóm danh từ lựa chọn để nghiên cứu ........................... 48
2.2. Thực tiễn và khả năng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ .................................................................................................. 49
2.3. Phân tích và diễn giải nhóm danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ .... 51 2.3.1. Trường hợp từ "bác" ..................................................................... 52
2.3.2. Trường hợp từ "cô" ....................................................................... 63
2.3.3. Trường hợp cặp từ "ông/bà" ......................................................... 72
2.3.4. Trường hợp cặp từ "cha/mẹ" ......................................................... 83
2.4. Đặc trưng ngữ nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ .......... 96
2.4.1. Cơ sở của sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ .............................................................................................................. 96
2.4.2. Sự phân ly về nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ .... 98
2.4.3. Cơ chế chuyển biến nghĩa của các đơn vị danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ .............................................................................................. 99
ii
2.5. Tiểu kết ............................................................................................... 100
Chương 3: ĐẶC TRƯNG CHUYỂN BIẾN NGHĨA CỦA DANH TỪ
MANG THUỘC TÍNH NGHĨA TÍNH TỪ (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG
HỢP) .............................................................................................................. 102
3.1. Giới thiệu về nhóm danh từ lựa chọn để nghiên cứu ......................... 102
3.2. Thực tiễn và khả năng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính
nghĩa tính từ...................................................................................................105
3.3. Phân tích và diễn giải nhóm danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ . 106
3.3.1. Trường hợp từ "anh hùng" .......................................................... 107
3.3.2. Trường hợp từ "bình dân" ........................................................... 114
3.3.3. Trường hợp từ "cách mạng" ........................................................ 118
3.3.4. Trường hợp từ "phúc" ................................................................. 123
3.3.5. Trường hợp từ "quê" ................................................................... 127 3.3.6. Trường hợp từ "sách vở" ............................................................. 131
3.3.7. Trường hợp từ "bụi" .................................................................... 136
3.3.8. Trường hợp từ "gan" ................................................................... 142
3.4. Đặc trưng ngữ nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ ...... 147
3.4.1. Cơ sở của sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ .................................................................................................... 147
3.4.2. Sự phân ly về nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ 149
3.4.3. Cơ chế chuyển biến nghĩa của các đơn vị danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ .......................................................................................... 151
3.4.4. Nguyên nhân chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ .......................................................................................... 152 3.5. Tiểu kết ............................................................................................... 153
KẾT LUẬN ................................................................................................... 155
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ................. 159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................... 160
NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT
PHỤ LỤC
iii
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TĐHTC:
TĐKT:
TĐĐVT:
TĐTN: TĐVT:
TĐLVĐ:
TĐHP:
TĐTV:
Đại Nam quấc âm tự vị, Huình Tịnh Paulus Của, Sài Gòn, 1895 -1896. Bản in năm 1975 đổi tên thành Ðại Nam quốc âm tự vị , Nxb Trẻ tái bản mới nhất năm 1998. Việt Nam tự điển, Hội Khai trí Tiến đức, Hà Nội, 1931; tái bản, 1954 Tự điển Việt Nam phổ thông, Đào Văn Tập, Vĩnh – Bảo Sài Gòn. Việt Nam tân tự điển, Thanh Nghị, Sài Gòn, 1952. Từ điển tiếng Việt, Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm,... Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1967; tái bản, có sửa chữa, bổ sung, Hà Nội, 1977, 1994. Việt Nam tự điển, Lê Văn Đức, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn, 1970. Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên), Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng, xuất bản lần đầu 1988 và tái bản nhiều lần cho đến năm 2012. Từ điển tiếng Việt.
iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bác" trong các Từ điển tiếng Việt 55
Bảng 2.2: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "cô" trong các Từ điển tiếng Việt. 66
Bảng 2.3: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "ông" trong các Từ điển tiếng Việt 74
Bảng 2.4: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bà" trong các Từ điển tiếng Việt. 77
Bảng 2.5: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "cha" trong các Từ điển tiếng Việt 87
Bảng 2.6: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "mẹ" trong các Từ điển tiếng Việt 88
Bảng 3.1: Cấu tạo mục từ chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính
nghĩa tính từ trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê ................................. 103
Bảng 3.2: Nguồn gốc mục từ chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính
nghĩa tính từ trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê ................................. 104
Bảng 3.3: Nhóm danh từ thuộc tính nghĩa tính từ trong Từ điển tiếng Việt của
Hoàng Phê ..................................................................................................... 104
v
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1: Tầng nghĩa và kiểu nghĩa từ vựng .................................................... 32
Sơ đồ 2: Mô hình chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ ... 98
Sơ đồ 3: Mô hình chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ 150
vi
DANH MỤC TƯ LIỆU TIẾNG VIỆT
1. Đại Nam quấc âm tự vị, Huình Tịnh Paulus Của, 1895 -1896), Sài Gòn.
Bản in năm 1975 đổi tên thành Ðại Nam quốc âm tự vị , Nxb Trẻ tái bản mới
nhất năm 1998.
2. Việt Nam tự điển, Hội Khai trí Tiến đức, Hà Nội, 1931; tái bản, S. - H., 1954.
3. Tự điển Việt Nam phổ thông, Đào Văn Tập, Vĩnh - Bảo Sài Gòn.
4. Việt Nam tân tự điển, Thanh Nghị, Sài Gòn, 1952.
5. Từ điển tiếng Việt, Văn Tân, Nguyễn Văn Đạm,... Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội, 1967; tái bản, có sửa chữa, bổ sung, H., 1977, 1994.
6. Việt Nam tự điển, Lê Văn Đức, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn 1970.
7. Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên), Viện Ngôn ngữ học, Nxb Đà
Nẵng, năm 1988 và tái bản năm 2012.
vii
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngữ nghĩa học nói chung và ngữ nghĩa học từ vựng nói riêng ngày
càng quan trọng trong thuyết ngôn ngữ học. Các nghiên cứu về ngữ nghĩa
học trên thế giới và Việt Nam đã đạt được những kết quả đáng khích lệ ở
cả mặt đồng đại và lịch đại. Trong nghiên cứu ngữ nghĩa học, các học giả
đặc biệt quan tâm đến hiện tượng chuyển nghĩa. Chuyển nghĩa (Change
meaning, shift meaning) còn gọi biến đổi nghĩa (semantic change) là một hiện
tượng phổ quát, tồn tại trong hầu hết mọi ngôn ngữ. Sự chuyển nghĩa của các
đơn vị từ vựng trong các ngôn ngữ biến hình thường kèm theo những dấu
hiệu về hình thái nên rất dễ nhận biết; còn sự chuyển nghĩa của các đơn vị từ
vựng trong các ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt được thể hiện qua các dấu
hiệu ngữ nghĩa, diễn ra trong nội dung của từ, nên khó nhận biết qua hình
thức bên ngoài.
Ch.Morris - người sáng lập ra ngành kí hiệu học đã phân chia kí hiệu
học thành: nghĩa học (semantics), kết học (syntactic) và dụng học
(pragmatics). Như vậy nghĩa học (semantics) là lĩnh vực quan trọng và cần
được đào sâu nghiên cứu. Tuy nhiên, trong Việt ngữ học, lĩnh vực này còn
chưa được quan tâm, đặc biệt là trong việc nghiên cứu kết hợp luận với thực
tiễn từ điển học.
Hiện tượng chuyển nghĩa có thể diễn ra trong các phạm vi nội bộ thực
từ, nội bộ hư từ hoặc giữa thực từ và hư từ. Nghiên cứu về hiện tượng này có
thể kể đến các công trình nghiên cứu của Vũ Văn Thi với luận án Phó tiến sĩ
Quá trình chuyển hóa của một số thực từ thành giới từ trong tiếng Việt (1995)
và Trần Thị Nhàn với công trình Hiện tượng chuyển hóa từ thực từ sang hư từ
trong tiếng Việt (theo thuyết ngữ pháp hóa) (2004). Tuy nhiên, nghiên cứu
1
chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính đại từ và danh từ mang thuộc tính
tính từ chưa được nghiên cứu.
Ngôn ngữ học truyền thống coi từ loại thuộc phạm trù từ vựng - ngữ
pháp. Điều này có nghĩa, từ loại trong phạm trù này vừa có đặc tính từ vựng
(nghĩa từ vựng) vừa có đặc trưng ngữ pháp (nghĩa ngữ pháp). Vấn đề đặt ra,
cần phải trả lời là trong quá trình chuyển nghĩa, nghĩa từ vựng xảy ra như thế
nào? Kết quả nghiên cứu của Vũ Văn Thi và Trần Thị Nhàn đã chứng minh
có hiện tượng chuyển hóa từ thực từ "sang" hư từ. Vấn đề đặt ra cần tiếp tục
nghiên cứu nhằm góp phần giải thích sâu hơn về hiện tượng chuyển nghĩa:
Một là, đối với sự chuyển nghĩa trong nội bộ thực từ (cụ thể là từ danh từ
mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ) xảy ra
như thế nào? Hai là, từ loại là một phạm trù từ vựng - ngữ pháp: vậy về mặt
nghĩa từ vựng, những đơn vị này chuyển nghĩa như thế nào?
Chính vì lẽ đó, chúng tôi chọn đề tài "Nghiên cứu đặc trưng sự
chuyển nghĩa từ loại danh từ sang đại từ và danh từ sang tính từ trong
tiếng Việt (Trên ngữ liệu một số nhóm từ)" để nghiên cứu. Do sự thay đổi đề
tài mà dùng từ "sang", thực chất luận án chỉ tìm hiểu nghĩa của danh từ
mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
(trên cơ sở ngữ liệu một số nhóm từ).
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu sự biến đổi và chuyển nghĩa của một số đơn vị từ để làm rõ
sự chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc
tính nghĩa tính từ. Trên cơ sở đó, làm rõ hơn nội dung của sự chuyển nghĩa
của đơn vị thực từ.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích đã nêu ở trên, luận án tập trung giải quyết những
nhiệm vụ cụ thể như sau:
2
- Tổng quan tình hình nghiên cứu và xây dựng cơ sở luận cho luận án;
- Xác định cách hiểu về bản chất nghĩa từ vựng danh từ, sự chuyển nghĩa
mang thuộc tính nghĩa đại từ và sự chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa tính
từ (nghiên cứu trường hợp);
- Miêu tả, phân tích nội dung ngữ nghĩa, biểu hiện ngữ nghĩa, tiến trình
phát triển nghĩa, chuyển nghĩa của một số đơn vị danh từ mang thuộc tính
nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ (nghiên cứu trường hợp).
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là các danh từ mang thuộc tính nghĩa
đại từ và các danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ trong tiếng Việt.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu đặc trưng nghĩa của các danh từ mang thuộc tính
nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ (nghiên cứu trường
hợp). Cụ thể là: danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ (bác, cô, ông, bà, cha,
mẹ), nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ (anh hùng, bình dân, cách
mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan);
- Luận án nghiên cứu sự chuyển biến nghĩa của những đơn vị thực từ
mang thuộc tính nghĩa ở ba phạm vi chính là danh từ, đại từ và tính từ (nghiên
cứu trường hợp);
- Ngữ nghĩa của các đơn vị nghiên cứu được thể hiện trong lời định nghĩa
các mục từ thuộc các công trình Từ điển tiếng Việt cũng như từ nghĩa của văn
cảnh/ngữ cảnh mà từ hoạt động.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Luận án áp dụng các phương pháp, thủ pháp sau:
4.1.1 Phương pháp miêu tả
Phương pháp miêu tả được dùng để miêu tả nghĩa của các danh từ và đặc
3
trưng sự chuyển nghĩa của danh từ, đại từ và tính từ trong tiếng Việt.
4.1.2. Phương pháp phân tích thành tố nghĩa
Sử dụng phương pháp này, luận án muốn chỉ ra đặc trưng cấu trúc nghĩa
của từ ở mặt đồng đại và lịch đại. Về mặt đồng đại, nghĩa của từ được phân
tích để chỉ ra các đặc trưng về cấu trúc, thứ bậc của các nghĩa, nét nghĩa. Về
mặt lịch đại, nghĩa của từ được so sánh theo một tiến trình lịch sử. Cụ thể, luận án phân
tích sự chuyển biến nghĩa của từ thuộc từ loại này\từ loại khác được thể hiện
trong lời định nghĩa của các công trình Từ điển tiếng Việt xuất bản từ những
năm 1895-1896 đến 2012 để thấy được tiến trình phát triển nghĩa của các từ
loại thực từ (chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh
từ mang thuộc tính nghĩa tính từ). Từ đó xác định đặc trưng nghĩa của các đơn vị
chuyển nghĩa từ loại đó.
Các phương pháp trên được sử dụng để phân tích sự chuyển nghĩa của
danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính
từ. Quán triệt nghĩa của hai bình diện trên tức là phân tích thành tố nghĩa bao
gồm: nghĩa được cấu tạo từ các nét nghĩa hay các nét nghĩa là thành tố cấu tạo
nghĩa từ vựng. Các nghĩa từ vựng trong hệ thống con ngữ nghĩa tạo nên cơ
cấu nghĩa của từ đa nghĩa. Đây là phương pháp chủ đạo được sử dụng trong
luận án.
4.1.3. Phương pháp nghiên cứu trường hợp (case study)
Trong luận án, các đơn vị từ vựng được lựa chọn nghiên cứu là những
đơn vị mang tính điển hình. Nhóm các danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ
được luận án lựa chọn là bác, cô, ông, bà, cha, mẹ; các danh từ mang thuộc
tính nghĩa tính từ được lựa chọn nghiên cứu là anh hùng, bình dân, cách
mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan.
4.1.4. Thủ pháp thống kê, phân loại
Thủ pháp thống kê được sử dụng để xác định số lượng các danh từ mang
thuộc tính nghĩa đại từ và tính từ trong Từ điển tiếng Việt; tần số xuất hiện các
ngữ cảnh danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và tính từ trong Chương trình
4
tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam.
Các kết quả thống kê được tổng hợp dưới hình thức bảng biểu và được hệ
thống hóa qua các sơ đồ để biểu hiện kết quả nghiên cứu.
4.1.5. Theo suốt các phương pháp, thủ pháp đã nêu trên là hai phương pháp
luận cơ bản trong nghiên cứu khoa học là diễn dịch và quy nạp.
4.2. Nguồn ngữ liệu nghiên cứu
- Để chứng minh cho những nhận định đưa ra, luận án sử dụng tư liệu,
ngữ liệu của Từ điển tiếng Việt (từ điển giải thích nghĩa để phân tích, miêu tả
nghĩa trong từ điển), gồm bảy cuốn từ điển sau: Đại Nam quấc âm tự vị
(Huình Tịnh Paulus Của), Việt Nam tự điển (Hội Khai trí Tiến Đức), Tự điển
Việt Nam phổ thông (Đào Văn Tập), Việt Nam tân tự điển (Thanh Nghị), Từ
điển tiếng Việt (Văn Tân), Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức), Từ điển tiếng Việt
(Hoàng Phê). Đây là các công trình Từ điển ngữ văn điển hình, được biên
soạn bởi các nhà ngôn ngữ học có uy tín và từ điển trải dài theo tiến trình thời
gian lịch sử từ cuối thế kỉ XIX cho đến nay. Chúng tôi cho rằng, các công
trình từ điển trên cung cấp một bức tranh toàn cảnh và thành tựu của Từ điển
tiếng Việt theo tiến trình thời gian đầy đủ và chân thực nhất. Đó cũng là
nguồn ngữ liệu khá đầy đủ để chúng tôi thực hiện nghiên cứu hiện tượng
chuyển nghĩa của luận án. Việc đối chiếu ý nghĩa của các từ ngữ được ghi
trong bảy công trình từ điển nói trên và được trải dài theo nhiều giai đoạn
khác nhau trong lịch sử là một trong những cơ sở cho thấy tiến trình phát triển
nghĩa của các đơn vị từ vựng trong tiếng Việt. Trên cơ sở định nghĩa của các
từ điển này, luận án rút ra được những nét nghĩa để so sánh, tìm ra nét nghĩa
nào thuộc danh từ, nét nghĩa nào thuộc đại từ và tính từ.
- Nguồn ngữ liệu nữa được luận án sử dụng là các ngữ cảnh có sự hiện
diện của các đơn vị từ vựng đang được xem xét. Để thực hiện được điều này,
luận án khai thác và sử dụng các ngữ cảnh/văn cảnh trong Chương trình tra
5
cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam1.
Đây là chương trình quản lý hơn ba mươi triệu âm tiết thuộc các từ ngữ tiếng
Việt trong nhiều thể loại (truyện, thơ, ca dao, báo chí, ...). Các nét nghĩa được
thể hiện trong lời định nghĩa của từ điển và trong những văn cảnh có liên quan.
Trên cơ sở đó luận án có nguồn ngữ liệu về các đơn vị chuyển nghĩa
của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ. Các đơn vị từ vựng này bản chất là nghĩa danh từ nhưng mang thuộc
tính nghĩa đại từ và nghĩa tính từ. Cụ thể, luận án thu thập được 13 trường hợp
danh từ chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa đại từ (đại từ xưng hô) và 336
trường hợp danh từ chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa tính từ (Có phụ lục
kèm theo). Tuy nhiên, vì dung lượng của luận án, chúng tôi chọn sáu trường
hợp danh từ chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa đại từ (bác, cô, ông, bà, cha,
mẹ) và tám trường hợp danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ (anh hùng, bình
dân, cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan) để miêu tả và phân tích. Để
minh chứng cho những nhận định, luận án thu thập 48 ngữ cảnh, trong đó có
26 ngữ cảnh liên quan danh từ chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa đại từ và
22 ngữ cảnh liên quan danh từ chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa tính từ
(Có phụ lục kèm theo).
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
5.1. Đóng góp về mặt luận
Kết quả nghiên cứu của luận án góp thêm vào việc vận dụng luận về
ngôn ngữ học trong các lĩnh vực ngữ nghĩa học, từ điển học thực hành và các
lĩnh vực nghiên cứu đa ngành, đa phạm vi trong ngôn ngữ học.
5.2. Đóng góp về mặt thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng trong việc học tập,
1 Được trích xuất từ Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam. Đây là kho ngữ liệu thực tế được rút ra từ đầu sách, truyện, bài viết, bài in, báo mạng,... nhằm mục đích tra cứu ngữ cảnh của các từ, cụm từ.
6
nghiên cứu và giảng dạy tiếng Việt. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu này cũng
đóng góp vào việc biên soạn các mục từ trong từ điển giải thích được chính
xác, khoa học.
6. Ý nghĩa của luận án
6.1. Ý nghĩa luận
- Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ giải thích và làm sáng tỏ đặc trưng
của sự chuyển nghĩa dựa vào các từ loại chính của thực từ đó là danh từ, đại
từ và tính từ. Xác định bản chất nghĩa từ vựng danh từ mang thuộc tính nghĩa
đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ;
- Việc nghiên cứu góp phần làm rõ xu hướng biến đổi và phát triển
nghĩa từ vựng của tiếng Việt trong tiến trình thời gian;
- Bên cạnh đó, kết quả của luận án cũng mang ý nghĩa khác, là: (i) Góp
phần chứng minh sự biến đổi về nghĩa không ngừng trong hệ thống ngôn ngữ;
(ii) Thể hiện được sự nghiên cứu đa ngành, đa phạm vi trong ngôn ngữ, theo
hướng kết hợp đồng đại và lịch đại.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án chỉ rõ sự biến đổi và phát triển nghĩa
trong nội bộ giữa các từ loại chính; sự biến đổi và biện chứng của quá trình
chuyển nghĩa. Nó cũng giúp cho việc xác định cương vị của các đơn vị từ
vựng theo đặc trưng ngữ nghĩa.
Như vậy, kết quả nghiên cứu của luận án như một gợi ý có căn cứ khoa
học, một mặt giúp cho những nhà từ điển học có thể ứng dụng cụ thể vào việc
biên soạn từ điển; mặt khác góp phần giúp cho người học và người dạy tiếng Việt
trong nhà trường nắm bắt tốt hơn về nghĩa từ vựng.
7. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Nguồn ngữ liệu
khảo sát và Phụ lục, nội dung của luận án được thể hiện ở ba chương sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và Cơ sở luận
7
Luận án tổng quan tình hình nghiên cứu trong và ngoài nước (tiếng
Anh, tiếng Hán) về hiện tượng chuyển nghĩa. Bên cạnh đó, luận án cũng hệ
thống hóa quan điểm luận về ngữ nghĩa học từ vựng; hiện tượng chuyển
nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa từ vựng trong tiếng Việt; nghĩa của từ trong
từ loại tiếng Việt.
Chương 2: Đặc trưng chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính
nghĩa đại từ (Nghiên cứu trường hợp)
Luận án xác định phạm vi chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính
nghĩa của đại từ, nghiên cứu trường hợp với các từ chỉ quan hệ thân tộc, cụ thể
nghiên cứu các trường hợp sau: bác, cô, ông, bà, cha, mẹ. Khảo sát, thống kê và
phân tích sự chuyển biến nghĩa mang thuộc tính nghĩa đại từ và được minh
chứng trong các từ điển. Từ đó rút ra một số nhận xét thực tiễn về sự chuyển
biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa của đại từ.
Chương 3: Đặc trưng chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính
nghĩa tính từ (Nghiên cứu trường hợp)
Luận án tiến hành phân tích sự chuyển biến nghĩa của danh mang thuộc
tính nghĩa của tính từ và nghiên cứu các trường hợp sau: anh hùng, bình dân,
cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan. Trên cơ sở đó đưa ra một số nhận
xét bước đầu về cơ chế biến đổi nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa của tính
từ trong tiếng Việt.
8
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. Dẫn nhập
Trong chương này, sau khi điểm qua tình hình nghiên cứu trong và ngoài
nước về hiện tượng chuyển nghĩa, luận án xác định những tri thức luận làm
tiền đề triển khai đề tài luận án, tập trung các vấn đề sau: Lý thuyết ngữ nghĩa
học từ vựng; Hiện tượng chuyển nghĩa và chuyển nghĩa từ vựng trong tiếng
Việt; Nghĩa của từ trong từ loại tiếng Việt. Trên cơ sở đó, luận án khảo sát và
nghiên cứu chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ
mang thuộc tính nghĩa tính từ trong tiếng Việt.
Trước tiên, chúng tôi xác định nội hàm của thuật ngữ "chuyển nghĩa"
trong luận án. Chuyển nghĩa (Change meaning, shift meaning) còn gọi biến
đổi nghĩa (Semantic Change). Chuyển nghĩa theo cách hiểu của chúng tôi trong
luận án này là sự chuyển biến nghĩa (sự biến đổi nghĩa) thuộc từ loại thực từ.
Chuyển biến là "biến đổi sang trạng thái khác với trước, thường là theo hướng
tích cực" [80, tr. 188]. Như vậy, giá trị của sự chuyển biến nghĩa là sự thay
đổi nội dung nghĩa, tức là có thể chuyển biến nghĩa của danh từ/đại từ và danh
từ/tính từ, nghĩa từ vựng này/nghĩa từ vựng khác qua một số nhóm từ cụ thể là
nhóm danh từ thân tộc/đại từ xưng hô và nhóm danh từ có chuyển nghĩa tính
chất. Luận án sẽ đi vào tìm hiểu sự chuyển biến nghĩa ấy trong tiếng Việt -
một loại hình ngôn ngữ đơn lập phân tiết điển hình.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan
Hiện tượng chuyển nghĩa nói chung đã được các nhà ngôn ngữ học trên
thế giới và Việt Nam quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, việc nghiên cứu
chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang
thuộc tính nghĩa tính từ chưa được nghiên cứu sâu.
9
1.2.1. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa ở ngoài nước và
trong nước
1.2.1.1. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa ở ngoài nước
Điểm qua các công trình nghiên cứu chuyển nghĩa trên thế giới, luận án
chọn hai ngôn ngữ là tiếng Anh - thuộc ngôn ngữ biến hình và tiếng Hán - ngôn
ngữ cùng loại hình với tiếng Việt - ngôn ngữ đơn lập. Mục đích chọn hai loại
hình ngôn ngữ khác nhau để chứng minh có sự chuyển nghĩa trong các ngôn
ngữ, tuy hình thức biểu hiện của mỗi ngôn ngữ không giống nhau.
a. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Anh
Hiện tượng chuyển nghĩa là nội dung được quan tâm trong các nghiên
cứu về nghĩa của từ, biến đổi và phát triển nghĩa. Nghiên cứu về chuyển nghĩa
thường được gắn với nghiên cứu về nghĩa hoặc phát triển nghĩa của từ.
Nghiên cứu về hiện tượng này trong tiếng Anh đã có từ thời cổ đại, tiếp tục
phát triển ở đầu thế kỉ XIX và phát triển mạnh đến ngày nay. Tuy nhiên, từ
góc độ ngôn ngữ học cấu trúc, nghiên cứu về nghĩa nói chung và nghiên cứu
hiện tượng chuyển nghĩa của từ nói riêng, có thể phân thành ba thời kì chính
là thời kì tiền cấu trúc luận, thời kì cấu trúc luận và thời kì hậu cấu trúc luận.
Thời kì tiền cấu trúc luận, các nghiên cứu về chuyển nghĩa của từ chủ
yếu đi tìm các quy luật chuyển nghĩa của từ, trước hết từ góc độ thời gian lịch
sử, như Agathon Benary, Karl Reisig, Oskar Hey, Friedrich Haase, v.v. Tiêu
biểu cho giai đoạn này là công trình Essai de Sesmantique (Sciece des
significations) của Michel Breál [154]. Cùng với nghiên cứu các quy luật
chuyển nghĩa của từ, các tác giả cũng đã giải sự chuyển nghĩa theo quan điểm
lịch sử. Nghiên cứu và giải sự chuyển nghĩa trong giai đoạn này gắn với các
tên tuổi như Ch.Ogden, V.Lady Welly, Peirce, Richards, v.v. Trong thời kì
tiền cấu trúc luận, các tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân của sự chuyển nghĩa,
trong đó nhấn mạnh đến nhân tố biểu cảm.
Thời kì cấu trúc luận, các nhà nghiên cứu tiếp tục quan tâm đến sự
10
chuyển nghĩa của từ. Tuy nhiên, nghiên cứu ngữ nghĩa giai đoạn này được
thực hiện cùng với tâm lý học thực nghiệm và logic toán. Nghiên cứu ngữ
nghĩa nói chung, sự chuyển nghĩa nói riêng gắn với các nhà nghiên cứu
Bloomfield, A.Taski, B. Russell, G.Frege, R.Montague, v.v. Thời kì này, các
tác giả cũng chỉ ra nguyên nhân của sự chuyển nghĩa, khác với thời kì tiền cấu
trúc luận nhấn mạnh nhân tố biểu cảm, trong giai đoạn này, các nhà nghiên
cứu lại nhấn mạnh đến nhân tố hiệu quả.
Kế thừa các kết quả nghiên cứu của các nhà đi trước, những năm tiếp
theo của thế kỉ XX, có nhiều nghiên cứu về hiện tượng chuyển nghĩa của từ.
Khác với những nghiên cứu thời kì tiền cấu trúc luận và cấu trúc luận, nghiên
cứu ngữ nghĩa theo hướng logic, các nghiên cứu giai đoạn này được mở rộng
ra nhiều lĩnh vực khác, như triết học, tâm lý học, lịch sử, xã hội học, v.v.
Nghiên cứu chuyển nghĩa theo hướng này được khởi xướng bởi W. Wundt
(1990), sau đó là các tác giả khác như K.Nyrop (1913), H.Paul (1920). Những
nghiên cứu ban đầu này đã có tác dụng thúc đẩy nghiên cứu chuyển nghĩa.
Nghiên cứu chuyển nghĩa theo hướng này đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng, đặc biệt là thiết lập các quy luật biến đổi nghĩa. Nhiều nhà nghiên cứu
đã bàn đến nội dung này, như G.Stern; C. Reisig; F. Hasse; v.v. Tiêu biểu cho
nghiên cứu theo hướng này là công trình Meaning and change of meaning:
with special reference to the English language của G. Stern (1931) [146],
trong đó cung cấp những lý thuyết cơ sở về ngữ nghĩa, các quy luật chuyển
nghĩa và giải thích các quy luật chuyển nghĩa, sau đó là thảo luận về chức
năng của ngôn ngữ, ngữ nghĩa của từ, nguyên nhân và điều kiện biến đổi
nghĩa,... Ngoài ra, cuốn sách còn chỉ ra bảy lớp hạng biến đổi nghĩa, bao gồm:
sự thay thế (substitution), sự loại suy (analogy), rút ngắn (shortening), định
danh (nomination), chuyển đổi (transfer-regular), sự đổi trật tự (permutation),
sự tương xứng (adequation). Sau này, S. Ullmann trong công trình Các
nguyên lý Ngữ nghĩa học [116] kế thừa và chỉ ra các nhân tố làm thay đổi
11
nghĩa của từ gồm: cách gián đoạn di truyền (discontinuous), sự mơ hồ trong ý
nghĩa (vagueness), mất nguồn đối (loss of motivation), tồn tại đa nghĩa
(flexibility), văn cảnh tối nghĩa (ambiguous contexts) và cấu trúc của vốn từ
(structure of the vocabulary).
Theo Wellander - người đại diện cho khuynh hướng nghiên cứu theo
lịch sử quan niệm: “sự chuyển hóa ý nghĩa là một quá trình lịch sử, chỉ khi
nào nó được chứng thực trong quá trình thực tế trưởng thành của nó, quá
trình này mới được trưởng thành một cách vừa ý” [Dẫn theo Đào Duy Anh, 1,
tr.50]. Với phương châm này, các nhà nghiên cứu chú trọng đi tìm sự trả lời
cho câu hỏi là ý nghĩa mới của từ nảy sinh như thế nào trong lịch sử. Họ cho
rằng kết quả của quá trình chuyển nghĩa được bảo lưu trong ý nghĩa mới của
từ. Các nhà nghiên cứu về hiện tượng này cũng đi đến thống nhất là nguyên
nhân chủ yếu của hiện tượng chuyển nghĩa là do sự biến đổi của lịch sự xã
hội. Lịch sử xã hội thay đổi kéo theo sự thay đổi/biến đổi/ chuyển nghĩa của
từ. Cùng với việc đi tìm nguyên nhân nảy sinh ý nghĩa của từ, các tác giả
cũng đưa ra các nhận định khác nhau về các hình thức phát triển nghĩa của từ.
Mặc dù vẫn còn một số tranh cãi, tuy nhiên theo nhiều nhà ngôn ngôn ngữ
trong tiếng Anh có bốn hình thức phát triển nghĩa là mở rộng, thu hẹp, chia
nhánh và chuyển đổi.
Một nội dung quan trọng được các nhà ngôn ngữ học quan tâm khi
nghiên cứu nghĩa của từ nói chung, sự chuyển nghĩa của từ nói riêng chính là
tìm ra các những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến sự phát
triển nghĩa của từ. Từ những góc nhìn khác nhau, đối với mỗi ngôn ngữ khác
nhau, các tác giả đưa ra những nguyên nhân ảnh hưởng khác nhau. Theo
Aitchison, có hai nguyên nhân chính nguyên nhân chủ quan do đặc điểm
thuộc về bản chất của ngôn ngữ và tâm lý của người sử dụng và nguyên nhân
khách quan thuộc về yếu tố xã hội. Đồng quan điểm trên, nhưng F.de Sausure
lại nhấn mạnh đến yếu tố dân tộc, theo ông: “phong tục của một dân tộc có
12
tác động mạnh đến ngôn ngữ và mặt khác trong chừng mực khá quan trọng
chính ngôn ngữ làm nên dân tộc” [36]. Ngược lại một số tác giả khác, tiêu
biểu là Fromkin cho rằng có hai nguyên nhân chính cho hiện tượng này là do
sự tái cấu trúc ngôn ngữ trong quá trình học tiếng của trẻ và sự thay đổi tâm
sinh lý của người học qua nhiều thế hệ. Lyons cho rằng nguyên nhân của sự
thay đổi ngôn ngữ chính là sự thay đổi của xã hội.
Những năm gần đây, hiện tượng chuyển nghĩa được nghiên cứu nhiều
hơn với nhiều nội dung hơn, có thể kể đến các tác giả như J. Williams (1976,
1980), A. Lehrer (1974, 1981), A. F. Kitay (1987) (nghiên cứu theo trường
nghĩa); hay như E. Sweeter (1990), B. Heine (1991), S. Kemmer (1992), P.J.
Hopper và E.C. Traugott (1993) (nghiên cứu theo hướng ngữ pháp hóa và
ngữ dụng học), ...
Như vậy, nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Anh đã đạt
được nhiều kết quả quan trọng. Các nghiên cứu này đã đứng từ nhiều góc
nhìn khác nhau như logic, tâm lý, lịch sử, triết học, xã hội,... để bàn luận, giải
thích các quy luật chuyển nghĩa, các lớp nghĩa và các nguyên nhân chuyển
nghĩa. Hiện tượng chuyển nghĩa nói riêng, nghĩa của từ nói chung luôn luôn
vận động không ngừng nên việc nghiên cứu này vẫn còn là công việc tiếp tục
trong tương lai của các nhà nghiên cứu.
b. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Hán
Những năm gần đây, hiện tượng chuyển nghĩa từ trong tiếng Hán cũng
được tập trung nghiên cứu và các nghiên cứu đó chủ yếu tiếp cận từ hai góc độ:
cấu trúc truyền thống và tri nhận luận. Từ góc độ cấu trúc truyền thống thể
hiện trên bốn phương diện sau: (i) Nguồn gốc đặc trưng của hiện tượng chuyển
nghĩa từ trong tiếng Hán; (ii) Bản chất của chuyển nghĩa và tính chất chuyển
hoá từ là hoạt dụng hay kiêm loại, cách sử dụng là dùng lâm thời hay dùng cố
định; (iii) Đặc trưng ngữ nghĩa của hiện tượng chuyển nghĩa; (iv) Từ góc độ từ
vựng - ngữ pháp và ngữ dụng để tìm hiểu quá trình chuyển nghĩa từ. Từ góc độ
13
tri nhận luận, các nhà Hán ngữ tập trung vào chuyển nghĩa trong nội bộ thực từ
và các nghiên cứu tập trung chủ yếu là từ danh từ/động từ/tính từ.
Dựa vào đặc trưng ngữ nghĩa, theo Trình Trì (2015) [163] có thể thấy
sự thay đổi của nghĩa gọi tên và nghĩa tính chất là sơ sở của quá trình chuyển
nghĩa từ loại từ danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ. Đàm Cảnh Xuân
(2001) [157] chỉ ra nét nghĩa rộng của một từ bao gồm hai yếu tố là nghĩa
khái niệm (nghĩa hẹp) và nghĩa kèm theo, tương ứng với nghĩa của danh từ và
nghĩa của tính từ. Nghĩa khái niệm là nghĩa cơ bản, phản ánh đặc trưng của sự
vật, hiện tượng. Tác giả đưa ra công thức của “nghĩa khái niệm = nghĩa tố tính
chất (còn gọi là nghĩa tính chất nội tại) + nghĩa tố thuộc loại”. Nghĩa kèm theo
sẽ bao gồm nghĩa nội tại (còn gọi nghĩa tính chất kèm theo), nghĩa tình cảm,
nghĩa phong cách, v.v. Khi nghĩa tính chất nội tại và nghĩa kèm theo kết hợp
với nhau để trở thành nghĩa tính chất cho nên “có một số từ nếu nghĩa tính
chất kèm theo dùng lâu, dùng nhiều sẽ dần dần dẫn đến xu thế ổn định, thì có
khả năng cố định trong nghĩa của từ, từ đó chuyển biến nghĩa tính chất nội
tại”. Trong công trình "Cơ sở ngữ nghĩa và các vấn đề liên quan đến danh từ
chuyển loại tính từ" (1998), Đàm Cảnh Xuân cũng chỉ ra: nghĩa tính chất các
tiểu loại danh từ có thứ tự từ mạnh đến yếu, từ danh từ trừu tượng > danh từ
chỉ người > danh từ chỉ vật > danh từ chuyên hữu [156, tr. 368-377]. Đây là
một trong những quan điểm đầu tiên về sự hình thành của hiện tượng chuyển
nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ trong tiếng Hán hiện đại và
có ý nghĩa lớn. Sau này có hàng loạt các tác giả cũng kế thừa quan điểm đó
như Trương Quốc Hiến (2006), Giả Quân Phương (2008), Kasevich VB., v.v.
Tiếp cận từ góc độ tri nhận, có nhiều hướng nghiên cứu mới. Từ luận
phạm trù hoá trong ngôn ngữ, Lưu Chính Quang (2006) đưa ra một số đặc
trưng cơ chế tri nhận của hiện tượng danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
trong tiếng Hán. So với các nghiên cứu trước đây, công trình này không chỉ
miêu tả mà giải thích cơ chế của sự chuyển nghĩa bao gồm “tính nhị nguyên
14
là phi phạm trù hoá và kết cấu khái niệm” [160]. Điều này xuất phát từ đặc
trưng của mỗi từ loại, danh từ với nghĩa định danh, gọi tên sự vật, hiện tượng;
còn tính từ mang nghĩa tính chất, trần thuật.
Về loại hình chuyển nghĩa từ danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ, có
nhiều quan điểm khác nhau. Trình Quyên (2004) trong “Khảo sát đo lường
nét nghĩa chức năng từ ngữ trong “Từ điển tiếng Hán hiện đại”’ đã đưa ra các
loại hình chuyển biến nghĩa là: 1. “từ sự vật cụ thể dẫn đến chỉ sự vật có trạng
thái nào đó”; 2. “từ sự vật trừu tượng dẫn đến chỉ sự vật có tính chất nào đó”
[162]. Theo tác giả Giả Quân Phương (2008), loại hình chuyển nghĩa từ loại có
ba loại là “loại bao hàm ngữ tố, loại hàm chứa ngữ nghĩa, loại có ngữ cảnh”
[158]. Mỗi tác giả dựa trên quan điểm và lập luận khác nhau để phân chia loại
hình chuyển nghĩa từ loại, điểm thống nhất trong nghiên cứu của họ đó là dựa
vào đặc trưng từ loại để phân chia.
Theo Nhậm Kha (2016), không chỉ dựa vào đặc trưng ngữ nghĩa để
giải hiện tượng chuyển nghĩa, một số nghiên cứu chỉ ra phương thức và con
đường chuyển nghĩa của danh từ có thuộc tính tính từ. Muốn thực hiện được
quá trình danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ cần căn cứ vào đặc tính
(special) và lượng tính (quality) bởi đây là điều kiện tiên quyết để phát sinh
sự chuyển hoá [159].
Như vậy, các tác giả kể trên đã nghiên cứu theo hướng chuyển nghĩa
dẫn đến hệ quả biến đổi nghĩa và cao hơn là dẫn đến chuyển loại từ thuộc từ
loại danh từ sang từ thuộc từ loại khác (tính từ). Các công trình nghiên cứu
theo hướng truyền thống đã xuất phát từ ngữ nghĩa để giải quá trình chuyển
nghĩa danh từ có thuộc tính tính từ. Tuy nhiên, có thể thấy, những công trình
nghiên cứu kể trên mới chỉ dừng lại ở việc miêu tả, chưa đi sâu giải thích đặc
điểm, cũng như đưa ra đặc trưng cơ bản khi chuyển nghĩa danh từ có thuộc
tính tính từ.
15
1.2.1.2. Tình hình nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa ở trong nước
Khi nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa, các nhà Việt ngữ học tập trung
vào hai khuynh hướng: chuyển nghĩa trong nội bộ từ đa nghĩa và chuyển
nghĩa là biến đổi, chuyển biến nghĩa dẫn đến chuyển loại.
Khuynh hướng thứ nhất, các công trình nghiên cứu về chuyển nghĩa
trong nội bộ từ đa nghĩa thường bàn về các nội dung như phương thức chuyển
nghĩa, nguyên nhân chuyển nghĩa, mối quan hệ giữa nghĩa cũ và nghĩa mới.
Có thể kể đến các nghiên cứu của Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp,...
Nghiên cứu về phương thức chuyển nghĩa đã có nhiều công trình quan
tâm, hầu hết các nhà ngôn ngữ học đều cho rằng trong tiếng Việt có hai
phương thức chuyển nghĩa dựa trên quan hệ liên tưởng tương đồng và liên
tưởng tương cận đó là phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ và phương thức
chuyển nghĩa hoán dụ. Các nhà nghiên cứu cũng cho rằng mỗi ngôn ngữ có
các phương thức, cách thức chuyển nghĩa riêng. Dựa trên sự liên tưởng khác
nhau do sự chi phối của nền văn hóa dân tộc tạo nên các cách thức chuyển
nghĩa khác nhau của từ. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này, có thể kể đến
các công trình như Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và tư duy của
Nguyễn Đức Tồn [104]; Tâm lý văn hóa người Việt phản ánh chuyển nghĩa từ
của Kỳ Quảng Mưu [68]; Về hiện tượng tốt nghĩa và xấu nghĩa trong tiếng
Việt của Hoàng Dũng và Tăng Thị Tuyết Mai [28], v.v.
Nguyên nhân của sự chuyển nghĩa cũng là vấn đề được các tác giả đề cập
đến khi bàn về sự phát triển nghĩa của từ. Theo Đỗ Hữu Châu (1998), sự phát
triển nghĩa của từ tiếng Việt vì nguyên nhân đơn giản nhằm đáp ứng nhu cầu
tạo thêm từ mới giải quyết mâu thuẫn giữa một bên là tính vô hạn của sự vật
hiện tượng trong thực tế khách quan với một bên là tính hữu hạn của các yếu
tố ngôn ngữ. Theo tác giả, động lực thúc đẩy sự chuyển nghĩa chính là: 1/“Do
bản thân sự thay đổi của sự vật hiện tượng được gọi tên làm cho từ phải thay
đổi cấu trúc khái niệm”; 2/ “Do sự kiêng kỵ cũng khiến nghĩa của từ biến đổi”.
16
Tuy nhiên, tác giả cũng nhấn mạnh: “Động lực chủ yếu thúc đẩy sự chuyển
đổi ý nghĩa vẫn là những nhu cầu giao tiếp” [16, tr.125]. Đồng quan điểm trên,
tác giả Nguyễn Thiện Giáp (1998) cho rằng: chuyển nghĩa do nhiều nguyên
nhân khác nhau nhưng có ba nguyên nhân quan trọng nhất chính là “sự biến
đổi và phát triển không ngừng của đời sống, sự phát triển của nhận thức và sự
phát triển của hệ thống ngôn ngữ” [38, tr. 80].
Ngoài ra, khi nghiên cứu so sánh sự nghĩa chuyển trong các ngôn ngữ
khác nhau cũng được nhiều nghiên cứu bàn đến. Tác giả Lê Quang Thiêm
trong công trình Phân tích đối chiếu ngữ nghĩa từ đa nghĩa chỉ quan hệ họ
hàng Bungari - Việt [95] đã tiến hành đối chiếu giữa tiếng Bulgaria và tiếng
Việt. Công trình là tiền đề cho nhiều nghiên cứu về đối chiếu từ ngữ nói
chung, sự chuyển nghĩa của từ nói riêng giữa các ngôn ngữ. Tiếp theo nghiên
cứu này, có nhiều nghiên cứu về đối chiếu nghĩa, đó là Đặng Đức Hoàng (Đối
chiếu tiếng Anh và tiếng Việt trên bình diện chuyển đổi ngữ nghĩa) [50], Lê Thị
Thanh Tâm (Cơ sở tri nhận của hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Việt (trên
cứ liệu nhóm từ định hướng và nhóm từ vị trí, có liên hệ với tiếng Nga) [87], v.v.
Tác giả Lý Toàn Thắng cũng có nhiều nghiên cứu về hiện tượng chuyển
nghĩa, ông đã so sánh hiện tượng chuyển nghĩa của một số từ chỉ bộ phận cơ
thể người trong tiếng Việt với các từ chỉ bộ phận đồ vật và định vị không gian
với các từ tương ứng trong tiếng Anh, thông qua nó để thấy được cách nhận
thức về hiện thực của từng dân tộc [91].
Nghiên cứu về sự chuyển nghĩa của một nhóm từ, nghiên cứu sự
chuyển nghĩa trong một phạm vi cũng được nhiều tác giả quan tâm, như
nghiên cứu các từ chỉ không gian, Nguyễn Đức Dân (1992) trong “Triết lý
tiếng Việt: không gian - điểm nhìn và sự chuyển nghĩa của từ” [24] đã nghiên
cứu những quan hệ không gian của nhóm từ chỉ hướng không gian. Nguyễn
Lai trong cuốn sách “Nhóm từ chỉ hướng vận động trong tiếng Việt” [60] đã
đi sâu nghiên cứu sự phát triển nghĩa của nhóm từ này đồng thời với sự phát
17
triển nhận thức, tư duy của người Việt. Vũ Thị Tuyết trong luận án "Đặc điểm
ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu người Việt" [111] cũng bàn đến
sự chuyển nghĩa của từ ngữ chỉ thực vật và vật thể nhân tạo trong ca dao tình
yêu người Việt, v.v.
Khuynh hướng thứ hai, chuyển nghĩa là biến đổi, chuyển biến nghĩa
dẫn đến chuyển loại. Tiêu biểu trong công trình nghiên cứu của Vũ Văn Thi,
Trần Thị Nhàn, ...
Năm 1995, trong luận án Phó tiến sĩ khoa học Ngữ văn “Quá trình
chuyển hóa của một số thực từ thành giới từ trong tiếng Việt” của tác giả Vũ
Văn Thi đã đề cập tới sự “chuyển hóa”. Chuyển hóa tức là “biến đổi sang
dạng hoặc hình thái khác” [93, tr. 188], đây thực chất là hiện tượng chuyển
loại. Tác giả nghiên cứu quá trình “chuyển hóa” của một số thực từ sang giới
từ (không nói đến hư từ vì quá nhiều từ loại nên lấy trường hợp điển hình là
giới từ). Về đặc điểm của phương thức chuyển hóa và hư hóa trong quá trình
ngữ pháp hóa đó là: “các từ mất dần nghĩa từ vựng, ý nghĩa ngữ pháp được
tăng cường trong chức vụ ngữ pháp mới, trong một cấu trúc cú pháp mới
nhằm mở rộng khả năng diễn đạt của câu, cho nên có thể gọi đây là quá trình
hư hóa - ngữ pháp hóa. Cơ chế của quá trình này là việc sử dụng từ vào một
cấu trúc mới khác thường tạo nên hiện tượng mờ dần và mất dần nghĩa trong
quá trình sử dụng” [93, tr. 144]. Từ quan điểm đồng đại và lịch đại, để khảo
sát các nhóm từ chỉ hướng vận động (đi, ra, vào, lên, xuống, đến, tới, sang,
qua, về), nhóm từ chỉ vị trí (trên, dưới, trong, ngoài), từ chỉ sự tồn tại (“ở”),
từ chỉ quan hệ sở hữu (“của”), từ chỉ sự ban phát - tiếp nhận (“cho”). Luận án
này khai thác trên nguồn tư liệu là các văn bản thơ chữ Hán, chữ Nôm, thơ
văn hiện đại và từ điển của Alexandre de Rhodes. Trong quá trình nghiên cứu
về quá trình chuyển hóa, tác giả sử dụng thao tác cải biên để thấy được sự
chuyển biến về ngữ nghĩa và sự chuyển đổi về chức vụ cú pháp. Từ đó, tác
18
giả đi đến nhận định cơ chế của quá trình hư hóa - ngữ pháp hóa đó là “việc
sử dụng từ vào một cấu trúc khác thường tạo nên hiện tượng mờ dần và mất
dần nghĩa trong quá trình sử dụng. Song song với quá trình trên là quá trình hình
thành và ổn định chức năng mới của từ trong cấu trúc theo mức độ hư hóa khác
nhau” [93, tr. 144]. Tác giả đưa ra ví dụ:
Về nhà Chạy về nhà Thảo luận về vấn đề này
Động từ Phó từ chỉ hướng Giới từ
Kết quả của luận án cho thấy, quá trình hư hóa tiếng Việt có một số
phương thức chuyển hóa cơ bản và các phương thức này được thể hiện qua 3
khuynh hướng đó là:
(a) Phương thức chuyển hóa bắt đầu từ một nghĩa tố với nhiều bước
chuyển hóa, bước hư hóa trước làm tiền đề cho bước hư hóa sau (như sự
chuyển hóa của từ: về, đến, tới, vào, lên, xuống, cho).
(b) Phương thức chuyển hóa bắt đầu từ các nghĩa tố của từ, mỗi nghĩa
tố lại tạo thành một hướng chuyển hóa riêng hay một tiền đề có thể tạo nên
các xu hướng chuyển hóa khác nhau (như: đi, ra, qua).
(c) Phương thức chuyển hóa đơn giản thực từ - giới từ; dạng quá độ
cũng là dạng hiện nay của từ (như: của, ở, trên, dưới, trong, ngoài).
Có thể thấy, luận án “Quá trình chuyển hóa của một số thực từ thành
giới từ trong tiếng Việt” đã thấy nhiều điểm mới: xác định cơ chế chuyển hóa từ
thực từ sang giới từ nói riêng và xác định cơ chế chuyển hóa thực từ thành hư từ
tiếng Việt nói chung; đặc điểm, phương thức chuyển hóa cũng như mức độ hư
hóa của quá trình này; quá trình chuyển hóa giải tính “đa chức năng” của từ để
từ đó xác định chức năng của từ; thấy được đặc điểm riêng của giới từ tiếng Việt
và vai trò của nó đối với sự phát triển của tiếng Việt.
Năm 2004, trên cơ sở luận án tiến sĩ Ngữ văn “Hiện tượng chuyển hóa
từ thực từ sang hư từ trong tiếng Việt (theo lý thuyết ngữ pháp hóa)” [75], tác
giả Trần Thị Nhàn đã phát triển thành chuyên khảo “Lý thuyết ngữ pháp hóa
19
và thực trạng ngữ pháp hóa một số từ trong tiếng Việt” (2009) [76] nhằm giới
thiệu khái niệm và nội dung cơ bản của thuyết ngữ pháp hóa
(grammaticalization). Thông qua việc khảo sát, miêu tả hiện tượng chuyển
hóa thực từ sang hư từ trong tiếng Việt, tác giả đưa ra nhận định hiện tượng
ngữ pháp hóa các thực từ là “hiện tượng về những từ có cùng vỏ ngữ âm, có
sự liên hệ ít nhiều về ngữ nghĩa, được sử dụng với ý nghĩa và chức năng khác
nhau trong các cấu trúc cú pháp và các kiểu câu khác nhau” [76, tr. 233].
Đây là một đặc trưng có tính chất loại hình của tiếng Việt, được nghiên cứu
trên quan điểm đồng đại, thể hiện trong cấu trúc ngữ đoạn, trong việc tạo câu.
Kết quả nghiên cứu cũng chỉ rõ, “giữa các từ loại và ngay trong nội bộ từ loại
thực từ, các yếu tố từ vựng có con đường ngữ pháp hóa và các mức độ ngữ
pháp hóa khác nhau trong cấu trúc câu và trong sử dụng” [76, tr. 235]. Cùng
là một sự chuyển hóa nhưng bao quát hơn là thực từ sang hư từ, điểm này
khác với công trình nghiên cứu của tác giả Vũ Văn Thi là hư từ (cụ thể là giới
từ). Tác giả Trần Thị Nhàn đi vào hai lớp lớn của từ đó là thực từ và hư từ,
thấy được sự chuyển hóa về mặt ngữ pháp. Tác giả đã phân tích con đường
ngữ pháp hóa của một số danh từ (của, bằng, trên, dưới, trong, ngoài), một số
động từ (cho, có, được, mất, ra, vào, lên, xuống, đi, đến, lại, về), một số tính
từ (liền, vừa, mới, đã). Ví dụ, có thể thấy con đường ngữ pháp hóa của từ
“của” đó là:
1. Của là danh từ: Của biếu là của lo, của cho là của nợ.
2. Của mở đầu cho một giới ngữ trong kết cấu danh ngữ: Mọi điều
tiếng xấu xa của cả gia đình đều đổ lên đầu anh.
3. Của trong kết cấu động ngữ làm thành phần câu, từ “của” đi liền sau
các động từ vị ngữ kiểu: cướp, chiếm, mượn, vay, gửi, nhận, nợ, lấy, v.v. có
chức năng đánh dấu bổ ngữ chỉ người bị tổn thất: Tôi có mượn của bà Hoàng
Thị Sẹo một đôi hoa tai bằng vàng.
20
4. Giới ngữ mở đầu bằng của có chức năng tham gia vào cấu tạo câu và
cấu tạo ngữ đoạn lớn hơn với tư cách một thành phần phụ. Có thể làm chủ
ngữ (Của tôi tốt hơn của anh); làm vị ngữ (Bà choáng người. Hai chiếc giầy
là của cùng một chân); làm bổ ngữ (Bắt lấy nó! Ối ông đội xếp ơi! Nó ăn cắp
của tôi); làm định ngữ trong ngữ đoạn danh từ (Mọi sự nhầm lẫn của kẻ lớn
đều do quá tham mà ra).
Những đóng góp của các tác giả Vũ Văn Thi, Trần Thị Nhàn không chỉ
chứng minh có hiện tượng ngữ pháp hóa trong tiếng Việt mà còn chứng minh
có hiện tượng chuyển nghĩa. Có thể nhận thấy các công trình nghiên cứu trên
chỉ nghiên cứu về lĩnh vực ngữ pháp và tập trung chuyển nghĩa giữa thực từ
sang hư từ hoặc hư từ sang hư từ chứ chưa nghiên cứu trong nội bộ thực từ.
Điểm qua các công trình nghiên cứu chuyển nghĩa trên thế giới và Việt
Nam có thể thấy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về chuyển nghĩa, tuy
nhiên, việc nghiên cứu chuyển nghĩa trong nội bộ thực từ, cụ thể là danh từ
mang thuộc tính nghĩa đại từ, chưa được nghiên cứu một cách chính thức,
đặc biệt là kết hợp giữa lý luận và thực hành từ điển.
1.2.2. Tình hình nghiên cứu chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính
nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
a. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
Trong tiếng Việt, vấn đề từ xưng hô nói chung, từ thân tộc nói riêng đã
được nghiên cứu từ sớm. Từ điển Việt Nam - Bồ Đào Nha - Latinh của
Alexandre de Rhodes (1651) [3] cũng đã đề cập đến các danh từ thân tộc có
chức năng xưng hô như bác, ông, bà, v.v. nhưng vẫn còn rất sơ lược. Theo
dòng chảy thời gian, từ xưng hô tiếp tục được nghiên cứu. Có thể kể ra:
Trương Vĩnh Ký trong Grammare de la langue annamite (1884) đã dành 30
trang để nói về đại từ, chủ yếu là đại danh từ nhân xưng [Dẫn theo Nguyễn
Phú Phong, 82, tr. 8]. Trần Trọng Kim trong Việt Nam văn phạm (1940) gọi là
nhóm danh từ này là "đại danh từ" vì theo ông, phần nhiều các danh từ này do
21
danh từ mà ra [59, tr.66]. Một trong những công trình nghiên cứu khá đầy đủ
về đại từ xưng hô đó là công trình Studies in Vietnamese (Annamese)
Grammar của M.B Emeneau (1951) [128] đã tập trung vào nhóm từ xưng hô
lâm thời có nguồn gốc danh từ mà ông gọi là "đại từ cương vị" và quan tâm
đến mô tả hệ thống cấu trúc của từ xưng hô tiếng Việt. Theo Emeneau, các
nhân tố chi phối cách sử dụng từ xưng hô trong tiếng Việt là: tuổi tác, địa vị
xã hội, giới tính, nghề nghiệp, v.v. Còn L.C. Thompson (1987) [147] lại quan
tâm đến mức độ (levels) biểu cảm của từ xưng hô. Quan điểm của Thompson
cho rằng: các sắc thái biểu cảm của ngôn từ có vai trò quan trọng trong việc
sử dụng hình thức xưng hô và quy chiếu trên hoạt động lời nói. Từ đó, ông
xác định nhân tố tác động từ xưng hô là: tình huống xưng hô, thái độ của
người nói và cương vị của những nhân vật hội thoại. Qua đó, ông mô tả hệ
thống gia tộc Việt và các danh từ chỉ quan hệ thân tộc.
Từ trước đến nay, như đã dẫn trên, từ thân tộc được nghiên cứu nhiều,
tuy nhiên việc nghiên cứu chuyển nghĩa từ thân tộc mang thuộc tính nghĩa đại
từ chưa được nghiên cứu toàn diện.
Trong những năm gần đây, các luận án nghiên cứu về từ thân tộc cũng
đã nghiên cứu nhiều về danh từ thân tộc, có thể kể ra như: Ngữ nghĩa nhóm từ
chỉ quan hệ thân tộc trong tiếng Anh và tiếng Việt của Dương Thị Nụ (2003)
[77] tập trung nghiên cứu và đối chiếu đặc trưng ngữ nghĩa của từ thân tộc
tiếng Anh và tiếng Việt trên hai cấp độ: nghĩa cơ bản và nghĩa mở rộng. Trên
cơ sở của luận án tiến sĩ ngữ văn Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc
trong giao tiếp tiếng Việt [25], Trương Thị Diễm (2013) phát triển thành sách
Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc [26]. Tác giả trên cơ sở miêu tả
cấu trúc nghĩa của các danh từ thân tộc Việt để lý giải các cơ sở của sự
chuyển nghĩa để đảm nhận chức năng xưng hô của danh từ thân tộc Việt: cơ
sở ngôn ngữ học và cơ sở văn hóa - xã hội. Đây là một trong những công trình
22
gợi mở quan trọng cho chúng tôi khi nghiên cứu chuyển nghĩa của danh từ
mang thuộc tính nghĩa đại từ.
b. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
Nghiên cứu về chuyển nghĩa đã đạt được một số thành tựu nhất định,
tuy nhiên các công trình nghiên cứu chuyên sâu, cụ thể chuyển nghĩa trong
nội bộ thực từ theo tìm hiểu của chúng tôi là chưa nhiều. Nghiên cứu hiện
tượng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ trong tiếng
Việt cũng được một số tác giả quan tâm nghiên cứu như: Nguyễn Ngọc Trâm,
Hoàng Văn Hành, Đỗ Hữu Châu, Chu Bích Thu, v.v.
Trong bài báo nghiên cứu "Về cấu trúc nghĩa của tính từ tiếng Việt
(trong sự so sánh với tiếng Nga)" (1982), Hoàng Văn Hành đã so sánh đối
chiếu với tiếng Nga (tiêu biểu cho ngôn ngữ biến hình) với tiếng Việt (tiêu
biểu cho ngôn ngữ đơn lập) để rút ra đặc trưng nghĩa của tính từ. Theo tác giả,
tiếng Việt "không có tính từ quan hệ (và tính từ sở thuộc) với nghĩa chân
chính của thuật ngữ này. Vì thế tính quan hệ (và tính sở thuộc) trong tiếng
Việt thường diễn đạt bằng các phương tiện từ vựng" [43, tr.1] cho nên dựa
vào các "thang độ" để phân loại tính từ quan hệ thành hai nhóm là: tính từ
đánh giá theo thang độ và tính từ không được đánh giá theo thang độ. Đây là một
trong những đặc trưng của ngôn ngữ đơn lập nói riêng, trong đó có tiếng Việt.
Đỗ Hữu Châu (1986) dựa trên cấu trúc ngữ nghĩa để phân loại các
nhóm tính từ đơn âm tiết thành: 1. tính từ có tính chất vật lý, có độ đo, theo
chiều không gian (to, nhỏ, cao, thấp, v.v.); 2. tính từ có tính chất vật lý, có
dạng hình học, trong không gian (vuông, tròn, méo, v.v.); 3. tính từ có tính
chất vật lý, có biểu hiện hình học của không gian (phẳng, lõm, cong, thẳng);
4. tính từ có tính chất vật lý, có tư thế (xiêu, ngay, thẳng, v.v.); 5. tính từ có
tính chất vật lý, có cảm giác xúc giác (lạnh, nóng, v.v.); 6. tính từ có tính chất
vật lý, có cảm giác vị giác (chua, cay, mặn, ngọt, v.v.); 7. tính từ có tính chất
vật lý, có cảm giác khứu giác (thơm, thối, hôi, tanh, v.v.); 8. tính từ có tính
23
chất vật lý, có cảm giác thị giác về màu sắc (xanh, đỏ, tím, vàng, v.v.) [14,
tr.112]. Trong đó, các nhóm lại được phân thành các tiểu nhóm khác nhau dựa
trên sự khu biệt về nét nghĩa dụng học.
Chu Bích Thu trong luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn (1996) -
“Những đặc trưng ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt hiện đại” [101], từ cách tiếp
cận quan điểm chức năng công trình nghiên cứu cấu trúc ngữ nghĩa của tính từ.
Bằng phương pháp phân tích thành tố ngữ nghĩa, công trình phân tích ngữ nghĩa
của 8 nhóm tính từ biểu thị: màu, mùi, vị, kích thước, hình dáng, nhiệt độ, phẩm
chất, đánh giá phẩm chất. Kết quả nghiên cứu đưa ra các kiểu cấu trúc ngữ
nghĩa của tính từ đơn âm tiết và qua đó thấy được vai trò quan trọng đối với tính
từ của thành tố đánh giá. Luận án đã chỉ ra được đặc trưng ngữ nghĩa cơ bản của
tính từ, tuy vậy, những nghiên cứu đó mới chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu nghĩa
tính từ trong hệ thống, chứ chưa chú ý đến nghĩa trong ngữ lưu hay phát ngôn.
Các nghiên cứu trong Việt ngữ học có đề cập tới hiện tượng chuyển nghĩa
của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ, tuy vậy số lượng còn chưa nhiều.
Với những trình bày đã nêu ở trên, luận án tập trung tìm hiểu về chuyển
nghĩa, cụ thể là, nghiên cứu đặc trưng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc
tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ.
1.3. Cơ sở luận
1.3.1. Một số luận về ngữ nghĩa học từ vựng
1.3.1.1. Quan điểm về nghĩa từ vựng theo các định hướng thuyết
Trong lĩnh vực ngôn ngữ học, ngữ nghĩa được nghiên cứu từ sớm, theo
J.Lyons (1977) từ Aristotle, Platon thuộc thời cổ đại Hy Lạp cũng đã quan
tâm đến từ và sự biểu nghĩa. Ngay từ thời kì này, các nhà ngôn ngữ học cũng
đã quan tâm đến nghĩa của từ hơn là chức năng ngữ pháp của nó. Từ đó cho
thấy, vai trò quan trọng của nghĩa trong ngôn ngữ học, có thể minh chứng
thêm bằng quan điểm của Jakobson. R: “Language without meaning is
meaningless” (Ngôn ngữ không có nghĩa là vô nghĩa) [Dẫn theo Nguyễn Thị
Dự (2004), 29, tr.12].
24
Xét trong địa hạt ngôn ngữ học, nghĩa thuộc phạm trù bên trong, bình
diện nội dung; biểu hiện ở mặt cấu tạo, hành chức ngôn ngữ, trí tuệ tư duy
con người, v.v. Quá trình giao tiếp của con người, ngữ nghĩa trở thành một
yếu tố cơ bản, chi phối hoạt động ngôn ngữ - tư duy.
Khi nghiên cứu về hiện tượng chuyển nghĩa, luận án quan tâm nhiều
đến nghĩa của từ, bởi “nghĩa của từ không chỉ nói lên cách phản ánh sự vật
độc đáo ở mỗi cộng đồng ngôn ngữ, quá trình hình thành trong lịch sử, mà
còn thể hiện tính đa dạng và linh hoạt của con người khi phản ánh sự vật...”
[92, tr. 119]. Có thể thấy, nghĩa của từ được nhìn nhận trong hành chức và
thực hiện chức năng giao tiếp và tư duy của ngôn ngữ. Đây là hướng nghiên
cứu hiện đại, gắn với thực tế ngôn ngữ, cách nhìn bao quát, toàn diện.
Trước đây, các nhà biên soạn từ điển dựa vào cấu trúc để tạo ra mô
hình đồng hình tuyến tính theo khuôn khổ và áp dụng phạm trù ngữ nghĩa
kèm theo. Chẳng hạn, khi giải thích nghĩa các từ chỉ quan hệ thân tộc đều sử
dụng cấu trúc chung: cha - người đàn ông có con, trong quan hệ với con; mẹ -
người phụ nữ có con, trong quan hệ với con.
Hiện nay, các nhà biên soạn từ điển đã tiếp cận các thuyết mới về ngôn
ngữ học tri nhận, ngữ nghĩa học tri nhận để phân tích nghĩa, tổ hợp các nét nghĩa
vào việc biên soạn nghĩa của từ. Điều đó có thể thấy, cùng phân tích nét nghĩa, tổ
hợp nét nghĩa để tạo thành nghĩa của từ nhưng nét nghĩa bây giờ được nhận thức
khác. Đó là cách định nghĩa dựa vào văn cảnh đã được khúc xạ qua ý thức và
khả năng nhận thức của con người. Cách tiếp cận này khác với cách định nghĩa
trước kia là: dựa theo lối chân trị (tức là lấy sự vật khách quan) để làm căn cứ.
Cho đến nay, có nhiều quan điểm khác nhau về nghĩa của từ, nhưng tựu
chung lại được xem xét trên hai phương diện coi nghĩa của từ “như là một bản
thể nào đó (ví dụ như đối tượng, khái niệm, sự phản ánh...) và như là một quan
hệ nào đó (quan hệ của từ với đối tượng hay khái niệm...)” [77, tr. 22]. Nhiều
quan điểm, tư tưởng chứng minh cụ thể của các nhà ngôn ngữ học trong và
ngoài nước thuộc hai phương diện nói trên. Theo A.I.Smirnitckiy, nghĩa của từ
25
là "sự phản ánh hiển nhiên của sự vật, hiện tượng hay quan hệ trong ý thức
(hay là sự cấu tạo tâm lý tương tự về tính chất, hình thành trên sự phản ánh
những yếu tố riêng lẻ của thực tế) nằm trong cấu trúc của từ với tư cách là mặt
bên trong của từ" [Dẫn theo tác giả Nguyễn Thiện Giáp (1998) 38, tr, 119].
Các nhà Việt ngữ học đã tiếp thu quan điểm nghĩa của từ và dựa vào đặc
trưng tiếng Việt đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về nghĩa của từ. Hoàng Phê
(1975) quan niệm về nghĩa của từ: (i) là một tập hợp những nét nghĩa có quan
hệ quy định lẫn nhau; (ii) giá trị của những nét nghĩa không như nhau (giữa các
nét nghĩa có quan hệ cấp bậc), biểu hiện ở khả năng tham gia khác nhau vào
việc thực hiện chức năng thông báo; (iii) các nét nghĩa có tính độc lập tương
đối, biểu hiện ở khả năng độc lập tổ hợp và tác động qua lại với những nét
nghĩa của những từ khác khi từ tổ hợp với nhau. Cấu trúc của nghĩa từ là một
cấu trúc động [78, tr. 10-26]. Cũng theo quan niệm này, tác giả Nguyễn Đức
Tồn (2013) cho rằng: “đó chỉ là sự phân tích lời giải thích cụ thể của một cách
hiểu về nghĩa của từ và cái gọi là cấu trúc nghĩa của từ như đã nêu chỉ là cấu
trúc của lời diễn giải về nghĩa của từ mà thôi” [105].
Luận án quan tâm đến nghĩa trong ngôn ngữ thuộc phạm vi nghĩa từ
vựng (lexical meaning) thuộc ngữ nghĩa học từ vựng bởi nghĩa từ vựng có vai
trò quyết định, thay đổi tính chất của sự chuyển biến nghĩa. Tác giả Lê Quang
Thiêm (2008) quan niệm: “nghĩa từ vựng là một thực thể tinh thần trừu
tượng tồn tại trong mọi biểu hiện, cấp độ của ngôn ngữ để ngôn ngữ thực
hiện chức năng công cụ của giao tiếp và tư duy cũng như mọi loại chức
năng cụ thể đa dạng khác, đặc biệt là trong lời nói, trong văn bản, trong
diễn ngôn” [97, tr.86]. Luận án dựa vào cách hiểu nghĩa từ vựng trên để vận
dụng vào quá trình nghiên cứu. Nghiên cứu sự chuyển nghĩa của các đơn vị từ
có sự chuyển nghĩa sẽ được chuyển ở mức độ và phạm vi sâu hơn là ở phạm
vi tư duy khoa học. Khi đó, chúng được định hình với những kiểu nghĩa chức
năng từ vựng mới và những phẩm chất mới.
26
1.3.1.2. Một số khái niệm có liên quan
- Cấu trúc ngữ nghĩa của từ: là toàn bộ tất cả các nghĩa của từ và có mối
quan hệ hữu cơ với nhau. Trong hệ thống từ vựng của ngôn ngữ, cấu trúc
nghĩa của từ như là một yếu tố của hệ thống từ vựng đó.
Trong các Từ điển tiếng Việt, cấu trúc ngữ nghĩa thường được trình bày
theo các cấp hệ khác nhau: một là tập hợp các nét nghĩa để tạo thành nghĩa vị;
hai là tập hợp các nghĩa vị để tạo thành ý nghĩa của từ. Nói cách khác, đối với
cấp hệ đầu tiên thể hiện ở các nghĩa cụ thể của từ đơn nghĩa, còn cấp hệ thứ
hai là các nghĩa cụ thể của từ đa nghĩa.
- Nghĩa của từ: là sự phản ánh hiện thực khách quan về thế giới thông qua
phương tiện biểu đạt là ngôn ngữ. Sự phản ánh hiện thực khách quan đó được
thể hiện cụ thể trong mối quan hệ biện chứng theo một tôn ti trật tự nhất định của
cấu trúc ngữ nghĩa và bao gồm các thành tố lớn nhỏ khác nhau theo một trật tự
xác định.
- Nét nghĩa (semantic feature): là một đơn vị nhỏ nhất không thể chia cắt
được nữa. Nét nghĩa được phân xuất trên cơ sở thành tố nghĩa và nét nghĩa
còn là cơ sở của nghĩa từ vựng. Các nét nghĩa kết hợp với nhau để tạo thành
nghĩa như một hệ thống. Hệ thống nghĩa của từ đơn nghĩa và từ đa nghĩa.
Ví dụ: Danh từ "đàn ông" được giải thích chỉ có một nghĩa "Người lớn
thuộc nam giới (nói khái quát)" [80, tr.283]. Phân tích cấu trúc nghĩa của từ
"đàn ông" gồm ba nét nghĩa: (người)1 (trưởng thành)2 (giới tính nam)3. Ba nét
nghĩa trên đã phản ánh, miêu tả định danh, khái niệm về đối tượng cụ thể. Ba
nét nghĩa đó được người biên soạn từ điển giải thích nghĩa của danh từ "đàn
ông" trong tiếng Việt.
Tính từ "đơn điệu" được giải thích hai nghĩa: "1. Chỉ có một điệu, một
giọng lặp đi lặp lại, nghe không hay, không hấp dẫn. 2. Ít thay đổi, lặp đi lặp lại
cùng một kiểu, gây cảm giác buồn chán" [80, tr. 349]. Phân tích cấu trúc nghĩa
của từ "đơn điệu": Nghĩa thứ nhất có ba nét nghĩa (chỉ có một điệu, một giọng)1
27
(lặp đi lặp lại)2 (nghe không hay, không hấp dẫn)3. Nghĩa thứ hai có ba nét
nghĩa: (ít thay đổi)1 (lặp đi lặp lại cùng một kiểu)2 (gây cảm giác buồn chán)3.
Cả hai nghĩa đều có thuộc tính chung phản ánh tính chất lặp đi lặp lại. Mỗi
nghĩa giải thích nội dung khác nhau, nghĩa thứ nhất chỉ về điệu/giọng, nghĩa
thứ hai chỉ về tính chất ít thay đổi. Đây cũng là hai nghĩa khác nhau của từ đa
nghĩa "đơn điệu".
- Nghĩa cơ sở/nghĩa phái sinh: Nghĩa cơ sở (hay nghĩa gốc, nghĩa cơ bản)
được hiểu là "nghĩa đầu tiên hoặc nghĩa có trước, trên cơ sở nghĩa đó mà
người ta xây dựng nên nghĩa khác" [19, tr. 173]. Nghĩa phái sinh (hay nghĩa
chuyển) là "nghĩa được hình thành dựa trên nghĩa gốc và vì vậy chúng thường
là nghĩa có lý do; và được nhận ra qua nghĩa gốc của từ" [19, tr. 174]. Nói
cách khác: nghĩa cơ sở là nghĩa có trước, còn nghĩa phái sinh là các nghĩa
được hình thành sau này và dựa trên nghĩa gốc, có quan hệ với nghĩa gốc. Đối
với nghĩa gốc dễ nhận biết và không cần phải phụ thuộc vào các nghĩa khác,
còn nghĩa phái sinh ngược lại.
Tất cả các nghĩa mới xuất hiện đều có cơ sở từ nghĩa đầu tiên. Giữa
nghĩa gốc và nghĩa phái sinh có mối quan hệ mật thiết với nhau bởi cùng duy
trì một nét nghĩa chung. Cơ sở của sự chuyển nghĩa của từ và cơ sở cho sự
lĩnh hội các nghĩa chuyển của từ chính là từ các nét nghĩa chung. Các nghĩa
phái sinh có quan hệ trực tiếp hoặc có quan hệ gián tiếp với nghĩa gốc thông
qua một ý nghĩa khác, song tất cả các nghĩa đều có mối liên hệ với nhau và
tạo thành một hệ thống. Sự chuyển biến ý nghĩa của từ như vậy thể hiện rõ
tính hệ thống của ngôn ngữ. Muốn xác định ngữ nghĩa của từ, một mặt cần
tách các nghĩa khác nhau và mặt khác phải làm sáng tỏ những mối liên hệ và
sự quy định lẫn nhau giữa các nghĩa đó.
- Nghĩa đen/nghĩa bóng: Nghĩa đen là nghĩa vốn có, nghĩa chính của từ và
không có hình tượng. Nghĩa bóng (nghĩa được ẩn sau) là nghĩa có tính hình
28
tượng. Muốn hiểu được nghĩa bóng cần hiểu về từ vựng - ngữ nghĩa cũng như
dựa vào ngữ cảnh.
- Nghĩa cơ bản/nghĩa không cơ bản: Cách phân chia nghĩa đen và nghĩa
bóng như nói trên không triệt để bởi nghĩa đen có lúc lại trùng với nghĩa gốc
và nghĩa này ít lệ thuộc vào ngữ cảnh. Cho nên có thể phân biệt nghĩa của các
từ đa nghĩa là nghĩa cơ bản và nghĩa không cơ bản. Nghĩa cơ bản (còn gọi
nghĩa chính, nghĩa cơ sở, nghĩa đen) là nghĩa mang "nhiều nét nghĩa chính,
nét nghĩa tự do, nó đã đi vào cơ cấu chung ổn định của nghĩa từ và được nhận
thức một cách ổn định, như nhau trong các hoàn cảnh khác nhau" [2, tr. 31].
Khác với nghĩa cơ bản, nghĩa không cơ bản (còn gọi nghĩa phụ, nghĩa bóng)
của tu từ và hình ảnh (còn gọi ẩn dụ và hoán dụ) bao gồm "nét nghĩa cơ bản
tổ hợp và nét nghĩa phụ, nét nghĩa không tự do và thường lệ phụ thuộc vào
văn cảnh" [2, tr. 31]. Nghĩa không cơ bản thường gặp nhiều trong văn học
(thơ, truyện dân gian, v.v), trong ngôn ngữ giao tiếp, v.v.
- Cơ sở phân tích thành tố nghĩa
Khi phân tích thành tố nghĩa thường dựa trên hai nguyên tắc cơ bản là: Một
là, ý nghĩa của mỗi từ bao gồm một tập hợp các yếu tố nghĩa tối thiểu; Hai là, tất
cả thành phần từ ngữ của ngôn ngữ đều có thể được miêu tả nhờ các các yếu tố
nghĩa nhỏ nhất này với một số lượng ít. Trong đó, nguyên tắc thứ nhất được
minh họa qua phân tích thành tố nghĩa của các đại từ. Theo đó, ý nghĩa của các
khái niệm định danh của đại từ được phân xuất trên cơ sở đối lập ngữ nghĩa của
các thành tố nhỏ nhất có nghĩa và mỗi thành tố được đánh dấu bằng chữ cái khác
nhau. Và tập hợp của tất các khái niệm định danh được miêu tả dưới dạng những
kết hợp chữ cái đó. Còn ở nguyên tắc thứ hai là các thành tố nghĩa nhỏ nhất xuất
hiện với tư cách là những đơn vị xuất phát cho nên thuộc về nét nghĩa (còn gọi
dấu hiệu khu biệt nghĩa, nhân tử ngữ nghĩa). Các nhân tử ngữ nghĩa này được
tạo ra trực tiếp cho nên các đơn vị này thường có cấu trúc đơn giản và được sử
dụng rộng rãi, trong đó có lĩnh vực từ điển.
29
Trong Từ điển tường giải tiếng Việt, ý nghĩa của từ thường được trình bày
theo cấu trúc hai cấp: (i) Tập hợp các nét nghĩa để tạo thành nghĩa vị (hay nghĩa
cụ thể của từ); (ii) Tập hợp các nghĩa vị (hay nghĩa cụ thể trong từ đa nghĩa).
Hoàng Phê trong Phân tích ngữ nghĩa coi hiện tượng đẳng cấu ngữ nghĩa là
"nghĩa của các từ" có số lượng nét nghĩa như nhau, trật tự giữa các nét nghĩa
giống nhau, quan hệ giữa các nét nghĩa giống nhau (tức là chúng có cùng một
kiểu cấu trúc). Từ những phân tích đó, tác giả quan niệm "với hiện tượng đẳng
cấu ngữ nghĩa, cấu trúc nghĩa có thể là một cơ sở để phân loại từ" [78, tr. 17].
Trong luận án này, chúng tôi sử dụng ngữ liệu là các định nghĩa trong
TĐTV nên việc phân tích các nét nghĩa có ý nghĩa trong việc chứng minh cho
sự chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang
thuộc tính nghĩa tính từ.
1.3.1.3. Các loại nghĩa từ vựng của từ
Từ có liên hệ với nhiều nhân tố và hiện tượng khác nhau, cho nên
nghĩa của từ cũng gồm nhiều thành phần nghĩa khác nhau. Dựa vào chức
năng, các nhà Việt ngữ học hiện đại phân chia và gọi tên cho các thành phần
nghĩa khác nhau, đó là: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm, nghĩa ngữ pháp,
nghĩa tình thái. Ngoài bốn thành phần nghĩa trên, Đỗ Hữu Châu (2009) [16,
tr. 103-105] có thêm thành phần nghĩa liên hội - đây là một trong những thành
phần nghĩa có tác động lớn đến các nghĩa hành vi và chi phối đến việc dùng từ.
Tác giả Nguyễn Thiện Giáp (1998) [38, tr.125-133], đưa ra các thành
phần nghĩa đó là:
+ Nghĩa sở chỉ (referentive meaning): quan hệ của từ với sự vật,
hiện tượng, tính chất, quá trình, v.v. mà từ biểu thị. Bản thân các đối tượng đó
được gọi là biểu vật hay cái biểu vật (denotat).
+ Nghĩa sở biểu (significative meaning): quan hệ của từ với ý, tức là
với khái niệm hoặc biểu tượng mà từ biểu hiện.
30
+ Nghĩa sở dụng (pragmatical meaning) còn gọi nghĩa biểu thái,
nghĩa hàm chỉ (connotative meaning): mối quan hệ của từ với người sử dụng
(người đọc, người nói, người nghe) bộc lộ qua thái độ, cảm xúc. Chẳng hạn:
Từ “ăn”, “xơi”, “chén” mang sắc thái khác nhau: “ăn” - mang sắc tình cảm
trung hòa - bình thường), “xơi”- mang sắc thái tình cảm kính trọng, “chén”
mang sắc thái tình cảm suồng sã, thân mật.
+ Nghĩa kết cấu (structural meaning): mối quan hệ giữa từ này với
những từ khác trong hệ thống từ vựng. Quan hệ này được biểu hiện trên hai trục:
trục đối vị (paradigmatical axis) - giúp xác định giá trị của từ và khu biệt các từ
với nhau, và trục ngữ đoạn (syntagmatical axis) - giúp xác định ngữ trị của từ.
Trong hệ thống ngôn ngữ, muốn phân biệt được các đơn vị ngôn ngữ
cần dựa vào nghĩa sở chỉ và nghĩa sở biểu, nghĩa cấu trúc tồn tại ở hầu hết các đơn
vị từ vựng, còn nghĩa sở dụng còn tùy thuộc vào từng đơn vị từ vựng.
Trong những nghiên cứu Việt ngữ học về nghiên cứu về từ vựng -
ngữ nghĩa theo định hướng lịch đại và đồng đại động mới được chú ý, nổi bật
là trong công trình nghiên cứu về tầng nghĩa, kiểu nghĩa chức năng từ vựng
của tác giả Lê Quang Thiêm [97], [98].
Phạm trù nghĩa là một "thực thể tinh thần trừu tượng" và được biểu
hiện bằng ngôn ngữ cho nên có thể quy loại, phân xuất nó thành các dạng thể
tồn tại phân lập xác định. Đó là "các tầng nghĩa, các kiểu nghĩa, các quan hệ
nghĩa, các hệ thống và cấu trúc nghĩa". Từ quan niệm, trong các nhân tố tác
động và quy định nghĩa từ vựng, nhân tố "vai trò của chủ thể ngôn ngữ và sự
tri nhận nghĩa" là nhân tố cần được ưu tiên hàng đầu. Cho nên, nghĩa chức
năng của tác giả Lê Quang Thiêm có sáu kiểu nghĩa tương ứng với sáu kiểu
trường: trường nghĩa biểu niệm, trường nghĩa biểu hiện, trường nghĩa biểu
thị, trường nghĩa biểu chỉ, trường nghĩa biểu trưng và trường nghĩa biểu
tượng. Sáu kiểu trường nghĩa này sẽ nằm trong ba trường tầng nghĩa: trường
tầng nghĩa trí tuệ (gồm có nghĩa biểu niệm và nghĩa biểu hiện), trường tầng
31
nghĩa thực tiễn (gồm có nghĩa biểu thị và nghĩa biểu chỉ), trường tầng nghĩa
biểu trưng (gồm nghĩa biểu trưng và nghĩa biểu tượng).
Sơ đồ 1: Tầng nghĩa và kiểu nghĩa từ vựng
Nghĩa biểu niệm - Khái niệm khoa học
p h ổ
- Tầng nghĩa trí tuệ (scientific concept)
(intellectual stratum) ý niệm quy ước
m e a n i n g f u l
Nghĩa biểu hiện
(sense - relation) giá trị hệ thống
n g h ĩ a t ừ v ự n g
Nghĩa biểu thị (denotational meaning)
- Tầng nghĩa thực tiễn
( l e x i c a l
(practical stratum) Nghĩa biểu chỉ (designated meaning)
Nghĩa biểu trưng (symbolized meaning)
- Tầng nghĩa biểu trưng
(symbolized stratum) Nghĩa biểu tượng (imaginatuve meaning)
Nguồn: Lê Quang Thiêm, 2008
Đây là hướng nghiên cứu sự phát triển nghĩa từ vựng tiếng Việt trong
cơ chế động khi phân xuất hệ thống chung nghĩa từ vựng của từ thành các hệ
thống con với những đơn vị cơ sở theo tầng bậc từ cao đến thấp.
1.3.1.4. Phạm vi nghĩa của các đơn vị từ vựng
Phạm vi nghĩa của các đơn vị từ vựng mà luận án nghiên cứu bao hàm
ba tầng nghĩa và sáu kiểu nghĩa từ vựng - phổ nghĩa mà tác giả Lê Quang
Thiêm đề xuất.
Nghĩa biểu niệm và nghĩa biểu hiện của các đơn vị từ loại được phản
ánh trong nhận thức, tư duy của chủ thể ngôn ngữ như danh từ chỉ sự vật,
động từ chỉ hoạt động, tính từ chỉ tính chất, đại từ là xưng gọi, v.v. và phản
ánh được các hiện tượng, quá trình, thuộc tính, v.v. trong ngôn ngữ.
32
Nghĩa biểu thị và nghĩa biểu chỉ là kiểu nghĩa của những từ thông
thường vì mang tính cụ thể trong lời nói. Chức năng quan trọng của nghĩa
biểu thị từ thể hiện là "định danh" về sự vật, hoạt động, tính chất trong đời
sống. Nghĩa biểu chỉ là kiểu nghĩa chỉ ra, quy chiếu đến mà nội dung ít phản
ánh, biểu thị thuộc tính của sự vật, hiện tượng. Đó là các từ thay thế, dán nhãn
của các từ chỉ xuất và các đại từ.
Nghĩa biểu trưng và nghĩa biểu tượng được hoạt động và thể hiện trong
văn bản nghệ thuật. Khi nói tới nghĩa của từ và hiện tượng chuyển nghĩa,
không thể không nói tới nghĩa biểu trưng. Đây là "nghĩa biểu đạt một cách
tượng trưng âm thanh hay hình dáng mà từ gợi ra, người nói, người nghe có
thể hình dung, liên tưởng đến”. Nghĩa biểu tượng là nội dung có được do hình
dung, tưởng tượng và đây là kiểu nghĩa biểu cảm - văn hóa gắn với chức năng
thẩm mĩ của từ, ngữ. Đơn giản kiểu nghĩa này linh hoạt theo chức năng
nghĩa, đi vào hoạt động năng động dụng học giao tiếp sinh động mà tích
hợp các thuộc tính mới sáng tạo linh hoạt.
Sự chuyển nghĩa từ có liên quan đến sự chuyển tầng nghĩa “một đơn vị
từ vựng vốn thuộc tầng nghĩa xác định này chuyển qua tầng nghĩa khác trong
phổ nghĩa là một sự kiện của sự biến đổi, phát triển” [98, tr.176]. Các đơn vị
chuyển nghĩa danh từ thân tộc mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang
thuộc tính nghĩa tính từ mà luận án nghiên cứu thuộc các kiểu nghĩa: nghĩa
biểu niệm, nghĩa biểu chỉ, nghĩa biểu trưng, nghĩa biểu tượng thuộc tầng
nghĩa trí tuệ, tầng nghĩa thực tiễn và tầng nghĩa biểu trưng. Mỗi đơn vị từ
vựng có thể bao gồm một hoặc nhiều kiểu nghĩa khác nhau, ngay cả trong một
từ loại cũng kiêm thêm nghĩa của từ loại khác.
1.3.2. Về hiện tượng chuyển nghĩa và chuyển nghĩa từ vựng
1.3.2.1. Quan niệm về hiện tượng chuyển nghĩa và chuyển nghĩa từ vựng
Từ tình hình nghiên cứu về hiện tượng chuyển nghĩa trên có thể thấy,
chuyển nghĩa phổ biến trong mọi ngôn ngữ. Cách tiếp cận hiện tượng này có
33
hai quan điểm:
- Quan điểm 1: coi chuyển nghĩa là thay đổi số lượng nghĩa trong nội
bộ từ đa nghĩa. Theo quan niệm này, từ nghĩa cơ sở đến các nghĩa phái sinh
và các nghĩa khác nhau là của từ đa nghĩa. Trong Việt ngữ học, tiêu biểu cho
quan niệm này là hai tác giả Nguyễn Thiện Giáp và Đỗ Hữu Châu.
Theo tác giả Đỗ Hữu Châu: Chuyển nghĩa là "thay đổi số lượng nghĩa
vốn có của từ (cụm từ), làm cho nó có khả năng gọi tên sự vật, hiện tượng, hành
động hoặc thuộc tính khác nhau nhưng liên quan với nhau về phương diện nào
đó (nhưng vẫn trong phạm vi một từ)" [13, tr. 139].
Đồng quan điểm trên, tác giả Nguyễn Thiện Giáp cho rằng: “sự biến
đổi và phát triển không ngừng của đời sống, sự phát triển của nhận thức và sự
phát triển của hệ thống ngôn ngữ là ba nguyên nhân dẫn đến nên hiện tượng
chuyển nghĩa - hiện tượng phái sinh ngữ nghĩa trong từ, khiến cho một từ có
thể trở nên nhiều nghĩa (từ đa nghĩa)” [38, tr.148]. Chẳng hạn: Từ miệng là
một từ chỉ bộ phận cơ thể (miệng rộng thì sang, miệng cười tươi, há miệng chờ
sung, v.v.), được chuyển sang để chỉ người (nhà 10 miệng ăn), hoặc được
chuyển sang phạm vi đồ vật, vật thể địa lý chỉ bộ phận các đối tượng này (miệng
bát, miệng hang, v.v.).
- Quan điểm 2: coi chuyển nghĩa là sự chuyển biến, biến đổi về nghĩa.
Tiêu biểu nhóm này có: Gustaf Stern, S.Ulmannn,...
Gustaf Stern cho rằng "Sự biến đổi nghĩa như là một sự điều chỉnh theo
thói quen của một số lượng người nói tương đối lớn về độ rộng ngữ nghĩa
truyền thống của từ ngữ vốn bắt nguồn từ việc sử dụng từ ngữ (1) để trỏ một
hoặc một cái chỉ vật trước đây chưa được đề cập, hoặc (2) để biểu hiện một
cách hiểu mới lạ về một hoặc hơn một cái chỉ vật" [40, tr.42]. Nói như vậy
nghĩa là hiện tượng chuyển biến nghĩa (biến đổi nghĩa) chính là sự biến động
về nghĩa từ vựng trong từ loại, một từ vừa có thuộc tính nghĩa của chính từ
34
loại đó đảm nhận, vừa mang thuộc tính nghĩa của từ loại khác. Trong luận án
này, chúng tôi chấp nhận quan điểm của Gustaf Stern.
Hai xu hướng chuyển nghĩa tạo nên hệ quả khác nhau: Chuyển nghĩa theo
xu hướng thứ nhất tạo nên sự đa nghĩa của từ. Chẳng hạn, Trong Từ điển tiếng
Việt (TĐHP) giải thích nghĩa từ đầu:
đầu.
1. Phần trên cùng của thân thể con người hay phần trước nhất của thân thể
động vật, nơi có bộ óc và nhiều giác quan khác. 2. (dùng hạn chế trong một số
tổ hợp). Đầu của con người, coi là biểu tượng của suy nghĩ, nhận thức. 3. Phần
có tóc mọc ở trên đầu con người; tóc (nói tổng quát). 4. Phần trước nhất hoặc
phần trên cùng của một số vật. 5. Phần có điểm xuất phát của một khoảng
không gian hoặc thời gian; đối lập với cuối. 6. Phần ở tận cùng, giống nhau ở
hai phía đối lập trên chiều dài của một vật. 7. Vị trí hoặc thời điểm thứ nhất,
trên hoặc trước tất cả những vị trí, thời điểm khác. 8. Từ dùng để chỉ từng đơn
vị để tính đổ đồng về người, gia súc, đơn vị diện tích. 9. (kết hợp hạn chế). Từ
dùng để chỉ từng đơn vị máy móc, nói chung [80, tr. 299].
Từ ví dụ trên có thể thấy, từ đầu trong tiếng Việt là từ đa nghĩa gồm chín
nghĩa, các nghĩa khác nhau của từ đầu vẫn nằm trong một cấu trúc nghĩa của từ,
các nghĩa chuyển đều có quan hệ với nghĩa gốc do một hoặc một số nét nghĩa
trong cấu trúc nghĩa của từ chi phối.
Còn chuyển nghĩa theo xu hướng thứ hai là chuyển biến nghĩa, biến đổi
nghĩa dẫn đến sự thay đổi cấu trúc nghĩa của từ để tạo thành nội dung mới mang
thuộc tính nghĩa khác với thuộc tính nghĩa cơ sở. Chẳng hạn: Trong Từ điển
tiếng Việt (TĐHP) định nghĩa từ bác học có hai nghĩa với hai cấu trúc nghĩa
"bác học
khác nhau (nghĩa danh từ và nghĩa tính từ):
I. dt. Người học rộng, hiểu biết sâu về một hoặc nhiều ngành khoa học.
II. tt. Theo lối của nhà bác học; có tính chất khó hiểu, không bình dân.
Lối hành văn bác học [80, tr. 24].
35
Hệ quả của xu hướng biến đổi nghĩa ở mức cao hơn tạo thành từ loại mới
khác với từ loại xuất phát (hiện tượng chuyển loại - conversion). Bản chất của
chuyển loại không chỉ là "hệ quả của sự chuyển nghĩa nói chung, mà là sự tổ
chức lại kiểu cơ cấu nghĩa này thành một kiểu cơ cấu nghĩa khác. Trong quá
trình đó, có thể có sự thêm, bớt và thay đổi tôn ti các thành tố nghĩa” [46, tr. 83].
Từ quan niệm này có thể thấy, phương thức chuyển nghĩa mà tác giả muốn nhấn
mạnh ở đây là từ chuyển nghĩa dẫn đến chuyển loại, quá trình này diễn ra đều
đặn, có tính quy tắc rõ ràng chứ không phải là hiện tượng ngẫu nhiên. Tuy nhiên
trong phạm vi luận án chúng tôi không bàn về vấn đề này, bởi hiện tượng
chuyển loại là “một phương thức cấu tạo từ, nhờ đó mà một từ mới thuộc phạm
trù từ loại này được tạo ra từ một từ loại khác mà vẫn giữ nguyên vỏ âm thanh,
đồng thời tạo ra ý nghĩa mới có quan hệ nhất định với ý nghĩa của từ xuất phát,
và nhận những đặc trưng ngữ pháp mới (thể hiện khả năng kết hợp và chức năng
làm thành phần câu) khác với đặc trưng ngữ pháp của từ xuất phát” [69, tr. 87].
Điều đó có nghĩa, khi nghiên cứu về hiện tượng chuyển loại cần sử dụng đồng
thời ba tiêu chí: sự biến đổi cấu trúc nghĩa của từ, khả năng kết hợp của từ và
chức năng cú pháp.
Nghiên cứu về biến đổi nghĩa có nhiều cách tiếp cận khác nhau, bởi vì,
"khi một từ được sử dụng để biểu hiện một nghĩa nào đó, mà nghĩa trước đây
chưa được biểu hiện, thì khi đứng trên một quan điểm có tính phổ niệm về từ
ngữ, chúng ta thấy có một sự biến đổi nghĩa. Thông thường thì sự biến đổi về
nghĩa cũng là sự biến đổi về chỉ vật; đứng từ sự xem xét về một chỉ vật mới, như
thế, chúng ta có một sự thay đổi về tên gọi. Như vậy, cách nhìn nhận thứ nhất là
cách nhìn nhận của ngữ nghĩa học từ vựng (lexical semantics), cách nhìn nhận
thứ hai là cách nhìn nhận của định danh học (onomasiology) [40, tr. 41]. Từ đó
có thể thấy, khi nghiên cứu sự biến đổi nghĩa sẽ được tiếp cận từ ngữ nghĩa học
từ vựng và định danh học. Hai cách tiếp cận này giúp chúng ta có thể hiểu đối
tượng một cách toàn diện hơn ở cả nội dung và hình thức. Đối với định danh
36
học, nghiên cứu sẽ bắt đầu từ nội dung, có một khái niệm nào đó và người ta đi
tìm vỏ hình thức từ vựng hợp để thể hiện khái niệm đó. Ngược lại, đối với ngữ
nghĩa học từ vựng, từ một vỏ ngữ âm, một biểu thức, người ta đi tìm cái nội
dung bên trong, cái gì được biểu đạt, được thể hiện. Chính vì vậy, mỗi lĩnh vực
sẽ tiếp cận theo các góc độ khác nhau "ngữ nghĩa học từ vựng thường giải
quyết các biến dạng ngữ nghĩa; định danh học thường giải quyết các biến dạng
ngữ âm" [27, tr.51]. Trong luận án, chúng tôi nghiên cứu sự biến đổi nghĩa theo
hướng của ngữ nghĩa học từ vựng.
Quá trình chuyển nghĩa thường được diễn ra theo cùng một hướng, “các
từ có nghĩa biểu vật cùng thuộc một phạm vi hoặc có ý nghĩa biểu niệm cùng
một cấu trúc thì chuyển biến ý nghĩa theo cùng một hướng giống nhau” [31, tr.
148]. Tuy nhiên, sự chuyển hướng của phạm vi nghĩa đó không phải cố định.
Sự phát triển nghĩa của các đơn vị từ vựng là quá trình con người nhận
thức ngày một sâu sắc hiện thực khách quan bằng cách tạo ra cho từ ngữ những
mối liên hệ, quan hệ mới nhờ những nhận thức mới của mình về thế giới khách
quan hoặc tạo ra những khả năng kết hợp mới cho những đơn vị ngôn ngữ đã
có. Cơ sở của sự phát triển và biến đổi ý nghĩa của từ là sự phát triển của nhận
thức cũng như sự hình thành sự vật, hiện tượng mới.
1.3.2.2. Các hình thức chuyển nghĩa
Mối liên hệ giữa nghĩa gốc với các nghĩa phái sinh "có thể diễn ra sự
biến đổi theo kiểu móc xích: nghĩa đầu tiên (S0) chuyển sang nghĩa S1, từ S1
chuyển sang S2" hoặc theo kiểu "toả ra từ nghĩa gốc": từ nghĩa đầu tiên (S0)
chyển sang nghĩa phái sinh 1 (S1), nghĩa phái sinh 2 (S2)" [13, tr. 137]. Đây
cũng là hình thức chuyển nghĩa thường gặp trong tiếng Việt: chuyển nghĩa
theo dạng móc xích và dạng tỏa ra.
37
Sự chuyển nghĩa thường diễn ra theo các quy tắc chung với hai hình
thức chuyển nghĩa theo dạng móc xích và dạng tỏa ra. Có thể hình dung qua
sơ đồ sau:
S0 S1 S2 Sn S0 S1
S2
Sn
[71, tr. 209]
Trong đó, phần lớn các trường hợp của chuyển biến theo phương thức
“tỏa ra” nghĩa là các nghĩa mới đều dựa vào nghĩa đầu tiên mà xuất hiện.
1.3.2.3. Phương thức chuyển nghĩa
Khi xác định các tiêu chí phân loại phương thức chuyển nghĩa, theo các
nhà ngữ học căn cứ vào quy luật phát triển nghĩa của từ trong quá trình hành
chức (sử dụng). Trong Việt ngữ học, nghiên cứu ngữ nghĩa học theo hướng lịch
đại, các nhà ngữ nghĩa học thường đề cập đến các phương thức chuyển nghĩa.
Các phương thức chuyển nghĩa thường gặp là: ẩn dụ (metaphor), hoán dụ
(metonymy), loại suy/tương suy (analogy), mở rộng (extension/expending), thu
hẹp (restriction/narrowing), khái quát hóa (generalization), chuyên biệt hóa
(specialization), cá biệt hóa (particulization), xấu nghĩa (pejoration), tốt nghĩa
(amelioration/melioration), thay thế (substitution),...
Trong phạm vi luận án này chúng tôi đề cập đến các phương thức
chuyển nghĩa là hoán dụ (metonymy), ẩn dụ (metaphor), loại suy/tương suy
(analogy), mở rộng (extension/expending), thu hẹp (restriction/narrowing),
xấu nghĩa (pejoration), tốt nghĩa (amelioration/ melioration).
Ẩn dụ (metaphor) là "sự chuyển nghĩa dựa theo sự giống nhau về hình
thức, màu sắc, đặc tính vận động" [98, tr. 246] và vận dụng vào hệ thống con
nghĩa được biểu hiện "có sự liên hệ các nét nghĩa chung trong kết cấu nội
dung nghĩa của từ mà các nghĩa của từ chưa phân ly thành đồng âm" [98, tr.
38
246]. Đây là một trong những phương thức chuyển nghĩa điển hình và được
sử dụng nhiều trong ngôn ngữ.
Hoán dụ (metonymy): Nếu ẩn dụ là sự chuyển nghĩa dựa theo sự tương
đồng thì hoán dụ là sự chuyển nghĩa dựa theo sự tương cận của các hình thức,
đặc tính, v.v. Trong thuộc tính chuyển nghĩa, ẩn dụ ngữ nghĩa có tính linh
hoạt hơn bởi có lợi thế hơn trong phát triển, sử dụng tư duy trừu tượng, hình
ảnh, biểu tượng, v.v. còn hoán dụ ngữ nghĩa có tính khách quan hơn ẩn dụ.
Ẩn dụ và hoán dụ là hai phương thức chuyển nghĩa cơ bản được sử dụng
trong quá trình phát triển nghĩa và biến đổi ý nghĩa của các đơn vị từ vựng.
Mở rộng (extension/expending): Mở rộng ý nghĩa của từ là "quá trình
phát triển nghĩa đi từ nghĩa cụ thể đến nghĩa trừu tượng" [71, tr.155]. Ngoài
cách gọi mở rộng nghĩa, trong Việt ngữ học, khái niệm này còn được gọi là
khái quát hóa.
Thu hẹp (restriction/narrowing): Theo Gustaf stern, “nếu như vì một lý
do nào đó, một biểu thức ghép đã bị “rơi” mất một từ nào đó (khỏi kiến trúc
từ của mình) mà ngữ nghĩa của nó vẫn được bảo tồn, thì từ hay những từ còn
lại ấy phải mang trong mình toàn bộ các nghĩa mà trước đây đã thuộc về toàn
bộ biểu thức ghép. Nếu như sự “rơi” mất nghĩa kia đã trở thành quen thuộc,
thì kết quả có thể là từ hay những từ ngữ còn lại đã mang một sự biển đổi
nghĩa” [40, tr. 49]. Thu hẹp nghĩa của từ là "quá trình phát triển ý nghĩa của từ
từ cái nghĩa chung, nghĩa khái quát, nghĩa trừu tượng đến nghĩa cụ thể hơn, hẹp
hơn" [71, tr.190]. Ngoài cách gọi thu hẹp nghĩa, trong Việt ngữ học, khái
niệm này còn được gọi là chuyên biệt hóa.
Loại suy/tương suy (analogy): Loại suy có thể hiểu một cách đơn giản,
chính là “hiện tượng một hay một nhóm những yếu tố ngôn ngữ biến đổi và
phát triển theo đặc tính hình thái hay nội dung của một nhóm yếu tố khác, do
áp lực của vận động hệ thống muốn hướng tới sự ổn định, thống nhất và có
sức sản sinh cao” [61, tr. 19]. So với các loại biến đổi nghĩa khác thì trường
39
hợp biến đổi nghĩa theo kiểu loại suy có sự khác biệt. Nếu như các loại biến
đổi khác, nghĩa mới có của từ không liên quan gì đến các từ khác thì trường
hợp loại suy, nghĩa mới của từ có liên quan đến một từ khác, hoặc được sao
chép từ một từ khác. Biến đổi nghĩa theo loại suy có các trường hợp: 1/Loại
suy xảy ra giữa hai yếu tố ngôn ngữ đứng cạnh nhau có quan hệ với nhau về
mặt, hoặc là cú pháp, hoặc là ngữ âm, hoặc là ngữ nghĩa, trong đó một yếu tố
nào đó, vì những lý do nhất định, sẽ bị lược đi, và do đó yếu tố còn lại sẽ
phải đảm nhận toàn nội dung ngữ nghĩa của biểu thức lớn hơn chứa nó. 2/
Loại suy xảy ra với các yếu tố ngôn ngữ độc lập, mà giữa chúng có tồn tại
mối quan hệ tương liên về mặt ngữ nghĩa. 3/ Loại suy xảy ra với các yếu tố
độc lập, mà giữa chúng có tồn tại mối quan hệ tương đồng với nhau về mặt
ngữ âm [61, tr. 20].
Xấu nghĩa: Khác với ẩn dụ, hoán dụ, loại suy, mở rộng, thu hẹp thường
xảy ra đối với các nghĩa biểu vật (denotational meaning) thì xấu nghĩa thường
xảy ra đối với các nghĩa phi biểu vật (non-datonatioal meaning). Biến đổi
nghĩa theo lối xấu nghĩa thường được xét theo tiêu chí nghĩa mới được phát
triển từ nghĩa cũ theo chiều hướng tiêu cực về thang đánh giá.
Tốt nghĩa: Giống như xấu nghĩa, tốt nghĩa thường xảy ra đối với các
nghĩa phi biểu vật. Tuy nhiên, khác với xấu nghĩa, biến đổi nghĩa theo lối xấu
nghĩa thường được xét theo tiêu chí nghĩa mới được phát triển từ nghĩa cũ
theo chiều hướng tích cực về thang đánh giá.
Bên cạnh các con đường biến đổi nghĩa phổ biến như trên, các nhà
nghiên cứu còn đề cập đến nhiều trường hợp biến đổi nghĩa khác nữa, như
thay thế (substitution). Theo Gustaf stern, thay thế là "những biến đổi vì
những yếu tố phi ngôn ngữ, những yếu tố ngoại tại” [40, tr.48]. Tác giả cũng
giải thích nguyên nhân của những biến chuyển này, cũng như của những biến
chuyển về nghĩa của từ chính là sự phát triển của các yếu tố nằm ngoài ngôn
40
ngữ như khoa học kỹ thuật, xã hội, các yếu tố văn hoá. Ngôn ngữ góp phần
quan trọng khi ghi lại những thay đổi này.
Trong luận án chúng tôi nghiên cứu các đặc trưng chuyển nghĩa của
danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
cho nên cũng áp dụng một số phương thức chuyển nghĩa trên (ẩn dụ, hoán dụ,
mở rộng, thu hẹp,...). Chúng tôi đối chiếu ý nghĩa của các các từ điển được
biên soạn trong các giai đoạn khác nhau để thấy được quá trình phát triển
nghĩa của các đơn vị từ vựng trong tiếng Việt. Cơ sở của sự phát triển và
chuyển nghĩa của từ là sự phát triển của nhận thức cũng như sự hình thành sự
vật, hiện tượng mới.
1.3.3. Nghĩa của từ trong từ loại tiếng Việt
1.3.3.1. Quan niệm về nghĩa của từ trong từ loại tiếng Việt
Trong ngữ nghĩa học, nghĩa của từ là một trong những khái niệm hết sức
quan trọng, bởi theo B. Whorf, nói tới ngôn ngữ là nói tới nghĩa, vì thực chất
của ngôn ngữ học chính là tìm hiểu nghĩa [Dẫn theo Hoàng Phê, 79]. Nghĩa
của từ (cũng như của các đơn vị ngôn ngữ khác) là quan hệ của từ với cái gì
đó nằm ngoài bản thân nó. Hiểu nghĩa của một đơn vị nào đó là hiểu đơn vị
ấy có quan hệ với cái gì, tức là nó biểu thị cái gì [38, tr. 217]. Xét về mặt
nghĩa, tất cả từ loại đều có nội dung nghĩa. Từ loại được phân chia thành thực
từ (có nghĩa từ vựng rõ ràng) và hư từ (chỉ có nghĩa ngữ pháp, không có nghĩa
từ vựng).
Thực từ được nhiều nhà ngôn ngữ học quan tâm, bàn luận. Theo Nguyễn
Văn Tu trong Từ vựng học tiếng Việt hiện đại thì “người ta gọi những từ có ý
nghĩa chân thực như từ 'nhà' là thực từ. Thực từ có giá trị đầy đủ và có vị trí
độc lập, rõ ràng, không cần bàn cãi” [110, tr. 31]. Theo Nguyễn Kim Thản
trong Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt thì “những từ có ý nghĩa từ vựng
chân thực và có thể làm thành phần câu gọi là thực từ” [90, tr. 147]. Nguyễn
41
Tài Cẩn cũng cho rằng “độc lập, thực, chính là những yếu tố xưa nay ta
thường quen gọi là thực từ” [11, tr. 33].
Nếu thực từ là những từ có ý nghĩa từ vựng thì hư từ lại là những từ
không có ý nghĩa này. Theo Nguyễn Văn Tu, hư từ "dùng để biểu thị ý nghĩa
ngữ pháp và không có ý nghĩa từ vị” [110, tr. 196]. Nguyễn Kim Thản “hư từ
là những từ không có ý nghĩa từ vựng chân thực, mà chỉ có tác dụng làm công
cụ ngữ pháp để chỉ các ý nghĩa ngữ pháp khác nhau của các từ” [90, tr. 35].
Đây cũng là quan điểm chung của các nhà Việt ngữ học, như Nguyễn Như Ý,
Nguyễn Tài Cẩn, Đinh Văn Đức, …
Trong tiếng Việt, hư từ bao gồm phụ từ, quan hệ từ, tình thái từ. Thực từ
bao gồm danh từ, động từ, tính từ, đại từ, số từ,...
Phần dưới đây, luận án đi vào thuộc tính đặc trưng nghĩa của ba từ
loại được sử dụng làm đối tượng nghiên cứu của luận án là danh từ, đại từ
và tính từ.
1.3.3.2. Thuộc tính đặc trưng nghĩa của danh từ, đại từ và tính từ
a. Khái niệm về thuộc tính và quan hệ thuộc tính
Trong số các quan hệ ngữ nghĩa cơ bản của hệ thống từ vựng (gồm: gộp
nghĩa (inclusion), sở hữu (possesse), đồng nghĩa (synonyms), trái nghĩa
(antonyms), ...) thì thuộc tính (attribute) một trong những quan hệ có vị trí và
vai trò quan trọng của các ngôn ngữ.
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê giải thích thuật ngữ thuộc tính là "đặc
tính vốn có của một sự vật, nhờ đó sự vật tồn tại và qua đó con người nhận
thức được sự vật, phân biệt được sự vật này với sự vật khác. Màu sắc là một
thuộc tính của mọi vật thể. Thuộc tính vật lí" [80, tr. 965]. Từ điển thuật ngữ
Ngôn ngữ học đối chiếu Anh - Việt, Việt - Anh của Cao Xuân Hạo - Hoàng
Dũng, attribute được hiểu theo hai nghĩa: "(1) đặc trưng, thuộc tính; (2) định
ngữ, tính ngữ" [42, tr. 34]. Từ điển Thuật ngữ Ngôn ngữ học của Diệp Quang
Ban, định nghĩa thuộc tính (attribute) trong ngữ nghĩa học được hiểu: "một
42
cách xác định đặc trưng vốn có của vật thể, như tính 'dương' là đặc trưng về
giống của bull 'con bò đực', trong khi tính 'âm' thuộc về cow 'con bò cái'" [8,
tr. 466]. Dựa vào lời giải thích nghĩa của từ "thuộc tính" trong các công trình
từ điển trên, luận án chấp nhận các cách hiểu đó.
Trong ngôn ngữ học, quan hệ thuộc tính (attribute relationship) có chức
năng như chiếc cầu nối giữa các đơn vị từ vựng của từ loại này với đơn vị từ
vựng của từ loại khác. Theo đó, quan hệ thuộc tính là "quan hệ tồn tại giữa
đơn vị ngôn ngữ chỉ thực thể, đơn vị ngôn ngữ chỉ quá trình với đơn vị ngôn
ngữ chỉ tính chất/thuộc tính của thực thể hay quá trình. Nói một cách đơn
giản, quan hệ thuộc tính là quan hệ giữa một danh từ, động từ và một tính từ
vốn có tác dụng biểu thị cái giá trị được quy gán cho chính danh từ, động từ
ấy..." [62]. Điều này xuất phát từ đặc trưng riêng của các từ loại, danh từ biểu
thị thực thể, động từ biểu thị quá trình, tính từ biểu thị tính chất,... Trong hệ
thống từ vựng tiếng Việt, quan hệ thuộc tính là "một quan hệ ngữ nghĩa thực
thụ trong hệ thống từ vựng tiếng Việt, có cơ sở tâm lý, nhận thức và ngôn ngữ
riêng của mình. Quan hệ thuộc tính trong từ vựng tiếng Việt có thể được nhận
diện một cách dễ dàng qua các khung nhận diện là các biểu thức ngôn ngữ tự
nhiên, các biểu thức ngôn ngữ này cũng chính là những biểu thức thường xuất
hiện trong các lời giải thích về nghĩa từ" [62]. Luận án nghiên cứu sự chuyển
nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ tức là nghiên cứu sự chuyển nghĩa của danh từ mang đặc trưng nghĩa
tính từ (xét trong trường hợp nghiên cứu).
b. Khái quát một số đặc trưng (hay thuộc tính) ngữ nghĩa của danh từ, đại
từ và tính từ
b.1. Đặc trưng (hay thuộc tính) ngữ nghĩa của danh từ
Danh từ là từ loại quan trọng, với ý nghĩa phản ánh sự vật, hiện tượng
cho nên tồn tại cụ thể hơn so với các từ loại khác. Ở đây chúng tôi chỉ xét về
danh từ chung, còn danh từ riêng không xét. Về ý nghĩa danh từ là "ý nghĩa của
43
một từ loại chỉ sự vật và những khái niệm được người bản ngữ tri nhận một
cách độc lập như là những sự vật" [33, tr.49]. Qua định nghĩa này đã thấy được
bản chất của danh từ, ý nghĩa của danh từ là ý nghĩa thực thể tính (substantive).
Danh từ cũng là đơn vị từ vựng và là đơn vị ngôn ngữ nên sẽ nó có ý
nghĩa/ nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Tức là nội dung trừu tượng - khái
quát về sự vật được gọi tên hay khái niệm về sự vật được gọi tên. Thuộc về
nội hàm từ vựng tức là nói về đặc tính/thuộc tính của sự vật ấy. Nghĩa từ vựng
của danh từ chỉ có ở các từ cụ thể. Chẳng hạn, trong từ điển thuật ngữ, hay
khái niệm khoa học đều định nghĩa về nghĩa đó. Ví dụ: 1. Nước là chất lỏng,
không màu, không mùi. 2. Bàn là vật dụng trong gia đình; có thể cấu tạo bằng
ba chân, bốn chân; có mặt phẳng; được làm bằng gỗ, kim loại, nhựa, v.v.
Những mô tả ấy thuộc về nội dung nghĩa từ vựng của từ nước và từ bàn.
Danh từ là một phạm trù từ vựng - ngữ pháp cho nên có ý nghĩa từ
vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Đối với ý nghĩa từ vựng thường liên quan đến sự
vật, đến khái niệm, đến nội dung biểu đạt.
Khi nói đến từ loại danh từ, ngữ pháp truyền thống coi đây là một từ
loại mang ý nghĩa “sự vật tính” biểu hiện tên gọi về sự vật trong thế giới
khách quan như người, vật, việc, hiện tượng, khái niệm trừu tượng. Đây là
đặc trưng cơ bản của danh từ và để phân loại với các từ loại khác. Yếu tố “sự
vật tính” tức là muốn “nhấn mạnh các yếu tố từ vựng được khái quát lên
thành nội hàm ý nghĩa của danh từ” [34, tr. 60]. Do đó, khi nghiên cứu về
danh từ nên nghiên cứu đồng thời với yếu tố ngữ pháp. Nói cách khác, khi
nghiên cứu về từ loại danh từ cần kết hợp cả hai yếu tố từ vựng – ngữ pháp,
đây là vấn đề cốt lõi để phân định từ loại danh từ.
b.2. Đặc trưng (hay thuộc tính) ngữ nghĩa của đại từ
Trong hệ thống từ loại, đại từ được xem là một trong những từ loại đặc
biệt, có chức năng chuyển ngôn ngữ nói chung thành các lời nói. Với ý nghĩa
và vai trò to lớn là từ thay thế cho các từ loại khác, chủ yếu danh từ, động từ,
44
giới từ, v.v. Hơn nữa, do cấu trúc đặc biệt là những từ ngắn, có khả năng biến
đổi từ cho nên có chức năng khái quát hơn là dùng để chỉ. Mặc dù có nhiều
quan điểm khác nhau, tuy nhiên các tư tưởng đều thống nhất ở chỗ: xem đại từ
có chức năng là “thay thế”, khác với danh từ là định danh sự vật, hiện tượng.
Tác giả Đinh Văn Đức (2015) quan niệm ý nghĩa của đại từ là “một ý
nghĩa có tính chất chức năng” [34, tr. 197]. “Chức năng” mà tác giả nói ở đây
là chức năng thay thế. Khác với ý nghĩa của các từ loại khác mang ý nghĩa
phản ánh thực tại trực tiếp, ý nghĩa của đại từ lại là sự phản ánh gián tiếp “đó
là một hình thức trung gian của mối quan hệ giữa các khái niệm trong khi
phản ánh”. Cụ thể, các khái niệm được tồn tại trong tư duy được “thay thế cho
một nội dung phản ánh thực tại vốn được diễn đạt các khái niệm (do thực từ
biểu đạt) và được tổ chức bằng các quy tắc lô gich”. Điều này cho thấy, vai
trò, ý nghĩa của đại từ là biểu thị cho một khái niệm với thực tại bằng phương
thức “quy chiếu” [34, tr. 197-198]. Đây là một trong đặc trưng cơ bản của đại
từ, lâm thời biểu thị khái niệm trong hoàn cảnh giao tiếp nào đó. Cũng có
nghĩa là hoạt động ngữ pháp thay đổi dựa vào ngữ cảnh/văn cảnh sử dụng.
Khi giao tiếp, người Việt sử dụng "danh từ chỉ quan hệ thân thuộc đều
thường dùng lâm thời như đại từ, để thay thế cho đại từ ở cả ba ngôi" [10, tr.
146], cho nên khi nghiên cứu chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa
đại từ, vốn từ có yếu tố chuyển nghĩa tập trung nhiều ở nhóm từ này. Trong
lời định nghĩa của các từ điển, đại từ “thường dùng để xưng gọi”.
b.3. Đặc trưng (hay thuộc tính) ngữ nghĩa của tính từ
Trong hệ thống thực từ tiếng Việt, tính từ được coi là một trong những
từ loại quan trọng và cơ bản. Tính từ là từ loại chỉ về phẩm chất, tính chất,
đặc trưng. VD: tốt, xấu, đẹp, đỏ, trắng, v.v. Nghĩa của tính từ không chỉ là gọi
tên mà tên ấy để chỉ về phẩm chất, thuộc về đặc điểm. Theo tác giả Đinh Văn
Đức (2001), tính từ là "từ loại chỉ ra đặc trưng của tất cả những gì (khái niệm)
được biểu đạt bằng danh từ và động từ" [33, tr. 182]. Như vậy, nghĩa tính từ
45
thuộc về tính chất đặc điểm và thường là tính chất thuộc tính của sự vật. Ví
dụ: nhà đẹp; xe tốt, v.v.
Trong thế giới khách quan, các sự vật (thực thể) tồn tại dưới hai dạng
khác nhau là trong sự vận động và trong sự đa dạng. Thuộc tính tồn tại trong
sự vận động là cơ sở hình thành ý nghĩa từ loại của động từ; còn thuộc tính
tồn tại trong sự đa dạng không giống nhau giữa các sự vật. Sự vật được hình
thành trong thế giới muôn hình vạn trạng, cho nên nét khu biệt về trọng
lượng, màu sắc, kích thước và các khía cạnh của chất lượng đã hình thành nên
các đặc trưng khu biệt cho chủ thể. Đó là các đặc trưng của chủ thể và cũng là
cơ sở ngữ nghĩa của từ loại tính từ. V. Vinogradov đề xuất, đặc trưng phản
ánh thực tại như một phương diện trong việc xác định ý nghĩa các từ loại
[Dẫn theo Đinh Văn Đức, 33, tr.101] cho nên, với thuộc tính từ vựng, ý nghĩa
của tính từ có liên quan đến trực tiếp đến nội dung phản ánh thực tại. Tuy
nhiên, tính từ còn bao gồm đặc trưng được hình thành theo nhận thức chủ
quan của con người trong quan hệ với đối tượng - những quan hệ về trạng thái
tình cảm và những liên hệ trừu tượng hơn. Đây cũng là một trong những đặc
trưng khu biệt tính từ với từ loại danh từ và động từ.
Tính từ có vai trò quan trọng trong việc cấu tạo từ cũng như có tác
dụng miêu tả các đơn vị ngôn ngữ và làm phong phú khả năng diễn đạt. Về
mặt ngữ nghĩa và ngữ pháp, tính từ trở thành lớp từ gián tiếp, phụ thuộc vào
chức năng của danh từ. Cho nên, tính từ không có phạm vi đối tượng riêng,
độc lập cho nên phải tiếp nhận ngoại diên của danh từ mà chúng hạn định và
bổ sung thêm nội hàm cho danh từ mà nó đi kèm.
Theo quan niệm của ngữ pháp truyền thống, danh từ biểu thị người, sự
vật, hiện tượng; còn tính từ biểu thị tính chất, đặc trưng. Cũng có quan niệm
coi danh từ biểu thị tên gọi của sự vật, hiện tượng; còn tính từ miêu tả trạng
thái tính chất của sự vật, hiện tượng. Từ quan điểm trên có thể thấy rằng, giữa
danh từ và tính từ có mối quan hệ và cũng có khác biệt nhất định.
46
1.4. Tiểu kết
Qua nghiên cứu tổng quan và cơ sở lý luận về hiện tượng chuyển nghĩa
của từ, luận án cho thấy:
1. Vấn đề hiện tượng chuyển nghĩa của từ đã được nghiên cứu nhiều
trên thế giới và Việt Nam. Các hướng nghiên cứu tập trung vào quan điểm
chuyển nghĩa, phương thức chuyển nghĩa, nguyên nhân chuyển nghĩa, mối
quan hệ giữa nghĩa cũ và nghĩa mới. Việc nghiên cứu hiện tượng chuyển
nghĩa cũng được nghiên cứu ở các góc nhìn khác nhau như logic, tâm lý,
lịch sử, triết học, v.v. Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào được tiến
hành một cách bài bản, hệ thống, đầy đủ, về đặc trưng chuyển nghĩa của danh
từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ.
2. Hiện tượng chuyển nghĩa (biến đổi nghĩa) chính là hiện tượng biến
động về nghĩa từ vựng trong từ loại, một từ vừa có thuộc tính nghĩa của
chính từ loại đó đảm nhận, vừa mang thuộc tính nghĩa của từ loại khác. Bản
chất của hiện tượng chuyển biến nghĩa là sự biến động về nghĩa từ vựng, thể
hiện trong cấu trúc nghĩa của từ, nghĩa của từ có thể thêm, bớt, biến chuyển,
hoặc cùng là một nghĩa nhưng phải thay đổi về bản chất thì nó mới có thể
chuyển thành nghĩa của một từ loại khác.
3. Danh từ, đại từ, tính từ là ba từ loại thực từ quan trọng. Theo quan
niệm truyền thống, thực từ là những từ mà nội dung nghĩa của nó có quan hệ
phản ánh biểu hiện sự vật, tính chất, quan hệ thuộc tính thực tại. Danh từ
dùng để biểu đạt sự vật cụ thể và trừu tượng. Tính từ dùng để phản ánh và
biểu đạt tính chất. Đại từ dùng để phản ánh và biểu đạt xưng hô và thay thế
cho các thực từ khác. Nghiên cứu ngữ nghĩa học quan tâm đến ba từ loại này
nói chung và sự chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và
danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ là hợp và cần thiết.
Những khái niệm cơ bản được nêu trong chương này là tiền đề thuyết
cơ bản giúp chúng tôi triển khai luận án ở chương 2 và chương 3 tiếp theo.
47
Chương 2
ĐẶC TRƯNG CHUYỂN BIẾN NGHĨA CỦA DANH TỪ
MANG THUỘC TÍNH NGHĨA ĐẠI TỪ
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP)
Trong chương 2 chúng tôi tập trung nghiên cứu sự chuyển biến nghĩa
trong phạm vi từ vựng của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ qua nghiên
cứu các trường hợp: bác, cô, ông, bà, cha, mẹ. Từ đó rút ra một số đặc trưng
nghĩa của hiện tượng chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa
đại từ trong tiếng Việt.
2.1. Giới thiệu về nhóm danh từ lựa chọn để nghiên cứu
Khi nghiên cứu chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa
đại từ, chúng tôi chỉ dừng lại nghiên cứu đại từ nhân xưng (hay còn gọi đại từ
chỉ ngôi). Đây là các đại từ chỉ người, có chức năng xưng gọi các đối tượng
tham gia giao tiếp trực tiếp hoặc gián tiếp, thuộc vào ngôi thứ nhất, ngôi thứ
hai và ngôi thứ ba. Lựa chọn nhóm danh từ thân tộc và đại từ xưng hô để
nghiên cứu sự chuyển biến nghĩa bởi vì: Thứ nhất, giữa hai nhóm từ này có
nhiều điểm tương đồng về thuộc tính ý nghĩa từ vựng để có thể đảm nhận
nhiệm vụ xưng hô (trong gia đình và xã hội); Thứ hai, trong cấu trúc nghĩa
của hai loại này có nhiều nét nghĩa tương đồng để tạo điều kiện cho quá trình
chuyển biến nghĩa. Do các đại từ nhân xưng được thay thế chủ yếu cho các
danh từ thân tộc, cho nên luận án nghiên cứu lớp danh từ thân tộc có tham gia
vào quá trình chuyển biến nghĩa thành từ xưng hô lâm thời (nghĩa chức năng).
Trong tiếng Việt, có một bộ phận danh từ thân tộc như: cụ, ông, bà,
cha, mẹ, cô, dì, chú, bác, thím, cậu, mợ, anh, chị, em, con, cháu,... được sử
dụng trong phạm vi giao tiếp gia đình với vai trò là đại từ xưng hô, nhưng
chúng cũng được sử dụng phổ biến trong giao tiếp xã hội. Trong đó, nổi bật là
nhóm từ: bác, cô, ông, bà, cha, mẹ.
48
Có nhiều quan niệm về danh từ thân tộc, trong luận án này chúng tôi theo
quan điểm của Nguyễn Văn Chiến (1992) quan niệm danh từ thân tộc là “những
từ biểu thị những khái niệm và quan hệ thân tộc gia đình” [17, tr. 28-42].
Nhóm danh từ luận án lựa chọn để nghiên cứu là nhóm danh từ chỉ
quan hệ thân tộc. Luận án tập trung nghiên cứu sự chuyển biến nghĩa của
danh từ thân tộc mang thuộc tính nghĩa đại từ xưng hô. Các danh từ cơ bản và
điển hình được chúng tôi tập trung nghiên cứu là: bác, cô, ông, bà, cha, mẹ.
Sở dĩ chúng tôi chọn sáu trường hợp để nghiên cứu trong chương 2 bởi
vì: (i) Nhóm từ (bác, cô, ông, bà, cha, mẹ) là các danh từ mang thuộc tính
nghĩa đại từ, vừa xuất hiện trong phạm vi giao tiếp gia đình (với tư cách là
danh từ thân tộc), vừa xuất hiện trong phạm vi giao tiếp xã hội (với tư cách là
từ dùng để xưng hô). Vấn đề đặt ra ở đây là quá trình chuyển biến nghĩa của
nhóm từ này diễn ra như thế nào khi nhóm từ này vốn là các từ được sử dụng
chủ yếu trong phạm vi giao tiếp gia đình. (ii) Nhóm từ này đã thể hiện rõ nét
nghĩa bậc và giới tính: Nếu lấy Ego (BẢN THÂN/TÔI) (G0) làm cơ sở, bác/cô
là thế hệ bậc trên cùng hàng với cha mẹ (G1), ông/bà/cha/mẹ lại là bậc trên nữa
(G2); về giới tính (nam/nữ). Điều đó cho thấy, đây là các từ tiêu biểu cho nhóm
từ thân tộc và cũng là những danh từ nguyên khởi.
2.2. Thực tiễn và khả năng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính
nghĩa đại từ
Thực tế, trong Từ điển tiếng Việt theo trục lịch sử cũng đã tách các
nghĩa khác nhau giữa danh từ và đại từ. Ví dụ: Mục từ bác trong hai từ điển
TĐVT và TĐHP đã tách các nghĩa khác nhau: Nghĩa thuộc về định danh
(danh từ) và nghĩa thuộc về xưng gọi (đại từ).
Từ điển tiếng Việt (Văn Tân) Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê)
bác. A. dt. 1. Anh của cha hoặc chị dâu bác.
A. dt. đt. 1. Anh hoặc chị của cha của cha (có thể dùng để xưng gọi).
49
hoặc của mẹ mình. 2. (phg.). Cô, cậu hoặc dì ở hàng anh hay
2. Từ dùng để gọi bác mình, để tự chị của cha mẹ.
xưng với con của em mình. 3. Từ dùng trong đối thoại để gọi người
3. Từ dùng để gọi người ngang coi như bậc bác của mình với ý kính
hàng với cha mình hoặc để tự trọng, hoặc để tự xưng một cách thân
xưng với người đáng tuổi cháu. mật với người coi như hàng cháu của
4. Từ dùng để gọi người ngang mình.
hàng với mình trong giao thiệp 4. Từ dùng để chỉ người lớn tuổi với ý
giữa những người đứng tuổi trở tôn trọng, hoặc chỉ người nhiều tuổi hơn
lên. cha mẹ mình.
5. Từ dùng để gọi những người 5. Từ dùng để gọi nhau giữa người nhiều
đứng tuổi hoặc có tuổi. tuổi với ý kính trọng một cách thân mật.
Trong văn cảnh sử dụng cũng tách thành các nghĩa khác nhau, xem xét
qua ví dụ sau:
1 2
Con chú con bác1. Cháu gọi cô Hoa là bác2.
Từ ví dụ trên có thể thấy: từ bác1 trong cột 1 chỉ người trong quan hệ gia
đình nên thuộc về nghĩa định danh, khái niệm (danh từ). Còn từ bác2 trong cột
2 để xưng gọi về bác trong quan hệ xã hội thuộc về nghĩa thay thế (đại từ).
Qua các công trình nghiên cứu, trong thực tế từ điển và ngữ cảnh sử
dụng như đã phân tích trên, đã thấy "le lói" và mầm mống về sự chuyển biến
nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ.
50
2.3. Phân tích và diễn giải nhóm danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ
Các nhóm từ được xét ở ba nội dung chính:
(i) Sự biểu hiện ngữ nghĩa của các trường hợp nghiên cứu trong các Từ
điển tiếng Việt: Miêu tả, so sánh lời giải thích nghĩa của bảy công trình TĐTV
theo hướng lịch đại để thấy được tiến trình phát triển, chuyển biến nghĩa của
danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ trong tiếng Việt.
(ii) Cấu trúc ngữ nghĩa của trường hợp nghiên cứu. Cách xác định cấu trúc
ngữ nghĩa của các trường hợp nghiên cứu ở chương hai (bác, cô, ông, bà, cha,
mẹ) dựa vào: Một là, cách miêu tả nghĩa của Từ điển tiếng Việt để xác định
nghĩa cơ sở của từ thân tộc là nghĩa chỉ quan hệ thân thuộc; Hai là, phân tích cấu
trúc nghĩa của nghĩa cơ sở dựa trên đặc trưng của phạm trù thân tộc. Đó là các
đặc trưng về chỉ người, quan hệ gia đình, quan hệ huyết thống, giới tính, bậc,
đằng nội/đằng ngoại. Các đặc trưng này tạo thành hệ thống và để phân biệt giữa
các danh từ thân tộc với nhau dựa vào sự đối lập của các yếu tố đó. Các đặc
trưng của phạm trù thân tộc đó cũng là các nét nghĩa cơ bản của các danh từ thân
tộc nghiên cứu; Ba là, phân tích cấu trúc nghĩa của nghĩa chuyển (là nghĩa được
mở rộng trong phạm vi sử dụng của từ) cũng dựa vào các nét nghĩa cơ bản trên.
Tuy nhiên, nghĩa chuyển có các nét nghĩa đặc trưng để phân biệt với nghĩa cơ sở
là dùng để xưng gọi; biểu thị sự tôn kính, thân mật.
Để phân biệt các cấu trúc nghĩa khác nhau của các trường hợp phân tích,
chúng tôi kí hiệu các cấu trúc là các chữ cái in hoa (A, A', B, B'...). Dấu () thể
hiện nét nghĩa của từ; dấu [] thể hiện cấu trúc nghĩa của từ.
(iii) Biểu hiện và cách dùng của các trường hợp nghiên cứu trong các vai
giao tiếp. Dựa vào Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển
học và Bách khoa thư Việt Nam để thấy được: trong các tình huống giao tiếp
khác nhau biểu hiện nội dung ngữ nghĩa khác nhau.
51
2.3.1. Trường hợp từ “bác”
Luận án chọn từ bác để nghiên cứu vì hai lý do sau: (i) bác thuộc thế hệ
trung tâm trên Ego; (ii) tính địa phương của trường hợp bác về giới là nam
hoặc nữ tùy thuộc vào cách gọi của từng vùng miền khác nhau. Miền Bắc
nghĩa của từ bác chỉ là người anh hoặc chị của cha, không phân biệt nam nữ.
Còn miền Nam và miền Trung chỉ được dùng để gọi người anh của cha. Đối
với nữ thuộc hàng trên không gọi là bác (thường gọi là cô), bởi theo tư tưởng dân
gian cũ “nữ nhân ngoại tộc”.
Khi nói đến quan hệ huyết thống có yếu tố đi kèm với bác theo cấu
trúc: BÁC + thể hiện rõ nghĩa mối quan hệ này như bác ruột, bác họ, bác
mình, v.v. Về giới, đối với nữ giới gọi là bà bác, bác dâu (chị dâu của cha),
riêng đối với trường hợp bác gái có thể là quan hệ gia đình hoặc không phải
quan hệ gia đình. Trong trường hợp từ bác đã có sự kết hợp của nét nghĩa thế
hệ và nét nghĩa địa phương. Hai nét nghĩa này rất quan trọng và được dùng để
phân biệt sự đối lập trong quan hệ nội/ngoại.
2.3.1.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bác" trong các Từ điển tiếng Việt
Dựa vào lời định nghĩa của các công trình từ điển theo chiều lịch sử, có
thể thấy được sự biến đổi và phát triển nghĩa của trường hợp từ bác. Bởi vì
"một cuốn từ điển là một danh mục được sắp xếp có hệ thống của các hình
thức ngôn ngữ đã được xã hội hóa (socialized) thu nhận những thói quen nói
năng của một cộng đồng ngôn ngữ nhất định và được biên soạn chú giải sao cho
người đọc với một trình độ nhất định hiểu được ý nghĩa của từng hình thức ngôn
ngữ riêng rẽ và biết được những điều cần yếu về chức năng của nó trong cộng
đồng ngôn ngữ ấy" [153, tr. 245]. Cho nên, cùng một nghĩa nhưng các từ điển
khác nhau có cách miêu tả khác nhau. Để thấy được sự phát triển nghĩa cần dựa
vào nội hàm nghĩa của từ được rút ra trong hình thức miêu tả nghĩa đó.
Trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của (1895-1896) từ bác
được ghi nhận chỉ một nghĩa: "Bác. c. Anh cha, vai lớn hơn cha" [21, tr. 20]. Dựa
52
vào lời định nghĩa có thể thấy cấu trúc nghĩa của từ bác đó là: (chỉ người)1,
(quan hệ huyết thống)2, (bậc trên)3. Từ đó có thể thấy, công trình này chỉ có
nét nghĩa quan hệ thân tộc, không có nét nghĩa xã hội, hay nói cách khác: các
nét nghĩa chưa được xã hội hóa. Công trình này cũng chỉ dừng lại nghĩa của
danh từ, chưa thấy nghĩa đại từ.
Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến đức (1931), từ bác được ghi
nhận có sáu nghĩa:
bác.
I. Cũng như tiếng "bá" nghĩa thứ nhất: Bác ruột (anh ruột cha mình). Bác họ
(anh họ cha mình). Bác trai (bác mình). Bác gái (vợ bác mình). II. Tiếng
dùng để gọi cha. III. Tiếng gọi người ngang vai hay là bạn thân với cha mình.
IV. Tiếng tự-xưng đối với con anh em bạn thân mình mà người bạn vẫn coi
mình là đàn anh. V. Tiếng anh em bạn gọi nhau. VI. Tiếng gọi người dưng,
không khinh mà có ý không trọng [52, tr. 21].
Về mặt kỹ thuật, công trình này đã xử lý đa nghĩa và phân tách các nghĩa
khác nhau: nghĩa biểu niệm trong quan hệ gia đình (nghĩa I); xưng gọi ngoài xã
hội (nghĩa II) và nghĩa xưng gọi trong liên hệ xã hội (nghĩa III, IV, V, VI). Từ
định nghĩa này đã thấy được sự khác nhau về định danh đối tượng trong quan hệ
gia đình và xưng gọi ngoài xã hội.
Đến Tự điển Việt Nam phổ thông (1951), từ bác được ghi nhận có bốn nghĩa:
bác.
1. Anh của cha. 2. ngr. Anh, chị của cha hay của mẹ. 3. Cha: bác mẹ sinh
thành. 4. Tiếng gọi những người coi như bác: gọi bạn cha bằng bác, là coi
ông bạn đó như anh cha mình; hai bạn gọi nhau bằng bác, là gọi hộ con [89,
tr. 26].
Trong đó, các nghĩa biểu niệm (nghĩa thứ nhất, nghĩa thứ hai, nghĩa thứ
ba) chỉ người trong quan hệ gia đình. Nghĩa thứ tư dùng để xưng gọi ngoài xã
hội (Tiếng gọi những người coi như bác).
53
Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị (1952), từ bác được ghi nhận có
ba nghĩa:
bác. dt.
I. Anh cha mình, vợ anh cha mình.
II. Kẻ lớn tuổi hay bạn với cha mình.
III. Tiếng xưng với anh em bạn [73, tr.55].
So với các công trình trước đó, công trình này đã chú từ loại danh từ
(dt). Nghĩa biểu niệm chỉ người trong quan hệ gia đình (Anh cha mình, vợ anh
cha mình) và quan hệ xã hội (Kẻ lớn tuổi hay bạn với cha mình). Nghĩa thứ ba
được dùng để xưng gọi với anh em bạn bè cùng trang lứa.
Từ điển tiếng Việt của Văn Tân (1967), từ bác được ghi nhận có năm nghĩa:
bác. dt. đt.
1. Anh hoặc chị của cha hoặc của mẹ mình. 2. Từ dùng để gọi bác mình, để
tự xưng với con của em mình. 3. Từ dùng để gọi người ngang hàng với cha
mình hoặc để tự xưng với người đáng tuổi cháu. 4. Từ dùng để gọi người
ngang hàng với mình trong giao thiệp giữa những người đứng tuổi trở lên. 5.
Từ dùng để gọi những người đứng tuổi hoặc có tuổi [88, tr. 36].
Trong đó, nghĩa thứ nhất là nghĩa biểu niệm chỉ người trong quan hệ gia
đình. Các nghĩa còn lại được dùng để xưng gọi trong gia đình (nghĩa thứ hai,
nghĩa thứ ba) và xưng gọi ngoài xã hội (nghĩa thứ tư, nghĩa thứ năm). So với
công trình Việt Nam tân tự điển, công trình này có chú thêm từ loại đại từ (đt).
Đến Việt Nam tự điển (1970), từ bác được ghi nhận có hai nghĩa và
trong công trình này đã có chú từ loại là danh từ, tuy nhiên thực chất nghĩa
thứ hai là nghĩa thuộc đại từ (tiếng gọi).
Bác.
1. dt. Bá, tiếng gọi, vai người anh ruột hoặc anh bà con của cha mình hay cha
vợ mình. 2. dt. Tiếng gọi người bạn thân với cha mẹ mình, người bạn thân
kém tuổi hơn mình, giữa hai bạn thân, người có nghề nhứt-định hoặc chức-vị
như bác tài, bác xã, bác phó... [30, tr. 48].
54
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, từ bác được ghi nhận có năm nghĩa:
bác.
A. dt. 1. Anh của cha hoặc chị dâu của cha (có thể dùng để xưng gọi). 2.
(phg.). Cô, cậu hoặc dì ở hàng anh hay chị của cha mẹ. 3. Từ dùng trong đối
thoại để gọi người coi như bậc bác của mình với ý kính trọng, hoặc để tự
xưng một cách thân mật với người coi như hàng cháu của mình. 4. Từ dùng
để chỉ người lớn tuổi với ý tôn trọng, hoặc chỉ người nhiều tuổi hơn cha mẹ
mình. 5. Từ dùng để gọi nhau giữa người nhiều tuổi với ý kính trọng một
cách thân mật [80, tr. 21].
Trong đó, nghĩa biểu niệm chỉ người trong quan hệ gia đình (nghĩa thứ
nhất và nghĩa thứ hai). Nghĩa dùng để xưng gọi trong gia đình (nghĩa thứ ba)
và xưng gọi ngoài xã hội (nghĩa thứ tư và nghĩa thứ năm).
Luận án lấy Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (2012) làm mốc để thấy
được sự hiện diện ngữ nghĩa của từ bác qua các Từ điển tiếng Việt trong các
mốc thời gian khác nhau. Có thể hình dung sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ bác
trong các Từ điển tiếng Việt qua bảng 2.1 sau:
TĐHP (2012)
TĐKT (1931)
TĐĐVT (1951)
TĐTN (1952)
TĐVT (1967)
TĐLVĐ (1970)
TĐHTC (1895- 1896) 1
1 2 3 4 5
1 4 3 5 6 2
1, 2 4 3
1 3 2
1 2 3 5 4
1 4
Từ điển Nghĩa Nghĩa 1 Nghĩa 2 Nghĩa 3 Nghĩa 4 Nghĩa 5 Nghĩa 6 Nghĩa 7
Bảng 2.1: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bác" trong các Từ điển tiếng Việt
Từ bảng 2.1 có thể hiểu như sau: Cách miêu tả nghĩa thứ nhất của từ
bác trong TĐHP sẽ tương ứng với cách miêu tả nghĩa ở tất cả nghĩa thứ nhất
ở các từ điển khác, riêng TĐĐVT tương ứng cách miêu tả nghĩa thứ nhất và
55
nghĩa thứ hai. Cách miêu tả nghĩa thứ hai của TĐHP chỉ tương ứng với nghĩa
thứ hai của TĐVT. Cách miêu tả nghĩa thứ ba của TĐHP tương ứng cách
miêu tả nghĩa thứ ba (TĐTN, TĐVT), nghĩa thứ tư (TĐKT, TĐĐVT). Cách
miêu tả nghĩa thứ tư của TĐHP tương ứng với nghĩa thứ tư (TĐLVĐ), nghĩa
thứ ba (TĐKT), nghĩa thứ hai (TĐTN), nghĩa thứ năm (TĐVT). Cách miêu tả
nghĩa thứ năm của TĐHP tương ứng nghĩa thứ năm (TĐKT) và nghĩa thứ tư
(TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ hai và thứ sáu của TĐKT và nghĩa thứ ba của
TĐĐVT không tương ứng với các công trình khác.
So sánh cách giải thích nghĩa của từ bác qua một số từ điển xuất bản
trong suốt chiều dài lịch sử từ những năm cuối thế kỉ XIX đến những năm
cuối thế kỉ XX chúng ta thấy được quá trình phát triển và chuyển biến nghĩa
khá rõ. Từ điển của Alexandro (Alexandre) de Rhodes (1651), Taberd Jean-
Louis (1838) đã có sự hiện diện của từ bác nhưng chưa được giải thích cụ thể.
Cho đến Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của (1895-1896) đã có sự
hiện diện của từ bác và có miêu tả nghĩa. Các nghĩa chính được ghi nhận
trong các công trình của từ bác là nghĩa chỉ người (danh từ) và dùng để xưng
gọi về đối tượng đó (đại từ). Dần dần, cùng với thời gian, nghĩa của từ này
được mở rộng, phát triển từ cách xưng gọi gia đình đã trở nên phổ biến trong
xưng hô ngoài xã hội. Đây cũng là cơ sở chứng minh: trong từng giai đoạn
lịch sử, từng thời kì lịch sử có sự phát triển về ngữ nghĩa nói chung.
2.3.1.2. Cấu trúc ngữ nghĩa của từ “bác”
Luận án lấy Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê để thấy được sự hiện
diện đầy đủ nội dung nghĩa, sự mở rộng và phát triển nghĩa của từ bác mà các
từ điển ra đời trước đó chưa có. Dựa vào cách miêu tả nghĩa của từ bác trong
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (xem định nghĩa mục 2.3.1.1) để xác định
nghĩa cơ sở là nghĩa chỉ người trong quan hệ gia đình và nghĩa chuyển dùng
để xưng gọi ngoài xã hội.
56
Có thể khái quát cấu trúc nghĩa chung nhất của trường hợp từ bác
như sau:
(A): bác = [(chỉ người)1, (thành viên trong quan hệ gia đình)2, (có quan
hệ huyết thống được pháp luật thừa nhận hoặc không có quan hệ huyết
thống)3, (chỉ giới tính)4, (bậc trên với Ego (Tôi))5, (quan hệ gia đình là cả đằng
nội và ngoại - phương ngữ Bắc, đằng nội - phương ngữ Trung và Nam)]6.
(A’): bác = [(xưng gọi về người)1, (thành viên trong gia đình hoặc xã
hội)2, (có quan hệ huyết thống hoặc không có quan hệ huyết thống)3, (chỉ giới
tính)4, (bậc (bậc trên hoặc bậc dưới hoặc ngang bằng))5, (quan hệ gia đình là
đằng nội hoặc ngoại - phương ngữ Bắc và đằng nội - phương ngữ trung và
nam)6, (biểu thị sự tôn kính, thân mật)]7.
(dấu () thể hiện nét nghĩa của từ; dấu [] thể hiện cấu trúc nghĩa của từ).
Như vậy:
- Cùng một vỏ hình thức âm thanh (bác) nhưng có hai cấu trúc nghĩa
khác nhau: cấu trúc nghĩa định danh (trường hợp A) và cấu trúc nghĩa xưng
gọi (trường hợp A') cho đối tượng được nói đến ở trường hợp A. Ở cấu trúc
nghĩa A' được mở rộng phạm vi sử dụng của từ bác.
- Có sự tương đồng trong cấu trúc nghĩa ở hai trường hợp A và A' đó là:
(thành viên trong quan hệ gia đình), (chỉ giới tính (nam/nữ), (bậc trên với Ego,
thế hệ ngang hàng với bố mẹ), (có quan hệ huyết thống được pháp luật thừa
nhận/không có quan hệ huyết thống).
- Có sự khác nhau về cấu trúc nghĩa trong hai trường hợp A và A':
+ Ở trường hợp thứ nhất (A), nét nghĩa đầu tiên là chỉ về đối tượng (chỉ
người) - đây là nét nghĩa cơ sở, nét nghĩa đen thuộc về từ loại danh từ. Ở
trường hợp thứ hai (A'), nét nghĩa đầu tiên dùng để xưng gọi cho đối tượng
được nói tới ở nghĩa cơ sở hay nói cách khác là "thay thế" cho đối tượng đích
danh cho nên thuộc về từ loại đại từ.
57
+ Ngay trong từng nét nghĩa cũng có những khác biệt, thể hiện ở nét
nghĩa bậc và nét nghĩa quan hệ. Trong huyết thống là chỉ bậc trên, còn ngoài xã
hội có nhiều bậc khác nhau (bậc trên, bậc dưới, ngang hàng). Từ nét nghĩa quan
hệ gia đình (trường hợp A) đã phát triển thành quan hệ xã hội (trường hợp A').
- Từ sự phân tích thành tố nghĩa trên có thể thấy: Trường hợp từ bác,
cùng một vỏ âm thanh nhưng có hai cấu trúc nghĩa khác nhau (danh từ và đại
từ). Trường hợp A, nét nghĩa cơ sở (nghĩa gốc, nghĩa cơ bản, nét nghĩa chủ
yếu) chỉ về người thuộc thế hệ ngang hàng bố mẹ mình (nét nghĩa thứ nhất -
chỉ người) cho nên thể hiện tính chất của từ loại danh từ. Còn trường hợp A',
nét nghĩa thứ nhất dùng để xưng gọi cho đối tượng được thể hiện trong nghĩa
cơ sở (hay nói cách khác là "thay thế" cho đối tượng đích danh), cho nên
thuộc về nghĩa của đại từ.
Xét các ngữ cảnh sau:
(1) “Bác1 Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh
Ôi người cha đôi mắt mẹ hiền sao!” [V1]
(2) Ông Giáp gọi là bác2 mới đúng.
Từ ngữ cảnh (1) và (2) trên có thể thấy: bác là đối tượng xác định, cụ
thể xác định bằng các định ngữ “Hồ” (họ) (tên riêng cụ thể), cho nên thuộc về
danh từ. Còn trường hợp bác2 là xưng gọi cho sự vật được quy chiếu “gọi là
bác” cho nên thuộc về đại từ.
- Sự phát triển mở rộng nghĩa trong hai trường hợp A và A' nói trên:
nếu ở trường hợp A có 6 nét nghĩa, thì ở trường hợp A' có 7 nét nghĩa. Trường
hợp A' có thêm nét nghĩa thứ 6 là (biểu thị sự tôn kính/thân mật) - đây là nét
nghĩa thể hiện mục đích phát ngôn và có liên quan đến nghĩa đầu tiên của đại
từ xưng hô ở trường hợp A' (xưng gọi). Và đây cũng là nét nghĩa phân biệt
giữa hai nghĩa A và A' nói trên.
Từ “bác” rộng đến mức phát triển, mở rộng nét nghĩa từ quan hệ gia
đình đến quan hệ xã hội, từ xưng hô với người có quan hệ thân tộc đến xưng
58
hô với những người không có quan hệ thân tộc. Đây là một trong những cách
xưng hô “mô phỏng theo xưng hô thân tộc”. Sự phát triển của giao tiếp xã hội,
thể hiện tính chất “gia đình hóa xã hội” để đạt được mục đích giao tiếp tạo sự
gần gũi thân mật giữa các đối tượng tham gia giao tiếp với nhau.
Về giới, do sự ảnh hưởng của tư tưởng cũ “trọng nam khinh nữ” cho nên có
chuyển biến nghĩa từ vai gia đình đến vai xã hội do vậy nam phát triển hơn, còn
nữ ít hơn (trừ một số trường hợp như từ “bác gái” được dùng giao tiếp ngoài xã
hội). Chẳng hạn:
(3) “- Cháu gửi bác gái ngâm rượu uống. Hôm nọ bác chẳng bảo bác
gái vừa ốm dậy là gì?” [V2: tr. 180-190].
Điều này có thể thấy: trong giao tiếp, nguyên tắc là xưng khiêm hô tôn
được sử dụng nhiều để đạt được sự hợp tác cao và biểu thị sự lịch sự trong
giao tiếp.
Việt Nam gọi Chủ tịch Hồ Chí Minh là “Bác” ("Bác" được viết hoa),
không dựa trên quan hệ gia đình, thể hiện sự quý mến, cách gọi trân trọng và
tôn kính đối với người lãnh tụ vô vàn kính yêu của dân tộc. Chúng ta gặp rất
nhiều những từ, cụm từ biểu thị tình cảm của nhân dân Việt Nam đối với lãnh
tụ như “Vị cha già kính yêu của dân tộc”. Ví dụ:
(4) "Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha" [V3].
Ngoài ra, cách gọi này cũng được dùng để gọi cho những bậc lãnh đạo
được nhân dân kính trọng, như: bác Tôn - Tôn Đức Thắng [V4], bác Giáp - Võ
Nguyên Giáp [V4].
Từ những phân tích ở trên có thể thấy, từ tầng nghĩa cơ bản của từ bác
định danh về đối tượng cụ thể trong quan hệ gia đình, đã phát triển và nâng
lên tầng cao mới trở thành tầng nghĩa biểu trưng trong xã hội qua biểu tượng
“BÁC” (trong tất cả các văn bản chúng tôi khai thác, khi viết về Chủ tịch Hồ
Chí Minh đều viết hoa từ bác). Nghĩa biểu tượng của từ "BÁC" dựa vào biểu
59
tượng nói chung trong hiện thực (gọi là "mẫu gốc") cho nên cách gọi "BÁC"
dùng để gọi bậc lãnh tụ kính yêu của dân tộc, qua đó thể hiện tình cảm trân
trọng, kính yêu của nhân dân đối với vị lãnh tụ vô vàn kính yêu của dân tộc
Việt Nam. Nghĩa biểu tượng của từ "như là một kiểu nghĩa từ vựng, là một
loại nội dung của từ, một tồn tại tinh thần thuộc ngôn ngữ trong kí hiệu từ"
[98, tr.216]. Đây là kiểu nghĩa biểu cảm - văn hóa thường gắn với chức năng
thẩm mĩ của từ, ngữ. Trong hệ thống ngôn ngữ, nghĩa biểu tượng là ý nghĩa
phái sinh và có quan hệ với nghĩa gốc (nghĩa cơ bản) của từ khi biểu đạt nghĩa
gốc đó. Nghĩa biểu tượng được hình thành do kết quả của sự chuyển nghĩa từ
nghĩa cơ bản của từ đa nghĩa.
Ngoài ra, từ bác còn được dùng để gọi cho những người có tuổi, có
nghề nghiệp nhất định và gọi theo nghề nghiệp hoặc chức vụ nghề đó: bác tài,
bác phó, bác làm vườn, v.v.
Đặc trưng ngữ nghĩa của từ bác ở cả hai trường hợp, khi là danh từ
mang nghĩa đặc trưng biểu thị sự vật được định danh cho nên nét nghĩa cơ
bản (chỉ người) và thể hiện nét nghĩa (thứ bậc - bề trên). Cấu trúc nghĩa của
các danh từ không chỉ là có nghĩa chỉ sự vật mà còn kiêm thêm thuộc tính
khác là thay thế cho đối tượng được định danh thể hiện qua ý nghĩa của từ. Sự
phát triển nghĩa từ phạm vi gia đình và được mở rộng phạm vi rộng lớn hơn là
xã hội; và nét nghĩa thứ bậc được mở rộng hơn so với nghĩa của danh từ (bậc
trên, bậc dưới, ngang hàng). Nét nghĩa biểu thị (tôn kính, kính trọng) đối với
các đối tượng giao tiếp là một trong những đặc trưng của đại từ xưng hô
“bác”, đây là sự mở rộng nghĩa so với nghĩa của danh từ.
Quá trình chuyển biến nghĩa của trường hợp từ bác: Nghĩa cơ sở định danh,
khái niệm (chỉ người đàn ông/đàn bà thuộc bậc trên Ego, trong quan hệ gia đình);
nghĩa phái sinh định danh (sự thân mật, gắn bó, tôn trọng - được thể hiện ở nét
nghĩa thành viên trong gia đình và nét nghĩa bậc trên)); nghĩa chuyển (nghĩa
bóng) dùng để xưng gọi đàn ông/đàn bà trong xã hội và cao hơn phát triển thành
60
nghĩa biểu tượng (Bác Hồ). Cơ chế chuyển biến nghĩa của trường hợp này là sự
mở rộng, phát triển nghĩa (từ chỉ người và xưng gọi trong gia đình đến ngoài xã
hội). Nghĩa thứ hai được phái sinh từ nghĩa thứ nhất theo liên tưởng tương đồng
(ẩn dụ) về đối tượng định danh. Có sự phát triển, chuyển biến nghĩa từ nghĩa biểu
niệm đến nghĩa biểu tượng của trường hợp từ bác.
Từ những phân tích trên có thể thấy, từ bác vừa mang thuộc tính danh từ
thân tộc, vừa mang thuộc tính của đại từ xưng hô. Sự khác nhau trong cấu trúc
nghĩa của danh từ và đại từ chủ yếu là nét nghĩa bậc. Trong huyết thống là chỉ
bậc trên, còn ngoài xã hội có nhiều bậc khác nhau: bậc trên, bậc dưới, ngang
hàng. Chẳng hạn: Trong bài thơ “Khóc Dương Khuê”, Nguyễn Khuyến gọi
Dương Khuê là “bác” và xưng “tôi”. Về tuổi tác, hai người không có quan hệ
ngang bằng, người được gọi “bác” (Dương Khuê) ít tuổi hơn: (5) “Kể tuổi tôi
còn hơn tuổi bác/ Tôi lại đau trước bác mấy ngày” [V5: tr. 31-32]. Cách gọi của
Nguyễn Khuyến dành cho người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ của mình thể hiện
sự kính trọng, lòng kính yêu trọn vẹn ngay từ thuở đầu gặp gỡ cho đến nay.
Trong một câu thơ khác của bài này, tác giả đã giải tình cảm ấy: (6) “Nhớ từ
thuở đăng khoa ngày trước/ Những sớm hôm tôi bác cùng nhau" [V5: tr. 31-
32]. Tình cảm bạn bè thân thiết, giống như tình cảm gia đình ruột thịt. Điều
này giải cho cách dùng từ bác với người ít tuổi, xét về thứ bậc thuộc bậc trên
với Ego.
2.3.1.3. Biểu hiện và cách dùng từ "bác" trong các vai giao tiếp
Khảo sát trường hợp từ bác trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng
Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam. Kết quả thu được
13.995 ngữ cảnh có từ bác được sử dụng trong các vai giao tiếp ở cả ngôi thứ
nhất (ngôi) xưng và ngôi thứ hai (ngôi gọi). Trong cả hai ngôi (xưng và gọi)
có số lượng cách dùng phong phú, ở ngôi thứ hai (gọi) có nhiều cách dùng
hơn (năm cách dùng) so với ngôi thứ nhất (xưng). Có sự phát triển, mở rộng
nghĩa của từ bác trong giao tiếp, từ nghĩa cơ bản xưng gọi người thuộc bậc
61
trên trong quan hệ gia đình mở rộng để xưng gọi ngoài xã hội. Đây là ảnh
hưởng của xã hội, yếu tố “gia đình hóa” giúp cải thiện giao tiếp và rút ngắn
khoảng cách giao tiếp giữa các đối tượng giao tiếp từ xa lạ trở nên thân thiết,
gần gũi hơn. Về cơ bản trong cả hai ngôi xưng và gọi, nét nghĩa cơ bản của từ
bác [bậc trên Ego] thể hiện nét nghĩa “kính trọng”, cho nên đây cũng là nét
nghĩa cơ bản hiện thực hóa chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại
từ. Quá trình chuyển biến nghĩa của từ bác, từ xưng hô trong gia đình đã mở
rộng, phát triển trong xưng hô phổ biến ngoài xã hội qua phương thức ẩn dụ.
Muốn nhận biết sự khác biệt trong cấu trúc nghĩa danh từ và đại từ ở trường
hợp này có thể xét vai giao tiếp: đối với nghĩa danh từ, vai giao tiếp thuộc bậc
trên theo thứ bậc trong gia đình (bác thuộc bậc trên Ego). Còn đối với nghĩa
đại từ, mở rộng thứ bậc (bậc trên, bậc dưới, bậc ngang hàng) trong giao tiếp
ngoài xã hội.
Cách xưng gọi bác trong cả hai ngôi rất đa dạng, để minh chứng chúng
tôi chứng minh cụ thể qua cách xưng gọi của từ "Bác Hồ". Từ "Bác Hồ" được
dùng để xưng "bác" trong quan hệ: (i) Cách xưng thứ nhất, trong khi gọi nhi
đồng, Người xưng bác và gọi cháu (bác – cháu), với cương vị là chủ tịch nước,
Người lớn tuổi xưng với cháu là tự nhiên. Ví dụ: (7) “Bác cảm ơn các cháu.
Bác khuyên các cháu: Biết giữ kỉ luật, siêng học siêng làm, yêu Chúa yêu nước.
Bác hôn các cháu" [V6]; (ii) Cách xưng thứ hai, trong quan hệ với người kém
tuổi mình: xưng “bác” gọi “cô/chú”. Ví dụ: (8) “Biết tôi là cán bộ phụ trách,
khi bắt tay tôi, Bác nhẹ nhàng nói nhỏ: "Lần đầu đón Bác, chú mặc thế nào
cũng được, nhưng từ nay về sau nhớ chỉ nâu sồng thôi nhé!" [V7: tr. 1-140].
Chúng tôi thử lấy 1000 ngữ cảnh của từ Bác Hồ trong Chương trình tra
cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam, có
thể thấy từ Bác Hồ xuất hiện tần số rất cao và xuất hiện trong lĩnh vực khác
nhau: báo chí (940/1000), văn học (50/1000), sách văn hoá chính trị xã hội
(10/1000).
62
Trong các tình huống giao tiếp khác nhau, biểu hiện nội dung ngữ nghĩa
khác nhau, cho nên ngữ nghĩa của trường hợp từ bác không cố định. Với tần suất
sử dụng cao của từ bác trong các ngữ cảnh, được dùng phổ biến trong báo chí
chính luận. Ngoài ra, từ bác được sử dụng nhiều trong hội thoại giao tiếp đời
thường và xuất hiện cả trong ngôn ngữ toàn dân và địa phương.
Như vậy, qua những phân tích trên cho thấy: có sự phát triển, mở rộng
nghĩa của từ “bác”, từ trong quan hệ gia đình đến quan hệ xã hội. Từ bác có
các nét nghĩa về thế hệ (thuộc G-1), dòng thân tộc (bàng hệ), giới tính (với miền
Bắc là anh/chị của cha/mẹ), hàng (trên G-0), tuyến thân tộc. Ngoài ra từ bác biểu
hiện về quan hệ, vị trí, chức năng, quyền hạn và nghĩa vụ. Trên nền tảng đó để
phát triển nét nghĩa xã hội. Đây cũng là một trong những biểu hiện của sự
chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ của trường hợp từ bác.
2.3.2. Trường hợp từ "cô"
Nếu lấy BẢN THÂN/TÔI (Ego) làm cơ sở (G0), thì cô là thế hệ bậc
trên Ego, cùng hàng với cha mẹ (G1). Trong gia đình, cô được dùng cho cả
dòng trực hệ và bàng hệ. Cô thuộc quan hệ đằng nội. Cách dùng từ cô để gọi
người thuộc thế hệ ngang hàng bố mẹ của mình và để gọi thay cho con của
mình. Như vậy, trong quá trình chuyển nghĩa, từ cô không những được sử
dụng trong phạm vi gia đình mà đã được phát triển thêm nghĩa mới và được
sử dụng để xưng hô ngoài xã hội.
2.3.2.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "cô" trong các Từ điển tiếng Việt
Trong Đại Nam quấc âm tự vị, từ cô được miêu tả nghĩa như sau:
"Cô. c. Chị em bên cha. Con gái nhà quan hoặc là người danh giá" [21,
tr.175].
Từ điển này, từ cô được miêu tả với nghĩa: nghĩa biểu niệm chỉ người
trong quan hệ gia đình (Chị em bên cha) và trong liên hệ xã hội (Con gái nhà
quan hoặc là người danh giá).
63
Khác với Đại Nam quấc âm tự vị, đến Việt Nam tự điển [52, tr. 87]
cũng chưa chú từ loại, nhưng đã tách thành hai nghĩa khác nhau đối với
trường hợp từ cô: 1. dùng để xưng gọi trong gia đình (Tiếng gọi chị hay là em
cha) và 2. xưng gọi ngoài xã hội (Tiếng gọi con quan, người đàn bà trẻ tuổi).
Ở đây có sự khác nhau về định danh đối tượng (trong quan hệ gia đình và
ngoài xã hội). Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ cô để thấy sự chuyển
biến đó:
(B): cô = [(Người đàn bà)1, (em gái hoặc chị của cha)2, (có quan hệ
huyết thống)3]
(B'): cô = [(Người đàn bà)1, (thân mật, được coi trọng)2, (không có
quan hệ huyết thống)3]
Từ cấu trúc B và B' cho thấy: Cả hai trường hợp này giống nhau ở nét
nghĩa thứ nhất là nét nghĩa cơ sở (chỉ người đàn bà), khác nhau ở các nét
nghĩa thứ hai và thứ ba. Trong đó, nghĩa thứ hai (B) là nghĩa phái sinh định
danh - bậc dưới (em gái) hoặc bậc trên (chị của cha) cho nét nghĩa thứ hai
(B') (thân mật, được coi trọng). Phương thức chuyển nghĩa của từ cô, nghĩa
thứ hai được phái sinh từ nghĩa thứ nhất dựa trên sự tương đồng giữa đối
tượng định danh (ẩn dụ). Có sự chuyển biến, mở rộng nghĩa từ chỉ người
trong gia đình (Chị em bên cha) và dùng để xưng gọi ngoài xã hội (Con gái
nhà quan, người đàn bà trẻ tuổi).
Trong Tự điển Việt Nam phổ thông [89, tr. 123], từ cô được ghi nhận có
mười nghĩa. Nghĩa thứ nhất chỉ người (Em gái (hoặc chị) của cha). Các nghĩa
còn lại dùng để xưng gọi trong gia đình (Tiếng gọi những người kể như cô
mình hay cô của con mình (gọi hộ con) và Mẹ chồng) và xưng gọi ngoài xã
hội (Con gái các quan hay các nhà phú quý; Tiếng lịch-sự gọi người đàn bà
giang-hồ; Thiếu-nữ ít tuổi hay chưa có chồng).
Đến Việt Nam tân tự điển, từ cô được miêu tả cụ thể hơn chỉ người
trong gia đình và ngoài xã hội:
64
cô. dt.
I. 1. Tiếng gọi chị hay là em cha; tiếng của mình kêu em hay chị gái khi nói
với con. 2. Anh em con cô con cậu.
II. 1. Tiếng gọi chung các cô gái, hay các đàn-bà trẻ nhà khá-giả. Hỡi cô tát
nước bên đàng, Cớ sao hớt ánh trăng vàng đổ đi (C. d) Ba cô đội gạo lên
chùa, Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư (C. d). 2. Cô ả (itd); Cô dâu. Cô dì. Cô
đầu. Cô đỡ, cũng gọi là cô mụ. Cô gái. Cô giáo. Cô nương. Cô mình. Cô hồn,
cô đồng bóng [73, tr. 232].
Đến Từ điển tiếng Việt (TĐVT) [88, tr. 204], từ cô ghi nhận có bốn nghĩa
và có chú từ loại danh từ và đại từ: Nghĩa danh từ dùng để chỉ người (Em gái
của cha mình) và nghĩa đại từ dùng để xưng gọi trong gia đình (Từ dùng để gọi
cô mình, để xưng với em của cha mình, để gọi em gái mình) và xưng gọi ngoài
xã hội (Từ dùng để gọi người nữ giáo viên dạy mình hoặc người đáng tuổi cô
mình; Từ dùng để gọi người con gái còn thanh niên hoặc đáng tuổi em mình).
Trong Việt Nam tự điển [30, tr. 207], từ cô được ghi nhận có năm nghĩa
khác nhau. Trong đó, nghĩa danh từ được dùng để chỉ người chị hay em gái
của cha mình. Nghĩa đại từ được dùng để xưng gọi trong gia đình (Tiếng gọi
chị hay em gái của cha mình; Tiếng anh và chị dâu gọi tâng em gái (gọi theo
con)) và xưng gọi ngoài xã hội (Tiếng gọi các gái chưa chồng hoặc có chồng
mà không thân lắm; Tiếng gọi các người đàn-bà có nghề làm ăn mua-bán
hoặc chồng họ có các nghề ấy; Tiếng gọi các hồn ma con gái).
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, từ cô được ghi nhận có năm nghĩa
khác nhau:
cô. dt.
1. Em gái hoặc chị của cha (có thể dùng để xưng gọi). Cô ruột. Bà cô họ. Cô
đợi cháu với. 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người con gái hoặc người phụ nữ
trẻ tuổi, thường là chưa có chồng. Cô bé. Cô thợ trẻ. 3. Từ dùng để gọi cô
giáo hoặc cô giáo dùng để tự xưng khi nói với học sinh. Cô cho phép em
nghỉ học một buổi. 4. Từ dùng trong đối thoại để gọi người phụ nữ coi như
65
bậc cô của mình với ý yêu mến, kính trọng, hoặc để người phụ nữ tự xưng
một cách thân mật với người coi như hàng cháu của mình. 5. Từ dùng trong
đối thoại để gọi em gái đã lớn tuổi với ý coi trọng, hoặc để gọi một cách thân
mật người phụ nữ coi như vai em của mình (gọi theo cách gọi của con mình).
[80, tr. 202]
Trong năm nghĩa trên, nghĩa thứ nhất chỉ người trong quan hệ gia đình
(Cô ruột, Bà cô họ,…) và các nghĩa còn lại được dùng để “xưng gọi” trong
liên hệ xã hội (cô bé; cô thợ trẻ, cô giáo,...).
So với Đại Nam quấc âm tự vị, từ cô trong Từ điển tiếng Việt có sự mở
rộng nghĩa, phát triển theo chiều hướng văn hóa - lịch sử - xã hội. Trong Đại
Nam quấc âm tự vị là từ quan hệ gia đình, phát triển thành quan hệ xã hội
nhưng thuộc phạm vi xã hội phong kiến “bề trên - con dân” với nghĩa tôn
kính. Đến Từ điển tiếng Việt, từ quan hệ gia đình đã mở rộng và phát triển
không chỉ quan hệ xã hội theo bậc trên - dưới với nghĩa tôn kính (cô giáo) mà
còn có cả bậc ngang dưới (cô em).
Có thể hình dung sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ cô trong các từ điển
qua bảng 2.2 sau:
TĐHP (2012)
TĐKT (1931)
TĐĐVT (1951)
TĐTN (1952)
TĐVT (1967)
TĐLVĐ (1970)
Từ điển Nghĩa
TĐ HTC (1895- 1896) 1
Nghĩa 1 Nghĩa 2 Nghĩa 3 Nghĩa 4 Nghĩa 5 Nghĩa 6 Nghĩa 7 Nghĩa 8 nghĩa 9
1 2 3 4 5
1 4 2 3 5
1 2
1 4 3 2
1 4 3 2
1 3 2 4 5
Bảng 2.2: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "cô" trong các Từ điển tiếng Việt
66
Từ bảng 2.2 có thể hiểu như sau: Cách miêu tả nghĩa thứ nhất của từ cô
trong TĐHP sẽ tương ứng với tất cả cách miêu tả nghĩa ở tất cả nghĩa thứ nhất
ở các từ điển khác. Cách miêu tả nghĩa thứ hai của TĐHP chỉ tương ứng với
nghĩa thứ hai (TĐKTTĐ), nghĩa thứ ba (TĐLVĐ), nghĩa thứ tư (TĐTN,
TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ ba của TĐHP tương ứng cách miêu tả nghĩa
thứ ba (TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ tư của TĐHP tương ứng với nghĩa
thứ tư (TĐĐVT), nghĩa thứ ba (TĐTN). Cách miêu tả nghĩa thứ năm của
TĐHP tương ứng nghĩa thứ hai (TĐĐVT, TĐTN, TĐVT, TĐLVĐ). Cách
miêu tả nghĩa thứ ba và thứ năm của TĐĐVT và nghĩa thứ tư, năm thứ năm
của TĐĐVT không tương ứng với các công trình khác.
Khảo sát sự biểu biện ngữ nghĩa của từ cô trong các từ điển ngữ văn đã
phản ánh tiến trình phát triển nghĩa theo trục lịch đại. Từ những năm 1895 -
1896, từ cô được dùng trong xưng hô chỉ những người thuộc bậc trên với Ego
và dùng để xưng hô ngoài xã hội. Quá trình chuyển nghĩa của trường hợp từ
cô là: từ nghĩa định danh, khái niệm (chỉ người) và được dùng để xưng gọi
trong gia đình được mở rộng dùng trong xưng hô phổ biến ngoài xã hội. Qua
nghiên cứu trường hợp từ cô cho thấy, cùng một từ (cô) vừa mang thuộc tính
nghĩa danh từ (chỉ người), vừa mang thuộc tính nghĩa đại từ (xưng gọi).
2.3.2.2. Cấu trúc ngữ nghĩa của từ “cô”
Luận án lấy định nghĩa từ cô trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê
(xem định nghĩa mục 2.3.2.1) để thấy được sự hiện diện đầy đủ nội dung
nghĩa, sự mở rộng và phát triển nghĩa của từ cô mà các từ điển ra đời trước đó
chưa có. Từ đó xác định được nghĩa cơ sở và nghĩa chuyển của từ cô để phân
tích cấu trúc nghĩa.
Có thể khái quát cấu trúc nghĩa chung nhất của trường hợp cặp từ cô
như sau:
67
(C): cô = [chỉ người]1, [thành viên trong quan hệ gia đình]2, [có quan hệ
huyết thống không trực hệ]3, [chỉ giới tính nữ]4, [bậc trên với Ego]5, [quan hệ
gia đình là đằng nội]6.
(C’): cô = [xưng gọi về người]1, [thành viên trong gia đình hoặc xã
hội]2, [có quan hệ huyết thống hoặc không có quan hệ huyết thống]3, [chỉ giới
tính nữ]4, [bậc (bậc trên hoặc bậc dưới hoặc ngang bằng)]5, [quan hệ gia đình
là đằng nội]6, [biểu thị sự thân mật, gần gũi, được coi trọng]7.
Như vậy:
- Cùng một vỏ hình thức âm thanh (cô) nhưng chứa đựng hai cấu trúc
nghĩa khác nhau (C và C’). Cấu trúc C, chỉ đối tượng định danh khái niệm;
cấu trúc C’ xưng gọi cho đối tượng được nói đến ở cấu trúc C.
- Có sự tương đồng trong cấu trúc nét nghĩa ở hai trường hợp C và C’
đó là: (thành viên trong quan hệ gia đình), (chỉ giới tính nữ), (bậc trên với
Ego, thế hệ ngang hàng với bố mẹ), (có quan hệ huyết thống được pháp luật
thừa nhận/không có quan hệ huyết thống).
- Có sự khác nhau về cấu trúc nghĩa trong hai trường hợp C và C’:
+ Khác nhau ở nét nghĩa đầu tiên: ở trường hợp thứ nhất (C), nét nghĩa
đầu tiên là chỉ về đối tượng (chỉ người) - đây là nét nghĩa cơ sở, nét nghĩa đen
thuộc về từ loại danh từ ; ở trường hợp thứ hai (C’), nét nghĩa đầu tiên dùng
để xưng gọi cho đối tượng được nói tới ở nghĩa cơ sở, hay nói cách khác là
“thay thế” cho đối tượng đích danh cho nên thuộc về từ loại đại từ.
+ Ngay trong từng nét nghĩa cũng có những khác biệt: trong huyết
thống là chỉ bậc trên, còn ngoài xã hội có nhiều bậc khác nhau (bậc trên, bậc
dưới, ngang hàng). Từ nét nghĩa quan hệ gia đình (trường hợp C) đã phát
triển thành quan hệ xã hội (trường hợp C’).
+ Có sự phát triển mở rộng nghĩa trong hai trường hợp C và C’ nói
trên: nếu ở trường hợp C có sáu nét nghĩa, thì ở trường hợp C’ có bảy nét
nghĩa (thêm nét nghĩa biểu thị sự thân mật, gần gũi và được coi trọng - đây là
68
nét nghĩa thể hiện mục đích phát ngôn và có liên quan đến nghĩa đầu tiên của
đại từ xưng hô ở trường hợp C’ (xưng gọi). Đây cũng là nét nghĩa phân biệt
giữa hai nghĩa C và C’ nói trên.
Cơ chế biến đổi nghĩa của trường hợp từ cô, từ danh từ chỉ người được
dùng để xưng gọi về chính đối tượng định danh đó. Đây là hình thức mở rộng,
phát triển thêm nghĩa mới trên cơ sở nghĩa cũ. Đây cũng là quy luật tiết kiệm
ngôn ngữ, xuất hiện nghĩa mới trên cơ sở nghĩa đã có sẵn qua phương thức
chuyển nghĩa.
Từ sự phân tích trên có thể thấy, trong cùng một một vỏ âm thanh (cô)
nhưng có hai thuộc tính nghĩa danh từ và nghĩa đại từ. Trường hợp C, nghĩa cơ
sở (nghĩa gốc, nghĩa cơ bản, nét nghĩa chủ yếu) định danh, khái niệm nét nghĩa
thứ nhất (chỉ người thuộc thế hệ ngang hàng bố mẹ mình) cho nên thể hiện đặc
trưng nghĩa danh từ. Còn trường hợp C’, nét nghĩa thứ nhất dùng để xưng gọi
cho đối tượng được thể hiện trong nghĩa cơ sở (hay nói cách khác là “thay thế”
cho đối tượng đích danh), vì vậy thuộc về đặc trưng của nghĩa đại từ.
(9) "Con cô1 con cậu thì xa, con chú con bác thật là anh em" [V8].
Xét các ngữ cảnh sau:
(10) "- Oan ức cho thầy cô2 lắm, con ơi" [V9: tr. 271].
Ngữ cảnh 9 và 10 cho thấy từ cô có nghĩa khác nhau. Ngữ cảnh 9, từ
cô1 chỉ người thuộc thế hệ ngang hàng với bố mẹ mình nên nó thuộc về nghĩa
định danh, khái niệm (danh từ); ở ngữ cảnh 10, từ cô2 dùng để xưng gọi về
người phụ nữ được kính trọng (xưng gọi theo chức danh nghề nghiệp - giáo
viên), do đó thuộc về nghĩa đại từ.
Từ những phân tích trên có thể thấy, cấu trúc nghĩa của trường hợp từ
cô biểu hiện: nghĩa cơ sở (chỉ người thuộc bậc trên Ego trong quan hệ gia
đình) - nghĩa phái sinh định danh (nét nghĩa “bậc trên”) - nghĩa chuyển (“sự
tôn trọng, thân mật”) trong xưng hô ngoài xã hội qua phương thức ẩn dụ.
69
2.3.2.3. Biểu hiện và cách dùng từ “cô” trong các vai giao tiếp
Khảo sát trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ
điển học và Bách khoa thư Việt Nam của trường hợp từ cô có thể thấy: Từ cô
có 40.176 ngữ cảnh. Các ngữ cảnh chủ yếu thu thập các văn bản thuộc báo
chí vì lĩnh vực báo chí thuộc ngữ liệu văn viết, chủng loại vô cùng phức tạp,
sử dụng tần suất cao, số lượng ngữ liệu lớn, phát sinh hiện tượng chuyển
nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ tương đối lớn.
Tần suất xuất hiện khá cao các trường hợp sau: cô gái (4.875 lần), cô
giáo (1.018 lần), cô bé (935 lần), cô em (286 lần), cô tôi (188 lần), cô ruột (34
lần), bà cô họ (14 lần),… Điều này cho thấy, các xưng hô ngoài xã hội của
trường hợp từ cô được dùng khá phổ biến.
Từ cô có nội dung ngữ nghĩa khá đa dạng, dùng để chỉ người trong gia
đình và người ngoài xã hội. Từ cô được dùng để định danh, khái niệm (chỉ
(11) “- Tôi là em ruột bố cháu. Tôi là cô ruột” [V10: tr. 201].
người thuộc thế hệ ngang hàng với cha): cô ruột, bà cô họ, … Ví dụ:
Bên cạnh đó, từ cô còn được dùng để xưng hô trong gia đình và ngoài
xã hội. Trong phạm vi gia đình, từ cô được dùng với nghĩa cơ sở: (i) Dùng để
xưng hô người thuộc thế hệ ngang hàng với bố mình (chị gái hoặc em gái của
bố). Đó là xưng hô trong gia đình tương ứng chính xác với các cặp là cô -
cháu, cháu - cô. (ii) Dùng trong đối thoại gọi em gái (hay người phụ nữ gọi
em chồng) hoặc dùng khi bố mẹ gọi thay cho con mình. Đó là xưng hô trong
gia đình tương ứng không chính xác với các cặp từ là cô - con, cô - anh, cô -
chị, con - cô, anh - cô, chị - cô. Cách dùng trong xưng hô gia đình của từ cô
mang sắc thái biểu cảm thân mật và biểu thị nét nghĩa bậc là chủ yếu. (iii)
Riêng trường hợp từ cô được dùng để gọi vợ mình (tôi - cô) với sắc thái biểu
cảm không trang trọng, không thân mật và thường dùng trong các trường hợp
có hoặc sắp có mâu thuẫn gia đình, tạo khoảng cách trong quan hệ.
70
Ở phạm vi giao tiếp xã hội, từ cô được dùng trong các trường hợp: (i) Từ
dùng để chỉ người con gái trẻ tuổi như cô bé; cô thợ trẻ, ... Trong cách xưng gọi
này thể hiện nét nghĩa thứ năm (trẻ tuổi) của trường hợp D’. Ví dụ: (12) “Thủy
bố trí bên trong các ghế gội đầu ba cô thợ trẻ là: Tuyết, Thanh, Loan, mỗi
người phụ trách một ghế” [V11: tr. 4]. (ii) Từ dùng để gọi người có địa vị xã
hội, được kính trọng (cô giáo) thể hiện ở nét nghĩa tôn trọng. Ví dụ: (13)
“Chúng em luôn kính trọng biết ơn các thầy giáo cô giáo” [V12]. (iii) Từ dùng
trong đối thoại để gọi người phụ nữ coi như bậc cô của mình với ý yêu mến,
kính trọng, hoặc để người phụ nữ tự xưng một cách thân mật với người coi như
hàng cháu của mình. Trong cách dùng này, nét nghĩa “thân mật” được ưu tiên.
Ví dụ: (14) "Cái cò lặn lội bờ ao/ Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?" [V8].
Ở phạm vi giao tiếp ngoài xã hội, cặp xưng hô tương ứng chính xác
(như cô - cháu, cháu - cô) và cặp xưng hô không chính xác (như cô - con, cô -
em, con - cô, anh - cô, chị - cô).
Như vậy, qua nghiên cứu trường hợp từ cô cho thấy có sự chuyển nghĩa
danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ trong tiếng Việt. Về số lượng nét nghĩa
(danh từ có sáu nét nghĩa và đại từ có bảy nét nghĩa), có sự chuyển nghĩa của
danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ. Quá trình chuyển nghĩa đó thể hiện ở
chỗ: trong cùng một từ vừa có thuộc tính nghĩa của chính từ loại đó đảm nhận
(danh từ), vừa mang thuộc tính nghĩa của từ loại khác (đại từ). Hai ý nghĩa đó
thuộc vào hai phạm vi khác nhau: thuộc về định danh, khái niệm (danh từ) và
thuộc về xưng gọi (đại từ). Về ngữ nghĩa, có hiện tượng phân ly nghĩa: nghĩa
cơ sở - nghĩa phái sinh định danh - nghĩa chuyển. Cơ chế biến đổi nghĩa là
mở rộng nghĩa so với nghĩa gốc ban đầu. Trong cấu trúc nghĩa của trường hợp
từ cô vừa có nét nghĩa giới tính vừa có nét nghĩa thứ bậc, vừa có nét nghĩa
thân mật.
Trường hợp từ cô diễn ra hai thế đối lập trong xưng hô gia đình và
ngoài xã hội. Nếu như xưng hô trong gia đình có xu hướng “thân mật hóa”
71
trong các quan hệ gia đình. Do đó, từ cô được dùng để gọi thay cho cả “dì, mợ,
thím”, khi đó ranh giới “đối lập nội/ngoại” bị xóa nhòa. Xu hướng đẩy mối
quan hệ ra xa trong cách dùng (tôi - cô, cô - anh, cô - chị, anh - cô, chị - cô).
Còn xưng hô ngoài xã hội có xu hướng chuyển nghĩa của từ cô là mất dần
nghĩa “thân mật”.
Nghiên cứu trường hợp bác/cô có thể thấy: Trường hợp bác có sự phát
triển nghĩa mạnh nhất và có mức độ xã hội hóa cao hơn trường hợp cô,
nguyên nhân “có lẽ vì nội dung ngữ nghĩa quá “tròn trịa” của từ bác nên trong
xưng hô giao tiếp xã hội nó được dùng phổ biến hơn, với sắc thái kính trọng,
thân mật, gần gũi hơn nhiều so với các danh từ thân tộc cùng thế hệ là chú,
cậu, cô, dì” [26, tr. 134].
2.3.3. Trường hợp cặp từ "ông/bà"
Sở dĩ chọn cặp từ ông/bà để nghiên cứu bởi vì: Cặp từ ông/bà xuất hiện
trong gia đình, trong phạm vi xưng hô giao tiếp xã hội. Trong gia đình, từ
ông/ bà thuộc thế hệ G-2, nhân vật vật trung tâm, được dùng cho cả dòng trực
hệ và bàng hệ. Cách dùng từ ông/bà để gọi người thuộc thế hệ sinh ra bố mẹ
của mình và để gọi thay cho con của mình. Từ những nét nghĩa cơ bản chủ
yếu trong gia đình, phát triển thêm các nghĩa mới ngoài xã hội.
2.3.3.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của cặp từ "ông/bà" trong các Từ điển tiếng Việt
a. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "ông" trong các Từ điển tiếng Việt
So sánh cách giải thích nghĩa của từ ông trong bảy công trình từ điển
tiếng Việt qua các mốc thời gian khác nhau có thể thấy được sự chuyển biến
nghĩa và phát triển nghĩa của từ ông rất rõ.
[21, tr. 792], người biên soạn mặc dù chỉ xử lý đơn nghĩa nhưng về mặt ngữ
Trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Paulus Của (1895-1896)
nghĩa cũng đã phân biệt thành: nghĩa định danh khái niệm trong quan hệ gia
đình (cha cha mẹ mình) và nghĩa xưng gọi trong liên hệ xã hội (tiếng xưng hô
quan trưởng cùng kẻ tuổi cao tác lớn; tiếng quan trưởng xưng mình).
72
Các nghĩa trên cũng được ghi nhận trong Việt Nam tự điển (1931) [52,
tr.425] và từ điển này có thêm hai nghĩa mới: Tiếng gọi những bậc thần-thánh
anh-linh. Tiếng gọi chung những người đàn ông. Ở công trình này đã xử đa
nghĩa và tách các nghĩa riêng biệt, tuy nhiên vẫn chưa chú từ loại. Qua cách
giải thích trong từ điển, chúng ta có thể thấy được sự khác biệt của đối tượng
định danh, đây cũng là sự chuyển biến, mở rộng nghĩa, thể hiện rõ nhất ở
nghĩa thứ nhất (Cha của cha mẹ mình) và nghĩa thứu ba (Tiếng gọi người đàn
ông có phẩm-vị). Mối liên hệ giữa hai nghĩa này là nét nghĩa quan hệ gia đình
đã hàm ẩn sự thân mật và nét nghĩa bậc trên và tuổi tác hàm ẩn sự kính trọng.
Đây cũng là nét nghĩa phái sinh định danh để chuyển nghĩa xưng gọi người
đàn ông có phẩm vị ngoài xã hội (với sự kính trọng).
Các công trình về sau tiếp tục ghi nhận các nghĩa đó và khái quát với mức
độ khác nhau. Trong Tự điển Việt Nam phổ thông, từ ông được ghi nhận ba
nghĩa, không còn nghĩa "Tiếng gọi chung những người đàn ông" [89, tr. 470].
Đến Việt Nam tân tự điển điển [73, tr. 1032], từ ông được miêu tả cụ
thể: Nghĩa thứ nhất chỉ người trong quan hệ gia đình (Cha của cha mẹ mình,
hay cha của chú bác mình; ông nội, ông chú, ông bác, ông ngoại). Nghĩa thứ
hai được dùng để xưng gọi ngoài xã hội (người đàn ông có phẩm vị, đáng
kính). Nghĩa thứ ba chỉ người đàn ông hơi lớn tuổi (ông tiều; ông ăn mày;
ông nọ bà kia). Công trình này đã bắt đầu chú từ loại là danh từ (dt).
Đặc biệt, Từ điển tiếng Việt của Văn Tân [88, tr. 605], từ ông được ghi
nhận bảy nghĩa. Trong đó, hai nghĩa chỉ người và năm nghĩa được dùng để
xưng gọi. Cách dùng của các đại từ ông được thể hiện qua các ngôi (I, II, III).
Ngôi thứ I được dùng xưng với cháu và dùng để tự xưng một cách thô tục.
Ngôi thứ II chỉ một người đàn ông đã trưởng thành, không thân với mình.
Ngôi thứ III chỉ ông nội, ông ngoại. Công trình này ghi nhận số lượng và nội
dung nghĩa phong phú, chi tiết cụ thể đối với xưng gọi trong gia đình và ngoài
xã hội.
73
Việt Nam tự điển [30, tr. 1123], từ ông cũng được ghi nhận có bảy nghĩa
và có sự phân biệt nghĩa xưng gọi trong gia đình (nghĩa thứ nhất) và xưng gọi
ngoài xã hội (nghĩa thứ hai đến nghĩa thứ bảy).
Đến Từ điển tiếng Việt (TĐHP), từ ông ghi nhận có năm nghĩa. Trong đó,
nghĩa thứ nhất chỉ người trong quan hệ gia đình (ông chú, ông cháu, v.v.) và
các nghĩa sau được dùng để xưng gọi trong liên hệ xã hội (ông giáo, ông bạn,
ông Trời, v.v.).
ông. dt.
1. Người đàn ông thuộc thế hệ sinh ra cha hoặc mẹ (có thể dùng để xưng gọi).
2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người đàn ông đứng tuổi hoặc được kính trọng. 3.
(kng.). Từ người đàn ông dùng để tự xưng khi tức giận, muốn tỏ vẻ trịch
thượng hoặc hách dịch.4. (kng.). Từ dùng để gọi người đàn ông hàng bạn bè
hoặc hàng em (hàm ý thân mật). 5. (kết hợp hạn chế). Từ dùng để gọi tôn vật
được sùng bái hay kiêng sợ [80, tr. 731].
Có thể hình dung sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ ông trong các từ điển
qua bảng 2.3 sau:
TĐHP (2012)
TĐKT (1931)
TĐĐVT (1951)
TĐTN (1952)
TĐVT (1967)
TĐLVĐ (1970)
Từ điển Nghĩa
TĐHTC (1895- 1896)
Nghĩa 1
1
1
1
1
1
1
1
Nghĩa 2
2
1
2, 3
2, 3
2, 4
2
3
Nghĩa 3 Nghĩa 4 Nghĩa 5 Nghĩa 6 Nghĩa 7
3 4 5
4
6 5 3
3
2 4
Nghĩa 8 Nghĩa 9 Nghĩa 10
5 6 7
Bảng 2.3: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "ông" trong các Từ điển tiếng Việt
74
Từ bảng 2.3 có thể hiểu như sau: Cách miêu tả nghĩa thứ nhất của từ
ông trong TĐHP sẽ tương ứng với tất cả cách miêu tả nghĩa ở tất cả nghĩa thứ
nhất ở các từ điển khác. Cách miêu tả nghĩa thứ hai của TĐHP chỉ tương ứng
với nghĩa thứ hai (TĐĐVT, TĐTN, TĐVT, TĐLVĐ), nghĩa thứ ba (TĐKT,
TĐTN, TĐVT), nghĩa thứ tư (TĐLVĐ). Cách miêu tả nghĩa thứ ba của TĐHP
chỉ tương ứng cách miêu tả nghĩa thứ sáu (TĐLVĐ). Cách miêu tả nghĩa thứ
tư của TĐHP không tương ứng với nghĩa của tất cả các từ điển khác. Cách
miêu tả nghĩa thứ năm của TĐHP tương ứng nghĩa thứ năm (TĐLVĐ), nghĩa
thứ hai (TĐKT), nghĩa thứ ba (TĐĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ tư (TĐKT),
nghĩa thứ ba (TĐLVĐ) và từ nghĩa thứ tư đến nghĩa thứ bảy (TĐVT) không
tương ứng với TĐHP.
So với TĐHTC, TĐHP có sự mở rộng nghĩa, phát triển theo chiều
hướng văn hóa - lịch sử - xã hội. Trong TĐHTC là từ quan hệ gia đình, phát
triển thành quan hệ xã hội nhưng thuộc phạm vi xã hội phong kiến "bề trên -
con dân" với nghĩa tôn kính. Đến TĐHP, từ quan hệ gia đình đã mở rộng và
phát triển không chỉ quan hệ xã hội theo bậc trên - dưới với nghĩa tôn kính
(ông giáo, ông lão, ông Trời) mà còn có cả bậc ngang hàng (ông bạn). Từ
nghĩa thực thể (xưng gọi con người cụ thể trong cuộc sống với hàm ý kính
trọng - ông giáo, ông lão) đến nghĩa trừu tượng (xưng gọi các vị thuộc thế
giới siêu thực mà người dân tôn sùng - ông Trời). Điều này xuất phát từ tâm
lý "tôn sùng tự nhiên" bởi vì đó là thế giới siêu thực mà con người chưa lý
giải được các hiện tượng tự nhiên đó.
b. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bà" trong các Từ điển tiếng Việt
Trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của (1895-1896) từ bà
được định nghĩa như sau: "Mẹ cha mẹ mình. Tiếng xưng hô đờn bà lớn tuổi,
hoặc là người sang cả" [21, tr. 19]. Các nghĩa này chỉ người trong quan hệ gia
đình và xưng gọi trong liên hệ xã hội.
75
Trong Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến đức [52, tr.20], từ bà
được ghi nhận có sáu nghĩa. Trong đó, nghĩa thứ nhất dùng để xưng gọi trong
gia đình và các nghĩa còn lại được dùng để xưng gọi ngoài xã hội. Trong công
trình này, từ bà có thêm bốn nghĩa mới: Tiếng gọi những người đàn bà thần
thánh anh linh; Tiếng gọi đàn bà có phẩm vị; Tiếng gọi chung những người
đàn bà; Tiếng gọi các người đàn bà đồng bóng ở chùa ở đền. Đối tượng định
danh ngoài xã hội không chỉ là những người đàn bà lớn tuổi hoặc người sang
cả; mà còn được mở rộng thêm nhiều đối tượng khác như những người đàn bà
thần thánh anh linh, người đàn bà đồng bóng ở chùa ở đền và người đàn bà có
phẩm vị.
Đến Tự điển Việt Nam phổ thông, từ bà được ghi nhận có bốn nghĩa và
các nghĩa này về cơ bản giống các nghĩa trong hai từ điển trước.
bà.
1. Mẹ hay cô, dì, bác, thím, mợ của cha hoặc mẹ mình. 2. Đàn bà đã đứng
tuổi hay đã có địa-vị. 3. Vợ của ông. 4. Tiếng gọi các vị nữ-thần [89, tr. 25].
Việt Nam tân tự điển, từ bà được ghi nhận có ba nghĩa và công trình
này đã chú từ loại danh từ (dt):
bà. dt.
I. 1. Mẹ của cha mình. 2. Bà nội; bà ngoại; bà nhạc.
II. Đàn-bà lớn tuổi có chức-phận, danh tiếng.
III. Gọi chung đàn-bà [73, tr. 54].
Đến Từ điển tiếng Việt của Văn Tân, từ bà được ghi nhận có bảy nghĩa.
Trong đó, bốn nghĩa chỉ người và xưng gọi trong quan hệ gia đình (1. Mẹ của
cha hay của mẹ mình. 2. Từ chỉ người đàn bà trong họ ngang hàng với cha
mẹ mình.... 6. Đại từ chỉ ngôi thứ ba chỉ bà nội, bà ngoại. 7. Đại từ ngôi thứ
nhất dùng để xưng với cháu nội, cháu ngoại) và ba nghĩa chỉ người và xưng
gọi trong quan hệ xã hội (3. Từ chỉ người đàn bà đã có chồng và đứng tuổi,
hoặc người đàn bà mình phải kính trọng. 4. Từ chỉ người con gái vua chúa. 5.
76
Đại từ ngôi thứ hai nói với bà mình hoặc một người đàn bà đứng tuổi không
có quan hệ thân với mình) [88, tr. 34].
Trong Việt Nam tự điển, từ bà được ghi nhận có năm nghĩa. Trong đó,
nghĩa thứ nhất được dùng để xưng gọi trong gia đình và các nghĩa còn lại
được dùng để xưng gọi ngoài xã hội. Ở công trình này có thêm nghĩa mới:
Tiếng các người đàn-bà có tên trong sử:
Bà.
1. Tiếng gọi những người đàn-bà già, đáng bà nội bà ngoại mình trở lên. 2.
Tiếng gọi xã-giao những người đàn-bà có chồng. 3. Tiếng gọi thần thánh
đàn-bà hoặc xác phàm các người ấy. 4. Tiếng các người đàn-bà có tên trong
sử. 5. Tiếng gọi vợ các người có chức phận [30, tr. 46].
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, từ bà được ghi nhận có ba nghĩa.
Trong đó, nghĩa thứ nhất chỉ người quan hệ gia đình (Bà nội. Bà ngoại. Bà
thím, v.v.) và hai nghĩa sau được dùng để xưng gọi trong liên hệ xã hội (Bà
giáo. Bà bảo cho mà biết).
bà. dt.
1. Người đàn bà thuộc thế hệ sinh ra cha hoặc mẹ (có thể dùng để xưng gọi).
2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người đàn bà đứng tuổi hoặc được kính trọng. 3.
Từ người đàn bà dùng để tự xưng khi tức giận, muốn tỏ vẻ trịch thượng hoặc
hách dịch [80, tr. 20].
Có thể hình dung sự biểu hiện ngữ nghĩa của bà trong các từ điển qua
bảng 2.4 sau:
TĐHP (2012)
TĐKT (1931)
TĐĐVT (1951)
TĐTN (1952)
TĐVT (1967)
TĐLVĐ (1970)
TĐHTC (1895- 1896)
Từ điển Nghĩa Nghĩa 1
1
1
1
1, 3
1
1, 2, 6, 7
1
Nghĩa 2
2
1
3, 4, 5
2
2, 3
3, 4
2, 5
Bảng 2.4: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bà" trong các Từ điển tiếng Việt
77
Nghĩa 3
3
Nghĩa 4
2
4
3
Nghĩa 5
5
4
Từ bảng 2.4 có thể hiểu như sau: Cách miêu tả nghĩa thứ nhất của từ bà
trong TĐHP sẽ tương ứng với tất cả cách miêu tả nghĩa ở tất cả nghĩa thứ nhất
ở các từ điển khác; nghĩa thứ ba (TĐĐVT); nghĩa thứ hai, nghĩa thứ sáu,
nghĩa thứ bảy (TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ hai của TĐHP chỉ tương ứng
với nghĩa thứ hai (TĐĐVT, TĐTN, TĐLVĐ), nghĩa thứ ba (TĐKT, TĐTN,
TĐVT), nghĩa thứ tư (TĐKT, TĐVT), nghĩa thứ năm (TĐKT, TĐLVĐ).
Cách miêu tả nghĩa thứ ba của TĐHP không tương ứng cách miêu tả nghĩa
của các công trình còn lại. Cách miêu tả nghĩa thứ hai (TĐKT), nghĩa thứ tư
(TĐĐVT), nghĩa thứ ba (TĐLVĐ) tương ứng với nhau. Cách miêu tả nghĩa
thứ năm (TĐVT) và nghĩa thứ tư (TĐLVĐ) tương ứng với nhau.
Như vậy, so với TĐHTC thì từ bà trong TĐHP đã phát triển thêm hai
nghĩa và có sự mở rộng nghĩa, phát triển từ gia đình đến xã hội. Quá trình mở
rộng, thu hẹp nghĩa của từ bà trong từng giai đoạn khác nhau.
2.3.3.2. Cấu trúc ngữ nghĩa của cặp từ “ông/bà”
Luận án lấy Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (2012) làm mốc để thấy
được sự hiện diện ngữ nghĩa của cặp từ ông/bà. Dựa vào định nghĩa (xem
định nghĩa từ ông/bà ở phần 2.3.3.1), có thể khái quát cấu trúc nghĩa chung
nhất của trường hợp cặp từ ông/ bà như sau:
(D): ông/bà = [(chỉ người)1, (thành viên trong quan hệ gia đình)2, (chỉ giới
tính (nam (ông)/nữ (bà)))3, (bậc trên với Ego (Tôi), thế hệ sinh ra bố mẹ)4, (có
quan hệ huyết thống được pháp luật thừa nhận/không có quan hệ huyết thống,
trực hệ, trình tự gãy)]5.
(D’): ông/bà = [(xưng gọi về người)1, (thành viên trong quan hệ gia
đình/quan hệ xã hội)2, (chỉ giới tính (nam (ông), nữ (bà))3, (bậc (bậc trên/bậc
78
dưới/ngang bằng))4, (có quan hệ huyết thống/không có quan hệ huyết thống, trực
hệ, trình tự gãy)5 (biểu thị sự tôn kính/thân mật)]6.
Qua phân tích thành tố nghĩa trong hai trường hợp D và D' có thể thấy:
- Cùng một vỏ hình thức âm thanh (từ "ông" và từ "bà") nhưng có hai cấu
trúc nghĩa khác nhau (D và D').
- Có sự tương đồng trong cấu trúc nghĩa ở hai trường hợp D và D' đó là:
(thành viên trong quan hệ gia đình), (chỉ giới tính (nam (ông), nữ (bà))), (bậc
trên với Ego, thế hệ sinh ra bố mẹ), (có quan hệ huyết thống được pháp luật
thừa nhận/không có quan hệ huyết thống).
- Có sự khác nhau về cấu trúc nghĩa trong hai trường hợp D và D':
+ Khác nhau ở nét nghĩa đầu tiên: Ở trường hợp thứ nhất (D), nét nghĩa
đầu tiên là chỉ về đối tượng (chỉ người) - đây là nét nghĩa cơ sở, nét nghĩa đen
thuộc về từ loại danh từ. Ở trường hợp thứ hai (D'), nét nghĩa đầu tiên dùng
để xưng gọi cho đối tượng được nói tới ở nghĩa cơ sở hay nói cách khác là
“thay thế” cho đối tượng đích danh cho nên thuộc về từ loại đại từ.
+ Ngay trong từng nét nghĩa cũng có những khác biệt, thể hiện ở nét nghĩa bậc
và nét nghĩa quan hệ. Trong huyết thống là chỉ bậc trên, còn ngoài xã hội có nhiều
bậc khác nhau: bậc trên, bậc dưới, ngang hàng. Từ nét nghĩa D (quan hệ gia đình)
đã phát triển thành nét nghĩa D' (quan hệ xã hội).
- Có sự phát triển mở rộng nghĩa trong hai trường hợp D và D' nói trên:
nếu ở trường hợp D có năm nét nghĩa, thì ở trường hợp D' có sáu nét nghĩa.
Trường hợp D' có thêm nét nghĩa thứ sáu (biểu thị sự tôn kính/thân mật) - đây
là nét nghĩa thể hiện mục đích phát ngôn và có liên quan đến nghĩa đầu tiên
của đại từ xưng hô ở trường hợp D' (xưng gọi). Và đây cũng là nét nghĩa phân
biệt giữa hai cấu trúc D và D' nói trên.
Quá trình chuyển nghĩa của cặp từ ông/bà: nghĩa cơ sở (chỉ người và xưng
gọi trong gia đình), nghĩa phái sinh định danh (người thuộc bậc trên với hàm
ý kính trọng), nghĩa chuyển (xưng gọi người đàn ông/đàn bà trong xã hội với
79
sự kính trọng). Cơ chế chuyển nghĩa là sự mở rộng, chuyển biến nghĩa từ
xưng hô trong gia đình đến xưng hô ngoài xã hội theo phương thức ẩn dụ.
Xét các ngữ cảnh sau:
3 4
- Hai ông1 cháu. - Ông2 giáo.
- Hai bà1 cháu. - Bà2 giáo.
Qua các ngữ cảnh trong hai cột 3 và 4 ở trên có thể thấy, cặp từ ông/bà
có ngữ nghĩa khác nhau. Trong cột 3, ông1 và bà1 chỉ về người thuộc thế hệ
sinh ra bố mẹ mình, thuộc về nghĩa định danh, khái niệm (danh từ); Còn trong
cột 4, ông2 và bà2 dùng để xưng gọi về người đàn ông hoặc người đàn bà được
kính trọng (dựa vào chức danh nghề nghiệp để xưng gọi - giáo viên), thuộc về
nghĩa đại từ.
Qua nghiên cứu trường hợp cặp từ ông/bà có thể thấy: Cùng một hình
thức ngữ âm ông/bà có hai cấu trúc nghĩa khác nhau (định danh khái niệm và
xưng gọi), có sự phát triển và chuyển biến nghĩa biểu niệm/nghĩa biểu trưng,
sự phân ly nghĩa (nghĩa cơ sở (chỉ người bậc trên Ego trong quan hệ gia đình)
- nghĩa phái sinh định danh (nét nghĩa tuổi tác và giới tính) - nghĩa chuyển
(qua phương thức liên tưởng ẩn dụ xưng gọi ngoài xã hội). Cặp từ ông/bà có
xu hướng phát triển nghĩa rất rõ ràng trong từng tình huống giao tiếp cụ thể,
nhất là trong xưng hô giao tiếp xã hội cặp từ này có “tính xã hội hóa cao nhất”
[12, tr. 12-13].
2.3.3.3. Biểu hiện và cách dùng cặp từ "ông/bà" trong các vai giao tiếp
Khảo sát ngữ cảnh trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của
Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam trường hợp cặp từ ông/bà: từ ông
có 77.937 ngữ cảnh, từ bà có 40.573 ngữ cảnh. Từ số liệu này có thể thấy, từ ông
được sử dụng với tần suất xuất hiện cao và mức độ xã hội hóa cao hơn từ bà.
80
Cặp từ ông/bà có nội dung ngữ nghĩa khá đa dạng. Danh từ ông/bà
dùng để chỉ: (i) Người thuộc thế hệ sinh ra cha/mẹ như ông nội, bà nội, ông
ngoại, bà ngoại, ông chú, ông cậu, ông bác, bà thím, bà bác, bà dì, bà mợ, v.v.
Ví dụ: (15) "Trường hợp ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu
nội, cháu ngoại phải có giấy khai sinh của cháu nội, cháu ngoại và giấy khai
sinh của cha mẹ cháu có liên quan đến ông, bà nội, ông bà ngoại của cháu
hoặc sổ hộ khẩu có ghi rõ các mối quan hệ đó" [V13: tr. 3] Trong ví dụ 15, các
từ ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại để chỉ về người sinh ra bố (ông nội, bà nội)
hoặc mẹ của mình (ông ngoại, bà ngoại).
(16) "Ông chú, bà bác, hai bà thím, một người đàn ông mặc quần nâu
và sơ mi bộ đội có cầu vai, xưng là thầy dạy học văn hoá cho Đức hồi lớp
bảy" [V14: tr. 722].
Ở ví dụ 16, các từ ông chú, bà bác, bà thím để chỉ người chú, bác, vợ
của ông chú (thím) ngang hàng với cha mẹ mình.
(ii) Người cao tuổi: ông lão, bà lão, ông cụ, bà cụ, ông già, bà già.
Ví dụ:
(17) "Ông lão đánh lưới chụp lật đật đi như chạy" [V15: tr. 847].
(18) "Bà lão bật khóc, tay bà nắm chặt cái cán của chiếc mai" [V16: tr. 37].
(iii) Người có địa vị xã hội, được kính trọng: ông giáo, bà giáo, ông
hiệu trưởng, bà chủ tịch, v.v. Ví dụ: (19) - "Về dự có ông Phó chủ tịch huyện,
bà Chủ tịch hội nông dân" [V17: tr. 62].
(iv) Những người có phẩm tước cao trong thời phong kiến, hay những
người, những vật, hoặc những hiện tượng mà người ta sợ hay tôn sùng, theo
mê tín: Đức ông; ông táo; ông voi; Đức bà, bà Thánh, bà công chúa, v.v.
Cặp từ ông/bà còn được dùng để xưng hô trong gia đình và ngoài xã
hội. Trong phạm vi gia đình, cặp ông/bà được dùng với nghĩa cơ sở: (i) Dùng
để hô gọi người thuộc thế hệ sinh ra cha mẹ mình. Đó là xưng hô trong gia
đình chính xác với các cặp xưng hô (ông - cháu, bà - cháu; cháu - ông, cháu -
81
bà). (ii) Dùng khi bố mẹ gọi thay cho con mình. Đó là xưng hô trong gia đình
không chính xác với các cặp từ (ông - con, bà - con; con - ông, con - bà).
Cách dùng trong xưng hô gia đình của cặp từ ông/bà mang sắc thái biểu cảm
trang trọng, tôn kính và biểu thị nét nghĩa bậc là chủ yếu. Ở phạm vi ngoài xã
hội, cặp từ ông/bà phát triển ngữ nghĩa mang tính "xã hội hóa" rất cao. Trong
xưng hô ngoài xã hội tương ứng chính xác có các cặp xưng hô (ông - cháu, bà
- cháu, cháu - ông, cháu bà); còn xưng hô ngoài xã hội không chính xác có
cặp xưng hô (ông - con, bà - con, con - ông, con - bà). Việc dùng xưng hô
ngoài xã hội của cặp từ ông/bà có thể bộc lộ nhiều sắc thái biểu cảm khác
nhau: Khi người nói lớn tuổi tự xưng với người thuộc độ tuổi cháu mình thì
có sắc thái xưng hô trang trọng; khi người nói không cần phải tuổi cao thì có
sự trung hòa về sắc thái biểu cảm, cách sử dụng này thường gặp trong phong
cách hành chính (trong các giấy mời, các thông báo trong các văn bản hành
chính, v.v.). Ví dụ:
(20) "- Cái giấy này là: Kính gửi ông Lý A Pù ngày 17 tháng 4 năm
195... uỷ ban hành chính huyện trân trọng kính mời ông..." [V18].
Từ ông/bà còn được sử dụng trong khẩu ngữ với phong cách thân mật,
suồng sã. Ví dụ:
(21) "Lục vừa cười vừa nói với Minh: "hay là số này (tức 3 tập tiền
đôla và 20 cây vàng) tôi với ông chia đôi"" [V19: tr. 7].
Qua ví dụ 21 có thể thấy từ ông được dùng như cậu, bạn bằng tuổi nhau.
Ngoài ra, trong các tình huống giao tiếp khác nhau sẽ có sắc thái biểu cảm
khác nhau nhằm mục đích dụng học nhất định. Khi đó, yếu tố về bậc và sự tôn
trọng không được thể hiện mà thay vào đó là biểu thị sắc thái xưng hô đối lập
không lịch sự. Chẳng hạn, đoạn hội thoại giữa Chị Dậu và tên cai lệ trong trích
đoạn "Tức nước vỡ bờ" của Ngô Tất Tố: (22) "- Mày trói ngay chồng bà đi, bà
cho mày xem!" [V20]. Ở ví dụ (22), chị Dậu thay xưng "bà" và gọi tên cai lệ là
"mày" cho thấy sự thay đổi thái độ của chị với tên cai lệ để bảo vệ anh Dậu.
82
Qua nghiên cứu trường hợp cặp từ ông/bà có thể thấy sự chuyển biến,
mở rộng nghĩa từ xưng gọi trong gia đình đến xưng gọi ngoài xã hội dựa trên
nghĩa phái sinh (bậc trên và sắc thái biểu cảm thân mật và được kính trọng).
2.3.4. Trường hợp cặp từ "cha/mẹ"
Cũng giống như cặp từ ông/bà, cặp từ cha/mẹ thuộc thế hệ G-2, bậc
trên Ego. Cặp từ này được dùng để chỉ người đã sinh ra Ego và để xưng gọi.
Các nét nghĩa của cặp từ này về cơ bản giống nhau, chỉ khác nhau ở giới tính
(nam/nữ).
2.3.4.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của cặp từ "cha/mẹ" trong các Từ điển tiếng Việt
Đại Nam quấc âm tự vị, từ cha được ghi nhận có một nghĩa, trong khi
đó từ mẹ được ghi nhận với nhiều nghĩa khác nhau:
Cha. n. Kẻ sinh ra mình [21, tr. 112].
Mẹ. n. (Coi chữ mẫu). Mẹ đẻ mình, vợ cha mình, cũng hiểu về con cái trong
các loài thú vật; tiếng than [21, tr. 641].
Việt Nam tự điển định nghĩa từ cha có hai nghĩa khác nhau: nghĩa thứ
nhất giống với từ điển của TĐHTC, và thêm nghĩa mới (cha đạo). Còn từ mẹ
chỉ có một nghĩa duy nhất, thu hẹp nghĩa so với từ điển của TĐHTC:
cha.
I. Cũng nghĩa như “bố”, người đàn ông sinh ra mình: Con có cha như nhà
có nóc. Văn-liệu: Cha vàng mẹ bạc. Cha hiền con thảo... [52, tr.107].
II. Tiếng những người theo đạo Da-tô gọi các ông cố: Cha xứ Đoài, cha xứ Đông.
mẹ.
Bà thân sinh ra mình. Văn-liệu: Mẹ gà, con vịt. Mẹ tròn, con vuông [52, tr.340].
Tự điển Việt Nam phổ thông, từ cha có thêm nghĩa mới (Tiếng gọi
người đàn ông, có ý khinh rẻ hay giễu cợt). Từ mẹ phát triển thêm nghĩa thứ
hai, hàm ý nghĩa không tốt mà người biên soạn chú là (ngx. - nghĩa xấu).
cha.
1. Người đàn ông, đối với con của mình (nh. Bố): con có cha như nhà có nóc.
83
2. Tiếng người công-giáo gọi những vị linh-mục, giám-mục: Đức cha.
3. Tiếng gọi người đàn ông, có ý khinh rẻ hay giễu cợt: thằng cha ấy gàn.
[89, tr. 84]
mẹ.
1. Người đàn bà sinh ra mình. nhiều người quen gọi mẹ bằng me. Mẹ hát con
khen hay: chỉ những lời khen tặng thiên-vị của những người cùng phe, cùng
cánh.
2. ngx. Người đàn bà. mẹ ấy; con mẹ đó [89, tr. 390].
Đến Việt Nam tân tự điển, từ cha được ghi nhận với đầy đủ các nghĩa
mà các công trình trước đó đã giải thích nhưng được miêu tả cụ thể hơn. Từ
mẹ được định nghĩa hai nghĩa: nghĩa thứ nhất chỉ người trong gia đình, nghĩa
thứ hai có mở rộng chỉ người ngoài xã hội.
cha. dt.
I. 1. Người đàn ông sinh ra mình. Cha hiền con thảo. Cha sinh không bằng
mẹ dưỡng. Còn cha gót đỏ như son, Một mai cha chết gót con thâm sì (C.d).
2. Cha nào con nấy. Cha chồng, cha vợ. Cha đẻ. Cha ghẻ. Cha truyền con nối.
II. 1. Tiếng của người theo Thiên-chúa giáo gọi các ông truyền-đạo. Cha, cố.
2. Cha sở.
III. (thgt.) Người đàn-ông nào đó có ý khinh; tiếng thân-mật để chỉ bạn thân
hay người liên-quan với mình mà làm ra bộ thân. Thằng cha nào? Mấy cha
viết báo. Thôi đừng giỡn nữa cha!. Thằng cha ấy. Cha căng chú kiết, người
lạ. Cha chài chú chóp [73, tr. 232].
mẹ. dt.
1. Người đàn-bà đẻ ra mình. Mẹ tròn, con vuông. Mẹ hát, con khen. Chiều
chiều ra đứng ngỏ sau, Ngó về quê mẹ ruột đau chín chìu (C.d)
2. Mẹ chồng. Mẹ đẻ. Mẹ đĩ, mẹ đã có con gái. Mẹ ghẻ. Mẹ goá. Mẹ nuôi.
Mẹ vợ [73, tr. 890].
Từ điển tiếng Việt của Văn Tân (1967), người biên soạn đã chú từ loại (d,
đt - danh từ, đại từ). Từ cha có bốn nghĩa, trong đó ba nghĩa (1, 3, 4) giống với
84
các công trình trước và có thêm nghĩa mới (nghĩa thứ hai - Từ con dùng để gọi
cha, cha dùng để xưng với con). Ở đây đã có chuyển biến nghĩa từ nghĩa định
danh (chỉ người) và có thêm thuộc tính mới dùng để xưng gọi (thuộc về nghĩa
đại từ).
cha. dt. đt.
1. Người đàn ông sinh ra mình.
2. Từ con dùng để gọi cha, cha dùng để xưng với con.
3. Từ người theo đạo Thiên chúa dùng để gọi một linh mục.
4. Từ dùng để gọi suồng sã những người thân mật: Thôi đi cha, đừng nói tếu
nữa [88, tr. 136].
Cũng trong công trình này, từ mẹ được giải thích với nhiều nghĩa khác
với các công trình trước, trong đó nghĩa thứ ba (Từ dùng để gọi thân mật một
phụ nữ đứng tuổi hay có tuổi, được mọi người kính nể: Hội mẹ chiến sĩ) chuyển
biến, phát triển nghĩa từ xưng hô trong gia đình đến xưng hô ngoài xã hội.
Mẹ. - d, đt.
1. Người đàn bà đã có con.
2. Người đàn bà trong quan hệ với con. Mẹ tròn con vuông. Nói người đàn
bà ở cữ được bình yên mạnh khỏe. Mẹ hát con khen hay. Cùng trong nhà,
trong họ tâng bốc nhau.
3. Từ dùng để gọi thân mật một phụ nữ đứng tuổi hay có tuổi, được mọi
người kính nể: Mẹ Xim đêm đêm chèo thuyền cho bộ đội sang sông.
4. Nói động vật cái đã có con : Chim mẹ ; Chó mẹ [88, tr. 510].
Việt Nam tự điển (1970), từ cha có mở rộng thêm số lượng nghĩa (năm
nghĩa) so với Từ điển tiếng Việt của Văn Tân. Từ mẹ có thu hẹp số lượng
nghĩa (hai nghĩa).
CHA.
1. dt. Vai và tiếng gọi người đàn-ông đã cùng người đàn-bà sinh mình ra: Có
cha có mẹ thì hơn, Không cha không mẹ như đờn đứt dây; Công cha như núi
thái-sơn (CD).
85
2. Tiếng gọi không thân hoặc có ý khinh nhiều người đàn ông: Mấy cha
ghiền rượu, thằng cha thọt, thôi đi cha.
3. Tiếng gọi tôn kính các vị linh-mục đạo Da-tô: Cha Tòng, Cha Sở
4. tht. tiếng la khống khi gặp việc bất-ngờ hay khi đau thể-xác: Cha! Ngộ quá!
Cha! Nóng quá ! Ui ôi) cha!
5. Tiếng chửi: Cha mầy! Đánh chết cha đa [30, tr. 254].
mẹ.
1. dt. Má, bà thân-sinh, vai và tiếng gọi người đàn-bà sinh ra mình, tức vợ
của cha mình: Bà mẹ, cha mẹ, thấy mẹ; Có cha có mẹ thì hơn, Không cha
không mẹ như đờn đứt dây (CD). 2. (long.) Mẻ, tiếng gọi người đàn-bà cách
khinh thường: Con mẹ bán quán; Mấy mẹ đó sao chưa thấy tới? [30, tr. 907].
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, từ cha được được ghi nhận có ba
nghĩa khác nhau và ở đây có sự chuyển biến nghĩa từ xưng hô trong gia đình
đến xưng hô ngoài xã hội.
cha. dt.
1. Người đàn ông có con, trong quan hệ với con (có thể dùng để xưng gọi).
Cha nào con nấy. Con có cha như nhà có nóc (tng.). Cha bảo gì con ạ?
2. Từ dùng để gọi linh mục hoặc linh mục tự xưng khi nói với người theo
Công giáo.
3. (thgt.). Từ dùng trong một số tiếng chửi rủa, chửi mắng. Mồ cha*. Cha
đời*. Chém cha*. [80, tr. 125]
Từ mẹ được ghi nhận có năm năm nghĩa, trong đó nghĩa thứ thứ ba
(Cái gốc, cái chính từ đó sinh ra những cái khác) chưa được xuất hiện ở các
công trình trước đó.
mẹ. dt.
1. Người đàn bà có con, trong quan hệ với con (có thể dùng để xưng gọi).
Công cha nghĩa mẹ. Giống mẹ như đúc. Lại đây với mẹ. Mẹ đẻ (phân biệt với
mẹ nuôi, mẹ ghẻ). 2. (thường dùng sau dt.). Con vật cái thuộc thế hệ trước,
trong quan hệ với những con vật thuộc thế hệ sau và do nó trực tiếp sinh ra.
86
Gà mẹ gà con. Cá bố cá mẹ. 3. Cái gốc, cái chính từ đó sinh ra những cái
khác. Bom bi mẹ. Lãi mẹ đẻ lãi con*. Sạch sẽ là mẹ sức khoẻ (b.). 4. Từ dùng
để gọi người đàn bà đáng bậc mẹ (hàm ý coi trọng). Hội mẹ chiến sĩ. 5. (thgt.;
dùng phụ sau đgt.). Từ dùng trong tiếng chửi rủa. Mất mẹ nó cả ngày! Vứt
mẹ nó đi! Kệ mẹ chúng! [80, tr. 604]
Có thể hình dung sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ cha và từ mẹ trong các
từ điển qua bảng 2.5 và 2.6 sau:
Từ điển
TĐHP
TĐHTC
TĐKT
TĐĐVT
TĐTN
TĐVT
TĐLVĐ
(2012)
(1895-
(1931)
(1951)
(1952)
(1967)
(1970)
Nghĩa
1896)
Nghĩa 1
1
1
1
1
1
1, 2
1
Nghĩa 2
2
2
2
2
3
3
Nghĩa 3
3
5
Nghĩa 4
3
3
4
2
Nghĩa 5
4
Bảng 2.5: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "cha" trong các Từ điển tiếng Việt
Từ bảng 2.5 có thể hiểu như sau: Cách miêu tả nghĩa thứ nhất của từ cha
trong TĐHP sẽ tương ứng với tất cả cách miêu tả nghĩa ở tất cả nghĩa thứ nhất ở
các từ điển khác; nghĩa thứ hai (TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ hai của TĐHP
chỉ tương ứng với nghĩa thứ hai (TĐKT, TĐĐVT, TĐTN), nghĩa thứ ba (TĐVT,
TĐLVĐ). Cách miêu tả nghĩa thứ ba của TĐHP tương ứng cách miêu tả nghĩa
thứ năm (TĐLVĐ). Cách miêu tả nghĩa thứ ba (TĐĐVT, TĐTN), nghĩa thứ tư
(TĐVT), nghĩa thứ hai (TĐLVĐ) tương ứng với nhau. Cách miêu tả nghĩa thứ tư
(TĐLVĐ) không tương ứng với các công trình khác.
87
Từ điển
TĐHP
TĐHTC
TĐKT
TĐĐVT
TĐTN
TĐVT
TĐLVĐ
(2012)
(1895-
(1931)
(1951)
(1952)
(1967)
(1970)
Nghĩa
1896)
Nghĩa 1
1
1
1
1
1, 2
1, 2
1
Nghĩa 2
2
4
Nghĩa 3
3
Nghĩa 4
4
3
Nghĩa 5
5
2
2
Bảng 2.6: Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "mẹ" trong các Từ điển tiếng Việt
Từ bảng 2.6 có thể hiểu như sau: Cách miêu tả nghĩa thứ nhất của từ mẹ
TĐHP sẽ tương ứng với tất cả cách miêu tả nghĩa ở tất cả nghĩa thứ nhất ở các
từ điển khác; nghĩa thứ hai (TĐTN, TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ hai của
TĐHP chỉ tương ứng với nghĩa thứ tư (TĐVT). Cách miêu tả nghĩa thứ ba của
TĐHP không tương ứng cách miêu tả nghĩa của các công trình khác. Cách
miêu tả nghĩa thứ tư của TĐHP tương ứng nghĩa thứ ba (TĐVT). Cách miêu
tả nghĩa thứ năm của TĐHP tương ứng nghĩa thứ hai (TĐĐVT, TĐLVĐ).
Qua so sánh cách định nghĩa của cặp từ cha/mẹ trong bảy công trình từ
điển xuất bản trong những thời gian khác nhau để thấy được quá trình chuyển
biến nghĩa. Bắt đầu từ công trình TĐTV của Văn Tân (vào những năm 60 của
thế kỉ XX), có sự chuyển biến nghĩa từ nghĩa thực thể chỉ người và dùng để
xưng gọi trong gia đình đã mở rộng, phát triển nghĩa để xưng gọi ngoài xã hội.
Cho đến, TĐTV của Hoàng Phê thể hiện khá đầy đủ nội dung nghĩa và quá
trình chuyển biến nghĩa mà các công trình từ điển trước đó chưa ghi nhận.
Nguyên nhân của sự chuyển biến, phát triển nghĩa dựa trên yếu tố văn hóa -
xã hội, khi đất nước bước vào giai đoạn kháng chiến chống Pháp, hình thành
các tổ chức (Hội mẹ chiến sĩ).
88
2.3.4.2. Cấu trúc ngữ nghĩa của cặp từ "cha/mẹ"
- Dựa vào định nghĩa của từ cha và mẹ trong TĐTV của Hoàng Phê có
thể thấy:
+ Từ cha được định nghĩa với ba nghĩa, trong đó nghĩa thứ nhất (Người
đàn ông có con, trong quan hệ với con) là nghĩa cơ sở, nghĩa thứ hai (Từ dùng
để gọi linh mục hoặc linh mục tự xưng khi nói với người theo Công giáo) là
nghĩa bóng được phái sinh từ nghĩa cơ sở. Quy luật chuyển nghĩa: danh từ với
nghĩa biểu niệm (chỉ người đã sinh ra Ego) trong quan hệ gia đình (cha nào con
nấy) được dùng để xưng gọi ngoài xã hội (cha xứ, cha đạo,...) theo phương thức
ẩn dụ. Đây cũng là con đường chuyển biến nghĩa của từ cha, từ tầng nghĩa biểu
niệm chuyển tầng nghĩa biểu trưng.
Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ cha trong hai trường hợp nói trên:
(E): cha = [(người đàn ông)1 (có con)2 (trong quan hệ với con)3]
(E'): cha = [(người đàn ông)1 (chăn dắt linh hồn cho các tín đồ trong
giáo xứ)2 (trong quan hệ với các tín đồ trong giáo xứ)3]
Từ cấu trúc E và E' có thể thấy: Cả hai cấu trúc này giống nhau ở nét
nghĩa thứ nhất là nét nghĩa cơ sở (chỉ người đàn ông). Nét nghĩa thứ hai là nét
nghĩa phái sinh cơ bản giống nhau về trách nhiệm, bổn phận của người làm
cha: trường hợp E là người trụ cột trong gia đình, có trách nhiệm nuôi dưỡng,
chăm sóc, giáo dục, định hướng con về tinh thần trách nhiệm. Còn trường hợp
E' là có trách nhiệm chăn dắt các con chiên trong giáo xứ về mặt linh hồn. Nét
nghĩa thứ ba trong quan hệ với con (E) và các con chiên trong giáo xứ (E').
Sự khác nhau trong cấu trúc E và E' là: Ở cấu trúc E là người đàn ông
trong quan hệ gia đình, có mối quan hệ huyết thống với con; Ở cấu trúc E' là
người đàn ông trong quan hệ xã hội, không có quan hệ huyết thống với các
con chiên.
Quá trình chuyển nghĩa của từ cha trong trường hợp này là: từ nghĩa cơ
sở chỉ người đàn ông có quan hệ huyết thống (quan hệ gia đình), nghĩa phái
89
sinh (có trách nhiệm với con), nghĩa chuyển (nghĩa bóng) (từ dùng để gọi linh
mục) trong quan hệ xã hội. Phương thức chuyển nghĩa, nghĩa thứ hai được
phái sinh từ nghĩa thứ nhất theo liên hệ ẩn dụ. Trong trường hợp này có sự
chuyển tầng nghĩa từ nghĩa cơ bản (nghĩa biểu niệm chỉ người cha trong quan
hệ gia đình) đến tầng nghĩa biểu trưng (từ dùng để gọi linh mục). Phạm vi sử
dụng của trường hợp từ cha càng ngày càng thu hẹp, cho đến nay hầu như chỉ
xuất hiện trong xưng hô của gia đình ở các vùng quê hoặc trong các vùng
công giáo.
(23) "Con có cha1 như nhà có nóc" [V8]
(24) "Trong một lá thư gửi Cha cả Giơn (Jeune) ở Pat-xa-văng (Passavant)
khoảng cuối tháng 6-1830, Mác-săng viết: "Thưa Cha2... trên xứ sở bao la này đang
hứa hẹn một mùa gặt phong phú, mà thợ gặt thì ít ỏi quá! Mong Cha3 hãy thúc giục
các Cha4 bề trên gửi nhiều thợ gặt sang đây để nhanh chóng chất đầy kho cho Chúa
và để giành lấy từ trong tay kẻ thù cả một khối lượng lớn đó..." [V21: tr. 146].
Xét các ngữ cảnh sau:
Ngữ cảnh 23 và 24 cho thấy, từ cha có hai nghĩa khác nhau: Ngữ cảnh
23, cha1 - người đã sinh ra con, nghĩa định danh, khái niệm (danh từ). Ngữ
cảnh 24, cha2, cha3, cha4 được dùng để xưng gọi người linh mục (cha cả Giơn
(Jeune)) nên thuộc về nghĩa đại từ.
Các lớp nghĩa biểu trưng qua cách xưng gọi của trường hợp từ cha:
⁕ Gọi các linh mục ở nhà thờ (cha đạo, cha xứ, cha cố, ...) coi họ như
người cha chăm sóc phần linh hồn thiêng liêng, cao quý. Những linh mục này
đã cống hiến cho sự nghiệp, lý tưởng phục vụ Chúa và Giáo hội cho nên họ
được tôn xưng là cha. Khi dùng cách gọi cha trong tôn giáo để biểu thị sự tôn
trọng, kính nể của những người đứng đầu trong nhà thờ. Ngoài các cách gọi
thường dùng là cha đạo, cha xứ, người dân còn thêm chữ Đức ("Từ dùng đặt
trước d. chỉ thần thánh hoặc người có địa vị cao quý trong xã hội phong kiến
để tỏ ý tôn kính khi nói đến" [80, tr. 354]) như Đức cha, Đức Thánh cha, ...
90
Bên cạnh đó, còn dựa vào chức vụ, địa vị và tuổi tác trong Giáo hội để gọi
người linh mục như cha sở, cha phó, cha chánh xứ, cha phó xứ, cha hạt trưởng,
cha tuyên úy, cha tổng đại diện, cha nhà hưu dưỡng, cha chủ sự, cha cả, ...
⁕ Gọi người khai sinh, sáng lập ra học thuyết, tác phẩm, công trình, ...
nào đó. Nghĩa này cũng phát sinh trong liên tưởng ẩn dụ với nghĩa cơ sở
(Người đàn ông có con, trong quan hệ với con). Ví dụ: (25) "Năm 1973, tận
dụng các ưu điểm của bộ vi xử lý đầu tiên do Intel sản xuất, ông đã cùng
nhóm của mình tạo ra chiếc máy vi tính thực sự đầu tiên, được giới thiệu trên
quy mô toàn thế giới: Micral. Micral là "tổ tiên" của tất cả mọi thế hệ máy vi
tính hiện đại được sử dụng rộng rãi sau này - các máy vi tính cá nhân (PC).
Trương Trọng Thi được xem là "cha đẻ của chiếc máy vi tính..." [V22: tr. 3].
Ở ví dụ 25 có thể thấy, Trương Trọng Thi phát minh chiếc máy vi tính đầu
tiên nên được ví như người cha đã sinh ra đứa con vậy (cha đẻ).
⁕ Gọi người có công lao, tầm ảnh hưởng lớn, tạo động lực cho việc
khai sinh ra dân tộc. Các tôn xưng "Vị cha già dân tộc", "Người cha già vĩ đại
của dân tộc", ... để gọi về bậc lãnh tụ kính yêu của dân tộc. Đây cũng là các
hình ảnh mang tính biểu trưng, dựa trên liên tưởng ẩn dụ với nghĩa cơ sở của
(26) "Lần đầu tiên, một cuốn phim ca nhạc ngợi ca Bác Hồ kính yêu của
chúng ta mang tên "Hồ Chí Minh Đẹp Nhất Tên Người" gồm 9 ca khúc quen thuộc
nói lên nỗi nhớ thương, lòng biết ơn và kính phục đối với vị Cha già dân tộc của
nhiều thế hệ nhạc sĩ VN do Hãng phim Trẻ thực hiện đã khởi quay từ đầu tháng 11-
93" [V23: tr. 6]. Trong ví dụ (26), tôn xưng "vị Cha già dân tộc" tức là nói đến Hồ
Chí Minh - Người khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa.
(27) "Vào ngày sinh nhật thứ 70 của Joseph Stalin năm 1949, ông được phong
tặng chức "Cha già của các dân tộc" cho việc ông thành lập chính thể "dân chủ nhân
dân" tại các nước bị Đức Quốc xã chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai" [V4].
từ cha. Ví dụ:
91
công lao to lớn trong việc thành lập chính thể "dân chủ nhân dân" tại các nước bị
Đức Quốc xã chiếm đóng.
Ở ví dụ 27, tôn xưng "Cha già của các dân tộc" - Joseph Stalin - người có
+ Từ mẹ được định nghĩa với năm nghĩa khác nhau, trong đó, nghĩa thứ
nhất (Người đàn bà có con, trong quan hệ với con) là nghĩa cơ sở và nghĩa
thứ tư (Từ dùng để gọi người đàn bà đáng bậc mẹ (hàm ý coi trọng)) là nghĩa
phái sinh định danh từ nghĩa thứ nhất qua phương thức ẩn dụ. Quy luật
chuyển nghĩa của từ mẹ: danh với nghĩa định danh, khái niệm (chỉ người đã
sinh ra Ego) được dùng để xưng gọi trong gia đình (công cha nghĩa mẹ) và
chuyển biến nghĩa, phát triển nghĩa dùng để xưng gọi ngoài xã hội (mẹ chiến sĩ).
Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của trường hợp từ mẹ như sau:
(G): mẹ = [(người đàn bà)1 (có con)2 (trong quan hệ với con)3]
(G') mẹ = [(người đàn bà)1 (có cảm tình nồng hậu với chiến sĩ, thường
giúp đỡ, an ủi chiến sĩ)2 (trong quan hệ với người chiến sĩ)3 (hàm ý coi trọng)4]
Từ cấu trúc G và G' có thể thấy: hai cấu trúc này giống nhau ở nghĩa
thứ nhất thuộc về định danh, khái niệm (người đàn bà sinh ra Ego). Nếu ở
trường hợp G, nét nghĩa thứ hai (vai trò, trách nhiệm to lớn của mẹ trong việc
dưỡng dục con cái) và đây là vai trò, trách nhiệm trong gia đình. Thì ở trường
hợp G', nét nghĩa thứ hai (có cảm tình nồng hậu với chiến sĩ, thường giúp đỡ,
an ủi chiến sĩ) vai trò, vị trí quan hệ ngoài xã hội. Sự khác nhau giữa G và G'
là: một bên là trong quan hệ gia đình (G) và một bên trong quan hệ xã hội
(G'). Nét nghĩa thứ tư có sự mở rộng, phát triển nghĩa thiên về sắc thái biểu
cảm tôn trọng.
Quá trình chuyển nghĩa của trường hợp từ mẹ: nghĩa cơ sở định danh,
khái niệm (chỉ người đàn bà trong gia đình), nghĩa phái sinh định danh (công
ơn dưỡng dục vô cùng to lớn), nghĩa chuyển (nghĩa bóng) từ dùng để xưng
gọi người đàn bà có cảm tình nồng hậu với chiến sĩ, thường giúp đỡ, an ủi
chiến sĩ (mẹ chiến sĩ). Cơ chế chuyển nghĩa của trường hợp này là mở rộng,
92
phát triển nghĩa, nghĩa thứ hai và nghĩa thứ ba được phái sinh từ nghĩa thứ
nhất qua cơ chế ẩn dụ.
Các lớp nghĩa biểu trưng qua cách xưng gọi của trường hợp từ mẹ:
⁕ Gọi người phụ nữ có vai trò, công lao trong kháng chiến của dân tộc
(mẹ chiến sĩ). Cách xưng hô này xuất hiện trong giai đoạn kháng chiến chống
Pháp, khi bắt đầu xuất hiện các tổ chức lực lượng vũ trang nhân dân nhằm
chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Đó là những người mẹ luôn che chở, yêu thương,
đùm bọc và giúp đỡ các chiến sĩ hoàn thành nhiệm vụ. Ví dụ: (28) - "Buồng
Mẹ - buồng tim - giấu chúng con/Đêm đêm chó sủa... Làng bên động?/ Bóng
Mẹ ngồi canh lẫn bóng cồn...” [V24].
⁕ Gọi người phụ nữ anh hùng có cống hiến, hi sinh cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc của đất nước (Mẹ Việt Nam anh hùng, Bà mẹ Việt Nam anh
hùng). Cách dùng cụm định danh (Mẹ Việt Nam anh hùng, Bà mẹ Việt Nam
anh hùng) thay cho từ mẹ là cách rút gọn (loại suy - analogy). Nghĩa mới của
từ mẹ có liên quan đến cụm định danh này - Mẹ Việt Nam anh hùng, Bà mẹ
Việt Nam anh hùng - "danh hiệu vinh dự được Nhà nước Việt Nam phong
tặng hoặc truy tặng những phụ nữ Việt Nam có nhiều cống hiến, hi sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế" [V4].
Theo đó, cấu trúc nghĩa của từ mẹ: [(người phụ nữ anh hùng) (có cống hiến,
hi sinh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của đất nước)]. Có sự chuyển biến
nghĩa, không còn là người mẹ bình thường mà tôn lên thành người mẹ mang
tính biểu tượng về chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Ví dụ:
(29) - "Hát mừng những người mẹ Việt Nam,
Hát mừng những người mẹ anh hùng.
Đời hiến hiến giống nòi, mẹ sống giữa gian lao,
Vì đất nước hy sinh cả cuộc đời..." [V25].
(30) - "Chín người con, vĩnh viễn không trở về
Vành tang trắng, Mẹ khóc mờ đôi mắt
Ôi bóng Mẹ, nghiêng chao hồn Đất Nước
93
Mãi xanh màu, khúc hát... Mẹ Việt Nam!..." [V26].
Trong hai ví dụ 29 và 30, tôn xưng "mẹ Việt Nam", "mẹ anh hùng" để tôn
vinh những người mẹ đã có cống hiến to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
- Có thể khái quát cấu trúc nghĩa danh từ và đại từ chung nhất của cặp
từ cha/mẹ như sau:
(H): cha/mẹ = [(chỉ người)1 (thành viên trong quan hệ gia đình)2 (có
quan hệ huyết thống, trực hệ, trình tự thẳng)3 (giới tính nam (cha)/nữ (mẹ))4
(không đối lập nội ngoại)5 (bậc trên Ego)6]
(H'): cha/mẹ = [(xưng gọi)1 (thành viên trong quan hệ gia đình)2 (có
quan hệ huyết thống/ không có quan hệ huyết thống)3 (giới tính nam (cha)/nữ
(mẹ))4 (không đối lập nội ngoại)5 (bậc trên Ego)6 (biểu thị sắc thái lịch sự,
thân mật, tôn trọng/ không lịch sự, thô tục)7]
Như vậy:
- Nội dung nghĩa: trong cùng một vỏ hình thức âm thanh (cha/mẹ)
nhưng có hai cấu trúc nghĩa mang hai thuộc tính khác nhau (H, H'): Cấu trúc
H nghĩa định danh, khái niệm (chỉ người đàn ông/đàn bà) (danh từ) và cấu
trúc H' là nghĩa xưng gọi về đối tượng được nói đến ở H (đại từ).
- Hai cấu trúc H và H' về cơ bản giống nhau trong các nét nghĩa từ một
đến sáu, chỉ khác nhau nét nghĩa thứ bảy (biểu thị sắc thái lịch sự, thân mật,
tôn trọng/ không lịch sự, thô tục). Nét nghĩa này được hình thành trong quá
trình chuyển biến nghĩa theo phương thức ẩn dụ.
- Số lượng các nét nghĩa: trường hợp H có sáu nét nghĩa, trường hợp H'
có bảy nét nghĩa, đây là cơ chế mở rộng, phát triển nghĩa. Từ chỉ người và
xưng gọi trong quan hệ gia đình và mở rộng quan hệ ngoài xã hội.
- Nội dung nghĩa, có sự chuyển biến nghĩa từ dùng chỉ người và xưng
gọi trong gia đình đã mở rộng, phát triển trong xưng gọi ngoài xã hội (cha xứ,
mẹ chiến sĩ, ...). Có sự chuyển biến nghĩa từ nghĩa biểu niệm (chỉ người cụ thể)
thành nghĩa biểu tượng (Cha già của dân tộc, Mẹ Việt Nam anh hùng...).
2.3.4.3. Biểu hiện và cách dùng cặp từ "cha/mẹ" trong các vai giao tiếp
94
Khảo sát cặp từ cha/mẹ trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt
của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam thu được: Từ cha có 9.805
ngữ cảnh; từ mẹ có 22.900 ngữ cảnh. Các ngữ cảnh xuất hiện trong các lĩnh vực
như báo chí, văn học, văn hóa chính trị, ... Cặp từ cha/mẹ có nội dung ngữ nghĩa
khá đa dạng, được dùng ở cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ hai; vừa được dùng để
định danh, vừa được dùng để xưng hô trong gia đình và ngoài xã hội.
Trong gia đình, cặp từ cha/mẹ được dùng với nghĩa sau: (i) Chỉ người
đàn ông/đàn bà đã có con, trong quan hệ với con (cha đẻ, mẹ đẻ, cha ruột, mẹ
ruột, cha chồng, mẹ chồng, cha vợ, mẹ vợ, cha nuôi, mẹ nuôi, cha dượng, mẹ
kế) và còn được dùng để xưng gọi (cha - con, mẹ - con, con - cha, con - mẹ).
Đây là nghĩa cơ cở, nghĩa xưng gọi tương ứng chính xác trong quan hệ gia
đình. (ii) Chỉ người chồng trong quan hệ với vợ/chỉ người vợ trong quan hệ
với chồng và được dùng để xưng gọi tương ứng không chính xác (cha - mẹ,
mẹ - cha). (iii) Cha/mẹ xưng gọi với con trong gia đình tương ứng không
chính xác (cha - anh, cha - chị, cha - em, cha - cô; mẹ - anh, mẹ - chị, mẹ - em,
mẹ - cô, ...). Cách dùng này dựa trên vị thế của đứa con trong gia đình để
xưng gọi, sắc thái biểu cảm (thân mật, yêu chiều hay giận dỗi). Ví dụ: (32) -
"Cơ mô cơ ni thầy mẹ cũng ừ cho anh" (Ca dao).
Ở phạm vi ngoài xã hội, cặp từ cha/mẹ được dùng với các nghĩa chính
sau: (i) Dùng để xưng gọi thân mật người đàn ông/đàn bà đứng tuổi hay có
tuổi, được mọi người kính nể (Ví dụ: cha xứ, mẹ chiến sĩ, ...). Cặp xưng hô
ngoài xã hội tương ứng chính xác (cha - con, mẹ - con, con - cha, con - mẹ).
(ii) từ dùng để gọi suồng sã (Ví dụ: Thôi đi cha, đừng nói tếu nữa) hoặc khinh
thường (Ví dụ: Con mẹ bán quán). (iii) Từ dùng trong tiếng chửi rủa (cha đời,
Mất mẹ nó cả ngày, ...)...
Tần suất xuất hiện của các từ cha/mẹ trong quan hệ gia đình như cha
ruột (43), mẹ ruột (110), cha đẻ (nghĩa gốc) (25); mẹ đẻ (135), ... Tần suất
xuất hiện của các từ cha/mẹ quan hệ ngoài xã hội như cha đẻ - (11), cha đạo
(10), cha xứ (13), cha cố (10), cha sở (6), cha chủ sự (1), cha cả (23), Đức cha
95
(16), mẹ chiến sĩ (15), mẹ Việt Nam (23), ... Đặc biệt, xuất hiện nhiều nhất là
"Bà mẹ Việt Nam anh hùng" với 262 ngữ cảnh.
Từ những miêu tả, phân tích trên có thể thấy, sự chuyển biến nghĩa
danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ của trường hợp cặp từ cha/mẹ.
2.4. Đặc trưng ngữ nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ
2.4.1. Cơ sở của sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ
Sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính đại từ dựa trên bốn yếu
tố sau:
Về cơ sở ngữ nghĩa, danh từ và đại từ là những từ loại quan trọng và
mang đặc trưng riêng về ý nghĩa từ vựng. Danh từ mang nội dung nghĩa định
danh, khái niệm nghĩa chỉ về người, còn đại từ nghĩa xưng gọi, thay thế về đối
tượng đó. Khi nghiên cứu về từ loại danh từ, Nguyễn Tài Cẩn (1975) quan
niệm về danh từ chỉ quan hệ thân thuộc là "một nhóm từ có nhiều nét khá lý
thú về mặt ngôn ngữ học... đây là một nhóm thường có thể dùng với hai nghĩa:
dùng với ý nghĩa chính xác của chúng để xưng hô với anh em bà con ở trong
gia đình; và dùng với ý nghĩa mở rộng để xưng hô ở ngoài xã hội với những
người vốn không có quan hệ thân thuộc gì với mình" [10, tr.142].
Benveniste đưa ra thuyết kí hiệu để phân biệt sự khác nhau giữa kí hiệu
danh từ và đại từ. Theo đó, nội dung kí hiệu của danh từ là “đặc” và có chức
năng định danh, còn nội dung kí hiệu của đại từ là “rỗng” và có chức năng
“thay thế” [Dẫn theo Trương Thị Diễm, 26]. Trên cơ sở đó có thể thấy, khác
với danh từ có ý nghĩa biểu vật, định danh sự vật, hiện tượng, khái niệm trong
thực tế khách quan; còn đại từ không mang các đặc điểm như vậy mà chỉ là
"trỏ" và "thay thế", và được nhận biết trong thực tế giao tiếp cụ thể.
Trong thực tế TĐTV, người biên soạn đã chú ý đến hiện tượng chuyển
biến nghĩa bằng cách xử lý đa nghĩa, các từ có thuộc tính khác nhau sẽ được
thành các nghĩa và đánh số Ả Rập (1, 2, 3,...) để phân biệt. Ngay trong lời giải
thích cũng được phân biệt nghĩa của từ loại đó, danh từ có nghĩa định danh
96
khái niệm về sự vật nên nét nghĩa "Chỉ người...." được đặt đầu tiên; còn đại từ
đại từ có nghĩa thay thế, nên nét nghĩa ''xưng gọi'' ở vị trí đầu tiên.
Trong ngữ cảnh sử dụng, khi một từ xuất hiện với đặc trưng ngữ nghĩa
mới thì về mặt logic tư duy đã được định hình trong tâm lý cũng như trong
thói quen, cách dùng của cá thể sử dụng ngôn ngữ đó và được chi phối bởi
yếu tố tác động bên ngoài của văn hóa xã hội. Đó là cách dùng của các lớp từ
mới trong giao tiếp ngôn ngữ xã hội hay là ngữ cảnh sử dụng từ vựng. Cách
dùng phản ánh thuộc tính của từ, một từ được dùng nhiều và lặp đi lặp lại trở
thành quy luật. Trong quá trình sử dụng, danh từ chuyển biến và mang thêm
thuộc tính mới "thay thế" của đại từ. Khi cá thể sử dụng ngôn ngữ có nhu cầu
biểu đạt từ vựng ngữ nghĩa mới, mở rộng phạm vi hoạt động của từ, từ đó dần
dần trở nên ổn dịnh và cố định hóa trong tư duy ngôn ngữ. Đây cũng là cơ chế
tần suất của sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ. Có
thể nói, ngữ cảnh có tác dụng rất lớn đối với hiện hiện và tiếp nhận thành
phần ngữ nghĩa, ngữ cảnh có thể biểu thị đặc trưng ngữ nghĩa của danh từ và
đại từ. Các danh từ có thuộc tính nghĩa đại từ đã định hình trong tư duy và
ngôn ngữ của cá thể sử dụng ngôn ngữ.
Yếu tố văn hóa - xã hội - lịch sử ảnh hưởng và chi phối đến các mối
quan hệ và xưng hô giao tiếp trong gia đình và xã hội. Đặc trưng văn hóa
nông nghiệp vốn trọng tình nghĩa, xưng hô giao tiếp "gia đình hóa" mở rộng
từ gia đình đến xã hội nhằm rút ngắn khoảng cách giao tiếp. Bên cạnh đó, yếu
tố tổ chức cơ cấu xã hội mang tính cộng đồng từ gia đình đến gia tộc rồi mở
rộng ra ngoài làng xã cũng ảnh hưởng cách xưng hô đó.
Từ những phân tích về cơ sở ngữ nghĩa học, thực tiễn từ điển, ngữ cảnh
sử dụng và yếu tố văn hóa - xã hội - lịch sử đã cho thấy cơ sở của sự chuyển
biến nghĩa, một từ vừa mang thuộc tính nghĩa định danh, khái niệm (danh từ);
vừa mang thuộc tính nghĩa thay thế, xưng gọi (đại từ).
97
2.4.2. Sự phân ly về nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ
Trong tiếng Việt xuất hiện hiện tượng chuyển nghĩa của danh từ mang
thuộc tính nghĩa đại từ là hiện tượng một từ vừa có thuộc tính nghĩa của chính
từ loại đó đảm nhận, vừa mang thuộc tính nghĩa của từ loại khác. Đó là,
nghĩa thuộc về nghĩa định danh sự vật, hiện tượng (danh từ) và nghĩa thuộc
về thay thế, xưng gọi (đại từ). Giữa các cặp từ chuyển nghĩa không có nét
nghĩa đồng nhất trong nội dung nghĩa từ vựng mà chỉ có các nét nghĩa hoàn
toàn khác nhau.
Sơ đồ 2: Mô hình chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ
S0 S1 S2
Trong đó: S0 là nghĩa cơ sở
S1 là nghĩa phái sinh định danh (đặc trưng các nét nghĩa của nghĩa cơ sở)
S2 là nghĩa chuyển (nghĩa bóng)
Về mặt từ vựng, đơn vị từ vựng nhưng mang hai thuộc tính từ loại khác
nhau (danh từ và đại từ). Về mặt ngữ nghĩa, có sự phân ly ngữ nghĩa với ba
cấp độ nghĩa là: (i) nghĩa cơ sở (nghĩa chính, nghĩa cơ bản hay nghĩa đen) là
nghĩa định danh, khái niệm; (ii) nghĩa phái sinh định danh biểu đạt khái niệm
(nghĩa biểu niệm); (iii) nghĩa chuyển (nghĩa bóng) của tu từ và hình ảnh (còn
gọi ẩn dụ và hoán dụ); đó là nghĩa xưng gọi và nét nghĩa này hoàn toàn trừu
tượng, giống hình ảnh, không còn cấu trúc nghĩa định danh của nghĩa cơ sở.
Khi đó, nét nghĩa trung tâm của từ vựng chủ yếu biểu hiện sự kính trọng (từ
thân tộc) - nghĩa trừu tượng. Đây là hiện tượng đồng âm ngữ nghĩa. Nét nghĩa
danh từ mang đặc trưng thể hiện trong nét nghĩa “huyết thống”, “máu mủ”,
khác với nét nghĩa đại từ với đặc trưng là nét nghĩa “xã hội”, “biểu thị sự tôn
kính/thân mật”. Quá trình danh hóa đại từ, vừa có nghĩa từ vựng đại từ nhưng
cũng vừa liên quan đến văn hóa xưng gọi.
98
Một trong những nguyên nhân của sự phân ly về nghĩa của hiện tượng
chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ là do sự đứt gãy về
quan hệ: nghĩa cơ sở biểu thị nội dung ý niệm, định danh; nghĩa phái sinh 1, 2,
3,... sau đó phát triển thành nghĩa chuyển (nghĩa bóng) thông qua các hình
ảnh/hình tượng theo quan hệ liên tưởng tương đồng (ẩn dụ) và quan hệ tương
cận (hoán dụ). Đây là một trong những cơ sở của sự chuyển biến nghĩa của
danh từ để hình thành nên nội dung nghĩa mới mang thuộc tính nghĩa đại từ.
"Quan hệ" thuộc về cấu trúc, còn "liên hệ" thuộc về quan hệ phái sinh,
ẩn dụ, hoán dụ. Mối quan hệ nội dung là các nét nghĩa. Nét nghĩa mới thuộc
về nghĩa văn hóa - xã hội - lịch sử. Đây là nét nghĩa cơ bản của đại từ. Do sự
phát triển của hoạt động danh từ làm bộc lộ thuộc tính nét nghĩa văn hóa - xã
hội - lịch sử đó ở đại từ.
2.4.3. Cơ chế chuyển biến nghĩa của các đơn vị danh từ mang thuộc tính
nghĩa đại từ
Từ kết quả đối chiếu ý nghĩa trong các cuốn từ điển tiếng Việt theo trục
thời gian có thể thấy nội hàm nghĩa và sự biến đổi nghĩa, phát triển nghĩa.
Cách giải thích nghĩa của các trường hợp (bác, cô, ông, bà, cha, mẹ) trong các
công trình từ điển xuất bản trong những thời gian khác nhau kéo dài suốt các
thập niên của nửa cuối thế kỷ XX để thấy được quá trình phát triển nghĩa từ
vựng của từ này.
Quá trình chuyển nghĩa đó thể hiện ở chỗ: trong cùng một từ vừa có
thuộc tính nghĩa của chính từ loại đó đảm nhận (danh từ), vừa mang thuộc tính
nghĩa của từ loại khác (đại từ). Hai ý nghĩa đó thuộc vào hai phạm vi khác
nhau: thuộc về định danh, khái niệm (danh từ) và thuộc về xưng gọi (đại từ).
Cơ chế biến đổi nghĩa có thể là thu hẹp hoặc mở rộng nghĩa. Chẳng
hạn, trường hợp từ bác có sự khác biệt về cấu trúc ngữ nghĩa danh từ và đại từ
tức là số lượng nét nghĩa cấu trúc ngữ nghĩa danh từ (sáu nét nghĩa) ít hơn số
lượng nét nghĩa cấu trúc ngữ nghĩa của đại từ (bảy nét nghĩa), và các nét
99
nghĩa của đại từ có thể phân xuất nhỏ hơn và có sự mở rộng nghĩa. Đây là
hiện tượng phát triển, mở rộng nghĩa.
Có sự chuyển biến từ tầng nghĩa trong quá trình chuyển biến nghĩa
danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ. Chẳng hạn, các trường hợp như bác,
cha, mẹ. Bác (chỉ người thuộc bậc trên Ego trong quan hệ gia đình - nghĩa
biểu niệm (tầng nghĩa trí tuệ)) - bác (xưng gọi ngoài xã hội như bác tài, bác
phó, ... - Nghĩa biểu thị đối tượng định danh cụ thể người lớn tuổi với hàm ý
kính trọng (tầng nghĩa trí tuệ)) - BÁC (Bác Hồ - gọi bậc lãnh tụ kính yêu của
dân tộc - nghĩa biểu tượng (tầng nghĩa biểu trưng)).
Tương tự còn có trường hợp khác như cặp từ cha và mẹ: cha (chỉ
người đàn ông sinh ra mình - nghĩa biểu niệm) - cha (cha đạo, cha xứ, ...
(xưng gọi các linh mục ở nhà thờ - nghĩa biểu trưng) ) - Vị cha già của dân
tộc (danh xưng đối với người có công lao, tầm ảnh hưởng lớn, tạo động lực
cho việc khai sinh ra dân tộc - nghĩa biểu tượng). Mẹ (chỉ người phụ nữ sinh
ra mình - nghĩa biểu niệm) - mẹ chiến sĩ (xưng gọi người phụ nữ có vai trò,
công lao trong kháng chiến của dân tộc - nghĩa biểu trưng) - Mẹ Việt Nam anh
hùng (danh xưng đối với người phụ nữ anh hùng có cống hiến, hi sinh cho sự
nghiệp giải phóng dân tộc của đất nước - nghĩa biểu tượng).
Từ những phân tích, biện giải, chứng minh các trường hợp nghiên cứu
(bác, cô, ông, bà, cha, mẹ) có thể thấy quá trình chuyển biến nghĩa của các
đơn vị từ loại danh từ thân tộc và đại từ. Quá trình chuyển biến đó "thực ra
cũng là quá trình tạo nghĩa. Nó được thực hiện một cách có quy luật theo cơ
chế hoạt động mở của ngôn ngữ" [59, tr. 72]. Từ cấu trúc nghĩa thay đổi, nội
dung nghĩa, cách dùng cũng khác nhau.
2.5. Tiểu kết
Nghiên cứu đặc trưng của hiện tượng chuyển nghĩa của danh từ mang
thuộc tính nghĩa đại từ qua một số trường hợp cụ thể của danh từ thân tộc
(bác, cô, chú, ông, bà, cha, mẹ) luận án cho thấy: hiện tượng chuyển nghĩa
của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ là một từ vừa có thuộc tính nghĩa
100
của chính từ loại đó đảm nhận, vừa mang thuộc tính nghĩa của từ loại khác:
một nghĩa thuộc về nghĩa định danh sự vật, hiện tượng (danh từ); một nghĩa
thuộc về thay thế, xưng gọi (đại từ). Về mặt ngữ nghĩa, có sự phân ly ngữ
nghĩa với ba cấp độ nghĩa là: (i) nghĩa cơ sở là nghĩa định danh, sự vật (chỉ
người); (ii) nghĩa phái sinh định danh biểu đạt khái niệm; (iii) nghĩa chuyển
(nghĩa bóng) của tu từ và hình ảnh. Về nội dung nghĩa của từ, trong một từ vừa
có nghĩa định danh khái niệm, vừa có nghĩa xưng hô (trong gia đình và trong
xã hội). Ngoài ra, nghiên cứu cũng cho thấy, có sự chuyển biến tầng nghĩa
trong quá trình chuyển biến danh từ thân tộc mang nghĩa đại từ xưng hô. Cơ
chế biến đổi nghĩa có thể là thu hẹp hoặc mở rộng nghĩa. Từ thân tộc nằm ở
tầng cơ bản của ngôn ngữ nên chỉ được dùng cho gia đình, tuy nhiên khi xã
hội hóa thì được dùng nhiều bên ngoài xã hội.
Như vậy, qua các phân tích, biện giải, chứng minh các trường hợp
nghiên cứu (bác, cô, ông, bà, cha, mẹ) có thể thấy quá trình chuyển biến
nghĩa của các đơn vị từ loại danh từ kiêm thuộc tính nghĩa đại từ.
101
Chương 3
ĐẶC TRƯNG CHUYỂN BIẾN NGHĨA CỦA DANH TỪ
MANG THUỘC TÍNH NGHĨA TÍNH TỪ
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP)
Trong chương 3, chúng tôi tập trung khảo sát, miêu tả và phân tích đặc
trưng chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ qua
nghiên cứu trường hợp: anh hùng, bình dân, cách mạng, phúc, quê, sách vở,
bụi, gan. Luận án khảo sát hiện tượng này trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng
Phê (chủ biên) và chứng minh qua một số từ ngữ, để phản ánh đặc trưng cơ
bản của hiện tượng này.
3.1. Giới thiệu về nhóm danh từ lựa chọn để nghiên cứu
Khi thu thập nhóm danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ, có thể thấy:
⁕ Thống kê các đơn vị chuyển biến nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của
Hoàng Phê (chủ biên) [80] cho thấy: có 1442 đơn vị, trong đó chuyển biến
nghĩa từ danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ có 336 đơn vị (chiếm
23.3%). Từ đó có thể phán đoán rằng, bản thân hai từ loại danh từ và tính từ
mang những nhân tố chung, thuộc về đặc trưng của sự vật, hiện tượng, tính
chất. Và, đây cũng là một trong những điều kiện tồn tại của hiện tượng
chuyển biến nghĩa.
⁕ Các đơn vị chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính
từ có số lượng khá lớn trong tổng số đơn vị mục từ trong từ điển, đây cũng là
một trong những thành tố tạo nên cấu trúc của công trình từ điển (cấu trúc vĩ
mô và vi mô).
⁕ Với sự đa dạng và phức tạp của hiện tượng chuyển biến nghĩa nói chung
và chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ nói riêng, TĐTV
đã xử khá tốt hiện tượng này về cả hình thức cũng như nội dung.
102
Dựa vào Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, luận án đã thống kê đặc
điểm cấu tạo, nguồn gốc và phân loại các nhóm danh từ mang thuộc tính
nghĩa tính từ trong các bảng 3.1, bảng 3.2 và bảng 3.3 dưới đây.
Bảng 3.1: Cấu tạo mục từ chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê
Số lượng Tỉ lệ Nội dung
(Mục từ) (%)
122 36.3 Đơn âm tiết
Đa âm tiết 214 63.7
336 100 Tổng số
Từ kết quả thống kê trong bảng 3.1. có thể thấy: Trong tiếng Việt,
của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ chủ yếu là danh từ đa âm tiết
có 214/336 đơn vị (chiếm 63.7%), trong khi đó danh từ đơn âm tiết chỉ
có 122/336 đơn vị (chiếm tỉ lệ 36.3%). Điều này hoàn toàn phù hợp với
thực tế lượng từ song âm tiết trong tiếng Việt rất nhiều.
Các danh từ đơn âm tiết được sắp xếp theo trật tự chữ cái ABC
đến Y. Ví dụ:
M: ma, manh1, may2, mẳn, mo1, mọt, mộc2, mộc2, mốt1, một, mỡ2,
mun, mút2, mực2, mướp, v.v.
Các danh từ song âm tiết cũng được sắp xếp theo trật tự chữ cãi
ABC đến Y. Ví dụ:
H: hàn lâm, hạnh phúc, hảo tâm, hình thức, hoà bình, hoạn nạn,
hoang dã, hứng thú, v.v.
103
Bảng 3.2: Nguồn gốc mục từ chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê
Nội dung Số lượng Tỉ lệ
(Mục từ) (%)
Thuần Việt 102 30.3
Hán Việt 229 68.3
Ấn Âu 5 1.4
Tổng Số 336 100
Từ bảng 3.2 có thể thấy, các mục từ có nguồn gốc chủ yếu là Hán
Việt có 229/336 đơn vị (chiếm tỉ lệ 68.3%). Ví dụ: anh hùng, bác học,
phúc, hạnh phúc, khoa học, xuân, v.v. Còn các mục từ có nguồn gốc
Thuần Việt chủ yếu là các từ đơn tiết có 102/336 đơn vị (chiếm tỉ lệ
30.3%). Ví dụ: bã, bợm, bụi, cóc, rác, rủi, nhà quê, tí xíu, v.v. Mục từ có
nguồn gốc Ấn Âu có số lượng ít 5/336 đơn vị (chiếm tỉ lệ 1.4%), chủ
yếu là các từ phiên âm như Bonsevich, cà tong, logic, topo, Xô Viết.
Bảng 3.3: Nhóm danh từ thuộc tính nghĩa tính từ trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê
Danh từ Số lượng Tỉ lệ
Danh từ cụ thể 176 52.4
Danh từ trừu tượng 160 47.6
Tổng số 336 100
Từ bảng 3.3 có thể thấy: Danh từ cụ thể có số lượng lớn với 176/336
đơn vị (chiếm 52.4%), danh từ trừu tượng có số lượng ít hơn với 160/336 đơn
vị (chiếm tỉ lệ 47.6%).
104
Từ kết quả khảo sát định lượng trên có thể thấy: Trong Từ điển tiếng
Việt của Hoàng Phê đã thu thập số lượng khá lớn các đơn vị chuyển nghĩa của
danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ.
Khi xem xét các thành phần của danh từ có khả năng chuyển biến nghĩa
mang thuộc tính nghĩa tính từ, chúng tôi chọn nhóm từ Hán Việt và thuần
Việt. Đây là nhóm danh từ mà chúng tôi nhận thấy có khả năng chuyển nghĩa
của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ, như anh hùng, bình dân, cách
mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan, v.v.
Sở dĩ chọn các mục từ anh hùng, bình dân, cách mạng, phúc, quê, sách
vở, bụi, gan để nghiên cứu bởi vì: (i) Khảo sát trong các công trình Từ điển giải
thích tiếng Việt theo trục lịch sử, dựa vào nội dung lời định nghĩa, người biên
soạn đã tách thành các nghĩa khác nhau và chú từ loại (danh từ và tính từ) riêng
biệt. Thực tế trong các văn cảnh cũng đã phân tách thành các nghĩa danh từ và
nghĩa tính từ. (ii) Dựa trên kết quả khảo sát của Từ điển tiếng Việt (TĐHP), căn
cứ vào nguồn gốc của các mục từ chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính
nghĩa tính từ chủ yếu là Hán Việt và thuần Việt nên luận án cũng dựa vào đó để
lựa chọn các trường hợp nghiên cứu. Đây cũng là cơ sở để luận án nghiên cứu sự
chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ qua trường hợp các
từ anh hùng, bình dân, cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan.
3.2. Thực tiễn và khả năng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính
nghĩa tính từ
Thực tế Từ điển tiếng Việt của Văn Tân và Từ điển tiếng Việt của
Hoàng Phê đã xử lý các mục từ có hiện tượng chuyển biến nghĩa bằng cách
tách các nghĩa riêng biệt của danh từ và tính từ. Ví dụ, mục từ anh hùng trong
Từ điển tiếng Việt (Văn Tân) và Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê) đã tách các
nghĩa khác nhau: nghĩa thuộc về danh từ và nghĩa thuộc về tính từ.
105
Từ điển tiếng Việt (Văn Tân) Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê)
anh hùng I d. 1. Người lập nên công anh hùng.
I. d. 1. Người có tài năng đức độ rất trạng lớn lao đối với nhân dân, đất
cao, mà việc làm có ảnh hưởng đến sự nước. 2 Nhân vật thần thoại có tài
tiến hoá của xã hội : Nguyễn Huệ là năng và khí phách lớn, làm nên
một bậc anh hùng. 2. Người có nhiều những việc phi thường. 3 Danh hiệu
thành tích về chiến đấu, về sản xuất, vinh dự cao nhất của nhà nước tặng
được nhân dân và chính phủ công thưởng cho người hoặc đơn vị có
nhận : Anh hùng lao động. thành tích và cống hiến đặc biệt xuất
II. t. Dũng cảm đến cao độ : Dân tộc sắc trong lao động hoặc chiến đấu. II
anh hùng. t. Có tính chất của người anh hùng.
Trong thực tế văn cảnh cũng đã có sự phân tách các nhóm mục từ này.
Xét các ngữ cảnh sau:
- Nguyễn Huệ là một anh hùng dân tộc. [80, tr.6]
- Hành động anh hùng. [80, tr.6]
5 6
Ở ví dụ cột 5, từ "anh hùng" chỉ về đối tượng cụ thể (Nguyễn Huệ); còn từ
"anh hùng" trong ví dụ cột 6 chỉ về đặc trưng, tính chất của "hành động". Do đó,
từ "anh hùng" trong ví dụ cột 5 thuộc về danh từ, còn từ "anh hùng" trong ví dụ
cột 6 thuộc về tính từ.
Từ thực tiễn từ điển và ngữ cảnh sử dụng như đã phân tích trên đã cho
thấy: có sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ.
3.3. Phân tích và diễn giải nhóm danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
Các nhóm từ được xét ở ba nội dung chính:
(i) Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ trong các Từ điển tiếng Việt: Từ lời định
nghĩa của bảy công trình TĐTV theo hướng lịch đại để thấy được tiến trình
phát triển của nghĩa tiếng Việt và sự chuyển biến nghĩa của danh từ mang
106
thuộc tính nghĩa tính từ của các trường hợp nghiên cứu (anh hùng, bình dân,
cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan).
(ii) Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp nghiên cứu: Chúng tôi lấy Từ điển
tiếng Việt của Hoàng Phê để phân tích nội dung ngữ nghĩa của trường hợp
nghiên cứu và dựa vào cách giải thích nghĩa để xác định nghĩa cơ sở, nghĩa phái
sinh định danh và nghĩa chuyển. Từ đó, phân tích cấu trúc nghĩa của danh từ và
tính từ để rút ra được quy tắc, phương thức chuyển nghĩa và cấu trúc nghĩa.
(iii) Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ của trường hợp nghiên cứu: Dựa vào Chương trình tra cứu ngữ cảnh
tiếng Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam để khảo sát số
lượng các ngữ cảnh và tần suất xuất hiện trong các lĩnh vực khác nhau của
trường hợp nghiên cứu.
3.3.1. Trường hợp từ "anh hùng"
Luận án chọn mục từ anh hùng để nghiên cứu bởi vì: Khảo sát trong
các công trình Từ điển giải thích tiếng Việt theo trục lịch sử, dựa vào nội dung
lời định nghĩa, người biên soạn đã tách thành các nghĩa khác nhau và chú từ
loại (danh từ và tính từ) riêng biệt. Đây cũng là cơ sở để chúng tôi nghiên cứu
sự chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ qua trường hợp từ
anh hùng. Từ các phạm trù cơ bản ngôn ngữ học để phân tích, chứng minh
đặc trưng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ.
3.3.1.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "anh hùng" trong các Từ điển tiếng Việt
Các từ điển Đại Nam quấc âm tự vị (1895-1896), Việt Nam tự điển (1931) và
Tự điển Việt Nam phổ thông (1951), từ anh hùng được ghi nhận có một nghĩa:
Anh hùng. Kẻ tài lực phi thường [21, tr. 13].
anh-hùng. Bậc tài giỏi và có chí to hơn người [52, tr. 6].
anh-hùng. Kẻ xuất-chúng, có tài đức hơn người [89, tr. 16].
Đến Việt Nam tân tự điển (1952), từ anh hùng ghi nhận có ba nghĩa:
107
anh hùng. dt.
1. Bậc xuất-chúng có chí-khí hơn người. 2. Anh-hùng mạt-lộ. Anh hùng hết
đường vùng vẫy, tung hoành. 3. Anh hùng rơm. Anh-hùng ở tiếng mà thôi.
[73, tr. 16]
Ở công trình này thêm hai nghĩa mới chưa được xuất hiện ở các từ điển
trước đó: "anh hùng mạt lộ" và "anh hùng rơm". Các nghĩa này được phát triển
trên cơ sở của nghĩa thứ nhất theo phương thức ẩn dụ.
Đến Từ điển tiếng Việt (1967) đã tách nghĩa danh từ và tính từ của từ
anh hùng khác nhau:
anh hùng.
I. dt. 1. Người có tài năng đức độ rất cao, mà việc làm có ảnh hưởng đến sự
tiến hoá của xã hội. 2. Người có nhiều thành tích về chiến đấu, về sản xuất, được
nhân dân và chính phủ công nhận. II. tt. Dũng cảm đến cao độ [88, tr. 21].
So với các công trình trước đó, công trình này có thêm hai nghĩa mới:
"Người có nhiều thành tích về chiến đấu, về sản xuất, được nhân dân và chính
phủ công nhận"; "Dũng cảm đến cao độ". Nghĩa mới này được phát triển từ
nghĩa thứ nhất và được miêu tả cụ thể hơn cho nét nghĩa (tài năng, công trạng).
Trong quá trình phát triển nghĩa đã hình thành nghĩa mới biểu thị tính chất,
thuộc tính "Dũng cảm đến cao độ". Nghĩa mới của từ anh hùng được hình
thành do sự biến đổi cấu trúc nghĩa cho nên một từ vừa mang nghĩa biểu thị
khái niệm định danh (danh từ), vừa biểu thị nghĩa tính chất, thuộc tính (tính từ).
Việt Nam tự điển (1970) từ anh hùng được giải thích chỉ một nghĩa, số
lượng nghĩa bị thu hẹp so với công trình từ điển trước đó:
anh hùng. dt.
Bậc tài giỏi xuất-chúng [30, tr. 25].
Trong từ điển tiếng Việt (1988, 2012) từ anh hùng được định nghĩa với
các nghĩa là:
108
anh hùng.
I. dt. 1. Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao đối với nhân dân, đất nước.
2. Nhân vật thần thoại có tài năng và khí phách lớn, làm nên những việc phi
thường.
3. Danh hiệu vinh dự cao nhất của nhà nước tặng thưởng cho người hoặc đơn
vị có thành tích và cống hiến đặc biệt xuất sắc trong lao động hoặc chiến đấu.
II. tt. Có tính chất của người anh hùng [80, tr. 6].
Như vậy, TĐHP và TĐVT có nhiều điểm giống và khác nhau. Giữa hai
từ điển này giống nhau ở chỗ đều phân biệt nghĩa danh từ và tính từ theo hình
thức chuyển nghĩa. Sự khác nhau của hai công trình này là về số lượng nghĩa:
TĐVT có hai nghĩa và TĐHP có ba nghĩa. Cả hai từ điển chỉ trùng nhau nghĩa
thứ nhất, còn nghĩa thứ hai và thứ ba của Hoàng Phê khác nhau. Nghĩa tính
chất "Có tính chất của người anh hùng" được hình thành trên cơ sở từ nghĩa
thứ nhất "Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao đối với nhân dân, đất
nước". Qua đó cho thấy, cùng với thời gian, từ anh hùng tăng thêm liên hệ về
sự vật, tính chất trong hiện thực khách quan.
Nghĩa của từ "anh hùng" trong trường hợp này đã tương đương với
nghĩa tính chất nội tại, còn nghĩa định danh khái niệm của từ “anh hùng” yếu
đi và dần dần mất đi. Nghĩa tính chất của từ "anh hùng" được hình thành trên
cơ sở của sự phát triển nghĩa tính chất của danh từ "anh hùng".
Việc chú từ loại đã có bước phát triển theo tiến trình của lịch sử của Từ
điển tiếng Việt: Từ những công trình đầu tiên không chú từ loại (TĐKT
(1931) và TĐĐVT (1951)), sau đó chú nghĩa đầu tiên là danh từ (TĐTN
(1952), TĐVT (1967) và TĐLVĐ (1970)); Cho đến TĐHP (1988) và (2012)
đã có sự phân biệt giữa danh từ và tính từ. Qua lời định nghĩa trong các
TĐTV theo hướng lịch đại để thấy được tiến trình phát triển của nghĩa tiếng
Việt và sự chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ.
109
3.3.1.2. Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp từ "anh hùng"
Luận án lấy Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê để phân tích nội dung
ngữ nghĩa của trường hợp từ anh hùng (xem định nghĩa mục 3.3.1.1). Dựa
trên vào cách giải thích nghĩa, từ danh từ anh hùng có ba nghĩa khác nhau.
Trong đó, nghĩa thứ nhất "Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao đối với
nhân dân, đất nước" là nghĩa cơ sở để chuyển biến nghĩa mang thuộc tính
nghĩa tính chất "Có tính chất của người anh hùng". Từ nét nghĩa định danh
khái niệm (tài năng và có công trạng đặc biệt lớn lao) chuyển thành nét nghĩa
tính chất, thuộc tính (có tính chất của người anh hùng). Như vậy, muốn xác
định được nghĩa cơ bản của sự chuyển nghĩa thường là dựa vào nét nghĩa gốc
ban đầu. Chính vì vậy, trong nội dung khái quát cấu trúc nghĩa, chúng tôi
cũng lấy nghĩa cơ sở (Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao đối với nhân
dân, đất nước) và nghĩa chuyển (Có tính chất của người anh hùng) để phân tích.
Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ anh hùng thành các trường hợp sau:
(I): anh hùng = [(Chỉ người)1, (tài năng)2, (có công trạng lớn lao)3].
(I'): anh hùng = [(Công trạng lớn lao)1].
Từ những phân tích thành tố nghĩa ở trên có thể thấy: Cùng một vỏ âm
thanh anh hùng nhưng có hai cấu trúc nghĩa khác nhau, trường hợp I chỉ về
đối tượng (chỉ người) nên thuộc về nghĩa của danh từ; còn trường hợp I' chỉ
đặc trưng thuộc về nghĩa tính chất thuộc về nghĩa tính từ. Nét nghĩa thứ ba
của từ anh hùng trong trường hợp I là nét nghĩa cơ bản, nét nghĩa chuyển để
hình thành nên nét nghĩa tính chất của từ anh hùng trong trường hợp I'. Đây
cũng là "sợi dây" liên hệ ngữ nghĩa mật thiết trong quan hệ giữa danh từ anh
hùng và tính từ anh hùng. Điều này cho thấy, trong cùng một hình thức ngữ
âm nhưng chứa đựng hai cấu trúc nghĩa khác nhau và "các nghĩa khác nhau
đều phát triển trên một (hoặc một vài) nét nghĩa nào đó trong một nghĩa biểu
niệm của từ đó" [2, tr. 101].
110
Qua sự phân tích trên, nhận thấy: trường hợp I, từ anh hùng mang
nghĩa định danh khái niệm; trong đó nghĩa này đã bao gồm nghĩa sự vật của
từ anh hùng. Còn trường hợp I', từ anh hùng mang nghĩa tính chất bao gồm
nghĩa đen (nghĩa có tính chất nội tại) của từ anh hùng được thể hiện rõ trong
phần in nghiêng của định nghĩa của từ điển "công trạng đặc biệt lớn lao đối với
nhân dân, đất nước". Nét nghĩa này cũng chính là nét nghĩa chuyển và mang đặc
trưng khu biệt của nét nghĩa định danh khái niệm của từ anh hùng. Như vậy,
nghĩa của từ anh hùng đã bao gồm hai loại là nghĩa định danh khái niệm (danh
từ) và nghĩa biểu đạt tính chất (tính từ). Ví dụ, trong các ngữ cảnh sau:
(31) "Tất cả được chia thành nhiều cánh quân, có thể lấy tên những vị
anh hùng tiêu biểu đặt tên cho mỗi cánh quân và đồng loạt ra quân
ngày 18-7-2000" [V27: tr. 3].
(32) "Nhà thơ Đỗ Trung Quân kể: "Hồi đó thanh niên xung phong đa số
là dân thành phố vốn ít quen cơ cực, nhưng khi nhập cuộc lại rất anh
hùng..." [V28: tr. 5].
Xem xét qua ví dụ 31 và 32 ở trên có thể thấy: Từ anh hùng có hai
nghĩa khác nhau, ví dụ 31 từ anh hùng là danh từ, còn ví dụ 32 từ anh hùng là
tính từ biểu thị tính chất. Nghĩa tính chất của từ anh hùng được phát triển trên
cơ sở của nghĩa tính chất mà ví dụ 31 hàm chứa. Nghĩa tính chất đó được hình
thành do con đường chuyển đổi nghĩa với nghĩa có tính chất nội tại tiêu biểu
của từ anh hùng.
Từ cấu trúc nghĩa của từ anh hùng có thể thấy: trường hợp I có ba nét
nghĩa và trường hợp I' chỉ có một nét nghĩa. Trong đó, trường hợp I: nghĩa cơ
sở định danh là nghĩa thứ nhất (chỉ người); nghĩa phái sinh định danh là nghĩa
thứ ba (có công trạng lớn lao) - đây cũng là nghĩa tính chất của thực thể và
làm cơ sở cho sự chuyển biến nghĩa tính chất của trường hợp I' (công trạng
lớn lao). Nghĩa chuyển của trường hợp I' là nghĩa mang tính chất, đặc trưng.
111
Danh từ anh hùng có một số đặc tính để tiến hành chuyển biến lượng tính
của tính từ. Cụ thể: Ở đây, nét nghĩa nội tại của từ anh hùng (có công trạng lớn
lao) là đặc tính cơ bản, nổi bật và từ đó nảy sinh yêu cầu biểu đạt ngữ nghĩa của
từ anh hùng mà mọi người đều tiếp nhận được đặc tính ấy. Đây chính là điều
kiện cơ bản của quá trình chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính
từ qua trường hợp từ anh hùng đó là khi một từ có các đặc tính nổi bật và các
đặc tính ấy có nhu cầu biểu đạt ngữ nghĩa của các đặc tính đó.
Từ những phân tích về ngữ nghĩa có thể thấy: từ anh hùng đã bao gồm:
nghĩa định danh khái niệm thuộc về danh từ và nghĩa tính chất thuộc về tính
từ. Nghĩa biểu đạt tính chất được phát triển trên cơ sở nghĩa biểu đạt tính chất
của danh từ - đây là mối quan hệ giữa nghĩa cơ sở và nghĩa chuyển. Phương
thức chuyển nghĩa của từ anh hùng là ẩn dụ: danh từ chỉ người có tính cách,
đặc điểm điển hình để biểu thị tính cách, đặc trưng đó.
Cấu trúc ngữ nghĩa của từ anh hùng được tổ chức theo con đường sau:
Từ nghĩa 1 (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1), nghĩa 3 (S2) lại được phái sinh
từ nghĩa 2 (S1). Như vậy, có thể hình dung quá trình chuyển nghĩa của từ anh
hùng theo sơ đồ sau:
S0 S1 S2
S3
Nghĩa của từ anh hùng được biến đổi theo con đường vừa móc xích vừa
lan tỏa.
3.3.1.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ của trường hợp từ "anh hùng"
Luận án thử khảo sát 1000 ngữ cảnh từ anh hùng trong Chương trình
tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển học và Bách khoa thư Việt
Nam, có thể thấy: Trong 1000 ngữ cảnh của từ anh hùng, có 16 ngữ cảnh
(chiếm 1,6%) tổng số ngữ cảnh có chuyển nghĩa của từ anh hùng. Các ngữ
112
cảnh được sử dụng thuộc các lĩnh vực báo chí (4/16), văn học (3/16), sách
văn hóa - chính trị - xã hội (9/16), v.v. Ví dụ:
(33) "Đêm hôm đó tin và bài về hành động anh hùng của Tracy được
tung ra, các tình tiết được đưa lên màn ảnh truyền hình quốc gia, thế là câu
chuyện lan nhanh" [V29: tr. 148].
Ngoài ra, từ anh hùng còn được sử dụng nhiều trong giao tiếp đời
thường. Ví dụ: (34) "Một hành động quá anh hùng".
Ngữ cảnh có vai trò rất quan trọng để tiếp nhận thành phần ngữ nghĩa
cũng như chức năng của từ. Ngữ cảnh biểu thị đặc trưng ngữ nghĩa của danh
từ và vị trí ngữ pháp hiện thực hóa cơ sở ngữ cảnh nhất định. Từ anh hùng khi
ở vị trí định ngữ cùng với kết hợp từ chỉ mức độ thì ngữ nghĩa mang tính
miêu tả thuộc về nghĩa tính chất của danh từ. Hơn nữa, mục đích phát ngôn
cũng đã thay đổi, không còn là miêu tả như khi ở vị trí khi làm chủ ngữ, mà là
chức năng thông báo về các đặc trưng đó. Điều này có thể được lý giải khi đặt
trong ngữ cảnh cụ thể. Ví dụ: (35) "Anh ấy rất anh hùng".
Lý giải về từ anh hùng có nhiều nghĩa khác nhau nhưng khi đặt trong
ngữ cảnh cụ thể như ví dụ trên thì có thể thấy, nghĩa của từ anh hùng thuộc về
phẩm chất, đặc tính tiêu biểu. Đó là các phẩm chất gan dạ, có đạo đức cao
đẹp, sở hữu sức mạnh vượt trội, chiến đấu dũng cảm để tạo nên những chiến
công hiển hách.
Từ những phân tích trên có thể nhận thấy, trường hợp từ anh hùng đã
có sự chuyển biến nghĩa. Quy tắc chuyển nghĩa của trường hợp từ anh hùng
là danh từ chỉ người có tính chất tiêu biểu của chúng để biểu thị những đặc
trưng đó. Quá trình chuyển biến nghĩa không mang tính lẻ tẻ, riêng từng từ
mà theo một hệ thống từ vựng, có quy luật riêng. Ngoài từ anh hùng như đã
phân tích và miêu tả ở mục trên, chúng tôi còn nhận thấy trong tiếng Việt,
có một số danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ giống con đường chuyển
nghĩa của từ anh hùng. Có thể kể ra một số trường hợp khác trong tiếng
113
Việt như bình dân, thánh, chúa, ma mãnh, du côn, trưởng giả, bác học, đế
vương, v.v.
Để phân biệt giữa nghĩa danh từ và nghĩa tính từ, trong TĐHP định
nghĩa từ theo nghĩa chuyển nghĩa của từ anh hùng theo cấu trúc "có tính
chất...". Theo đó, khảo sát trong TĐHP, chúng tôi nhận thấy có nhiều trường
hợp được định nghĩa theo cấu trúc như vậy: bộ phận, công thức, dân sự, du
côn, đa diện, đại cương, đặc trưng, hàn lâm, hình thức, hoang dã, khách quan,
khoa học, kinh viện, quân phiệt, quê, thần thánh, thời đại, thời sự, tổng thể,
trẻ con, tri kỉ, truyền thống, v.v.
3.3.2. Trường hợp từ "bình dân"
3.3.2.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bình dân" trong các Từ điển tiếng Việt
Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895), Việt Nam tự điển
của Hội Khai trí Tiến đức (1931) và Tự điển Việt Nam phổ thông của Đào
Văn Tập (1951) từ bình dân được định nghĩa lần lượt là “Bình. - dân. Dân
làm ăn, không có danh phận gì với Nhà-nước” [21, tr. 58]; “bình-dân. Người
dân thường, không có danh-phận gì [thuộc bình1, IV]” [52, tr. 49] và “bình-
dân. Dân thường: Chính-phủ bình-dân" [89, tr. 52]. Như vậy, cả ba từ điển
khi định nghĩa về từ bình dân đều chỉ có một nghĩa (chỉ về người dân thường)
và các công trình từ điển này không chú từ loại.
Đến Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị (1952), từ bình dân được
giải thích có hai nghĩa và có chú từ loại là dt (danh từ): 1. Dân thường, dân
chúng. 2. Bình dân học vụ. Đảng bình-dân [73, tr. 129].
Cho đến Từ điển tiếng Việt của Văn Tân (1967) [88, tr. 81] khi giải
thích từ bình dân đã có thêm các nghĩa mới và có sự phân biệt nghĩa danh từ
và nghĩa tính từ. Nghĩa danh từ có ba nghĩa khác nhau: 1. chỉ về người cổ đại
La Mã; 2. chỉ về người dưới chế độ phong kiến và 3. chỉ về người nhân dân
lao động. Nghĩa tính từ có hai nghĩa là: 1. Phục vụ nhân dân lao động, dùng
cho nhân dân lao động; 2. Giản dị và dễ gần. Nghĩa thứ nhất của tính từ được
114
phát triển từ nghĩa thứ ba của danh từ (người nhân dân lao động). Còn nghĩa
thứ hai của tính từ được khái quát từ nghĩa tính chất chung của danh từ bình
dân .
Đến Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (1970) [30, tr. 106], khi giải thích
từ bình dân chỉ còn một nghĩa danh từ (chỉ về người dân thường) và một nghĩa
tính từ (chỉ về tính cách thông thường, bình thường).
Cho đến những thập niên 90 của thế kỉ XX, trong Từ điển tiếng Việt
(Hoàng Phê chủ biên), từ bình dân đã được giải thích với hai nghĩa danh từ và
hai nghĩa tính từ.
bình dân.
I. dt.
1. Người dân thường (nói khái quát, thường là trong xã hội cũ).
Sự đối lập giữa quý tộc và bình dân.
2. (kng.; dùng phụ sau dt.). Bình dân học vụ (nói tắt).
Giáo viên bình dân. Lớp bình dân.
II. tt.
1. Của tầng lớp bình dân, dành riêng cho tầng lớp bình dân.
Văn học bình dân. Quán cơm bình dân.
2. Bình thường, giản dị, gần gũi với quần chúng.
Tác phong bình dân. Cách nói năng rất bình dân [80, tr. 65].
So sánh cách giải thích nghĩa của từ bình dân qua các công trình từ điển
xuất bản trong những thời gian khác nhau kéo dài suốt các thập niên của nửa
cuối thế kỉ XX để thấy được quá trình phát triển nghĩa từ vựng của từ này. Từ
xử đơn nghĩa trong các từ điển trước những năm 1951 của thế kỉ XX và cùng
với thời gian đã phát triển thành đa nghĩa. Đến TĐTV của Văn Tân và Hoàng
Phê phát triển bước cao hơn là xử đồng âm từ vựng và tách các nghĩa danh từ
và nghĩa tính từ khác nhau. Quá trình chuyển nghĩa từ nghĩa danh từ chỉ về
115
đối tượng (người dân thường) phát triển thành nghĩa tính chất, thuộc tính của
sự vật, hiện tượng đó.
3.3.2.2. Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp từ "bình dân"
Luận án lấy Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê để phân tích nội dung
ngữ nghĩa của trường hợp từ bình dân. Dựa trên lời định nghĩa của Từ điển
tiếng Việt (xem định nghĩa mục 3.3.2.1), danh từ bình dân có hai nghĩa. Trong
đó, nghĩa thứ nhất (Người dân thường (nói khái quát, thường là trong xã hội
cũ)) là nghĩa cơ sở để chuyển biến sang nghĩa chuyển.
Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ bình dân thành các trường hợp sau:
(K): bình dân = [(Chỉ người)1, (bình thường, không chức phận)2].
(K’): bình dân = [(Thuộc về bình dân)1 (Bình thường)2 (giản dị, gần gũi)3]
Từ những phân tích thành tố nghĩa ở trên có thể thấy: Cùng một vỏ âm
thanh bình dân nhưng có hai cấu trúc nghĩa khác nhau, trường hợp K chỉ
người nên thuộc về nghĩa danh từ và Trường hợp K’ chỉ về thuộc tính, tính
chất bình thường, giản dị nên thuộc về nghĩa tính từ.
Trường hợp K: nghĩa cơ sở định danh là nghĩa thứ nhất (chỉ người); nghĩa
phái sinh định danh là nghĩa thứ hai (bình thường, không chức phận) - đây cũng
là nghĩa tính chất thuộc về nghĩa danh từ, làm cơ sở cho sự chuyển nghĩa sang
nghĩa tính chất của Trường hợp K’ (thuộc về bình dân) - nghĩa tính chất của tính
từ bình dân.
Ví dụ, trong các ngữ cảnh sau:
(36) "Người bình dân" [80, tr. 65].
(37) "Quán cơm bình dân" [80, tr. 65].
Ngữ cảnh trong hai ví dụ 36 và 37 có sự khác biệt về nghĩa, ở ví dụ 36 là
nghĩa sự vật chỉ về người nên thuộc về nghĩa của danh từ; còn trong ví dụ 37 là
nghĩa tính chất, thuộc tính của "quán cơm" bình thường, giản dị cho nên thuộc
về nghĩa tính từ. Mối liên hệ ngữ nghĩa giữa các từ ở ví dụ 36 và ví dụ 37 là
nghĩa tính chất của từ bình dân trong ví dụ 37 được phát triển trên cơ sở nghĩa
116
tính chất mà danh từ bình dân trong ví dụ 36 đã hàm chứa. Nghĩa tính chất của
ví dụ 37 được hình thành qua sự biến đổi về nghĩa qua phương thức ẩn dụ.
Quy luật chuyển nghĩa của danh từ bình dân mang thuộc tính nghĩa của
tính từ bình dân là: từ danh từ chỉ người có tính chất đặc trưng (thuộc nét
nghĩa "bình thường") của chúng để biểu thị những đặc trưng, thuộc tính đó.
Phương thức chuyển nghĩa theo phương thức ẩn dụ.
Cấu trúc ngữ nghĩa của từ bình dân được tổ chức theo con đường sau:
Từ nghĩa 1 (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1), nghĩa 3 (S2) lại được phái sinh
từ nghĩa 2 (S1). Như vậy, có thể hình dung quá trình chuyển nghĩa của từ bình
dân theo sơ đồ sau:
S0 S1 S2
S3
Nghĩa của từ bình dân được biến đổi theo con đường vừa móc xích vừa
lan tỏa.
3.3.2.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ của trường hợp từ "bình dân"
Khảo sát Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển
học và Bách khoa thư Việt Nam đối với trường hợp từ bình dân có thể thấy:
Trong 429 ngữ cảnh và thuộc bốn lĩnh vực (báo chí, sách văn hóa - chính trị -
xã hội, văn học và ngữ liệu từ điển) thì tần số xuất hiện nhiều nhất là lĩnh vực
báo chí (204/429) và ít nhất là ngữ liệu từ điển (20/429).
Sự phát triển của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ của trường hợp
từ bình dân xuất hiện nhiều trong lĩnh vực báo chí bởi vì lĩnh vực báo chí
thuộc ngữ liệu văn viết, bao gồm nhiều chủ đề khác nhau, sử dụng tần suất
cao, số lượng ngữ liệu lớn, phát sinh hiện tượng chuyển nghĩa của danh từ
mang thuộc tính nghĩa tính từ tương đối lớn.
117
Ví dụ: (38) "Café ca nhạc bình dân là những quán chủ yếu dành cho đối
tượng sinh viên, học sinh như Cội nguồn, Vườn Thanh niên hay Rap
café..."[V30].
Từ những phân tích và biện giải trên có thể thấy: sự chuyển nghĩa từ
danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ của trường hợp từ bình dân. Quá trình
chuyển nghĩa đó biểu hiện ở nội dung nghĩa, sự biến đổi nghĩa về số lượng
(đơn nghĩa, đa nghĩa) và hàm nội dung nghĩa có sự biến đổi theo trục lịch đại.
3.3.3. Trường hợp từ "cách mạng"
3.3.3.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "cách mạng" trong các Từ điển tiếng Việt
Trong các cuốn từ điển Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của,
Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến đức (1931), Tự điển Việt Nam phổ
thông của Đào Văn Tập và Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị, chúng tôi
không tìm thấy mục từ cách mạng. Điều này cho thấy từ cách mạng chỉ xuất
hiện vào những năm 60 của thế kỉ XX. Trong Từ điển tiếng Việt (Văn Tân), từ
cách mạng được phân tách thành hai nghĩa danh từ.
cách mạng. dt. Cg. Cách mệnh.
1. Cuộc đấu tranh của giai cấp bị áp bức đứng lên lật đổ nền thống trị của
giai cấp áp bức, phá vỡ quan hệ sản xuất cũ, xây dựng một chế độ mới và tiến bộ. 2.
Sự phá bỏ tổ chức cũ xấu xa để dựng nên một hệ thống mới tốt đẹp: Cách mạng văn
hoá [88, tr. 116].
Đến Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (1970) khi định nghĩa từ cách
mạng, người biên soạn đã không phân tách nghĩa thành từng mục riêng và
cũng không chú từ loại.
cách-mạng (mệnh). bt.
Sửa-đổi chế-độ cũ cho tốt đẹp hơn hoặc thay-thế chế-độ cũ bằng chế-độ mới,
người mới với võ-lực [30, tr. 154].
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, từ cách mạng được giải thích như sau:
118
cách mạng. I d. 1 Cuộc biến đổi xã hội - chính trị lớn và căn bản, thực hiện
bằng việc lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời, lập nên một xã hội mới, tiến bộ. 2 Cuộc
đấu tranh nhằm thực hiện một cuộc cách mạng xã hội. 3 Quá trình thay đổi lớn và
căn bản theo hướng tiến bộ trong một lãnh vực nào đó. 4 (viết hoa). Cách mạng
tháng Tám (nói tắt). II t. Thuộc về cách mạng, có tính chất cách mạng [80, tr. 102].
Theo cách giải thích trên, từ cách mạng có bốn nghĩa thuộc danh từ,
trong đó nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ ba giống của TĐVT, có thêm nghĩa thứ
hai và nghĩa thứ tư. Trong quá trình phát triển nghĩa của từ cách mạng xuất
hiện nghĩa mới biểu thị tính chất, thuộc tính của từ cách mạng, chuyển biến
cấu trúc nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ. Con đường phát triển
nghĩa của từ này là một từ vừa có thuộc tính nghĩa phản ánh sự kiện, vừa có
thuộc tính nghĩa biểu thị tính chất, thuộc tính của sự kiện đó. Đây là con
đường khái quát hóa trong quá trình phát triển nghĩa, thể hiện sự sáng tạo của
cá nhân sử dụng ngôn ngữ trong tiến trình thời gian.
3.3.3.2. Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp từ "cách mạng"
Dựa vào cách giải thích nghĩa của Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê
(xem định nghĩa mục 3.3.3.1), nghĩa của từ cách mạng được ghi nhận có bốn
nghĩa khác nhau. Trong đó, nghĩa đầu tiên (Cuộc biến đổi xã hội - chính trị
lớn và căn bản, thực hiện bằng việc lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời, lập nên
một xã hội mới, tiến bộ) là cơ sở để chuyển nghĩa tính từ cách mạng (Thuộc
về cách mạng, có tính chất cách mạng).
Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ cách mạng thành các trường
hợp sau:
(L): cách mạng = [(Sự kiện)1 (có sự biến đổi lớn)2 (lật đổ cái cũ, thay
thế cái mới)3].
(L’): cách mạng = [(Biến đổi lớn)].
Từ sự phân tích thành tố nghĩa ở trên có thể thấy: Cùng một vỏ âm
thanh cách mạng nhưng có hai nghĩa khác nhau, trường hợp (L) chỉ về sự kiện
119
nên thuộc nghĩa của danh từ; còn Trường hợp (L’) chỉ về đặc trưng biến đổi
thuộc nghĩa của tính từ. Trong trường hợp L, từ cách mạng có ba nét nghĩa,
trong đó nét nghĩa thứ hai (có sự biến đổi lớn) là nét nghĩa cơ bản để chuyển
đổi nghĩa từ nét nghĩa sự vật sang nét nghĩa đặc trưng của từ cách mạng của
Trường hợp L’.
Từ cấu trúc nghĩa của từ cách mạng có thể thấy: Số lượng các nét nghĩa
trong hai cấu trúc khác nhau (trường hợp L có ba nét nghĩa và Trường hợp L’
chỉ có một nét nghĩa). Trong đó, trường hợp L: nghĩa cơ sở định danh là nghĩa
thứ nhất (chỉ sự kiện); nghĩa phái sinh định danh là nghĩa thứ hai (có sự biến
đổi lớn) - nét nghĩa cơ bản để chuyển đổi nghĩa từ nét nghĩa sự vật sang nét
nghĩa đặc trưng của từ cách mạng của Trường hợp L’.
Ví dụ trong các ngữ cảnh sau:
(39) "Cách mạng1 xã hội chủ nghĩa" [80, tr. 102].
(40) "Chính quyền cách mạng2" [80, tr. 102].
Qua các ngữ cảnh 39 và 40 có thể thấy, từ cách mạng có ngữ nghĩa khác
nhau. Từ cách mạng1 chỉ về một cuộc cách mạng cụ thể trong lịch sử (cách
mạng xã hội chủ nghĩa) cho nên thuộc về nghĩa sự vật. Từ cách mạng2 biểu thị
đặc trưng tính chất của chính quyền cho nên thuộc về nghĩa tính chất. Mối liên
hệ ngữ nghĩa giữa nghĩa của từ cách mạng trong ngữ cảnh 39 và 40 là đều chỉ về
thuộc tính (có sự biến đổi lớn) mà danh từ cách mạng1 hàm chứa.
Nghĩa tính chất nội tại của từ cách mạng thể hiện chữ in nghiêng trong
lời định nghĩa của từ điển: "cuộc biến đổi xã hội - chính trị lớn và căn bản,
thực hiện bằng việc lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời, lập nên một chế độ xã
hội mới, tiến bộ".
Quy tắc chuyển nghĩa của trường hợp từ cách mạng là: danh từ biểu thị
những thuật ngữ chính trị - xã hội, những khái niệm trừu tượng về thế giới vật
chất có thể dùng để chỉ cái gì đó thuộc về bản chất, vốn thường có ở con
người, hoặc tính linh hoạt gắn liền với cuộc sống ở con người. Phương thức
120
chuyển nghĩa của trường hợp từ cách mạng là ẩn dụ. Có thể kể ra một số
trường hợp khác trong tiếng Việt như khoa học, hàn lâm, thực tế, kinh viện, thực
tiễn, tự nhiên, hình thức, ...
Cấu trúc ngữ nghĩa của từ cách mạng được tổ chức theo con đường sau:
Từ nghĩa 1 (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1), từ nghĩa S0 lại được phái sinh
từ nghĩa 1 (S2 và S3). Như vậy, có thể hình dung quá trình chuyển nghĩa của
từ cách mạng theo sơ đồ sau:
S0 S1
S2 S3
Nghĩa của từ cách mạng được biến đổi theo con đường vừa móc xích
vừa lan tỏa. Kết cấu của từ cách mạng theo một hệ thống sơ đồ tuyến tính, từ
nghĩa thứ nhất dẫn đến nghĩa thứ hai.
Từ những phân tích trên có thể thấy, giữa danh từ cách mạng và tính từ
cách mạng đã có sự chuyển biến nghĩa.
3.3.3.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ của trường hợp từ "cách mạng"
Thử khảo sát Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển
học và Bách khoa thư Việt Nam, có thể thấy: trong 1000 ngữ cảnh của từ cách
mạng, có 100 ngữ cảnh (chiếm 10%) có chuyển nghĩa của từ cách mạng. Trong
đó, báo chí có 54/100 (chiếm 54%), lịch sử có 21/100 (chiếm 21%), văn học có
20/100 (chiếm 20%) và sách văn hóa - chính trị - xã hội có 5/100 (chiếm 5%).
Danh từ cách mạng mang thuộc tính nghĩa tính từ được phân bố ở năm
lĩnh vực (báo chí, văn học, lịch sử, sách văn hóa - chính trị - xã hội và từ
điển), tuy nhiên tần số xuất hiện khác nhau. Trong 100 ngữ cảnh chuyển
nghĩa của từ cách mạng, có 54 ngữ cảnh xuất hiện trong báo chí. Đây là lĩnh
vực có số lượng nhiều và tần suất sử dụng cao nhất, bởi vì báo chí là lĩnh vực
thuộc ngữ liệu văn viết, số lượng ngữ liệu lớn, phát sinh hiện tượng chuyển
nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ tương đối lớn, trong đó có từ
121
cách mạng. Ví dụ: (41) - "Không ai có thể thay thế nhân dân trong sự lựa
chọn tư tưởng cách mạng" [V31: tr. 2]
Lĩnh vực lịch sử có 21 ngữ cảnh chuyển nghĩa của từ cách mạng, chiếm
vị trí thứ hai trong năm lĩnh vực. Lịch sử phản ánh những sự kiện và những gì
thuộc về quá khứ và gắn liền với xã hội loài người. Các sự kiện chính trị, xã
hội có liên quan được miêu tả trong đó. Ví dụ: (42) - "Đặc biệt tại Ba Tơ
(Quãng Ngãi), tù chính trị đã nổi dậy, đánh chiếm đồn giặc, lập chính quyền cách
mạng và tổ chức đội du kích Ba Tơ" [V32: tr. 1-31].
Lĩnh vực văn học có 20 ngữ cảnh chuyển nghĩa của từ cách mạng,
chiếm vị trí thứ ba trong năm lĩnh vực. Văn học tái hiện lại các vấn đề, sự vật
hiện tượng trong đời sống xã hội - con người bằng ngôn ngữ. Một trong
những đặc điểm cơ bản của văn học là thông qua các hình tượng văn học phản
ánh cuộc sống, biểu đạt tình cảm và nhận thức của tác giả đối với nhân sinh
và xã hội. Để xây dựng đặc điểm cơ bản ngôn ngữ văn học dựa vào các yếu
tố: Một là, từ hiện thực cuộc sống được tác giả vận dụng các thủ pháp nghệ
thuật để xây dựng nên các hình tượng nghệ thuật; Hai là, văn học gắn liền với
liên tưởng và hư cấu trong tác phẩm; Ba là, ngôn ngữ văn học phong phú, đa
dạng. Do đó, hiện tượng chuyển nghĩa cũng thường xuất hiện trong văn học,
làm cho ngôn ngữ phong phú. Ví dụ: (43) - "Ở Liên Xô, có tổ chức bảo vệ an
ninh quốc gia, gọi là KGB, nhằm phát hiện và đấu tranh với những âm mưu
chính trị, quân sự của địch để bảo vệ chính quyền cách mạng" [V33: tr. 65].
Lĩnh vực sách văn hóa - chính trị - xã hội có năm ngữ cảnh chuyển
nghĩa của từ cách mạng. Ví dụ: (44) - "Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp
tiến hành đảo chính lật đổ chính quyền cách mạng ở Sài Gòn" [V34: tr. 178].
Để phân biệt giữa nghĩa tính từ và nghĩa danh từ của từ cách mạng,
trong TĐHP định nghĩa theo cấu trúc riêng là "thuộc về..., có tính chất...".
Theo đó, khảo sát trong TĐHP, chúng tôi nhận thấy nhiều trường hợp được
122
định nghĩa theo cấu trúc như vậy: bác học, cục bộ, giáo điều, lịch sử, phong
kiến, tập thể, vô sản, xã hội chủ nghĩa, v.v.
3.3.4. Trường hợp từ "phúc"
3.3.4.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "phúc" trong các Từ điển tiếng Việt
Trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của (1895-1896) từ
phúc được giải thích với nghĩa là:
Phúc. c. (Phước). [21, tr.822]
Từ phúc trong Việt Nam tự điển của HKTTĐ (1931) được giải thích với nghĩa:
phúc.
Điều hay, điều tốt, do việc làm nhân đức mà ra [52, tr. 445].
Đến Tự điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập (1951), từ phúc
được giải thích như sau:
phúc.
1. (h. Phước) Điều hay, điều tốt.
có phúc; phúc bất trùng lai.
2. (h. Phước) Điều nhân-đức.
làm phúc [89, tr. 493].
Việt Nam tân tự điển (TN) (1952), từ phúc được giải thích với hai nghĩa:
phúc. dt.
1. Điều hay, điều tốt, cũng gọi là phước.
Phúc chủ may thầy. Phúc nào đọ được giá nầy cha ngang (Ng.Du)
2. Làm phúc [73, tr. 1080].
Cho đến Từ điển tiếng Việt (Văn Tân) (1967), từ phúc được giải thích
với hai nghĩa: nghĩa danh từ và có thêm nghĩa tính từ. So với các công trình từ
điển trước đó, TĐVT đã chú từ loại khác nhau.
Phúc.
1. dt. Việc tốt lành :
Nhà có phúc.
123
2. tt. May mắn :
Phúc cho hắn thoát nạn [88, tr. 630].
Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức) (1970), từ phúc được giải thích có nghĩa:
PHÚC. dt. X. Phước
1. dt. (truyền): C/g.
Phúc điều tốt lành do Trời Phật ban cho người từng làm nhiều việc nhân-
đức:
Ban phước, cầu phước, có phước, chúc phước, giáng phước, hạnh-phước,
hồng-phước, hưởng phước, kiểng-phước, làm phước, ngũ phước, vĩnh-
phước, vô-phước; Có phước có phần
2. trg. May-mắn, hên:
Cũng phước, may phước, thiệt phước; Phước chủ may thầy [30, tr. 1175].
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1988, 2012), từ phúc được giải thích
thành hai nghĩa và chú từ loại (danh từ, tính từ) giống Từ điển tiếng Việt của
Văn Tân:
phúc.
I. dt. Điều may lớn, điều mang lại những sự tốt lành lớn; trái với hoạ.
Con hơn cha là nhà có phúc (tng.)
Phúc nhà anh ta còn to lắm (kng.; gặp hoạ, nhưng vẫn còn may).
II. tt. (kng.; thường dùng trong câu biểu cảm). May mắn.
Thật phúc cho nó, tai qua nạn khỏi. Như vậy là phúc lắm rồi! [80, tr.763]
Như vậy, trong khoảng thời gian gần hai thế kỉ (cuối thế kỉ 19 đến đầu
thế kỉ 21), từ phúc đã phát triển thêm nhiều nghĩa mới và cấu trúc nghĩa của
từ này được phát triển theo chiều hướng khái quát hóa. So với các công trình
trước đó (TĐHTC, TĐKT, TĐĐVT, TĐTN và TĐLVĐ) thường giải thích với
các nghĩa cụ thể thì đến TĐVT và TĐHP đã giải thích các nghĩa khái quát và
nghĩa trừu tượng tính chất của từ phúc. Nghĩa danh từ của từ phúc đều được
các công trình Từ điển tiếng Việt giải thích tuy lời giải thích và mức độ tính
124
khái quát khác nhau. Đó là nghĩa chỉ về quan điểm đánh giá về sự may mắn,
tốt lành. Trong quá trình phát triển nghĩa, từ này nảy sinh thêm nghĩa mới
biểu thị tính chất, đặc trưng.
3.3.4.2. Nội dung ngữ nghĩa của từ "phúc"
Dựa trên định nghĩa trong Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (xem định
nghĩa mục 3.3.4.1), từ phúc được định nghĩa thành hai nghĩa.
Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ phúc thành các trường hợp sau:
(M): phúc = [(Quan điểm đánh giá)1, (may mắn)2, (tốt lành)3].
(M'): phúc = [(May mắn)1].
Từ những phân tích thành tố nghĩa ở trên có thể thấy: Cùng một vỏ ngữ
âm (phúc) nhưng có hai cấu trúc nghĩa khác nhau, trường hợp M chỉ về quan
điểm đánh giá nên thuộc về nghĩa của danh từ; còn trường hợp M' chỉ đặc trưng
thuộc về nghĩa tính chất thuộc về nghĩa tính từ. Nét nghĩa thứ hai của từ phúc
trong trường hợp M là nét nghĩa cơ bản, nét nghĩa chuyển để hình thành nên
nét nghĩa tính chất của từ phúc trong trường hợp M'. Đây cũng là "sợi dây" liên
hệ ngữ nghĩa mật thiết trong quan hệ giữa danh từ phúc và tính từ phúc.
Về số lượng nghĩa trong hai trường hợp M và M' nói trên: nếu ở trường
hợp M có ba nét nghĩa thì ở trường hợp M chỉ có duy nhất một nét nghĩa. Đây là
hình thức thu hẹp nghĩa (restriction/narrowing).
Như vậy, trường hợp M, từ phúc mang nghĩa định danh khái niệm; và
nghĩa định danh khái niệm đã bao gồm nghĩa sự vật. Còn trường hợp M', từ
phúc mang nghĩa biểu đạt tính chất. Nét nghĩa này cũng chính là nét nghĩa
chuyển và mang đặc trưng khu biệt của nét nghĩa định danh khái niệm của từ
phúc. Nghĩa của từ phúc đã bao gồm hai loại là nghĩa định danh khái niệm
(danh từ) và nghĩa tính chất (tính từ).
Nghĩa chuyển của từ phúc mang đặc trưng, tính chất và có mối liên hệ
với nghĩa cơ sở chỉ sự vật (quan điểm đánh giá).
Ví dụ:
125
(45) "Phúc1 nhà anh ta còn to lắm" [80, tr. 763].
(46) "Thật phúc2 cho nó, tai qua nạn khỏi" [80, tr. 763].
Quan sát hai ví dụ 45 và 46 ở trên có thể thấy: ở ví dụ 45, từ phúc1 chỉ
quan điểm đánh giá thuộc về danh từ; còn từ phúc2 trong ví dụ thứ 46 chỉ về
đặc trưng, tính chất thuộc về tính từ.
Quy luật chuyển nghĩa của trường hợp từ phúc là: danh từ trừu tượng
biểu thị quan điểm đánh giá may, tốt về hoàn cảnh, các phạm trù đạo đức
được dùng để biểu thị tính chất, hoàn cảnh, đạo đức tương ứng. Phương thức
chuyển nghĩa của trường hợp này là ẩn dụ. Có thể kể ra một số trường hợp
khác trong tiếng Việt như hạnh phúc, phúc đức, lợi, lợi hại, nhân đạo, vinh hạnh,
văn minh, hảo tâm, nhiệt tình, kiểu cách, rủi, oan trái, hoạn nạn, v.v.
Cấu trúc ngữ nghĩa của từ phúc được tổ chức theo con đường sau:
Từ nghĩa 1 nghĩa cơ bản (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1) và (S2). Có thể
hình dung quá trình chuyển nghĩa của từ phúc theo sơ đồ sau:
S0 S1
S2
Các nghĩa phái sinh của từ phúc được phát triển theo hướng tỏa ra.
3.3.4.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ của trường hợp từ "phúc"
Thử khảo sát trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện
Từ điển học và Bách khoa thư Việt Nam có thể thấy: Trong 1614 ngữ cảnh từ
phúc có 100 đơn vị (chiếm 6.2%) chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa tính từ.
Trong đó, các ngữ cảnh thuộc các lĩnh vực khác nhau: văn hóa chính trị
(23/100), báo chí (14/100), ngữ liệu từ điển (7/100), ... Nhiều nhất là lĩnh vực
văn học (60/100) vì đặc trưng thể loại - văn học phản ánh toàn bộ các vấn đề
vật chất và tinh thần (tư tưởng, tình cảm, đạo đức) của con người một cách
chân thức nhất. Tần suất xuất hiện nhiều các trường hợp chuyển nghĩa danh từ
mang thuộc tính nghĩa tính từ trong các lời thoại của nhân vật mang tính đánh
126
giá, nhận xét. Bởi trong văn học, lời thoại của nhân vật là hình thức giao tiếp
thường xuyên, phổ biến nhất của ngôn ngữ, đồng thời cũng là hình thức căn
bản của mọi hoạt động ngôn ngữ khác.
Chẳng hạn:
(47) "Thôi mình đừng khóc nữa, được như vậy cũng là phúc lắm rồi".
[V35: tr. 565]
(48) "- Trời, dzậy là em tốt phúc quá!" [V36: tr. 95]
Từ ví dụ 47 và 48 cho thấy, các đánh giá "phúc lắm rồi", "tốt phúc quá"
thể hiện nghĩa tính chất rất rõ.
3.3.5. Trường hợp từ "quê"
3.3.5.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "quê" trong các Từ điển tiếng Việt
Trong Đại Nam quấc âm tự vị (1895-1896) của Huình Tịnh Của từ quê
được giải thích với một nghĩa sau: “Quê. n. Đất tổ phụ, xứ sở mình” [21, tr. 842].
Đến Từ điển Khai Trí Tiến Đức (1931) từ này được giải thích với hai
nghĩa là “ I. Nơi cỗi rễ của dòng họ nhà mình. Quê cha, đất tổ. Văn-liệu: Quê
người đất khách. Một chốn, đôi quê. Sống quê cha, ma quê chồng. Chim, gà,
cá, lợn, cành cau, Mùa nào thức ấy giữ màu nhà quê (C-d). Sống nhờ đất
khách, thác chôn quê người (K). Ngẩn-ngơ quê khách, gập-ghềnh đất xa (Nh-
đ-m). Hồn quê thơ-thẩn như dường theo ai (H-T). Lòng quê nghĩ một đôi điều
ngang-ngang (K). II. Mộc-mạc chất-phác. Ăn nói quê. Văn-liệu: Lời quê góp
nhặt dông-dài, Mua vui cũng được một vài trống canh (K)” [52, tr. 458].
Đến Tự điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập (1951), từ quê được
“quê.
1. Nơi cội rễ của dòng họ nhà mình. quê nội; quê ngoại; quê cha đất tổ; nhớ
quê chàng lại tìm đường thăm quê. 2. Nơi đồng ruộng làng mạc, đối với
thành-thị. nhà quê; thú quê. 3. Vụng về chất-phác. ăn mặc quê; điệu bộ quê;
lời quê chắp nhặt dông dài [89, tr. 507].
giải thích có ba nghĩa:
127
Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị (1952) từ quê cũng được giải
thích có ba nghĩa giống với từ điển của Đào Văn Tập:
quê.
I. dt. Nơi mình sinh đẻ: Quê cha, đất tổ. Hồn quê thơ-thẩn như dường theo ai
(Ng.h.Tự). II. bt. Nơi thôn dã: Thú quê. III. Mộc-mạc, chất-phác: Cô ấy còn
quê lắm [73, tr. 1103].
Đến TĐTV Văn Tân (1967) từ quê được giải thích với các nghĩa sau:
Quê.
I. - dt. 1. Cg. Quê hương. Nơi gốc rễ của dòng họ mình. 2. Nông thôn: Về
quê nghỉ. II. - Mộc mạc, thiếu văn vẻ (cũ): Dáng điệu trông quê lắm [88,
tr.642].
Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức (1970), từ quê được giải thích với
bốn nghĩa:
QUÊ.
1. dt. Nơi xa thành-thị: Nhà-quê, thôn-quê.
2. Xứ-sở, nơi cội-rễ ông bà cha mẹ mình: Sống quê cha, ma quê chồng.
3. Chỗ ở: Một kiểng hai quê.
4. tt. Thô-kệch, mộc-mạc, kém hiểu biết: Đất quê chớ người không quê; Tới
đây lạ xứ lạ người, Trăm bề nhẫn-nhịn, đừng cười tôi quê (CD) [30, tr. 1205].
Đến TĐTV của Hoàng Phê, từ quê được giải thích có hai nghĩa:
quê.
I. dt.
1. Nơi gia đình, dòng họ đã qua nhiều đời làm ăn sinh sống, thường đối với
mình có sự gắn bó tự nhiên về tình cảm.
Về thăm quê. Quê mẹ. Chính quê ở tỉnh A. Tình quê (tình cảm quê hương).
2. Nông thôn, nơi có đồng ruộng làng mạc.
Ở quê ra tỉnh. Dân quê.
II. tt. Có tính chất quá mộc mạc, kém vẻ thanh lịch.
Cách ăn mặc còn hơi quê [80, tr. 781].
128
Như vậy, nội dung của cùng một từ quê được các từ điển giải thích
không giống nhau. Trong mỗi giai đoạn khác nhau, các soạn giả đã phân tích
và tổng hợp các giá trị phản ánh và đánh giá hiện thực văn hóa để đưa vào từ
điển với những mức độ khác nhau. Từ quê được xử đa nghĩa và cho đến từ
điển của Thanh Nghị trở đi đã có chú từ loại. Đến từ điển của Hoàng Phê đã
xử thành hai từ đồng âm cùng gốc (quê dt. (danh từ) và quê tt. (tính từ)) tức
là kỹ thuật xử ở mức cao hơn là phân biệt nghĩa danh từ và tính từ.
3.3.5.2. Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp từ "quê"
Dựa trên lời định nghĩa của Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (xem định
nghĩa mục 3.3.5.1), danh từ quê được giải thích hai nghĩa, trong đó nghĩa cơ sở
là nghĩa thứ nhất (Nơi gia đình, dòng họ đã qua nhiều đời làm ăn sinh sống,
thường đối với mình có sự gắn bó tự nhiên về tình cảm) để chuyển biến nghĩa
mang thuộc tính nghĩa tính chất (Có tính chất quá mộc mạc, kém vẻ thanh lịch).
Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ quê thành các trường hợp sau:
(N): quê = [(địa điểm, nơi chốn)1 (gia đình, dòng họ sinh sống)2 (lâu
đời, mộc mạc, giản dị)3 (gắn bó tự nhiên về tình cảm)4]
(N’): quê = [(tính chất mộc mạc, kém vẻ thanh lịch)1]
Từ những phân tích trên có thể thấy, ở trường hợp N từ quê có ba nét
nghĩa: Nét nghĩa thứ nhất (địa điểm, nơi chốn); Nét nghĩa thứ hai (gia đình,
dòng họ sinh sống lâu đời); Nét nghĩa thứ ba (lâu đời, mộc mạc, giản dị); Nét
nghĩa thứ tư (gắn bó tự nhiên về tình cảm).
Còn ở trường hợp N’ là các nghĩa mới được hình thành trong quá trình
sử dụng từ quê là: tính chất mộc mạc, kém vẻ thanh lịch.
Trường hợp N: nghĩa cơ sở định danh là nghĩa thứ nhất (chỉ địa điểm,
nơi chốn); nghĩa phái sinh định danh là nghĩa thứ tư (lâu đời, mộc mạc, giản
dị) - đây cũng là nghĩa tính chất của thực thể và làm cơ sở cho sự chuyển nghĩa
tính chất của trường hợp N’ (tính chất mộc mạc, kém vẻ thanh lịch) biểu thị
nghĩa tính chất, đặc trưng.
129
Quy luật chuyển nghĩa của trường hợp từ quê là: danh từ chỉ địa điểm,
nơi chốn ở vùng xa trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa được dùng để biểu thị
tính chất mộc mạc, chân chất của con người. Có thể kể ra một số trường hợp
khác trong tiếng Việt như nhà quê, mọi rợ, rợ, hoang dã, nguyên sinh, ...
Nghĩa mới của tính từ quê mang đặc điểm riêng (nghĩa tính chất) nhưng
vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa gốc ban đầu (chỉ khái niệm, định
danh). Nghĩa chuyển của trường hợp từ quê được hình thành qua cơ chế ẩn dụ
được dùng với từ cách độc lập với nghĩa mới chỉ tính chất.
Xét các ngữ cảnh sau:
(49) "Bà Trưng quê ở châu Phong, Giận người tham-bạo, thù chồng
chẳng quên" [V8].
(50) "Mày quê quá Bảy Lâm ơi! Hổng phải trển nắng hơn dưới mình.
Nhưng đó là "mốt" mới đời nay" [V37: tr. 152].
Ngữ cảnh ví dụ 49 và 50 có sự khác biệt về nghĩa, ngữ cảnh 49 là nghĩa
sự vật, định danh khái niệm chỉ về địa điểm, nơi chốn cho nên nghĩa này
thuộc về danh từ; còn trong ngữ cảnh 50 là nghĩa tính chất chỉ vẻ mộc mạc,
kém vẻ thanh lịch cho nên nghĩa này thuộc về tính từ. Mối liên hệ ngữ nghĩa
giữa các từ ở ngữ cảnh 49 và 50 là nghĩa tính chất của từ quê trong ngữ cảnh
50 được phát triển trên cơ sở nghĩa tính chất mà danh từ quê trong ngữ cảnh
49 đã hàm chứa. Nghĩa tính chất của ngữ cảnh 50 được hình thành qua sự
biến đổi về nghĩa qua phương thức ẩn dụ.
Cấu trúc ngữ nghĩa của từ quê được tổ chức theo con đường sau:
Từ nghĩa 1 nghĩa cơ bản (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1), nghĩa 3 (S2) lại
được phái sinh từ nghĩa 2 (S1). Có thể hình dung quá trình chuyển nghĩa của
từ quê theo sơ đồ sau:
S0 S1 S2
S3
130
Các nghĩa phái sinh của từ quê được phát triển vừa theo hướng móc
xích lại vừa theo hướng lan toả.
3.3.5.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ của trường hợp từ "quê"
Thử khảo sát trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ
điển học và Bách khoa thư Việt Nam đối với trường hợp từ quê, có thể thấy:
trong 1000 ngữ cảnh của danh từ quê, có 161/1000 đơn vị (chiếm 16.1%)
mang thuộc tính nghĩa tính từ. Các trường hợp chuyển nghĩa này xuất hiện
trong các lĩnh vực sau: văn học (103/161 đơn vị), báo chí (49/161 đơn vị),
ngữ liệu từ điển (7/161 đơn vị) và sách văn hóa chính trị xã hội (2/161 đơn vị).
Lĩnh vực văn học có (103/161) ngữ cảnh, trong đó xuất hiện nhiều là
truyện và kí. Đặc trưng của thể loại văn học là lấy ngôn ngữ làm công cụ, dùng
các hình thức, hình tượng văn học để phản ánh hiện thực cuộc sống và biểu đạt
tâm tư tình cảm, nhận thức của tác giả về các vấn đề nhân sinh quan và xã hội.
Chính vì lẽ đó, cùng với sự phát triển của ngôn ngữ, hiện tượng chuyển nghĩa
xuất hiện nhiều trong văn học để làm phong phú thêm vốn từ. Ví dụ: (51) "Em
ở xa nhau quá, em còn trẻ quá, còn chất quê quá... không" [V38: tr.5].
Trong báo chí cũng xuất hiện khá nhiều (49/161) ngữ cảnh. Đây là một
trong những lĩnh vực có tần suất sử dụng khá cao trong ngữ liệu văn viết cho
nên số lượng ngữ liệu lớn và cũng là điều kiện phát sinh hiện tượng chuyển
nghĩa tương đối lớn.
Ngoài ra, hiện tượng chuyển nghĩa trường hợp từ quê xuất hiện trong
ngữ liệu từ điển (7/161) và sách văn hóa chính trị xã hội (2/161).
3.3.6. Trường hợp từ "sách vở"
3.3.6.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "sách vở" trong các Từ điển tiếng Việt
Trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huỳnh Tịnh Của (1895 - 1896) từ
sách vở được giải thích với nghĩa là: Sách là cuốn sách, vở là bài vở, đồ biên
chép mà học, cũng là tiếng đôi chỉ nghĩa là sách [21, tr. 892].
131
Trong Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến đức (1931) [52, tr. 480]
và Việt Nam tân tự điển của Thanh Nghị (1952) [73, tr. 1136], từ sách vở đều
được ghi nhận có một nghĩa là chỉ đồ dùng trong học tập và nói chung về
sách.
Đến Từ điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập (1951) từ sách vở
được ghi nhận có hai nghĩa:
sách vở.
1. Quyển sách và quyển vở; chỉ chung các sách.
2. ngb. Sự học-hành [89, tr. 524].
Trong Từ điển tiếng Việt của Văn Tân (1967), từ sách vở được ghi nhận
có hai nghĩa. So với các công trình trước đó, công trình này có thêm nghĩa
tính từ và chú từ loại dt (danh từ), tt (tính từ).
Sách Vở.
1. dt. Sách và vở nói chung.
2. tt. Chỉ lệ thuộc vào tri thức trong sách vở và không sát thực tế : Con
người sách vở ; Tri thức sách vở [88, tr. 667].
Tự điển Việt Nam của Lê Văn Đức (1970), từ sách vở được giải thích
với hai nghĩa nhưng đều chỉ sự vật, nghĩa thứ nhất là nói về sách vở và nghĩa
thứ hai là sách nói chung:
sách vở.
1. dt. Sách và tập vở
2. (thth) Tiếng gọi chung những sách: Tủ đựng sách vở [30, tr. 1262].
Trong khi đó, Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1988, 2012) từ sách
vở cũng được giải thích với hai nghĩa (danh từ và tính từ) giống TĐTV của
Văn Tân tuy nhiên mở rộng, phát triển trong từng nét nghĩa cụ thể.
sách vở.
I. dt.
Sách và vở; tài liệu học tập, nghiên cứu (nói khái quát).
Chuẩn bị sách vở cho ngày khai trường. Vùi đầu trong sách vở.
132
II. tt.
Lệ thuộc vào sách vở, thoát li thực tế.
Kiến thức sách vở. Con người sách vở [80, tr. 813].
Như vậy, nội dung giải thích từ sách vở trong các từ điển giải thích về
cơ bản giống nhau tuy nhiên cách diễn đạt của mỗi từ điển khác nhau. Trong
mỗi giai đoạn khác nhau, các soạn giả đã phân tích và tổng hợp các giá trị
phản ánh và đánh giá hiện thực văn hóa để đưa vào từ điển với những mức độ
khác nhau. Từ sách vở được xử đa nghĩa và cho đến TĐVT trở đi đã có chú
từ loại. Đến TĐTV của Văn Tân và Hoàng Phê đã xử thành hai từ đồng âm
cùng gốc (sách vở dt. (danh từ), sách vở tt. (tính từ)) tức là kỹ thuật xử ở mức
cao hơn là phân biệt nghĩa danh từ và tính từ.
3.3.6.2. Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp từ "sách vở"
Luận án lấy Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê để phân tích nội dung
ngữ nghĩa của trường hợp từ sách vở (xem định nghĩa mục 3.3.6.1). Dựa trên
lời định nghĩa của TĐHP, từ "sách vở" sách vở có hai nghĩa, trong đó nghĩa
cơ sở chỉ thực thể (Sách và vở; tài liệu học tập, nghiên cứu (nói khái quát)) và
nghĩa tính chất trừu tượng (Lệ thuộc vào sách vở, thoát li thực tế). Như vậy,
muốn xác định được nghĩa cơ bản của sự chuyển nghĩa thường là dựa vào nét
nghĩa gốc ban đầu.
Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ "sách vở" thành các trường hợp sau:
(O): sách vở = [(Đồ dùng)1 (được sử dụng trong học tập, nghiên cứu)2]
(O'): sách vở = [(tính chất chuẩn mực, rập khuôn)1]
Như vậy:
Cùng một vỏ âm thanh sách vở nhưng có hai cấu trúc nghĩa khác nhau:
Trường hợp O, từ sách vở thuộc về nghĩa thực thể, có hai nét nghĩa: Nét nghĩa
thứ nhất (đồ dùng); Nét nghĩa thứ hai (được sử dụng trong học tập, nghiên
cứu). Còn trường hợp O', từ sách vở nghĩa bóng (nghĩa chuyển) được hình
thành trong quá trình sử dụng từ sách vở là: tính chất chuẩn mực, rập khuôn.
133
Đây là nghĩa trừu tượng tính chất. Nghĩa mới của tính từ sách vở mang đặc
điểm riêng (nghĩa tính chất) nhưng vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ với nghĩa gốc
ban đầu (chỉ thực thể).
Quy luật chuyển nghĩa của trường hợp từ sách vở là danh từ chỉ sự vật
dùng để làm căn cứ khi làm cái gì hoặc có tính chuẩn mực được dùng để chỉ
tính chất chuẩn mực rập khuôn trong tính cách, hoạt động của con người. Có
thể kể ra một số trường hợp khác trong tiếng Việt như máy móc, mạch lạc,
mực thước, chuẩn, chuẩn mực, tiêu chuẩn, công thức, cơ bản, đặc trưng, mẫu
mực, gương mẫu, ... Nghĩa chuyển của trường hợp từ sách vở được hình thành
qua phương thức ẩn dụ: lấy thuộc tính, đặc điểm, tính chất nổi trội vốn có của
sự vật để biểu thị tính chất, đặc điểm của sự vật khác.
Cấu trúc ngữ nghĩa của từ sách vở được tổ chức theo con đường sau:
Từ nghĩa 1 nghĩa cơ bản (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1). Có thể hình dung
quá trình chuyển nghĩa của từ sách vở theo sơ đồ sau:
S0 S1
Các nghĩa phái sinh của từ sách vở được phát triển theo hướng móc xích.
Xét các ngữ cảnh sau:
(52) "Chiều hôm sau, tôi đem sách vở1 ra sửa soạn học bài thì thấy cái
Phượng đến bên" [V10: tr. 240].
(53) "Cô bỗng thấy lúng túng vì cảm thấy những điều mình nói có gì như
sách vở2 quá" [V39: tr. 328].
Ngữ cảnh trong ví dụ 52 và 53 có các nghĩa: sách vở1 là đồ dùng học
tập; sách vở2 là luận mang tính rập khuôn. Ví dụ 52 là nghĩa biểu đạt của
danh từ; còn trong ví dụ 53 là nghĩa tính chất của tính từ.
Nghiên cứu trường hợp từ sách vở cho thấy, một từ vừa có thuộc tính
nghĩa thực thể, vừa mang thuộc tính nghĩa trừu tượng tính chất. Sự chuyển
biến nghĩa của trường hợp từ sách vở đã được dùng trong giao tiếp, phát ngôn,
trong các văn bản và được ghi nhận qua các Từ điển giải thích tiếng Việt.
134
3.3.6.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ của trường hợp từ "sách vở"
Khảo sát trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ
điển học và Bách khoa thư Việt Nam đối với trường hợp từ sách vở có thể thấy:
trong 392 ngữ cảnh của danh từ sách vở có 61/392 đơn vị (chiếm 15.6%) mang
thuộc tính nghĩa tính từ. Trong đó, các trường hợp chuyển nghĩa này xuất hiện
trong các lĩnh vực sau văn học (22/61 đơn vị), báo chí (13/61 đơn vị), ngữ liệu
từ điển (18/61 đơn vị) và sách văn hóa chính trị xã hội (8/61 đơn vị).
Lĩnh vực văn học có (22/61) ngữ cảnh, trong đó xuất hiện nhiều là
truyện và kí. Văn học tái hiện lại các vấn đề, sự vật hiện tượng trong đời sống
xã hội - con người bằng ngôn ngữ. Một trong những đặc điểm cơ bản của văn
học là thông qua các hình tượng văn học phản ánh cuộc sống, biểu đạt tình
cảm và nhận thức của tác giả đối với nhân sinh và xã hội. Để xây dựng đặc
điểm cơ bản ngôn ngữ văn học dựa vào các yếu tố: một là, từ hiện thực cuộc
sống được tác giả vận dụng các thủ pháp nghệ thuật để xây dựng nên các hình
tượng nghệ thuật; hai là, văn học gắn liền với liên tưởng và hư cấu trong tác
phẩm; ba là, ngôn ngữ văn học phong phú, đa dạng. Chính vì lẽ đó, cùng với
sự phát triển của ngôn ngữ, hiện tượng chuyển nghĩa xuất hiện nhiều trong
văn học để làm phong phú thêm vốn từ.
Ví dụ:
(54) - Nơi phương trời xa, Lục càng tiếp xúc với kiến thức sách vở lại càng
hiểu và yêu quý người yêu và người thầy đang lăn lộn trong thực tiễn [V40: tr. 902].
Trong báo chí cũng xuất hiện khá nhiều (13/61) ngữ cảnh. Là một trong
những lĩnh vực có tần suất sử dụng khá cao trong ngữ liệu văn viết cho nên số
lượng ngữ liệu lớn. Đây cũng là điều kiện phát sinh hiện tượng chuyển nghĩa
tương đối lớn.
Ví dụ:
135
(55) "- Tôi thuộc lớp người sinh vào quãng giữa thế kỷ, nên những gì
mà tôi có thể đem so sánh với trước đó đều chỉ là những so sánh có tính chất
sách vở" [V41].
Ngoài ra, hiện tượng chuyển nghĩa trường hợp từ sách vở xuất hiện
trong ngữ liệu từ điển (18/61) và sách văn hóa chính trị xã hội (8/61).
Ví dụ:
(56) "Con người sách vở" [79, tr. 813].
(57) "Theo dõi tiểu thuyết từ đầu tập 1 đến cuối tập 2, thấy rõ Hảo từ một
sinh viên còn nhiều nhận thức non nớt về xã hội, hơi "sách vở", hơi cứng khi nhìn
nhận một số vấn đề riêng tư, dần dà Hảo đã trở thành một cán bộ tốt, có những
đóng góp đáng quý trong nghiên cứu khoa học" [V42: tr. 317].
Từ những phân tích, biện giải trên cho thấy quá trình chuyển nghĩa của
danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ của trường hợp từ sách vở.
3.3.7. Trường hợp từ "bụi"
3.3.7.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "bụi" trong các Từ điển tiếng Việt
Trong Đại Nam quấc âm tự vị (1895-1896) của Huình Tịnh Của, từ bụi
được ghi nhận có hai nghĩa:
Bụi. n. Đất bủn hay là vật nát ra như bột hay bay theo gió. Chòm cây cỏ lúp xúp.
[21, tr. 77]
Việt Nam tự điển (1931) của Hội Khai trí Tiến đức, từ bụi cũng được giải
thích với hai nghĩa giống với TĐHTC:
bụi.
A. Những chất nhỏ lăn-tăn bay lẫn vào trong không-khí.
B. Đám cây cỏ mọc rậm [52, tr. 60].
So với hai từ điển trên, Tự điển Việt Nam phổ thông (1951) của Đào Văn
Tập giải thích từ bụi có thêm một nghĩa bóng (tang):
bụi
1. Chòm cây rậm rạp. Bụi tre. Bụi gai.
136
2. Những mảnh vụn rất nhỏ của mọi vật, bám vào không cứ là đồ gì và bay
lên trên không nhiều hay ít tuỳ theo không khí chuyển động mạnh hay yếu.
Giũ bụi. Phủi bụi.
3. ngb. Tang. Có bụi [89, tr. 62].
Đến Việt Nam tân tự điển (1952) của Thanh Nghị, từ bụi được ghi nhận
có hai nghĩa, nghĩa thứ nhất trùng với các công trình từ điển trên và có thêm
nghĩa bóng (giặc giã).
bụi A. dt.
I. Những chất nhỏ mịn lăn tăn bay lẫn vào trong không khí.
II. Ngb. Giặc giã [73, tr. 160].
Từ điển tiếng Việt (1967) của Văn Tân khi định nghĩa từ bụi, cũng giải
thích giống các từ điển trước đó và có thêm hai nghĩa mới (nghĩa thứ hai và
nghĩa thứ ba).
bụi. dt.
1. Những hạt rất nhỏ do các chất rắn vụn ra bay trong không khí hoặc phủ
trên mặt đường, đồ đạc.
2. Những điều nhơ bẩn: Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được
mình ấy vay (K).
3. Nhỏ vụn như bụi: Mưa bụi [88, tr. 101].
Tự điển Việt Nam (1970), có nghĩa thứ nhất và nghĩa thứ ba được giải
thích giống các từ điển trước và thêm nghĩa bóng (2. Sự dày dạn kinh nghiệm
trên đường đời) của từ bụi:
bụi
A. 1. dt. Vật thể nhỏ bay trong không khí hoặc ở dưới đất bị gió cuốn bay
lên. Gió bụi. Phủi bụi. Quét bụi.
2. (B). Sự dày dạn kinh nghiệm trên đường đời. Nước non dường ấy tình
dường ấy, Xe ngựa bao nhiêu, bụi bấy nhiêu.
3. (R). Tang tóc. Có bụi [30, tr. 138].
137
Đến Từ điển tiếng Việt (2012) của Hoàng Phê, từ bụi được định nghĩa
như sau:
bụi.
I. dt.
1. Vụn nhỏ li ti của chất rắn có thể lơ lửng trong không khí hoặc bám trên bề mặt
các vật.
Quần áo đầy bụi. Bụi than.
2. Dạng hạt nhỏ như hạt bụi (nói về nước). Bụi nước. Mưa bụi lất phất.
3. (phg.; kết hợp hạn chế). Tang. Có bụi.
4. (kng.). Bụi đời (nói tắt). Bỏ nhà đi bụi, lang thang chán lại về.
II. tt. (kng.).
Có dáng vẻ buông thả, không theo khuôn khổ thông thường, trông giống như
của những người đi bụi. Tóc cắt trông rất bụi. Đeo chiếc ba lô bụi [80, tr. 85].
So với các công trình từ điển trước đó, TĐTV của Hoàng Phê đã có sự
phát triển và mở rộng nghĩa, không chỉ nghĩa danh từ mà có thêm thuộc tính
nghĩa tính từ. Trong đó nghĩa danh từ có thêm nghĩa "bụi đời" (nói tắt) và đây
cũng là nghĩa cơ sở để từ này mang thêm thuộc tính nghĩa mới ("Có dáng vẻ
buông thả, không theo khuôn khổ thông thường, trông giống như của những
người đi bụi"). Đây là nghĩa tính chất của tính từ.
Đối chiếu cách giải thích nghĩa của từ bụi trong các công trình Từ điển
ngữ văn theo tiến trình thời gian từ nửa cuối thế kỉ 19 đến đầu thế kỉ 21 cho thấy
quá trình phát triển, biến đổi nghĩa khá rõ của từ này. Qua bảy công trình từ điển
kể trên, mục từ bụi được xử lý theo hướng đa nghĩa. Số lượng các nghĩa có sự
tăng lên theo thời gian, từ hai nghĩa (TĐHTC, TĐKT, TĐTN), ba nghĩa
(TĐĐVT, TĐLVĐ), bốn nghĩa (TĐVT, TĐHP). Các nghĩa cụ thể của từ bụi đều
được các từ điển ngữ văn giải thích tuy mức độ khái quát của lời giải thích ở mỗi
công trình khác nhau. Đó là các nghĩa chỉ về sự vật, thực thể. Bên cạnh các nghĩa
đen còn có các nghĩa bóng (tang, giặc giã).
138
Sự chuyển biến nghĩa của trường hợp từ bụi: từ nghĩa chỉ sự vật, thực
thể mang thêm thuộc tính nghĩa tính chất. Công trình từ điển tiếng Việt của
Hoàng Phê xác nhận khi chú từ loại khác nhau (danh từ và tính từ), "điều này
cho thấy xu hướng khái quát hoá trong quá trình phát triển nghĩa của từ đa
nghĩa là xu hướng chủ đạo, phản ánh quá trình sáng tạo và sử dụng của người
nói và xảy ra trong tiến trình thời gian" [71, tr. 164].
3.3.7.2. Nội dung ngữ nghĩa của trường hợp từ "bụi"
Dựa vào định nghĩa của Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (xem định
nghĩa mục 3.3.7.1) có thể thấy, trường hợp từ bụi có các nghĩa khác nhau,
trong đó nghĩa thứ 4 (Bụi đời (nói tắt)) là nghĩa cơ sở để chuyển biến nghĩa
mới. Do đó, luận án sẽ phân tích cấu trúc nghĩa chung nhất của từ bụi trong
nghĩa này để thấy được mối liên hệ giữa nghĩa cơ sở và nghĩa phái sinh.
Cùng một hình thức âm thanh bụi có hai cấu trúc nghĩa sau:
(P): bụi = [(Cuộc sống)1 (lang thang, vất vưởng, không cố định, không
theo trật tự nào)2]
(P')': bụi = [(Dáng vẻ)1 (buông thả, không theo khuôn khổ thông
thường)2]
Như vậy:
Ở trường hợp P, từ bụi có hai nghĩa biểu niệm: nghĩa thứ nhất (cuộc
sống); nghĩa thứ hai (lang thang, vất vưởng, không cố định, không theo trật tự
nào). Trong đó nghĩa thứ hai là nghĩa phái sinh định danh mang thuộc tính,
tính chất của danh từ bụi. Đây là các nghĩa định danh, khái niệm nên thuộc về
nghĩa danh từ.
Còn ở trường hợp P' là cũng có hai nghĩa biểu niệm: nghĩa thứ nhất
(dáng vẻ phong cách); nghĩa thứ hai (không theo khuôn khổ thông thường).
Đây là nghĩa tính chất thuộc tính từ của trường hợp từ bụi, nghĩa này được
hình thành trên cơ sở nghĩa thứ hai của trường hợp P (sống lang thang, vất
vưởng, không cố định, không theo trật tự nào).
139
Từ sự phân tích cấu trúc nghĩa trên có thể thấy, từ bụi có hai cấu trúc
nghĩa khác nhau: trường hợp P chỉ về cuộc sống - nghĩa định danh, khái niệm
thuộc về danh từ và trường hợp P' chỉ về dáng vẻ - nghĩa chỉ tính chất, đặc
trưng thuộc về tính từ. Nghĩa cơ sở (chỉ cuộc sống), nghĩa phái sinh định
danh của trường hợp P (lang thang, vất vưởng, không cố định, không theo trật
tự nào) và nghĩa chuyển (Dáng vẻ buông thả, không theo khuôn khổ thông
thường) của trường hợp P'.
Cơ chế biến đổi nghĩa của trường hợp từ bụi là mở rộng nghĩa, trên cơ
sở mối liên hệ giữa nghĩa phái sinh định danh và nghĩa chuyển được hình
thành theo phương thức liên tưởng ẩn dụ. Quy tắc chuyển nghĩa của trường
hợp từ bụi là danh từ chỉ lối sống lang thang, vất vưởng được dùng để biểu thị
cho phong cách, tính chất đó.
Dựa vào lời định nghĩa của Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê, có thể
thấy cấu trúc nghĩa của từ bụi được tổ chức theo con đường sau:
Từ nghĩa 1 nghĩa cơ sở (S0) chuyển nghĩa sang nghĩa 2 (S1) theo hình
thức phương thức ẩn dụ. Nghĩa 3 (S2) và nghĩa 4 (S3) được phái sinh từ nghĩa
cơ sở (S0) theo hướng phương thức ẩn dụ. Có thể quá trình chuyển nghĩa của
từ bụi qua sơ đồ sau:
S0 S1
S2
S3
Các nghĩa phái sinh của từ bụi được phát triển vừa theo hướng móc xích
lại vừa theo hướng lan toả.
Xét các ngữ cảnh sau:
(58) "Cha mẹ bỏ nhau, Quỳnh đi bụi3 và trở thành một tên trộm thạo
nghề" [V43: tr. 34].
140
(59) "Trang phục của cô khi xuống máy bay là chiếc quần short vải
jean thật... ngắn, chiếc áo vải không cổ cộc tay màu tím nhạt trông rất 'bụi4'
thậm chí còn hơi... nhàu nữa, như bao nhiêu khách 'ba lô' khác" [V44: tr. 37].
Từ ngữ cảnh 58 và 59 có thể thấy, từ bụi3 nói về lối sống thuộc về nghĩa
định danh khái niệm (danh từ); bụi4 nói về phong cách của chiếc áo thuộc về
nghĩa biểu đạt tính chất (tính từ).
Như vậy, qua phân tích cấu trúc nghĩa của trường hợp từ bụi có thể
thấy, Một từ nhưng mang hai thuộc tính nghĩa, vừa mang thuộc tính nghĩa
danh từ (lối sống), vừa mang thuộc tính nghĩa tính từ (dáng vẻ).
3.3.7.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ của trường hợp từ "bụi"
Khảo sát trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ
điển học và Bách khoa thư Việt Nam, có thể thấy: Trong 1.589 phiếu ngữ cảnh
của từ bụi có 70 đơn vị danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ. Các ngữ cảnh này
thuộc các phong cách chức năng khác nhau, chủ yếu là lĩnh vực báo chí. Ngoài
ra còn có các lĩnh vực khác như văn học, sách văn hóa chính trị - xã hội, ngữ
liệu từ điển.
Tần suất xuất hiện khá cao các trường hợp là sống bụi (18 lần), dân bụi
(17 lần), ngủ bụi (14 lần), ăn bụi (6 lần), mặc bụi (1 lần), v.v... Đặc biệt, xuất
hiện nhiều tổ hợp cơm bụi (20 lần). Đây là nghĩa tính chất được phát triển trên
cơ sở của nghĩa tính từ của từ bụi.
Ví dụ:
(60) "Chỉ mặc bụi, chưa ăn bụi, ngủ bụi, sống bụi... chưa phải là dân
bụi!" [V45: tr. 6]
(61) "Lấy chồng rồi dắt nhau đi mà ăn cơm bụi" [V46: tr. 34]
Từ những miêu tả trên có thể thấy sự chuyển nghĩa danh từ mang thuộc
tính nghĩa tính từ của trường hợp từ bụi.
141
3.3.8. Trường hợp từ "gan"
3.3.8.1. Sự biểu hiện ngữ nghĩa của từ "gan" trong các Từ điển tiếng Việt
Trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình Tịnh Của (1895-1896), từ gan
được giải thích có hai nghĩa:
Gan. c. Lá gan; mạnh mẽ, dạn dĩ [21, tr. 345].
Nghĩa thứ nhất chỉ bộ phận cơ thể (lá gan) và nghĩa thứ hai là nghĩa
bóng (mạnh mẽ, dạn sĩ). Đây là nghĩa danh từ và tính từ của từ "gan". Có thể
thấy nghĩa tính chất của từ nãy được ghi nhận sớm, mặc dù người biên soạn
chưa chú từ loại nhưng trong quá trình giải thích đã có ý thức phân tách các
nghĩa khác nhau.
Từ gan trong Việt Nam tự điển của Hội Khai trí Tiến đức (1931) cũng
được giải thích với các nghĩa giống như Đại Nam quấc âm tự vị của Huình
Tịnh Của và có thêm nghĩa mới (Phần chũng ở giữa bàn tay, bàn chân):
gan.
A. Một bộ-phận trong ngũ-tạng. Buồng gan. Nghĩa bóng: bạo dạn: Dạn dày
cho biết gan liền tướng-quân (K). Văn-liệu: Gan vàng, dạ sắt. Gan già ma
mọi. Gan bằng gan cóc tía. Có gan ăn cướp, có gan chịu đòn. Bống có gan
bống, bớp có gan bớp. Đá vẫn trơ gan cùng tuế-nguyệt (thơ cổ). Dẫu rằng đá
cũng nát gan lọ người (K). Như nung gan sắt, như bào lòng son (K). Kiên-
trinh chẳng phải gan vừa (K). Gan chẳng đá khôn đường khá chuyển (C-o).
Dễ đem gan óc đền nghì trời mây (K).
B. Phần chũng ở giữa bàn tay, bàn chân. Gan bàn tay, gan bàn chân [52, tr. 202].
Đến Tự điển Việt Nam phổ thông của Đào Văn Tập (1951), từ gan được
giải thích giống các từ điển trước đó nhưng đã tách thành các nghĩa cụ thể
hơn:
gan.
1. Tạng-phủ tiết ra mật. buồng gan.
2. ngb. Can-đảm: non gan; có gan; cả gan.
142
3. Phần trũng ở giữa lòng bàn tay hay lòng bàn chân. gan bàn tay; gan bàn
chân [89, tr. 227].
Đối với trường hợp từ gan trong Việt Nam tân tự điển (Thanh Nghị)
(1952) khái quát các nét nghĩa cụ thể đã có trong các từ điển trước và mở rộng
thêm nghĩa bóng (lòng dạ, bạo dạn, non gan, ...):
gan. dt.
I. Một bộ-phận trong ngũ tạng, nằm bên phải bao tử: Bịnh rét hay làm đau
gan.
II. Lòng dạ: Đá vẩn trơ gan cùng tuế nguyệt (Th.Quan) Gan chẳng đá, khôn
đường khó chuyển (Ng.gia.Thiều)
III. bt.
1. Bạo dạn: Anh ấy gan lắm. Có phước làm quan có gan làm giàu (T.ng)
2. Non gan. Già gan, to gan, can đảm [73, tr. 557].
Cho đến Từ điển tiếng Việt (Văn Tân) (1967), từ gan được giải thích
như sau:
GAN.
I. dt. 1. Một bộ phận trong bộ máy tiêu hóa có nhiều chức năng, chức năng
chính là tiết ra mật để tiêu chất mỡ. 2. Mặt trong hay dưới (của bàn tay, bàn
chân).
II. tt. 1. Dám làm những việc nguy hiểm mà người bình thường e ngại: Phải
gan lắm mới xông vào đồn địch . Gan cóc tía. Quá bạo dạn. 2. Có sức bền bỉ
trước những khó khăn gian lao: Gan chịu đòn. Gan liền tướng quân. Gan góc
vô cùng. Gan vàng dạ sắt. Lòng chung thủy không thay đổi trước mọi khó
khăn [88, tr. 327].
So với các công trình trước đó, công trình TĐVT đã có chú từ loại khác
nhau (danh từ và tính từ), các nét nghĩa cụ thể được phân biệt với hai nghĩa
danh từ (chỉ về bộ phận cơ thể) và hai nghĩa tính từ (dám làm những việc
143
hiểm nguy, có sức bền bỉ trước khó khăn). Nghĩa tính chất của từ được hình
thành trên cơ sở nghĩa bóng đã có trong các từ điển trước đây.
Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức) (1970), từ gan được giải thích với ba
nghĩa sau:
gan.
1. dt. (cơth.): C/g. Can, bộ-phận lọc máu và tiết ra mật, phía phải bao-tử.
Buồng gan, lá gan, đau gan
2. tt. Dạn, không sợ. Cả gan, căm-gan, lớn gan, to gan, xung-gan; Có
phước làm quan có gan làm giàu (tng.).
3. (R) dt. Lòng, phần trũng giữa bàn tay bàn chân. gan bàn chân, gan bàn
tay [30, tr. 518].
Đến Việt Nam tự điển của Lê Văn Đức khi giải thích nghĩa của từ gan
cũng có chú nghĩa từ loại khác nhau (danh từ, tính từ) và khái quát chi tiết
thêm nghĩa mở rộng danh từ (Lòng, phần trũng giữa bàn tay bàn chân).
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1988, 2012), từ gan được giải thích
thành các nghĩa khác nhau và có chú từ loại (danh từ, tính từ) giống TĐVT.
Tuy nhiên, nghĩa danh từ được miêu tả cụ thể hơn và nghĩa tính từ miêu tả
khái quát hơn so với công trình trước đó.
gan.
I. dt. 1. Bộ phận của bộ máy tiêu hoá có chức năng chính là tiết mật để tiêu
hoá chất mỡ. Buồng gan. Viêm gan. Món gan lợn. 2. (thường dùng trong một
số tổ hợp, sau đgt., tt.). Gan của con người, coi là biểu tượng của tinh thần, ý
chí mạnh mẽ, bền bỉ, không lùi bước trước khó khăn. Bền gan. Thi gan đọ sức.
Bé người mà to gan. 3. Gan của con người, coi là biểu tượng của tinh thần dám
đương đầu với nguy hiểm, dám chịu đựng. Có gan vào hang bắt cọp. Có gan
chịu đòn. Non gan*. Nhát gan*. Miệng hùm gan sứa*.
II. tt. Tỏ ra có gan, dám đương đầu với nguy hiểm hoặc dám chịu đựng. Nó
gan lắm, súng kề tai cũng không sợ. Thằng bé chịu đòn rất gan [80, tr. 365].
144
So sánh nghĩa của từ gan trong các công trình từ điển có thể thấy,
nghĩa cụ thể của từ này được ghi nhận ở hầu hết các từ điển; tuy nhiên mức độ
khái quát của lời giải thích trong từng từ điển khác nhau. Nghĩa cơ sở chỉ bộ
phận cơ thể, hình thành nghĩa bóng (bạo dạn, gan dạ...) và từ đó phát sinh các
nghĩa mới chỉ tính chất (Tỏ ra có gan, dám đương đầu với nguy hiểm hoặc
dám chịu đựng).
3.3.8.2. Nội dung ngữ nghĩa của từ "gan"
Dựa trên lời định nghĩa Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (xem định
nghĩa mục 3.3.8.1), danh từ gan có ba nghĩa khác nhau, trong đó nghĩa thứ
nhất là nghĩa cơ sở để chuyển biến nghĩa mang thuộc tính nghĩa tính chất (Tỏ
ra có gan, dám đương đầu với nguy hiểm hoặc dám chịu đựng).
Có thể khái quát cấu trúc nghĩa của từ gan thành các trường hợp sau:
(Q): gan = [(Bộ phận cơ thể)1 (có chức năng, vai trò quan trọng chức
năng chính là tiết mật để tiêu hoá chất mỡ)2 (biểu tượng tinh thần, ý chí mạnh
mẽ, dám đương đầu nguy hiểm)3].
(Q'): gan = [(Tỏ ra có gan, dám đương đầu nguy hiểm, dám chịu đựng)1].
Từ những phân tích thành tố nghĩa ở trên có thể thấy:
Nét nghĩa thứ nhất chỉ về bộ phận cơ thể, đây là nghĩa cơ sở. Nét nghĩa
thứ hai là nghĩa chuyển (nghĩa bóng) được hình thành trên cơ sở nghĩa thứ
nhất, dựa vào nét nghĩa chức năng, vai trò (gan là cơ quan nội tạng lớn có vai
trò giống như một lá chắn giúp ngăn chặn các yếu tố độc hại xâm nhập vào
bộ máy tiêu hóa, làm giảm độc tính và thải trừ một số chất được tạo ra trong
quá trình chuyển hóa của cơ thể, ...) hình thành nghĩa định danh khái niệm
"biểu tượng tinh thần, ý chí mạnh mẽ, dám đương đầu nguy hiểm". Từ nghĩa
này, hình thành nghĩa chỉ tính chất - tỏ ra có gan, dám đương đầu nguy hiểm,
dám chịu đựng). Nghĩa chuyển của từ gan được hình thành qua phương thức
hoán dụ (có sự tương cận về chức năng giữa các sự vật).
Xét các ngữ cảnh sau:
145
(62) "Có gan1 vào hang bắt cọp" [80, tr. 365].
(63) "Thằng bé chịu đòn rất gan2" [80, tr. 365].
Quan sát hai ví dụ 62 và 63 ở trên có thể thấy: gan1 chỉ tinh thần, ý chí
khi dám vào hang bắt cọp (nghĩa định danh thuộc danh từ); gan2 tỏ ra chịu
đựng trước đòn roi (nghĩa tính chất thuộc tính từ).
Quy luật chuyển nghĩa của trường hợp từ gan là danh từ chỉ bộ phận cơ
thể người có chức năng nhất định được dùng để chỉ đặc điểm nào đó về mặt
tâm lý, tính cách của con người). Có thể kể ra một số trường hợp khác trong
tiếng Việt như gan ruột, gân guốc, mồm mép, đầu óc, ruột, xương, xương xẩu,
miệng lưỡi, ...
Cấu trúc ngữ nghĩa của từ gan được tổ chức theo con đường sau:
Từ nghĩa 1 nghĩa cơ bản (S0) chuyển sang nghĩa 2 (S1) và (S2). Có thể
hình dung quá trình chuyển nghĩa của từ gan theo sơ đồ sau:
S0 S1
S2
Các nghĩa phái sinh của từ gan được phát triển theo hướng tỏa ra.
3.3.8.3. Phân bố lĩnh vực và tần suất sử dụng của danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ của trường hợp từ "gan"
Khảo sát trong Chương trình tra cứu ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ
điển học và Bách khoa thư Việt Nam đối với trường hợp từ gan, có thể thấy:
Trong 1.366 ngữ cảnh của trường hợp từ gan thì có 105 đơn vị (chiếm 7.7%)
chuyển nghĩa mang thuộc tính nghĩa tính từ. Trong đó, các ngữ cảnh thuộc
các lĩnh vực khác nhau: văn học (72 đơn vị), văn hóa chính trị (18 đơn vị),
báo chí (10 đơn vị), ngữ liệu từ điển (5 đơn vị),...
Ví dụ:
(64) "- Việt cộng chính hiệu, chúng gan lắm..." [V47: tr. 241].
(65) "Khi gặp cô bạn người Hà Lan lái xe tận Ultrech lên Amsterdam
dẫn chúng tôi đi chơi, tôi đòi qua đó uống cà phê, cô cười: "Gan quá ha? Biết
146
trong đó tụi nó làm gì không?" rồi đưa hai ngón tay trước miệng làm hiệu như
đang "phê' thuốc"" [V48: tr. 51].
Tần suất xuất hiện các tổ hợp cao của trường hợp này như gan lì (27
đơn vị), bạo gan (14 đơn vị), gan góc (12 đơn vị), gan vàng (11 đơn vị), gan
dạ (10 đơn vị), gan cóc tía (3 đơn vị), ...
Từ nghĩa tính từ "Tỏ ra có gan, dám đương đầu với nguy hiểm hoặc
dám chịu đựng" tiếp tục phát triển các nghĩa tính chất, trong đó xuất hiện các
thành ngữ miêu tả: gan bào ruột thắt, gan chai phổi đá, gan chí mề, gan cóc
mặt công, gan cóc tía, gan đá dạ sắt, gan đồng dạ sắt, gan héo ruột đấy, gan
lì tướng quân, gân liền tướng quân, gan như cóc tía, gan rầu ruột héo, gan
sành dạ sỏi, gan sắt lòng son, gan thắt ruột bào, gan thỏ đế, gan vàng dạ
ngọc, gan vàng dạ sắt, ...
Từ những phân tích và miêu tả trên, cho thấy: có sự chuyển nghĩa danh
từ mang thuộc tính nghĩa tính từ của trường hợp từ gan.
3.4. Đặc trưng ngữ nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
3.4.1. Cơ sở của sự chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
Xét về mặt nội dung nghĩa của từ gồm hai loại là nghĩa biểu đạt (còn
gọi nghĩa biểu hiện/nghĩa biểu niệm) và nghĩa định tính chất. Nghĩa biểu đạt
khái niệm là "nghĩa bản chất của từ, là mối liên hệ giữa từ ngữ âm với ý niệm
về sự vật, hiện tượng do từ biểu thị được phản ánh trong nhận thức của con
người. Nghĩa khái niệm là kết quả việc con người phản ánh trong nhận thức
một sự vật khách quan nào đấy là nội dung mà nghĩa từ chỉ ra" [70, tr. 91].
Còn nghĩa định tính chất là "nghĩa được bao hàm trong khái niệm" [70, tr.
92]. Từ đó có thể thấy, đối với nghĩa của danh từ là thuộc bình diện nghĩa
biểu niệm, còn đối với nghĩa tính từ chủ yếu là nghĩa biểu đạt tính chất. Nghĩa
biểu niệm của danh từ thể hiện ở nghĩa sự vật; còn nghĩa định tính chất của
tính từ biểu hiện ở nghĩa tính chất của tính từ.
147
Nghĩa biểu đạt khái niệm và nghĩa biểu đạt tính chất thể hiện rõ trong
từ điển, đó là: nghĩa biểu đạt khái niệm là các lời giải thích nghĩa, còn nghĩa
biểu đạt tính chất đó là các phần in nghiêng được gọi là nghĩa nội tại của từ
(nghĩa đen) và nghĩa có tính chất phụ thêm (nghĩa bóng).
Các khả năng chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ trong
TĐTV được phân thành bốn nhóm:
(i) giữa hai danh từ tuy không thể chen hư từ biểu thị quan hệ giữa
chúng song lại có thể chen được các thực từ;
(ii) có thể xen các hư từ biểu thị quan hệ vào giữa hai danh từ;
(iii) giữa hai từ không thể xen quan hệ từ;
(iv) từ đã có sự khác biệt quan trọng về cả ngữ nghĩa, khả năng kết hợp,
chức năng cú pháp.
Từ đó có thể thấy được sự chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính
nghĩa tính từ chủ yếu ở nhóm (iii) và (iv).
Các tính từ được cấu tạo theo quy tắc chuyển nghĩa thuộc nhóm này
thường được định nghĩa trong TĐHP theo cấu trúc riêng: "có tính chất..." do
danh từ tương ứng biểu thị. Cấu trúc lời định nghĩa cho thấy sự phân biệt về
nghĩa danh từ và nghĩa tính từ.
Sự khác nhau giữa danh từ và tính từ là danh từ mang nhiều đặc tính
phức tạp, còn tính từ thì đặc tính ấy đơn giản hơn, số lượng ít hơn. Chẳng hạn,
khi nói “con gấu” mà không cần nói “Thú ăn thịt, cỡ lớn, đuôi cộc, đi bằng
bàn chân, thường trèo cây ăn mật ong, v.v.”. Các đặc tính về (loài), (kích
thước), (hình dáng), (cách thức kiếm ăn), v.v. đã được thay thế bằng khái
niệm trừu tượng tổ thành “con gấu” và được mọi người chấp nhận đó là con
gấu chứ không phải là một con vật nào khác. Bởi mỗi cá thể tồn tại với những
đặc điểm riêng, hơn nữa, bản thân từ ngữ “gấu” là một khái niệm trừu tượng,
không đối ứng với vật nào khác. Muốn nhận ra được đặc điểm riêng biệt của
từng cá thể thì phải đặt vào ngữ cảnh cụ thể.
148
Từ bản thân vật chất cụ thể, lấy các đặc tính cơ bản để khái quát thành
khái niệm trừu tượng, được cố định hóa trong tư duy bằng tên gọi. Và chúng
được khu biệt với nhau và thỏa mãn nhu cầu biểu đạt sự vật, hiện tượng của con
người trong khách quan. Đó chính là đặc trưng của từ loại danh từ.
Tuy nhiên, tính từ không mang nhiều đặc tính phức tạp như danh từ,
chỉ trong sự vật để lấy ra một đặc tính cơ bản nhất, biểu trưng cho từng cá thể,
chứ không phải tất cả đặc tính của sự vật ấy. Chẳng hạn, khi nói đến tính từ
gấu, thì đặc tính (cách thức kiếm ăn) của sự vật này là nổi bật nhất “hung dữ và
hỗn láo”. Đây cũng là đặc trưng loài để phân biệt loài gấu với các loài khác. Có
thể quan sát thêm các ví dụ sau:
1. Bạn ấy rất gương mẫu.
2. Khu rừng hoang dã quá.
3. Nó ma mãnh lắm!
...
Từ những ví dụ trên có thể thấy, đối với danh từ mang nhiều đặc tính,
còn tính từ chỉ một đặc tính. Trong các đặc tính nội hàm của danh từ ở mỗi sự
vật có số lượng và nội dung khác nhau, cho nên đây là sự khu biệt khái niệm,
tên gọi của từng sự vật. Tuy nhiên, tính từ chỉ mang đặc tính cơ bản nhất miêu
tả về sự vật hay tính trạng của động tác.
3.4.2. Sự phân ly về nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
Sự phân ly về nghĩa của danh từ (nghĩa định danh, khái niệm) mang
thuộc tính nghĩa tính từ (đặc trưng, tính chất) diễn ra như sau: Từ nghĩa cơ sở
(hay nghĩa cơ bản hay nghĩa đen) thuộc về nghĩa định danh, khái niệm; nghĩa
phái sinh định danh biểu đạt khái niệm (nghĩa biểu niệm) và nghĩa chuyển
(nghĩa bóng) thuộc về đặc trưng. Kết quả của sự chuyển nghĩa này là: hiện
tượng chuyển biến nghĩa trong một từ vừa mang thuộc tính đặc trưng thuộc
tính nghĩa mà mình đảm nhận (danh từ) vừa mang thuộc tính nghĩa của đơn vị
từ loại khác (tính từ). Nói cách khác, hình thành nghĩa mới thuộc về đặc
149
trưng, tính chất và nét nghĩa này không còn cấu trúc nghĩa định danh của
nghĩa cơ sở.
Có thể khái quát mô hình chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ đó là:
Sơ đồ 3: Mô hình chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
Sự vật Sự vật
Thực thể Đặc trưng
Từ sơ đồ trên có thể thấy: nghĩa thực thể của danh từ mang thêm các
thuộc tính nghĩa đặc trưng tính chất của tính từ.
Các đơn vị chuyển nghĩa nói chung, đơn vị chuyển nghĩa của danh từ mang
thuộc tính nghĩa tính từ nói riêng không phải diễn ra đơn lẻ mà theo quy luật nhất
định. Cấu trúc về nghĩa của các mục từ chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính
nghĩa tính từ có mối liên hệ mật thiết với nhau.
Các mục từ chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
cũng đã có sự biến đổi cấu trúc nghĩa của từ, đặc trưng nghĩa của tính từ đã
mang tính chất đặc trưng mới, khác với nghĩa của danh từ. Dựa vào định nghĩa
của danh từ khai thác nét nghĩa sự vật, hiện tượng để làm rõ nghĩa của danh từ,
còn cách định nghĩa tính từ khai thác nét nghĩa tính chất, đặc trưng để làm rõ
nghĩa cho nó. Đối với các đơn vị chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính
nghĩa tính từ, nét nghĩa ban đầu chỉ thực thể đã bị mất nghĩa mà thay thế vào đó
là nét nghĩa tính chất, từ nghĩa thực thể mang thêm nghĩa trừu tượng tính chất.
150
3.4.3. Cơ chế chuyển biến nghĩa của các đơn vị danh từ mang thuộc tính
nghĩa tính từ
Giữa các đơn vị chuyển nghĩa bao giờ cũng có mối liên hệ ngữ nghĩa,
có thể xa hoặc gần, trực tiếp hoặc gián tiếp, v.v… Các mục từ chuyển nghĩa
của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ có mối liên hệ mật thiết về nghĩa
với nhau. Nét nghĩa thứ yếu sẽ dựa vào nét nghĩa gốc ban đầu để tạo nên
nghĩa mới. Vừa mang dấu hiệu đặc trưng của nghĩa gốc, lại vừa mang đặc
trưng của nghĩa chuyển. Bên cạnh đó, các mục từ chuyển nghĩa của danh từ
mang thuộc tính nghĩa tính từ cũng đã có sự biến đổi cấu trúc nghĩa của từ, đặc
trưng nghĩa của tính từ đã mang tính chất đặc trưng mới, khác với nghĩa của
danh từ. Cách định nghĩa của danh từ khai thác nét nghĩa sự vật, hiện tượng để
làm rõ nghĩa của danh từ, còn cách định nghĩa tính từ khai thác nét nghĩa tính
chất, đặc trưng để làm rõ nghĩa cho nó. Nói cách khác, bản chất cấu trúc ngữ
nghĩa của tính từ được thể hiện "trong bộ phận đánh giá của nghĩa, là đặc trưng
so sánh trong cấu trúc nghĩa của tính từ và sự biểu hiện của chúng trên thang độ,
và là đặc trưng trái nghĩa, một đặc trưng biểu lộ rõ nét bản chất ngữ nghĩa của
tính từ" [100, tr. 27].
Việc chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ của các
trường hợp nghiên cứu (anh hùng, bình dân, cách mạng, phúc, quê, sách vở,
bụi, gan) là có tính quy tắc, nhất quán, đồng loạt: Các từ chỉ người có tính
cách, đặc điểm điển hình nào đó được dùng để biểu thị những tính cách, đặc
điểm đó (anh hùng, bình dân); danh từ biểu thị những thuật ngữ chính trị - xã
hội, những khái niệm trừu tượng về thế giới vật chất có thể dùng để chỉ cái gì
đó thuộc về bản chất, vốn thường có ở con người, hoặc tính linh hoạt gắn liền
với cuộc sống ở con người (cách mạng); danh từ trừu tượng biểu thị quan
điểm đánh giá may, tốt về hoàn cảnh, các phạm trù đạo đức được dùng để
biểu thị tính chất, hoàn cảnh, đạo đức tương ứng (phúc); danh từ chỉ địa điểm,
151
nơi chốn ở vùng xa trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa được dùng để biểu thị
tính chất mộc mạc, chân chất của con người (quê); danh từ chỉ sự vật dùng để
làm căn cứ khi làm cái gì hoặc có tính chuẩn mực được dùng để chỉ tính chất
chuẩn mực rập khuôn trong tính cách, hoạt động của con người (sách vở);
danh từ chỉ lối sống lang thang, vất vưởng được dùng để biểu thị cho phong
cách, tính chất đó (bụi); danh từ chỉ bộ phận cơ thể người có chức năng nhất
định được dùng để chỉ đặc điểm nào đó về mặt tâm , tính cách của con người
(gan). Phương thức chuyển nghĩa cơ bản là theo sự liên tưởng tương đồng -
ẩn dụ (anh hùng, bình dân, cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi) và liên tưởng
tương cận - hoán dụ (gan).
Cơ chế chuyển biến nghĩa của các danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
thường diễn ra theo các hướng: (i) Mất nghĩa, quá trình mất nghĩa có thể hoàn
toàn hoặc không hoàn toàn. Hoàn toàn tức là tính từ có cấu trúc nghĩa khác hoàn
toàn cấu trúc nghĩa của danh từ. Không hoàn toàn nghĩa là tính từ vẫn còn lưu
giữ một số nét nghĩa của danh từ. (ii) Thay đổi tính chất một số nét nghĩa trong
cấu trúc nghĩa của từ. (iii) Thu hẹp nghĩa biểu hiện số lượng nét nghĩa và nội
dung nghĩa của nghĩa chuyển sẽ ít hơn nghĩa cơ sở. (iv) Mở rộng nghĩa, tức là
thêm hoặc phát triển một hoặc một số nét nghĩa của từ trong nghĩa chuyển so với
nghĩa cơ sở. Trên đây là bốn cơ chế chuyển nghĩa cơ bản của các danh từ mang
thuộc tính nghĩa tính từ, trong đó phổ biến là mở rộng nghĩa và thu hẹp nghĩa.
3.4.4. Nguyên nhân chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ
Hiện tượng chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ do
các nguyên nhân sau:
(i) Đặc trưng nghĩa từ loại: Danh từ dùng để chỉ thực thể (sự vật), là
một sự biểu đạt cụ thể; nhưng tính từ lại dùng để biểu thị thuộc tính (tính
chất), là một loại miêu tả trừu tượng. Sự vật là cụ thể, tính chất là trừu tượng.
Sự vật cụ thể luôn được con người dễ nhận thức hơn tính chất trừu tượng. Do
152
vậy, khi sự vật được thể hiện nổi bật với một thuộc tính nào đó thì tính chất
của nó nhất định cùng thuộc tính (với nó) mà thể hiện. Quá trình sử dụng,
nghĩa của danh từ đó sẽ nảy sinh ra nghĩa mới biểu thị đặc trưng tính chất.
(ii) Đặc trưng nghĩa của danh từ: Danh từ vừa có nghĩa định danh khái
niệm dùng để biểu đạt một sự vật hoặc một loại sự vật nào đó; vừa mang tính
chất nghĩa được hình thành từ nghĩa gốc được dùng để biểu đạt đặc trưng, tính
chất của một sự vật hoặc một loại sự vật nào đó.
(iii) Do nhu cầu tiết kiệm ngôn ngữ, một từ biểu thị được các ý nghĩa
khác nhau (sự vật và đặc trưng.
(iv) Do sự phát triển của xã hội, thói quen và nhu cầu biểu đạt, tiếp
nhận thông tin mới.
Từ những phân tích và chứng minh trên đã rút ra các đặc trưng ngữ
nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ về cơ sở ngữ nghĩa, sự phân
ly về nghĩa, cơ chế biến đổi nghĩa và nguyên nhân của sự chuyển biến nghĩa.
3.5. Tiểu kết
Nghiên cứu đặc trưng của hiện tượng chuyển biến nghĩa của danh từ
mang thuộc tính nghĩa tính từ qua một số trường hợp (anh hùng, bình dân,
cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan) cho thấy, hiện tượng chuyển nghĩa
của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ rất phổ biến, dựa trên nghĩa biểu
đạt khái niệm và nghĩa tính chất để nhận biết đặc trưng ngữ nghĩa của danh từ
và tính từ. Hiện tượng chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ
dựa vào sự biến đổi về nghĩa mới. Nghĩa tính chất vốn có của danh từ đã có
mối liên hệ giống với nghĩa mới đặc trưng nảy sinh trong quá trình chuyển
nghĩa. Trong nghĩa danh từ của nhóm này đã bao hàm nét nghĩa chỉ về thuộc
tính và tính chất. Theo đó, các nét nghĩa chỉ về thuộc tính, tính chất mới có khả
năng chuyển biến thành nghĩa tính từ. Tuy nhiên, không phải tất cả các đặc tính
của danh từ đều được lựa chọn để tham gia vào chuyển hóa lượng tính mà phải
dựa vào các đặc tính đầu tiên, nổi bật, và có biểu đạt ngữ nghĩa của đặc tính đó.
153
Quá trình phát triển nghĩa của các danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ diễn ra
chủ yếu theo phương thức ẩn dụ (anh hùng, bình dân, cách mạng, phúc, quê,
sách vở, bụi) và hoán dụ (gan). Các mục từ chuyển nghĩa của danh từ mang
thuộc tính nghĩa tính từ có mối liên hệ mật thiết về nghĩa với nhau. Nét nghĩa
thứ yếu sẽ dựa vào nét nghĩa cơ sở để tạo nên nghĩa mới, vừa mang dấu hiệu
đặc trưng của nghĩa cơ sở, vừa mang đặc trưng của nghĩa chuyển.
Việc chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ không diễn ra
lẻ tẻ, riêng rẽ mà theo quy tắc, nhất quán và đồng loạt. Cơ chế biến đổi nghĩa
của các trường hợp nghiên cứu gồm bốn kiểu: mất nghĩa, triệt tiêu nghĩa, thu
hẹp, mở rộng nghĩa trong quá trình sử dụng.
Nguyên nhân của sự chuyển biến nghĩa là do đặc trưng từ loại (danh từ,
tính từ); đặc trưng nghĩa danh từ; nhu cầu tiết kiệm ngôn ngữ; sự phát triển
của xã hội, thói quen và nhu cầu biểu đạt, tiếp nhận thông tin mới.
154
KẾT LUẬN
Luận án Nghiên cứu đặc trưng sự chuyển nghĩa từ loại danh từ sang
đại từ và danh từ sang tính từ trong tiếng Việt (Trên ngữ liệu một số nhóm
từ) đã đạt được một số kết quả như sau:
1. Ngữ nghĩa từ vựng không phải "nhất thành bất biến". Sự tồn tại và
phát triển trong một môi trường nhất định do tác động của một hoặc một số
nhân tố nào đó, nghĩa một từ này có thể có thêm nghĩa khác và cao hơn là
chuyển thành nghĩa của một từ đồng âm khác. Một trong những đặc trưng
điển hình của ngôn ngữ đơn lập là vỏ âm thanh rất chắc, không phá vỡ được,
vì thế tạo nên các đơn vị từ vựng mới bằng cách chuyển nghĩa.
2. Không phải tất cả các hiện tượng chuyển nghĩa đều giống nhau tuyệt đối.
Chuyển đơn nghĩa thành đa nghĩa (hệ thống con nghĩa) là khả năng khởi đầu. Tiếp
sau là sự chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ và danh từ mang
thuộc tính nghĩa tính từ là trường hợp luận án nghiên cứu.
3. Chuyển nghĩa là phương thức phát triển nghĩa và có thể coi là một
biện pháp cấu tạo từ vì một từ vẫn giữ nguyên vỏ âm thanh trong khi nghĩa đã
thay đổi. Bản chất của hiện tượng chuyển nghĩa là sự biến động về nghĩa từ
vựng, thể hiện trong cấu trúc nghĩa của từ: thêm, bớt, biến chuyển, hoặc cùng
một nghĩa nhưng thay đổi về bản chất thì mới có thể chuyển thành nghĩa của
một từ loại khác. Như vậy, hệ quả của biến đổi nghĩa dẫn đến sự thay đổi cấu
trúc nghĩa của từ để tạo thành nội dung mới mang thuộc tính nghĩa khác với
nghĩa cơ sở. Nói cách khác, một từ vừa có thuộc tính nghĩa của chính từ loại
đó đảm nhận (danh từ), vừa mang thuộc tính nghĩa của từ loại khác (đại từ,
tính từ).
Hiện tượng thay đổi cấu trúc nghĩa của từ dẫn đến hệ quả cao hơn là tạo
thành từ mới khác từ loại với từ xuất phát. Đó là hiện tượng chuyển loại.
Trong trường hợp này, sự biến động nghĩa đã làm phân ly cấu trúc nghĩa ban
đầu để tạo ra cấu trúc nghĩa mới và nghĩa mới của một từ mới thuộc từ loại
155
khác, nhưng nghĩa của chúng vẫn có quan hệ lô gíc với nhau (khác với nghĩa
của các từ đồng âm không có liên hệ gì với nhau cả).
4. LA đã chứng minh có sự chuyển biến nghĩa của một số từ thân tộc
mang thuộc tính nghĩa đại từ xưng hô (ví dụ: bác, cô, ông, bà, cha, mẹ,….).
Quá trình chuyển biến nghĩa của những từ đó thể hiện ở chỗ: Một từ vừa có
thuộc tính nghĩa của chính từ loại đó đảm nhận (danh từ), vừa mang thuộc
tính nghĩa của từ loại khác (đại từ). Từ nghĩa xưng hô trong gia đình mở rộng
nghĩa xưng hô ngoài xã hội. Cách xưng hô này "cực kì phổ biến" (chúng tôi
nhấn mạnh) trong xã hội nhằm thân mật hóa các mối quan hệ trong xã hội.
Tuy nhiên, khi chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ, ranh
giới giữa chúng rất khó nhận biết, phải dựa vào từng ngữ cảnh cụ thể để phân
biệt. Về nội dung nghĩa của từ, một từ vừa mang nghĩa định danh khái niệm, vừa
mang nghĩa xưng hô (trong gia đình và ngoài xã hội).
LA cũng tiến hành đối chiếu ý nghĩa trong các Từ điển tiếng Việt của
các trường hợp nghiên cứu chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc tính
nghĩa đại từ để thấy được tiến trình phát triển nghĩa của các đơn vị chuyển
nghĩa, đó là mở rộng nghĩa và phát triển nghĩa. Từ thân tộc nằm ở tầng nghĩa
cơ bản của ngôn ngữ nên thường được dùng xưng gọi trong gia đình, tuy
nhiên khi xã hội hóa thì lại được dùng nhiều trong giao tiếp xã hội.
5. LA đã chứng minh có sự chuyển biến nghĩa của danh từ mang thuộc
tính nghĩa tính từ. LA xét những danh từ có bao hàm nét nghĩa chỉ về thuộc
tính và phẩm chất, vì chỉ những danh từ có những nét nghĩa chỉ thuộc tính,
phẩm chất mới có khả năng chuyển nghĩa tính từ (ví dụ: anh hùng, bình dân,
cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi, gan,….). Nghĩa tính chất vốn có của
những danh từ này có mối liên hệ với nghĩa tính chất được nảy sinh trong quá
trình chuyển nghĩa. Phương thức chuyển nghĩa của các trường hợp nghiên cứu
là ẩn dụ và hoán dụ. Ẩn dụ là lấy thuộc tính, đặc điểm, tính chất nổi trội vốn
có của sự vật để biểu thị tính chất, đặc điểm của sự vật khác (anh hùng, bình
156
dân, cách mạng, phúc, quê, sách vở, bụi). Hoán dụ là lấy một đặc điểm chức
năng tương cận để biểu thị tâm lý, tính cách của sự vật (gan). LA đã chứng
minh được cơ chế chuyển biến nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ diễn
ra theo các hướng sau: (i) Mất một hoặc một số nét nghĩa trong cấu trúc nghĩa của
từ được cấu tạo theo chuyển nghĩa; (ii) Rút gọn cấu trúc nghĩa khi chuyển nghĩa;
(iii) Thay đổi tính chất một số nét nghĩa trong cấu trúc nghĩa của từ được cấu tạo
bằng chuyển nghĩa; (iv) Mở rộng nghĩa so với nghĩa gốc ban đầu. Nghiên cứu
cũng cho thấy, các mục từ chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa
tính từ có mối liên hệ mật thiết về nghĩa với nhau. Nghĩa thứ yếu sẽ dựa vào
nghĩa cơ sở để tạo nên nghĩa mới, chúng vừa mang dấu hiệu đặc trưng của
nghĩa cơ sở, lại vừa mang đặc trưng của nghĩa chuyển. LA chứng minh một
số trường hợp để thấy việc chuyển nghĩa từ danh từ loại này không phải là một
hiện tượng đơn nhất, riêng lẻ mà có tính quy tắc, nhất quán và đồng loạt.
6. Để xác định các đơn vị chuyển biến nghĩa, LA cho rằng cần: (i) Dựa
vào thuộc tính nội dung để phân biệt nghĩa (nghĩa phái sinh của các đơn vị
chuyển nghĩa). Đặc trưng nghĩa có sự chuyển biến thuộc vào phạm vi khác
(vốn là danh từ nhưng có phạm vi nghĩa của đại từ và nghĩa của tính từ). (ii)
Dựa vào nội dung nghĩa trừu tượng (phạm vi ngữ nghĩa học). Sự biến đổi về
số lượng nghĩa (đơn nghĩa, đa nghĩa) và hàm nội dung nghĩa theo trục thời
gian biểu hiện qua các từ điển giải thích. Như vậy, khi một từ phái sinh
chuyển biến nghĩa thì cần hai điều kiện: Một là, bản thân từ đó được sử dụng
với tần số cao (tức là từ đó thường dùng) trong tiếng Việt; Hai là, từ phái sinh
chuyển nghĩa phải thuộc vào một nội dung nghĩa mới và có tần suất sử dụng
cao. Sau khi chuyển nghĩa, các từ có nghĩa chuyển dần dần ổn định và được
cố định hóa trong vai trò chức năng mới của mình.
7. Sự phân ly về nghĩa của hiện tượng chuyển biến nghĩa trong tiếng
Việt, LA đã có đưa ra mô hình: Nghĩa cơ sở - nghĩa phái sinh định danh (đặc
trưng các nghĩa tố của nghĩa cơ sở) - nghĩa chuyển (nghĩa bóng). Sự phát
157
triển nghĩa của từ có thể xảy ra theo hướng mở rộng nghĩa và thu hẹp nghĩa;
phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ và hoán dụ. Ẩn dụ và hoán dụ là hai phương
thức phổ biến của tất cả các ngôn ngữ để tạo ra chuyển nghĩa.
8. Hiện tượng chuyển biến nghĩa có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn. Ý
nghĩa về mặt luận: Đối với trường hợp nghĩa phát triển xa so với nghĩa cơ sở
trong đa nghĩa từ vựng thì có thể xử lý phái sinh quan hệ, liên hệ nghĩa từ. Kết quả
là góp phần bổ sung một từ trở thành nhiều nghĩa. Ý nghĩa thực tiễn: Nghiên cứu
hiện tượng chuyển nghĩa cho thấy sự phong phú về nội dung nghĩa của từ tiếng
Việt, điều này một mặt giúp các nhà biên soạn Từ điển tiếng Việt lưu ý trong quá
trình khai thác nghĩa; mặt khác có thể giúp giảng viên và sinh viên chuyên ngành
trong quá trình dạy và học môn ngữ nghĩa học.
Kết quả nghiên cứu của luận án cũng cho thấy, dù đã cố gắng rất nhiều
nhưng vẫn còn nhiều nội dung cần được tiếp tục nghiên cứu. Trong đó rõ nhất
là việc nghiên cứu sự chuyển nghĩa của một số nhóm khác nữa, ngoài các
nhóm mà chúng tôi đã khảo sát. Chúng tôi hi vọng sẽ có cơ hội để tiếp tục
nghiên cứu sâu hơn về đề tài này và có nhiều đóng góp hơn nữa để có thể
dựng nên một bức tranh toàn diện về hệ thống chuyển biến nghĩa trong tiếng
Việt, nhất là hệ thống thực từ./.
158
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ
1. "Sự chuyển nghĩa của danh từ mang thuộc tính nghĩa tính từ (Nghiên cứu
trường hợp từ "anh hùng")", Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 9 (344) 2023;
tr.8-14.
2. "Sự chuyển nghĩa danh từ mang thuộc tính nghĩa đại từ (nghiên cứu trường
hợp từ "cô" trên ngữ liệu từ điển tiếng Việt)", Tạp chí Từ điển học và Bách
khoa thư Việt Nam, số 4 (84), 11-2023; tr.27-36.
3. "Nghiên cứu hiện tượng chuyển nghĩa trong tiếng Việt", Kỉ yếu Hội thảo
"Ngôn ngữ học máy tính: Những vấn đề lý luận và thực tiễn", Hội Ngôn ngữ
học Việt Nam phối hợp với Trường Đại học Ngoại ngữ - Tin học Tp. Hồ Chí
Minh tổ chức, 10-2023, tr.325-337.
159
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. TIẾNG VIỆT
1. Đào Duy Anh. 1978. “Để hiểu từ nghĩa, cần biết từ nguyên”. Ngôn
ngữ, số 4, tr. 45-50.
2. Lê Thị Lan Anh. 2015. Nghiên cứu sự chuyển đổi chức năng - nghĩa từ
vựng trong tiếng Việt (Trên tư liệu thuật ngữ), Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ
học. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia
Hà Nội.
3. Alexandre de Rhodes.1651. Từ điển Việt Nam - Bồ Đào Nha - Latinh,
Rome, Typir, & formptibus ciofdecn Sacr. Coogreg.
4. Võ Thị Ngọc Ân. 2013. “Tổng quan về hiện tượng chuyển loại trong
tiếng Việt và tiếng Anh”, Tuyển tập Việt Nam học, Nxb Đại học quốc
gia, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Trần Hoàng Anh, Đặng Thanh Hải. 2014. “Chuyển loại của từ trong
tiếng Việt”, Tạp chí Diễn đàn trao đổi, số 15.
6. Diệp Quang Ban. 1985. “Thử bàn về một cơ chế chuyển di từ loại trong
tiếng Việt (qua từ “cho”)”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr. 5-7.
7. Diệp Quang Ban. 2009. Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
8. Diệp Quang Ban. 2010. Từ điển Thuật ngữ Ngôn ngữ học (Sơ thảo), Nxb
Giáo dục Việt Nam.
9. Lê Biên. 1998. Từ loại tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Nguyễn Tài Cẩn. 1975. Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb
Khoa học xã hội.
11. Nguyễn Tài Cẩn. 1999. Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
12. Hoàng Thị Châu. 1995. “Vài đề nghị về chuẩn hóa cách xưng hô trong
xã giao”, Tạp chí Ngôn ngữ và đời sống, số 3, tr. 12-13.
13. Đỗ Hữu Châu. 1981. Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt. Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
14. Đỗ Hữu Châu. 1986. Các bình diện của từ và từ tiếng Việt, Nxb Khoa
học xã hội, Hà Nội.
160
15. Đỗ Hữu Châu. 1998. Cơ sở nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Đỗ Hữu Châu. 2009. Từ vựng - ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội, Hà Nội.
17. Nguyễn Văn Chiến. 1992. “Danh từ thân tộc Việt trong hai loại hình
ngôn ngữ đối chiếu: Khơme, Lào, Nga, Tiệp, Anh”, Nghiên cứu ngôn
ngữ Đông Nam Á, số 3, tr. 28-42.
18. Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê. 1963. Khảo luận về ngữ pháp Việt
Nam, Đại học Huế.
19. Mai Ngọc Chừ, Vũ Đức Nghiệu, Hoàng Trọng Phiến. 1997. Cơ sở ngôn
ngữ học và tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
20. Nguyễn Hồng Cổn. 2003. “Về vấn đề phân định từ loại trong tiếng
Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 36-46.
21. Huình Tịnh Paulus Của. 1895 -1896. Đại Nam quốc âm tự vị, Nxb Trẻ.
22. Nguyễn Đức Dân. 1987. Lôgic - Ngữ nghĩa - cú pháp, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
23. Nguyễn Đức Dân. 1992. “Về một kiểu chuyển hóa từ loại”, Tiếng Việt và
các ngôn ngữ dân tộc phía Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
24. Nguyễn Đức Dân. 1992. “Triết lý tiếng Việt: không gian - điểm nhìn và
sự chuyển nghĩa của từ”, Nghiên cứu khoa học, Đại học Tổng hợp Thành
phố Hồ Chí Minh, số 1, tr. 5-14.
25. Trương Thị Diễm. 2002. Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc
trong giao tiếp tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ, Đại học Vinh.
26. Trương Thị Diễm. 2013. Từ xưng hô có nguồn gốc danh từ thân tộc. Nxb
Văn học.
27. Dirk Geeraerts. 2010. Các thuyết Ngữ nghĩa học từ vựng (Người dịch:
Phạm Văn Lam), Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
28. Hoàng Dũng, Tăng Thị Tuyết Mai. 2011. "Về hiện tượng tốt nghĩa và
xấu nghĩa trong tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 38-46.
29. Nguyễn Thị Dự. 2004. Ngữ nghĩa và cơ sở tri nhận của nhóm tính từ chỉ
không gian (trên ngữ liệu Anh - Việt), Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Bảo vệ
161
tại Viện Ngôn ngữ học.
30. Lê Văn Đức. 1970. Việt Nam tự điển, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.
31. Đinh Văn Đức. 1986. Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Đại học và Trung
học chuyên nghiệp.
32. Đinh Văn Đức. 1993. “Một vài cảm nhận về ngữ pháp chức năng và
cách nhìn về ngữ pháp tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 40-43.
33. Đinh Văn Đức. 2001. Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại, Nxb Đại học Quốc
gia Hà Nội.
34. Đinh Văn Đức. 2015. Ngữ pháp tiếng Việt - Từ loại I & II, Nxb Đại học
Quốc gia, Hà Nội.
35. Emeneau M.B. 1951. Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Tài liệu dịch
(Rônêô), Đại học Tổng hợp Hà Nội.
36. Ferdinand De Saussure. 2005. Giáo trình Ngôn ngữ học Đại cương
(Người dịch Cao Xuân Hạo), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
37. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên). 1994. Dẫn luận Ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.
38. Nguyễn Thiện Giáp. 1998. Từ vựng học tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
39. Nguyễn Thiện Giáp. 2014. Nghĩa học Việt ngữ, Nxb Giáo dục Việt Nam,
Hà Nội.
40. Gustaf Stern. 2006. Nghĩa và biến đổi nghĩa, (Người dịch: Phạm Văn
Lam), Hà Nội.
41. Cao Xuân Hạo. 1998. Tiếng Việt - Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ
nghĩa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. Cao Xuân Hạo - Hoàng Dũng. 2005. Từ điển thuật ngữ Ngôn ngữ học
đối chiếu Anh - Việt, Việt - Anh, Nxb Khoa học xã hội.
43. Hoàng Văn Hành. 1982. "Về cấu trúc nghĩa của tính từ tiếng Việt (trong
sự so sánh với tiếng Nga), Tạp chí Ngôn ngữ. số 3, tr. 1-10.
44. Hoàng Văn Hành. 1988. "Nghĩa của tính từ tiếng Việt", Tiếng Việt, số 1,
tr.15-16.
162
45. Hoàng Văn Hành (chủ biên), Hà Quang Năng, Nguyễn Văn Khang. 1998.
Từ tiếng Việt: Hình thái - cấu trúc - từ láy - từ ghép - chuyển loại (tái
bản lần thứ nhất), Nxb Văn hóa Sài Gòn.
46. Hoàng Văn Hành. 2010. Tuyển tập Ngôn ngữ học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
47. Nguyễn Văn Hiệp. 2008. Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp, Nxb Giáo dục.
48. Phan Thị Nguyệt Hoa. 2009. “Một số tiền đề cần thiết để phân tích định
lượng từ đa nghĩa từ vựng trong tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, tr.
46-53.
49. Phan Thị Nguyệt Hoa. 2012. Từ đa nghĩa từ vựng trong tiếng Việt hiện
đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
50. Đặng Đức Hoàng. 2013. Đối chiếu tiếng Anh và tiếng Việt trên bình diện
chuyển đổi ngữ nghĩa. Luận án tiến sĩ Ngữ văn. Học viện Khoa học Xã hội.
51. Howard Maclay, Tổng thuật về ngữ nghĩa học, Bản dịch của Viện Ngôn
ngữ học.
52. Hội Khai trí Tiến đức. 1931. Việt Nam tự điển, Hà Nội.
53. J. Lyons. 1996. Nhập môn ngôn ngữ học thuyết (người dịch Vương Hữu
Lễ), Nxb Giáo dục.
54. Kasevich V.B. 1998. Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
55. Nguyễn Thị Ly Kha. 1998. “Sự hư hóa của danh từ hay là sự chuyển loại
từ danh từ thành giới từ”, Kỉ yếu hội thảo Ngữ học trẻ 98, Hội Ngôn ngữ
học Việt Nam, Hà Nội, tr. 60-65.
56. Nguyễn Văn Khang. 1999. Ngôn ngữ học xã hội - Những vấn đề cơ bản,
Nxb Khoa học xã hội Hà Nội.
57. Nguyễn Thúy Khanh. 1996. Đặc điểm trường từ vựng ngữ nghĩa tên gọi
động vật (Trên tư liệu đối chiếu tiếng Việt với tiếng Nga), Luận án Phó
Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học.
58. Phan Khôi. 1955. Việt ngữ nghiên cứu, Nxb Hà Nội.
59. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm. 1940. Việt Nam văn phạm,
Nxb Sài Gòn.
163
60. Nguyễn Lai. 1990. Nhóm từ chỉ hướng vận động trong tiếng Việt, Đại
học Tổng hợp, Hà Nội.
61. Phạm Văn Lam. 2007. Bước đầu khảo sát sự phát triển nghĩa của một số
nhóm từ trong tiếng Việt từ năm 1945 đến nay, Luận văn Thạc sĩ Ngôn
ngữ học, Đại học Quốc gia Hà Nội - Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn.
62. Phạm Văn Lam - Lê Thị Hương Lan. 2015. "Khái quát về quan hệ thuộc
tính và quan hệ thuộc tính trong hệ thống từ ghép tiếng Việt", Đề tài
nghiên cứu khoa học cấp Nhà nước "Nghiên cứu, xây dựng và phát triển
một số tài nguyên và công cụ thiết yếu cho xử văn bản tiếng Việt", Mã
số KC.01.20/11-15, thuộc chương trình KC.01/11-15 do Công ty Cổ
phần Dịch vụ Công nghệ Thông tin Naiscorp chủ trì thực hiện.
63. Hồ Lê. 1976. Vấn đề cấu tạo từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
64. Nguyễn Thế Lịch. 1983. "Nghĩa của từ chỉ quan hệ họ hàng trong lối nói
có hàm ngôn", Tạp chí Ngôn ngữ, số 1, tr. 52-59.
65. Nguyễn Thế Lịch. 1987. "Các hướng chuyển nghĩa của nhóm danh từ
biểu thị tên gọi động vật", Tạp chí Ngôn ngữ, số 1-2, tr. 58-66.
66. J. Lyons. 1995. Ngữ nghĩa học dẫn luận, (bản dịch của Nguyễn Văn
Hiệp (2005), Nxb Giáo dục.
67. J. Lyons. 1996. Nhập môn ngôn ngữ học lý thuyết, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
68. Kỳ Quảng Mưu. 2003. "Tâm lý văn hóa người Việt phản ánh trong sự
chuyển nghĩa của từ", Ngôn ngữ, số 3, tr. 20-22.
69. Hà Quang Năng. 1998. “Đặc trưng ngữ nghĩa của hiện tượng chuyển loại
các đơn vị từ vựng tiếng Việt”, Tiếng Việt và các ngôn ngữ Đông Nam Á,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 141-145.
70. Hà Quang Năng. 2005. Hiện tượng chuyển loại các đơn vị từ vựng trong
tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học - Viện Khoa học xã hội Việt Nam.
164
71. Hà Quang Năng (Chủ biên). 2009. "Sự phát triển của từ vựng tiếng Việt
nửa sau thế kỉ XX", Đề tài khoa học độc lập thuộc Viện Hàn lâm Khoa
học Xã hội Việt Nam.
72. Nguyễn Thanh Nga. 1994. “Các kiểu danh từ có khả năng chuyển loại
thành tính từ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 45-52.
73. Thanh Nghị. 1952. Việt Nam tân tự điển, Sài Gòn.
74. Bùi Trọng Ngoãn. 2004. Khảo sát các động từ tình thái trong tiếng Việt,
Luận án Tiến sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
75. Trần Thị Nhàn. 2004. Hiện tượng chuyển hóa từ thực từ sang hư từ
trong tiếng Việt (theo lý thuyết ngữ pháp hóa), Luận án tiến sĩ Ngữ văn,
Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
76. Trần Thị Nhàn. 2009. Lý thuyết ngữ pháp hóa và thực trạng ngữ pháp
hóa một số từ trong tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
77. Dương Thị Nụ. 2003. Ngữ nghĩa nhóm từ chỉ quan hệ thân tộc trong
tiếng Anh và tiếng Việt, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Bảo vệ tại Viện Ngôn
ngữ học.
78. Hoàng Phê. 1975. "Phân tích ngữ nghĩa", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 10-26.
79. Hoàng Phê. 1981. "Ngữ nghĩa của lời", Tạp chí Ngôn ngữ, số 2-4, tr. 3-23.
80. Hoàng Phê (Chủ biên). 2012. Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
81. Hoàng Phê, Vũ Xuân Lương, Hoàng Thị Tuyền Linh. 1995. Từ điển
tiếng Việt, Trung tâm Từ điển học (Vietlex).
82. Nguyễn Phú Phong. 1996. "Đại danh từ nhân xưng tiếng Việt", Tạp chí
Ngôn ngữ, số 1, tr. 7-19.
83. Nguyễn Anh Quế.1988. Hư từ trong tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
84. Nguyễn Thị Quy. 1995. “Vị từ hành động tiếng Việt và các tham số của
nó” (So sánh với tiếng Nga và tiếng Anh), Ngữ pháp tiếng Việt - Những
vấn đề luận, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
85. Shkarban L.I. 1995. “Tính từ và một số vấn đề lý thuyết về loại hình học
và các hệ thống loại từ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 4, tr. 89-92.
165
86. Sokolovskaja N.V. 1984. “Tiêu chuẩn thông báo trong phân ranh giới từ
thực và từ hư (trên cứ liệu tiếng Việt)”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 45-51.
87. Lê Thị Thanh Tâm. 2011. Cơ sở tri nhận của hiện tượng chuyển nghĩa
trong tiếng Việt (trên cứ liệu nhóm từ định hướng và nhóm từ vị trí, có
liên hệ với tiếng Nga). Luận án Tiến sĩ Ngữ văn. Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
88. Văn Tân (chủ biên). 1994. Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội.
89. Đào Văn Tập. 1951. Tự điển Việt Nam phổ thông, Vĩnh - Bảo Sài Gòn.
90. Nguyễn Kim Thản. 1997. Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
91. Lý Toàn Thắng. 2005. Ngôn ngữ học tri nhận - Từ thuyết đại cương đến
thực tiễn tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
92. Bùi Khánh Thế. 1995. Nhập môn ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục.
93. Vũ Văn Thi. 1995. Quá trình chuyển hóa một số thực từ thành giới từ trong
tiếng Việt, Luận án phó tiến sĩ, Trường Đại học Tổng hợp, Hà Nội.
94. Lê Quang Thiêm. 1988. “Về vai trò của những nhân tố ngữ pháp trong
phân định các biến thể từ vựng ngữ nghĩa”, Những vấn đề ngữ pháp
tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
95. Lê Quang Thiêm. 1980. "Phân tích đối chiếu ngữ nghĩa từ đa nghĩa chỉ
quan hệ họ hàng Bungari-Việt // Xôphia - Bungari". Ngôn ngữ học đối
chiếu, số 2.
96. Lê Quang Thiêm. 2003. Lịch sử Từ vựng tiếng Việt thời kì 1858-1945,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
97. Lê Quang Thiêm. 2008. Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục.
98. Lê Quang Thiêm. 2015. Sự phát triển nghĩa Từ vựng tiếng Việt từ 1945-
2005, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.
99. Huỳnh Văn Thông. 2000. “Mấy nhận xét về vị từ tình thái và ý nghĩa thể
(aspect) trong tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 8, tr. 51-58.
100. Chu Bích Thu. 1989. “Thành phần đánh giá trong ngữ nghĩa một số tính
từ”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 1-2, tr. 56-62.
166
101. Chu Bích Thu. 1996. Những đặc trưng ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt
hiện đại, Luận án phó tiến sĩ, Viện Ngôn ngữ học.
102. Nguyễn Minh Thuyết. 1986. “Thảo luận về vấn đề xác định hư từ trong
tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr. 39-43.
103. Bùi Minh Toán. 1996. “Từ loại tiếng Việt: Khả năng thực hiện hành vi
hỏi”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2, tr. 63-67.
104. Nguyễn Đức Tồn. 2008. Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngôn ngữ và
tư duy, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
105. Nguyễn Đức Tồn. 2013. Những vấn đề của ngôn ngữ học cấu trúc dưới
ánh sáng thuyết ngôn ngữ học hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
106. Nguyễn Ngọc Trâm. 1975. "Tìm hiểu về nhóm từ biểu thị tâm lý - tình
cảm trong tiếng Việt", Tạp chí Ngôn ngữ, số 3, tr.19-28.
107. Nguyễn Ngọc Trâm. 1991. Đặc trưng ngữ nghĩa - ngữ pháp của nhóm từ
biểu thị tâm lý tình cảm trong tiếng Việt, Luận án phó tiến sĩ khoa học
ngữ văn, Viện Ngôn ngữ học.
108. Hồ Ngọc Trung. 2014. “Hiện tượng chuyển đổi từ loại các từ chỉ bộ
phận cơ thể người trong tiếng Anh (Trong sự liên hệ với tiếng Việt)”, Đề
tài Nghiên cứu cấp viện, Viện Đại học Mở Hà Nội.
109. Trung tâm KHXH và nhân văn Quốc gia. 2002. Ngữ pháp tiếng Việt,
Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
110. Nguyễn Văn Tu. 1978. Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
111. Vũ Thị Tuyết. 2018. Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ trong ca dao tình yêu
người Việt, Luận án Tiến sĩ Ngôn ngữ học, Học viện Khoa học xã hội.
112. Viện Ngôn ngữ học. 2000. Loại từ trong các ngôn ngữ ở Việt Nam, Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
113. Viện Ngôn ngữ học. 2003. Nguyễn Kim Thản tuyển tập, Nxb Khoa học
Xã hội.
114. Viện KHXH Việt Nam. 2008. Viện Ngôn ngữ học, Ngữ pháp tiếng Việt -
Những vấn đề luận, Nxb Khoa học Xã hội.
167
115. Phạm Hùng Việt. 2003. Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
116. Ullmann S. 1975. Các nguyên ngữ nghĩa học, (Phan Ngọc dịch), Viện
Ngôn ngữ học, Hà Nội.
117. Ủy ban Khoa học Xã hội. 1983. Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
118. Trần Quốc Vượng. 2000. Văn hoá việt nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb
Văn hoá dân tộc.
119. Nguyễn Như Ý (chủ biên). 1999. Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
B. TIẾNG ANH
120. Adams, Valerie. 1973. An Introduction to Modern English Word-
formation. London: Longman.
121. Arnol, Doug, Atkinson, M., Durand, J., Grover, C. and Sadler, L.(eds).
1989. Essays on Grammatical Theory and Universal Grammar. Oxford:
Clarendon Press.
122. Asher, Ronald E. (ed.). 1994. The Encyclopedia of Language and
Linguistics, 10 vol. Oxford and New York: Pergamon Press.
123. Back, Kent, and Harnish, R. 1979. Linguistic Communication and
Speech Acts. Cambridge, MA: MIT Press.
124. Bright, William (ed.). 1992. International Encyclopedia of Linguistics, 4
vols. Oxford University Press.
125. Chafe.W.L. 1971. Meaning and the struture of language, Chicago and
London.
126. Chomsky Noam. 1972. Studies on Semantics in Generative Grammar.
The Hague: Mouton.
127. Cole, Peter, and Morgan, J.L (ed.). 1975. Syntax and Semantics, 3:
Speech Acts.New Yord and London: Academic Press.
128. Emeneau. M.B. 1951. Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar,
Cambridge University Press, London, England.
168
129. Hognadó ttir, Ingunn. 2010. Role of Metonymy in Unmarked Change of
Word Category. B.A. Essay. University of Iceland-School of Humanities.
130. Jackendoff, Ray S. 1983. Semantics and Cognition. Cambridge. MA:
MIT Press.
131. Jackendoff, Ray S. 1990. Semantics Structures. Cambridge. MA: MIT Press.
132. Jean Aitchison. 2000. Language Change: Progress or Decay? Cambridge
University Press; 3rd edition.
133. Kovecses, Zoltán and Radden, Gunter. 1998. Metonymy: Developing a
Cognitive Linguistic View. Cognitive Linguistics 9-1, pg. 37-77.
134. Lakoff G. and Johnson M. 1980. Metaphor we live by, Chicago,
University of Chicago Press.
135. Lakoff, G. 1993. The contemporary theory of metaphor, In Metaphor
and thoughts, Ortony, A. (eds.). Cambridge: Cambridge University Press.
136. Lakoff G. & Johnson M. 1999. Philosophy in the Flesh, The embodied
Mind and its Challenge to Western Thought, New York, Basic Books.
137. Lichtenberk. F. 1991. Semantic change and heterosemy in
grammaticalization, Language, Vol.67, No.3.
138. Lyon John. 1977. Semantics, Two volumes. Cambridge University Press.
139. Lyons John. 1987. ‘Semantics’. In Lyons et al.
140. Lyon John. 1995. Linguistic Semantics- An introduction. Cambridge
University Press.
141. Maclaury. R.E. Social and cognitice motivation of change: measuring
variability in color semantics, Language, Vol.67, N.1.
142. Peter Lang. 2007. trong “The Directionnality of Conversion in English:
A Dia-synchronic Study”.
143. Plag, Ingo. 1999. Morphological Productivity Structural Constraints in
English Derivation. (Topics in English Linguistics 28). Berlin/New York:
Mouton de Gruyter.
144. Quirk, Randolph et al. 1985. A Comprehensive Grammar of the English
Language. London: Longman.
169
145. Sapir E. 1931. Conceptual categories in primitive languages // Science, v.74.
146. Stern G. 1931. Meaning and change of meaning, with special reference
to the Enghlish language, Bipomington Indiana University Press.
147. Thompson. L.C. 1987. A Vietnamese Reference Grammar, University of
Hawa'i Press, Honolulu.
148. Talmy L. 1975. Semantics and syntax of motion //Semantics and Syntax
(ed. Kimbald J.), V. 4. N. Y.
149. Talmy L. 1983. How language structures space // Spatial orientation:
theory, research, and application. N. Y.
150. Taylor J. 1989. Linguistic categorization, Prototypes in linguistics theory,
Oxford, Oxford University Press.
151. Ungerer F. and Schmid H. 1996. An introduction to cognitive linguistics,
London and N. Y.
152. Wierzbicka A. 1985. Lexicography and conceptual anylysis, Ann Arbor.
153. Zgusta. L. 1980. Theory and method in lexicography: Western and non-
western perspectives, Horn Beam Press Icn.
C. TIẾNG PHÁP
154. Michel Bréal. 1897. Essai de sémantique (Science des significations).
Lambert-Lucas.
D. TIẾNG HÁN
155. 高航.认知语法与汉语转类问题[M].上海:上海交通大学出版社,20
09 (Cao Hàng. 2009. Ngữ pháp tri nhận và vấn đề chuyển loại tiếng Hán,
Nxb Đại học giao thông Thượng Hải).
156. 谭景春.名形词类转变的语义基础及相关问题[J].中国语文,1998
(Đàm Cảnh Xuân. 1998. Cơ sở ngữ nghĩa và vấn đề liên quan đến danh
từ chuyển loại tính từ, Ngữ văn Trung Quốc).
157. 谭景春,关于由名词转变成的形容词的释义问题,辞书研究,
170
2001. (Đàm Cảnh Xuân. 2001. Liên quan vấn đề giải thích danh từ
chuyển loại sang tính từ, Nghiên cứu từ thư).
158. 贾君芳,名词功能游移的语义阐释,郧阳师范高等专科学校学,
2008 (Giả Quân Phương. 2008. Giải thích ngữ nghĩa thay đổi chức
năng của danh từ, Báo của trường cao đẳng chuyên ngành sư phạm
Vẫn Dương).
159. 任珂. 汉语名词与形容词跨类现象中特性与量性的转变.
南方科技大学语言中心,广东 深圳 , 2016 年第 30 期 (Nhậm Kha.
2016. Chuyển biến đặc tính và lượng tính trong hiện tượng danh từ chuyển
loại sang tính từ trong tiếng Hán, Trung tâm ngôn ngữ Đại học Khoa học
kỹ thuật Phương nam, Thâm Quyến Quảng Đông, Kì 30 năm 2016).
160. 刘正光.语言非范畴化——
语言范畴化理论的重要组成部分[M].上海:上海外语教育出版社,
2006 (Lưu Chính Quang. 2006. Ngôn ngữ phi phạm trù hóa - Bộ phận
tổ thành quan trọng của luận phạm trù hóa ngôn ngữ, Nxb Giáo dục
ngoại ngữ Thượng Hải).
161. 刘顺.现代汉语名词的多视角研究[M].上海:学林出版社,2003
(Lưu Thuận. 2003. Nghiên cứu đa góc nhìn danh từ tiếng Hán hiện đại,
Nxb Học Lâm, Thượng Hải).
162. 程娟,《现代汉语词典》词语功能义项计量考察,语文研究,
2004 (Trình Quyên. 2004. Khảo sát đo lường nét nghĩa chức năng từ
ngữ trong “Từ điển tiếng Hán hiện đại”, Nghiên cứu ngữ văn).
163. 程驰. 浅析现代汉语中名词的形容词化现象.
河南大学文学院,天中学刊,2015 年 6 月,第 3 期 (Trình Trì. 2015. "Hiện
171
tượng danh từ chuyển loại sanh tính từ trong tiếng Hán hiện đại", Học viện
văn học Đại học Hà Nam, Báo Thiên Trung, Kì 3 tháng 6 năm 2015).
164. 张伯江,词类活用的功能解释,中国语文,1994. (Trương Bác
Giang, Giả thích công năng hoạt dụng của từ loại, Ngữ văn Trung
Quốc, 1994).
165. 张谊生.名词的语义基础及功能转化与副词修饰名词[J].语言教学与
研究,1996, 1997 (Trương Nghị Sinh (1996-1997), "Cơ sở ngữ nghĩa
và chức năng chuyển hóa của danh từ với phó từ tu sức cho danh từ",
Dạy và nghiên cứu ngôn ngữ).
166. 张国宪,现代汉语形容词功能与认知研究,北京“商务印书馆,
2006 (Trương Quốc Hiến. 2006, Nghiên cứu chức năng và tri nhận hình
dung từ trong tiếng Hán hiện đại, Bắc kinh- thương vụ đồ thư quán).
172
NGUỒN NGỮ LIỆU KHẢO SÁT
Kí hiệu Ngữ cảnh
V1:
Bác Hồ đó, là lòng ta yên tĩnh Ôi người cha đôi mắt mẹ hiền sao!
V2:
Cháu gửi bác gái ngâm rượu uống. Hôm nọ bác chẳng bảo bác gái vừa ốm dậy là gì?
V3:
Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà, Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha.
V4:
Tên VB + Nguồn trích xuất Tố Hữu. 1998. tháng "Sáng năm", Thơ Tố Hữu, Nxb Giáo dục. Nguyễn Thành 2001. Long. "Lặng lẽ Sapa", Sách Giáo khoa Ngữ văn lớp 9, tập 1, Nxb Giáo dục, tr. 180-190 Tố Hữu. 1969. “Bác ơi!”, Ra trận, Nxb Văn học Vi.wikipedia.org - Tôn Đức Thắng (1888-1980) là một nhà cách mạng, chính khách của Việt Nam. Ông là Chủ tịch nước thứ hai của Việt Nam (nhiệm kỳ từ 22 tháng 9 năm 1969 cho đến 2 tháng 7 năm 1976); trước đó là Phó Chủ tịch nước (1960-1969) và Quyền Chủ tịch nước (từ 2 tháng 9 cho đến 22 tháng 9 năm 1969), Trưởng ban Thường trực Quốc hội Việt Nam (1955-1960) - tương đương với Chủ tịch Quốc hội bây giờ. - Võ Nguyên Giáp (1911 - 2013) là một tướng lĩnh trong Quân đội Nhân dân Việt Nam và là
1
V5:
một chính trị gia. Ông là Đại tướng đầu tiên, Tổng Tư lệnh của Quân đội Nhân dân Việt Nam, cũng là người chỉ huy đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam, là một trong những người góp công thành lập Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, được Chính phủ Việt Nam đánh giá là "người học trò xuất sắc và gần gũi của Chủ tịch Hồ Chí Minh", là chỉ huy chính trong các chiến dịch và chiến thắng chính trong Chiến tranh Đông Dương (1946–1954) đánh bại Thực dân Pháp, Chiến tranh Việt Nam (1960–1975) chống Mỹ, thống nhất đất nước và Chiến tranh biên giới Việt – Trung (1979) chống quân Trung Quốc tấn công biên giới phía Bắc. - Vào ngày sinh nhật thứ 70 của Joseph Stalin năm 1949, ông được phong tặng chức "Cha già của các dân tộc" cho việc ông thành lập chính thể "dân chủ nhân dân" tại các nước bị Đức Quốc xã chiếm đóng trong Thế chiến thứ hai. - Bà mẹ Việt Nam anh hùng - danh hiệu vinh dự được Nhà nước Việt Nam phong tặng hoặc truy tặng những phụ nữ Việt Nam có nhiều cống hiến, hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế. - Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác Tôi lại đau trước bác mấy ngày. - Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước, Những sớm hôm tôi bác cùng nhau.
V6:
Bác cảm ơn các cháu. Bác khuyên các cháu: Biết giữ kỉ luật, siêng học siêng làm, yêu Chúa yêu nước. Bác hôn các cháu. Nguyễn Khuyến. 2003. Dương Khóc Khuê, Ngữ văn lớp 11, Nxb Giáo dục Hồ Chí Minh. lời 1947. “Trả thư chúc mừng
2
V7:
- Biết tôi là cán bộ phụ trách, khi bắt tay tôi, Bác nhẹ nhàng nói nhỏ: "Lần đầu đón Bác, chú mặc thế nào cũng được, nhưng từ nay về sau nhớ chỉ nâu sồng thôi nhé!
V8:
- Con cô con cậu thì xa, con chú con bác thật là anh em.
- Cái cò lặn lội bờ ao Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
của Hội Nhi đồng Công giáo khu Thượng Mỹ, Phú huyện Hà Xuyên, Đông", ngày 10/5/1947, Hồ Chí Minh toàn tập. Nguyễn Minh Đường. 2003. Công Nghệ 6, Nxb Giáo dục, tr. 1-140. Vũ Ngọc Phan. 2017. Tục ngữ, Ca dao, Dân ca Việt Nam. Nxb Văn Học - Con có cha như nhà có nóc.
- Bà Trưng quê ở châu Phong, Giận người tham-bạo, thù chồng chẳng quên.
- Oan ức cho thầy cô lắm, con ơi. V9:
Nguyễn Mạnh Tuấn. 2020. Phần hồn, Nxb Thanh niên
- Tôi là em ruột bố cháu. Tôi là cô ruột. - Chiều hôm sau, tôi đem sách vở ra sửa soạn học bài thì thấy cái Phượng đến bên.
V10: Nguyễn Minh 2001. Châu. “Những ngày lưu lạc”, trong Nguyễn Minh Châu toàn tập, Tập 4, Nxb Văn học, Hà Nội
3
V11:
Thủy bố trí bên trong các ghế gội đầu ba cô thợ trẻ là: Tuyết, Thanh, Loan, mỗi người phụ trách một ghế.
V12:
Chúng em luôn kính trọng biết ơn các thầy giáo cô giáo.
1998. P.V. “Quán Năm Cô”, Báo Công an thành phố Hồ Chí Minh, Số 652, ngày 04.7.1998 PHV. Tiếng Việt, Nxb Thanh niên, Số L3T1
Trường hợp ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại với cháu nội, cháu ngoại phải có giấy khai sinh của cháu nội, cháu ngoại và giấy khai sinh của cha mẹ cháu có liên quan đến ông, bà nội, ông bà ngoại của cháu hoặc sổ hộ khẩu có ghi rõ các mối quan hệ đó.
V13: H.B. 2000. "Các hợp trường thuộc diện không chịu thuế chuyển quyền sử dụng đất", Báo Sài Gòn Giải phóng, Số 8385 (07/11/2000), tr. 3
Ông chú, bà bác, hai bà thím, một người đàn ông mặc quần nâu và sơ mi bộ đội có cầu vai, xưng là thầy dạy học văn hoá cho Đức hồi lớp bảy.
Ông lão đánh lưới chụp lật đật đi như chạy.
V14: Nguyễn Minh 2001. Châu. "Cảnh và người ven đường", Nguyễn Minh Châu toàn tập (Tập 4), Nxb Văn học, tr. 722 V15: Nguyễn Minh 2001. Châu. "Buổi sáng ở cửa Thuận An", Nguyễn Minh
4
Bà lão bật khóc, tay bà nắm chặt cái cán của chiếc mai.
Châu toàn tập (Tập 4), Nxb Văn học, tr. 847 V16: Vũ Anh Tuấn - Đàm Lan. 2012. Nụ hôn muộn, Nxb Hội nhà văn, tr.37
V17: Mang
Về dự có ông Phó chủ tịch huyên, bà Chủ tịch hội nông dân.
Cái giấy này là: Kính gửi ông Lý A Pù ngày 17 tháng 4 năm 195... uỷ ban hành chính huyện trân trọng kính mời ông.
Viên Long. 2011. Một thời để thương yêu, Nxb Hội nhà văn V18: Nguyên Ngọc. "Truyện 2001. ngắn Rẻo cao", Báo Nhân dân, Số: 925 (14/10/2001)
Lục vừa cười vừa nói với Minh "hay là số này (tức 3 tập tiền đôla và 20 cây vàng) tôi với ông chia đôi".
V19: Đỗ Lâm. 2000. "Vụ án tham ô ở Phòng CSPCTP về ma túy (CA Nghệ An)", Báo Sài Gòn giải phóng, Số: 8265 (10/07/2000)
- Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!
V20: Ngô Tất Tố. 2003. "Tức nước vỡ bờ" (Tắt đèn), Ngữ văn 8, Nxb Giáo dục
5
V21: Nguyễn
Phan Quang. 2002. Lê Văn Khôi và sự biến thành phiên an (1833-1835), Nxb Văn học, tr.146
V22: H.K.
2000. "Trương Trọng Thi cha đẻ của máy vi tính", Báo Sài Gòn giải phóng, Số 8298
V23:
Tường Giang. 1993. "Tin vắn", an Công Số: TPHCM, 386 (15/12/1993)
Trong một lá thư gửi Cha cả Giơn (Jeune) ở Pat-xa-văng (Passavant) khoảng cuối tháng 6- 1830, Mác-săng viết: "Thưa Cha... trên xứ sở bao la này đang hứa hẹn một mùa gặt phong phú, mà thợ gặt thì ít ỏi quá! Mong Cha hãy thúc giục các Cha bề trên gửi nhiều thợ gặt sang đây để nhanh chóng chất đầy kho cho Chúa và để giành lấy từ trong tay kẻ thù cả một khối lượng lớn đó. Năm 1973, tận dụng các ưu điểm của bộ vi xử lý đầu tiên do Intel sản xuất, ông đã cùng nhóm của mình tạo ra chiếc máy vi tính thực sự đầu tiên, được giới thiệu trên quy mô toàn thế giới: Micral. Micral là "tổ tiên" của tất cả mọi thế hệ máy vi tính hiện đại được sử dụng rộng rãi sau này - các máy vi tính cá nhân (PC). Trương Trọng Thi được xem là "cha đẻ của chiếc máy vi tính... Lần đầu tiên, một cuốn phim ca nhạc ngợi ca Bác Hồ kính yêu của chúng ta mang tên "Hồ Chí Minh Đẹp Nhất Tên Người" gồm 9 ca khúc quen thuộc nói lên nỗi nhớ thương, lòng biết ơn và kính phục đối với vị Cha già dân tộc của nhiều thế hệ nhạc sĩ VN do Hãng phim Trẻ thực hiện đã khởi quay từ đầu tháng 11-93.
V24:
Buồng Mẹ - buồng tim - giấu chúng con Đêm đêm chó sủa... Làng bên động? Bóng Mẹ ngồi canh lẫn bóng cồn...
Tố Hữu. 1981. "Mẹ Tơm", Gió lộng, Nxb Văn học. V25: An
thuyên (1994), Lời bài hát Mẹ Việt Nam anh hùng. Hát mừng những người mẹ Việt Nam, Hát mừng những người mẹ anh hùng. Đời hiến hiến giống nòi, mẹ sống giữa gian lao, Vì đất nước hy sinh cả cuộc đời...
6
V26: Vọng
Chín người con, vĩnh viễn không trở về Vành tang trắng, Mẹ khóc mờ đôi mắt Ôi bóng Mẹ, nghiêng chao hồn Đất Nước Mãi xanh màu, khúc hát... Mẹ Việt Nam!...
Tất cả được chia thành nhiều cánh quân, có thể lấy tên những vị anh hùng tiêu biểu đặt tên cho mỗi cánh quân và đồng loạt ra quân ngày 18-7- 2000.
Thanh. "Có những người mẹ thầm lặng", Chương tra cứu trình ngữ cảnh tiếng Việt của Viện Từ điển và học Bách khoa thư Việt Nam V27: Quang Kim Ha. "Chiến 2000. dịch tình nguyện Mùa hè xanh 2000", Báo Sài Gòn Giải phóng, 8197 Số: (03/05/2000)
V28: Xuân
Nhà thơ Đỗ Trung Quân kể: "Hồi đó thanh niên xung phong đa số là dân thành phố vốn ít quen cơ cực, nhưng khi nhập cuộc lại rất anh hùng..."
V29:
Thái. 2000. "Văn hóa văn nghệ", Báo Sài Gòn Giải phóng, Ra ngày 12/07/2000. Sidney Sheldon. 2011. Nếu còn có ngày mai, Nxb Văn học
V30: Ngân
Đêm hôm đó tin và bài về hành động anh hùng của Tracy được tung ra, các tình tiết được đưa lên màn ảnh truyền hình quốc gia, thế là câu chuyện lan nhanh. Café ca nhạc bình dân là những quán chủ yếu dành cho đối tượng sinh viên, học sinh như Cội nguồn, Vườn Thanh niên hay Rap café...
Long. 2000. "Café ca nhạc", Báo Sài Gòn giải phóng. 8280 Số:
7
(25/07/2000)
Không ai có thể thay thế nhân dân trong sự lựa chọn tư tưởng cách mạng.
V31: Nguyễn Dương. 2000. "Trưởng ban Tư tưởng - Văn hóa Thành ủy Trần Văn tư Tạo: Làm tưởng phải thấm nhuần quan điểm cách mạng tiến công", Báo Sài Gòn Giải phóng, Số: 8287 (01/08/2000), tr.2 V32: Hồ
Đặc biệt tại Ba Tơ (Quãng Ngãi), tù chính trị đã nổi dậy, đánh chiếm đồn giặc, lập chính quyền cách mạng và tổ chức đội du kích Ba Tơ.
Song - Nguyễn Kiên. 2004. Lịch sử 9 (Tập 2), Nxb Giáo dục, tr. 1- 31
V34:
Ở Liên Xô, có tổ chức bảo vệ an ninh quốc gia, gọi là KGB, nhằm phát hiện và đấu tranh với những âm mưu chính trị, quân sự của địch để bảo vệ chính quyền cách mạng. Ngày 23 tháng 9 năm 1945, quân Pháp tiến hành đảo chính lật đổ chính quyền cách mạng ở Sài Gòn.
V33: Hữu Mai. 2002. Đêm yên tĩnh, Nxb Công an nhân dân, tr.65. Lưu Văn Lợi - Nguyễn Hồng Trạch. 2002. Pháp tái chiếm đông dương và chiến tranh lạnh, Nxb Công an nhân dân,
8
V35:
Thôi mình đừng khóc nữa, được như vậy cũng là phúc lắm rồi.
và
- Trời, dzậy là em tốt phúc quá! V36:
tr.178 Trần Thị Sen. 2000. "Những dòng kỉ niệm", Nam Cao con người tác phẩm, Nxb Hội nhà văn Phương. Trúc "Phận 2021. thuyền quyên", Báo Văn nghệ, Số: 3 (3179) (16/1/2021), tr.20 V37: Kiều
- Mày quê quá Bảy Lâm ơi! Hổng phải trển nắng hơn dưới mình. Nhưng đó là "mốt" mới đời nay.
Phong. 1993. "Một cuộc thư hùng", Báo an Công Số: TPHCM, 384 (01/12/1993)
Em ở xa nhau quá, em còn trẻ quá, còn chất quê quá... không.
V38: Nguyễn Ngọc Thụy Khanh. 2012. Rẽ thẳng. Nxb Hội nhà văn
Cô bỗng thấy lúng túng vì cảm thấy những điều mình nói có gì như sách vở quá.
V39: Hoàng Minh Tường. 1996. Thuỷ hoả đạo tặc, Nxb Văn học
V40: Nguyễn Minh Nơi phương trời xa, Lục càng tiếp xúc với kiến
9
thức sách vở lại càng hiểu và yêu quý người yêu và người thầy đang lăn lộn trong thực tiễn.
Châu. 2001. "Hái hoa rừng Lào", Nguyễn Minh Châu tập toàn (tập 4), Nxb Văn học
V41: Quỳnh
Tôi thuộc lớp người sinh vào quãng giữa thế kỷ, nên những gì mà tôi có thể đem so sánh với trước đó đều chỉ là những so sánh có tính chất sách vở.
Theo dõi tiểu thuyết từ đầu tập 1 đến cuối tập 2, thấy rõ Hảo từ một sinh viên còn nhiều nhận thức non nớt về xã hội, hơi "sách vở", hơi cứng khi nhìn nhận một số vấn đề riêng tư, dần dà Hảo đã trở thành một cán bộ tốt, có những đóng góp đáng quý trong nghiên cứu khoa học.
V43:
Cha mẹ bỏ nhau, Quỳnh đi bụi và trở thành một tên trộm thạo nghề.
V44:
Nhi. 2001. "Bản sắc Việt người Báo Nam", Nhân dân, Số: 900, ngày Ngày XB: 19/09/2001 V42: Nguyễn Ngọc 2001. Thiện. "Hữu Mai và tiểu Vùng thuyết trời", Tài năng và bản lĩnh nghệ sĩ, Nxb Hội nhà văn "Theo dấu bọn trộm cắp nhí", an Công Số: TPHCM, 3499, Ngày 25/03/1999 Ngọc Trần Tuấn. 1996. Người đẹp Việt Nam, Số 13 (10/01/1996) Trang phục của cô khi xuống máy bay là chiếc quần short vải jean thật... ngắn, chiếc áo vải không cổ cộc tay màu tím nhạt trông rất "bụi" thậm chí còn hơi... nhàu nữa, như bao nhiêu khách "ba lô" khác.
Khải. Chỉ mặc bụi, chưa ăn bụi, ngủ bụi, sống bụi... chưa V45: Quang
10
phải là dân bụi!
1998. "Trẻ 'Đi bụi' - lời cảnh báo cho gia đình và xã hội", Công an TPHCM, Số: 627, Ngày 07/04/1998
Lấy chồng rồi dắt nhau đi mà ăn cơm bụ. V46: Nguyễn
Việt cộng chính hiệu, chúng gan lắm... V47:
Thị Vân. 2002. Nghê đá ở miếu cô cậu, Nxb Hội nhà văn Trần Áng Sơn. 2012. Rẽ thẳng, Nxb Hội nhà văn
Khi gặp cô bạn người Hà Lan lái xe tận Ultrech lên Amsterdam dẫn chúng tôi đi chơi, tôi đòi qua đó uống cà phê, cô cười: "Gan quá ha? Biết trong đó tụi nó làm gì không?" rồi đưa hai ngón tay trước miệng làm hiệu như đang "phê" thuốc.
V48: Ngô Thị Giáng 2011. Uyên. Bánh mì thơm cà phê đắng, Nxb Trẻ
11
PHỤ LỤC
12
PHỤ LỤC 1
BẢNG ĐỊNH NGHĨA MỤC TỪ DANH TỪ MANG THUỘC TÍNH NGHĨA
ĐẠI TỪ TRONG CÁC TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT
MỤC TỪ
STT
1.
bác
2.
cô
3.
chú
4.
ông
5.
bà
6.
cha
7.
mẹ
8.
cậu
9.
mợ
10.
dì
11.
anh
12.
chị
13.
em
Bảng 1.1: Định nghĩa mục từ “bác” trong các Từ điển tiếng Việt
STT TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
1
Đại Nam
Bác. c. Anh cha, vai lớn hơn cha.
quấc âm tự
vị (1895)
2 Việt Nam tự
điển (1931)
bác. I. Cũng như tiếng "bá" nghĩa thứ nhất: Bác ruột (anh ruột
cha mình). Bác họ (anh họ cha mình). Bác trai (bác mình). Bác gái (vợ bác mình). II. Tiếng dùng để gọi cha. III. Tiếng gọi người ngang vai hay là bạn thân với cha mình. IV. Tiếng tự-xưng đối với con anh em bạn thân mình mà người bạn vẫn coi mình là đàn anh. V. Tiếng anh em bạn gọi nhau. VI. Tiếng gọi người dưng, không khinh mà có ý không trọng.
3
Tự điển
bác.
13
Việt Nam
1. Anh của cha.2. ngr. Anh, chị của cha hay của mẹ. 3.
phổ thông (1951)
Cha: bác mẹ sinh thành. 4. Tiếng gọi những người coi như bác: gọi bạn cha bằng bác, là coi ông bạn đó như anh
cha mình; hai bạn gọi nhau bằng bác, là gọi hộ con.
4
Việt Nam
bác. dt.
tân tự điển (1952)
I. Anh cha mình, vợ anh cha mình. II. Kẻ lớn tuổi hay bạn với cha mình. III. Tiếng xưng với anh em bạn.
5
Từ điển
bác. dt. đt.
tiếng Việt
1. Anh hoặc chị của cha hoặc của mẹ mình. 2. Từ dùng
(1967)
để gọi bác mình, để tự xưng với con của em mình. 3. Từ dùng để gọi người ngang hàng với cha mình hoặc để tự
xưng với người đáng tuổi cháu. 4. Từ dùng để gọi người
ngang hàng với mình trong giao thiệp giữa những người
đứng tuổi trở lên. 5. Từ dùng để gọi những người đứng tuổi hoặc có tuổi.
6
Việt Nam
tự điển (1970)
Bác. 1. dt. Bá, tiếng gọi, vai người anh ruột hoặc anh bà con của cha mình hay cha vợ mình.
2. dt. Tiếng gọi người bạn thân với cha mẹ mình, người
bạn thân kém tuổi hơn mình, giữa hai bạn thân, người có
nghề nhứt-định hoặc chức-vị như bác tài, bác xã, bác
phó...
7
Từ điển
bác. dt.
tiếng Việt
1. Anh của cha hoặc chị dâu của cha (có thể dùng để
(2012)
xưng gọi). 2. (phg.). Cô, cậu hoặc dì ở hàng anh hay chị
của cha mẹ. 3. Từ dùng trong đối thoại để gọi người coi như bậc bác của mình với ý kính trọng, hoặc để tự xưng một cách thân mật với người coi như hàng cháu của
mình. 4. Từ dùng để chỉ người lớn tuổi với ý tôn trọng, hoặc chỉ người nhiều tuổi hơn cha mẹ mình. 5. Từ dùng để gọi nhau giữa người nhiều tuổi với ý kính trọng một cách thân mật.
14
Bảng 1.2: Định nghĩa mục từ “cô” trong các Từ điển tiếng Việt
STT
TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
1 Đại Nam quấc
Cô. c. Chị em bên cha. Con gái nhà quan hoặc là người
âm tự vị (1895)
danh giá
2 Việt Nam tự
điển (1931)
cô. I. Tiếng gọi chị hay là em cha. Có khi dùng để gọi những bậc ngang hàng với mẹ, như vợ thầy học, vợ lẽ bố. Theo
lối Tàu có khi dùng chữ "cô" để gọi mẹ chồng, cũng như
chữ "cữu" là bố chồng.
II. Tiếng gọi các con gái nhà quan. Tiếng thông-thường gọi các đàn bà trẻ tuổi. Văn-liệu
Cô là con gái nhà ai, Cái đầu xức sáp, cái tai đeo vàng
(C-d). Ba cô đội gạo lên chùa, Một cô yếm thắm bỏ bùa
cho sư (C-d). Cô kia đứng ở bên sông, Muốn sang anh ngả cành hồng cho sang (C-d). Cô còn nước lọ cơm niêu,
Chồng con chẳng lấy bỏ liều thân du? (C-d). Có cô thì chợ
cũng đông, Cô đi lấy chồng thì chợ cũng vui (C-d).
3
Tự điển Việt
Nam phổ thông
cô. 1. Em gái (h. chị) của cha:
(1951)
hai cô cháu.
2. Tiếng gọi những người kể như cô mình hay cô của con
mình (gọi hộ con).
3. dgh.
Mẹ chồng:
cô cữu. 4. (tcu.) Con gái các quan hay các nhà phú quí. 5. Tiếng lịch-sự gọi người đàn bà giang-hồ: cô Kiều; cô Tư Hồng. 6. Thiếu-nữ ít tuổi hay chưa có chồng: cô thiếu-nữ; cô con gái; có cô thì chợ thêm đông, cô đi lấy chồng thì chợ cũng vui.
4
Việt Nam tân
cô.
15
tự điển (1952)
A. dt.
I. 1. Tiếng gọi chị hay là em cha; tiếng của mình kêu em hay chị gái khi nói với con. 2. Anh em con cô con cậu.
II. 1. Tiếng gọi chung các cô gái, hay các đàn-bà trẻ nhà
khá-giả. Hỡi cô tát nước bên đàng, Cớ sao hớt ánh trăng
vàng đổ đi (C. d) Ba cô đội gạo lên chùa, Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư (C. d). 2. Cô ả (itd); Cô dâu. Cô dì. Cô
đầu. Cô đỡ, cũng gọi là cô mụ. Cô gái. Cô giáo. Cô nương. Cô mình. Cô hồn, cô đồng bóng.
5 Từ điển tiếng
cô. dt. đt.
Việt (1967)
1. Em gái của cha mình. 2. Từ dùng để gọi cô mình, để xưng với em của cha
mình, để gọi em gái mình.
3. Từ dùng để gọi người nữ giáo viên dạy mình hoặc
người đáng tuổi cô mình.
4. Từ dùng để gọi người con gái còn thanh niên hoặc
đáng tuổi em mình:
Cô bán hàng bách hoá.
6
Việt Nam tự
điển (1970)
CÔ. 1. đgt. C/g.
O, vai và tiếng gọi chị hay em gái của cha mình.
Chú, bác, cô một họ; dì dượng, cậu khác dòng (tng).
2. đgt.
Tiếng anh và chị dâu gọi tâng em gái (gọi theo con).
3. đgt.
Tiếng gọi các gái chưa chồng hoặc có chồng mà không
thân lắm. Hỡi cô da đỏ má hồng, Cô đi theo chồng cô bỏ xứ cha (CD). 4. đgt. Tiếng gọi các người đàn-bà có nghề làm ăn mua-bán hoặc chồng họ có các nghề ấy. Cô đỡ, cô mụ, cô giáo, cô ký, cô thông; Còn cô bán rượu
anh còn say-sưa (CD).
16
5. đgt.
Tiếng gọi các hồn ma con gái. Cốt cô, xác cô Hai.
7
Từ điển tiếng
cô. dt.
Việt (2012)
1. Em gái hoặc chị của cha (có thể dùng để xưng gọi).
Cô ruột. Bà cô họ. Cô đợi cháu với. 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người con gái hoặc người phụ
nữ trẻ tuổi, thường là chưa có chồng.
Cô bé. Cô thợ trẻ.
3. Từ dùng để gọi cô giáo hoặc cô giáo dùng để tự xưng
khi nói với học sinh. Cô cho phép em nghỉ học một buổi.
4. Từ dùng trong đối thoại để gọi người phụ nữ coi như
bậc cô của mình với ý yêu mến, kính trọng, hoặc để người
phụ nữ tự xưng một cách thân mật với người coi như hàng
cháu của mình.
5. Từ dùng trong đối thoại để gọi em gái đã lớn tuổi với ý
coi trọng, hoặc để gọi một cách thân mật người phụ nữ coi
như vai em của mình (gọi theo cách gọi của con mình).
Bảng 1.3: Định nghĩa mục từ “chú” trong các Từ điển tiếng Việt
STT TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
Chú. n. Tiếng xưng hô, em cha, hoặc người nhỏ tuổi hơn
1. Đại Nam quấc âm tự
cha, hoặc vai nhỏ hơn cha, hoặc là em mình, nhỏ tuổi
vị (1895)
hơn mình, vai nhỏ tuổi hơn mình.
2. Việt Nam
tự điển (1931)
chú. I. Em trai của cha: Chú ruột, chú họ. Cũng có khi người anh dùng tiếng chú mà gọi người em, nghĩa là chú của con mình: Miệng ngọt nhạt của anh như của chú. Văn-liệu: Xảy cha còn chú. Chú cũng như cha. Cháu lú có chú nó khôn. II. Tiếng gọi những người nh-tráng, người hầu-hạ: Chú quyền, chú tiểu. Văn-liệu: Chú khi ni, mi khi khác.
3. Tự điển
chú.
17
Việt Nam
1. Em trai (ruột h. họ) của cha:
phổ thông (1951)
sểnh cha còn chú; chú ruột; chú họ. 2. Tiếng gọi những người kể như cha hay em trai (tl. Chú
của con mình):
chú thợ; chú lái đò; chú tiểu.
4. Việt Nam tân tự điển
chú. dt. I.
(1952)
1. Em trai của cha mình.
Chú cũng như cha. Anh anh, chú chú mừng hớn hỏi, Rượu
rượu chè chè thết tả tơi (Ng.b.Khiêm).
2. Chú bác. II. dt. và đgt.
1. Tiếng gọi người đàn-ông hầu-hạ, nh-tráng
Chú nh, chú tiểu.
2. Chú khách. Chú rể.
III. bt.
Bạn ít tuổi của cha mình.
chú. dt. đt.
5. Từ điển tiếng Việt
1. Em của cha mình và là đàn ông:
(1967)
Sảy cha còn chú, sảy mẹ bú dì (tng).
2. Từ đặt trước một danh từ chỉ một người con trai hàng
dưới mình:
Chú bé.
3. Ngôi thứ nhất dùng để tự xưng khi nói với cháu mình
hoặc những người coi như cháu mình:
Cháu ngoan, chú mua quà cho.
4. Ngôi thứ hai dùng để gọi người em bố mình hoặc người ngang hàng với em bố mình: Chú cho cháu mượn cái xe đạp. 5. Ngôi thứ hai dùng để gọi em mình hoặc người ngang hàng với em mình, khi mình đã đến một tuổi nào: Chú đi bỏ hộ anh cái thư. 6. Ngôi thứ ba dùng để chỉ em mình, em chồng mình, em
bố mình:
18
Con đừng nghịch sách của chú, chú về chú mắng cho.
6. Việt Nam
tự điển
Chú. 1. dt.
(1970)
Vai và tiếng gọi người em trai của cha mình hoặc tiếng gọi
tâng em trai mình (nếu mình là đàn-ông) hay em trai của
chồng mình (nếu mình là đàn-bà); tiếng gọi những người đàn-ông ngang vai với chú mình hoặc gọi tâng những người
trai-tráng:
Chú bác, chú em, chú rể, chú tiểu
2. Tiếng nói trại (trạnh) người khách-trú là ((các chú)) và
do đó gọi là chú: Chú tiệm, chú bán tàu-hủ, chú Ba
3. Tiếng gọi những người có nghề chuyên-môn không vào
hàng trí-thức:
Chú cai, thầy chú, chú, chú thợ, chú nh.
7. Từ điển tiếng Việt
chú. A. dt.
(2012)
1. Em trai của cha (có thể dùng để xưng gọi).
Chú ruột. Ông chú họ. Sẩy cha còn chú (tng.). Chú bảo gì
cháu?
2. Từ thiếu nhi dùng để chỉ hoặc gọi người đàn ông đáng
bậc chú mình, với ý yêu mến, kính trọng.
Cháu yêu chú bộ đội.
3. Từ dùng để chỉ thiếu nhi với ý yêu mến, thân mật.
Chú bé.
4. (dùng hạn chế trong một số tổ hợp).
Từ dùng để chỉ người con trai hoặc người đàn ông trẻ tuổi. Chú tiểu. Chú rể. 5. Từ dùng để chỉ con vật theo lối nhân cách hoá, với ý hài hước. Chú dế mèn. Chú chuột đi chợ đàng xa... (cd.). 6. Từ dùng trong đối thoại để gọi người đàn ông coi như bậc chú của mình với ý yêu mến, kính trọng, hoặc để người
đàn ông tự xưng một cách thân mật với người coi như hàng
19
cháu của mình.
7. Từ người đàn ông dùng trong đối thoại để gọi em trai (hay là người phụ nữ dùng để gọi em trai chồng) đã lớn tuổi
với ý coi trọng, hoặc người đàn ông dùng để gọi một cách
thân mật người đàn ông khác coi như vai em của mình (gọi
theo cách gọi của con mình).
Bảng 1.4: Định nghĩa mục từ “ông” trong các Từ điển tiếng Việt
STT TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
1
Đại Nam quấc âm tự
Ông. c. Cha cha mẹ mình; tiếng xưng hô quan trưởng cùng kẻ tuổi cao tác lớn; tiếng quan trưởng xưng mình.
vị (1895)
Việt Nam
2
tự
điển
ông. I. Cha của cha mẹ mình. II. Tiếng gọi những bậc thần-thánh
(1931)
anh-linh. III. Tiếng gọi người đàn ông có phẩm-vị. IV.
Tiếng gọi chung những người đàn ông.
Tự
điển
3
Việt Nam
ông. 1. Cha, chú, bác hay cậu của cha hay mẹ mình. 2. Đàn ông
phổ thông
đã đứng tuổi hay có địa-vị. 3. Tiếng gọi những bậc thần
(1951)
thánh.
Việt Nam
4
tân tự điển
ông. dt. I. 1. Cha của cha mẹ mình, hay cha của chú bác mình. 2.
(1952)
Ông nội. Ông chú, ông bác. Ông ngoại. II. 1. Tiếng gọi đàn
ông có phẩm vị, đáng kính. 2. Ông giám đốc. Ông hàn lâm. Ông Trời. III. 1. Tiếng gọi chung các người đàn ông hơi lớn tuổi. 2. Ông anh. Ông chồng. Ông già, ông lão.
5
Từ điển tiếng Việt (1967)
ÔNG. - d, đt. 1. Cha của cha hay của mẹ mình.2. Người đàn ông đã trưởng thành. 3. Từ dùng để chỉ những người có phẩm tước cao trong thời phong kiến, hay những người, những vật,
hoặc những hiện tượng mà người ta sợ hay tôn sùng, theo
20
mê tín. 4. Đại từ ngôi thứ hai chỉ một người đàn ông đã
trưởng thành, không thân với mình. 5. Đại từ ngôi thứ ba chỉ ông nội, ông ngoại. 6. Đại từ ngôi thứ nhất dùng để tự
xưng với cháu mình. 7. Đại từ ngôi thứ nhất dùng để tự
xưng một cách thô tục.
6
Việt Nam điển tự
ÔNG. 1. đgt. Tiếng gọi những người đàn-ông già, đáng chú bác
(1970)
cha ông mình trở lên. 2. Tiếng gọi xã-giao những người
đàn-ông lạ hoặc quen mà không thân.3. Tiếng gọi tôn-xưng
kẻ khuất mày khuất mặt. 4. Tiếng gọi các người có địa vị
cao. 5. Tiếng gọi cách kiêng-sợ những thú dữ to lớn. 6. Tiếng người đàn-ông tự-xưng khi giận.
Từ
điển
7
tiếng Việt (2012)
ông. dt. 1. Người đàn ông thuộc thế hệ sinh ra cha hoặc mẹ (có thể dùng để xưng gọi). 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người đàn
ông đứng tuổi hoặc được kính trọng. 3. (kng.). Từ người
đàn ông dùng để tự xưng khi tức giận, muốn tỏ vẻ trịch
thượng hoặc hách dịch.4. (kng.). Từ dùng để gọi người đàn
ông hàng bạn bè hoặc hàng em (hàm ý thân mật). 5. (kết
hợp hạn chế). Từ dùng để gọi tôn vật được sùng bái hay
kiêng sợ.
Bảng 1.5: Định nghĩa mục từ “bà” trong các Từ điển tiếng Việt
STT TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
Đại Nam
Bà. n. Mẹ cha mẹ mình. Tiếng xưng hô đờn bà lớn tuổi,
1
quấc âm tự
hoặc là người sang cả.
vị (1895)
2
Việt Nam tự điển (1931)
bà. I. Tiếng gọi mẹ của cha mẹ mình. II. Tiếng gọi những người đàn bà thần thánh anh linh. III. Tiếng gọi đàn bà có phẩm vị. IV. Tiếng gọi chung những người đàn bà. V. Tiếng gọi chung người đàn bà có tuổi và ngang hàng với bà mình. VI. Tiếng gọi các người đàn bà đồng bóng ở chùa ở
đền.
21
Tự điển
3
Việt Nam phổ thông
bà. 1. Mẹ hay cô, dì, bác, thím, mợ của cha hoặc mẹ mình. 2. Đàn bà đã đứng tuổi hay đã có địa-vị. 3. Vợ của ông. 4.
(1951)
Tiếng gọi các vị nữ-thần.
Việt Nam
4
tân tự điển (1952)
bà. dt. I. 1. Mẹ của cha mình. 2. Bà nội; bà ngoại; bà nhạc. II. Đàn-bà lớn tuổi có chức-phận, danh tiếng. III. Gọi chung
đàn-bà.
Từ điển
5
tiếng Việt (1967)
bà. dt., đt. 1. Mẹ của cha hay của mẹ mình. 2. Từ chỉ người đàn bà trong họ ngang hàng với cha mẹ mình, khi nói với người
khác. 3. Từ chỉ người đàn bà đã có chồng và đứng tuổi,
hoặc người đàn bà mình phải kính. 4. Từ chỉ người con gái
vua chúa. 5. Đại từ ngôi thứ hai nói với bà mình hoặc một người đàn bà đứng tuổi không có quan hệ thân với mình. 6.
Đại từ chỉ ngôi thứ ba chỉ bà nội, bà ngoại. 7. Đại từ ngôi
thứ nhất dùng để xưng với cháu nội, cháu ngoại.
Việt Nam
6
tự điển
Bà. A. dt. Tiếng gọi, vai những người đàn-bà thuộc bà con bên
(1970)
nội hay bên ngoại, từ hàng cha mẹ của cha mẹ mình trở lên.
B. 1. Tiếng gọi những người đàn-bà già, đáng bà nội bà
ngoại mình trở lên. 2. Tiếng gọi xã-giao những người đàn-
bà có chồng. 3. Tiếng gọi thần thánh đàn-bà hoặc xác phàm
các người ấy. 4. Tiếng các người đàn-bà có tên trong sử. 5.
Tiếng gọi vợ các người có chức phận.
7
Từ điển tiếng Việt (2012)
bà. dt. 1. Người đàn bà thuộc thế hệ sinh ra cha hoặc mẹ (có thể dùng để xưng gọi). 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người đàn bà
đứng tuổi hoặc được kính trọng. 3. Từ người đàn bà dùng để tự xưng khi tức giận, muốn tỏ vẻ trịch thượng hoặc hách dịch.
22
Bảng 1.6: Định nghĩa mục từ “cha” trong các Từ điển tiếng Việt
STT TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
Cha. n. Kẻ sinh ra mình.
1. Đại Nam quấc âm tự
vị (1895)
2. Việt Nam tự điển (1931)
cha. I. Cũng nghĩa như “bố”, người đàn ông sinh ra mình:
Con có cha như nhà có nóc. Văn-liệu: Cha vàng mẹ bạc.
Cha hiền con thảo. Cha hươu mẹ vượn. Cha nào con ấy.
Cha già con mọn. Cha sinh không tầy mẹ dưỡng. Chửi cha không bằng pha tiếng. Một đời cha ba đời con. Trẻ
cậy cha, già cậy con. Đời cha ăn mặn, đời con khát
nước. Cha ngảnh mặt đi con giại, cha ngảnh mặt lại con
khôn. Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì. Cha chung không ai khóc. Cha sinh con, trời sinh tính. Cha gánh lon, con
gánh vại. Cha đánh chẳng lo bằng ăn no giã gạo. Cha
làm sao đẻ con hao-hao làm vậy. Cha mẹ giàu con có,
cha mẹ khó con không. Còn cha gót đỏ như son, Cha
chết thì gót mẹ gót con thâm sì. Cha chài chú chóp. Cha
căng chú kiết. Thương tình con trẻ cha già (K). Rày đừng
vây cánh cha con (Nh-đ-m). Làm con đâu dám cưỡng
cha (L-V-T). Dạy rằng cha cả mẹ già những mong (L-V-
T).
II. Tiếng những người theo đạo Da-tô gọi các ông cố:
Cha xứ Đoài, cha xứ Đông.
3.
Tự điển Việt Nam phổ thông (1951)
cha. 1. Người đàn ông, đối với con của mình (nh. Bố): con có cha như nhà có nóc. 2. Tiếng người công-giáo gọi những vị linh-mục, giám- mục: Đức cha. 3. Tiếng gọi người đàn ông, có ý khinh rẻ hay giễu cợt: thằng cha ấy gàn.
4. Việt Nam
cha. dt.
23
tân tự điển
I. 1. Người đàn ông sinh ra mình. Cha hiền con thảo.
(1952)
Cha sinh không bằng mẹ dưỡng. Còn cha gót đỏ như son, Một mai cha chết gót con thâm sì (C.d). 2. Cha nào
con nấy. Cha chồng, cha vợ. Cha đẻ. Cha ghẻ. Cha
truyền con nối.
II. 1. Tiếng của người theo Thiên-chúa giáo gọi các ông truyền-đạo. Cha, cố. 2. Cha sở.
III. (thgt.) Người đàn-ông nào đó có ý khinh; tiếng thân- mật để chỉ bạn thân hay người liên-quan với mình mà làm ra bộ thân. Thằng cha nào? Mấy cha viết báo. Thôi
đừng giỡn nữa cha!. Thằng cha ấy. Cha căng chú kiết,
người lạ. Cha chài chú chóp.
5. Từ điển tiếng Việt
cha. dt. đt. 1. Người đàn ông sinh ra mình.
(1967)
2. Từ con dùng để gọi cha, cha dùng để xưng với con.
3. Từ người theo đạo Thiên chúa dùng để gọi một linh
mục.
4. Từ dùng để gọi suồng sã những người thân mật:
Thôi đi cha, đừng nói tếu nữa.
6. Việt Nam
tự điển
CHA. 1. dt. Vai và tiếng gọi người đàn-ông đã cùng người
(1970)
đàn-bà sinh mình ra:
Có cha có mẹ thì hơn, Không cha không mẹ như đờn đứt
dây; Công cha như núi thái-sơn (CD).
2. Tiếng gọi không thân hoặc có ý khinh nhiều người đàn
ông:
Mấy cha ghiền rượu, thằng cha thọt, thôi đi cha. 3. Tiếng gọi tôn kính các vị linh-mục đạo Da-tô: Cha Tòng, Cha Sở 4. tht. tiếng la khống khi gặp việc bất-ngờ hay khi đau thể-xác: Cha! Ngộ quá! Cha! Nóng quá ! Ui ôi) cha! 5. Tiếng chửi: Cha mầy! Đánh chết cha đa.
7.
Từ điển
cha. dt.
24
tiếng Việt
1. Người đàn ông có con, trong quan hệ với con (có thể
(2012)
dùng để xưng gọi). Cha nào con nấy. Con có cha như nhà có nóc (tng.). Cha
bảo gì con ạ?
2. Từ dùng để gọi linh mục hoặc linh mục tự xưng khi
nói với người theo Công giáo. 3. (thgt.).
Từ dùng trong một số tiếng chửi rủa, chửi mắng. Mồ cha*. Cha đời*. Chém cha*.
Bảng 1.7: Định nghĩa mục từ “mẹ” trong các Từ điển tiếng Việt
ĐỊNH NGHĨA Mẹ. n. (Coi chữ mẫu). Mẹ đẻ mình, vợ cha mình, cũng
hiểu về con cái trong các loài thú vật; tiếng than.
STT TỪ ĐIỂN 1. Đại Nam quấc âm tự vị (1895)
2. Việt Nam tự điển (1931)
mẹ. Bà thân sinh ra mình. Văn-liệu: Mẹ gà, con vịt. Mẹ tròn, con vuông. Mẹ goá, con côi. Mẹ hát, con khen. Cha sinh không bằng mẹ dưỡng. Mẹ nuôi con bằng trời bằng bể, Con nuôi mẹ con kể từng ngày. Mẹ già như chuối chín cây (T-ng).
3.
Tự điển Việt Nam phổ thông (1951)
4. Việt Nam tân tự điển (1952)
mẹ. 1. Người đàn bà sinh ra mình. nhiều người quen gọi mẹ bằng me. Mẹ hát con khen hay: chỉ những lời khen tặng thiên-vị của những người cùng phe, cùng cánh. 2. ngx. Người đàn bà. mẹ ấy; con mẹ đó. mẹ. dt. 1. Người đàn-bà đẻ ra mình Mẹ tròn, con vuông. Mẹ hát, con khen. Chiều chiều ra đứng ngỏ sau, Ngó về quê mẹ ruột đau chín chìu (C.d) 2. Mẹ chồng. Mẹ đẻ. Mẹ đĩ, mẹ đã có con gái. Mẹ ghẻ. Mẹ goá. Mẹ nuôi. Mẹ vợ.
5. Từ điển Mẹ. - d, đt.
25
tiếng Việt (1967)
1. Người đàn bà đã có con. 2. Người đàn bà trong quan hệ với con. Mẹ tròn con vuông. Nói người đàn bà ở cữ được bình yên mạnh khỏe. Mẹ hát con khen hay. Cùng trong nhà, trong họ tâng bốc nhau. 3. Từ dùng để gọi thân mật một phụ nữ đứng tuổi hay có tuổi, được mọi người kính nể : Mẹ Xim đêm đêm chèo thuyền cho bộ đội sang sông. 4. Nói động vật cái đã có con : Chim mẹ ; Chó mẹ.
6. Việt Nam
tự điển (1970)
mẹ. 1. dt. Má, bà thân-sinh, vai và tiếng gọi người đàn-bà sinh ra mình, tức vợ của cha mình: Bà mẹ, cha mẹ, thấy mẹ; Có cha có mẹ thì hơn, Không cha không mẹ như đờn đứt dây (CD). 2. (long.) Mẻ, tiếng gọi người đàn-bà cách khinh thường: Con mẹ bán quán; Mấy mẹ đó sao chưa thấy tới ?
7.
Từ điển tiếng Việt (2012)
mẹ. dt. 1. Người đàn bà có con, trong quan hệ với con (có thể dùng để xưng gọi). Công cha nghĩa mẹ. Giống mẹ như đúc. Lại đây với mẹ. Mẹ đẻ (phân biệt với mẹ nuôi, mẹ ghẻ). 2. (thường dùng sau dt.). Con vật cái thuộc thế hệ trước, trong quan hệ với những con vật thuộc thế hệ sau và do nó trực tiếp sinh ra. Gà mẹ gà con. Cá bố cá mẹ. 3. Cái gốc, cái chính từ đó sinh ra những cái khác. Bom bi mẹ. Lãi mẹ đẻ lãi con*. Sạch sẽ là mẹ sức khoẻ (b.). 4. Từ dùng để gọi người đàn bà đáng bậc mẹ (hàm ý coi trọng). Hội mẹ chiến sĩ. 5. (thgt.; dùng phụ sau đgt.). Từ dùng trong tiếng chửi rủa. Mất mẹ nó cả ngày! Vứt mẹ nó đi! Kệ mẹ chúng!
26
Bảng 1.8: Định nghĩa mục từ “cậu” trong các Từ điển tiếng Việt
STT TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
Cậu. c. Anh em với mẹ mình, tiếng xưng hô các con quan,
1. Đại Nam quấc âm tự
các kẻ có chức phận, hoặc là bà con với quan.
vị (1895)
2. Việt Nam tự điển (1931)
cậu. I. Tiếng gọi anh hay em trai mẹ. Văn-liệu
Con cô con cậu thì xa, Con chú con bác thật là anh em (C-
d). Chồng cô vợ cậu chồng dì, Trong ba người ấy chết thì không tang (Gia-lễ). Sáo sậu là cậu sáo đen, Bắt được sáo
đá thì lèn cho đau (C-d).
II. Tiếng gọi con các quan hay gọi chung các người con
trai ít tuổi:
Cậu ấm, cậu cả, cậu hai v.v.
3.
Tự điển
Việt Nam
cậu. 1. Em trai (h. anh) mẹ:
phổ thông
con cô con cậu thì xa, con chú con bác thật là anh em.
(1951)
2. Cha. Cậu mợ:
cha mẹ.
3. Tiếng vợ gọi chồng.
4. (tcu.)
Con trai các quan hay thanh-niên sang trọng: cậu ấm.
5. ngr.
Thanh-niên ít tuổi:
cậu học-trò.
cậu. dt.
4. Việt Nam tân tự điển (1952)
I. Anh hay em trai mẹ Con cô con cậu thì xa (T. ng) II. 1. Tiếng gọi con trai ít tuổi có vợ hay chưa thường là con trai nhà quan Cậu ấm, cậu hai, cậu công-tử v. v. . .
2. Cậu ấm. Cậu cả, Con trai đầu hay cậu bậc trên hết.
27
cậu. dt. đt.
5. Từ điển tiếng Việt (1967)
1. Em trai của mẹ mình. (đph) Anh trai của mẹ mình. 2. Từ dùng để gọi cậu mình, để tự xưng với con của chị
mình.
3. Từ con dùng để gọi cha, cha dùng để xưng với con.
4. Từ vợ dùng để gọi chồng. 5. Từ dùng để gọi thân mật người bạn trai cùng tuổi.
6. Từ dùng để gọi người con trai còn bé hoặc còn thanh niên: Cậu chỉ giúp anh đường lên huyện.
6. Việt Nam
tự điển (1970)
Cậu. 1. dt. Cựu, tiếng gọi anh hoặc em, của mẹ.
Ví dầu cậu giận cậu hờn, Cháu theo cùng cậu kéo đờn cậu
nghe (CD).
2. dt.
Tiếng gọi tâng em vợ mình.
3. dt.
Tiếng gọi tâng con các nhà quyền quý.
4. dt.
Tiếng vợ gọi chồng.
ấy! Em nói với cậu có sai đâu.
5. dt.
Tiếng gọi các hồn ma trẻ sơ-sinh nhập vào xác đồng.
Bà cậu, xác cậu, dinh cậu.
7.
Từ điển
cậu. dt.
tiếng Việt
1. Em trai hoặc anh của mẹ (có thể dùng để xưng gọi).
(2012)
Cậu ruột. Cậu và mợ. 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người con trai còn nhỏ tuổi, thường với ý mến trọng. Cậu bé. Cậu học trò. 3. (cũ). Từ trong xã hội cũ dùng để chỉ hoặc gọi người con trai nhà giàu sang, hoặc cai, nh, với ý coi trọng. Cậu ấm*. Cậu cai.
4. Từ dùng để gọi nhau một cách thân mật giữa bạn bè
28
còn ít tuổi.
Cậu làm giúp tớ. 5. Từ người chị dùng để gọi em trai, hoặc người anh rể
dùng để gọi em trai của vợ đã lớn tuổi với ý coi trọng (gọi
theo cách gọi của con mình).
6. Từ người cha dùng để tự xưng với con, người con gọi cha (trong một số gia đình, thường là ở thành phố), hoặc
người vợ gọi chồng (gọi theo cách gọi của con cái trong gia đình).
Bảng 1.9: Định nghĩa mục từ “mợ” trong các Từ điển tiếng Việt
ĐỊNH NGHĨA
STT TỪ ĐIỂN
Mợ. n. Vợ cậu; vợ các con quan, cũng là tiếng xưng mẹ.
1. Đại Nam quấc âm tự
vị (1895)
2. Việt Nam tự điển (1931)
mợ. I. Tiếng cháu gọi vợ cậu. Văn-liệu
Có mợ thì chợ cũng đông, Không mợ thì chợ chẳng không
bữa nào (C-d).
II. Tiếng gọi vợ các cậu ấm. Mợ cả dâu quan Tuần.
3.
Tự điển
Việt Nam phổ thông
mợ. 1. Vợ của cậu. 2. Cha.
(1951)
nhiều người quen gọi cha mẹ là cậu mợ.
3. ngr.
Tiếng chồng gọi vợ.
4. Việt Nam tân tự điển (1952)
mợ. đgt. I. Vợ của cậu. II. Ngr. Tiếng gọi vợ các cậu ấm, các người đàn bà trẻ có chút địa- vị hay tiếng trẻ con gọi mẹ nó: Có mợ thì chợ cũng đông. Không mợ thì chợ cũng không
bữa nào (C.d)
29
Mợ. - d, đ .
5. Từ điển tiếng Việt (1967)
1. Vợ của cậu. 2. Vợ các cậu ấm thời xưa :
Mợ Tú, dâu cụ Nghè.
3. Từ người chồng dùng để gọi vợ.
4. Từ con dùng để gọi mẹ : Mợ đi chợ nhớ mua quà cho con.
5. Từ bố mẹ chồng dùng để gọi nàng dâu.
6. Việt Nam
tự điển
Mợ. 1. đgt.
(1970)
Vai và tiếng gọi người vợ của cậu mình: Ví dầu cậu giận mợ hờn, Cháu theo cùng cậu kéo đờn cậu
nghe (CD).
2. (R)
Tiếng chị chồng gọi tưng em dâu, mẹ chồng gọi nàng dâu
trong nhà:
Có mợ thì chợ cũng đông, Không mợ thì chợ cũng không
bữa nào (CD).
7.
Từ điển
mợ. dt.
tiếng Việt
1. Vợ của cậu (có thể dùng để xưng gọi).
(2012)
2. Mẹ (dùng để xưng gọi trong một số gia đình trung lưu,
thượng lưu thời trước).
3. Từ người chồng dùng để gọi vợ còn trẻ trong một số
gia đình trung lưu thời trước (gọi theo cách gọi của con cái
trong gia đình).
4. Từ cha mẹ chồng dùng để gọi con dâu trong một số gia
đình trung lưu, thượng lưu thời trước. 5. Từ thời trước dùng để chỉ hoặc gọi người đàn bà trẻ có chồng là công chức trung cấp, với ý coi trọng. Mợ phán.
30
Bảng 1.10: Định nghĩa mục từ “dì” trong các Từ điển tiếng Việt
STT TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
1. Đại Nam
Dì. c. Tiếng xưng hô các chị em với mẹ mình, cũng là tiếng
quấc âm tự
các chị em gái gọi nhau.
vị (1895)
2. Việt Nam tự
dì.
điển (1931)
1. Tiếng gọi các chị hay em gái mẹ:
Sẩy mẹ, bú dì.
2. Chị gái gọi em gái thay con:
Con chị, con dì.
3. Tiếng gọi vợ thứ của cha mình. Thường nói là dì ghẻ:
Dì ghẻ con chồng.
3.
Tự điển
dì.
Việt Nam
1. Chị hay em gái mẹ:
phổ thông
đôi con dì.
(1951)
2. ngh.
Em gái của mẹ (đv. Già):
con dì con già.
3. Vợ bé của cha.
4. Việt Nam
dì. dt.
tân tự điển
Chị hay em gái mẹ:
(1952)
Dì như mẹ.
5. Từ điển
dì. dt. đt.
tiếng Việt
1. Em gái của mẹ mình.
(1967)
2. Từ dùng để gọi dì mình, để xưng với con của chị mình, để
gọi em gái của vợ mình.
3. Từ dùng để gọi vợ kế hay vợ lẽ của cha mình.
6. Việt Nam
Dì.
tự điển
1. dt.
31
(1970)
Vai và tiếng gọi chị hay em gái của mẹ mình:
Không cha đeo chân chú, không mẹ níu vú dì
2. Tiếng gọi tâng dì của con mình
3. Tiếng gọi vợ bé hay vợ sau của cha mình
4. Tiếng gọi những người đàn-bà trang lứa với mẹ mình.
7.
Từ điển
dì. dt.
tiếng Việt
1. Em gái hoặc chị của mẹ (có thể dùng để xưng gọi).
(2012)
Sẩy cha còn chú, sẩy mẹ bú dì (tng.).
2. Từ chị hoặc anh rể dùng để gọi em gái hoặc em gái vợ đã
lớn, theo cách gọi của con mình (hàm ý coi trọng).
3. Vợ lẽ của cha (chỉ dùng để xưng gọi).
Bảng 1.11: Định nghĩa mục từ “anh” trong các Từ điển tiếng Việt
STT
TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
Đại
Nam
Anh. c.n. Thường là tiếng con một nhà gọi nhau, đẻ trước
1
quấc âm tự vị
làm anh, đẻ sau làm em; vai anh, vai lớn; con thơ
(1895)
Việt Nam tự
2
điển (1931)
anh. A. I. Con trai cùng một cha, đẻ trước hay là con vợ cả thì
gọi là anh. II. Trong một họ, dù nội dù ngoại, cùng một
hàng mà là bề trên thì gọi là anh. III. Đối với người ngoài
ai hơn tuổi thì gọi là anh, hay là bè-bạn gọi lẫn nhau. IV.
Gọi người ngoài hơi có ý khinh. V. Tiếng vợ gọi chồng hay
chồng tự xưng với vợ. VI. Tiếng thân của con gái gọi con trai, hay của con trai tự-xưng với con gái.
3
Tự điển Việt phổ Nam thông (1951)
anh. 1. Tiếng chỉ chung anh ruột, anh họ, anh rể anh vợ, anh chồng. 2. Tiếng chỉ những người có thể trực-tiếp hay gián- tiếp coi như những người kể trên. 3. Tiếng dùng để chỉ anh ruột.
Việt Nam tân
4
tự điển (1952)
anh. dt. I. Con trai cùng một cha mẹ hay một mẹ đẻ trước. II.
32
Trong một họ, dù nội, dù ngoại, cùng một hàng bề trên thì
gọi anh. III. bt. Giữa người dưng, hơn tuổi, gọi là anh hay bạn bè gọi nhau. IV. đạit. Tiếng vợ gọi chồng hay chồng
tự-xưng với vợ. V. đại t. Tiếng thân-yêu giữa con gái gọi
con trai hay con trai tự xưng với con gái. VI. đạit. Tiếng gọi
người lạ không cho là quan trọng lắm.
Từ điển tiếng
5
Việt (1967)
anh. đt., dt. 1. Người con trai sinh trước mình, cùng cha và cùng mẹ,
hoặc chỉ cùng cha hay cùng mẹ với mình. 2. Người con trai
là con vợ cả của cha mình khi mình là con vợ lẽ. 3. Con trai
bác mình hay bá mình. 4. Từ dùng để gọi anh mình, để tự xưng với em mình, để chồng tự xưng với vợ, để vợ gọi
chồng, để cha mẹ gọi con trai đã trưởng thành, để cha mẹ
gọi con rể. 5. Từ người con trai dùng để tự xưng với người
đáng tuổi em mình. 6. Từ chỉ một người bạn trai, người đàn
ông ngang hàng hoặc một người con trai nào.
Việt Nam tự
6
điển (1970)
ANH. 1. dt. Người trai sinh trước đối với những người trai hoặc
gái sinh sau cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, hoặc
cùng mẹ khác cha. 2. Con trai của người vai lớn trong vòng
bà-con đối với người vai nhỏ, không luận tuổi. 3. Chồng
người vai chị đối với những người vai em. 4. Trai trẻ hoặc
người đàn-ông lớn tuổi đối với người nhỏ tuổi hơn nam hay
nữ không trong vòng bà-con. 5. Trai trẻ hoặc đàn-ông đối
với những người khác ngang tuổi hoặc lớn hơn trong
trường-hợp được gọi tưng hoặc có ý khinh. 6. Chồng đối
với vợ hoặc chồng tự xưng. 7. Người trai hoặc đàn-ông tự- xưng thân-mật với người kém tuổi hơn hoặc ruột-thịt, hoặc bà-con, hoặc người dưng. 8. Tiếng gọi những người làm nghề thấp kém.
7
Từ điển tiếng Việt (2012)
anh. dt. 1. Người con trai cùng một thế hệ trong gia đình, trong họ, nhưng thuộc hàng trên (sinh trước, là con nhà bác, v.v.; có
thể dùng để xưng gọi). 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người
33
đàn ông còn trẻ; hay là dùng để gọi người đàn ông cùng
tuổi hoặc vai anh mình. 3. Từ phụ nữ dùng để gọi chồng, người yêu, hoặc người đàn ông dùng để tự xưng khi nói với
vợ, người yêu. 4. Từ dùng để gọi người đàn ông thuộc thế
hệ sau mình (như cha mẹ gọi con rể hoặc con trai đã trưởng
thành, v.v.) với ý coi trọng (gọi theo cách gọi của những con còn nhỏ tuổi của mình).
Bảng 1.12: Định nghĩa mục từ “chị” trong các Từ điển tiếng Việt
STT TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
Đại Nam
Chị. n. Tiếng xưng hô đờn bà, con gái lớn tuổi hơn mình,
1
quấc âm tự
hoặc vai lớn hơn hoặc là đờn bà ở nhà tu, nhà phước.
vị (1895)
Việt Nam
chị. Vai trên mình về hàng gái trong nhà trong họ.
2
tự
điển
(1931)
Tự
điển
3
Việt Nam
chị. 1. Tiếng chỉ chung chị ruột, chị họ, chị dâu, chị vợ, chị
phổ
thông
chồng. 2. Tiếng chỉ người có thể trực-tiếp hay gián-tiếp coi
(1951)
như những người kể trên đây. 3. Tiếng dùng để chỉ chị ruột.
Việt Nam
4
tân tự điển
chị. dt. I. 1. Vai trên mình về hàng gái trong nhà, trong họ. 2. Chị
(1952)
chồng. II. Người đàn bà nào đó trên tuổi mình. III. 1. Tiếng
gọi thân các cô gái cùng tuổi hay hơi lớn tuổi hơn mình.2.
Chị bạn, chị em bạn gái lớn tuổi hơn mình.
5
điển Từ tiếng Việt (1967)
chị. dt., đt. 1. Người con gái sinh trước mình, cùng cha và cùng mẹ hoặc chỉ cùng cha hay cùng mẹ với mình. 2. Người con gái con vợ cả của cha mình khi mình là con vợ sau, vợ lẽ. 3. Con gái bác mình. 4. Từ dùng để gọi chị mình, để tự xưng với em mình, để cha mẹ chồng gọi con dâu. 5. Từ người phụ nữ dùng để tự xưng với người đáng tuổi em mình. 6. Từ chỉ người bạn gái, một người phụ nữ ngang hàng, một người phụ nữ còn trẻ. 7.
Lớn hơn một tí.
34
Việt Nam
6
điển
tự (1970)
Chị. 1. dt. Vai và tiếng gọi người con gái cùng cha mẹ mà sinh trước mình. 2. (R) Vai và tiếng gọi những người đàn bà dính-
dáng xa gần với mình mà vào hàng chị mình. 3. Tiếng gọi
người đàn-bà quen hoặc không, xuýt-xoát tuổi với mình. 4.
Tiếng người gái hoặc đàn-bà tự-xưng với người nhỏ tuổi hơn.
Từ
điển
7
tiếng Việt
chị. dt. 1. Người phụ nữ cùng một thế hệ trong gia đình, trong họ,
(2012)
nhưng thuộc hàng trên (sinh trước, là con nhà bác, v.v.),
trong quan hệ với em của mình (có thể dùng để xưng gọi). 2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người phụ nữ còn trẻ, hay là dùng
để gọi người phụ nữ cùng tuổi hoặc vai chị mình; hoặc người
phụ nữ thường là còn trẻ dùng để tự xưng một cách thân mật
khi nói với người vai em mình. 3. Từ dùng để gọi người phụ
nữ thuộc thế hệ sau mình (như cha mẹ gọi con dâu hoặc con
gái đã trưởng thành, v.v.), với ý coi trọng (gọi theo cách gọi
của những con còn nhỏ tuổi của mình).
Bảng 1.13: Định nghĩa mục từ “em” trong các Từ điển tiếng Việt
STT TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
Em. n. tiếng con một nhà kêu nhau, lớn là anh chị, nhỏ là em
1. Đại Nam quấc âm tự
út, chẳng kỳ gái trai; cũng là tiếng gọi người tuổi nhỏ,
vị (1895)
vai nhỏ; chồng kêu vợ cũng bằng em.
2. Việt Nam tự điển (1931)
em. I. Con trai, con gái cùng một cha mẹ nhưng sinh sau, hay là
con vợ lẽ đối với con vợ cả. II. Trong một họ, dù nội dù ngoại cùng một hàng mà là bề dưới thì gọi là em. Em họ. III. Tiếng chung của người lớn gọi người nhỏ, coi như em mình. Em ơi, em làm hộ anh việc này. IV. Tiếng người đàn-bà tự xưng khi nói chuyện. Mai em xin đến chơi hầu chị.
3. Tự
điển em.
35
Việt Nam
1. Tiếng chỉ chung em ruột, em họ, em dâu, em rể, em vợ,
thông
phổ (1951)
em chồng. 2. Tiếng chỉ những người trực-tiếp hay gián-tiếp coi như
những người kể trên.
đàn ông thường gọi vợ bằng em; nhiều người quen gọi
những người nhỏ tuổi hơn mình bằng em. 3. ngh. tl. Em ruột.
4. Việt Nam tân tự điển
em. dt. I. 1. Con trai hay con gái cùng cha mẹ (hay cùng cha khác
(1952)
mẹ, cùng mẹ khác cha), sinh sau. 2. Em gái. Em trai. Em
dâu. Em ruột. Em rể. II. Trong một họ, bên nội hay bên ngoại cùng một hàng, bề
dưới thì gọi là em.
III. đgt. Đại danh-từ dùng để gọi người nhỏ hơn mình, hay
người nhỏ xưng với người lớn.
Em đi trước anh sẽ theo sau.
IV. đgt. Tiếng xưng hô của người đàn bà đối với chồng hay
tình nhân.
Khách không ở: lòng em cô-độc quá, Khách ngồi lại cùng
em ! đây gối lả (X.Diệu) Em sợ lang quân em biết được,
Nghi ngờ đến cái tiết-trinh em (H.m.Tử)
5. Từ
điển
tiếng Việt
em. dt. đt. 1. Người con trai hay người con gái sinh sau mình, cùng cha
(1967)
cùng mẹ hoặc chỉ cùng cha hay cùng mẹ với mình.
2. Người con trai hay người con gái con vợ kế hay vợ lẽ của
cha mình khi mình là con vợ cả.
3. Con trai hay con gái của chú, cậu, cô, dì mình. 4. Từ dùng để gọi em mình, để xưng với anh và chị mình, để vợ xưng với chồng, để chồng gọi vợ. 5. Từ dùng để xưng với người đáng tuổi anh hoặc chị mình, để học sinh xưng với thầy giáo và cô giáo, để giáo viên gọi học sinh. 6. Bé hơn :
Buồng cau chị, buồng cau em.
36
6. Việt Nam điển
tự (1970)
em. 1. đgt. Vai, tiếng gọi và tiếng tự-xưng của người sinh sau đối với người sinh trước cùng cha mẹ
Em tôi khát sữa bú tay (CD)
2. Vai, tiếng gọi và tiếng tự-xưng của những người con nhà
chú đối với con nhà bác, hoặc bà-con cô cậu, bạn dì mà thuộc vai nhỏ hơn
Em nhà chú, em cô cậu, em bạn dì 3. Tiếng gọi và tiếng tự-xưng người bạn nhỏ tuổi hơn hoặc vợ đối với chồng
Em bạn; Em là con gái Phụng-thiên, Bán rau mua bút mua
nghiên cho chồng; Lạy trời phò-hộ cho em, Cho em chóng
lớn em lên cõi già (CD); Đàn em, em út
4. Tiếng người lớn gọi người nhỏ cách thân-mật
Em làm ơn mở giùm cửa qua vô
5. Vai, tiếng gọi và tiếng tự-xưng của con vợ đối với con
chồng trong gia-đình chắp-nối.
7. Từ
điển
tiếng Việt
em. dt. 1. Người cùng một thế hệ trong gia đình, trong họ, nhưng
(2012)
thuộc hàng dưới (sinh sau, là con nhà chú, v.v.; có thể dùng
để xưng gọi).
Em ruột. Em họ. Em dâu. Chị ngã em nâng (tng.).
2. Từ dùng để chỉ hoặc gọi người còn nhỏ tuổi, hay dùng để
gọi người vai em mình một cách thân mật hoặc để tự xưng
một cách thân mật với người vai anh, chị mình.
Em học sinh. Các em thiếu nhi quàng khăn đỏ. 3. Từ người đàn ông dùng để gọi vợ, người yêu, hoặc người phụ nữ dùng để tự xưng khi nói với chồng, người yêu.
37
PHỤ LỤC 2
BẢNG ĐỊNH NGHĨA MỤC TỪ DANH TỪ MANG THUỘC TÍNH NGHĨA
TÍNH TỪ TRONG CÁC TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT
STT
MỤC TỪ
1.
anh hùng
2.
bình dân
3.
cách mạng
4.
phúc
5.
quê
6.
sách vở
7.
bụi
8.
gan
Bảng 2.1: Định nghĩa mục từ “anh hùng” trong các Từ điển tiếng Việt
STT
TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
Anh hùng. Kẻ tài lực phi thường
1. Đại Nam quấc vị
âm
tự
(1895)
2. Việt Nam tự điển (1931)
anh-hùng. Bậc tài giỏi và có chí to hơn người.
3. Tự điển Việt phổ
Nam
anh-hùng. Kẻ xuất-chúng, có tài đức hơn người.
thông (1951)
4. Việt Nam tân tự điển (1952)
anh hùng. dt. 1. Bậc xuất-chúng có chí-khí hơn người. 2. Anh-hùng
mạt-lộ. Anh hùng hết đường vùng vẫy, tung hoành. 3.
Anh hùng rơm. Anh-hùng ở tiếng mà thôi.
5. Từ điển tiếng Việt (1967)
anh hùng. I. dt. 1. Người có tài năng đức độ rất cao, mà việc làm có ảnh hưởng đến sự tiến hoá của xã hội. 2. Người có nhiều thành tích về chiến đấu, về sản xuất, được nhân dân và chính phủ công nhận. II. tt. Dũng cảm đến cao độ.
6. Việt Nam tự anh hùng. dt.
38
điển (1970)
Bậc tài giỏi xuất-chúng.
7. Từ điển tiếng Việt (2012)
anh hùng. I. dt. 1. Người lập nên công trạng đặc biệt lớn lao đối
với nhân dân, đất nước. 2. Nhân vật thần thoại có tài
năng và khí phách lớn, làm nên những việc phi thường.
3. Danh hiệu vinh dự cao nhất của nhà nước tặng thưởng cho người hoặc đơn vị có thành tích và cống
hiến đặc biệt xuất sắc trong lao động hoặc chiến đấu. II.
tt. Có tính chất của người anh hùng.
Bảng 2.2: Định nghĩa mục từ “bình dân” trong các Từ điển tiếng Việt
STT
TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
1. Đại
Nam
Bình dân. Dân làm ăn, không có danh phận gì với Nhà-
quấc âm tự vị
nước.
(1895)
2. Việt Nam tự điển (1931)
bình-dân. Người dân thường, không có danh-phận gì. [thuộc
bình1, IV]
3. Tự điển Việt phổ
Nam
bình-dân. Dân thường: Chính-phủ bình-dân.
thông (1951)
4. Việt Nam tự điển
tân
bình-dân. dt. 1. Dân thường, dân-chúng.
(1952)
2. Bình-dân học vụ. Đảng bình-dân: Đảng gồm có dân
cày và thợ thuyền ở Mỹ (Năm 1892): Đảng có xu-
hướng dân-chúng ở Đức và ý.
5. Từ điển tiếng Việt (1967)
bình dân. I. dt. 1. Những người ở cổ đại La Mã không ở giai cấp quý tộc mà cũng không ở giai cấp nô lệ. 2. Những người dưới chế độ phong kiến gồm có thị dân, công nhân, thợ thủ công và nông dân. 3. Nhân dân lao động, tức công nhân, nông dân, lao động trí óc. II. tt. 1. Phục vụ nhân dân lao động, dùng cho nhân
dân lao động: Quán cơm bình dân. 2. Giản dị và dễ gần:
39
Tính tình bình dân, sát quần chúng.
6. Việt Nam tự điển (1970)
bình-dân. 1. dt. Dân thường, không chức-phận, danh-vọng: Người
bình-dân.
2. tt. Tính-cách thông-thường, bình-thường: Tiếng nói
bình-dân, nếp sống bình-dân.
7. Từ
điển
tiếng
Việt
bình dân. I. dt. 1. Người dân thường (nói khái quát, thường là
(2012)
trong xã hội cũ). Sự đối lập giữa quý tộc và bình dân. 2.
(kng.; dùng phụ sau dt.). Bình dân học vụ (nói tắt). Giáo viên bình dân. Lớp bình dân.
II. tt. 1. Của tầng lớp bình dân, dành riêng cho tầng lớp
bình dân. Văn học bình dân. Quán cơm bình dân. 2.
Bình thường, giản dị, gần gũi với quần chúng. Tác phong bình dân. Cách nói năng rất bình dân.
Bảng 2.3: Định nghĩa mục từ “cách mạng” trong các Từ điển tiếng Việt
STT TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
cách mạng. dt. Cg. Cách mệnh.
1. Từ điển tiếng Việt
1. Cuộc đấu tranh của giai cấp bị áp bức đứng lên lật đổ
(1967)
nền thống trị của giai cấp áp bức, phá vỡ quan hệ sản xuất
cũ, xây dựng một chế độ mới và tiến bộ. 2. Sự phá bỏ tổ
chức cũ xấu xa để dựng nên một hệ thống mới tốt đẹp: Cách mạng văn hoá.
2. Việt Nam
tự điển (1970)
cách-mạng (mệnh). bt. Sửa-đổi chế-độ cũ cho tốt đẹp hơn hoặc thay-thế chế-độ cũ bằng chế-độ mới, người mới với võ-lực.
3.
Từ điển tiếng Việt (2012)
cách mạng. I d. 1 Cuộc biến đổi xã hội - chính trị lớn và căn bản, thực hiện bằng việc lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời, lập nên một xã hội mới, tiến bộ. 2 Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện một cuộc cách mạng xã hội. 3 Quá trình thay đổi lớn và căn bản theo hướng tiến bộ trong một lãnh vực nào đó. 4 (viết hoa). Cách mạng tháng Tám (nói tắt).
II t. Thuộc về cách mạng, có tính chất cách mạng.
40
Bảng 2.4: Định nghĩa mục từ “phúc” trong các Từ điển tiếng Việt
STT
TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
1. Đại Nam
Phúc. c. (Phước).
quấc âm tự vị
(1895)
2. Việt Nam tự điển (1931)
phúc. Điều hay, điều tốt, do việc làm nhân đức mà ra.
Nhà có phúc. Làm phúc. Văn-liệu: Phúc chủ, lộc thầy.
Có phúc, có phần. Phúc đức tại mẫu. Làm phúc phải tội. Phúc chẳng hai, tai chẳng một. Có phúc đẻ con biết
lội, Có tội đẻ con biết trèo. Có phúc lấy được vợ già,
Sạch cửa, sạch nhà lại ngọt cơm canh. Vô phúc lấy phải
trẻ ranh, Nó ăn, nó bỏ tung tành nó đi (C d). Phúc nào đọ được giá này cho ngang (K). Duyên ta mà cũng phúc
trời chi đây (K). Một nhà phúc lộc gồm hai (K). Quyền
hoạ phúc trời tranh mất cả, Món tiện nghi chẳng trả
phần ai (C o). Dẫu vương nạn ấy ắt dành phúc kia (Nh
đ m). Nợ xưa nhẹ lánh, phúc sau dành phần (Nh đ m).
3. Tự điển Việt
Nam phổ
phúc. 1. (h. Phước) Điều hay, điều tốt. có phúc; phúc bất
thông (1951)
trùng lai.
2. (h. Phước) Điều nhân-đức. làm phúc.
3. Bụng. tâm-phúc.
4. Đổ. khuynh-phúc.
5. Trở lại lần nữa. phúc lại cái án cũ. 6. Trả lời. phúc thơ.
phúc. dt.
4. Việt Nam tân tự điển (1952)
1. Điều hay, điều tốt, cũng gọi là phước. Phúc chủ may thầy. Phúc nào đọ được giá nầy cha ngang (Ng.Du) 2. Làm phúc.
5. Từ điển tiếng Việt (1967)
PhúC. 1. dt. Việc tốt lành : Nhà có phúc.
2. tt. May mắn : Phúc cho hắn thoát nạn.
41
6. Việt Nam tự điển (1970)
PHÚC. 1. dt. Cái bụng 2. (R). Nỗi niềm ôm-ấp trong lòng: Tâm-phúc
7.
Từ điển
tiếng Việt
phúc. I. dt. Điều may lớn, điều mang lại những sự tốt lành
(2012)
lớn; trái với hoạ. Con hơn cha là nhà có phúc (tng.) Phúc nhà anh ta còn to lắm (kng.; gặp hoạ, nhưng vẫn
còn may).
II. tt. (kng.; thường dùng trong câu biểu cảm).
May mắn. Thật phúc cho nó, tai qua nạn khỏi. Như vậy
là phúc lắm rồi!
Bảng 2.5: Định nghĩa mục từ “quê” trong các Từ điển tiếng Việt
STT TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
1
Đại Nam
Quê. n. Đất tổ phụ, xứ sở mình.
quấc âm tự
vị (1895)
2 Việt Nam
tự
điển
quê. I. Nơi cỗi rễ của dòng họ nhà mình.
(1931)
Quê cha, đất tổ. Văn-liệu: Quê người đất khách. Một chốn,
đôi quê. Sống quê cha, ma quê chồng. Chim, gà, cá, lợn,
cành cau, Mùa nào thức ấy giữ màu nhà quê (C-d). Sống
nhờ đất khách, thác chôn quê người (K). Ngẩn-ngơ quê khách, gập-ghềnh đất xa (Nh-đ-m). Hồn quê thơ-thẩn như
dường theo ai (H-T). Lòng quê nghĩ một đôi điều ngang-
ngang (K).
II. Mộc-mạc chất-phác. Ăn nói quê. Văn-liệu: Lời quê góp nhặt rông-dài, Mua vui cũng được một vài trống canh (K).
3
Tự điển Việt Nam phổ thông (1951)
quê. 1. Nơi cội rễ của dòng họ nhà mình. quê nội; quê ngoại; quê cha đất tổ; nhớ quê chàng lại tìm đường thăm quê.
2. Nơi đồng ruộng làng mạc, đối với thành-thị.
42
nhà quê; thú quê.
3. Vụng về chất-phác. ăn mặc quê; điệu bộ quê; lời quê chắp nhặt dông dài.
4
Việt Nam
tân tự điển
quê. I. dt.
(1952)
Nơi mình sinh đẻ Quê cha, đất tổ. Hồn quê thơ-thẩn như dường theo ai
(Ng.h.Tự)
II. bt.
Nơi thôn dã
Thú quê. III. Mộc-mạc, chất-phác
Cô ấy còn quê lắm.
5 Từ
điển tiếng Việt
Quê. I. - dt.
(1967)
1. Cg. Quê hương. Nơi gốc rễ của dòng họ mình.
2. Nông thôn: Về quê nghỉ.
II. -
Mộc mạc, thiếu văn vẻ (cũ). Dáng điệu trông quê lắm.
6
Việt Nam
tự
điển
QUÊ. 1. dt. Nơi xa thành-thị:
(1970)
Nhà-quê, thôn-quê.
2. Xứ-sở, nơi cội-rễ ông bà cha mẹ mình:
Sống quê cha, ma quê chồng.
3. Chỗ ở:
Một kiểng hai quê. 4. tt. Thô-kệch, mộc-mạc, kém hiểu biết: Đất quê chớ người không quê; Tới đây lạ xứ lạ người, Trăm bề nhẫn-nhịn, đừng cười tôi quê (CD).
7
Từ điển tiếng Việt (2012)
quê. I. dt. 1. Nơi gia đình, dòng họ đã qua nhiều đời làm ăn sinh
sống, thường đối với mình có sự gắn bó tự nhiên về tình
43
cảm.
Về thăm quê. Quê mẹ. Chính quê ở tỉnh A. Tình quê (tình cảm quê hương).
2. Nông thôn, nơi có đồng ruộng làng mạc.
Ở quê ra tỉnh. Dân quê.
II. tt. Có tính chất quá mộc mạc, kém vẻ thanh lịch.
Cách ăn mặc còn hơi quê.
Bảng 2.6: Định nghĩa mục từ “sách vở” trong các Từ điển tiếng Việt
ĐỊNH NGHĨA
STT TỪ ĐIỂN
Sách vở. Sách là cuốn sách, vở là bài vở, đồ biên chép mà
học, cũng là tiếng đôi chỉ nghĩa là sách.
1. Đại Nam quấc âm tự
vị (1895)
2. Việt Nam
sách-vở. Sách và vở, thường nói chung về sách.
tự điển
(1931)
3.
Tự điển
Việt Nam
sách vở. 1. Quyển sách và quyển vở; chỉ chung các sách.
phổ thông
2. ngb. Sự học-hành.
(1951)
4. Việt Nam tân tự điển
sách-vở. dt. Nói chung về sách. Kiểm-duyệt sách vở.
(1952)
5. Từ điển tiếng Việt (1967)
Sách Vở. 1. dt. Sách và vở nói chung. 2. tt. Chỉ lệ thuộc vào tri thức trong sách vở và không sát thực tế : Con người sách vở ; Tri thức sách vở.
6. Việt Nam
tự điển (1970)
sách vở. 1. dt. Sách và tập vở 2. (thth) Tiếng gọi chung những sách: Tủ đựng sách vở.
44
7.
Từ điển
tiếng Việt (2012)
sách vở. I. dt. Sách và vở; tài liệu học tập, nghiên cứu (nói khái quát). Chuẩn bị sách vở cho ngày khai trường. Vùi đầu
trong sách vở.
II. tt. Lệ thuộc vào sách vở, thoát li thực tế. Kiến thức sách
vở. Con người sách vở.
Bảng 2.7: Định nghĩa mục từ “bụi” trong các Từ điển tiếng Việt
STT TỪ ĐIỂN
ĐỊNH NGHĨA
1. Đại Nam quấc âm tự
Bụi. n. Đất bủn hay là vật nát ra như bột hay bay theo gió. Chòm cây cỏ lúp xúp.
vị (1895)
2. Việt Nam
tự điển
bụi. 1. Những chất nhỏ lăn-tăn bay lẫn vào trong không-khí:
(1931)
Dặm hồng bụi cuốn chinh-an (K). Bụi nào cho đục được
mình ấy vay (K). Nghĩa bóng là người có tang, không được
quang-quẻ: Người có bụi không đi đến những đám vui
mừng. Nghĩa bóng nữa là giặc-giã: Dẹp yên khói giặc quét thanh bụi Hồ (L-V-T). Thủa trời đất nổi cơn gió bụi (Ch-
ph). Văn-liệu: Còn chen vào đám bụi trần làm chi (Q-â). Cỏ
cây chẳng chút bụi trần (thơ Thiên-thai).
2. Đám cây cỏ mọc rậm:
Bụi tre. Bụi gai. Bụi xương-rồng v.v. Văn-liệu: Cuốc trong
bụi rậm nhảy ra chia phần (C-d). Giếng sâu bụi rậm trước
sau tìm quàng (K). Lạy ông tôi ở bụi này (T-ng). Ném đất
bụi tre (T-ng). Suýt chó vào bụi rậm (T-ng). Toan tìm khe suối bụi bờ nghỉ chân (L-V-T).
45
3.
Tự điển Việt Nam phổ thông (1951)
bụi 1. Chòm cây rậm rạp. Bụi tre. Bụi gai. 2. Những mảnh vụn rất nhỏ của mọi vật, bám vào không cứ là đồ gì và bay lên trên không nhiều hay ít tuỳ theo không khí chuyển động mạnh hay yếu. Gi ũ bụi. Phủi bụi. 3. ngb. Tang. Có bụi.
4. Việt Nam tân tự điển (1952)
5. Từ điển tiếng Việt (1967)
6. Việt Nam
tự điển (1970)
7.
Từ điển tiếng Việt (2012)
bụi A. dt. I. Những chất nhỏ mịn lăn tăn bay lẫn vào trong không khí. Thuở trời đất nổi cơn gió bụi. II. Ngb. Giặc giã. Dẹp yên khói giặc quét thanh bụi hồ (Đ. Chiểu). bụi. dt. 1. Những hạt rất nhỏ do các chất rắn vụn ra bay trong không khí hoặc phủ trên mặt đường, đồ đạc. 2. Những điều nhơ bẩn: Như nàng lấy hiếu làm trinh, Bụi nào cho đục được mình ấy vay (K). 3. Nhỏ vụn như bụi: Mưa bụi. bụi 1. dt. Vật thể nhỏ bay trong không khí hoặc ở dưới đất bị gió cuốn bay lên. Gió bụi. Phủi bụi. Quét bụi. 2. (B). Sự dày dạn kinh nghiệm trên đường đời. Nước non dường ấy tình dường ấy, Xe ngựa bao nhiêu, bụi bấy nhiêu. 3. (R). Tang tóc. Có bụi. bụi. I. dt. 1. Vụn nhỏ li ti của chất rắn có thể lơ lửng trong không khí hoặc bám trên bề mặt các vật. Quần áo đầy bụi. Bụi than. 2. Dạng hạt nhỏ như hạt bụi (nói về nước). Bụi nước. Mưa bụi lất phất. 3. (phg.; kết hợp hạn chế). Tang. Có bụi. 4. (kng.). Bụi đời (nói tắt). Bỏ nhà đi bụi, lang thang chán lại về. II. tt. (kng.). Có dáng vẻ buông thả, không theo khuôn khổ thông thường, trông giống như của những người đi bụi. Tóc cắt trông rất bụi. Đeo chiếc ba lô bụi.
46
Bảng 2.8: Định nghĩa mục từ “gan” trong các Từ điển tiếng Việt
ĐỊNH NGHĨA
Gan. c. Lá gan; mạnh mẽ, dạn dĩ.
STT TỪ ĐIỂN 1. Đại Nam quấc âm tự vị (1895) 2. Việt Nam
tự điển (1931)
3.
Tự điển Việt Nam phổ thông (1951)
4. Việt Nam tân tự điển (1952)
5. Từ điển tiếng Việt (1967)
gan. Một bộ-phận trong ngũ-tạng. Buồng gan. Nghĩa bóng: bạo dạn: Dạn dày cho biết gan liền tướng-quân (K). Văn-liệu: Gan vàng, dạ sắt. Gan già ma mọi. Gan bằng gan cóc tía. Có gan ăn cướp, có gan chịu đòn. Bống có gan bống, bớp có gan bớp. Đá vẫn trơ gan cùng tuế-nguyệt (thơ cổ). Dẫu rằng đá cũng nát gan lọ người (K). Như nung gan sắt, như bào lòng son (K). Kiên-trinh chẳng phải gan vừa (K). Gan chẳng đá khôn đường khá chuyển (C-o). Dễ đem gan óc đền nghì trời mây (K). gan. 1. Tạng-phủ tiết ra mật. buồng gan. 2. ngb. Can-đảm: non gan; có gan; cả gan. 3. Phần trũng ở giữa lòng bàn tay hay lòng bàn chân. gan bàn tay; gan bàn chân. gan. dt. I. Một bộ-phận trong ngũ tạng, nằm bên phải bao tử Bịnh rét hay làm đau gan. II. Lòng dạ Đá vẩn trơ gan cùng tuế nguyệt (Th.Quan) Gan chẳng đá, khôn đường khó chuyển (Ng.gia.Thiều) III. bt. 1. Bạo dạn Anh ấy gan lắm. Có phước làm quan có gan làm giàu (T.ng) 2. Non gan. Già gan, to gan, can đảm. GAN. I. dt. 1. Một bộ phận trong bộ máy tiêu hóa có nhiều chức năng, chức năng chính là tiết ra mật để tiêu chất mỡ. 2. Mặt trong hay dưới (của bàn tay, bàn chân).
47
6. Việt Nam
tự điển (1970)
7.
Từ điển tiếng Việt (2012)
II. tt. 1. Dám làm những việc nguy hiểm mà người bình thường e ngại : Phải gan lắm mới xông vào đồn địch . Gan cóc tía. Quá bạo dạn. 2. Có sức bền bỉ trước những khó khăn gian lao : Gan chịu đòn. Gan liền tướng quân. Gan góc vô cùng. Gan vàng dạ sắt. Lòng chung thủy không thay đổi trước mọi khó khăn. gan. 1. dt. (cơth.): C/g. Can, bộ-phận lọc máu và tiết ra mật, phía phải bao-tử Buồng gan, lá gan, đau gan 2. tt. Dạn, không sợ Cả gan, căm-gan, lớn gan, to gan, xung-gan; Có phước làm quan có gan làm giàu (tng.). 3. (R) dt. Lòng, phần trũng giữa bàn tay bàn chân gan bàn chân, gan bàn tay. gan. I. dt. 1. Bộ phận của bộ máy tiêu hoá có chức năng chính là tiết mật để tiêu hoá chất mỡ. Buồng gan. Viêm gan. Món gan lợn. 2. (thường dùng trong một số tổ hợp, sau đgt., tt.). Gan của con người, coi là biểu tượng của tinh thần, ý chí mạnh mẽ, bền bỉ, không lùi bước trước khó khăn. Bền gan. Thi gan đọ sức. Bé người mà to gan. 3. Gan của con người, coi là biểu tượng của tinh thần dám đương đầu với nguy hiểm, dám chịu đựng. Có gan vào hang bắt cọp. Có gan chịu đòn. Non gan*. Nhát gan*. Miệng hùm gan sứa*. II. tt. Tỏ ra có gan, dám đương đầu với nguy hiểm hoặc dám chịu đựng. Nó gan lắm, súng kề tai cũng không sợ. Thằng bé chịu đòn rất gan.
48
PHỤ LỤC 3: MỤC TỪ CHUYỂN BIẾN NGHĨA DANH TỪ
MANG THUỘC TÍNH NGHĨA TÍNH TỪ TRONG
TỪ ĐIỂN TIẾNG VIỆT CỦA HOÀNG PHÊ
STT
d-t
1. ác ôn
I d. Kẻ tham gia nguỵ quyền có nhiều tội ác với nhân dân.
II t. (kng) Có nhiều hành động tàn ác, dã man.
2. âm tần
I d. Tần số âm thanh.
II t Có tần số cỡ tần số âm thanh.
3. âm1
I d. 1 Một trong hai nguyên cơ bản của trời đất. 2 (vch., hoặc chm). Từ
dùng để chỉ một trong hai mặt đối lập nhau (thường coi là mặt tiêu cực; mặt
kia là dương), như đêm (đối lập với ngày), mặt trăng (đối lập với mặt trời),
nữ (đối lập với nam), chết (đối lập với sống), ngửa (đối lập với sấp), v.v. II t. (chm). 1 (Sự kiện) mang tính chất tĩnh, lạnh, hay (sự vật) thuộc về nữ
tính hoặc về huyết dịch, theo quan niệm của đông y. 2 Bé hơn số không.
4. ân tình
I d. Tình cảm thắm thiết do có ơn sâu đối với nhau.
II t. Đầy ân tình hoặc đầy tình cảm thắm thiết, nói chung.
5. ánh
I d. 1 Những tia sáng do một vật phát ra hoặc phản chiếu lại (nói tổng quát.
2 (chm). Mảng ánh sáng có màu sắc.
II t. Có nhiều tia sáng phản chiếu lóng lánh.
6. anh hùng
I d. 1. Người lập nên công trạng lớn lao đối với nhân dân, đất nước. 2 Nhân vật thần thoại có tài năng và khí phách lớn, làm nên những việc phi thường. 3 Danh hiệu vinh dự cao nhất của nhà nước tặng thưởng cho người hoặc đơn vị có thành tích và cống hiến đặc biệt xuất sắc trong lao động hoặc chiến đấu. II t. Có tính chất của người anh hùng.
7. anh linh
49
I d. Linh hồn cao đẹp, thiêng liêng (của người chết).
II t. (trtr). Như linh thiêng.
8. bã
I d. Phần xác còn lại sau khi đã lấy hết chất nước cốt.
II t. 1 Rời, nát và nhạt nhẽo như chỉ là cái bã còn lại. 2 Mệt mỏi đến mức
có cảm giác như chân tay rã rời, không còn gắng gượng để hoạt động bình thường được.
9. ba bị
I d. Tên gọi một hình người quái dị bịa ra để doạ trẻ con.
II t. (kng). 1 Xấu xí, tồi tàn. 2 Thiếu nhân cách, lăng nhăng, chẳng ra gì.
10. ba rọi
I d. Ba chỉ.
II t. (ph). 1 Nửa đùa nửa thật, có ý xỏ xiên. 2 Pha tạp một cách lố lăng.
11. bác học
I d. Người học rộng, hiểu biết sâu về một hay nhiều ngành khoa học.
II t. Theo lối của nhà bác học; có tính chất khó hiểu, không bình dân.
12. bề thế
I d. 1 Quy mô, phạm vi rộng lớn. 2 (cũ; id). Thế lực do địa vị mà có.
II t. Có bề thế.
13. bệnh
I d. 1 Trạng thái cơ thể hoặc bộ phận cơ thể hoạt động không bình thường.
2 Trạng thái hư hỏng bộ phận làm cho máy móc hoạt động không bình
thường. 3 Thói xấu hoặc khuyết điểm về tư tưởng làm cho có những hành
động đáng chê trách hoặc gây hại.
II t. (ph). ốm.
14. bệnh hoạn
I d. Trạng thái bị đau đớn, bệnh tật (nói khái quát). II t. Đau ốm, không khoẻ mạnh.
15. biệt tài
I d. Tài năng đặc biệt, ít người có. II t. có biệt tài.
16. bình dân
I d. 1 Người dân thường (nói khái quát, thường là trong xã hội cũ). 2 (kng;
dùng phụ sau d.). Bình dân học vụ (nói tắt).
50
II t. 1 Của tầng lớp bình dân dành riêng cho tầng lớp bình dân. 2 Bình
thường, giản dị, gần gũi với quần chúng.
17. bộ phận
I d. Phần của một chỉnh thể, trong quan hệ với chỉnh thể.
II t. Có tính chất bộ phận.
18. bợm
I d. 1 (kng; dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Kẻ sành sỏi về ăn chơi. 2
Kẻ chuyên lừa bịp, trôm cắp, có nhiều mánh khoé.
II t. (kng). Sành sỏi và khôn khéo, có nhiều mánh khoé táo tợn.
19. bợm bãi
I d. (id). Kẻ chuyên lừa bịp; bợm (nói khái quát).
II t. Có nhiều mánh khoé lừa bịp (nói khái quát).
20. bợn
I d. Cái ít nhiều làm cho bẩn đi, làm cho vẩn đục.
II t. 1 Có chút gì làm cho bẩn đi. 2 (Tâm trí) có chút gì làm cho vướng víu,
bận bịu.
21. bóng1
I d. 1 Vùng không được ánh sáng chiếu tới do bị một vật che khuất hoặc
hình của vật ấy trên nền. 2 (dùng sau đg; kết hợp hạn chế). Bóng của người
có thế lực, dùng để ví sự che chở. 3 (chm). Mảng sáng tối trên bề mặt của
vật do sự tác dụng của ánh sáng. 4 (kết hợp hạn chế). ánh, ánh sáng. 5 Hình
ảnh do phản chiếu mà có. 6 Hình dạng không rõ nét hoặc thấp thoáng. 7
(thường dùng sau đg., trong một số tổ hợp). Hình ảnh gián tiếp hoặc vu vơ. 8 (ph.) ảnh.
II t. Có bề mặt nhẵn tới mức phản chiếu được ánh sáng gần như mặt gương.
22. bonsevich
I d. Người Đảng viên Đảng cộng sản Nga; người cộng sản theo chủ nghĩa bonsevich. II t. Theo chủ nghĩa bonsevich, theo chủ nghiã Marx - Lênin.
23. bứa
I d. Cây to cùng họ với măng cụt, cành ngang, quả màu vàng, quanh hạt có cùi ngọt ăn được. II t. (kng; id) Ngang bướng, không kể gì phải trái.
24. bụi
51
I d. 1 Vụn nhỏ li ti của chất rắn có thể lơ lửng trên không khí hoặc bám vào
bề mặt các vật. 2 Dạng hạt nhỏ như hạt bụi (nói về nước). 3 (ph; kết hợp hạn chế). Tang. 4 (kng). Bụi đời (nói tắt).
II t. (kng). Có dáng vẻ buông thả, không theo khuôn khổ thông thường,
trông giống như của những người đi bụi.
25. cá thể
I d. Vật riêng lẻ, phân biệt với chủng loại (thường nói về sinh vật).
II t. Riêng lẻ từng người, không phải tập thể.
26. cà tong
I d. Hươu có sừng khuỳnh rộng và dẹp. II t. (ph; thường nói cà tong, cà teo) Cao và gầy, mảnh khảnh.
27. cách mạng
I d. 1 Cuộc biến đổi xã hội - chính trị lớn và căn bản, thực hiện bằng việc
lật đổ một chế độ xã hội lỗi thời, lập nên một xã hội mới, tiến bộ. 2 Cuộc
đấu tranh nhằm thực hiện một cuộc cách mạng xã hội. 3 Quá trình thay đổi
lớn và căn bản theo hướng tiến bộ trong một lãnh vực nào đó. 4 (viết hoa).
Cách mạng tháng Tám (nói tắt). II t. Thuộc về cách mạng, có tính chất cách mạng.
28. cái1
I d. 1 (cũ). Mẹ. 2 (kng; dùng trước tên người. từ dùng để gọi người con gái ngang hàng hoặc hàng dưới một cách thân mật. 3 Giống để gây ra mọt chất
chua. 4 vai chủ một ván bài, mọtt đám bạc hay một bát họ. 5 Phần chất đặc,
thường là phần chính trong món ăn có nước.
II t. 1 (Động vật) thuộc về giống có thể đẻ con hoặc đẻ trứng. 2 (Hoa)
không có nhị đực, chỉ có nhị cái, hoặc cây chỉ có hoa như thế. 3 (dùmh phụ
sau d.; trong một số tổ hợp). Thuộc loại to, thường là chính so với những cái khác, loại phụ hoặc nhỏ hơn.
29. can trường
I d. (vch; id) Gan và ruột; chỉ nỗi lòng, tâm tình. II t. (vch; id) Gan góc, không sợ nguy hiểm.
30. cáo
I d. 1 Thú ăn thịt, sống ở rừng, gần với chó nhưng chân thấp, tai to và mõm nhọn, rất tinh khôn.
II t. (kng). Tinh ranh, gian giảo.
52
31. cao dày
I d. (cũ; vch). Trời cao và đất dày; dùng để chỉ đấng thiêng liêng theo quan niệm thời xưa.
II t. (id). (Công ơn, công đức) lớn lao như trời đất.
32. cao độ
I d. 1 (chm.). Độ cao (thường nói về âm thanh). 2 (không dùng làm chủ ngữ). Mức độ cao.
II t. ở mức độ cao.
33. cao kiến
I d. (id). ý kiến hay và sáng suốt hơn hẳn những ý kiến thông thường. II t. Có nhiều ý kiến hay và sáng suốt, có khả năng nhìn xa thấy trước hơn
hẳn người thường.
34. cao su
I d. 1 Cây to cùng họ với thầu dầu, thân có nhiều nhựa mủ. 2 Hợp chất dễ
đàn hồi và dai, chế từ mủ cây cao su hoặc bằng phương pháp tổng hợp.
II t. (kng). Có thể co giãn, không cố định.
35. cáu
I d. Chất bụi bẩn bám vào da hoặc chất cặn bẩn bám vào vật.
II t. Có cáu bám vào.
36. cầu1
I d. 1 Đồ chơi bằng vải, hình tròn như quả cam, dùng để tung bắt. 2 Đồ
chơi gồm một đế nhỏ hình tròn, trên mặt cắm lông chim hoặc túm giấy
mỏng, dùng để đá chuyền qua lại cho nhau hoặc để đánh qua lại bằng vợt. II t. (chm). Thuộc về hình cầu hay mặt cầu.
37. chai1
I d Chỗ da dày và cứng lại do bị cọ sát nhiều. II t. 1 (Da) đã trở thành dày và cứng do bị cọ sát nhiều. 2 (Đất) đã trở nên cứng, không tơi xốp, khó cày bừa. 3 Đã trở thành trơ lì vì đã quá quen.
38. chân tình
I d. Lòng chân thành. II t. Đầy chân tình.
39. chi tiết
I d. 1 Phần rất nhỏ, điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng. 2
Thành phần riêng lẻ hoặc tổ hợp đơn giản nhất của chúng, có thể tháo lắp
53
được như đinh, ốc, trục bánh xe... trong máy móc, thiết bị.
II t. Có đầy đủ các điểm nhỏ nhất; tỉ mỉ.
40. chiếc
I d. 1 Từ dùng để từng đơn vị một số đồ vật vốn dùng thành đôi mà tách lẻ
ra. 2 Từ dùng để chỉ từng đơn vị thuộc một số vật vô sinh.
II t. (hay d.). (vch; dùng hạn chế trong một vài tổ hợp). Không còn thành đôi, lẻ loi.
41. chiến lược
I d. 1 cn chiến lược quân sự. Phương châm và biện pháp quân sự có tính
chất toàn cục, được vận dụng trong suốt cuộc chiến tranh nhằm thực hiện mục đích quân sự, chính trị, kinh tế nhất định. 2 cn chiến lược quân sự Bộ
phận chủ đạo của nghệ thuật quân sự, nghiên cứu quy luật, phương pháp
chuẩn bị và tiến hành các hoạt động quân sự có tính chất toàn cục trong
chiến tranh và trong khởi nghĩa. 3 Phương châm và kế hoạchcó tính chất toàn cục, xác định mục tiêu chủ yếu và sự sắp xếp lực lượng trong suốt cả
một thời kì của cuộc đấu tranh xã hội - chính trị.
II t. Thuộc về chiến lược, phục vụ cho chiến lược hoặc dùng riêng cho
chiến tranh.
42. chiến thuật
I d. 1 Cách đánh trong từng trận. 2 Bộ phận của nghệ thuật quân sự, nghiên
cứu quy luật, phương pháp chuẩn bị và tiến hành chiến đấu. 3 Cách xử các
tình huống trong thi đấu thể thao, để đạt thành tích cao nhất. 4 (cũ). Sách
lược.
II t. Thuộc về chiến thuật, phục vụ chiến thuật.
43. chính nghĩa
I d. Điều chính đáng, cao cả, hợp đạo . II t. Hợp với chính nghĩa, vì chính nghĩa.
44. chủ
I d. 1 Người có quyền sở hữu về tài sản nào đó. 2 Người có quyền quản , xử toàn bộ các công việc theo lợi ích của mình. 3 Kẻ thuê người làm, trong quan hệ với người làm thuê. 4 Người tiếp khách trong quan hệ với khách. II t. (kết hợp hạn chế). Chính, chủ yếu.
45. chùa
I d. Công trình được xây cất lên làm nơi thờ Phật.
54
II t. (kng). Thuộc về nhà chùa, của chung, không phải của mình, cho mình
(nên không biết tiếc, không có trách nhiệm).
46. chúa.
I. dt.;(cũ).1. (cũ). Chủ. Vắng chúa nhà gà bới bếp (tng.). 2. Người có quyền
lực cao nhất trong một miền hay trong một nước có vua thời phong kiến.
Chúa phong kiến. Chúa Trịnh. 3. (cũ; dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Người nắm quyền cai quản. Chúa ngục. Chúa đảo. 4. (thường viết hoa).
Đấng tạo ra trời đất, làm chủ muôn loài, theo Công giáo. Cầu Chúa. 5. Con
cái, chuyên việc sinh đẻ trong một số loài sâu bọ sống thành đàn. Tan tác
như ong mất chúa.
II. tt. (kng.). Rất giỏi, rất tài về một việc gì (thường là việc đáng chê; hàm ý mỉa mai).
Về khoa nói thì chúa lắm.
47. chuẩn1
I d. 1 Cái được chọn làm căn cứ để đối chiếu, để hướng theo đó mà làm cho
đúng. 2 (chm). Vật được chọn làm mẫu để thể hiện một đơn vị đo lường. 3
Cái được công nhận là đúng theo quy định hoặc theo thói quen xã hội.
II t. Đúng chuẩn.
48. chưởng
I d. 1 (thgt). Đòn mạnh đánh bằng bàn tay. 2 Tiểu thuyết chưởng (nói tắt).
II t. (Truyện, phim) thuộc loại truyện mô tả những chuyện tưởng tượng
đánh nhau rất li kì bằng phép thuật phóng ra từ lòng bàn tay những sức
mạnh ghê gớm.
49. chuyên môn I d. Lĩnh vực kiến thức riêng của một ngành khoa học. II t.
(kng). Chỉ làm hoặc hầu như chỉ làm một việc gì.
50. chuyên nghiệp
I d. (dùng phụ cho d. trong một số tổ hợp). Nghề nghiệp chuyên môn. II t. Chuyên làm một nghề, lấy một việc, một hoạt động nào đó làm nghề chuyên môn; phân biệt với nghiệp dư.
51. cỡ
I d. 1 Loại, phân theo lớn, nhỏ. 2 Độ lớn, mức thông thường, theo ước định. 3 Khoảng cách dùng làm chuẩn; cữ. 4 (kng; hoặc ph.; dùng trước d. số lượng). Độ, chừng.
II t. (kng). Có cỡ lớn, có tầm cỡ đáng kể.
55
52. cơ bản
I d. (id). Cái làm cơ sở cho những cái khác trong toàn bộ hệ thống. II t. Có tác dụng làm cơ sở cho những cái khác trong toàn bộ hệ thống.
53. cơ chỉ
I d. (cũ, id). Nền móng của nhà cửa.
II t. Biết tính toán chắc chắn, cẩn trọng trong việc làm ăn.
54. cơ giới
I d. 1 Công cụ bằng máy dùng trong sản xuất (nói khái quát). 2 Binh chủng
của lục quân, trang bị cơ động và tác chiến bằng xe tăng, xe bọc thép...
II t. 1 Được trang bị hoặc hoạt động bằng máy móc. 2 (cũ). Máy móc.
55. cơ học
I d. Môn học nghiên cứu sự chuyển động và sự cân bằng của các vật thể.
II t. Thuộc về cơ học.
56. cơ hội
I d. Hoàn cảnh thuận tiện gặp được để làm việc gì thường mong ước.
II t. Cơ hội chủ nghĩa (nói tắt).
57. cóc1
I d. Động vật thuộc loài ếch nhái, mõm ngắn, da xù xì, thường ở cạn, di
chuyển bằng cách nhảy.
II t. (kng; kết hợp hạn chế sau d., trong một vài tổ hợp). Nhỏ và không cố
định ở một chỗ, có thể thay đổi địa điểm nhanh, ví như lối nhảy của con
cóc.
58. cộng đồng
I d. (dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Toàn thể những người cùng sống,
có những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối tronmg sinh hoạt xã hội.
II t. (id). Cùng chung với nhau giữa một số người.
59. công hiệu
I d. Kết quả, tác dụng thấy rõ ngay. II t. Có công hiệu.
60. công phu
I d. Sức lao động và thì giờ, thường là nhiều, bỏ ra để làm việc gì. II t. Rất kỹ lưỡng, chu đáo, mất nhiều công sức.
61. cộng sản nguyên thuỷ I d. Chế độ cộng sản nguyên thuỷ. II t. Thuộc về
chế độ cộng sản nguyên thuỷ.
56
62. công thần
I d. Quan có công lớn đối với nhà nước phong kiến. II t. Có tư tưởng ỷ vào công lao mà sinh ra kiêu ngạo và đòi hỏi đãi ngộ
quá đáng.
63. công thức
I d. 1 (chm). Nhóm kí hiệu diễn tả gọn một sự kiện tổng quát, một quy tắc, nguyên hoặc khái niệm. 2 (chm). Nhóm kí hiệu hoá học biểu diễn thành
phần phân tử của một chất. 3 Tập hợp những điều (phương pháp, quy tắc...)
đã được định sẵn, cần và phải làm theo để làm một việc nào đó đạt kết quả
mong muốn. 4 Tổ hợp dùng từ không thay đổi theo thói quen hoặc theo quy
ước, trong những dịp nhất định. II t. Có tính chất dập khuôn, máy móc.
64. cừ khôi
I d. (cũ; id). Người cầm đầu một phe đảng, thủ lĩnh. II t. (kng). Tài giỏi hơn người.
65. cửa quyền
I d. (cũ; id). Nơi có quyền thế thời trước, trong quan hệ với những người dưới quyền.
II t. (Thái độ) tự cho là mình nắm quyền trong tay, tỏ ra hách dịch với ai có
việc gì cần đến mình.
66. cục bộ
I d. (id). Một bộ phận nào đó của toàn bộ tình hình.
II t. 1 Thuộc về một bộ phận của toàn bộ tình hình; có tính chất bộ phận. 2
(Tư tưởng) chỉ chú ý đến bộ phận mình mà không quan tâm đến toàn cục.
67. cùng cực
I d. (kết hợp hạn chế). Mức tột cùng (thường hàm ý không hay).
II t. Nghèo túng và khổ cực đến mức không còn có thể hơn.
68. cùng1
I d. (kết hợp hạn chế). Chỗ hoặc lúc đến đấy là hết giới hạn của cái gì. II t. 1 (Chỗ hoặc lúc) đến đấy là hết giới hạn của cái gì. 2 ở tình trạng lâm vào thế không có lối thoát, không còn biết làm sao được nữa. 3 (cũ; hoặc ph). Khắp cả trong giới hạn của cái gì.
69. đa diện
I d. Khối giới hạn bởi một mặt khép kín gồm nhiều đa giác.
57
II t. (id). Có tính chất nhiều mặt.
70. dà1
I d. Cây nhỡ, vỏ màu nâu đỏ, dùng để nhuộm vải, sợi hay để xảm thuyền.
II t. (Màu) nâu đỏ.
71. đá1 I d. 1 Chất rắn cấu tạo nên vỏ trái đất, thường thành từng mảng, từng
hòn. 2 (kng). Nước đá (nói tắt). II t. (thgt). Keo kiệt quá mức.
72. đặc trưng
I d. Nét riêng biệt và tiêu biểu, được xem là dấu hiệu để phân biệt với các
sự vật khác.
II t. (hoặc đg.). Có tính chất riêng biệt và tiêu biểu, làm cho phân biệt được với các sự vật khác.
73. đài các
I d. (cũ). Nền cao và nhà gác; chỉ nơi ở của những người giàu sang, quyền
quý ngày xưa.
II t. Có dáng vẻ, điệu bộ của người giàu sang, quyền quý.
74. đại chúng
I d. (cũ). Quần chúng đông đảo.
II t. 1 (cũ). Của quần chúng đông đảo, giành riêng cho quần chúng đông
đảo. 2 Phù hợp với trình độ của quần chúng đông đảo.
75. đại cương
I d. Những điều chủ yếu (nói tổng quát).
II t. Có tính chất tổng quát.
76. đăm chiêu
I d. (cũ). (Bên phải và bên trái). Bốn bên, cả các phía, nhiều bề.
II t. (hay đg.). Có vẻ đang bận lòng suy nghĩ, băn khoăn nhiều bề.
77. dân gian
I d. Phạm vi đông đảo những người dân thường trong xã hội. II t. Được sáng tạo ra và lưu truyền tự nhiên, rộng rãi trong dân gian.
78. dân sự
I d. 1 (id). Việc có quan hệ đến dân(nói khái quát). 2 (cũ, id). Nhân dân trong quan hệ với người cầm quyền. 3 Việc thuộc về quan hệ tài sản, hoặc hôn nhân, gia đình...do toà án xét xử (nói khái quát); phân biệt với hình sự.
II t. Có tính chất việc của nhân dân; phân biệt với quân sự.
58
79. dẫn xuất
I d. Chất hoá học chế ra từ một chất hoá học khác. II t. (dùng phụ sau d.). Được tạo ra, sinh ra từ một cái khác được coi là gốc.
80. đanh
I d. (ph.) Vật bằng kim loại (hay tre, gỗ) cứng, thường có hình nấm, một
đầu nhọn, dùng để đóng, treo, giữ vật này vào vật khác, hoặc ghép các vật với nhau.
II t. 1 Có khả năng chịu tác động của lực ép mà khó biến dạng, do cấu tạo
bên trong rắn chắc. 2 (Âm thanh rất gọn , vang mà không ngân, gây cảm
giác của một cái gì rắn chắc. 3 Có vẻ cứng rắn, lạnh lùng, không biểu thị
một chút cảm xúc nào.
81. danh giá
I d. Sự coi trọng của xã hội, thường là dựa trên địa vị và biểu hiện bằng những danh dự dành riêng cho (thường nói trong xã hội cũ).
II t. Có danh giá.
82. đào1
I d. Cây ăn quả hoặc làm cảnh, cùng họ với lê, mận, hoa màu đỏ hồng, quả
hình tim, có lông mượt.
II t. (vch). Có màu hồng hoặc màu đỏ tươi.
83. đầu tiên
I d. (hay p.). Lúc đầu (nói về sự việc xảy ra trước nhất, so với những sự
việc tiếp sau).
II t. Trước tất cả những người khác, những cái khác cùng loại.
84. đế quốc
I d. 1 (id). Nước quân chủ do hoàng đế đứng đầu có lãnh thổ rất rộng hoặc
thôn tính nhiều quốc gia hoặc dân tộc khác. 2 Nước thực dân đi xâm lược các nước khác, biến các nước này thành thuộc địa hoặc phụ thuộc. 3 Nước theo chủ nghĩa đế quốc. II t. Đế quốc chủ nghĩa (nói tắt).
85. đế vương
I d. (cũ). Vua (nói khái quát). II t. (kng). (Lối sống) sang trọng tột độ (tựa như lối sống của vua chúa).
86. dê1
59
I d. Loài động vật nhai lại, sừng rỗng, cong quặp về phía sau, cằm có túm
lông làm thành râu, nuôi để lấy sữa, ăn thịt. II t. (thgt). (Đàn ông) đa dâm.
87. đĩ
I d. 1 Người phụ nữ làm nghề mại dâm (hàm ý khinh). 2 (ph.; kng). Đứa
con gái còn bé (trong gia đình nông dân). 3 (ph.; kng, dùng sau mọt số d. chỉ người). Từ dùng để gọi thân mật người nông dân có con gái đầu lòng
còn bé.
II t. (kng.). Lẳng lơ.
88. đĩ bợm
I d. (id) Phụ nữ làm nghề mại dâm (nói khái quát).
II t. Có tính hay trai gái bậy bạ; dâm đãng.
89. dị dạng
I d. Hình dạng lạ, khác thường.
II t. Có hình dáng lạ, khác thường.
90. địa phương
I d. 1 Khu vực, trong quan hệ với những vùng, khu vực khác trong nước. 2
Vùng, khu vực trong quan hệ với trung ương, với cả nước.
II t. (kng). Địa phương chủ nghĩa (nói tắt).
91. địa vị
I d. 1 Vị trí cá nhân trong quan hệ xã hội, do chức vụ, cấp bậc, quyền lực
mà có, về mặt được coi trọng nhiều hay ít. 2 Vị trí trong quan hệ xã hội,
chính trị, kinh tế do vai trò, tác dụng mà có, về mặt được coi trọng nhiều hay ít. 3 Vị trí cá nhân trong quan hệ xã hội, về mặt chỗ đứng, quyết định
cách nhìn, cách giải quyết vấn đề.
II t. (dùng hạn chế trong một số tổ hợp). (Tư tưởng) ham muốn địa vị, gắn
với quyền lợi hoặc danh lợi, chỉ lo giành lấy hoặc củng cố địa vị cá nhân.
92. điếm nhục
I d. (vch; id). Điều nhục nhã làm thành một vết nhơ. II t. (vch; id). Nhục nhã.
93. điện tử
I d. Hạt cơ bản rất nhỏ, thành phần cấu tạo của nguyên tử, mang điện tích âm, khi chuyển động tạo thành dòng điện.
II t. Thuộc về electron; thuộc về hay có sử dụng những dụng cụ được chế
60
tạo theo các phương pháp điện tử học hoặc hoạt động theo các nguyên của
điện tử học.
94. điệu bộ
I d. Các cử động của tay, chân... nhằm diễn đạt một điều gì (nói tổng quát).
II t (id). Có điệu bộ không tự nhiên, làm duyên, làm dáng.
95. điệu1
I d. 1 Đặc điểm bên ngoài về cách đi đứng, nói năng của mỗi người. 2 Đặc
điểm về hình thức diễn ra của một hoạt động; cách thức riêng. 3 Tính chất
của sự kết hợp các âm thanh trầm bổng với nhau để tạo thành ý nhạc hoàn
chỉnh của cả một chuỗi âm thanh. 4 Đặc điểm về hình thức, tính chất (nói tổng quát), làm phân biệt một kiểu tác phẩm nghệ thuật âm nhạc hoặc múa
với những kiểu khác. 5 Từ dùng để chỉ từng đơn vị những bài múa.
II t. (hoặc d.).(kng). Có cử chỉ điệu bộ, lối nói năng cố làm cho ra duyên
dáng, trở thành không tự nhiên, có vể kiểu cách.
96. định kì
I d. Từng khoảng thời gian nhất định, sau đó một việc lại xảy ra.
II t. Theo định kì.
97. độ lượng
I d. (id). Đức tính rộng lượng, dễ thông cảm với người có sai lầm và dễ tha
thứ. II t. Có độ lượng.
98. đô1
I d. (kng; id). Đô vật (nói tắt). II t. (kng). Vạm vỡ.
99. độc quyền
I d. Quyền chiếm giữ một mình, loại trừ cạnh tranh. II t. 1 Có độc quyền. 2 (Một thiểu số) tập trung vào trong tay mình mọi đặc quyền để từ đó khống chế và kiểm soát sản xuất hoặc kinh doanh trong một vài ngành.
100.
dốc1 I d. Đoạn cao dần lên hoặc thấp dần xuống trên đường đi. II t. Cao dần lên hoặc thấp dần xuống so với mặt bằng.
101.
đốm I d. 1 Chấm sáng nhỏ hiện ra trên nền tối. 2 Chấm nhỏ hiện lên trên một
61
nền khác màu.
II t. (dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Có nhiều chấm khác màu chen vào (thường nói về tóc, lông).
102.
đồng bóng I d. Người mà thần linh hoặc hồn người chết nhập vào trong một lễ cầu xin,
theo tín ngưỡng dân gian (nói khái quát). II t. (kng). Hay trở chứng, lúc thế này, lúc thế kia.
103.
đồng đảng I d. Người cùng bọn với kẻ bất lương.
II t. Thuộc cùng lớp người với kẻ bất lương.
du côn I d. Kẻ chuyên gây sự, hành hung, chỉ chơi bời lêu lổng. II t. Có
104.
tính chất của du côn.
105.
du kích. I. dt. Lực lượng nòng cốt của dân quân, đánh địch bằng lối đánh du kích.
Gia nhập du kích. Đội du kích.
II. tt. (kng.). (Tác phong công tác) phân tán, không có kế hoạch rõ ràng,
không có quy chế chính thức; trái với chính quy. Tác phong du kích.
106.
dương1 I d. 1 Một trong hai nguyên cơ bản của trời đất (đối lập với âm), từ đó tạo
nên muôn vật theo một quan niệm triết học cổ xưa ở phương Đông. 2 (vch;
hoặc chm.). Từ dùng để chỉ một trong hai mặt đối lập nhau (thường là mặt
tích cực, hoặc được quan niệm như là tích cực, mặt kia là âm), như chỉ ngày
(đối lập với đêm), mặt trời (đối lập với mặt trăng), đàn ông (đối lập với đàn bà), sống (đối lập với chết), sấp (đối lập với ngửa), thuận (đối lập với cái
được chọn làm chiều nghịch)...
II t. (chm.). 1 (Sự kiện) mang tính chất động, nóng, hay (sự vật) thuộc về
nam tính hoặc thuộc về công năng, theo quan niệm của đông y. 2 Lớn hơn số không.
107.
đường1 I d. Chất kết tinh vị ngọt, thường chế từ mía hoặc củ cải đường. II t. (dùng trong tên gọi một số hoa quả). Thuộc loại có vị ngọt.
108.
gai góc d. Gai, cây có gai (nói khái quát), thường dùng để ví những khó khăn, trở
ngại phải vượt qua.
62
II t (id). 1 Có nhiều khó khăn không dễ vượt qua, không dễ giải quyết. 2
Không dễ tính trong quan hệ với người khác, hay làm cho người khác thấy khó chịu.
109.
gai2 I d. 1 Phần cứng, nhọn nhô ra ngoài mặt thân, cành, lá hay quả của một số
cây. 2 Những cành có nhiều gai, về mặt gây khó khăn cho sự đi lại. 3 Cái thườmg xuyên tác động làm vướng mắc, khó chịu, chỉ muốn thoát khỏi
hoặc trừ bỏ đi. 4 (kết hợp hạn chế). Gai ốc (nói tắt).
II t. Có cảm giác như ớn lạnh, da nổi gai ốc, khi chịu tác động của một kích
thích bất thường.
110.
gan I d. 1 Bộ phận của bộ máy tiêu hoá có chức năng chính là tiết mật để tiêu hoá chất mỡ. 2 (thường dùng sau một số tổ hợp, sau đg., t.). Gan của con
người, coi là biểu tượng của tinh thần, ý chí mạnh mẽ, bền bỉ, không lùi bước trước khó khăn. 3 Gan của con người, coi là biểu tượng của tinh thần
dám đương đầu với nguy hiểm, 3dám chịu đựng.
II t. Tỏ ra có gan, dám đương đầu với nguy hiểm, dám chịu đựng.
111.
gân guốc I d. (id). Đường gân nổi lên trên mặt da (nói khái quát).
II t. 1 Có nhiều đường gân thớ thịt nổi lên, trông thô nhưng rắn chắc. 2 Rắn
rỏi, cứng cỏi.
112.
gan ruột I d. Gan và ruột con người, coi là biểu tượng của sự chịu đựng về tình cảm,
hay sự quan tâm của con người được giữ kín, không bộc lộ ra, nói chung.
II t. (ph.). Gan dạ.
113.
gạo cội I d. Gạo tốt, còn nguyên hạt sau khi xay giã. II t. (kng). Có tài nghệ (thường nói về diễn viên và vận động viên thể thao).
114.
gấu1 I d. Thú ăn thịt cỡ lớn, đuôi cộc, đi bằng bàn chân, thường trèo cây ăn mật ong. II t. (thgt). Hung dữ và hỗn láo.
115.
gia đình I d. Tập hợp người sống chung thành một đơn vị nhỏ nhất trong xã hội, gắn
63
bó với nhau bằng quan hệ hôn nhân và dòng máu, thường gồm có vợ
chồng, cha mẹ và con cái. II t. (kng). Gia đình chủ nghĩa (nói tắt).
116.
gia giáo I d. (id). Sự giáo dục trong gia đình (thường nói về gia đình phong kiến thời
trước). II t. (kết hợp hạn chế). Có nền nếp, có giáo dục (thường nói về gia đình
phong kiến thời trước).
117.
gia trưởng I d. Người đàn ông đứng đầu, nắm mọi quyền hành trong gia đình thời phong kiến.
II t. Có tư tưởng hoặc tác phong của người đứng đầu, người lãnh đạo, tự
coi mình là có mọi quyền hành, tự ý quyết định mọi việc, coi thường quyền
dân chủ của những người khác.
118.
giá4 I d (id). Trạng thái lạnh buốt.
II t. Lạnh buốt.
119.
giáo điều I d. 1 Luận điểm cơ bản của một tôn giáo, được các tín đồ tin theo một cách
tuyệt đối. 2 Luận điểm được công nhận mà không chứng minh, coi là chân bất di bất dịch.
II t. Thuộc về chủ nghĩa giáo điều, có tính chất của chủ nghĩa giáo điều.
120.
gộc I d. Phần gốc và rễ, thường là của cây đã già cỗi, còn lại sau khi cây đã bị
chặt đốn đi.
II t. (kng). Thuộc loại to, lớn quá cỡ.
121.
gụ I d. Cây to ở rừng, cùng họ với cây vang, cho gỗ quý, màu nâu sẫm, có vân đen. II t. Có màu trung gian giữa màu đỏ và màu đen, giống như màu gỗ gụ.
122.
gương mẫu I d. (cũ). Người được coi là tấm gương, là mẫu mực để những người khác noi theo.
II t. Có tác dụng làm gương cho mọi người noi theo.
64
123.
hà3 I d. Sâu cánh cứng, kí sinh trong củ khoai, làm cho khoai hỏng. II t. (Khoai) bị hà đục.
124.
hà4 I d. Sâu ăn dưới bàn chân của người và một số động vật như ngựa, lợn...
II t. (Chân) bị hà ăn.
125.
hàn lâm I d. 1 Tổ chức mà thành viên là những nhà khoa học hoặc những văn nghệ
sĩ ở một số nước. 2 (kng; id). Viện sĩ hàn lâm (nói tắt). 3 Hàm của nhà nước
phong kiến dùng để phong thưởng cho người có công. II t. (kng). Có tính chất trừu tượng, khó hiểu (như lối văn của một số viện sĩ
hàn lâm).
126.
hạnh phúc I d. Trạng thái sung sướng vì hoàn toàn đạt được ý nguyện.
II t. Có hạnh phúc, được hưởng hạnh phúc.
127.
hảo tâm I d. Lòng tốt.
II t. Có lòng tốt, sẵn sàng giúp đỡ người khác về tiền của.
128.
hẻm I d. 1 Lối đi hẹp, hai bên có vách núi cao. 2 (kng). Ngõ hẻm (nói tắt).
II t. (Đường) hẹp, khó đi, hai bên đường có tường vách.
129.
hiếu1 I d. 1 Lòng kính yêu và biết ơn cha mẹ. 2 (kết hợp hạn chế). Lễ tang cha
mẹ; lễ tang người hàng trên trong gia đình nói chung.
II t. (kết hợp hạn chế). Có lòng kính yêu, hết lòng chăm sóc cha mẹ.
130.
hình thức I d. 1 Toàn thể nói chung những gì làm thành mặt bề ngoài của sự vật, cái chứa đựng hoặc biểu hiện nội dung. 2 Cách thể hiện, cách tiến hành một hoạt động. 3 (chm). Hệ thống cơ cấu và các phương tiện ngôn ngữ để diễn đạt nội dung trong một tác phẩm văn học nghệ thuật. II t. 1 Có tính chất hình thức, chỉ có trên danh nghĩa, không có nội dung, không có thực chất. 2 (kng). Hình thức chủ nghĩa (nói tắt).
131.
hoà bình I d. Tình trạng không có chiến tranh.
65
II t. Không dùng đến chiến tranh, không dùng đến vũ lực.
132.
hoa hoè I d. Cây to thuộc họ đậu, lá kép mọc cách, hoa nhỏ màu vàng, quả thắt lại
từng quãng trông như chuỗi tràng hạt, nụ hoa phơi khô dùng làm thuốc.
II t. Được trang sức, tô điểm một cách cầu kì, loè loẹt...
133.
hoá sinh1 I d. Hoá sinh học (nói tắt).
II t. Thuộc về, có tính chất những phản ứng hoá học xảy ra trong cơ thể
sinh vật.
134.
hoạn nạn I d. Sự việc không may, gây đau khổ lớn cho con người.
II t. (id). ở hoàn cảnh gặp hoạn nạn.
135.
hoang dã I d. (id). Nơi đồng hoang hẻo lánh.
II t. Có tính chất tự nhiên của núi rừng, xa đời sống của xã hội loài người.
136.
hốc1 I d. Chỗ lõm ăn sâu vào trong thân cây, vách đá... hoặc đào sâu xuống dưới
đất.
II t. (Khuôn mặt) gầy tóp, có nhiều chỗ lõm sâu.
137.
hứng thú I d. Sự ham thích.
II t. Cảm thấy có những hứng thú, hào hứng.
138.
hứng1 I d. 1 Cảm giác thích thú thấy trong người mình có một sức thôi thúc làm
cái gì đó (thường là việc lao động sáng tạo). 2 Phương thức biểu hiện của
thơ ca, dùng hiện tượng xung quanh để gây không khí, gợi cảm xúc, rồi mới miêu tả sự vật hoặc tâm tình. II t. ở trạng thái tâm lý có hứng.
139.
hườm1 I d. Chỗ hoắm sâu. II t. (id). Hoắm sâu vào.
140.
hút1 I d. 1 Dấu vết còn lại dưới dạng một lỗ sâu của vật đã đi thẳng quá sâu vào
bên trong, vào dưới. 2 Dấu vết, hình bóng còn thoáng lưu lại khi người
66
hoặc vật sắp đi khuất hẳn.
II t. (Sâu, xa) đến mức không thể nhìn thấy được cho đến tận cùng.
141.
hữu1 I d. 1 (kết hợp hạn chế). Bên phải, trong quan hệ đối lập với tả, bên trái. 2
(thường phụ sau d.). Bộ phận thiên về bảo thủ, thoả hiệp hay phản cách
mạng trong nghị viện hoặc trong các tổ chức chính trị trong một số nước, trong quan hệ đối lập với tả, bộ phận thiên về tiến bộ, về cách mạng.
II t. (id). Hữu khuynh (nói tắt).
142.
huyền1 I d. Than đá màu đen nhánh do thân cây biến thành, dùng làm đồ trang sức. II t. Có màu đen như hạt huyền.
143.
khách quan I d. Cái tồn tại bên ngoài, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí của con người,
trong quan hệ với chủ quan.
II t. 1 Thuộc về khách quan, không thuộc về chủ quan. 2 Có tính chất xuất
phát từ thực tế, biểu hiện thực tế một cách trung thực, không thiên lệch.
144.
khoa học I d. 1 Hệ thống tri thức tích luỹ trong quá trình lịch sử và được thực tiễn
chứng minh, phản ánh những quy luật khách quan của thế giới bên ngoài
cũng như của hoạt động tinh thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới hiện thực. 2 Ngành của từng hệ thống tri thức nói trên.
II t. 1 Có tính chất của khoa học, thuộc về khoa học. 2 Phù hợp với những
đòi hỏi của khoa học: khách quan, chính xác, có hệ thống...
145.
khơi1 I d. Vùng biển ở xa bờ; phân biệt với lộng.
II t. (cũ; vch). Xa.
146.
kì công I d. Công lao sự nghiệp hoặc thành tựu kì diệu. II t. (kng). (Làm việc gì) đòi hỏi phải bỏ nhiều công sức một cách đặc biệt, khác thường.
147.
kỹ thuật I d. 1 Tổng thể nói chung những tư liệu và phương tiện hoạt động của con người, được tạo ra để thực hiện quá trình sản xuất và phục vụ nhu cầu phi
sản xuất của xã hội. 2 Tổng thể nói chung những phương pháp, phương
67
thức sử dụng trong một lĩnh vực hoạt động nào đó của con người.
II t. (kng). Tỏ ra có trình độ kỹ thuật cao.
148.
kích1 I d. Chỗ nối liền thân áo trước với thân áo sau ở nách.
II t. (áo ) chật ngực, chật nách.
149.
kiềm I d. Base tan trong nước, có tính chất hoá học như xút.
II t. Có tính chất của mọt base.
150.
kiệt tác I d. Tác phẩm nghệ thuật hết sức đặc sắc. II t. Đặc sắc và đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật.
151.
kiểu cách I d. Kiểu (nói khái quát).
II t. Có vẻ cố làm cho ra trang trọng, lịch sự, không phù hợp với mình hoặc
với hoàn cảnh.
152.
kim thuộc I d. (kng). Kim loại, chất kim loại.
II t. (id). Thuộc về kim loại.
153.
kinh tế I d. 1 Tổng thể nói chung những quan hệ sản xuất của một hình thái kinh tế
xã hội nhất định. 2 Tổng thể những hoạt động của con người nhằm thoả
mãn nhu cầu vật chất.
II t. 1 Có liên quan tới lợi ích vật chất của con người. 2 Có tác dụng mang
lại hiệu quả tương đối lớn so với sức người, sức của và thời gian tương đối
ít bỏ ra.
154.
kinh viện I d. 1 (cũ). Nơi giảng kinh sách thời xưa. 2 Tri thức dựa trên những biện luận trừu tượng, tách rời thực tế (nói khái quát). II t. Có tính chất của chủ nghĩa kinh viện, dựa trên những biện luận trừu tượng, tách rời thực tế.
155.
là lượt I d. Các thứ hàng tơ như là, lượt (nói khái quát). II t. (Ăn mặc) sang, diện (thường hàm ý chê).
156.
lấm
68
I d. Trạng thái ruộng đã cày bừa thành bùn nhão, thuận tiện cho việc gieo
cấy. II t. Bị dính bẩn vì bùn đất.
157.
lầm1 I d. (ph.). Bùn.
II t. 1 Có nhiều bùn hay nhiều bụi cuộn lên làm đục, làm bẩn. 2 Bị phủ lên một lớp dày bùn đất, bụi bặm.
158.
lao lung I d. (cũ; vch). Ngục tù, nơi giam hãm làm mất tự do.
II t. ở trong cảnh chịu bó buộc về vật chất lẫn tinh thần đến mức khổ ải.
159.
lầy I d. Đất bùn nhão thường xuyên ngập nước.
II t. Có nhiều bùn trơn, bẩn.
160.
lẻ I d. 1 Lượng bằng một phần mười của đấu. 2 Lượng nhỏ trong quan hệ với
chỉnh thể, toàn thể.
II t. 1 (Số) không chia hết cho 2. 2 (Phép chia) còn dư. 3 Có số dư ngoài số
tròn (từ hàng chục trở lên). 4 Riêng ra một mình, tách rời ra một mình. 5
Riêng từng cái, từng số lượng nhỏ.
161.
lễ độ I d. Thái độ được coi là đúng mực, tỏ ra biết coi trọng người khác khi tiếp
xúc (nói khái quát).
II t. Có lễ độ.
162.
lễ phép I d. (id). Thái độ được coi là đúng mực đối với người trên, tỏ ra có lòng
kính trọng (nói khái quát). II t. Có lễ phép, tỏ ra biết kính trọng người trên.
163.
tưởng I d. Mục đích cao nhất, tốt đẹp nhất mà người ta phấn đấu để đạt tới. II t. Hoàn hảo, tốt đẹp nhất như trong trí tưởng tượng hoặc trên thuyết.
164.
lịch sử I d. 1 Quá trình phát sinh, phát triển đã qua hay cho đến tiêu vong của một hiện tượng, một sự vật nào đó. 2 Khoa học nghiên cứu về quá trình phát
triển của xã hội loài người nói chung, hay của một quốc gia, một dân tộc
69
nói riêng; sử học.
II t. Thuộc về lịch sử của các quốc gia, dân tộc, có tính chất ý nghĩa quan trọng trong lịch sử.
165.
linh1 I d.(id.; kết hợp hạn chế). Hồn người chết.
II t. Có phép lạ làm được những điều khiến người ta phải kính sợ, theo tín ngưỡng dân gian.
166.
loạn
I d. Sự chống đối bằng bạo lực nhằm làm mất trật tự và an ninh xã hội.
II t. ở tình trạng lộn xộn không theo một trật tự hoặc nề nếp bình thường nào cả.
167.
logic I d. 1 Khoa học nghiên cứu các quy luật và hình thức của tư duy, nghiên
cứu sự suy luận đúng đắn. 2 Trật tự chặt chẽ, tất yếu giữa các hiện tượng.
II t. 1 Hợp với quy luật logic. 2 Hợp với logic, giữa các hiện tượng có mối
quan hệ chặt chẽ, tất yếu.
168.
lỗi I d. 1 Chỗ sai sót do không thực hiện đúng quy tắc. 2 Điều sai sót, không
nên, không phải trong cách cư xử, trong hành động; khuyết điểm.
II t. 1 Có chỗ sai sót về mặt kỹ thuật. 2 (dùng trước d.). Có điều sai trái, không theo đúng đạo .
169.
lợi hại I d. Mặt lợi và mặt hại của một việc gì trong quan hệ so sánh với nhau (nói khái quát).
II t. Quan trọng vì có khả năng hoặc tác dụng lớn, có thể gây tổn thất đáng
sợ cho đối phương.
170.
lợi2 I d. 1 Cái có ích mà con người thu được khi nó nhiều hơn là con người phải bỏ ra. 2 (id). Lãi. II t. 1 Có lợi, mang lại cho con người nhiều hơn là con người phải bỏ ra. 2 (dùng trước d.). Ít tốn hơn.
171.
lùm I d. 1 Đám cành lá rậm rạp của nhiều cây kết vào nau thành vòm rộng. 2
Đống lớn có hình giống như lùm cây.
70
II t. Vồng lên trên miệng đồ đựng.
172.
lưng chừng I d. Khoảng đại khái ở giữa, không ở trên cao cũng không ở dưới thấp.
II t. (id). 1 (Làm việc gì) cũng chỉ nửa chừng, không làm cho xong, cho
trọn. 2 Do dự không dám dứt khoát ngả về bên nào trước cuộc đấu tranh
giữa hai phía: tích cực và tiêu cực.
lũng I d. Dạng địa hình lõm tương đối rộng, xung quanh có sườn dốc bao
173.
bọc, đáy phẳng, thường gặp ở miền núi đá vôi. II t. (hoặc đg). (id). Lõm,
trũng xuống.
174.
lưng2 I d. 1 (dùng trước d.). Khoảng ở giữa, không ở trên cao cũng không ở dưới thấp. 2 (thường dùng trước d.). Lượng chứa chỉ chiếm khoảng nửa vật
đựng.
II t. Không đầy, chưa đầy.
175.
lượng giác I d. Lượng giác học (nói tắt).
II t. Thuộc về lượng giác học.
176.
lụt lội I d. Lụt, về mặt gây ra ngập nước, lầy lội (nói khái quát). II t. Bị ngập nước
và lầy lội do lụt.
177.
lụt2 I đg. (Bấc đèn) đã cháy cụt đi.
II t. 1 (ph.). Cùn. 2 (id). Đuối, kém hẳn đi so với trước, không tiến lên
được.
178.
ma I d. 1 (kết hợp hạn chế). Người đã chết. 2 Sự hiện hình của người đã chết
theo mê tín. 3 (kng; dùng có kèm ý phủ định, thường trước nào). Người bất kì. II t. Chỉ có trên sổ sách hoặc báo cáo, chứ không có thật, do bịa ra nhằm đánh lừa.
179.
ma mãnh I d. (kng). Ma (nói khái quát, hàm ý coi thường). II t. (kng). Tinh ranh, quỷ quyệt.
180.
ma quái I d. Ma và quái vật (nói khái quát).
71
II t. Có vẻ, có tính chất bí ẩn, đáng sợ.
181.
mẳn1 I d. Mảnh hạt, thường là hạt tấm rất nhỏ, vụn (nói khái quát).
II t (id). Nhỏ nhen, hẹp hòi.
182.
mánh khoé I d. Lối khôn khéo đánh lừa người để mưu lợi cho mình một cách không đàng hoàng, không chính đáng.
II t. (kng). Có nhiều mánh khoé, có mánh khoé tinh vi, xảo quyệt.
183.
mánh lới I d. (kng). Cách khôn khéo đánh lừa người khác để đạt một mục đích nào đó.
II t. (kng; id). Khôn khéo, có mánh lới.
184.
manh1 I d. Từ chỉ đơn vị thật mỏng, mềm thường dùng để che thân, để đắp (hàm ý coi như không đáng kể).
II t. (id). (Vật dùng để che thân, để đắp) mỏng cũ và sờn rách.
185.
mấu chốt I d. Cái chủ yếu nhất, có ý nghĩa quyết định nhất trong toàn bộ vấn đề.
II t. Chủ yếu nhất, có tính chất quyết định nhất.
186.
mẫu mực I d. 1 (kng). Mẫu để theo đó có thể tạo ra hàng loạt những cái khác (nói
khái quát). 2 Người, cái có tác dụng làm gương cho mọi người noi theo.
II t. Có đủ những phẩm chất tốt đẹp, có tác dụng làm mẫu, làm gương.
187.
máy móc I d. Máy (nói khái quát).
II t. Thiếu linh hoạt, sáng tạo, chỉ biết theo đúng cái gì đã có sẵn, đã quy định.
188.
may2 I d. Điều tốt lành đưa đến đúng lúc. II t. ở vào tình hình được gặp may.
189.
mệnh lệnh I d. Lệnh (nói khái quát). II t. (Tác phong lãnh đạo) không đi theo đường lối quần chúng, chỉ thích
dùng biện pháp ra lệnh, bắt buộc người dưới phải làm theo.
72
190.
mĩ thuật I d. Ngành nghệ thuật nghiên cứu quy luật và phương pháp để thể hiện cái đẹp bằng đường nét, màu sắc, hình khối.
II t (kng). Đẹp, khéo, hợp với thẩm mĩ.
191.
miệng lưỡi I d. Miệng và lưỡi con người; dùng để chỉ lối ăn nói hoạt bát, lém lỉnh và thường thớ lợ, không thật thà.
II t. (kng). Có tài ăn nói hoạt bát, lém lỉnh.
192.
mỡ màng I d. (id). Mỡ để ăn (nói khái quát). II t. Mượt mà, có sắc thái tươi tốt; mỡ (nói khái quát).
193.
mo1 I d. 1 Lá bắc lớn hình thuyền bọc ngoài cụm hoa các cây họ ráy, họ cau... 2
Mo cau (nói tắt).
II t. (kng). (Vật hình tấm) bị cong lại (tựa như mo cau).
194.
mỡ2 I d. 1 Chất béo ở cơ thể động vật hoặc được chế biến từ thực vật, thường
dùng làm thức ăn. 2 Dầu nhờn hoà thêm chất làm đặc, thường dùng để làm
trơn ổ bi. 3 (kng). Thuốc mỡ (nói tắt).
II t. (kng). (Da thịt, cây lá) mượt mà, có sắc thái tươi tốt.
195.
mộc2 I d. (kết hợp hạn chế). Đồ gỗ (nói khái quát).
II t. (Đồ gỗ, gạch ngói, vải lụa...) ở trạng thái thô sơ, chưa được gia công thêm cho đẹp, bóng.
196.
mọi rợ I d. (kng). Tên gọi chung các dân tộc thiểu số chậm phát triển (hàm ý coi khinh, theo quan điểm kì thị dân tộc thời phong kiến, thực dân). II t. (id). Man rợ.
197.
mồi2 I d. 1 Con vật, về mặt làm miếng ăm cho một loại động vật khác. 2 Thức ăn của chim kiếm về nuôi con, hay của kiến tha về để dành. 3 Thức ăn mắc vào lưỡi câu hay cho vào bẫy để nhử bắt động vật. 4 Con vật dùng để nhử bắt những con vật khác cùng loài. 5 Cái có sức quyến rũ nhử người ta vào
tròng.
73
II t. (kng). (Quần áo) đẹp, sang nhất, chuyên dùng để chưng diện.
198.
mồm mép I d. (kng; id). Mồm và mép, dùng để chỉ khả năng ăn nói hoạt bát, lém lỉnh
(thường hàm ý chê).
II t. (kng). (Ăn nói) hoạt bát, lém lỉnh.
199.
mọt I d. 1 bọ cánh cứng, có hàm khoẻ, chuyên đục khoét tre, gỗ, hạt ngũ cốc
khô.
II t. Bị mọt đục.
200.
một I d. 1 Số đầu tiên trong dãy số tự nhiên. 2 (kng). Tháng mười một âm lịch
(nói tắt). 3 Từ biểu thị tính chất lần lượt của từng đơn vị giống nhau nối
tiếp nhau. 4 (dùng làm vị ngữ). Từ biểu thị tính chất toàn khối không thể
chia cắt hoặc tính chất thống nhất, nhất trí như một khối. 5 (dùng trước một
số d.). Từ biểu thị tính chất nguyên khối, không sót một thành phần nào; cả.
II t. 1 (dùng phụ sau d. trong một vài tổ hợp). Độc nhất (chứ không phải là
có nhiều). 2 (dùng phụ sau d. trong một vài tổ hợp). Dùng cho một người chứ không phải dùng cho hai người.
201.
mốt1 I d. Kiểu sinh hoạt, thường là kiểu ăn mặc được một số đông ưa chuộng trong một thời gian nào đó.
II t. (kng). Đúng mốt, hợp với mốt đang thịnh hành.
202.
mực thước I d. (cũ). Khuôn phép.
II t. Theo đúng khuôn phép, mẫu mực.
203.
mực2 I d. 1 Chất nước màu đen dùng để vết chữ Hán bằng bút lông hoặc để vẽ. 2 Chất có màu dùng để hoà tan trong nước để viết, in. II t. (Chó) có lông màu đen.
204.
mun I d. Cây lấy gỗ cùng họ với thị, lá mềm, mỏng, hoa đơn tính màu vàng, gỗ rất cứng, màu đen. II t. (kết hợp hạn chế). Đen như màu gỗ mun.
205.
mướp
74
I d. Cây trồng thân leo, hoa đơn tính màu vàng, quả dài, dùng làm thức ăn,
khi già thành xơ. II t. Rách đến mức trông tả tơi, xơ xác.
206.
mút2 I d. Đầu tận cùng của một vật có độ dài đáng kể.
II t. Xa đến tận cuối tầm nhìn.
207.
mưu lược I d. Mưu trí và sách lược (nói khái quát).
II t. (id). Có nhiều mưu trí.
208.
mưu mẹo I d. Cách khôn khéo để đánh lừa đối phương, thực hiện một ý định nào đó
(nói khái quát).
II t. (kng). Có nhiều mưu mẹo.
209.
mưu trí I d. Mưu kế và tài trí (nói khái quát).
II t. Khôn ngoan, có mưu trí.
210.
nạc I d. Thịt không có mỡ.
II t. (dùng phụ sau d., trong một số tổ hợp). Gồm toàn thành phần tốt, chắc,
hữu ích.
211.
nam1 I d. Người thuộc nam giới (nói khái quát), phân biệt với nữ.
II t.(dùng phụ sau d.). (Đồ dùng) chuyên để cho nam giới dùng.
212.
nắng I d. 1 ánh sáng trực tiếp từ mặt trời chiếu xuống. 2 Khoảng thời gian của
một ngày có nắng. II t. Có nắng.
213.
nâu I d. Cây leo ở rừng, rễ củ lớn, sần sùi, chứa nhiều chất chát, thường dùng để nhuộm vải. II t. Có màu trung gian giữa đen và đỏ hoặc giữa vàng và đỏ sẫm, tương tự màu nước củ nâu.
214.
nây I d. Thịt mỡ bèo nhèo ở bụng lợn.
75
II t. Béo hoặc mập tròn, đầy đặn.
215.
nền nếp I d. Toàn bộ nói chung những quy định và thói quen trong công việc hoặc
sinh hoạt, làm cho có trật tự, có kỉ luật, có tổ chức.
II t. Có nề nếp tốt.
216.
nếp1 I d. Loài lúa cho hạt gạo to và trắng, nấu chín thỡ trong và dẻo, thường
dùng thổi xôi, làm bánh.
II t. (dùng sau d., trong một số tổ hợp). Từ dùng trong tên gọi để phân loại
một vài thứ ngũ cốc cho hạt trắng và ăn dẻo, một vài thứ cây ăn quả hoặc một vài thứ thực phẩm loại ngon; phân biệt với tẻ.
217.
ngà I d. 1 Răng nanh hàm trên của voi, mọc chìa dài ra ngoài hai bên miệng. 2
(chm). Chất cấu tạo nên răng của thú.
II t. (kết hợp hạn chế). Có màu trắng hơi ngả màu vàng như màu ngà voi.
218.
nghề I d. Công việc chuyên làm theo sự phân công lao động của xã hội.
II t. (kng). Giỏi, thành thạo (trong một việc làm nào đó).
219.
nghi vệ I d. Vật trưng bày nơi cung thất, dinh thự hay dùng khi vua quan đi đường,
như tán, cờ, quạt, binh khí... (nói khái quát).
II t. (id). Oai nghiêm và đúng nghi thức.
220.
nghĩa khí I d. Chí khí của người nghĩa hiệp.
II t. Có nghĩa khí.
221.
ngồng I d. Thân non của một số cây, như cải, thuốc lá, mọc cao vổng lên và mang hoa. II t. (dùng phụ sau mọt số t.). Cao lớn vượt hẳn lên, trông khác thường.
222.
nguyên sinh I d. Nguyên đại thứ hai trong lịch sử Trái Đất, cách ngày nay khoảng một tỷ ba trăm triệu năm, dài khoảng tám trăm triệu năm, đã bắt đầu có di tích sinh vật cổ sơ.
II t. (Rừng) mọc tự nhiên từ thời xa xưa, chưa hề bị chặt phá; trái với thứ
76
sinh.
223.
nhà quê I d. (cũ). Nông thôn.
II t. (kng). Quê mùa, mộc mạc, kém vẻ thanh tao, lịch sự (hàm ý chê).
224.
nhách1 I d. (kng; kết hợp hạn chế). Từ dùng để chỉ từng cá thể một số loại động vật (thường là động vật nuôi) thuộc thế hệ con, khi còn rất nhỏ.
II t. (kng; kết hợp hạn chế). (Động vật) còn rất nhỏ.
225.
nhân dân I d. Đông đảo những người dân, thuộc mọi tầng lớp, đang sống trong một khu vực địa nào đó (nói tổng quát).
II t. Thuộc về nhân dân, nhằm phục vụ nhân dân.
226.
nhân đạo I d. Đạo đức thể hiện ở sự thương yêu quý trọng và bảo vệ con người.
II t. Có tính nhân đạo.
227.
nhiệt I d. 1 Hiện tượng vật có thể truyền đi được, sự tăng lên của nó thể hiện
bằng sự tăng nhiệt độ, dãn nở, những sự chuyển hoá (nóng chảy, thăng hoa,
bay hơi). 2 Nhiệt lượng (nói tắt).
II t. (Cơ thể) ở tạng nóng, biểu hiện: miệng khô, khát nước, mạch nhanh...
(theo cách nói của Đông y).
228.
nhiệt tâm I d. Lòng sốt sắng đối với công việc chung, sự nghiệp chung.
II t. (kng; id). Có nhiệt tâm.
229.
nhiệt tình I d. Tình cảm sốt sắng đối với người, với việc. II t. (kng). Có nhiệt tình.
230.
nội địa I d. Phần đất trong lục địa ở xa biển. II t. ở trong nước, do trong nước làm ra.
231.
nội tiết I d. (kng). Nội tiết tố (nói tắt). II t. Tuyến mà chất tiết ra của nó được ngấm thẳng vào máu.
232.
nôm
77
I d. Tiếng Việt, viết bằng chữ gọi là chữ Nôm; phân biệt với tiếng Hán, viết
bằng chữ nho. II t. (id). Nôm na.
233.
nõn Id. Lá non, còn cuộn hoặc bọc kín, chưa mở hết ra, ở một số cây.
II t. Mịn và mượt.
234.
nửa I d. Một trong hai phần bằng nhau của một cái gì.
II t. (Dùng hạn chế trong một số tổ hợp, trước một từ khác). Không hoàn
toàn, vừa như thế, vừa như khác thế.
235.
oan trái I d. Những điều phải gánh chịu trong kiếp này để trả cho những điều ác đã
làm ở kiếp trước, theo quan niệm của đạo Phật (nói tổng quát).
II t. (vch). Bất hạnh.
236.
pháp lệnh I d. Văn bản do Uỷ ban thường vụ Quốc hội ban hành, quy định những vấn
đề được Quốc hội giao, có hiệu lực gần như luật.
II t. Có tính chất bắt buộc thực hiện, được coi như pháp lệnh.
237.
phệnh Id. Đồ chơi trẻ con có hình một người béo phệ ngồi để hở bụng to phình,
thường làm bằng sành, sứ hoặc gỗ.
II t. (kng). To phềnh.
238.
phong kiến I d. 1 (id). Chế độ phong kiến (nói tắt). 2 Những người thuộc giai cấp thống
trị trong chế độ phong kiến (nói tổng quát).
II t. Thuộc về chế độ hoặc giai cấp phong kiến, có tính chất phong kiến.
239.
phúc I d. Điều may mắn lớn, điều mang lại những sự tốt lành lớn; trái với hoạ. II t. (kng; thường dùng trong câu biểu cảm). May mắn.
240.
phúc đức I d. Điều tốt lành để lại cho con cháu do ăn ở tốt, theo quan niệm truyền thống (nói khái quát). II t. 1 Hay làm những điều tốt lành cho người khác (thường với hi vọng để
lại tốt lành cho con cháu). 2 (kng). May mắn, tốt lành lắm.
78
241.
quần chúng I d. 1 Những người dân bình thường trong xã hội (nói tổng quát và trong quan hệ với những người lãnh ddạo). 2 Số đông người ngoài đảng và là đối
tượng lãnh đạo trực tiếp của một tổ chức đảng (nói trong quan hệ với tổ
chức đảng ấy). 3 (kng). Người ngoài đảng (nói trong quan hệ với đảng lãnh
đạo). II t. Thuộc về quần chúng, để phục vụ quần chúng hoặc hợp với quần
chúng rộng rãi.
242.
quan liêu I d. (cũ). Quan (nói tắt).
II t. (Cách lãnh đạo, chỉ đạo) thiên về dùng mệnh lệnh, giấy tờ, xa thực tế, xa quần chúng.
243.
quân phiệt I d. Kẻ theo chủ nghĩa quân phiệt. II t. Có tính chất của chủ nghĩa quân phiệt, dựa vào vũ lực để hành động
một cách độc đoán nhằm áp chế người khác.
244.
quân sự I d. Những vấn đề về xây dựng lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang
(nói tổng quát).
II t. 1 Thuộc về quân đội. 2 (kng). Khẩn trương, nhanh nhẹn, gọn gàng như
trong quân đội.
245.
quanh quất I d. quanh nơi nào đó, không xa.
II t. (id). Quanh co, không thẳng.
246.
quê I d. 1 Nơi gia đình, dòng họ đã qua nhiều đời làm ăn sinh sống, thường với
mình có sự gắn bó tự nhiên về tính cảm. 2 Nông thôn, nơi có đồng ruộng, làng mạc. II t. Có tính chất quá mộc mạc, kém vẻ thanh lịch.
247.
quốc gia I d. 1 Nước. 2 (cũ). Nước nhà. II t. Theo chủ nghĩa quốc gia.
248.
quốc tế I d. (thường dùng phụ sau d.). Các nước trên thế giới trong quan hệ với
79
nhau.
II t. 1 Thuộc về quan hệ giữa các nước trên thế giới. 2 Thuộc về chủ nghĩa quốc tế, theo chủ nghĩa quốc tế.
249.
quy mô I d. Độ rộng lớn về mặt tổ chức.
II t. Có quy mô lớn.
250.
rác I d. những thứ vụn vặt bị vứt bỏ vương vãi và làm bẩn (nói tổng quát).
II t. Bẩn vì có nhiều rác.
251.
rủi I d. Điều không lành, không tốt bất ngờ xảy đến.
II t. ở trong tình hình gặp rủi; không may.
252.
ruột Id. 1 Phần của ống tiêu hoá từ cuối dạ dày đến hậu môn. 2 Bộ phận bên
trong của một số vật. 3 (kết hợp hạn chế). Ruột của con người, được coi là
biểu tượng của sự chịu đựng về tình cảm.
II t. (dùng phụ sau d. chỉ quan hệ gia đình thân thuộc). Thuộc về mối quan
hệ giữa cha mẹ và con cái, giữa những người có cùng cha mẹ với con cái
của họ.
253.
sách vở. I. dt. Sách và vở; tài liệu học tập, nghiên cứu (nói khái quát). Chuẩn bị
sách vở cho ngày khai trường. Vùi đầu trong sách vở.
II. tt. Lệ thuộc vào sách vở, thoát li thực tế. Kiến thức sách vở. Con người sách vở.
254.
sấp ngửa I d. Lối đánh bạc thời trước, đoán đồng tiền gieo úp trong bát là sấp hay là ngửa mà ăn tiền. II t. (kng). (Dáng vẻ) vội vàng, tất tả.
255.
sâu1 I d. Dạng ấu trùng của bọ, thường ăn hại cây cối. II t. Bị sâu ăn, hay bị hư hỏng tựa như sâu ăn.
256.
sinh học I d. Tổng thể các khoa học về thế giới hữu sinh và về các quá trình sống.
II t. Thuộc về sinh học, có tính chất sinh học.
80
257.
sớm I d. Khoảng thời gian lúc mặt trời mới mọc. II t. (Xảy ra, đến, có được) trước thời điểm quy định hay trước thời điểm
thường lệ tương đối lâu; trái với muộn.
258.
son1 I d. 1 Đá đỏ mài ra làm mực viết, vẽ bằng bút lông. 2 Sáp thường màu đỏ, phụ nữ dùng để tô môi.
II t. 1 Có màu đỏ như son. 2 (cũ; vch; kết hợp hạn chế). (Lòng) ngay thẳng,
trung trinh, trước sau không phai nhạt, đổi thay.
259.
tả2 I d. 1 (kết hợp hạn chế). Bên trái, trong mối quan hệ đối lập với hữu là bên
phải. 2 (thường dùng phụ sau d.). Bộ phận thiên về tiến bộ, về cách mạng
trong nghị viện hoặc trong các tổ chức chính trị ở một số nước tư bản, trong
mối quan hệ đối lập với hữu là bộ phận thiên về bảo thủ, thoả hiệp hay phản cách mạng.
II t. Có chủ trương hành động quá mạnh, quá sớm, không thích hợp với
điều kiện thực tế.
260.
tài tử I d. (cũ). 1 (vch; thường dùng đi đôi với giai nhân). Người đàn ông có tài. 2
Diễn viên sân khấu, xiếc hay điện ảnh có tài.
II t. 1 Không phải chuyên nghiệp, chỉ do thích thú mà chơi hoặc trau dồi
một môn thể thao, văn nghệ nào đó. 2 (kng). (Phong cách, lối làm việc) tuỳ
hứng, tuỳ thích, không có sự chuyên tâm.
261.
tài2 I d. Khả năng đặc biệt làm một việc nào đó.
II t. Có tài.
262.
tam đại I d. Ba đời (đời cha, đời ông và đời cụ). II t. (kng; kết hợp hạn chế). Đã xưa lắm, cũ lắm.
263.
tâm huyết I d. Lòng nhiệt tình đối với một cái gì cao cả, xuất phát từ tình cảm, nguyện vọng thiết tha. II t. Đầy tâm huyết, xuất phát từ tình cảm, nguyện vọng thiết tha, chân thật.
264.
tâm lý
81
I d. 1 Toàn bộ nói chung sự phản ánh của hiện thực khách quan vào ý thức
con người, bao gồm nhận thức, tình cảm, ý chí... biểu hiện trong hoạt động và cử chỉ mỗi người. 2 Nguyện vọng, ý thích, thị hiếu... riêng của mỗi
người, trong mọt hoàn cảnh cụ thể nào đó.
II t. 1 Thuộc về tâm lý. 2 (kng). Hiểu tâm lý của người khác để có sự đối
xử phù hợp.
265.
tầm tầm1 I d. nơi bán đấu giá cổ vật bị tịch thu hoặc đồ cũ, thời trước.
II t. (kng). ). (Đồ dùng) đã cũ.
266.
tang thương I d. (cũ, vch). Bể dâu.
II t. Tiều tuỵ, khổ sở đến mức gợi sự đau xót, thương tâm.
267.
tập đoàn I d. 1 Tập hợp những người có chung những quyền lợi kinh tế, xã hội hoặc
có cùng một xu hướng chính trị, đối lập với những tập đoàn người khác. 2
Tập hợp những người có cùng một nghề làm ăn chung với nhau, với quymô
nhỏ. 3 Tập hợp nhiều sinh vật cùng loại sống quây quần bên nhau. II t. (id). Tập thể.
268.
tập thể I d. Tập hợp những người có quan hệ gắn bó, cùng sinh hoạt hoặc cùng làm việc chung với nhau.
II t. Thuộc về tập thể, có tính chất tập thể.
269.
tật nguyền I d. Tật tương đối lớn, nghiêm trọng (nói khái quát).
II t. Có một cơ quan quan trọng nào đó của cơ thể bị tật nặng, mất khả năng
lao động, hoạt động bình thường.
270.
tây1 I d. 1 Một trong bốn phương chính ở về phía mặt trời lặn, đối diện với phương đông. 2 (thường viết hoa). Phần đất của thế giới, nằm ở tây châu Âu. II t. Theo kiểu phương Tây, hoặc có nguồn gốc từ phương Tây, đối lập với ta.
271.
tẻ2 I d. Loại lúa cho hạt gạo nhỏ và dài, ít nhựa, thường dùng để thổi cơm.
82
II t. (dùng sau d. trong một số tổ hợp). Từ dùng trong tên gọi để phân biệt
một vài thứ ngũ cốc cho hạt ăn hơi cứng, một vài thứ cây ăn quả hoặc một vài thứ thực phẩm loại không được ngon; phân biệt với nếp.
272.
tép1 I d. 1 Động vật cùng họ với tôm nhưng nhỏ và không có càng. 2 (kng).
Tôm, cá nhỏ (nói khái quát). II t. (dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Thuộc loại nhỏ.
273.
thần thánh I d. Lực lượng siêu tự nhiên như thần thánh (nói tắt).
II t. Có tính chất thiêng liêng, vĩ đại.
274.
thân thuộc I d. Những người có quan hệ họ hàng (nói khái quát).
II t. Có quan hệ thân thiết, gần gũi.
275.
thân tình I d. Tình cảm thân mật, chân thành.
II t. Có những biểu hiện tình cảm chân thành, thân mật.
276.
thần2 I d. Lực lượng siêu tự nhiên được tôn thờ, coi là linh thiêng, có thể gây hoạ
hoặc làm phúc cho người đời, theo quan niệm duy tâm hoặc theo quan niệm
của tôn giáo.
II t. (Vật) có phép lạ của thần.
277.
thánh I d. 1 (cũ). Danh hiệu người đời tặng cho bậc vốn có hiểu biết rộng, có
phẩm chất đạo đức cao, vượt lên hẳn người cùng thời; thường dùng để chỉ
người sáng lập ra nho giáo. 2 (cũ; kết hợp hạn chế). Từ dùng để gọi tôn
vua. 3 (cũ). Thần linh hoặc nhân vật truyền thuyết, nhân vật lịch sử được tôn thờ ở đền, chùa. 4 (kng). Người có tài, có khả năng hơn hẳn người thường trong một nghề hoặc một việc gì. 5 Đấng tạo ra trời đất, chúa tể của muôn loài, theo tôn giáo. 6 Từ Kitô giáo dùng để gọi chúa Jesus và những cái thuộc về chúa. II t. (kng). Tài, giỏi khác thường.
278.
thanh niên I d. Người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành.
II t. Có đặc điểm thuộc tính của thanh niên.
83
279.
thanh niên. I. dt. Người còn trẻ, đang ở độ tuổi trưởng thành. Thanh niên nam nữ. Thế hệ thanh niên.
II. tt. Có đặc điểm, thuộc tính của thanh niên. Tính rất thanh niên.
280.
thao lược I d. (cũ). Phép dùng binh. II t. (cũ; id). Có tài thao lược.
281.
thổ tả I d. (kng). Dịch tả.
II t. (thgt). Quá tồi tệ, đáng ghét.
282.
thơ1 I d. Hình thức nghệ thuật dùng ngôn ngữ giàu hình ảnh và có nhịp điệu để
thể hiện nội dung một cách hàm súc.
II t. Có vẻ đẹp, giàu sức gợi cảm; nên thơ.
283.
thời đại I d. Khoảng thời gian lịch sử dài được phân chia theo những sự kiện có đặc
trưng giống nhau.
II t. Có tính chất tiêu biểu cho một thời đại.
284.
thời sự I d. Tổng thể nói chung những sự việc ít nhiều quan trọng trong một lĩnh
vực nào đó, thường là xã hội chính trị, xảy ra trong thời gian gần nhất và
đang được nhiều người quan tâm.
II t (kng). Có tính chất thời sự, đang được nhiều người quan tâm.
285.
thủ đoạn I d. Cách làm khôn khéo, thường là xảo trá, chỉ cốt sao cho đạt được mục
đích. II t. (kng). Có nhiều thủ đoạn.
286.
thư sinh I d. Người học trò trẻ tuổi thời trước. II t. (kng). (Thanh niên) có dáng mảnh khảnh, yếu ớt của người ít lao động chân tay, như một thư sinh thời trước.
287.
thứ2 I d. 1 Từ dùng trước d. số lượng để chỉ số lượng trong sắp xếp. 2 Từ dùng
trước d. số lượng để chỉ ngày trong tuần.
84
II t. 1 (dùng hạn chế trong một vài tổ hợp). (Vợ, con) ở hàng thứ hai, sau
vợ cả. 2 (cũ). Trung bình (trong hệ thống phê điểm để xếp hạng; ưu, bình, thứ, liệt, dùng trong học tập, thi cử ngày trước).
288.
thú2 I d. Điều làm cho người ta vui thích.
II t. (hay đg.). (kng). (Làm việc gì đó) cảm thấy vui thích.
289.
thực dụng chủ nghĩa I d. (id). chủ nghĩa thực dụng.
II t. Chỉ nhằm vào những gì có thể mang lại lợi ích vật chất thiết thực và
trước mắt cho mình, không quan tâm đến những mặt khác; theo chủ nghĩa thực dụng.
290.
thực tế I d. 1 Tổng thể nói chung những gì đang tồn tại, đang diễn ra trong tự nhiên
và trong xã hội, về mặt có quan hệ đến đời sống con người. 2 Tổng thể nói
chung những gì cụ thể xảy ra xung quanh một sự việc, một vấn đề nào đó. 3
Trên thực tế, trong thực tế (nói tắt).
II t. 1 Có giá trị, có ý nghĩa thiết thực. 2 Có ý thức coi trọng thực tế và tỏ ra thiết thực trong các hoạt động của mình.
291.
thực tiễn I d. Những hoạt động của con người, trước hết là lao động sản xuất, nhằm tạo ra những điều kiện cần thiết cho sự tồn tại của xã hội (nói tổng quát).
II t. Có ý thức coi trọng thực tiễn trong các hoạt động.
292.
tỉ lệ I d. 1 Tỉ số (thường nói về tỉ số giữa các phần của một tổng thể, hay giữa
một phần nào đó với tổng thể). 2 Tỉ số giữa các kích thước của vật trên hình
vẽ, ảnh chụp, bản đồ với kích thước của vật thật.
II t. Tỉ lệ thuận (nói tắt).
293.
tí xíu I d. (kng; id). Một chút, không đáng kể. II t. (kng). Rất nhỏ bé, nhưng xinh xắn.
294.
tiện nghi1 I d. Những trang bị cần thiết làm cho sinh hoạt hàng ngày được thuận tiện, thoải mái (nói tổng quát).
II t. (kng). Thích hợp và thuận tiện cho sinh hoạt vật chất hàng ngày.
85
295.
tiên1 I d. Nhân vật trong truyện thần thoại, đẹp khác thường, có những phép rất màu nhiệm và cuộc sống rất yên vui.
II t. Thuộc về tiên, có phép màu nhiệm.
296.
tiêu chuẩn I d. 1 Điều quy định làm căn cứ để đánh giá, phân loại. 2 Mức quy định được hưởng, được cung cấp theo chế độ.
II t. (cũ). Chuẩn.
297.
tiểu tư sản I d. Tầng lớp trung gian gồm những người sản xuất nhỏ có tư liệu sản xuất riêng và không bóc lột người khác.
II t. Thuộc tầng lớp tiểu tư sản, có tính chất của tầng lớp tiểu tư sản.
298.
tinh anh I d. Phần tinh tuý, tốt đẹp nhất (thường nói về tinh thần).
II t. (Mắt) sáng và có vẻ thông minh, lanh lợi.
299.
tình cảm I d. 1 Sự rung động trong lòng trước một đối tượng nào đó. 2 Sự yêu mến,
gắn bó giữa người với người.
II t. Tỏ ra giàu tình cảm và dễ thiên về tình cảm.
300.
tình thế I d. Tình hình xã hội cụ thể, về mặt có lợi hay không có lợi cho những hoạt
động nào đó của con người.
II t. (Giải pháp) có tính chất tạm thời, nhằm đối phó với tình hình cụ thể trước mắt.
301.
tình1 I d. 1 Sự yêu mến, gắn bó giữa người với người. 2 Sự yêu đương giữa nam và nữ. 3 Tình cảm nói chung. II t. (kng). Có vẻ duyên dáng, dễ gợi tình cảm yêu thương.
302.
tơ1 I d. 1 Sợi rất mảnh, mượt, do tằm, nhện nhả ra. 2 Tơ tằm dùng làm sợi dệt. 3 Sợi rất mảnh và mượt như tơ tằm. 4 (cũ; vch; kết hợp hạn chế). Dây đàn, dùng để chỉ cây đàn. 5 (cũ; vch; kết hợp hạn chế). Sợi dây, dùng để biểu trưng cho mối tình gắn bó đôi nam nữ.
II t. (Lông, tóc) rất mảnh sợi, mềm và mượt như tơ.
86
303.
tổng thể I d. Tập hợp nhiều sự vật có quan hệ chặt chẽ với nhau, làm thành một thể thống nhất có những đặc trưng chung.
II t. (id). Có tính chất của tổng thể.
304.
topo I d. Topo học (nói tắt). II t. Thuộc về topo học.
305.
tột bậc I d. (không dùng làm chủ ngữ). Bậc cao nhất, mức độ cao nhất.
II t. ở bậc cao nhất, không còn có thể hơn.
306.
trần ai I d. (cũ; vch). Cõi đời vất vả gian truân.
II t. (kng). Vất vả, khổ sở.
307.
trần tục I d. (vch; id). Cõi đời trên mặt đất, cõi trần.
II t. Thuộc về cuộc sống trên cõi trần, coi là vật chất tầm thường, không có
gì thanh cao.
308.
trẻ con I d. Những đứa trẻ (nói khái quát).
II t. Có tính chất của trẻ con (thường hàm ý coi thường).
309.
tri kỉ I d. Bạn rất thân, hiểu rõ lòng mình.
II t. (kng). Có tính chất tri kỉ.
310.
trưa I d. Khoảng thời gian giữa ban ngày, vào lúc mặt trời lên cao nhất.
II t. Muộn so với giờ giấc buổi sáng.
311.
trung tâm I d. 1 Nơi ở giữa của một vùng nào đó. 2 Nơi tập trung những hoạt động trong một lĩnh vực nào đó, có ảnh hưởng đối với những nơi khác. 3 Cơ quan phối hợp những hoạt động nghiên cứu hoặc dịch vụ trong một lĩnh vực nà đó. II t. Quan trọng nhất, có tác dụng quyết định, chi phối đối với những cái khác.
312.
trưởng giả
87
I d. Người xuất thân bình dân nhờ buôn bán, kinh doanh mà giàu có, trong
xã hội cũ. II t. (id). (thường dùng phụ sau d.). Giàu có và chỉ thiên về hưởng thụ.
313.
truyền thống I d. Thói quen hình thành đã lâu đời trong lối sống và nếp nghĩ, được
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. II t. Có tính chất truyền thống, được tuyền lại từ các đời trước.
314.
tư bản I d. 1 giá trị mang lại cho kẻ chiếm hữu nó giá trị thặng dư, có được bằng
cách bóc lột lao động làm thuê. 2 Người chiếm hữu tư bản, bóc lột lao động làm thuê, trong quan hệ với lao động làm thuê.
II t. Tư bản chủ nghĩa.
315.
tự do I d. 1 Phạm trù triết học chỉ khả năng biểu hiện ý chí, làm theo ý muốn của
mình trên cơ sở nhận thức được quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội. 2
Trạng thái một dân tộc, một xã hội và các thành viên không bị cấm đoán,
hạn chế vô trong các hoạt động xã hội - chính trị. 3 Trạng thái không bị giam cầm hoặc không bị làm nô lệ. 4 Trạng thái không bị cấm đoán, không
bị hạn chế vô trong việc làm nào đó.
II t. 1 (kết hợp hạn chế). Các quyền tự do về xã hội - chính trị. 2 Không bị
lực lượng ngoại xâm chiếm đóng.
316.
tự nhiên I d. tất cả nói chung những gì tồn tại mà không phải do can người mới có.
II t. 1 Thuộc về tự nhiên hoặc có tính chất của tự nhiên, không phải do con
người mới có, không phải do con người tác động hoặc can thiệp vào. 2 (cử
chỉ, nói năng...) bình thường như vốn có của bản thân, không có gì là gượng gạo, kiểu cách hoặc gò bó, giả tạo. 3 (thường dùng làm phần phụ trong câu). (Sự việc xảy ra) không có hoặc không rõ lý do, tựa như là một
hiện tượng thuần tuý trong tự nhiên vậy. 4 Theo lẽ thường ở đời, phù hợp với lẽ thường của tự nhiên.
317.
tư sản I d. Người thuộc giai cấp chiếm hữu các tư liệu sản xuất chủ yếu, sống và làm giàu bằng cách bóc lột lao động làm thuê.
II t. Thuộc giai cấp tư sản, có tính chất của giai cấp tư sản.
88
318.
tục2 I d. 1 (kết hợp hạn chế). Cõi đời trên mặt đất, coi là vật chất tầm thường, không thanh cao, đối lập với cõi thần tiên hoặc nói chung một thế giới
tưởng tượng nào đó. 2 (dùng hạn chế trong một số tổ hợp). Người đời;
trong dân gian, phân biệt với trong sách vở.
II t. Thô bỉ, tỏ ra thiếu lịch sự, thiếu văn hoá.
319.
văn minh I d. Trình độ phát triển đạt đến một mức nhất định của xã hội loài người, có
nền văn hoá vật chất và tinh thần với những đặc trưng riêng.
II t. 1 Có những đặc trưng của văn minh, của nền văn hoá phát triển cao. 2
(chm). Thuộc về giai đoạn phát triển thứ ba, sau thời đại dã man, trong lịch sử phát triển xã hội loài người kể từ khi có thuật luyện kim và chữ viết
(theo lịch sử phân kì xã hội của L. H. Morgan).
320.
vật I d. Vật học.
II t. Thuộc về vật học, có tính chất vật học.
321.
vi mô I d. Đối tượng có quy mô nhỏ trong hệ thống, được coi là cấp thấp nhất
(nói khái quát); phân biệt với vĩ mô.
II t. Thuộc cấp xí nghiệp và đơn vị kinh tế cơ sở, nói chung ; phân biệt với
vĩ mô.
322.
vĩ mô I d. Đối tượng quy mô lớn nhất; bao quát toàn hệ thống; phân biệt với vi
mô.
II t. Thuộc phạm vi toàn bộ nền kinh tế; phân biệt với vi mô.
323.
vi phân I d. Phần chính bậc nhất trong số gia của một hàm số. II t. Thuộc về vi phân.
324.
vinh hạnh I d. Điều mang lại vinh dự. II t. Sung sướng có được vinh dự.
325.
vô sản I d. 1 Người thuộc giai cấp công nhân dưới chế độ tư bản(nói khái quát). 2
Người lao động không có tư liệu sản xuất, phải làm thuê và bị bóc lột, nói
89
chung.
II t. 1 Thuộc giai cấp công nhân, có tính chất của giai cấp công nhân. 2 (kng). Hoàn toàn không có tài sản gì cả.
326.
vời1 I d. Vùng nước rộng ngoài xa trên mặt sông hay mặt biển.
II t. (kết hợp hạn chế). Xa lắm.
327.
vườn I d. Khu đất thường rào kín và ngay sát cạnh nhà ở, để trồng cây cỏ có ích.
II t. (kng; dùng làm phụ sau d. trong một số tổ hợp). (Người làm một nghề
nào đó) không chuyên nhghiệp và ở nông thôn (thường hàm ý coi thường).
328.
xã hội chủ nghĩa I d. (cũ). Chủ nghĩa xã hội.
II t. Thuộc về chủ nghĩa xã hội, có tính chất của chủ nghĩa xã hội.
329.
xác I d. 1 Phần thân thể con người, đối lập với phần hồn; thân hình. 2 (kng;
dùng sau đg; kết hợp hạn chế). Cái bản thân của mỗi con người (hàm ý coi
khinh). 3 Thân người hay động vật đã chết. 4 Lớp da, lớp vỏ đã trút bỏ của
một số loài động vật sau khi lột vỏ. 5 Phần võ hay bã của vật còn lại sau khi
đã dược dùng.
II t.Ở trạng thái như chỉ còn trơ trụi cái vỏ, cái hình thức bên ngoài.
330.
xơ I d. 1 Phần dai lẫn trong phần nạc của một số rau, củ hoặc trong phần vỏ
của một số quả. 2 Bản dẹt nằm chen từng đám giữa các múi mít. II t. 1 ở tình trạng như chỉ còn trơ ra những xơ, sợi do bị mòn rách, huỷ
hoại. 2 (hoặc d.). (Hiện tượng) các tế bào bị thoái hoá, cứng lại, mất chức
năng.
331.
xô viết I d. Hình thức tổ chức chính quyền chuyên chính vô sản; cơ quan chính quyền nhà nước ở Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xôviêt trước đây. II t. Thuộc về Liên bang Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Xôviêt trước đây.
332.
xuân I d. 1 Mùa chuyển tiếp từ đôngười sang hạ, thời tiết ấm dần lên, thường được coi là mở đầu cho một năm. 2 (vch). Năm, dùng để tính thời gian đã
trôi qua, hay tuổi đời con người.
90
II t. 1 (vch). Thuộc về tuổi trẻ, coi là tươi đẹp, tràn đầy sức sống.
333.
xung động I d. Luồng kích thích lan từ nơi này đến nơi khác của cơ thể.
II t. (Hành động) có tính bột phát, có nhận thức nhưng không tự ý, không
chủ động, thường do ảnh hưởng của những kích động mạnh.
334.
xương I d. 1 Bộ phận cứng và chắc làm nòng cốt cho cơ thể người và động vật. 2
Phần cứng làm nòng cốt, làm sườn cho một số vật.
II t. (kết hợp hạn chế). Gầy, tựa như nhìn thấy xương.
335.
xương xẩu I d. Xương của thú vật (hàm ý chê), hoặc phần xương còn lại sau khi đã ăn
hết thịt (nói khái quát); thường dùng để ví cái người khác đã vứt bỏ, không
mang lại lợi lộc bao nhiêu.
II t. Gầy đến nhô xương, nổi xương lên.
336.
ý tứ I d. 1 Những ý muốn nói (nói tổng quát). 2 Sự cẩn thận trong cử chỉ, lời nói
tránh những sơ suất làm cho người khác hiểu lầm.
II t. (kng). Có ý tứ.
91

