
239
NGHIÊN CỨU SỰ ĐỔI MỚI MÔ HÌNH KINH DOANH BỀN VỮNG
THỦY SẢN VÀ BÀI HỌC CHO CÁC DOANH NGHIỆP NUÔI TRỒNG
THỦY SẢN VIỆT NAM
ThS. Phan Đ nh Quy t
ThS. Phùng Mạnh Hùng
Trường Đại học Thương mại
TÓM TẮT
Phát triển bền vững là một cách tiếp cận ở tầm chính sách vĩ mô và rất quen thuộc trong
những năm gần đây, đặc biệt là trên các diễn đàn quốc tế. Đồng thời, đó cũng là định hướng
chiến lược của các quốc gia trên thế giới trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ, cũng
như trong bối cảnh của quá trình toàn cầu hóa. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng cũng đang có những sự chuyển mình để hướng tới doanh
nghiệp phát triển bền vững. Trong những năm qua, ngành thủy sản nói chung và các doanh
nghiệp thủy sản Việt Nam nói riêng đã đạt được nhiều thành tích đáng kể, tăng trưởng luôn ở
mức cao, tuy nhiên, so với thực tiễn và tiềm năng vẫn còn một số hạn chế nhất định. Ngành
nuôi trồng thủy sản đứng trước ngã ba đường vì những thay đổi quan trọng của môi trường kinh
doanh. Nhu cầu và sự cạnh tranh đối với các sản phẩm nông nghiệp đang gia tăng trên toàn thế
giới, và do đó, cần nhận thức hơn nữa về tầm quan trọng của việc phát triển bền vững doanh
nghiệp nhỏ và vừa. Theo quan điểm này, đổi mới là rất quan trọng để thúc đẩy các mô hình kinh
doanh bền vững có thể đạt được hiệu quả kinh tế vững chắc và đồng thời quan tâm đến môi
trường tự nhiên. Đặc biệt để đạt được sự phát triển bền vững đòi hỏi các doanh nghiệp thủy sản
Việt Nam cần nhiều hơn nữa sự nỗ lực của mình trong việc thực hiện các cam kết về bền vững
với ba trụ cột kinh tế, môi trường và xã hội. Nghiên cứu này của nhóm tác giả sẽ tiến hành hệ
thống hóa các quan điểm về phát triển bền vững doanh nghiệp, sự đổi mới mô hình kinh doanh
bền vững trong ngành thủy sản của một doanh nghiệp điển hình thành công trên thế giới và có
những nét tương đồng các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam để từ đó rút ra những bài học kinh
nghiệm cho các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam.
Từ khóa: kinh doanh bền vững, thủy sản
ABSTRACT
Sustainable development is a macro-policy approach and has been very familiar in recent
years, especially in international forums. At the same time, it is also the strategic direction of the
countries in the world in the era of science and technology revolution, as well as in the globalization
context. In that context, businesses in the world in general and in Vietnam in particular are also
making changes towards sustainable business development. Over the past years, the fisheries sector
in general and Vietnamese seafood enterprises in particular have achieved many remarkable
achievements, the growth is always at a high level, however, compared with the reality and
potential, there are still some certain limitations. The aquaculture industry stands at a crossroads
because of important changes in the business environment. Demand and competition for
agricultural products are increasing, and therefore, it is very nescesary to aware the importance of

240
sustainable small and medium size enterprises development. In this viewpoint, innovation is very
important to foster sustainable business models that can achieve solid economic performance and at
the same time take care of the natural environment. Especially, achieving sustainable development
requires efforts of Vietnamese seafood businesses to fulfill their commitment to sustainability with
the three pillars of economy, environment and society. This study of the authors will systematize
the perspectives on sustainable business development, innovation of sustainable business models in
the fisheries sector of a typical successful business in the world. similarities with Vietnamese
seafood enterprises to draw lessons for Vietnamese seafood enterprises.
Keywords: sustainable business, fishery
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Phát triển bền vững là một phương thức phát triển tổng hợp đa ngành, liên ngành, thành
chương trình hành động với nhiều tiêu chí ngày càng được cụ thể và rõ nét. Phát triển bền vững,
mang tính tất yếu và là mục tiêu cao đẹp của quá trình phát triển. Phát triển bền vững là mối quan
tâm trên phạm vi toàn cầu. Trong tiến trình phát triển của thế giới, mỗi khu vực và quốc gia xuất
hiện nhiều vấn đề bức xúc mang tính phổ biến.
Thủy sản luôn được các nhà nghiên cứu đánh giá là sản phẩm có lợi cho sức khỏe, và tiêu
thụ hải sản là quan trọng đối với chế độ ăn uống lành mạnh (Schlag và Ystgaard, 2013; STECF,
2014). Nhiều nhà khoa học trên thế giới cũng đã phối hợp cùng nhau cùng với việc sử dụng
nhiều phương pháp luận, công cụ khác nhau đã khởi tạo được bản đồ nhận thức chiến lược và
mô hình kinh doanh để phát triển bền vững các doanh nghiệp có quy mô nhỏ và vừa (SMEs)
(Bagnoli, 2012; KnowUs, 2013). Các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam đa phần là những doanh
nghiệp có quy mô nhỏ và vừa. Trong nhiều năm gần đây thủy sản Việt Nam cũng đã đạt được
nhiều dấu ấn khi mà doanh số không ngừng gia tăng. Tuy nhiên để đảm bảo được sự phát triển
bền vững thì đòi hỏi các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam sẽ phải có những giải pháp phù hợp
trong thời gian tới. Trong nghiên cứu này nhóm tác giả thực hiện đánh giá mô hình kinh doanh
bền vững của một doanh nghiệp thủy sản tại Slovenia - một doanh nghiệp mang nhiều đặc điểm
của các doanh nghiệp thủy sản Việt nam để đưa ra các nhận định quan trọng - là những bài học
rút ra cho các doanh nghiệp thủy sản Việt Nam.
2. MỘT SỐ QUAN ĐIỂM L THU ẾT
2.1. Khái niệm phát triển bền vững
Năm 1980, trong bản “Chiến lược bảo tồn thế giới” do Liên minh Quốc tế Bảo tồn Thiên
nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên (IUCN-International Union for Conservation of Nature and
Natural Resources) đã đưa ra mục tiêu của phát triển bền vững là “đạt được sự phát triển bền vững
bằng cách bảo vệ các tài nguyên sinh vật” và thuật ngữ phát triển bền vững ở đây được đề cập tới
với một nội dung hẹp, nhấn mạnh tính bền vững của sự phát triển về mặt sinh thái, nhằm kêu gọi
việc bảo tồn các tài nguyên sinh vật.
Năm 1987, trong Báo cáo “Tương lai chung của chúng ta”, Ủy ban Thế giới về Môi trường và
Phát triển (WCED-World Commission on Environment and Development) của Liên Hợp Quốc,
“phát triển bền vững” được định nghĩa là “Sự phát triển đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà
không làm tổn thương khả năng cho việc đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai”.

241
Quan niệm này chủ yếu nhấn mạnh khía cạnh sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên
và bảo đảm môi trường sống cho con người trong quá trình phát triển (Gôdian và Hecdue, 1988;
GS. Grima Lino).
Nội hàm về phát triển bền vững được tái khẳng định ở Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi
trường và Phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Brazil) năm 1992 và được bổ sung, hoàn chỉnh tại
Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững tổ chức ở Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi)
năm 2002: “Phát triển bền vững” là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa
giữa ba mặt của sự phát triển, gồm: phát triển kinh tế (nhất là tăng trưởng kinh tế), phát triển xã hội
(nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội; xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm) và bảo vệ
môi trường (nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; phòng
chống cháy và chặt phá rừng; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên).
Về nguyên tắc, phát triển bền vững là quá trình vận hành đồng thời ba bình diện phát triển:
kinh tế tăng trưởng bền vững, xã hội thịnh vượng, công bằng, ổn định, văn hóa đa dạng và môi
trường được trong lành, tài nguyên được duy trì bền vững. Do vậy, hệ thống hoàn chỉnh các nguyên
tắc đạo đức cho phát triển bền vững bao gồm các nguyên tắc phát triển bền vững trong cả “ba thế
chân kiềng” kinh tế, xã hội, môi trường.
Dưới góc độ doanh nghiệp, bền vững doanh nghiệp là một định hướng chiến lược và chứa
đựng một cách tiếp cận toàn diện trong đó các vấn đề về tính bền vững xã hội, tài chính, sức khỏe
và giáo dục làm nền tảng cho tính bền vững cơ bản của môi trường. Tính bền vững ngày càng thu
hút được sự quan tâm khi các công ty ngày càng gắn kết tính bền vững với hiệu quả kinh doanh
dài hạn (Bocken và cộng sự, 2013b). Tính bền vững cho biết khả năng của một tổ chức hoặc một
hệ thống để duy trì một mức độ hoạt động kinh tế trong thời gian dài mà không ảnh hưởng đến
khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng nhu cầu của chính họ ((Barnard và Van der
Merwe, 2016, 210; Bocken và cộng sự, 2013b; Galpin và cộng sự, 2015; Jones và cộng sự, 2008;
Wagner và Svensson, 2014). Theo Kozlowski và cộng sự (2015, 378), tính bền vững và mô hình
kinh doanh bền vững đóng một vai trò quan trọng hơn là việc đi tìm kiếm và có được thị trường
ngách. Từ góc độ các doanh nghiệp nhỏ và vừa đổi mới thường đề cập đến các sản phẩm hoặc
quy trình mới đáp ứng nhu cầu khách hàng tốt hơn, rẻ hơn hoặc nhanh hơn hiện tại. Muốn đổi
mới doanh nghiệp đòi hỏi người quản lý doanh nghiệp phải có tư duy đổi mới và có những định
hướng đổi mới (Cummins và cộng sự, 2000; O'Dwyer và cộng sự, 2009; Galpin và cộng sự, 2015;
Guo và cộng sự, 2013). Smith-Sebasto và Shebitz (2013) coi đổi mới bền vững là một đổi mới
nhằm giải quyết các vấn đề bền vững và thúc đẩy tốc độ tăng trưởng về mặt kinh tế và được chấp
nhận về mặt tự nhiên và xã hội. Định hướng phát triển bền vững và đổi mới bền vững đại diện
cho các yếu tố chính cho sự phát triển thuận lợi và dài hạn của doanh nghiệp nhỏ và vừa
(DNNVV) dựa trên sự hiểu biết và quan tâm đầy đủ đến lợi ích của các bên liên quan (O‟Dwyer
và cộng sự, 2009; Guo và cộng sự, 2013). Đồng thời nhiều nghiên cứu cũng nhấn mạnh đổi mới
sản phẩm và quy trình nhiều khi không còn mang lại các lợi thế cạnh tranh rõ rệt với các đối thủ
cạnh tranh về lâu dài (McGrath, 2011). Cùng với đó, công nghệ Thông tin và Truyền thông (ICT),
mang đến những cơ hội chưa từng có để sắp xếp lại các hoạt động tạo ra giá trị theo những cách
mới và khác biệt. Do đó, các công ty coi đổi mới mô hình kinh doanh là cơ hội để xây dựng lợi
thế cạnh tranh bền vững (Teece, 2010) cũng như xem xét lại chúng theo quan điểm thân thiện hơn
với môi trường (OECD, 2012)

242
2.2. Tiêu chí của phát triển bền vững doanh nghiệp
H nh 1. Mô h nh bền vững của các doanh nghiệp (Janusz và Bajdor, 2013)
Thứ nhất, với góc độ kinh tế thì một doanh nghiệp được đánh giá phát triển bền vững là doanh
nghiệp tăng trưởng ổn định, đảm bảo năng suất và tỷ suất lợi nhuận cao nhưng không chấp nhận
tăng trưởng bằng mọi giá. Cùng với đó là một doanh nghiệp được đánh giá là bền vững thì doanh
nghiệp đó cần tăng giá trị cho các cổ đông. Yếu tố được chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng
chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập trung mang lại lợi nhuận cho một số ít.
Khía cạnh phát triển bền vững về kinh tế hướng doanh nghiệp tới một số nội dung cơ bản
như: giảm dần mức tiêu phí năng lượng và các tài nguyên khác thông qua công nghệ tiết kiệm để
cắt giảm tối đa chi phí; thay đổi nhu cầu tiêu thụ không gây hại đến đa dạng sinh học và môi
trường; bình đẳng trong tiếp cận các nguồn tài nguyên;…
Thứ hai, phát triển bền vững về xã hội được đánh giá bằng các tiêu chí, như lao động thực
tiễn, quyền con người, tác động trực tiếp xã hội, trách nhiệm sản phẩm, an sinh xã hội.
Công bằng xã hội và phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao
nhất về phát triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức
khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh.
Phát triển bền vững về xã hội chú trọng vào sự công bằng và xã hội luôn cần tạo điều kiện
thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cố gắng cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm
năng bản thân và có điều kiện sống chấp nhận được.
Cùng với đó là doanh nghiệp phát triển bền vững hướng tới tạo ra nhiều việc làm, giảm tỷ lệ
người lao động thất nghiệp…
Thứ ba, phát triển bền vững về môi trường. Bền vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố
tự nhiên đó, chất lượng môi trường sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong
sạch về không khí, nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần
được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc gia hoặc
quốc tế.
Khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường và cải thiện chất lượng
môi trường sống. Phát triển bền vững về môi trường đòi hỏi chúng ta duy trì sự cân bằng giữa bảo
vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ lợi ích con người
nhằm mục đích duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới hạn nhất định cho
phép môi trường tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên Trái đất.
S phát tri n bền vng
ca các doanh nghip
ôi trưng
Kinh t Xã h i

243
Khai thác tài nguyên thiên nhiên thì song song với đó là thúc đẩy hoạt động nuôi trồng để giảm bớt
sự phụ thuộc vào nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Phát triển bền vững về môi trường gồm những nội dung cơ bản: Một là, sử dụng có hiệu quả
tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên không tái tạo; Hai là, phát triển không vượt quá ngưỡng chịu tải
của hệ sinh thái; Ba là, bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ tầng ôzôn; Bốn là, kiểm soát và giảm thiểu
phát thải khí nhà kính; Năm là, bảo vệ chặt chẽ các hệ sinh thái nhạy cảm; Sáu là, giảm thiểu xả
thải, khắc phục ô nhiễm (nước, khí, đất, lương thực thực phẩm), cải thiện và khôi phục môi trường
những khu vực ô nhiễm... Đối với ngành thủy sản thì phát triển bền vững về môi trường gắn với
nhiều nội dung khác nhau trong đó song song với việc nuôi cá thì cũng cần lưu ý đến việc đánh bắt
cá bền vững. Đánh bắt bền vững thường được định nghĩa là đánh bắt có thể được duy trì vô thời hạn
mà không ảnh hưởng đến khả năng tồn tại của các loài đánh bắt được hoặc ảnh hưởng tiêu cực đến
các loài khác tạo thành một phần của hệ sinh thái hoặc các cộng đồng đánh bắt phụ thuộc vào
ngành. Các nguyên tắc chung được thiết lập bởi Bộ quy tắc ứng xử về đánh bắt cá có trách nhiệm
của Tổ chức Nông lương (F O) và Hướng dẫn tự nguyện của tổ chức này để đảm bảo nghề cá quy
mô nhỏ bền vững trong bối cảnh an ninh lương thực và Xóa đói giảm nghèo của F O, là trọng tâm
để đảm bảo một mô hình nghề cá bền vững. Các nguyên tắc này nêu bật đóng góp quan trọng của
đánh bắt truyền thống đối với việc làm, doanh thu và nguồn cung cấp lương thực đảm bảo và do đó
khuyến khích các Quốc gia bảo vệ quyền của người lao động và ngư dân, đặc biệt là những người
tham gia đánh bắt truyền thống, cũng như cung cấp các ưu đãi tiếp cận các nguồn tài nguyên và ngư
trường truyền thống trong vùng biển quốc gia, nếu có. Một số tác giả đánh giá các tác động sinh
thái bằng cách so sánh việc tuân thủ quy tắc và kết quả của họ chỉ ra rằng các quốc gia có mức độ
tuân thủ cao hơn với Quy tắc ứng xử của F O trong năm 2008 đã trải qua sự gia tăng tính bền vững
của nghề cá từ những năm 1990 đến 2000. Cùng dòng với hướng dẫn SSF, nghiên cứu thiết lập một
loạt các tiêu chí để đánh bắt bền vững, dựa trên tám lĩnh vực khác nhau liên quan đến hệ sinh thái:
bảo vệ các loài nhạy cảm và môi trường sống, duy trì tất cả các loại loài ở mức chấp nhận được, sử
dụng đánh bắt có chọn lọc các phương pháp, duy trì đa dạng sinh học, giảm thiểu năng lượng và các
sản phẩm hóa học được sử dụng, trách nhiệm xã hội và kinh tế và công bằng cũng như nhận thức về
nguồn gốc của sản phẩm đánh bắt trong suốt chuỗi. Do đó, khái niệm đánh bắt bền vững hiện không
chỉ giới hạn trong bối cảnh môi trường mà đề cập đến một tam giác bao gồm tính bền vững về môi
trường, kinh tế và xã hội. Theo khuôn khổ này, mô hình thủy sản bền vững được đề xuất và đánh
giá trong nghiên cứu này được hướng dẫn bởi hướng dẫn quốc tế về quản lý nghề cá kinh doanh
nhỏ bền vững (SSF) và dựa trên việc áp dụng đúng các tiêu chí đã được CPF (Cải cách nghề cá
chung châu u) thông qua, với một số biện pháp bổ sung nhất định.
2.3. Đổi mới mô h nh kinh doanh (BM) h ớng tới phát triển bền vững
Đổi mới mô hình kinh doanh được xem là một cách thức để phát triển bền vững và quan điểm
này nhận được sự ủng hộ của Porter khi ông cho rằng về lâu dài chỉ những công ty đổi mới mô hình
kinh doanh thành công để xây dựng lợi thế cạnh tranh bền vững thì những công ty đó mới thành
công (Porter, 1996); điều này ngụ ý rằng doanh nghiệp nên thực hiện các hoạt động khác với đối
thủ cạnh tranh hoặc các hoạt động tương tự theo những cách khác nhau. Do đó, quá trình tạo ra và
phân phối giá trị của một công ty cần phân biệt với các đối thủ cạnh tranh. Mô hình kinh doanh
(BM) với tư cách là một khái niệm quản lý có ba chủ đề chung đã được xác định: (1) nó nhấn mạnh
một cách tiếp cận tổng thể để giải thích cách công ty “thực hiện công việc kinh doanh”; (2) nó tập