BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ Y TẾ
ĐẠI HỌC Y DƯỢC THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
BÙI HUỲNH ANH
NGHIÊN CỨU HIỆU QUẢ
CHE TỦY RĂNG TRỰC TIẾP
CỦA XI MĂNG CALCI SILICAT
NGÀNH: RĂNG-HÀM-MẶT
MÃ SỐ: 9720501
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. PHẠM VĂN KHOA
TP. HỒ CHÍ MINH – Năm 2022
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận án là trung thực, khách quan và chưa
từng được công bố ở bất kỳ nơi nào.
Tác giả luận án
Bùi Huỳnh Anh
MỤC LỤC
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... i
ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ ANH - VIỆT ....................................................... iii
DANH MỤC BẢNG ........................................................................................ iv
DANH MỤC BIỂU ĐỒ ................................................................................... vi
DANH MỤC HÌNH ........................................................................................ vii
DANH MỤC SƠ ĐỒ ....................................................................................... ix
ĐẶT VẤN ĐỀ .................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU........................................................ 4
1.1. ĐIỀU TRỊ CHE TỦY TRỰC TIẾP ............................................................ 4
1.1.1. Nguyên nhân và bệnh căn học ....................................................... 4
1.1.2. Chỉ định và chống chỉ định ............................................................ 4
1.1.3. Mục tiêu điều trị ............................................................................. 4
1.1.4. Nguyên tắc thực hiện thủ thuật CTTT ........................................... 5
1.1.5. Vật liệu che tủy .............................................................................. 5
1.2. THÀNH PHẦN VÀ PHẢN ỨNG HÓA HỌC CỦA CALCI SILICAT .... 6
1.2.1. Chất khoáng trioxid tổng hợp MTA (Mineral trioxid aggregat) .... 7
1.2.2. BiodentineTM .................................................................................. 8
1.2.3. Phản ứng hydrat hóa ..................................................................... 10
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA VẬT LIỆU SINH HỌC MTA VÀ BIODENTINE .... 12
1.3.1. Độ pH ........................................................................................... 12
1.3.2. Thời gian đông cứng .................................................................... 13
1.3.3. Độ bền lưu và độ bền dán............................................................. 14
1.3.4. Vi kẽ ............................................................................................. 14
1.3.5. Độ cản quang ................................................................................ 15
1.4. SỰ ĐỔI MÀU ........................................................................................... 15
1.5. KHẢ NĂNG KHÁNG KHUẨN .............................................................. 16
1.6. KHẢ NĂNG KHÁNG VIÊM ................................................................... 16
1.7. TƯƠNG HỢP SINH HỌC ........................................................................ 18
1.7.1. Độc tính thần kinh và tác dụng thần kinh .................................... 18
1.7.2. Đột biến gen, độc tính tế bào và độc tính gen .............................. 19
1.8. HOẠT TÍNH SINH HỌC ......................................................................... 20
1.8.1. Khả năng tân tạo tế bào ................................................................ 20
1.8.2. Khả năng hình thành mô khoáng hóa ........................................... 21
1.9. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CTTT VỚI MTA VÀ BIODENTINE
TRONG TRONG NƯỚC VÀ THẾ GIỚI....................................................... 25
1.9.1. Nghiên cứu đánh giá cảm giác đau sau điều trị ........................... 25
1.9.2. Nghiên cứu đánh giá khả năng bảo tồn sự sống tủy và tỷ lệ thành
công lâm sàng ............................................................................... 28
1.9.3. Nghiên cứu đánh giá phản ứng tủy qua hình ảnh X quang .......... 28
1.9.4. Nghiên cứu đánh giá hình ảnh mô học......................................... 32
1.10.NHỮNG NHẬN ĐỊNH TÓM TẮT VỀ VẬT LIỆU VÀ TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU CTTT TRONG NƯỚC VÀ THẾ GIỚI ................................ 34
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU......... 39
2.1. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU ...................................................................... 39
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU ................................................................. 39
2.2.1. Dân số chọn mẫu ............................................................................. 39
2.2.2. Tiêu chí lựa chọn ............................................................................ 39
2.2.3. Tiêu chí loại trừ ............................................................................... 39
2.3. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU ......................................... 40
2.4. CỠ MẪU CỦA NGHIÊN CỨU .............................................................. 40
2.4.1. Tính cỡ mẫu .................................................................................... 40
2.4.2. Phương pháp chọn mẫu .................................................................. 41
2.5. BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU ........................................................................ 42
2.6. PHƯƠNG PHÁP, CÔNG CỤ ĐO LƯỜNG, THU THẬP SỐ LIỆU ..... 43
2.6.1. Các phiếu thu thập số liệu ............................................................... 43
2.6.2. Vật liệu điều trị CTTT .................................................................... 45
2.7. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU .................................................................. 45
2.7.1. Quy trình nghiên cứu lâm sàng (I) .................................................. 47
2.7.2. Quy trình nghiên cứu X quang (II) ................................................. 52
2.7.3. Quy trình nghiên cứu mô học (III) ................................................. 56
2.8. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH DỮ LIỆU .............................................. 58
2.8.1. Kiểm soát sai lệch thông tin ............................................................ 58
2.8.2. Thu thập số liệu ............................................................................... 59
2.8.3. Xử lý số liệu .................................................................................... 60
2.9. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU....................................................... 61
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ ............................................................................... 64
3.1. ĐẶC ĐIỂM MẪU NGHIÊN CỨU .......................................................... 64
3.1.1. Đặc điểm về tuổi bệnh nhân (S1.1) ................................................ 64
3.1.2. Đặc điểm về giới tính (S1.2) ........................................................... 64
3.1.3. Đặc điểm về răng ............................................................................ 64
3.1.4. Thời gian đặt vật liệu CTTT ........................................................... 65
3.2. ĐÁNH GIÁ LÂM SÀNG VÀ CẢM GIÁC ĐAU TRONG ĐIỀU TRỊ
CTTT ............................................................................................................... 65
3.2.1. Đánh giá các chỉ số lâm sàng (biến số S2.1 -S2.9) ......................... 65
3.2.2. Đánh giá các thử nghiệm tủy (S2.10 - S2.13) ................................ 67
3.2.3. Đánh giá cảm giác đau (biến số S2.14 - S2.21) .............................. 67
3.3. ĐÁNH GIÁ PHIM X QUANG ................................................................ 72
3.3.1. Đánh giá phim quanh chóp (S3.1-S3.8).......................................... 72
3.3.2. Đánh giá phim CBCT (S4.1-S4.12) ................................................ 76
3.4. ĐÁNH GIÁ MÔ HỌC ............................................................................. 83
3.4.1. Sự xâm nhập vi khuẩn (S5.1) .......................................................... 83
3.4.2. Tình trạng viêm (S5.2-5.4) ............................................................. 84
3.4.3. Sự hình thành mô khoáng hóa sửa chữa (S5.5-5.7) ........................ 85
3.4.4. Lớp tế bào dạng nguyên bào ngà hoặc nguyên bào sợi (S5.8) ....... 87
3.5. TỶ LỆ THÀNH CÔNG ........................................................................... 87
3.5.1. Tỷ lệ thành công về lâm sàng (S6.1) .............................................. 87
3.5.2. Tỷ lệ thành công về X quang (S6.2) ............................................... 88
3.5.3. Tỷ lệ thành công về mô học (S6.3) ................................................. 90
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN ............................................................................ 91
4.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NGHIÊN CỨU ............................................ 91
4.1.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................... 91
4.1.2. Phương pháp nghiên cứu .............................................................. 93
4.1.3. Quy trình nghiên cứu .................................................................... 96
4.2. ĐÁNH GIÁ LÂM SÀNG ....................................................................... 101
4.2.1. Đặc điểm lâm sàng chung của răng trước và sau điều trị .......... 101
4.2.2. Đau và nhạy cảm sau điều trị ..................................................... 108
4.3. ĐÁNH GIÁ X QUANG (PHIM QUANH CHÓP VÀ CBCT) .............. 113
4.3.1. Phương pháp đo đạc và các điểm mốc tham chiếu trên phim
tia X ............................................................................................ 114
4.3.2. Thay đổi độ dày ngà ................................................................... 115
4.3.4. Sang thương quanh chóp ............................................................ 127
4.4. ĐÁNH GIÁ MÔ HỌC ............................................................................ 128
4.4.1. Sự xâm nhập vi khuẩn ................................................................ 128
4.4.2. Đáp ứng ngà tủy ......................................................................... 131
4.5. ĐÁNH GIÁ TỶ LỆ THÀNH CÔNG ..................................................... 138
4.6. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI ...................................................................... 145
4.7. Ý NGHĨA ỨNG DỤNG VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI ........................ 147
4.7.1. Ý nghĩa ứng dụng ....................................................................... 147
4.7.2. Hạn chế của đề tài ...................................................................... 148
KẾT LUẬN .................................................................................................. 149
KIẾN NGHỊ ................................................................................................. 151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
i
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt Tiếng Anh
Tiếng Việt
AMTA Angelus Mineral Trioxid
Chất khoáng trioxid tổng hợp
Aggregate
Angelus
Al
Nhôm
BD
BiodentineTM
BMP
Bone morphogenetic protein
Protein hình thái xương
BN
Bệnh nhân
CBCT
Cone-beam computed
Chụp cắt lớp điện toán với chùm tia
tomography
X hình nón
CTTT
Direct pulp capping
Che tủy trực tiếp
CHX
Chlorhexidine
ĐLC
Độ lệch chuẩn
EPA
Environmental Protection Agency Cơ quan Bảo Vệ môi trường Hoa Kỳ
ESE
European Society of
Hiệp hội Nội nha Châu Âu
Endodontology
G
Gần
HD
Hàm dưới
HE
Hematoxylin – Eosin
HT
Hàm trên
HU
Hounsfield unit
Đơn vị đo giá trị voxel
IAEA
International Atomic Energy
Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc
Agency
tế
IASP
International Association for the
Hiệp hội nghiên cứu về đau quốc tế
Study of Pain
ICDAS
International Caries Detection and
Hệ thống đánh giá và phát hiện sâu
Assessment System
răng quốc tế
ii
Viết tắt Tiếng Anh
Tiếng Việt
IL
Interleukin
Phân tử tín hiệu cytokin
MSv
Millisievert
Đơn vị đo liều bức xạ
MTA
Mineral Trioxid Aggregate
Ngoài
N
NRS
Numeric Rating Scale
Thang đánh đau bằng số
PMTA
ProRoot Mineral Trioxid
Chất khoáng trioxid tổng hợp Proroot
Aggregate
Răng cối lớn
RCL
Răng cối nhỏ
RCN
Trong
T
Trung bình
TB
Transforming growth factor
Yếu tố tăng trưởng chuyển dạng
TGF
Visual Analogue Scale
Thang đánh giá đau bằng thị giác
VAS
Xa
X
iii
ĐỐI CHIẾU THUẬT NGỮ ANH - VIỆT
TIẾNG ANH TIẾNG VIỆT
Ameoblast Nguyên bào men
Bioceramic material Vật liệu sứ sinh học
Dental pulp stem cell Tế bào gốc tủy răng
Dentin bridge Cầu ngà
Direct pulp capping Che tủy trực tiếp
Gingival fibroblast Nguyên bào sợi nướu
Indirect pulp capping Che tủy gián tiếp
Lamina dura Khoảng phiến cứng quanh chóp
Odontoblast Nguyên bào ngà
Periodontal ligament fibroblast Nguyên bào sợi dây chằng nha chu
Pulp fibroblast Nguyên bào sợi tủy
Pulpitis Viêm tủy
Regenerative endodontics Nội nha tái tạo
Stem cells from apical papilla Tế bào gốc nhú chóp răng
iv
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Thành phần chính các loại MTA và Biodentine. ............................. 9
Bảng 1.2: Giá trị ước tính của các loại mô theo đơn vị Hounsfield unit ........ 31
Bảng 2.1: Phân loại, định nghĩa và giá trị các biến số. ................................... 42
Bảng 2.2: Các thời điểm chụp X quang quanh chóp và CBCT ...................... 53
Bảng 3.1: Đặc điểm tuổi của bệnh nhân trong hai cặp nhóm nghiên cứu. ..... 64
Bảng 3.2: Đặc điểm loại răng cối nhỏ trong hai cặp nhóm nghiên cứu. ......... 65
Bảng 3.3: Đặc điểm phần hàm trong hai cặp nhóm nghiên cứu. .................... 65
Bảng 3.4: Đặc điểm thời gian đặt vật liệu che tủy trực tiếp. .......................... 65
Bảng 3.5: Cảm giác đau trong thử nghiệm gõ dọc ở nhóm MTA1-BD1 và
MTA2-BD2. .................................................................................................... 68
Bảng 3.6: Cường độ đau ở nhóm MTA1-BD1 và MTA2-BD2. ..................... 70
Bảng 3.7: Thời gian, tác nhân, kiểu đau và đặc điểm tần suất đau ở nhóm
MTA1 và BD1. ................................................................................................ 71
Bảng 3.8: Thời gian, tác nhân, kiểu đau và đặc điểm tần suất đau ở nhóm
MTA2 và BD2. ................................................................................................ 72
Bảng 3.9: Sự thay đổi độ dày ngà gần-xa trên phim quanh chóp ở nhóm
MTA1 và BD1. ................................................................................................ 73
Bảng 3.10: Sự thay đổi độ dày ngà gần-xa trên phim quanh chóp ở nhóm
MTA2 và BD2. ................................................................................................ 73
Bảng 3.11: Kích thước và sự liên tục cầu ngà trên phim quanh chóp ở nhóm
MTA1 và BD1. ................................................................................................ 74
Bảng 3.12: Kích thước và sự liên tục cầu ngà trên phim quanh chóp ở nhóm
MTA2 và BD2. ................................................................................................ 75
Bảng 3.13: Sự thay đổi độ dày ngà trên phim CBCT. .................................... 77
Bảng 3.14: Đánh giá cầu ngà trên phim CBCT ở nhóm MTA1 và BD1. ....... 78
v
Bảng 3.15: Đánh giá cầu ngà trên phim CBCT ở nhóm MTA2 và BD2. ....... 78
Bảng 3.16: Thể tích cầu ngà trên phim CBCT ở nhóm MTA1 và BD1. ........ 80
Bảng 3.17: Thể tích cầu ngà trên phim CBCT ở nhóm MTA2 và BD2. ........ 80
Bảng 3.18: Thể tích cầu ngà- giá trị chuẩn hóa ở hai cặp nhóm. .................... 82
Bảng 3.19: Đánh giá mật độ ở nhóm MTA1 và BD1. .................................... 83
Bảng 3.20: Đánh giá mật độ ở nhóm MTA2 và BD2. .................................... 83
Bảng 3.21: Đánh giá mô học về hình thành mô khoáng sửa chữa nhóm MTA1
và BD1. ............................................................................................................ 85
Bảng 3.22: Tỷ lệ thành công lâm sàng, X quang và mô học. ......................... 88
Bảng 4.1: Tổng hợp nghiên cứu che tủy răng vĩnh viễn trên thế giới và nghiên
cứu này. ......................................................................................................... 142
Bảng 4.2: Tỷ lệ thành công của các nghiên cứu CTTT khác và nghiên cứu này
theo thời gian. ................................................................................................ 143
Bảng 4.3: Tỷ lệ thành công CTTT với MTA và BD theo các yếu tố ảnh
hưởng. ............................................................................................................ 143
vi
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1: Chỉ số mảng bám. ....................................................................... 66
Biểu đồ 3.2: Chỉ số nướu. ............................................................................... 66
Biểu đồ 3.3: Cảm giác đau trong thử nghiệm gõ dọc. .................................... 69
Biểu đồ 3.4: Cường độ đau. ............................................................................ 70
Biểu đồ 3.5: Thời gian đau, tác nhân đau, kiểu đau và đặc điểm tần suất đau.
......................................................................................................................... 72
Biểu đồ 3.6: Sự thay đổi độ dày ngà gần-xa trên phim quanh chóp. .............. 73
Biểu đồ 3.7: Giá trị độ dày cầu ngà trung bình trên phim quanh chóp. .......... 75
Biểu đồ 3.8: Độ dày trung bình cầu ngà. ........................................................ 76
Biểu đồ 3.9: Sự liên tục cầu ngà. .................................................................... 76
Biểu đồ 3.10: Giá trị độ dày cầu ngà trung bình trên phim CBCT. ................ 79
Biểu đồ 3.11: Độ dày cầu ngà TB trên phim CBCT. ...................................... 79
Biểu đồ 3.12: Sự liên tục của cầu ngà trên phim CBCT. ................................ 79
Biểu đồ 3.13: Giá trị thể tích cầu ngà. ............................................................ 81
Biểu đồ 3.14: Thể tích cầu ngà trên phim CBCT. .......................................... 81
vii
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Quá trình hydrat hóa tricalci silicat (Bachoo 2013). ....................... 11
Hình 1.2: Minh họa quá trình tái sinh ngà tủy. Sau tổn thương sâu răng, tế bào
tủy như nguyên bào sợi tăng phóng thích yếu tố tăng trưởng ........................ 22
Hình 1.3: Răng che tủy MTA 12 tháng (Miles 2010). Không biểu hiện bệnh lý
vùng quanh chóp trước và sau điều trị. ........................................................... 29
Hình 1.4: Mô khoáng hóa sau che tủy với calci hydroxid .............................. 32
Hình 1.5: Nhuộm HE che tủy với Biodentine ................................................. 34
Hình 2.1: Thang đo đau VAS (Visual Analogue Scale) bằng hình ảnh khuôn
mặt và thang đo số với các mức độ 0-10. ....................................................... 45
Hình 2.2: MTA Angelus (A) và BiodentineTM (B). ........................................ 45
Hình 2.3: Thử điện đánh giá sự nhạy cảm tủy. ............................................... 49
Hình 2.4: Quy trình đặt vật liệu che tủy .......................................................... 51
Hình 2.5: Xác định mặt phẳng chuẩn trên phim CBCT và đo độ dày ngà chân
răng phía N, T, G, X ........................................................................................ 55
Hình 2.6: Đo thể tích cầu ngà vật liệu che tủy và mật độ (MS B11). ............. 56
Hình 2.7: Phim X quang được theo dõi mức độ khử khoáng của mẫu nghiên
cứu (A09). ....................................................................................................... 56
Hình 3.1: Không tìm thấy vi khuẩn ở ba vị trí (A,D) thành xoang, (B,E) trong
ống ngà ............................................................................................................ 84
Hình 3.2: Hình ảnh tăng sung huyết, tập trung sợi collagen (S) trong tủy (T),
và cầu ngà có độ dày không đồng nhất ở nhóm MTA .................................... 84
Hình 3.3: Giới hạn mô khoáng hóa dày đều đặn, liên tục, che tủy hoàn toàn
vùng tủy lộ (A), gián đoạn (B) và không có mô khoáng sửa chữa (C) ........... 86
Hình 3.4: Hình ảnh các ống ngà có cùng hướng, khá song song; cầu ngà là mô
khoáng vô định hình, không rõ ống ngà.......................................................... 86
viii
Hình 4.1: Phim quanh chóp, hình ảnh CTT trước và sau nhổ răng, xuất hiện
cầu ngà ở nhóm MTA ................................................................................... 118
Hình 4.2: Đo thể tích cầu ngà ở răng trước nhổ - sau nhổ và tái cấu trúc ba
chiều tương quan giữa khối vật liệu che tủy và cầu ngà ở nhóm BD ........... 120
Hình 4.3: Che tủy với MTA (A,B) (MS A11) và BD (C,D) (MS B08) cầu ngà
dạng liên tục, có nhánh nối đến vùng tủy lộ. ................................................ 122
Hình 4.4: Cầu ngà dạng khoáng hóa lan tỏa ở trường hợp CTTT với BD ... 122
Hình 4.5: Sau đặt CTTT BD (A), phim quanh chóp, vùng quanh chóp không
có dấu hiệu dãn rộng và hình thành cầu ngà (B); phim CBCT có tạo cầu ngà
(C) (MS B15). ............................................................................................... 128
Hình 4.6: Lớp ngà phản ứng dày lên ở dọc thành tủy ở nhóm MTA và BD. 135
Hình 4.7: Tế bào dạng nguyên bào ngà (A, B, C) và tế bào dạng nguyên bào
sợi (D, E, F). .................................................................................................. 137
ix
DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Tricalci silicat tương tác với mô tủy (About 2018) ....................... 11
Sơ đồ 2.1: Quy trình nghiên cứu lâm sàng (I) và X quang (II). ...................... 46
Sơ đồ 4.1: Phản ứng ngà đối với độ dày ngà còn lại trong xoang sâu (Murray
2002). ............................................................................................................. 117
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Duy trì sự sống cho các răng đã bị tổn thương do chấn thương hoặc sâu
răng là một trong những mục tiêu quan trọng nhất của điều trị bảo tồn tủy. Điều
trị che tủy nhằm kích thích tủy tiếp tục phát triển, đặc biệt đối với những răng
chưa trưởng thành là một vấn đề luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt từ các nhà
nghiên cứu cũng như nhà lâm sàng vì lợi ích đáng kể mà nó mang lại.
Tủy răng có tiềm năng tự sửa chữa mô từ đó dẫn đến sự hình thành ngà
thứ ba hay ngà sửa chữa. Quá trình lành thương tủy liên quan đến sự di cư của
các tế bào gốc vào vị trí tổn thương, tăng sinh và biệt hóa thành các tế bào giống
nguyên bào ngà và sau đó thực hiện chức năng tạo ngà sửa chữa. Nhiều tác giả
ghi nhận tủy có thể tạo thành một hàng rào mô cứng sau điều trị che tủy trực
tiếp (CTTT). Việc ứng dụng các vật liệu tương hợp sinh học đặt tiếp xúc trực
tiếp trên tủy khi CTTT giúp bảo vệ phức hợp ngà-tủy chống kích thích hóa học
do các thủ thuật nha khoa, do độc tính của vật liệu và do sự xâm nhập của vi
khuẩn qua vi kẽ, đồng thời kích hoạt các phản ứng sửa chữa ngà tủy. Nhiều
nghiên cứu đã báo cáo rằng chất khoáng trioxid tổng hợp (Mineral Trioxid
Aggregat - MTA) có thể được sử dụng thay thế vật liệu Calci hydroxid kinh
điển trong điều trị tổn thương tủy, hướng dẫn lành thương, kích thích sự hình
thành cầu ngà nhanh khi CTTT 1. MTA là một vật liệu sứ sinh học calci silicat
có hoạt tính sinh học, tương hợp sinh học, kháng khuẩn với độ ổn định và khả
năng khít sát cao. Tuy nhiên, MTA cũng có một số khuyết điểm như khó sử
dụng vì thời gian làm việc dài, chi phí cao, độ cứng không cao và loại MTA
xám thường gây đổi màu răng 2,3,4.
Bên cạnh các loại MTA, Biodentine (BD) cũng là một xi măng calci
silicat dùng trong phục hồi với các đặc tính cơ học tương tự như ngà, có thể
được sử dụng như một chất thay thế ngà thân và chân răng tương tự MTA 5. BD
có tác động sinh học tốt trên các tế bào tủy, khi tiếp xúc trực tiếp với mô tủy
cũng thúc đẩy hình thành lớp ngà sửa chữa ổn định 6.
2
Nhiều báo cáo nghiên cứu in vitro ở răng động vật và răng người đã
chứng minh các hiệu quả đáng ghi nhận trong thủ thuật che tủy bằng MTA và
BD 7, do đó đây là hai lựa chọn vật liệu tốt nhất được nhiều tác giả đồng thuận
cho các quy trình CTTT trên lâm sàng hiện nay, mang lại tỷ lệ thành công cao
cả trong in vitro trên tế bào, trên động vật và trong thử nghiệm in vivo lâm sàng
ở người với tỷ lệ trung bình 81-100% cho cả MTA và BD 8,1,9. Nhiều bằng
chứng cho thấy tủy răng có cơ chế tự điều chỉnh viêm tại chỗ và có tiềm năng
tái sinh. Tủy răng có tiềm năng tái sinh cao do sự hiện diện của cả phức hợp ngà
tủy (vai trò chủ yếu là nguyên bào ngà) và nguyên bào sợi tủy hoặc tế bào gốc
trung mô tham gia vào nhiều quá trình điều khiển viêm tủy và tái sinh. Trong
lĩnh vực nội nha tái tạo ứng dụng calci silicat, đã có nhiều báo cáo về hoạt động
chức năng nguyên bào ngà và tiềm năng chế tiết các khuôn ngà khoáng hóa 10.
Tuy nhiên, tại Việt Nam hiện nay các nghiên cứu về vấn đề này vẫn còn
khá ít và quy trình nội nha ứng dụng vật liệu sinh học vẫn chưa được chỉ định
áp dụng rộng rãi trên lâm sàng trong khi việc sử dụng vật liệu che tủy cũ thường
có tiên lượng dè dặt. Do đó, các nghiên cứu để đánh giá về đáp ứng, các đánh
giá, theo dõi và tiên lượng điều trị thành công của phương pháp điều trị bảo tồn
và tái tạo ngà-tủy với vật liệu sinh học còn khá mới mẻ trong nước là nhu cầu
cấp thiết. Trong tương lai không xa đây sẽ là một vật liệu không thể thiếu trong
bảo tồn và phục hồi sự sống tủy cho các răng vĩnh viễn có bị tổn thương tủy như
một giải pháp an toàn, hiệu quả cao và là phương pháp can thiệp tối thiểu thích
hợp thay thế các can thiệp nội nha cũ có tính xâm lấn hơn.
Vì vậy, để trả lời các câu hỏi nghiên cứu về sự khác biệt giữa vật liệu BD
so với MTA trong phản ứng ngà tủy, chúng tôi thực hiện một mô hình thử
sàng, X quang và mô học, qua đó xem xét hiệu quả CTTT của vật liệu MTA và
nghiệm lâm sàng và xây dựng một đánh giá có hệ thống về các đặc điểm lâm
BD trong khía cạnh bảo tồn sự sống cho tủy răng vĩnh viễn với các mục tiêu
sau:
3
Mục tiêu tổng quát
Đánh giá hiệu quả của điều trị CTTT với MTA và BD qua các yếu tố lâm
sàng, X quang và mô học.
Mục tiêu chuyên biệt
1. 1. Đánh giá triệu chứng lâm sàng, cảm giác đau sau khi CTTT với
MTA và BD ở thời điểm 9-12 tuần và 13-16 tuần.
2. 2. Đánh giá X quang (phim quanh chóp và CBCT) sự thay đổi ngà
tủy, kích thước và mật độ cầu ngà sau khi CTTT với MTA và BD ở
thời điểm 9-12 tuần và 13-16 tuần.
3. 3. Đánh giá mô học sự hiện diện vi khuẩn, đặc điểm viêm và cầu ngà
sau khi CTTT với MTA và BD sau 9-12 tuần.
4. 4. Đánh giá tỷ lệ thành công lâm sàng, X quang và mô học của điều
trị CTTT với MTA và BD.
4
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. ĐIỀU TRỊ CHE TỦY TRỰC TIẾP
Khái niệm che tủy trực tiếp (CTTT) là sự bảo vệ mô tủy bị bộc lộ bởi sự
nứt gãy do chấn thương hoặc trong quá trình sửa soạn răng, nạo mô ngà sâu.
Việc này được thực hiện bằng quy trình đặt vật liệu tiếp xúc trực tiếp mô tủy để
kích thích phản ứng sửa chữa ngà- tủy (Ingles 2008, About 2018) 10.
1.1.1. Nguyên nhân và bệnh căn học
Điều trị CTTT được thực hiện khi có trường hợp lộ tủy do các nguyên
nhân bệnh căn sau đây:
(1) Nguyên nhân chấn thương: các sang chấn răng tạo mất chất đến tủy
(2) Nguyên nhân cơ học:
- Nạo mô ngà sâu ở các xoang sâu tiến triển xâm nhiễm lớp ngà
- Khi sửa soạn răng phục hình xâm phạm vào tủy
1.1.2. Chỉ định và chống chỉ định
Chỉ định
Chống chỉ định - Lộ tủy do sâu răng tiến triển lâu - Răng sữa - Răng không phục hồi đơn giản được - Lộ tủy hơn 24 giờ - Lộ tủy lớn hơn 2mm - Chảy máu không kiểm soát được tại điểm lộ tủy - Thử tủy không đáp ứng - Nhạy cảm hoặc đau - Có triệu chứng và dấu hiệu viêm tủy - Có bệnh lý quanh chóp và bệnh hệ thống tiến triển - Bệnh nhân lớn tuổi
- Lộ tủy do chấn thương hoặc cơ học - Răng vĩnh viễn chưa trưởng thành hoặc trưởng thành - Răng không mất chất nhiều, không đòi hỏi phục hồi kết thúc phức tạp - Lộ tủy trong 24 giờ - Lộ tủy nhỏ hơn 2mm - Ít hoặc không chảy máu ở vùng tủy lộ - Đáp ứng thử nghiệm sự sống tủy bình thường - Không đau khi gõ - Không có tiền sử viêm tủy không hồi phục hoặc viêm tủy tự phát - Không có triệu chứng bệnh lý quanh chóp (X quang) - Bệnh nhân tuổi trẻ
1.1.3. Mục tiêu điều trị
- Tạo ra một lớp che tuỷ khít kín trong xoang trám để bảo vệ tủy răng
5
- Ngăn chặn các triệu chứng và dấu hiệu lâm sàng, cận lâm sàng bất lợi
- Duy trì đáp ứng bình thường của tủy đối với các thử nghiệm. Mục đích
sau cùng là duy trì sự sống của mô tủy còn lại.
- Kích thích tạo những phản ứng lành thương.
- Ngăn chặn tình trạng mất mô nâng đỡ xung quanh
- Phòng ngừa thay đổi bệnh lý tiến triển trong vùng mô quanh chóp
Mục đích chính của vật liệu che tủy là tạo ra một lớp lót có chức năng
như một rào cản che kín vị trí tiếp xúc để bảo vệ phức hợp ngà tủy và kích thích
hình thành khối khoáng hóa giữa tủy và vật liệu phục hồi.
Sự thành công CTTT phụ thuộc vào một số yếu tố: loại vật liệu sinh học,
và hiệu ứng quy nạp trên tế bào tủy, chất lượng mô khoáng che phủ, kiểm soát
sự xâm nhập của vi sinh vật, sự nhiễm bẩn và cô lập xoang cũng như lựa chọn
trường hợp và lập kế hoạch điều trị phù hợp.
1.1.4. Nguyên tắc thực hiện thủ thuật CTTT
- Cô lập vùng làm việc
- Loại bỏ tất cả vùng sâu răng xung quanh trước khi lấy bỏ lớp sâu răng
sâu nhất
- Kiểm soát chảy máu
- Làm sạch và sát khuẩn xoang
- Đặt một lớp vật liệu trực tiếp ngay trên vùng tủy lộ đảm bảo che phủ
hoàn toàn vùng tủy phơi nhiễm (không dùng lực nén ép)
- Trám kín bề mặt
1.1.5. Vật liệu che tủy
Do sự tiếp xúc trực tiếp với mô sống và thực hiện chức năng phục hồi và
điều trị nên đòi hỏi vật liệu CTTT cần có các đặc tính lý tưởng sau:
• Không độc hại, không ảnh hưởng sự sống ngà tủy
• Trung tính sinh học hoặc tương hợp sinh học, duy trì sự sống ngà tủy
6
• Có hoạt tính sinh học: thúc đẩy lành thương mô ngà tủy, kích thích
hình thành ngà sửa chữa.
• Kháng khuẩn hoặc kiềm khuẩn
• Đáp ứng chức năng phục hồi: có độ bền cơ học cao
• Tạo các liên kết dán khít kín với men, ngà và vật liệu trám, tránh vi
khuẩn tái xâm nhập vào tủy.
• Kết cấu vật liệu ổn định và không tan trong dịch mô cơ thể
• Cản quang
• Phóng thích fluoride để phòng ngừa sâu răng tái phát
Trước đây, calci hydroxid được khuyến khích sử dụng như một trong
những vật liệu được sử dụng rộng rãi nhất khi CTTT, từng là 'tiêu chuẩn vàng'
của các nghiên cứu che tủy do lộ tủy cơ học do tiềm năng bảo vệ sự sống của
tủy và tính kháng khuẩn. Tuy nhiên, calci hydroxid có tỷ lệ thành công không
cao (trung bình vào khoảng 50-60% và có nhiều nhược điểm, không đáp ứng
các tính chất cơ bản của vật liệu che tủy như độ bền dán vào ngà kém, dễ tan rã
theo thời gian, tạo cầu ngà xốp và có khiếm khuyết 1.
Gần đây, các loại xi măng sinh học calci silicat thân nước (xi măng
hydraulic), được đề xuất ngày càng nhiều và dần trở thành chất thay thế cho
calci hydroxid, ngay cả trong lộ tủy do sâu răng 11. Calci silicat ngoài sự vượt
trội rõ rệt về khả năng khít sát và độ bền cơ học so với calci hydroxid, lợi thế
lớn nhất của vật liệu là tiềm năng tương hợp sinh học và hoạt tính sinh học.
Điều này thể hiện rõ trong các phản ứng có lợi quan sát thấy khi vật liệu tiếp
xúc với các mô mềm như tủy và mô nha chu hoặc với các mô cứng như ngà
răng.
1.2. THÀNH PHẦN VÀ PHẢN ỨNG HÓA HỌC CỦA CALCI SILICAT
Xi măng calci silicat, hay nhiều tài liệu gọi là xi măng sứ sinh học, là các
loại hợp chất có thành phần chính là các di- và tri-calci silicat (Danh pháp và
Thuật ngữ Hóa học Việt Nam- Hội Hóa học Việt Nam 2010).
7
1.2.1. Chất khoáng trioxid tổng hợp MTA (Mineral trioxid aggregat)
Chất khoáng trioxid tổng hợp MTA lần đầu tiên được Torabinejad (Loma
Linda University, Hoa Kỳ) 12 và Lee 13 mô tả năm 1993, được cấp bằng sáng
chế năm 1995 và được chấp thuận sử dụng trong nội nha bởi Cục Quản lý Thực
phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) năm 1998. MTA nguyên gốc, tên thương
mại là ProRoot MTA, được công ty Dentsply (Tulsa, OK, Hoa Kỳ) bán đầu tiên
trên thị trường năm 1999 (theo chuẩn ISO 7450). Thành phần hóa học chính của
bột MTA xám được công bố gồm: 75% xi măng portland, 20% bismut oxid và
5% là thạch cao calci sulfat (Bảng 1). Xi măng portland tinh chất gồm có
khoảng 55% tricalci silicat (3CaO.SiO2), 19% dicalci silicat (2CaO.SiO2), 10%
tricalci aluminat (3CaO.Al2O3), 7% Fe2O3, 2,8% MgO, 2,9% sulfat, 1,0% calci
tự do, ngoài ra còn có thạch cao và tetracalci aluminoferrit. Bismut oxid trong
MTA là chất cung cấp độ cản quang lớn hơn hơn ngà răng, chiếm khoảng 15-
20% (Bảng 1.1) 2. Năm 2002, ProRoot MTA trắng (Dentsply, Tulsa, OK, Hoa
Kỳ) được giới thiệu với nhiều cải tiến để giải quyết vấn đề thẩm mỹ gây ra do
MTA xám làm đổi màu răng nhiều khi sử dụng. MTA trắng có những thay đổi
về thành phần chủ yếu bao gồm tricalci silicat và bismut oxid, loại bỏ tetracalci
aluminoferrit 14. Trong MTA trắng lượng Al2O3 thấp hơn 54,9%, lượng MgO
thấp hơn 56,5% và lượng FeO thấp hơn 90,8% so với MTA xám (Bảng 2) 15.
Dựa trên đặc tính tương hợp sinh học và hoạt tính sinh học của công thức
MTA đầu tiên, một số MTA được biến đổi ra đời để khắc phục các nhược điểm
của MTA ban đầu có sẵn. Hầu hết cải tiến nhằm rút ngắn thời gian đông cứng
bằng cách thay đổi thành phần hóa học hoặc kích thước hạt của bột MTA. Sản
phẩm MTA Angelus (AMTA) (Angelus Solucoes Odontologicas, Londrina,
Braxil), ra đời năm 2001 ở Braxin, được cấp chứng nhận FDA tại thị trường
Hoa Kỳ (2011) và khá thông dụng bên cạnh PMTA và cũng có nhiều minh
chứng khoa học trong phòng thí nghiệm và ứng dụng lâm sàng. AMTA là xi
măng silicat có thành phần bột gồm 80% xi măng portland và 20% bismut oxid
8
và thành phần nước là nước tinh khiết 16 (Bảng 1). Sản phẩm AMTA cũng có
màu xám và trắng. Trong AMTA trắng, calci sulfat được loại bỏ và calci oxid
17. Angelus MTA trắng được sử dụng trong nghiên cứu lâm sàng này.
đã được thêm vào tricalci silicat, dicalci silicat, tricalci aluminat và bismut oxid
Vật liệu MTA là loại xi măng thân nước, bột MTA chứa các hạt ưa nước
mịn chỉ có thể đông cứng trộn với chất lỏng có sự hiện diện của nước. Ngoài
nước cất, nhiều loại chất lỏng có thể được sử dụng để hydrat hóa bột MTA như
nước muối hoặc các dung dịch sát khuẩn chlohexidin,.... tuy nhiên chúng có thể
ảnh hưởng phần nào đến tính chất của vật liệu.
1.2.2. BiodentineTM
Sau năm 2006, một số vật liệu giống MTA được ra đời, trong thành phần
không có xi măng portland tự nhiên nhưng vẫn có thành phần chính là các calci
silicat tổng hợp và không có nhôm. Sự khác biệt về nguồn gốc của calci silicat
được thể hiện rõ ở khả năng phóng thích các ion kim loại từ vật liệu 18.
Biodentine được giới thiệu đầu tiên năm 2009 bởi Gilies và Olivier và sản phẩm
được đưa vào thị trường nha khoa từ năm 2015 bởi công ty Septodont (Saint-
Maurdes Fosses-Pháp) như một vật liệu thay thế men ngà trong phục hồi răng.
Bột Biodentine chủ yếu chứa tricalci và dicalci silicat (3CaO.SiO2 và
2CaO.SiO2), thành phần chính của xi măng portland, calci cacbonat (CaCO3),
và zirconium dioxid (ZrO2) dùng làm chất cản quang. Chất lỏng bao gồm calci
chloride (CaCl2.2H2O), được sử dụng làm chất gia tốc và một loại polymer thủy
phân như một chất khử nước là hỗn hợp của dung dịch polycarboxylate biến đổi
(một tác nhân siêu dẻo) thay cho nước (bảng 1). Nghiên cứu Setbon (2014) và
Gandolfi (2015) sử dụng kính hiển vi điện tử quét năng lượng tia X phân tán để
phân tích thành phần nguyên tố của bột Biodentine không khử nước và báo cáo
sự hiện diện của carbon, oxy, silicon, calci và zirconium 19. Các nghiên cứu
không thấy có dicalci silicat trong Biodentine (Setbon 2014), trước đó Camilleri
9
(2013) xác định rằng Biodentine chủ yếu bao gồm tricalci silicat, tạo kích thước
hạt đồng nhất hơn AMTA 17 (Bảng 1.1).
BD được đặc trưng bởi sự giải phóng calci trong dung dịch thử nghiệm.
Vật liệu tricalci silicat cũng được xem như nguồn cung hydroxyapatit khi tiếp
xúc với dịch mô tổng hợp. BD còn giúp bảo vệ cục máu đông trong các thủ
thuật tái thông mạch máu tủy nên thường được đề nghị trong các loại điều trị
bảo tồn tủy ở răng sữa và răng vĩnh viễn do có một số hoạt tính sinh học tốt và
Bảng 1.1: Thành phần chính các loại MTA và Biodentine 17,16.
Dentsply
Angelus
Septodont
Camilleri (2013) 17
PMTA
PMTA
AMTA
BD
AMTA
BD
Vai trò
xám(%)
trắng(%)
(%)
(%)
(%)
(%)
BỘT
75
75
80
Xi măng portland
66,1
80,1
Chính
-Tricalci silicat
> 70
(CaO)3,SiO2
(chính)
-Dicalci silicat (CaO)2,SiO2
< 15
8,4
-
(phụ)
-Tricalci aluminat
0
2,0
-
(CaO)3,Al2O3
0
Tetracalci aluminoferrit
X
0
-
-
20
Bismut oxid Bi2O3
20
20
-
14,0
Cản quang
0
Gypsum - Calci sulfat
5
5
-
Điều hòa trùng
CaSO4,2 H2O
hợp
0
Zirconi oxid ZrO2
0
0
5
-
5,0
Cản quang
0
Calci Carbonat CaCO3
0
0
> 10
-
14,9
Làm đầy
0
Sắt Oxid
< 1
-
Tạo màu
-
Calci oxid
-
-
-
8,0
-
-
Silic dioxid
-
-
-
0,5
-
-
Nhôm oxid
-
-
-
1,0
-
LỎNG
Nước tinh khiết
100
100
100
Chính
0
Calci Chloride CaCl2
0
0
> 15
Gia tốc
0
Polyme tan trong nước
0
0
-
Tác nhân hút
(polycarboxylat)
nước
được chỉ định trong các điều trị bảo tồn tủy.
10
1.2.3. Phản ứng hydrat hóa
Phản ứng đông cứng của MTA và BD dẫn đến việc tạo thành xi măng ưa
nước được gọi là phản ứng hydrat hóa. Trong phản ứng hydrat hóa, thành phần
của xi măng - hòa tan một phần trong nước, các thành phần hòa tan phản ứng ở
tốc độ và nhiệt độ khác nhau. Có sự tỏa nhiệt xảy ra trong phản ứng và hình
thành sản phẩm mới.
Khi bột MTA được trộn với nước, calci silicat trong bột được hydrat hóa
theo sơ đồ phản ứng hydrat hóa (Taylor 1997; Allen 2007):
2 [3CaO.SiO2] + 6H2O → 3CaO.2SiO2.3H2O + 3Ca(OH)2
2 [2CaO.SiO2] + 4H2O → 3CaO.2SiO2.3H2O + Ca(OH)2
Kết quả của phản ứng là gel calci silicat ngậm nước dạng rắn xốp
(3CaO.2SiO2.3H2O) và calci hydroxid (Ca(OH)2). Calci kết tủa tạo ra Ca(OH)2,
là nguyên nhân khiến MTA có độ kiềm cao sau phản ứng hydrat hóa. Do đó, cơ
chế hoạt động của MTA cũng được mô tả như một vật liệu phóng thích calci và
MTA có vài tính chất tương tự như Ca(OH)2 9.
Trong phản ứng hydrat hóa đông cứng tương tự MTA, BD cũng là xi
măng calci silicat có khả năng tương tác với nước dẫn đến việc trùng hợp và
làm đông cứng xi măng theo quá trình ở hình 1.1 (Bachoo 2013) 20.
Kết quả sau đông cứng của vật liệu silicat gồm các sản phẩm phụ sau: các
hạt xi măng không phản ứng còn thừa, gel calci silicat ngậm nước và Ca(OH)2.
Các sản phẩm sinh ra sau quá trình hydrat hóa đông cứng xi măng tricalci silicat
được mô tả tóm tắt trong sơ đồ 1.1 (About 2018) 21.
Ion silic
Tế bào gốc trung mô có nguồn gốc từ tủy xương người được nuôi cấy
trong khung có nền là tricalci silicats cho thấy sự biệt hóa xương, điều này có
thể dẫn đến sự hiện diện hay phóng thích ion silic, một yếu tố quan trọng trong
sự khoáng hóa xương người trẻ cũng như kích thích tạo cốt bào sinh xương,
kích thích sự biệt hóa tạo xương của tế bào tủy xương. Điều này có thể giải
11
thích cho thành công của MTA và BD khi được sử dụng để trám kín sàn tủy,
với sự tái tạo xương tốt ở khu vực quanh chóp và tái tạo hoàn toàn sàn tủy 21.
Ion hydroxid
Các ion hydroxid (OH)- dẫn đến pH kiềm trong môi trường xung quanh
ức chế sự phát triển của vi khuẩn và góp phần đáng kể vào khả năng diệt khuẩn
của vật liệu đã được chứng minh với BD 22. Trong khi vùng xơ hóa hình thành
giữa vật liệu và mô bên dưới do pH kiềm, vùng xơ hóa này bảo vệ tủy bên dưới
khỏi sự tăng thêm pH và cho phép bắt đầu tái sinh tủy. Vùng xơ hóa này đã
được mô tả là mỏng với calci hydroxid nhưng khá dày với MTA và BD 23.
Hình 1.1: Quá trình hydrat hóa tricalci silicat (Bachoo 2013) 20.
(A) Bột trước khi hydrat hóa- các hạt tricalci silicat chưa phản ứng; (B) Sự hydrat hóa-lắng đọng gel calci silicat ngậm nước trên bề mặt các hạt; (C) Gel calci silicat ngậm nước len vào giữa các hạt tricalci silicat không phản ứng.
Sơ đồ 1.1: Tricalci silicat tương tác với mô tủy (About 2018) 21.
A B C
12
Ion Calci
Sản phẩm phụ thứ hai là ion calci là một trong những sản phẩm phụ
hydrat hóa được báo cáo thường xuyên nhất. Ion này có liên quan đến quá trình
khoáng hóa vì dẫn đến sự biệt hóa của các tế bào tủy răng ở người và tăng
17 Sự giải phóng ion calci cao đã được báo cáo khi sử dụng với MTA và BD. 24.
cường hình thành khuôn khoáng hóa được tìm thấy ở vùng có nồng độ calci cao
Nghiên cứu của Han và Okiji (2011 và 2013) đã so sánh sự phóng thích
ion bởi BD và PMTA trắng trong quan sát calci và silic ở ngà chân răng lân cận
và thấy rằng cả hai vật liệu hình thành các cấu trúc dạng đuôi chứa tinh thể giàu
calci và phosphor, xuất hiện các lớp giàu calci và silic ở nhóm BD rộng hơn
đáng kể hơn nhóm MTA 25. Các tính chất có liên quan đến hoạt động của calci
đã được chứng minh ở cấp độ tế bào 24, trên tiêu bản mô học 26 và cả trong lâm
sàng 1,21.
Calci hydroxid
Calci hydroxid từ rất lâu đã được sử dụng để che tủy nhờ khả năng hình
thành cầu ngà, đã có minh chứng khoa học 27. Với MTA và BD, sự hiện diện
calci hydroxid sau phản ứng đông cứng cũng kích tạo các phản ứng ngà sửa
chữa tương tự với các loại vật liệu chứa calci hydroxid nguyên chất và cũng có
sự hình thành cầu ngà có kết cấu tương đối điển hình 23,28.
Ngoài ra, tương tác của tricalci silicat với tủy, gây ra phóng thích TGF-β1
hướng dẫn tế bào gốc tủy răng di cư và biệt hóa. Tất cả góp phần vào tạo xương
và hình thành cầu ngà 10.
1.3. ĐẶC ĐIỂM CỦA VẬT LIỆU SINH HỌC MTA VÀ BIODENTINE
1.3.1. Độ pH
Sau đông cứng, các sản phẩm MTA ngậm nước có độ pH ban đầu là 10,2,
tăng lên 12,5 sau khi trộn ba giờ 29, sau đó giảm nhẹ. MTA trắng có giá trị pH
cao hơn MTA xám sau khi trộn 60 phút. MTA giữ pH cao trong suốt thời gian
dài; khiến một số người cho rằng giá trị pH cao là hằng số giải phóng Calci từ
13
MTA và đưa ra giả thuyết hoạt động sinh học là do sự hình thành của calci
hydroxid 29. Nghiên cứu so sánh PMTA và AMTA cho thấy độ pH của chúng ở
mức 9,02 đến 9,52 30.
Biodentine, được biết đến như một vật liệu có tính kiềm cao, theo thông
tin nhà sản xuất độ pH trung bình là 12. Tương tự, Mohammad (2015) ghi nhận
độ pH của BD đạt cực đại 11,98 vào ngày 14 sau đó giảm đáng kể đến 11,16
sau 28 ngày, còn độ pH của các mẫu MTA trắng cực đại 11,5 vào ngày 1 và
giảm dần để đạt 9,71 sau 28 ngày.
1.3.2. Thời gian đông cứng
Thời gian đông cứng dài của MTA là một trong những nhược điểm chính
của vật liệu (trung bình 165 phút). Thời gian đông cứng dài có thể gây bất tiện cho
cả nha sĩ và bệnh nhân, bởi vì đòi hỏi phải CTTT bằng MTA trong hai lần hẹn:
lần đầu đặt MTA và lần thứ hai trám kết thúc khi MTA đã đông cứng hoàn toàn.
Sự loại bỏ calci sulfat làm cho thời gian đông cứng vật liệu AMTA còn 10-15
phút, cải thiện thời gian đông cứng của MTA trắng và xám31.
Cả hai chất trong thành phần lỏng của BD đều góp phần rút ngắn thời
gian đông cứng: Calci clorid làm gia tăng tốc độ phản ứng hydrat hóa và
polycarboxylat làm giảm lượng nước cần thiết để trộn bằng cách cung cấp độ
đặc thích hợp. Calci carbonat trong bột hoạt động như một vị trí tạo mầm trong
khối hydrat hóa, tăng cường hydrat hóa và dẫn đến đông cứng nhanh hơn. Thời
gian đông cứng của BD (6,5 ± 1,7 phút) theo Butt (2014) ngắn hơn AMTA
(8,5 ± 2,4 phút) 32. Giảm thời gian đông cứng giúp đơn giản hóa thao tác làm
việc và tăng độ bền; đây là ưu thế vượt trội so với MTA, vì khi thời gian đông
cứng kéo dài sẽ dẫn đến gia tăng nguy cơ thất thoát một phần vật liệu và những
thay đổi ở bề mặt tiếp xúc trong pha kết thúc 33. Ngoài ra, tình trạng ô nhiễm
máu đều làm tăng thời gian đông cứng BD thêm 1 ± 6,51 phút. Trong khi, nhóm
bị nhiễm máu cho thấy thời gian đông dài hơn đáng kể so với nhóm BD không
14
bị ô nhiễm (p <0,01), không có sự khác biệt đáng kể trong nhóm bị nhiễm nước
bọt 6.
1.3.3. Độ bền lưu và độ bền dán
Một nghiên cứu in vitro về độ bền lưu của MTA cho thấy sự lưu của GIC
hoặc xi măng phosphat kẽm vượt trội so với MTA 34, cho rằng MTA không phải
là một vật liệu gắn có độ lưu tốt. Một báo cáo khác cho rằng độ bền lưu không
bị ảnh hưởng bởi cách trộn MTA xám bằng nước muối, nước vô trùng hoặc
lidocain, nhưng độ bền dán với ngà răng bị nhiễm bẩn máu giảm đáng kể so với
ngà răng không bị nhiễm bẩn. Nghiên cứu Tunc (2008) so sánh độ bền dán
composite, và compomer với MTA trắng. Kết quả xác định hệ thống dán một lọ
composite hoặc compomer trên MTA tạo ra có độ bền dán cao đáng kể so với
hệ thống tự xoi mòn 1 bước 2.
BD có thể được sử dụng để thay thế toàn bộ ngà răng vĩnh viễn bị hư
hỏng và mất đi chứ không chỉ dùng như một vật liệu che tủy. Bề mặt BD có thể
dán được như ngà tự nhiên với các loại keo dán khác nhau trước khi trám kết
thúc composite. Hai tác giả Guneser (2013) và Nagas (2016) 35 đều cho kết luận
là độ bền dán vào ngà răng của BD cao hơn MTA trắng 35. Có hai giả thiết về
khả năng dán của BD: (1) các đuôi lưu vi cơ học và (2) trao đổi ion giữa xi
măng và ngà.
1.3.4. Vi kẽ
Torabinejad (2010, 2018) đưa ra y văn nghiên cứu toàn diện về sự tạo vi
kẽ và kết luận rằng MTA có khả năng kháng vi kẽ khá tốt 4. Trong một phân
tích về khả năng dán kín bằng kỹ thuật thấm nhập thuốc nhuộm, BD đã cho thấy
khả năng kín khít tốt và ổn định trong 12 tuần. Ở thời gian 4 và 24 giờ BD kín
khít tương tự PMTA, (Bani 2015; ElKhodary 2015) nhưng vượt trội hơn so với
AMTA (Butt 2014) 32. BD cũng được ghi nhận ít vi kẽ hơn đáng kể so với
MTA6. Tuy nhiên, ngược lại vẫn có những nghiên cứu ít quan sát thấy vi kẽ khi
sử dụng MTA hơn BD (Ozbay 2014, Jeevani 2014; Raju 2014) 33.
15
1.3.5. Độ cản quang
Độ cản quang trung bình của MTA đã được báo cáo ở mức 7,17 mm độ
dày tương đương của nhôm (Torabinejad 2018). Các nghiên cứu báo cáo sự cản
quang của PMTA trắng nhiều hơn so với PMTA xám 36,37. Trong vật liệu,
bismut oxid đều được sử dụng để tạo ra độ cản quang nên sự hiện diện của các
chất khác trong MTA trắng có thể là lý do cho sự khác biệt giữa hai kết quả
trên. AMTA có độ cản quang thấp hơn so với PMTA xám và trắng. Tanalp
(2013) đo được AMTA có giá trị mức cản quang 4,72 mm nhôm (Al) vượt tiêu
chuẩn cản quang ISO tối thiểu (3 mm Al) trong khi BD thì 2,8 mm Al thấp hơn
mức này. Trong khi đó, nghiên cứu Camilleri (2013) đo được cả MTA (4,5
mmAl) và BD (3,1 mm Al) đều trên mức 3 mm Al 17.
1.4. SỰ ĐỔI MÀU
Sự đổi màu răng là một trong những hạn chế của MTA, xảy ra rõ khi sử
dụng MTA xám CTTT và do đó việc sử dụng MTA trắng thường được khuyến
nghị ở vùng thẩm mỹ. Một số yếu tố góp phần làm đổi màu răng do MTA như
nhiễm máu, tiếp xúc với natri hypochlorite, sự hiện diện của ánh sáng và oxy.
Tương tự, bismut oxid, nguyên tố kim loại nặng này cũng có thể gây ra sự đổi
màu do màu vàng của oxid. Theo tổng quan của Caredu (2018), có nhiều đồng
thuận từ các báo cáo in vitro là MTA, đặc biệt là MTA xám gây đổi màu thân
răng nhiều 7. Tác giả Marciano (2014) ghi nhận màu trắng của AMTA biến đổi
khi tiếp xúc mô răng bò, thành phần collagen hiện diện trong khuôn ngà, phản
ứng với Bismut oxid làm răng đổi màu xám hơn 38.
Đổi màu răng xảy ra ở cả PMTA và BD sau một năm, nhưng rõ hơn ở
nhóm PMTA 39. Valles (2013) nghiên cứu in vitro để đánh giá khả năng bền
màu của năm loại vật liệu nền calci silicat và cho thấy tùy điều kiện ánh sáng và
kị khí cho kết quả rất khác nhau về màu sắc giữa AMTA trắng, PMTA và xi
măng portland trắng, trong khi BD cho thấy sự bền màu trong 5 ngày 40. Các
đánh giá BD cũng báo cáo tương tự về khả năng duy trì sự ổn định màu lâu dài
16
41, MTA xám và MTA trắng (Kohli 2015) và AMTA (Yoldas 2016) 6,42.
(Marten 2015) 21 và ít biến màu hơn đáng kể so với PMTA (Marconyak 2016)
1.5. KHẢ NĂNG KHÁNG KHUẨN
Khả năng kháng khuẩn và kháng nấm của cả MTA và BD khá tốt do đây
là những vật liệu có pH cao. Chính môi trường pH cao này có tác dụng ngăn
cản sự phát triển của vi khuẩn và khử khuẩn ngà răng.
Tác dụng kháng khuẩn của MTA được phân tích trong các tài liệu của
Parirokh và Torabinejad (2010) 2. MTA cho thấy tác dụng kháng khuẩn đối với
một số vi khuẩn gây bệnh nhưng không có tác dụng đối với các vi khuẩn kỵ khí
nghiêm ngặt. Trong một số trường hợp, MTA kháng khuẩn kém hơn calci
hydroxid hoặc oxid kẽm eugenol 43, 9. Holt (2007) báo cáo MTA ít kháng khuẩn
Enterococci 44. So sánh tác dụng kháng khuẩn của các nồng độ khác nhau của
MTA xám và MTA trắng với Enterococcus faecalis và Streptococcus sanguis
cho thấy vật liệu MTA xám cần nồng độ thấp hơn MTA trắng để tạo ra các tác
dụng kháng khuẩn 45. So sánh cả hai loại vi khuẩn, Enterococcus faecalis đòi
hỏi nồng độ MTA cao hơn cho ức chế tăng trưởng. Tuy nhiên, một nghiên cứu
đã báo cáo các đặc tính kháng khuẩn tương tự cho cả hai loại MTA trắng và
MTA xám 44. Nghiên cứu của Al-Hezaimi (2009) cũng báo cáo rằng loại MTA
có thể ảnh hưởng đến hoạt động kháng khuẩn của vật liệu 46.
Đối với Enterococcus faecalis 47 và Escherichia coli 22, BD có hoạt tính
kháng khuẩn tương tự như AMTA nhưng cao hơn đáng kể so với PMTA.
1.6. KHẢ NĂNG KHÁNG VIÊM
Trong các đáp ứng ngà tủy khi có kích thích hoặc xâm nhập sâu răng, có
ba phản ứng cơ bản có xu hướng bảo vệ tủy: (1) giảm tính thấm của ngà răng,
(2) hình thành ngà răng thứ ba, và (3) phản ứng viêm và miễn dịch. Những phản
ứng này xảy ra đồng thời và phụ thuộc rất nhiều vào mức độ tiến triển của tổn
thương. Dựa vào mức độ, có thể chia ra kích thích nhẹ, mạnh hoặc lộ tủy; trong
thực tế có thể có kết hợp các mức độ này.
17
- Kích thích nhẹ sẽ tạo phản ứng viêm tủy tạm thời, nếu không tiếp diễn,
tình trạng viêm có thể hồi phục, có thể hình thành ngà phản ứng, kết hợp sự
đóng kín cá ống ngà.
- Kích thích mạnh hay lộ tủy dẫn đến phản ứng viêm lan rộng, nếu không
giải quyết có thể gây hoại tử và áp-xe tủy, nếu kích thích được ngăn chặn kịp
thời, tủy răng sẽ tổ chức lại mô bị hư hỏng, hình thành ngà sửa chửa bảo vệ mô
tủy.
Bản thân quá trình viêm cũng là một tác nhân kích thích quan trọng thúc
đẩy quá trình sửa chữa nguyên bào ngà truyền kích thích cảm giác ban đầu từ
ngà răng và cũng có vai trò miễn dịch đối với hệ thống phòng ngự của tế bào 48.
Khả năng gia tăng sản xuất các loại cytokin và các phân tử tín hiệu bao gồm
interleukin (IL-1α,-1β,-2,-4,-6,-8,-10,-18), osteocalcin, phosphatase kiềm,
sialoprotein xương, osteopontin và protein BMP-2 khi có sự hiện diện của MTA
và BD 28,49. Thật vậy, sự phóng thích ở mức độ thấp của các chất trung gian gây
viêm như interleukin trong các tế bào khoáng hóa có tiếp xúc với calci silicat
chịu trách nhiệm kiểm soát mức độ viêm, giúp thúc đẩy các quá trình tái tạo.
Điều này sẽ tạo thay đổi hóa học để hướng dẫn tế bào viêm di chuyển đến vị trí
viêm. Trong quá trình này, các tế bào viêm bám vào nội mô mạch máu được
kích hoạt, sau đó di chuyển qua lớp tế bào nội mô và được hướng dẫn bởi các
cytokin tiền viêm đến vị trí viêm. Sau đó, chúng sẽ được biệt hóa thành các tế
bào giống đại thực bào tại vị trí viêm và loại bỏ mầm bệnh và mảnh vụn tế
bào50.
Ngoài cytokin, hệ thống bổ thể là một tác nhân quan trọng của quá trình
viêm. Bổ thể kích hoạt bởi nguyên bào sợi tủy gây sản xuất các chất trung gian
gây viêm và tập trung các tế bào viêm tạo ra sự biến đổi mạch máu cần thiết để
cho phép các tế bào viêm di chuyển đến vị trí viêm để loại bỏ các tác nhân
nhiễm. Sự hoạt hoá bổ thể bởi nguyên bào sợi theo các con đường khác nhau
tạo ra một phức hợp tấn công màng có tác dụng cố định vi khuẩn gây bệnh, sau
18
đó phá hủy một số tế bào, vi khuẩn và virus khác nhau. Do đó, kích hoạt bổ thể
có tác dụng thúc đẩy thanh lọc các kháng nguyên, bắt đầu đáp ứng viêm và loại
bỏ mầm bệnh khỏi tế bào chủ.
Bên cạnh đó, khi đặt tricalci silicat như MTA và BD (và sản phẩm phụ)
tiếp xúc tế bào tủy cũng gây ra sự tăng tiết đáng kể TGF-β1. Điều này được ghi
nhận trong các tình huống sâu ngà sâu có viêm tủy tự phát và đặt MTA cho kết
quả rất khả quan 51 hay ứng dụng BD đã báo cáo thành công ngay cả cho tủy
viêm triển dưỡng với vùng tổn thương lớn (Fernandez 2016) 52. Người ta cho
rằng khi BD được đặt trực tiếp lên tủy, các tế bào tủy bên dưới phóng thích
TGF-β1, BD kiểm soát sự phóng thích có hướng dẫn tế bào gốc tủy di cư. Yếu
tố tăng trưởng này cũng đã được ghi nhận có tham gia vào sự biệt hóa nguyên
bào tạo ngà dẫn đến sự hình thành cầu ngà sau này 21.
1.7. TƯƠNG HỢP SINH HỌC
Khả năng tương hợp sinh học và gây độc tế bào của vật liệu nha khoa cần
được lưu ý khi chúng được sử dụng như chất vá sàn tủy hay phục hồi vùng chẽ,
sửa chữa thủng chân răng, chất trám ngược hoặc chất che tủy để tránh ảnh
hưởng sự sống các mô xung quanh (mô tủy và mô quanh chóp). Nguyên nhân là
trong các thủ thuật trên, vật liệu cần phải tiếp xúc trực tiếp với mô liên kết và có
khả năng duy trì sự sống của tế bào nha chu và tủy. Sự chết tế bào trong những
trường hợp này xảy ra do lập trình hoặc do hoại tử. Do đó, cần tránh dùng vật
liệu độc hại mô, sử dụng ưu tiên vật liệu trung tính sinh học hoặc tốt hơn là có
thể thúc đẩy sửa chữa tủy và mô xung quanh.
1.7.1. Độc tính thần kinh và tác dụng thần kinh
Tác dụng gây đau và kháng đau của MTA trắng đã được đánh giá trong
một mô hình chuột. MTA trắng không gây kích ứng các mô thần kinh và hiệu
quả hơn trong việc làm giảm cơn đau hàm mặt hơn so với Eugenol (Abbasipour
2009) 53.
19
Một nghiên cứu báo cáo rằng việc đặt BD làm giảm cả biểu hiện và chức
năng của thụ thể đau TRPA1. Hơn nữa, khi đặt tiếp xúc các tế bào giống
nguyên bào ngà, BD làm giảm bài tiết TNF tiền viêm (TNF-α) 6. Điều này chỉ
ra rằng, đặt BD lên ngà/tủy làm giảm viêm và do đó giảm đau sau thủ thuật.
1.7.2. Đột biến gen, độc tính tế bào và độc tính gen
Từ lâu, các báo cáo nghiên cứu đã xác định rằng MTA (Kettering 1995) 4
và BD (Bachoo 2013) 54 không gây đột biến gen.
Nhiều tài liệu không tìm thấy MTA và BD gây ảnh hưởng đến các chức
năng cụ thể của tế bào đích và do đó có thể được sử dụng một cách an toàn như
một vật liệu sinh học. Khi xem xét các đặc điểm gây độc hay gây chết tế bào
của vật liệu, người ta thường phân tích sự tương tác của chúng với các tế bào
đích hoặc với các loại tế bào gốc khác nhau (từ tủy răng người, từ nhú chóp
răng hoặc từ dây chằng nha chu,...) với các đặc tính giống tế bào gốc trung mô,
có khả năng tự đổi mới và tiềm năng biệt hóa đa dạng. Ba nghiên cứu nuôi cấy
tế bào xác định rằng cả AMTA xám và AMTA trắng không có độc tính tế bào
và độc tính gen trên các dòng tế bào khác nhau (Ribeiro 2005,2006; Da Silva
2006) 4. Zhou (2013), so sánh sự chết tế bào của BD, MTA trắng và GIC, sử
dụng nguyên bào sợi nướu người và cho thấy BD và MTA trắng có phản ứng
giống nhau, ít độc hơn GIC trong 1- và 7 ngày, với độ bám dính và tăng trưởng
tế bào thuận lợi 55.
Các thử nghiệm độc tính gen, khẳng định PMTA (Naghavi 2014,
Cornelio 2016) và AMTA (Santos 2016) không gây độc gen ở nhiều nồng độ và
nhiều điều kiện khác nhau. Các báo cáo về BD không cho thấy tổn thương DNA
hoặc ảnh hưởng xấu đến chức năng nhiễm sắc thể đáng kể trong các nguyên bào
sợi người (About 2005, 2016) và tế bào lympho người (Bachoo 2013) 54.
Zakerzadeh (2017) báo cáo PMTA, BD không cho thấy khả năng gây độc tế bào
và gây độc gen ở nồng độ 7,8-1000 μg/mL biểu hiện ở tế bào nguyên bào sợi 56.
20
1.8. HOẠT TÍNH SINH HỌC
Một vật liệu có hoạt tính sinh học được định nghĩa là một chất gây ra một
phản ứng sinh học cụ thể tại giao diện của vật liệu dẫn đến sự hình thành liên
kết giữa các mô và vật liệu (Hench 1969).
1.8.1. Khả năng tân tạo tế bào
Bên cạnh việc kiểm soát sự tiến triển của vi khuẩn và viêm, xi măng calci
silicat thể hiện hoạt tính sinh học qua khả năng tân tạo tế bào trong đó việc thay
thế các nguyên bào ngà đã chết bằng các tế bào dạng nguyên bào ngà và thực
hiện các chức năng khoáng hóa tương tự như nguyên bào ngà là đặc điểm quan
trọng của quá trình sửa chữa phức hợp ngà-tủy, thể hiện tiềm năng trị liệu của
vật liệu.
Trong khả năng tái sinh của tế bào gốc, nguyên bào sợi tủy tiết ra các yếu
tố tăng trưởng liên quan cảm ứng mạch máu tủy là điều kiện tiên quyết cho quá
trình tái sinh mạch máu tủy. Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng
nguyên bào sợi tủy tăng tổng hợp và sản xuất bổ sung tại chỗ những thành phần
có hoạt tính sinh học khi các nguyên bào sợi tủy bị tổn thương do cơ học, hóa
học hoặc do nhiễm trùng 21.
Sau lộ tủy, hầu như tất cả các nguyên bào ngà đều bị tổn thương không
hồi phục tại vị trí phơi nhiễm 57. Những tế bào đã phân bào, đã biệt hóa hoàn
toàn không thể tái sinh để thay thế các tế bào nguyên bào ngà bị tổn thương
không hồi phục. Do đó, các tế bào nguyên bào ngà này cần được thay thế bằng
một thế hệ tế bào có cấu trúc và chức năng gần giống nguyên bào ngà nguyên
thủy (Tziafas 2019)58. Các nghiên cứu của Fitzgerald (1990) đã chỉ ra rằng tế
bào dạng nguyên bào ngà mới phát triển từ bên trong các quần thể tế bào tủy
khác bằng một quá trình biệt hóa và di chuyển đến vị trí tiếp xúc với tủy, nơi
ngà răng được tiết ra 59. Các quần thể tế bào tiền thân của các tế bào dạng
nguyên bào ngà được cho là các tế bào bên dưới của lớp dưới nguyên bào ngà
hoặc nguyên bào sợi tủy. Tuy nhiên, việc nuôi cấy nguyên bào sợi tủy không
21
biệt hóa thành các tế bào giống nguyên bào ngà về kiểu hình hay về chức năng
tạo ngà. Các nghiên cứu mô học đã quan sát thấy sự hiện diện của các tế bào
chuyển tiếp của tế bào ngoại mạch và nguyên bào sợi trong mô tủy trong các
tình huống này 60,61. Những tế bào này di chuyển đến vị trí tiếp xúc với tủy và
tiết ra ngà sửa chữa (hình 1.2). Việc nuôi cấy riêng các tế bào này đã tạo ra sự
bài tiết ngà răng người 62. Các tế bào giống nguyên bào sợi chuyên biệt này có
khả năng di chuyển để đáp ứng với các phân tử tín hiệu cytokin. Do kiểu hình
tương tự giữa các nguyên bào sợi bình thường và các tế bào tiền thân tế bào
dạng nguyên bào ngà nên có thể giải thích tại sao việc xác định và hoạt động
của các tế bào này trở nên khó khăn do khó phân biệt. Các tế bào này mang đặc
trưng của tế bào gốc trung mô đa năng (chưa biệt hóa) có khả năng biểu hiện cả
kiểu hình mô mềm và mô cứng, hiện diện nhiều trong tủy răng của cả răng sữa
và vĩnh viễn, và ở mọi lứa tuổi. Khi xác định khả năng đáp ứng tăng sinh của tế
bào gốc, Margunato (2015) 63 và Trần Phạm Hồng Nhung (2017) 64 đã ghi nhận
tính tương hợp sinh học trong invitro của BD với tế bào gốc trung mô tủy xương
người tương tự MTA.
1.8.2. Khả năng hình thành mô khoáng hóa
Che tủy trực tiếp là quy trình đặt các vật liệu tương hợp sinh học tại vị trí
mô tủy lộ để bịt kín vùng phơi nhiễm và có tác dụng như một rào cản, bảo vệ
phức hợp ngà-tủy và do đó, bảo tồn sự sống tủy. Mục tiêu của CTTT là tạo phản
ứng biệt hóa của các tế bào dạng nguyên bào ngà và sau đó chế tiết ngà trong
vùng tiếp xúc, từ đó tổ chức lại cấu trúc mô ngà tủy. Các đặc điểm cơ bản của
các vật liệu này là tính tương hợp sinh học, khả năng kháng khuẩn và lành
thương mô, tương hợp tế bào; và khả năng dán kín tổn thương. Sự hình thành
mô khoáng hóa bởi các tế bào tủy là chức năng chủ yếu của vật liệu sinh học
được kỳ vọng trong liệu pháp điều trị này.
Hình 1.2: Minh họa quá trình tái sinh ngà tủy. Sau tổn thương sâu răng, tế bào tủy như
nguyên bào sợi tăng phóng thích yếu tố tăng trưởng (1) dẫn đến việc tế bào gốc quanh mạch
máu tăng sinh (2) và di cư đến vùng tổn thương (3), sau đó biệt hóa thành tế bào giống
nguyên bào ngà và chế tiết khuôn khoáng hóa bảo vệ mô tủy (4) (Giraud 2019) 50.
22
Trong các tổn thương nhẹ đến trung bình, nhiều bằng chứng cho thấy các
sản phẩm phụ có tính acid của quá trình sâu răng gián tiếp làm suy yếu khuôn
ngà, do đó giải phóng các phân tử hoạt tính sinh học (yếu tố tăng trưởng, chất
nền ngoại bào...) trước đó đã được cô lập trong quá trình tạo ngà. Sau khi được
giải phóng, các phân tử này một lần nữa đảm nhận vai trò của chúng trong sự
hình thành ngà răng, kích hoạt nguyên bào ngà không hoạt động, tạo khuôn hữu
cơ của ngà, kích thích cho sự phát triển của lớp ngà thứ ba 65.
Loại ngà răng thứ ba dạng ngà răng phản ứng có thể được quan sát thấy
khi sâu răng gây khử khoáng sớm ngà răng, xảy ra bên dưới tổn thương men
răng chưa tạo lỗ 66, tương tự về hình thái với ngà răng sinh lý và có thể phân
biệt do có sự đổi hướng của các ống ngà mới, ngoài ra ống ngà cũng có thể mất
liên tục ở giao diện ngà thứ hai và ngà phản ứng. Sự kết hợp của việc tăng lắng
23
đọng ngà và lắng đọng trực tiếp của các tinh thể khoáng vào các ống ngà bị thu
hẹp để làm giảm tính thấm của ngà răng là biện pháp bảo vệ đầu tiên đối với sâu
răng và được gọi là xơ hóa ngà. Sự lắng đọng của các tinh thể whitlockit (một
dạng calci phosphat ít gặp) trong lòng ống rất có thể là kết quả của sự kích thích
các nguyên bào ngà liên quan, và kết hợp với sự kết tủa các khoáng chất được
giải phóng trong quá trình khử khoáng. Các chất trung gian có mặt trong quá
trình sâu răng kích thích tạo ra sự tập trung sản xuất khuôn ngà của nguyên bào
ngà. Điều này được minh chứng bởi những phát hiện khuôn ngà kém khoáng
hóa - ngà răng thứ ba - được tạo ngay vị trí tủy lộ. Tuy vậy, loại ngà răng thứ ba
này không phải là biện pháp bảo vệ tủy hiệu quả nhất với các tác nhân bệnh lý
vì việc giảm hiệu quả thẩm thấu ngà răng có thể chỉ xảy ra trong một khoảng
thời gian tương đối ngắn và khó kiểm soát.
Nếu các nguyên bào ngà chịu trách nhiệm cho sự hình thành ngà răng thứ
ba, thì loại ngà răng thứ ba đó được gọi ngà răng phản ứng. Nói chung, tốc độ
hình thành ngà răng tăng lên, nhưng các ống ngà vẫn liên tục với ngà răng thứ
cấp. Tuy nhiên, nếu kích thích gây ra sự phá hủy nguyên bào ngà, thì ngà răng
mới, ít ống ngà hơn, không đều , được tạo bởi các tế bào giống nguyên bào ngà
biệt hóa được gọi là ngà sửa chữa. Trong ngà răng như vậy, các ống ngà thường
không liên tục với ngà răng thứ cấp.
Trong tổn thương xâm lấn nhiều, quá trình sâu răng có thể tiêu diệt
nguyên bào ngà lân cận, lúc này sự tái tạo lớp nguyên bào ngà bị mất phải nhờ
vào biệt hóa tế bào nguyên thủy và rất cần thiết để hình thành ngà sửa chữa. Sự
xuất hiện của các lớp ngà và khuôn ngà là sự phản ánh trực tiếp trạng thái biệt
hóa của các tế bào chế tiết mới này. Trên các tiêu bản mô học, có sự không
đồng nhất của ngà răng sửa chữa khi hình thái chúng có thay đổi từ ngà có ống
ngà đến nhiều khối ngà khoáng hóa sợi fibrodentin không đồng đều, không đặc
trưng và có các mô vùi, dễ thấm hơn so với ngà sinh lý 67. Tế bào tủy và tế bào
dạng nguyên bào ngà mới biệt hóa có thể tạo các khuôn khoáng hóa khác nhau
24
trong quá trình chữa lành vết thương. Từ những năm 1980, người ta mô tả ba
loại khuôn khoáng hóa có thể tìm thấy trong điều trị lộ tủy: (1) khuôn dạng sợi
(fibrodentin); (2) khuôn dạng xương (osteodentin) – hai loại khuôn ngà dạng sơ
khởi này liên quan các tế bào giống như tế bào trung mô, không giống nguyên
bào ngà và (3) khuôn khoáng hóa dạng ống ngà được tạo ra bởi các tế bào giống
nguyên bào ngà biệt hóa hoàn toàn 58. Tác giả Tziafas (2019) tập hợp các bằng
chứng của 86 tài liệu khoa học trong tổng quan mới về kiểu hình của tế bào
giống nguyên bào ngà và sự hình thành ngà sửa chữa trong in vivo minh chứng
rằng các tế bào tủy răng tiết ra một khuôn giống ngà răng liên quan đến các
dạng khuôn khoáng không ống ngà hoặc dạng giống xương 58.
Cấu trúc khuôn khoáng hóa sơ khởi có ý nghĩa lâm sàng không quan
trọng như khuôn khoáng hóa dạng ống do: (1) Sự hình thành của chúng chỉ giúp
trì hoãn sự thất bại của điều trị tủy, bởi vì không cung cấp một rào cản tốt bảo
vệ tủy lâu dài khỏi các mối đe dọa của vi khuẩn 68; (2) Phản ứng bảo vệ dẫn đến
sự hình thành chúng không kiểm soát được trên lâm sàng và kết quả không dự
đoán được. Sự lắng đọng khuôn khoáng hóa sơ khởi trong tủy răng thường
xuyên xảy ra khi có thay đổi chức năng của mô tủy và có phá hủy tủy 58.
Mô khoáng hóa sửa chữa hình thành sau che tủy thường có dạng dải
khoáng hóa dài trong mô tủy gọi là cầu ngà, là một loại ngà răng thứ ba hình
thành tại vị trí tiếp xúc với tủy. Hình ảnh mô học cầu ngà có thể có dạng khuôn
sơ khởi hoặc khuôn có ống ngà. Cầu ngà không ống ngà là một sản phẩm của
nguyên bào ngà mới biệt hóa, thường xuất hiện kèm với đám rối mao mạch phát
triển dưới vùng này. Các nghiên cứu mô tả cầu ngà mới được thành lập đầu tiên
gồm một lớp mỏng ngà không ống ngà trên có một lớp ngà có ống ngà tương
đối dày. Ngà xơ hóa được lót bởi các tế bào giống như tế bào trung mô, trong
khi ngà có ống có liên quan đến các tế bào gần giống nguyên bào ngà 69.
Cơ chế sinh học mà calci silicat gây ra sự hình thành cầu ngà trong tủy
răng hiện chưa được xác định hoàn toàn. Các tác giả cho rằng sự hình thành
25
hàng rào mô cứng khoáng hóa nằm sát với lớp vật liệu che tủy có thể là do ảnh
hưởng đa yếu tố, liên quan đến khả năng dán kín, tạo môi trường kiềm, khả
năng tương hợp và hoạt tính sinh học của vật liệu.
Không có sự khác biệt về khả năng thành lập cầu ngà giữa hai loại MTA
xám và trắng theo báo cáo của tác giả Parirokh (2005) 70. Các nghiên cứu CTTT
trên động vật so sánh MTA với calci hydroxid thường cho thấy lành thương với
MTA tốt hơn so với calci hydroxid. Những nghiên cứu này liên tục chứng minh
sự hình thành cầu ngà mô cứng nhiều hơn và ít viêm hơn trong nhóm MTA so
với nhóm calci hydroxid.
1.9. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CTTT VỚI MTA VÀ BIODENTINE
TRONG TRONG NƯỚC VÀ THẾ GIỚI
Theo Hiệp hội Nội Nha Châu Âu (2006) 71, những tiêu chuẩn thành công của
điều trị che tủy được đánh giá như sau:
- Không đau khi gõ hoặc, không sưng mô mềm.
- Đáp ứng trong mức bình thường với thử nghiệm nhiệt và điện.
- Không có dấu hiệu và triệu chứng viêm
- Có sự thành lập cầu ngà trên phim X quang (tăng kích thước lớp ngà về
phía tủy)
- Tăng độ dày và chiều dài chân răng trên phim X quang (thường xảy ra
sau 12-24 tháng điều trị).
- Có đóng chóp ở răng chưa đóng chóp.
- Không có dấu hiệu lâm sàng và trên X quang của nội tiêu chân răng và
viêm nha chu hay viêm quanh chóp.
1.9.1. Nghiên cứu đánh giá cảm giác đau sau điều trị
Định nghĩa đau theo phân loại của Hiệp hội nghiên cứu về đau quốc tế
(IASP): Đau là một trải nghiệm cảm giác khó chịu liên quan đến tổn thương mô
thực thể hay tiềm tàng, hoặc được mô tả như là có tổn thương 72.
26
Sự quan tâm đến việc diễn tả cảm nhận chủ quan giữa những người khác
nhau là vấn đề được quan tâm nhiều trong các nghiên cứu về đau trước và sau
điều trị. Các phương pháp tâm lý được phát triển để đo lường nhận thức giác
quan có thể được sử dụng để xác định hầu hết các loại phản ứng chủ quan do
các rối loạn từ ngoài môi trường hoặc trong cơ thể. Người ta thường sử dụng
các phương pháp chia tỉ lệ để đo lường mức độ cảm nhận các đáp ứng sinh lý để
có thể so sánh được. Thang tỉ lệ cho phép ước lượng trực tiếp để đánh giá cảm
giác nhanh chóng, tiện lợi 73.
Trong việc đánh giá các mức độ đau, các thang đau thường được sử dụng
là Thang đau số (NRS) và Thang điểm đánh giá bằng thị giác (VAS). Điểm
mạnh của thang đau số (NRS) so với thang điểm đánh giá bằng thị giác (VAS)
là khả năng được quản lý cả bằng lời nói và bằng văn bản, cũng như tính đơn
giản của điểm số 74,75. Điều này có nghĩa, bệnh nhân có thể được phỏng vấn
gián tiếp qua các phương tiện truyền thông như điện thoại, thư điện tử, tin nhắn
mà không mất nhiều thời gian.
Tuy nhiên, một điểm yếu là thang đo NRS so với thang đo VAS đó là chỉ
có thang VAS thể hiện được là thang tỉ lệ (ratio scale) để đánh giá về mức độ
cảm nhận đau 76. Thang đánh số thiếu độ nhạy để đánh giá đau theo trải nghiệm.
Thang đo VAS được sử dụng để khắc phục sự thiếu hụt về độ nhạy. Trong một
số nghiên cứu, thang VAS đã được chứng minh là nhạy với đánh giá hiệu quả
điều trị. Thang VAS có mối tương quan thuận với các phương pháp tự báo cáo
khác về cường độ đau 77,78. Ngoài ra, sự khác biệt về cường độ đau được đo ở
hai thời điểm khác nhau của VAS thể hiện sự khác biệt thực sự về mức độ đau
và đây lợi thế chính của công cụ này so với các công cụ khác 79. Tuy nhiên,
thang tỉ lệ này ở cấp độ nhóm đáng tin cậy hơn ở cấp độ từng cá nhân.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi kết hợp thang đánh giá đau Wong-Parker
(VAS) và thang đo số (NRS) biến đổi đơn giản để xây dựng được thang đo tỉ lệ
và thể hiện chính xác cảm nhận của bệnh nhân về mức độ đau (Phụ lục 5).
27
Cảm giác nhạy cảm hay đau có thể xuất hiện trong điều trị che tủy có thể
do nhiều yếu tố nguyên nhân kết hợp:
- Yếu tố vi khuẩn: Nếu vi khuẩn xâm nhập từ các xoang sâu không được
loại bỏ càng sớm càng tốt trong viêm nhiễm sớm, sự tương tác hiệp đồng của
các vi khuẩn trong tủy sẽ thay đổi kích hoạt các gen độc lực của các chủng gây
bệnh và gây ra phản ứng viêm tăng lên và gây đau 80.
- Yếu tố cơ học: với tình trạng lộ tủy do sâu răng hay do sửa soạn phục
hình hay xoang trám sâu ngà sâu, việc sửa soạn quá mức không kiểm soát tốt
mũi khoan hay dụng cụ làm sạch có thể khiến đầu dụng cụ phá hủy lớp mô bảo
vệ bên ngoài tủy và gây đau do chấn thương mô ngà tủy. Đau do tiếp xúc hoặc
khoảng cách gần của vật liệu trám, một khi lớp ngà còn lại ít hơn 0,5 mm, phản
ứng tủy đối với kích thích dữ dội hơn và thường tủy sẽ viêm không hồi phục.
- Yếu tố hóa học: các chất bơm rửa hay sát khuẩn tủy có tác dụng loại bỏ
vi sinh vật gây bệnh, độc tố của chúng cũng như hòa tan, rửa trôi mảnh vụn vô
cơ và hữu cơ nhưng chúng cũng có độc tính với tế bào mô nha chu quanh chóp
và gây đau do kích thích. Vật liệu che tủy và các chất có trong thành phần của
chúng được sử dụng trong điều trị CTTT có thể tạo ra những phản ứng hóa học,
phóng thích các sản phẩm hóa học, do đó chúng tạo kích ứng hóa học trên hệ
thần kinh gây đau và nhạy cảm ngà sau can thiệp điều trị.
Đa số các nghiên cứu về vật liệu che tủy ghi nhận không đau hoặc đau
không đáng kể gần như chỉ nhạy cảm đối với nhiệt độ trong những ngày đầu sau
đặt vật liệu 81,82. Nếu xuất hiện các cơn đau tự phát nhiều và trầm trọng kéo dài
trong những ngày sau đó, đau nhiều khi thực hiện các thử nghiệm tủy được xem
như một dấu chứng viêm và biểu hiện cho ca thất bại và chuyển hướng điều trị
tủy buồng hoặc tủy chân.
28
1.9.2.Nghiên cứu đánh giá khả năng bảo tồn sự sống tủy và tỷ lệ thành công
lâm sàng
Các thử nghiệm nhạy cảm tủy thường bao gồm: thử nhiệt (lạnh, nóng),
thử điện, gõ, sờ,...Đáp ứng dương tính phản ánh tiềm năng bảo tồn tủy sống của
vật liệu che tủy và là yếu tố quyết định thành công điều trị CTTT.
Đối với hiệu quả lâm sàng của việc CTTT với MTA, Miles (2010) đã báo
cáo về răng vĩnh viễn đã đóng chóp tiếp xúc với sâu răng 82. Sau điều trị CTTT
với MTA, Miles (2010) thấy đáp ứng (+) với thử nghiệm lạnh có 23%, với thử
nghiệm gõ có 3%. Nhìn chung, tỷ lệ sống của tủy sau 1 năm là 68%, trong khi
tỷ lệ sống sau hai năm là 56% 82. Một nghiên cứu năm 2014 cho thấy MTA và
CH có kết quả thành công lần lượt là 78% và 60% 83. Tác giả ghi nhận răng
được phục hồi vĩnh viễn trong vòng 2 ngày sau (bọc mão) có tiên lượng tốt hơn
và không có sự khác biệt giữa phơi nhiễm tủy do nguyên nhân cơ học và sâu
răng. Farsi (2006) báo cáo không có ca nào âm tính với thử tủy sau CTTT với
MTA 24 tháng 84.
Hai nhóm so sánh đặt Proroot MTA và BD trong nghiên cứu trên răng cối
ở người của Nowicka (2013 và 2015) 85,86, cho thấy 100% đáp ứng dương tính
sau 6 tuần. Trong nghiên cứu trên răng cối của Brizuela (2017), 100% nhóm BD
dương tính sau 12 tháng theo dõi 1.
Rất nhiều thử nghiệm lâm sàng trên tổn thương sâu ngà sâu có tiếp xúc
với tủy được CTTT hoặc lấy tủy buồng với MTA và BD và cho thấy thành công
lâm sàng cao (80-100%) ở cả răng sữa (Celik 2019 87), răng vĩnh viễn chưa
đóng chóp (Parinyaprom 2018 88, Abuelniel 2021 89) và đã đóng chóp (Hedge
2017 90, Brizuela 2017 1, Awawdeh 2018 8).
1.9.3. Nghiên cứu đánh giá phản ứng tủy qua hình ảnh X quang
Phim X quang là một trong những phương tiện cần thiết và hữu hiệu
trong các nghiên cứu đánh giá hiệu quả điều trị CTTT. Những tiêu chí ghi nhận
29
trên phim X quang để đánh giá lành thương thành công thường được xem xét tại
hai vùng:
(1) Buồng tủy nơi tiếp xúc tổn thương: có hình ảnh cản quang của mô
khoáng hóa hoặc sự dày lên của ngà ở buồng tủy.
(2) Vùng mô quanh chóp: không có dấu hiệu bất thường (không có thấu
quang quanh chóp), các dấu hiệu lành thương (dây chằng nha chu không còn
dãn rộng, giảm thấu quang,...) và dấu hiệu phát triển tiếp (đóng chóp chân răng)
nếu có.
1.9.3.1. Phim X quang quanh chóp:
Phim X quang quanh chóp cho hình ảnh hai chiều là chỉ định thường quy
để tái đánh giá nội nha, được chụp mỗi 1-3-6 tháng để đo đạc và theo dõi sự
hình thành mô khoáng hóa và kết hợp với các thử nghiệm sự sống của răng hoặc
khi có biểu hiện bất thường trên lâm sàng và khu vực quanh chóp trên phim.
Nghiên cứu của Miles (2010) 82 trên 51 trường hợp điều trị che tủy với
MTA báo cáo 100% hình ảnh X quang quanh chóp cho thấy không có biểu hiện
thấu quang hay bệnh lý vùng quanh chóp sau 1 năm (hình 7).
chóp trước và sau điều trị.
Hình 1.3: Răng che tủy MTA 12 tháng (Miles 2010). Không biểu hiện bệnh lý vùng quanh
Trên các răng vĩnh viễn chưa đóng chóp, nghiên cứu của Parinyaprom
(2018) 88 có tỷ lệ thành công là 92.6% với PMTA và 96.4% với Biodentine sau
6 tháng theo dõi đã cho thấy tình trạng đóng chóp vẫn tiếp tục diễn ra sau khi
che tủy.
30
Tại Việt Nam, nghiên cứu công bố năm 2021 của tác giả Trần Thị Anh
Thư đánh giá hình ảnh chụp quanh chóp kỹ thuật số hai chiều trên các răng đặt
nút chặn chóp với MTA cũng cho thấy hiệu quả lành thương tốt với tỷ lệ thành
công lâm sàng và X quang là 100% sau 9 tháng theo dõi ở 22 răng người 91.
1.9.3.2. Chụp cắt lớp điện toán chùm tia hình nón (CBCT)
Cone beam computed tomography (CBCT) là kỹ thuật chụp cắt lớp điện
toán sử dụng chùm tia X dạng hình nón với nhiều ưu điểm vượt trội hơn X
quang thông thường dần được ứng dụng cho các trường hợp khảo sát nội nha
đặc biệt với trường quan sát nhỏ trên một vùng răng nhất định. CBCT có khả
năng tái lập lại những lát cắt ba chiều theo nhiều mặt phẳng khác nhau của hệ
thống giải phẫu buồng tủy, ống tủy và nhà lâm sàng kết hợp quan sát thực tế đi
kèm với phân tích trên máy tính để ứng dụng cho điều trị 92.
Bộ dữ liệu hình ảnh nhận được bao gồm một khối các cấu trúc hình lập
phương nhỏ hơn, gọi là voxel. Mỗi voxel thể hiện một mức độ hấp thụ tia cụ
thể. Kích thước của voxel quyết định độ phân giải của hình ảnh. Trong CBCT,
voxel có tính đẳng hướng, kích thước bằng nhau trong 3 chiều (0,125-0,4 mm)
nên hình ảnh CBCT có tính chính xác cao, không bị biến dạng. Giá trị voxel có
đơn vị tính là Hounsfield unit (HU) hiển thị trên hình ảnh CBCT (Theo Quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia QCVN 17:2018/BKHCN về Thiết bị X-quang răng
dùng trong y tế). Vật liệu cản xạ càng lớn thì ảnh CBCT của vật liệu này có giá
trị mật độ voxel HU càng cao. Hình ảnh CBCT chế độ chụp với kích thước
voxel nhỏ 0,1-0,2 mm sẽ cho hình ảnh có độ phân giải cao hơn, thích hợp cho
những ứng dụng trong nội nha. Trong các nghiên cứu sử dụng CBCT để nghiên
cứu hình thái ống tủy cả nghiên cứu trên răng đã nhổ hay trên người sống đều
quy định kích cỡ voxel < 2mm. Ngoài ra, có thể sử dụng CBCT để đo đạc kích
thước, thể tích của cấu trúc răng, xương, các tổn thương trong xương. Mỗi phần
tử diện tích ảnh được gán một giá trị trong thang tương phản, ví dụ các giá trị
31
trong bảng 1.2, được sử đụng như các giá trị chuẩn để đo mật độ cấu trúc trong
Bảng 1.2: Giá trị ước tính của các loại mô theo đơn vị Hounsfield unit (HU)
(Resnik 2020) 93.
nghiên cứu này.
Vật chất Không khí Nước Mô mềm Xương xốp Xương đặc Ngà Men Hounsfield unit (HU) -1000 0 300-500 150-900 900-1800 1600-2400 2500-3000
Ưu điểm của CBCT:
- Liều lượng thấp, liều tia xạ cho một lần chụp CBCT là 0,035-0,10 mSv,
thấp hơn nhiều so với chụp CT thông thường 0,4 mSv và tương đương một loạt
chụp phim quanh chóp khảo sát tất cả răng.
- Chùm tia giới hạn, kích thước chùm tia được giới hạn chỉ tập trung vào
vùng khảo sát
- Thời gian quét nhanh, 10-40 giây. Chùm tia X dạng xung, nên thời gian
nhận tia thật sự chỉ khoảng 2-5 giây, nhanh hơn chụp cắt lớp CT thông thường.
- Hình ảnh chính xác hơn. Voxel của CBCT đẳng hướng, trong khi voxel
của CT thông thường là khối trụ chữ nhật
- Trong CT thông thường, những phục hồi kim loại tạo thành những vệt
sáng ảnh hưởng nghiêm trọng đến chất lượng hình ảnh. CBCT cũng bị những
vệt sáng như vậy nhưng mức độ nhẹ hơn
Khuyết điểm của CBCT:
- Không khảo sát được tổn thương sâu răng và tình trạng răng gần các phục
hồi kim loại
- Vị trí đầu bệnh nhân phải cố định trong khi quét
32
- Khi khảo sát các lát cắt có thể dễ mất định hướng khi di chuyển trong
trường quan sát nhỏ
- Kỹ thuật CBCT dựa vào một thiết bị khuếch đại nên chu vi của hình ảnh
có thể bị biến dạng
- CBCT cung cấp rất ít chi tiết về mô mềm
Hiện nay, trên thế giới không có nhiều nghiên cứu sử dụng hình ảnh
CBCT để đánh giá cầu ngà. Trong số ít nghiên cứu đó, tác giả Nowicka (2015)
so sánh calci hydroxid, vật liệu dán, BD và PMTA (hình 11) và kết luận rằng cả
ba vật liệu CH, PMTA và BD đều cho thấy sự hình thành cầu calci tại giao diện
tủy-vật liệu. Cầu ngà hình thành do BD và PMTA đồng nhất và ít khiếm khuyết
ống ngà và có khác biệt có ý nghĩa thống kê được ghi nhận qua thông số HU
Hình 1.4: Mô khoáng hóa sau che tủy với calci hydroxid (Nowicka 2015) 86.
giữa các nhóm MTA và calci hydroxid 86 (hình 1.4) .
1.9.4. Nghiên cứu đánh giá hình ảnh mô học
Hiện nay có rất ít những bằng chứng in vivo có quan sát mô học sau che
tủy trên răng người do tỷ lệ xuất hiện các trường hợp lộ tủy cần che không cao,
rải rác không tập trung và đa số thực hiện trong tình huống khẩn cấp lâm sàng.
33
Ngoài ra, vì tỷ lệ thành công của điều trị khá cao nên việc thu thập các mẫu răng
để thực hiện các tiêu bản mô học tương đối khó khăn đối với các nhóm nghiên
cứu. Vì vậy, đa số nghiên cứu thường là các đánh giá mô học trên động vật, các
nghiên cứu mô học trên người nếu có thường ít và số lượng mẫu nghiên cứu khá
hạn chế. Quan sát mô học thường tập trung đánh giá phản ứng ngà tủy về hiện
tượng viêm hoặc hình thành mô ngà phản ứng và ngà sửa chữa.
Nghiên cứu của Trần Xuân Vĩnh (2012) 28 so sánh che tủy Calci
hydroxid, MTA, và Biodentine trên 27 con chuột, quan sát thấy một số tế bào
viêm hình thành gần vùng tủy lộ và có sự hình thành cầu ngà sửa chữa liên tục,
có hình dạng ống ngà rõ, mật độ dày đặc ở nhóm đặt Biodentine và MTA nhiều
hơn có ý nghĩa so với nhóm đặt Calci hydroxid.
Báo cáo của tác giả Iwamoto (2006) ở 43 răng khôn đặt che tủy trước nhổ
136 ngày, 20/22 răng đặt MTA có hình thành cầu ngà trên tiêu bản mô học 94.
Tương tự, Accorinte (2008) cũng nhận thấy đáp ứng tạo cầu ngà khoáng hóa
liên tục ở MTA tốt hơn CH sau 30 và 60 ngày trên 40 răng cối nhỏ đã nhổ 95
trong khi Swarup (2014) và quan sát thấy cầu ngà hình thành liên tục có ống
ngà chỉ sau 15 ngày ở nhóm MTA nhưng chỉ hiện diện gián đoạn ở CH sau 30
ngày 96. Trong các nghiên cứu ở người, nhiều báo cáo đồng ý rằng MTA tốt hơn
Dycal, với sự hình thành mô cứng tốt hơn và ít viêm mô tủy hơn 49.
Nghiên cứu về vật liệu bảo tồn sự sống trên tủy 28 răng vĩnh viễn hàm
trên và dưới do Nowicka (2013) 85 thực hiện với Biodentine hoặc MTA, sau 6
tuần các răng vẫn duy trì tủy sống, răng nhổ ra được nhuộm Hematoxylin-Eosin
cho thấy phần lớn các mẫu đều có sự hình thành cầu ngà hoàn chỉnh và không
có phản ứng viêm tủy, không có sự khác biệt giữa các nhóm BD và MTA. Các
lớp của các tế bào dạng nguyên bào ngà và nguyên bào ngà được sắp xếp tốt, có
cấu trúc ống ngà (hình 1.5).
Nghiên cứu Bakhtiar (2017) 23 bao gồm 27 răng khôn trên và dưới, chia
ba nhóm đặt Theracal, BD và MTA, nhổ răng sau 8 tuần, 11.1% nhóm Theracal,
34
33,3% nhóm MTA và 66.6% nhóm BD thấy mô tủy có tổ chức bình thường,
11% nhóm Theracal, 56% nhóm MTA và 100% nhóm BD có hình thành cầu
ngà tại vùng tủy phơi nhiễm.
Ở Việt Nam, Trần Xuân Vĩnh và Trương Minh Tâm (2019) 97 ghi nhận có
sự xuất hiện cầu ngà trên tiêu bản mô học sau CTTT với MTA và BD trên răng
chuột sau 4-8 tuần. Hiện chưa có nghiên cứu mô học nào được thực hiện liên
Hình 1.5: Nhuộm HE che tủy với Biodentine (A, B, C, D) và MTA (E, F).
(A, C, E) Cầu ngà hoàn toàn, có ít vị trí nứt ở Biodentine (A,C); (B, D, F) mô cứng cầu ngà,
lớp nguyên bào ngà mới và ống ngà (mũi tên) (Nowicka 2013).
quan điều trị CTTT với MTA và BD trên người.
1.10. NHỮNG NHẬN ĐỊNH TÓM TẮT VỀ VẬT LIỆU VÀ TÌNH HÌNH
NGHIÊN CỨU CTTT TRONG NƯỚC VÀ THẾ GIỚI
Sự ra đời của vật liệu sứ sinh học là một bước tiến lớn cho mô hình nội nha
tái tạo áp dụng cho liệu pháp bảo tồn tủy (CTTT). Sứ sinh học có thể sử dụng
trong các trường hợp lộ tủy do chấn thương, sâu răng hoặc các nguyên nhân cơ
35
học khác. Theo nhiều tài liệu y văn, đặc điểm chung của các trường hợp có kết
quả lâm sàng thành công sau che tủy thường gặp là:
• Bệnh nhân tuổi nhỏ
• Chưa đóng chóp
• Rất ít hoặc không sửa soạn cơ học thành ngà
• Lộ tủy nhỏ hơn 0,5 mm
• Tạo ra một cục máu đông nhanh
• Miếng trám khít sát tốt.
• Vô trùng tốt
Trong số các vật liệu sinh học calci silicat, BD là loại vật liệu xuất hiện sau
MTA, qua tổng kết từ các bằng chứng trong rất nhiều nghiên cứu in vitro, in
vivo, các thử nghiệm lâm sàng so sánh MTA và BD cho thấy:
- Đối với các tính chất hóa-lý-cơ học, có sự tương đồng giữa hai loại
MTA và BD về độ pH, độ nhám bề mặt, độ co giãn, độ xốp, độ bền kháng gãy,
vi kẽ, MTA có ưu thế hơn về độ cản quang cao, độ hòa tan thấp và BD lại vượt
trội về tính đồng nhất, tính dễ thao tác, thời gian đông cứng ngắn (do kích thước
hạt nhỏ); khả năng phóng thích ion calci, độ cứng, độ bền cơ học, ít đổi màu và
chi chí thấp hơn.
- Đối với khả năng kháng khuẩn và kháng nấm, cả MTA và BD với pH
kiềm đều có hiệu quả đề kháng tốt với Streptococcus, Enterococcus faecalis,
Escherichia coli, Pseudomonas aeruginosa, Micrococcus luteus và Candida
albicans.
- Đối với sự tương hợp sinh học, MTA và BD đều có các bằng chứng
thực nghiệm cho thấy không gây đột biến gen, không độc tính trên hệ thần kinh,
không độc tính tế bào, không gây độc gen và không gây tác dụng có hại trên
tuần hoàn.
36
- Đối với hoạt tính sinh học, xi măng tricalci silicat đặt tiếp xúc trực tiếp
với các mô sống tạo ra một môi trường lý tưởng để lành thương với tác động
sau: (1) điều chỉnh sản xuất cytokin và phản ứng viêm; (2) giải phóng calci
hydroxid và ion calci kích thích tăng sinh nguyên bào xương, nguyên bào sợi,
nguyên bào xê măng, kích thích biệt hóa, di cư các loại tế bào tạo mô cứng; (3)
tạo mô khoáng sửa chữa dạng hydroxy apatit (hoặc carbonat apatit) trên bề mặt.
Ngoài ra, khi đánh giá hiệu quả điều trị CTTT trên lâm sàng, thế giới đã
có nhiều nghiên cứu MTA và BD cho thấy đạt tỷ lệ thành công vượt trội (trung
bình 80-100%), được minh chứng qua khả năng bảo tồn sự sống tủy; hình ảnh X
quang có lành thương vùng quanh chóp và biểu hiện cầu ngà; và hình ảnh tiêu
bản mô học cho thấy có sự tân tạo các tế bào và cầu ngFà trong mô tủy.
Xi măng calci silicat (bao gồm các loại MTA và BD) hiện có nhiều minh
chứng y văn đồng thuận là vật liệu che tủy tiêu chuẩn có thể thay thế cho calci
hydroxid do đáp ứng được tốt các yêu cầu về tính chất sinh-cơ học về mặt lâm
sàng và hiệu quả trị liệu trong các liệu pháp điều trị bảo tồn tủy hiện nay 98.
Tuy đã có nhiều minh chứng báo cáo trên tế bào và động vật về hiệu quả
vật liệu sinh học, nhưng hiện nay, các nghiên cứu trên thế giới về CTTT ở
người đa số là các đánh giá mô tả tiến cứu hay thử nghiệm lâm sàng với mẫu
nhỏ và thời gian ngắn. Các báo cáo lâm sàng nhằm đánh giá mô hình các khía
cạnh ảnh hưởng đến điều trị lâm sàng CTTT với vật liệu sinh học như độ tuổi
bệnh nhân, nhóm răng, độ rộng và thời gian phơi nhiễm tủy, loại và cách trộn
vật liệu, thủ thuật và thời gian theo dõi điều trị, phản ứng ngà tủy ở các cá thể
và chủng tộc khác nhau... còn rất ít so với các loại điều trị nội nha khác. Nói
chung các nghiên cứu còn nhiều hạn chế về tính đại diện cho quần thể và cộng
đồng.
Các bằng chứng hình ảnh cầu ngà cản quang trên phim X quang được đa
số các nghiên cứu lựa chọn như một tiêu chí đánh giá thành công lâm sàng.
Nhưng những hình ảnh nghiên cứu thường thực hiện với phim hai chiều thường
37
quy trên lâm sàng nên cung cấp khá ít thông tin và khó đo đạc cũng như đánh
giá tiến triển theo thời gian của sự hình thành mô cứng. Vì vậy, việc ứng dụng
các loại phim kỹ thuật số ba chiều vào điều trị hàng ngày (ở mức an toàn bức xạ
cho phép) với khả năng tái cấu trúc đa đạng sẽ giúp cho việc quan sát và đánh
giá tiến triển lành thương sau điều trị tốt hơn.
Ngoài ra, trong các nghiên cứu mô học, những hình ảnh tiêu bản mô học
có sự hiện diện của các mô khoáng hóa là bằng chứng cho thấy khả năng tạo ra
phản ứng sửa chữa ngà của tủy từ các tế bào có chức năng tương tự nguyên bào
ngà. Tuy nhiên, vẫn còn sự thiếu thống nhất trong các đặc điểm nhận diện các tế
bào giống nguyên bào ngà cũng dẫn đến sự không thống nhất về loại hay nguồn
gốc các tế bào này. Đây là một trong những vấn đề còn đang tranh luận đến nay.
Tóm lại, các kết quả nghiên cứu nêu trên trong vài thập kỷ gần đây cho
thấy những ưu điểm của MTA và Biodentine là khả năng dán kín, khả năng
tương hợp sinh học, hoạt động sinh học và khả năng thúc đẩy sự hình thành mô
khoáng trong tủy răng động vật và người 23,28,85. Ngoài ra, MTA và BD cũng
vượt trội hơn calci hydroxid do sự hình thành cầu ngà đồng nhất và dày hơn, ít
phản ứng viêm và ít hoại tử mô tủy 21,99,33,49. Những kết quả trên tuy cũng còn
cần thêm nhiều bằng chứng lâm sàng hơn nữa nhưng cũng cho thấy giá trị cực
kỳ to lớn của các loại xi măng calci silicat trong điều trị bảo tồn tủy ứng dụng
trong lĩnh vực nội nha.
Các nghiên cứu về MTA và BD ở Việt Nam trong các thử nghiệm in vitro
cũng đang chỉ mới thực hiện đánh giá đặc tính vật liệu về mặt lý hóa cơ học và
tương hợp sinh học. Hiện nay ở Việt Nam chưa có công bố nghiên cứu nào mô
tả hay đánh giá trong lĩnh vực điều trị CTTT lâm sàng, chỉ có những báo cáo tại
các cơ sở điều trị hay bệnh viện về các ca hay loạt ca lâm sàng sử dụng MTA và
BD trong nội nha với các đánh giá dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng kết hợp với
hình ảnh X quang quanh chóp. Những báo cáo này chủ yếu là mô tả và ghi
nhận, tuy cung cấp những bằng chứng X quang tốt nhưng cũng chỉ là ghi nhận
38
ban đầu, cần có những nghiên cứu lâm sàng và mô học với các tiêu chí đánh giá
rõ ràng hơn… để minh chứng, giải thích cơ chế, đưa ra những nhận định rõ ràng
hơn, từ đó có thể ứng dụng vào các quy trình điều trị với các vật liệu sinh học
này trong thực hành hàng ngày.
Trong xu hướng ứng hiện nay, dụng vật liệu sinh học trong CTTT là một
khái niệm tiếp cận điều trị ít xâm lấn, nhằm tái sinh, bảo tồn tủy; mang lại lợi
ích cho bệnh nhân, giảm thời gian và chi phí cho các điều trị tủy; ít đòi hỏi kỹ
thuật cao đối với nhà thực hành và rất phù hợp với thực tiễn, đặc biệt ở những
vùng ít có điều kiện về trang thiết bị cơ sở điều trị để thực hiện nội nha toàn
phần đạt tiêu chuẩn. Do đó chúng tôi thực hiện nghiên cứu nhằm đánh giá hiệu
quả của các loại vật liệu sinh học tricalci silicat trong mối liên quan đến phản
ứng ngà tủy trong điều trị che tủy với mong muốn đóng góp những đánh giá
định tính và định lượng khách quan, góp phần làm minh chứng hữu hiệu cho y
văn trong nước nói riêng và thế giới nói chung.
39
CHƯƠNG 2: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU
- Nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng đối chứng ngẫu nhiên (Randomized
clinical trial) theo hướng dẫn của Guiline Consort (Schulz, 2010) 100 với đặc
điểm là thử nghiệm không thua kém (Non-Inferiority Trial).
- Mô hình nghiên cứu nửa miệng (Split-mouth sudy).
2.2. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.2.1. Dân số chọn mẫu
Bệnh nhân có độ tuổi từ 18-25 tuổi (tính tại thời điểm đồng ý tham gia
nghiên cứu) khám tại cơ sở điều trị Khoa Răng Hàm Mặt –Đại học Y Dược
TP.HCM, có một hoặc hai cặp răng cối nhỏ vĩnh viễn hàm trên hoặc hàm dưới
hai bên (phải và trái) cần nhổ vì lý do chỉnh nha và nhổ răng thông thường.
2.2.2. Tiêu chí lựa chọn
- Răng nguyên vẹn hoặc chỉ tổn thương nhẹ ở men (mức độ 0-2 theo thang
ICDAS-II) 101, mô nha chu trong tình trạng bình thường.bằng
- Các cặp răng có hình dạng, vị trí và chiều hướng khá đối xứng với nhau ở
hai bên cung răng.
- Không có tiền sử chấn thương.
- Không có đau tự phát hoặc đau liên tục.
- Các triệu chứng lâm sàng và thử tủy nhiệt và thử điện tương ứng với tủy
bình thường.
- Biểu hiện trên phim X quang: răng đã đóng chóp hoàn toàn.
2.2.3. Tiêu chí loại trừ
- Bệnh nhân có các vấn đề bệnh toàn thân làm suy giảm hệ thống miễn dịch,
dùng thuốc kháng viêm kéo dài, đang điều trị một bệnh lý khác kéo dài.
- Bệnh nhân có vấn đề tim mạch và cao huyết áp
- Bệnh nhân có tiền sử dị ứng thuốc tê và các thành phần trong thuốc tê.
- Bệnh nhân có vấn đề tâm lý không thể hợp tác.
40
- Bệnh nhân có thai
- Chảy máu từ tủy không cầm được.
- Răng có triệu chứng bệnh lý trên phim X quang: có sang thương thấu quang
quanh chóp, nội tiêu hoặc calci hóa ống tủy.
- Răng bị lung lay quá mức hoặc kèm bệnh lý nha chu không thể giữ được.
- Răng vỡ lớn không thể trám tái tạo mà có chỉ định nội nha và phục hình thân
răng, hoặc răng không thể phục hình được.
2.3. THỜI GIAN VÀ ĐỊA ĐIỂM NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thực hiện từ tháng 5/2019 đến tháng 6/2021 tại:
• Khu điều trị lâm sàng Khoa Răng Hàm Mặt – Đại học Y Dược TP.HCM
• Bộ môn Chữa Răng – Nội Nha, Bộ Môn Tia X - Khoa Răng Hàm Mặt – Đại
học Y Dược TP.HCM
• Labo Giải phẫu bệnh - Khoa Răng Hàm Mặt– Đại học Y Dược TP.HCM
• Labo BM Mô Phôi-Giải phẫu bệnh - Khoa Y – Đại học Y Dược TP.HCM
2.4. CỠ MẪU CỦA NGHIÊN CỨU
Giả thiết nghiên cứu
- Câu hỏi nghiên cứu là có hay không có sự thua kém về hiệu quả lâm sàng,
cận lâm sàng phản ứng của phức hợp ngà tủy giữa vật liệu BD so với MTA
trong phản ứng ngà tủy khi điều trị CTTT trên răng vĩnh viễn ở người sau 9-12
tuần và 13-16 tuần.
- Giả thuyết không cho nghiên cứu là BD có thua kém hơn MTA về hiệu quả
lâm sàng, cận lâm sàng phản ứng của phức hợp ngà tủy trong điều trị CTTT trên
răng vĩnh viễn ở người sau thời gian 9-12 tuần và 13-16 tuần.
2.4.1. Tính cỡ mẫu
• Giả thuyết H0: p1-p2 ≥ δ
• H1: p1-p2 < δ
Theo đa số báo cáo đã công bố, tỷ lệ thành công của hai vật liệu này
không vượt trội hay thua kém nhau nhiều (vào khoảng 96- 100% 88), vì vậy
41
nghiên cứu ước lượng cỡ mẫu theo công thức dành cho thử nghiệm không thua
2
(
(𝑍1−𝛼+ 𝑍1−𝛽)
+ 𝑝2(1−𝑝2))
𝑝1(1−𝑝1) 𝑟
kém hơn:
(𝑝1− 𝑝2− 𝛿)2
= 11 𝑛1 ≥
𝑛2 = 𝑛1 𝑥 𝑟 = 11
✓ Sai lầm loại I là =0,05 (5%)
✓ Sai lầm loại II là =0,2
✓ Độ tin cậy 95%, Z(1-)=1,645 (kiểm định một phía),
✓ p1=0,99, p2=0,96 (Awawdeh 2018 8)
✓ Ngưỡng khác biệt không vượt trội δ=20% (giới hạn không thua kém)
✓ Tỉ số mẫu trong 2 nhóm r =1
✓ Lực mẫu (power) = (1-β) = 0,80 độ chính xác 80%, Z(1-)= 0,842
𝑁𝑇ổ𝑛𝑔 ≥ 𝑛1 + 𝑛2 = 22
Do đó, cỡ mẫu tối thiểu tính được cho nghiên cứu là 11 răng cho mỗi
nhóm. Để tránh sai lệch do thất thoát mẫu, mẫu này sẽ được tăng lên 15% (26
răng) dự phòng so với công thức. Nghiên cứu tiếp nhận khám 23 bệnh nhân (74
răng), số bệnh nhân tham gia nghiên cứu là 15 bệnh nhân (56 răng), sau đó loại
bớt 4 bệnh nhân ở thời điểm sau cùng còn 11 bệnh nhân (44 răng).
2.4.2. Phương pháp chọn mẫu
Đối tượng nghiên cứu được chọn mẫu thuận tiện từ các hồ sơ bệnh nhân
chỉnh nha có độ tuổi thích hợp theo phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ
thống với hệ số khoảng cách là 2, đối tượng đầu tiên được mời tham gia nghiên
cứu là số hồ sơ bốc thăm ngẫu nhiên trong các hồ sơ phù hợp điều kiện, sau đó
cách mỗi hai hồ sơ khám mới sẽ mời một bệnh nhân, nếu bệnh nhân này không
tham gia thì mời hồ sơ liền kề tiếp theo.
Bệnh nhân sau khi được khám và chẩn đoán, đủ điều kiện và đồng ý tham
gia nghiên cứu sẽ được thư ký phân bố ngẫu nhiên đơn giản 1: 1 bằng phần
42
mềm trình tự máy tính (random.org) các răng hai bên hàm vào nhóm MTA hoặc
BD.
2.5. BIẾN SỐ NGHIÊN CỨU
Các tiêu chí chuẩn thường dùng đánh giá lâm sàng, cận lâm sàng được
xây dựng theo mã số từ (1)-(4), với mã số (1) là mức độ mong muốn nhất và mã
số (4) là mức độ không mong muốn nhất. Một số tiêu chí khác xây dựng theo
Bảng 2.1: Phân loại, định nghĩa và giá trị các biến số.
mã số (1) và (2) tương ứng với hai mức độ không và có (Bảng 2.1, Phụ lục 5).
Nhóm Biến số nền
Tên biến số Tuổi
Mã S1.1 S1.2
Giới
Phương pháp điều trị
Độ hoạt động sâu răng
Biến số khám lâm sàng Bakhtiar (2017), Katge (2017)
Biến số đau và nhạy cảm (Bokhari 2016)
Biến số X quang phim quanh chóp Bakhtiar (2017)
S1.3 S2.1 Mảng bám Viêm nướu S2.2 Viêm nha chu S2.3 Độ lung lay S2.4 Sưng, lỗ dò S2.5 S2.6 Mức độ sâu răng S2.7 S2.8 Miếng trám S2.9 Màu sắc răng S2.10 Thử nghiệm lạnh S2.11 Thử nghiệm nóng S2.12 Thử nghiệm điện S2.13 Tình trạng tủy răng S2.14 Thử nghiệm gõ S2.15 Thử nghiệm nhạy cảm dưới áp lực cắn S2.16 Cường độ đau S2.17 Thời gian đau S2.18 Thời gian mỗi lần đau S2.19 Tác nhân đau S2.20 Kiểu đau S2.21 Đặc điểm tần suất cơn đau S3.1 S3.2 S3.3 S3.4 S3.5
Sự thay đổi kích thước thành ngà chân răng G-X Kích thước cầu ngà chiều G-X Kích thước cầu ngà chiều T-D Kích thước cầu ngà chiều N-T Độ dày trung bình cầu ngà
Loại biến số Liên tục, thứ tự Nhị giá, danh định Danh định Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Danh định Liên tục Nhị giá Nhị giá Liên tục Nhị giá Nhị giá Nhị giá Nhị giá Nhị giá Nhị giá Liên tục Liên tục Liên tục Danh định Danh định Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục
43
Nhóm
Tên biến số Sự liên tục của cầu ngà Sang thương quanh chóp, tiêu xương Nội ngoại tiêu chân răng Sự thay đổi kích thước thành ngà chân răng phía N-T Sự thay đổi kích thước thành ngà chân răng phía G-X Sự thay đổi kích thước hốc tủy (chiều N-T, G-X Kích thước cầu ngà chiều N-T Kích thước cầu ngà chiều G-X Kích thước cầu ngà chiều T-D Độ dày trung bình cầu ngà Sự liên tục của cầu ngà Thể tích cầu ngà Sang thương quanh chóp, tiêu xương
Biến số X quang phim CBCT Nowicka (2015), Peskersoy (2020)
Sự xâm nhập VK Loại viêm
biến
Biến số mô học (Nowicka 2015 đổi)
Mã S3.6 S3.7 S3.8 S4.1 S4.2 S4.3 S4.4 S4.5 S4.6 S4.7 S4.8 S4.9 S4.10 S4.11 Nội ngoại tiêu chân răng S4.12 Mật độ của ngà chân răng chiều N-T và G-X S4.13 Mật độ tủy S4.14 Mật độ của cầu ngà (Nowicka 2015) S4.15 Mật độ của VL che tủy S5.1 S5.2 S5.3 Mức độ viêm S5.4 S5.5 S5.6 S5.7 S5.8 S6.1 S6.2a
Loại biến số Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Danh định Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Liên tục Danh định Liên tục Liên tục
Biến số đánh giá thành công
Sự lan rộng của viêm Giới hạn cầu ngà Hình thái cầu ngà Kích thước cầu ngà Lớp tế bào dạng nguyên bào ngà Thành công của CTTT về mặt lâm sàng (Katge 2017) Thành công của CTTT về mặt X quang quanh chóp (Katge 2017)
S6.2b Thành công của CTTT về mặt X quang CBCT (Peskersoy
Liên tục
2020) Thành công của CTTT về mặt mô học (Nowicka 2015)
S6.3
Liên tục
2.6. PHƯƠNG PHÁP, CÔNG CỤ ĐO LƯỜNG, THU THẬP SỐ LIỆU
2.6.1. Các phiếu thu thập số liệu
• Phiếu cung cấp thông tin và chấp thuận tham gia nghiên cứu (Phụ lục 3)
Tờ thông tin thông báo về đề tài nghiên cứu được phổ biến cho các bệnh
nhân phù hợp điều kiện chọn mẫu. Bệnh nhân được nghiên cứu viên giải thích
trực tiếp về cơ chế, quy trình điều trị, nguy cơ của phương pháp bảo tồn CTTT,
các biến chứng hay cảm giác nhạy cảm có thể gặp phải và các điều trị thay thế
44
nếu cần (lấy tủy buồng, lấy tủy toàn phần, không điều trị tiếp, nhổ răng). Sau đó
bệnh nhân tham gia nghiên cứu đọc và điền thông tin vào phiếu cung cấp thông
tin, ký tên tình nguyện tham gia nghiên cứu. Mỗi bệnh nhân tham gia nghiên
cứu được yêu cầu tuân thủ quy trình điều trị CTTT và ít nhất hai buổi tái khám.
Bệnh nhân chấp thuận tiếp nhận gây tê khi điều trị và sử dụng thuốc kháng sinh,
kháng viêm, giảm đau nếu cần thiết.
• Phiếu khám đánh giá dành cho nghiên cứu viên (Phụ lục 3)
- Dữ liệu hành chính : họ tên, tuổi, giới tính, thông tin liên lạc
- Lý do đến khám, kế hoạch điều trị chỉnh hình răng mặt (chỉnh nha)
- Tiền sử chấn thương, điều trị, bệnh lý toàn thân
- Mô cứng: sâu răng, núm phụ mặt nhai, màu sắc răng,...
- Mô mềm: sưng, nề, lỗ dò,...
- Kết quả các thử nghiệm gõ, nhiệt, điện
- Phân tích phim X quang: sâu răng, có hay không sự thông thương giữa tủy
và môi trường miệng không, tổn thương quanh chóp, cầu ngà,...
- Đặc điểm mô học: cầu ngà, tế bào viêm,...
• Phiếu tự đánh giá dành cho bệnh nhân (Phụ lục 3)
Đánh giá tình trạng không thoải mái/khó chịu, nhạy cảm, đau của bệnh
nhân sau điều trị qua Thang đo đau VAS (Visual Analogue Scale) (hình 2.1) và
các câu hỏi đánh giá đặc điểm cơn đau qua mô tả tần suất, cường độ và nguồn
kích thích của cơn đau 101. Trước khi tự đánh giá, Bác sĩ giải thích rõ ràng và
yêu cầu bệnh nhân tự mô tả cơn đau hiện tại của mình vào phiếu thông tin theo
ba phương thức:
- Bằng hình ảnh khuôn mặt in sẵn: chọn 1 trong 6 khuôn mặt biểu lộ cảm xúc
tương ứng với cơn đau của mình.
- Bằng thang đo: xác định một điểm tương ứng với mức độ đau của mình trên
trục ngang của thanh đo mức độ 0-10.
45
- Bằng lời nói: mô tả cơn đau của mình bằng lời nói với 6 mức độ có sẵn từ
Hình 2.1: Thang đo đau VAS (Visual Analogue Scale) bằng hình ảnh khuôn mặt và thang đo
số với các mức độ 0-10.
“không đau” đến “đau khủng khiếp”.
2.6.2. Vật liệu điều trị CTTT
Hai loại vật liệu CTTT được sử dụng trong nghiên cứu:
• MTA Angelus (Angelus Solucoes Odontologicas, Londrina, Braxin) (Hình
2.2A).
Hình 2.2: MTA Angelus (A) và BiodentineTM (B).
• Biodentine: Biodentine TM (Septodont, Pháp) (Hình 2.2B)
2.7. QUY TRÌNH NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu thực hiện theo 3 giai đoạn I, II, III liên tiếp là các quy trình
Giai đoạn (I)
Đánh giá lâm sàng sau điều
Tổng n=44:
trị CTTT (Katge 2017)
+ Nhóm MTA, n=22:
Giai đoạn (II) Đánh giá X quang sau điều
- Nhóm MTA1 (9-12 tuần), n=11
trị CTTT (Nowicka 2015)
- Nhóm MTA2 (13-16 tuần), n= 11
+ Nhóm Biodentine, n=22:
độc lập nhưng liên tiếp, đan xen và bổ sung nhau:
- Nhóm BD1 (9-12 tuần), n=11
- Nhóm BD2 (13-16 tuần), n=11.
Giai đoạn (III) Đánh giá mô học sau CTTT
Tổng n=22
(Nowicka 2013, Bakhtiar
+Nhóm MTA (9-12 tuần), n=11
2017)
+ Nhóm BD (9-12 tuần), n=11
KHÁM SÀNG LỌC
23 BN n=74 răng
LOẠI TRỪ 08 BN, n=18 Không hợp tiêu chí 2 BN Không tham gia 5 BN
46
PHÂN NHÓM NGẪU NHIÊN 15 BN, n=56
Nhóm MTA n= 28 răng Nhóm BD n= 28 răng
KHÁM, X QUANG 4-8 TUẦN Loại n=4
n=26 răng n=26 răng
KHÁM, X QUANG 9-16 TUẦN Loại n=2
n=25 răng n=25 răng
KHÁM, X QUANG NHỔ RĂNG Loại n=6
Sơ đồ 2.1: Quy trình nghiên cứu lâm sàng (I) và X quang (II).
n=22 răng n=22 răng
Quy định về việc ghi mã số
• Mã số bệnh nhân: theo thứ tự bệnh nhân tham gia nghiên cứu, bắt đầu từ
BN01.
47
• Mã số mẫu răng nghiên cứu: theo thứ tự răng tham gia đặt vật liệu mỗi
nhóm-mã số nhóm, bắt đầu từ A01.
• Mã số thời điểm: theo thứ tự thời điểm thu thập số liệu (T1, T2, T3) ứng
với thời điểm trước và sau điều trị).
• Mã số mẫu mô học: mã số nhóm - mã số lát cắt.
2.7.1. Quy trình nghiên cứu lâm sàng (I)
2.7.1.1. Khám ban đầu
- Khám lâm sàng, hỏi và ghi nhận triệu chứng lâm sàng chủ quan: khó chịu,
nhạy cảm, đau,..
- Đánh giá triệu chứng thực thể: mức độ sâu răng, tình trạng nha chu, tiên
lượng phục hồi..., sử dụng vật liệu nhuộm màu sâu răng ghi nhận tình trạng răng
sâu.
- Các răng được lựa chọn không có miếng trám hoặc trám nhỏ không ảnh
hưởng tủy. Loại trừ các răng có sâu lớn, miếng trám lớn, gần tủy hoặc có liên
quan vị trí tạo xoang, răng có dấu hiệu nhiễm trùng nha chu, tủy, vùng quanh
chóp.
- Bệnh nhân được lấy cao trên nướu (nếu có) và đánh bóng
- Chụp ảnh và so màu răng trước điều trị (thời điểm T0) với bảng so màu Vita
Toothguide 3D Master (VITA Zahnfabrik, Đức). Ảnh chụp dưới ánh sáng đèn
huỳnh quang (Phụ lục 4).
- Chụp X quang quanh chóp và CBCT (thời điểm T0).
- Ghi nhận các chỉ số lâm sàng: chỉ số sâu răng theo ICDAS-II, chỉ số mảng
bám, chỉ số nướu, chỉ số phân loại viêm nha chu, độ lung lay (phụ lục 4)
Các thử nghiệm lâm sàng: thực hiện lặp lại 3 lần với răng liên quan và
răng chứng cùng tên hoặc răng lân cận có tủy lành mạnh bình thường.
❖ Thử nhiệt: đánh giá sự nhạy cảm tủy
- Thử lạnh: Cô lập răng, sử dụng nước đá vừa tan bơm nhẹ lên mặt ngoài
răng.
48
(1) Đau thoáng qua: tủy bình thường
(2) Không đáp ứng đau: tủy có thể không còn sống hoặc bị vôi hóa.
Đau kéo dài khi loại bỏ kích thích: viêm tủy không hồi phục.
- Thử nóng: áp đầu côn gutta percha được hơ nóng lên mặt ngoài răng.
(1) Không đáp ứng đau: tủy bình thường.
(2) Đau và đau nhiều: tủy trong tình trạng hoại tử lỏng.
❖ Thử điện (Hình 2.3): đánh giá sự nhạy cảm tủy
Thử răng chứng là răng cùng tên trên phần hàm đối diện hoặc răng kề cận
cùng nhóm với răng cần thử và ghi nhận giá trị chuẩn. Đặt điện cực tiếp xúc với
mặt răng có thoa một lớp kem đánh răng, điều chỉnh để thay đổi cường độ dòng
điện trên máy thử điện (DigitestTM II Pulp Vitality Tester, Parkell, Mỹ) và yêu
cầu bệnh nhân giơ tay khi có cảm giác nhạy cảm hay đau. Các giá trị của thang
đo của máy (từ 1-10) hiển thị ngay tại điểm nhạy cảm được ghi nhận:
• Giá trị từ 1-6 là đáp ứng tủy trong mức bình thường
• Giá trị từ 7-9 được xem như tủy đáp ứng kém
• Giá trị 10 là không đáp ứng, tủy có thể không còn sống hoặc bị vôi hóa.
(1) Đau ở mức 0-8: dương tính
(2) Đau ở mức 9-10 hoặc không đau: âm tính
❖ Thử nghiệm gõ dọc: Sử dụng đầu cán gương gõ dọc theo hướng thẳng
đứng trên mặt nhai, mặt ngoài, mặt trong của răng thử nghiệm. Khi gõ dùng sức
vừa đủ để bệnh nhân cảm nhận cảm giác khó chịu, đau, hoặc nhói.
Răng khỏe mạnh cũng có thể hơi nhạy cảm với gõ và nếu các triệu chứng
của viêm quanh chóp yếu hoặc không chắc chắn, cần lặp lại thử nghiệm kiểm
tra cảm giác trên nhiều răng liên tục không theo thứ tự đặc biệt để đảm bảo tính
nhất quán trong các quan sát, bao gồm răng chứng và răng đối tượng.
Thử nghiệm gõ dọc có thể cho thấy vấn đề vùng dây chằng nha chu quanh
chóp và có thể liên quan viêm tủy hoặc hoại tử tủy có tiến triển đến gần chóp.
Tuy vậy nó thường không xác định rõ ràng được bệnh lý viêm chưa tiến triển
49
đến vùng quanh chóp. Các áp xe hoặc bệnh nha chu nặng tiêu xương cũng có
thể không đáp ứng đau với gõ dọc mà đáp ứng với gõ ngang.
(1) Không đau: không viêm quanh chóp
(2) Đau: viêm quanh chóp
❖ Thử nghiệm nhạy cảm dưới áp lực cắn
Yêu cầu bệnh nhân cắn chặt hai hàm ở vị trí lồng múi tối đa và cắn trên
miếng gòn cuộn cứng đặt ở mặt nhai, sau đó đột ngột giảm áp lực cắn. Cảm giác
đau khi đột ngột giải phóng áp lực được ghi nhận nếu có. Thử nghiệm đánh giá
tình trạng chấn thương và nứt gãy răng.
(1) Không đáp ứng đau: răng nguyên vẹn, không có vết nứt gãy.
Hình 2.3: Thử điện đánh giá sự nhạy cảm tủy.
(2) Đau: răng có đường rạn, nứt
2.7.1.2. Đặt vật liệu CTTT
- Gây tê tại chỗ (1/2-2/3 ống 1,8 ml, 2% Lidocain có 1:100.000 Epinephrin,
Septodont, Pháp).
- Cô lập răng với đê cao su đã được ngâm sát khuẩn bằng CHX 2% (Difem
Laboratory, Chile).
- Làm sạch răng với chổi và đài cao su và sát khuẩn bề mặt bằng CHX 2%.
- Tạo xoang đặt vật liệu: sử dụng mũi khoan tròn kim cương số 2 /đường kính
1mm (SSwhite, Mỹ) với tay khoan siêu tốc có nước phun sương tạo xoang loại I
trên mặt nhai kích thước khoảng dài 2mm x rộng 2mm x cao 3-4mm, qua đường
50
nối men ngà, rửa xoang bằng dung dịch sát khuẩn CHX 2% và thay mới mũi
khoan ở mỗi răng.
- Tạo điểm lộ tủy: tiếp tục hướng mũi khoan về phía sừng tủy ngoài cho đến
khi lộ tủy, bơm rửa bằng dung dịch NaOCl 1.5% (Hyposol, Prevest, Chile).
Đánh giá mức độ chảy máu bằng cách ép chặt viên gòn tẩm dung dịch sát
khuẩn muối sinh lý 0,9% trong 3-8 phút. Nếu có thể cầm máu được, sát khuẩn
xoang trám với viên gòn tẩm dung dịch NaOCl 3% (Hyposol, Prevest, Chile) và
bệnh nhân được chuyển vào giai đoạn đặt vật liệu cho nghiên cứu (Phụ lục 6).
Nếu không cầm máu được, loại khỏi nghiên cứu.
- Đặt vật liệu CTTT: được thực hiện theo trình tự của phác đồ điều trị CTTT
theo Hướng dẫn về quy trình điều trị bảo tồn của Hiệp hội Nội Nha Châu Âu
(ESE) năm 2016 102 (Hình 2.4).
• Nhóm MTA: Trộn MTA (Angelus, Mỹ) bằng bay và kính chuyên dụng
theo tỷ lệ 3 muỗng bột: 1 giọt nước với bộ kính trộn và bay chuyên dùng cho
đến khi có được hỗn hợp đồng nhất màu trắng sệt, liên kết các hạt khá rời rạc.
Sau đó đặt vật liệu bằng bộ ống bơm chuyên dụng, dùng cây bay và nhồi tạo
hình lớp vật liệu sao cho thành một lớp dày 1,5-2 mm che phủ phần tủy lộ và
che phủ ra ngoài giới hạn tủy lộ 0,5-1mm. Đặt một miếng gòn ẩm mỏng lên trên
lớp MTA và trám tạm bằng GIC Fuji Lining LC IX (GC, Nhật).
• Nhóm BD: Trộn BiodentineTM (Septodont, Pháp) bằng máy trộn chuyên
dụng. theo hướng dẫn của hãng sản xuất tỷ lệ 1 nhộng bột : 5 giọt lỏng để đạt độ
đồng nhất và giảm vi kẽ. Thành phẩm BD là hỗn hợp màu vàng nhạt sệt, đặc, độ
kết dính các hạt tốt. Sau đó đặt Biodentine bằng bộ ống bơm chuyên dụng
(Angelus, Mỹ), dùng cây bay và nhồi để tạo hình lớp vật liệu như trên và trám
bằng GIC Fuji IX (GC, Nhật).
- Chụp chụp ảnh và chụp phim X quang (thời điểm T1).
Hình 2.4: Quy trình đặt vật liệu che tủy: răng ban đầu (F), tạo xoang (A), lộ tủy (B, G), cầm
máu (C), che tủy (D, H), trám GIC (E, I).
51
2.7.1.3. Tái đánh giá
Thời gian hẹn tái khám: 1 tuần, 4 tuần, 6 tuần, 8 tuần, 9-12 tuần, 13-16 tuần.
Quy trình tái đánh giá:
- Sau 7 ngày, tháo trám tạm, trám lót bằng GIC Fuji Lining LC IX (GC, Nhật)
và trám hoàn tất bên ngoài bằng Composite G-aenial (GC, Nhật).
- Mài chỉnh khớp cắn và đánh bóng hoàn tất miếng trám.
- Khám lâm sàng: miếng trám không sút, không sâu tái phát, răng không đổi
màu, không chảy mủ, chảy dịch, không lỗ dò.
- Thực hiện lại các thử nghiệm tủy (nhiệt và điện) và gõ.
- Chụp ảnh và so màu răng.
- Chụp X quang (thời điểm T2.x; x=1,2,3,...).
- Hỏi thông tin và hướng dẫn bệnh nhân ghi nhận cảm giác chủ quan vào phiếu
đánh giá.
- Hướng dẫn bệnh nhân các giải pháp chống nhạy cảm ngà (nếu có) hoặc ghi
toa thuốc giảm đau, kháng viêm nếu cần thiết. Nếu không giảm đau sau khi
dùng thuốc theo toa, có thể cần chuyển sang các điều trị thay thế: kỹ thuật lấy
tủy buồng, tủy chân hoặc nhổ răng theo chỉ định và loại khỏi nhóm nghiên cứu.
52
2.7.1.4. Nhổ răng
Thời gian nhổ răng tuân thủ theo kế hoạch điều trị chỉnh nha (9-12 tuần,
13-16 tuần).
Quy trình tái đánh giá và nhổ răng:
- Thực hiện các bước khám tái đánh giá như trên (thời điểm T2.x).
- Nhổ răng được thực hiện dưới gây tê tại chỗ (1,8 ml, 2% Lidocain có
1:100.000 Epinephrin, Septodont, Pháp) với kỹ thuật nhổ răng không sang chấn
bởi bác sĩ phẫu thuật miệng. Sau nhổ răng, bệnh nhân được hướng dẫn chăm
sóc vùng nhổ răng theo quy trình chăm sóc hậu phẫu thường quy: kê toa thuốc
giảm đau, tái khám ổ nhổ răng và theo dõi lành thương sau 1 tháng, hướng dẫn
vệ sinh răng miệng.
- Bệnh nhân hoàn thành các bảng câu hỏi.
2.7.2. Quy trình nghiên cứu X quang (II)
2.7.2.1. Phim quanh chóp
Nghiên cứu sử dụng máy X quang Kỹ thuật số Satelec (Acteon Group,
Pháp) với thông số điện áp 70 kVp, cường độ 8 mA, chụp phim quanh chóp với
cảm biến phospho PSP độ phân giải 20 lp/mm (size số 2) để thu được hình ảnh
kỹ thuật số. Các hình ảnh được lưu trữ và đưa vào phần mềm ImageJ 1.49d
(National Institutes of Health, Bethesda, MD, USA) để đo đạc số liệu và hiệu
chỉnh thang đo theo đơn vị milimet (Phụ lục 4).
Phim sơ khởi (T0), phim đặt vật liệu trước (T1) và sau (T2.x) chụp trong
miệng được chuẩn hóa góc độ chụp phim theo kỹ thuật song song với bộ dụng
cụ định vị giữ phim Rinn XCP (Dentsply Sirona, Anh) kết hợp với dấu cắn cá
nhân bằng cao su (Phụ lục 4). Phim chụp răng đã nhổ (T3) được chuẩn hóa góc
độ với phần giữ cố định răng và phim được thiết kế với khoảng cách đầu cône
cách phim 10 cm, chụp lần lượt bốn góc độ ngoài (N), trong (T), gần (G), xa
(X) (bảng 2.2).
Bảng 2.2: Các thời điểm chụp X quang quanh chóp và CBCT (T0, T1, T2 và T3).
Thời điểm chụp
Mục đích đánh giá
Phim sơ khởi (T0) Khi khám chẩn đoán ban đầu Mức độ sâu răng, tương quan vùng
sâu răng và tủy, giải phẫu tủy, kích
thước buồng tủy, ống tủy và bệnh
lý quanh chóp
Phim đặt che tủy
Ngay sau khi đặt vật liệu che
Kích thước, mật độ ngà, tủy
(T1)
tủy
Phim 9-16 tuần,
Sau 9-16 tuần, ngay trước nhổ
Kích thước, mật độ ngà, tủy và cầu
ngà
trước nhổ (T2.x)
răng
Phim sau nhổ (T3) Trong vòng 48 giờ sau nhổ
Kích thước, mật độ ngà, tủy và cầu
ngà
răng
53
Các tiêu chí đo bao gồm:
- Đo chiều dày tối đa cầu ngà theo ba chiều ngoài-trong (N-T), gần-xa (G-X)
và trên-dưới (T-D): các kích thước này đo bằng đơn vị mm. Mỗi phim ghi nhận
ba giá trị lớn nhất.
- Đo độ dày ngà chân răng. Vẽ các đường để xác định sự thay đổi độ dày ngà
chân răng ở bốn thành N, T, G, X. Giao điểm men-xê măng ở vùng cổ răng giải
phẫu là điểm dễ xác định và không thay đổi giữa các hình chụp trước và sau
điều trị nên được chọn làm điểm mốc để đo đạc và có ba vị trí được chọn là:
• vị trí (A): ngang đường nối men xê măng G-X
• vị trí (B): cách đường nối men-xê măng G-X 0,5 mm về phía thân
• vị trí (C): cách đường nối men-xê măng G-X 0,5mm về phía chóp
Độ dày ngà răng G-X = độ dày ngà phía G + độ dày ngà phía X
Độ dày ngà răng N-T = độ dày ngà phía N + độ dày ngà phía T
Phần trăm sự tăng độ dày ngà răng (G-X hoặc N-T)= (độ dày ngà răng sau điều trị-độ
dày ngà răng trước điều trị)/ độ dày ngà răng trước điều trị đo ở cùng vị trí x 100%
Công thức tính:
54
2.7.2.2. Phim chụp cắt lớp điện toán với chùm tia hình nón (Cone-beam
computed tomography-CBCT)
Phim cắt lớp điện toán với chùm tia hình nón CBCT được chụp cùng thời
gian với các phim quanh chóp. Phim CBCT do một chuyên viên X quang chụp
với máy chụp kỹ thuật số Planmeca Promax® 3D classic (Planmeca Oy, Phần
Lan) với thông số điện áp 90-120 kVp, cường độ 14 mA, kích thước điểm ảnh
ba chiều 0,10 mm3, sử dụng cảm biến 3D CMOS, tùy chỉnh chế độ chụp nội nha
chuyên dụng với lát cắt có độ phân giải cao với kích thước điểm ảnh ba chiều
nhỏ 0,075 mm, trường quan sát vùng cắt FOV 5x5 cm, kích thước lát cắt
1024x1024 pixel, thời gian quét 8 giây. Ưu điểm của chế độ chụp này vì trường
quan sát nhỏ, khu trú chỉ ở 1-2 răng liên quan nên giảm thiểu tối đa liều tia X sử
dụng cho mỗi lần quét.
Hình ảnh kỹ thuật số ba chiều trên các lát cắt gốc được sử dụng đo đạc số
liệu với phần mềm Planmeca Romexis kết nối theo máy (Phụ lục 4). Đầu tiên,
hình ảnh được chuẩn hóa vuông góc với các trục thân răng nhất có thể theo ba
mặt phẳng: mặt phẳng ngang (axial), ngoài trong (coronal) và gần xa (sagital)
(Hình 2.5) và lần lượt tiến hành đo trên các lát cắt tương ứng:
• vị trí (A) ngang đường nối men xê măng G-X
• vị trí (B) cách đường nối men-xê măng G-X 0,5 mm về phía thân (lát cắt
cách vị trí 1 là 0,075 x 6 = 0,525mm)
• vị trí (C) cách đường nối men-xê măng G-X 0,5mm về phía chóp (lát cắt
cách vị trí 1 là 0,075 x 6 = 0,525mm)
Các tiêu chí đo bao gồm:
- Đo độ dày ngà chân răng phía N, T, G, X: các kích thước này đo bằng đơn vị
mm theo ba mặt phẳng chuẩn.
- Đo độ dày ngoài-trong, gần-xa hốc tủy
Độ dày ngà răng G-X = độ dày ngà phía G + độ dày ngà phía X
Công thức tính:
Độ dày ngà răng N-T = độ dày ngà phía N + độ dày ngà phía T Phần trăm sự tăng độ dày ngà răng (G-X hoặc N-T)= (độ dày ngà răng sau điều trị-độ dày ngà răng trước điều trị)/ độ dày ngà răng trước điều trị đo ở cùng vị trí x 100% - Đo độ dày cầu ngà theo ba chiều N-T, G-X và T-D: các kích thước này đo
55
bằng đơn vị mm theo ba mặt phẳng chuẩn.
- Mật độ ngà trung bình phía ngoài, trong, gần và xa
- Mật độ tủy theo mặt cắt ngoài-trong và gần xa
Giá trị mật độ này xác định bằng cách vẽ các hình khối 3D hình bầu dục
quanh mp chuẩn có thể tích < 0,001 cm3 ở các vùng chân G, X, N, T bao phủ
vùng cần đo để ghi nhận mật độ ngà, tủy trung bình.
- Có hay không có sang thương quanh chóp.
Ngoài ra, nghiên cứu sử dụng phần mềm Mimics Medical 20.0 chuyên
dụng trong y khoa để khảo sát và tái hiện hình ảnh giải phẫu 3 chiều và đo đạc
các số liệu về thể tích mô khoáng hóa. Các tiêu chí đo bao gồm:
- Thể tích mô khoáng hóa hoặc cầu ngà và mật độ trung bình: được đo bằng
cách đánh dấu vùng chọn là mô khoáng hóa trên từng lát cắt, phần mềm tích
hợp sẽ tính toán thể tích ước lượng của toàn bộ khối mô khoáng hóa và mật độ
trung bình trên miền đã chọn (Hình 2.6).
Hình 2.5: Xác định mặt phẳng chuẩn trên phim CBCT và đo độ dày ngà chân răng phía N, T,
G, X; đo độ dày ngoài-trong, gần-xa hốc tủy (MS B28).
- Thể tích vật liệu che tủy và mật độ: đo đạc tương tự cầu ngà (Hình 2.6).
Hình 2.6: Đo thể tích cầu ngà vật liệu che tủy và mật độ (MS B11).
56
2.7.3. Quy trình nghiên cứu mô học (III)
Xử lý và chuẩn bị mẫu mô học: Răng vừa nhổ được ngâm nước muối
sinh lý 5-10 phút, sau đó làm sạch và cắt bỏ 5 mm chóp răng bằng một mũi kim
cương với tay khoan nhanh có nước phun sương.
- Ngâm cố định mô: Không quá 30 phút sau khi nhổ, răng phải được ngâm
trong dung dịch formol đệm trung tính 10% (formalin 10%) trong 24-48 giờ.
- Ngâm khử khoáng: đánh mã số và ngâm răng trong dung dịch Osteomoll®
(Merck Milipore, Đức).
- Kiểm tra mức độ khử khoáng bằng phim X quang mỗi 1 tháng, khi hiện
tượng thấu quang hoàn toàn biểu hiện trên X quang và mẫu mô đủ mềm để cắt
sẽ chuyển sang giai đoạn tiếp theo (hình 2.7). Các mẫu răng đều phải được đánh
Hình 2.7: Phim X quang được theo dõi mức độ khử khoáng của mẫu nghiên cứu (A09).
mã số theo phân nhóm để theo dõi.
57
- Mẫu được xử lý bằng máy Microm STP 129 (Thermo Scientific, Anh)
- Đúc khối răng vào paraffin được thực hiện tại labo Mô phôi- Giải phẫu bệnh
với máy đúc khối HistoStars (Thermo Scientific, Anh).
- Sau đó khối răng trong paraffin được cắt lát trong máy cắt Thermo HM340E
(Thermo Scientific, Anh) với độ dày 5µm/lát theo mặt phẳng ngoài trong và sấy
mẫu.
- Nhuộm lam theo hai quy trình (Phụ lục 4):
(1) Nhuộm Gram vi khuẩn bằng kỹ thuật nhuộm Brown and Brenn.
(2) Nhuộm tế bào và nhân tế bào với Hematoxyline-eosin.
Các quy trình kỹ thuật nhuộm thực hiện theo Hướng dẫn quy trình kỹ thuật
chuyên ngành giải phẫu bệnh, tế bào học do Bộ Y tế ban hành năm 2016 (kèm
theo quyết định số 5199/QĐ-BYT ngày 25/12/2013) (Phụ lục 5).
Quan sát mô học thực hiện dưới Kính hiển vi quang học (Carl Zeiss Imager,
Goettinggen, Đức) nối với hệ thống máy tính để ghi và quan sát có độ phân giải
cao. Mẫu được quan sát dưới ánh sáng thường và ánh sáng cực tím với bộ lọc
38 HE eGFP và 43 HE Cy 3 filters, vật kính x10, x20, x40.
- Viêm tủy được đánh giá ở phần tủy thân khi lấy 3 lát cắt ở giữa, sát vùng có
cầu ngà hoặc sát vùng có vật liệu che tủy (theo mô hình của Nowicka 2013).
- Hình ảnh mô học khác của mô tủy: hình thái lớp nguyên bào ngà, tế bào
giống nguyên bào ngà.
- Độ dày cầu khoáng hóa ngà được đo bằng độ chính xác 10 μm với thước đo
milimet sử dụng phần mềm Olympus cellSens (Nhật). Mỗi tiêu bản đo 3 vị trí:
trung tâm cầu ngà và hai bên thành xoang tiếp nối cầu ngà. Tính giá trị trung
bình chiều dày cầu ngà sửa chữa mỗi mẫu.
- Đánh giá hình dạng cầu ngà, ống ngà, hướng của ống ngà trong cầu ngà sửa
chữa (nếu có) và trong ngà nguyên phát.
- Quan sát sự hiện diện vi khuẩn ở các vị trí đo.
58
Ngoài các nhóm răng nghiên cứu, chuẩn bị 5 răng cối nhỏ của bệnh nhân
(19-25 tuổi) có chỉ định nhổ chỉnh hình răng mặt, không thực hiện bất cứ can
thiệp nào, nghiên cứu viên chỉ sử dụng răng sau khi nhổ, xử lý mẫu và để làm
chứng âm và 3 răng có viêm tủy được nhổ theo chỉ định làm chứng dương cho
các quy trình chụp X quang và nhuộm mô học.
2.8. PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH DỮ LIỆU
2.8.1. Kiểm soát sai lệch thông tin
Để hạn chế sai lệch thông tin trong quá trình thu thập dữ liệu, nghiên cứu
đã thực hiện kiểm soát sai lệch những thông tin thu thập từ phỏng vấn, khám,
điều trị ở lâm sàng, cận lâm sàng bao gồm X quang lẫn các quy trình thực hiện
ở phòng thí nghiệm mô học.
Việc hỏi bệnh sử, khám lâm sàng, ghi bệnh án theo mẫu thống nhất của
Bộ môn Nội Nha và phiếu khám của Khoa Răng Hàm Mặt. Một thư ký là Bác sĩ
Nội trú Bộ môn Chữa Răng Nội Nha đã được tập huấn: phỏng vấn bệnh nhân và
ghi chép số liệu. Điều tra viên khám lâm sàng là Bác sĩ chuyên khoa Chữa Răng
Nội nha đã tập huấn và định chuẩn khám sàng lọc và thực hiện các thử nghiệm
lâm sàng cho toàn bộ mẫu cần thu thập. Xác định độ kiên định của điều tra viên
khám lâm sàng: khám và đánh giá các tiêu chí trên 10 bệnh nhân /sinh viên tại
khu điều trị lâm sàng Răng Hàm Mặt, đánh giá độ kiên định bằng cách khám
lặp lại 10 bệnh nhân nói trên sau 30 phút. Trong đánh giá này, độ kiên định của
điều tra viên đạt từ 83- 97.5% đối với các chỉ số khám và thử nghiệm (phụ lục
3). Điều tra viên cũng đạt được độ đồng thuận Kappa 0.92 với chuyên viên
khám lâm sàng thuộc bộ môn Chữa Răng- Nội Nha. Ngoài ra, người khám lâm
sàng và người điều trị can thiệp độc lập và không được hỏi về tình trạng đặt vật
liệu của bệnh nhân trong quá trình nghiên cứu.
Điều tra viên chụp X quang quanh chóp và kỹ thuật viên chụp phim
CBCT đã được Bác sĩ chuyên ngành X quang tập huấn chụp phim. Các số liệu
về mức độ mô khoáng được đo 3 lần độc lập, mỗi lần cách nhau một tuần. Đánh
59
giá độ tin cậy của điều tra viên đọc X quang khi đo các giá trị phim kỹ thuật số,
sử dụng hệ số tương quan nội lớp ICC (Intra class correlation coefficient), so
sánh các số liệu đo lại lần 2 với lần đầu, được chấp nhận khi hệ số tương quan
ICC≥0,8. Độ tin cậy ICC từ 0,93 trở lên (KTC 95%: 0,77-0,98) và độ đồng
thuận Kappa tính được đạt 0,84 (phụ lục 3 và 8).
Nghiên cứu viên là người thực hiện quy trình điều trị, chụp ảnh và đặt vật
liệu cho toàn bộ bệnh nhân, là người biết rõ nhóm nghiên cứu của bệnh nhân
nên không được tham gia khám, thực hiện các thử nghiệm và đo đạc.
Bác sĩ nhổ răng là người thực hiện nhổ răng theo chỉ định chỉnh nha với
kỹ thuật nhổ răng không sang chấn được tập huấn bởi chuyên viên chuyên khoa
nhổ răng tiểu phẫu thuật thuộc bộ môn Phẫu thuật miệng, Khoa Răng Hàm Mặt.
Việc nhuộm mô học và đánh giá mô học được phụ trách bởi cử nhân
thuộc chuyên ngành Giải phẫu bệnh, Đại học Y Dược TPHCM. Trong quy trình
thí nghiệm, để kiểm soát sai lệch giữa các mẫu, tiến hành có sử dụng các mẫu
chứng âm và chứng dương để so sánh.
Nghiên cứu cũng thực hiện làm mù các đối tượng tham gia nghiên cứu:
(1) Bệnh nhân không được cho biết cũng như không thể lựa chọn mình thuộc
nhóm nghiên cứu nào.
(2) Các thành viên tham gia nhóm nghiên cứu (ngoài nghiên cứu viên) không
biết mẫu đo/bệnh nhân thuộc nhóm nghiên cứu nào.
2.8.2. Thu thập số liệu
- Dữ liệu thu thập trong phiếu thu thập thông tin của bệnh nhân và phiếu đánh
giá của nghiên cứu viên được kiểm tra xem đã đầy đủ thông tin và được ghi
nhận rõ ràng hay không trước khi được gắn mã số và nhập vào phần mềm Excel
Microsoft. Dữ liệu điện tử được kiểm tra lại để phát hiện các dữ liệu ngoại lai
(giá trị quá cao hoặc quá thấp hơn bình thường), đảm bảo các dữ liệu được nhập
đúng với phiếu giấy.
60
- Dữ liệu trên phim X quang được đo đạc cẩn thận với phần mềm tương ứng,
số liệu và hình ảnh đo đạc được mã hóa.
2.8.3. Xử lý số liệu
Số liệu được xử lý và phân tích với phần mềm thống kê SPSS for
Windows, phiên bản 20.0 và một số được thu thập và xử lý với phần mềm
MedCal Statistical, phiên bản 19 (Ostend, Bỉ).
Các kiểm định đều được thực hiện với độ tin cậy 95% và được kết luận
dựa vào giá trị p:
• Nếu p ≤ 0,05: có mối liên quan hoặc có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
• Nếu p > 0,05: sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê.
Thống kê mô tả:
- Với các biến định tính, thứ tự và rời rạc, số liệu được trình bày dưới dạng
tần số, tỷ lệ phần trăm (ví dụ: tỉ lệ giới tính, loại răng, phần hàm,...)
- Với các biến định lượng, số liệu được phân tích trung bình, độ lệch
chuẩn, giá trị thấp nhất và cao nhất (ví dụ: tuổi, thời gian đặt vật liệu, điểm số
thang đo đau VAS, thử nghiệm điện…)
Thông kê suy lý:
- Với các biến định tính - danh định:
+ Khi so sánh tỷ lệ các đặc điểm của đối tượng trên hai nhóm nghiên cứu sử
dụng kiểm định Chi bình phương (nếu thỏa điều kiện của kiểm định).
+ Khi số quan sát nhỏ hoặc khi có trên 20% số ô trong bảng n x m có vọng trị
<5), kiểm định chính xác Fisher được dùng thay thế cho kiểm định Chi bình
phương trong so sánh hai tỷ lệ (Ví dụ: So sánh nội cặp nhóm giữa các thời điểm
điều tra khác nhau trước và sau về chỉ số nướu hay cường độ đau).
- Với biến định lượng:
+ Các biến số được phát hiện có phân phối lệch thông qua tổ chức đồ sử dụng
trung vị, khoảng tứ phân vị và giá trị kiểm định Shapiro-Wilk.
61
+ Khi có nhóm không theo phân phối bình thường (phân phối lệch), chọn kiểm
định phi tham số khi so sánh hai giá trị trung bình, cặp mẫu độc lập với cỡ mẫu
nhỏ nên sử dụng kiểm định dấu hạng Wilcoxon (hay còn gọi là Mann Whitney
U) (ví dụ: mật độ trung bình).
+ Nếu số liệu phân phối bình thường, sử dụng kiểm định t bắt cặp (ví dụ: thể
tích cầu ngà).
- Với biến định tính- thứ tự (hay biến định lượng không bình thường): được
xử lý bằng kiểm định Wilcoxon/ Mann–Whitney U (Ví dụ: sự hình thành cầu
ngà chia 4 mức độ)
+ Phân tích sống còn và mô hình hồi quy Cox về tỷ số nguy cơ khi phân tích đa
biến, có hiệu chỉnh các yếu tố ảnh hưởng (Ví dụ: tỷ lệ thành công).
2.9. ĐẠO ĐỨC TRONG NGHIÊN CỨU
Các khía cạnh đạo đức đã được xem xét và cho phép bởi Hội đồng Đạo
đức trong nghiên cứu y sinh -Đại học Y Dược TP.HCM xét duyệt theo quy trình
đầy đủ và cho phép thực hiện theo Hồ sơ y đức số 305/ĐHYD-HĐĐĐ ngày
21/05/2019 (Mã số đề tài 19283-ĐHYD).
- An toàn: Nghiên cứu không xâm hại đến quyền lợi của bệnh nhân. Khi mời
bệnh nhân tham gia, chúng tôi gửi kèm trang thông tin nghiên cứu để bệnh nhân
đọc và tìm hiểu trước khi đồng ý và tự nguyện ký đơn ham gia. Mục tiêu và quy
trình nghiên cứu đã được giải thích rõ với bệnh nhân. Nghiên cứu với thiết kế
đan xen vào kế hoạch chỉnh hình răng mặt và sử dụng các răng sẽ nhổ bỏ của
bệnh nhân để tiến hành khảo sát các dấu hiệu lâm sàng, cận lâm sàng. Quy trình
khám và lập kế hoạch điều trị chỉnh nha có chỉ định nhổ răng được thực hiện
hoàn toàn độc lập với nghiên cứu, bác sĩ chỉnh hình răng mặt không biết trước
bệnh nhân sẽ tham gia nghiên cứu. Công việc khám sàng lọc và mời tham gia
nghiên cứu chỉ được thực hiện khi bệnh nhân đã biết và đồng ý thực hiện kế
hoạch nhổ răng khi chỉnh răng. Để tạo thuận tiện cho bệnh nhân, việc xếp lịch
đã kết hợp các lần hẹn khám đánh giá nghiên cứu ngay trong buổi khám chỉnh
62
hình răng mặt. Việc khám đánh giá, điều trị và tái khám về các chỉ số và thử
nghiệm lâm sàng, cận lâm sàng như chụp phim X quang thực hiện theo phác đồ
quy trình nghiên cứu. CTTT sử dụng vật liệu MTA và BD đã được cấp phép
trên thế giới và tại Việt Nam, sử dụng trong điều trị nha khoa và đã có bằng
chứng khoa học xác thực trên vi thể, trên động vật và cả trên người về khả năng
sát khuẩn tốt, tương hợp sinh học, không gây đau đáng kể, không gây độc tế
bào, có khả năng giúp lành thương và phát triển mô tủy. Quy trình điều trị được
thực hiện dưới điều kiện đặt đê cao su toàn phần để cô lập vùng can thiệp chống
nhiễm khuẩn và hạn chế lây nhiễm chéo.
Trước khi nhổ răng, các vấn đề biến chứng khi gây tê nhổ răng thông
thường như dị ứng, ngộ độc, sốc phản vệ đã được thông báo đến bệnh nhân,
khai thác tiền sử bệnh, tiêm tê chậm, theo dõi và thực hiện xử trí (nếu có) theo
Phác đồ xử trí cấp cứu phản vệ của Bộ Y tế (theo thông tư số 51/2017-TT-BYT
ngày 29/12/2017).
Khi chụp X quang kỹ thuật số trước và sau điều trị với hai loại phim
quanh chóp và CBCT, bệnh nhân luôn được yêu cầu mặc áo chì, bệnh nhân có
thai trong thời gian nghiên cứu sẽ không tham gia nghiên cứu X quang. Liều tia
X chụp quanh chóp cho phim kỹ thuật số rất thấp 0,001-0,008 mSv/1 lần (bằng
1/10 phim phổi và bằng 1/750 lần ngưỡng tia cho phép/năm) và liều tia phim
CBCT khoảng 0,05 mSv/1 lần chụp.
Ngoài ra, nghiên cứu hỗ trợ theo dõi các bệnh lý răng, nướu, nha chu,
hướng dẫn và cung cấp phương tiện chăm sóc răng, thuốc giảm đau, hỗ trợ chi
phí nhổ răng và chỉnh nha, theo dõi hậu phẫu, đồng thời các bệnh lý răng miệng
khác (cạo vôi, trám răng, nhổ răng ngoài nghiên cứu) cũng được thực hiện nhằm
giảm thiểu các khó chịu về bệnh lý vùng miệng cho bệnh nhân.
- Bảo mật: Các thông tin lâm sàng thu thập từ cá nhân đối tượng nghiên cứu
được giữ kín tuyệt đối, bệnh nhân đã ký phiếu đồng ý cho sử dụng các thông tin
này chỉ nhằm phục vụ nghiên cứu khoa học. Mọi thông tin liên quan đến cá
63
nhân bệnh nhân được giữ bí mật, không sử dụng khi chưa có sự đồng ý của
bệnh nhân.
- Chi phí: Bệnh nhân được hỗ trợ chi phí nhổ răng, chi phí tham gia nghiên cứu
và các sản phẩm chăm sóc vệ sinh răng miệng. Nghiên cứu thực hiện độc lập và
không nhận tài trợ từ các nhãn hàng sản xuất các loại vật liệu che tủy có liên
quan.
- Hiểu biết và thông tin: Tất cả các bệnh nhân đều được thông báo về mục tiêu,
phương pháp, các lợi ích và bất tiện có thể có khi tham gia nghiên cứu, ký tên
đồng ý, tự nguyện tham gia nghiên cứu. Bệnh nhân được giải thích rõ ràng về
cách chọn ngẫu nhiên vào các nhóm điều trị cũng như phác đồ điều trị cho
những nhóm này. Bệnh nhân có quyền tự nguyện tham gia và có thể rút khỏi
nghiên cứu bất cứ lúc nào.
- Cách thức sử dụng kết quả nghiên cứu: Khi hoàn thành thu thập số liệu, nhóm
nghiên cứu sẽ bắt đầu phân tích số liệu và viết luận án, viết bài báo và báo cáo
tại các Hội nghị khoa học trong và ngoài nước. Số liệu của nghiên cứu này
không mâu thuẫn hay sao chép số liệu, lợi ích của người khác hay nghiên cứu
khác.
64
CHƯƠNG 3: KẾT QUẢ
3.1. ĐẶC ĐIỂM MẪU NGHIÊN CỨU
3.1.1. Đặc điểm về tuổi bệnh nhân (S1.1)
Trung bình tuổi của cặp nhóm MTA1-BD1 là 21.36 tuổi, cao hơn cặp
nhóm MTA2-BD2 là 20.82, với độ tuổi thấp nhất là 18 tuổi và cao nhất là 25
tuổi (tại thời điểm nghiên cứu); tuy nhiên sự khác biệt về tuổi giữa hai cặp
nhóm là không có ý nghĩa thống kê (p 0,432>0,05, kiểm định Mann Whitney U)
(Bảng 3.1). Sự phân bố độ tuổi của hai cặp nhóm không có sự khác biệt có ý
Bảng 3.1: Đặc điểm tuổi của bệnh nhân trong hai cặp nhóm nghiên cứu.
MTA2-BD2 20,82 ± 2,56
p 0.432
MTA1-BD1 Tuổi TB ± ĐLC 21,36 ± 2,25 Kiểm định Mann Whitney U (Wincoxon)
nghĩa (p=0,244>0,05, kiểm định chính xác Fisher).
3.1.2. Đặc điểm về giới tính (S1.2)
Ở hai cặp nhóm quan sát, số bệnh nhân nữ tham gia nghiên cứu chiếm
9/11 (81,8%) nhiều hơn số bệnh nhân nam 2/11 (18,2%). Tuy vậy, giữa hai cặp
nhóm không có sự khác biệt về tỷ lệ phân bố giới tính (Kiểm định chính xác
Fisher).
3.1.3. Đặc điểm về răng
Về loại răng, số lượng răng cối nhỏ thứ nhất lớn hơn số lượng răng cối
nhỏ thứ hai. Ở hai cặp nhóm MTA1-BD1 và MTA2-BD2 số lượng răng cối nhỏ
thứ nhất lần lượt chiếm 95,5% và 77,3%. Phân bố của từng răng trên cung hàm
trong mẫu nghiên cứu được trình bày cụ thể trong bảng 3.2. Tuy vậy sự khác
biệt về phân bố loại răng là không có ý nghĩa giữa nhóm MTA1 và BD1 hay
MTA2 và BD2 (p>0,05, kiểm định chính xác Fisher).
Các răng cối nhỏ trong mẫu nghiên cứu không có sự khác biệt giữa răng
hàm trên và hàm dưới khi so sánh giữa hai cặp nhóm (p >0,05; kiểm định chính
xác Fisher) (bảng 3.3).
Bảng 3.2: Đặc điểm loại răng cối nhỏ trong hai cặp nhóm nghiên cứu.
Loại răng
MTA1-BD1 BD1 10
MTA1 11
MTA2 10
0
21 (95,5) 1
1
RCN 1 n (%) RCN 2 n (%) p
1 (4,5) 1>0,05
MTA2-BD2 BD2 7 17 (77,3) 4 5 (22.7) 0,310>0,05
p 0,185 //
Kiểm định chính xác Fisher
Bảng 3.3: Đặc điểm phần hàm trong hai cặp nhóm nghiên cứu.
Phần hàm
p 0,763
RCN hàm trên n (%) RCN hàm dưới n (%)
MTA1-BD1 10 (45,5) 12 (54,5)
MTA2-BD2 12 (54,5) 10 (45,5)
Kiểm định chính xác Fisher
65
Bên cạnh đó, do thiết kế nửa miệng nên ở hai nhóm trong mỗi cặp quan
sát có số lượng răng bên phải và bên trái bằng nhau (22 răng bên phải và 22
răng bên trái) và ở cùng phần hàm trên hoặc dưới.
3.1.4. Thời gian đặt vật liệu CTTT
Cặp nhóm MTA1-BD1 có thời gian đặt một trong hai loại vật liệu từ 9-12
tuần (trung bình là 9,55 tuần) và cặp nhóm MTA2-BD2 có thời gian đặt một
Bảng 3.4: Đặc điểm thời gian đặt vật liệu che tủy trực tiếp.
Thời gian TB ± ĐLC
MTA1-BD1 9,55 ± 0,91
MTA2-BD2 14,73 ±1,45
MTA-BD 12,14 ± 2,88
trong hai loại vật liệu từ 13-16 tuần (trung bình 14,73 tuần) (bảng 3.4).
3.2. ĐÁNH GIÁ LÂM SÀNG VÀ CẢM GIÁC ĐAU TRONG ĐIỀU TRỊ
CTTT
3.2.1. Đánh giá các chỉ số lâm sàng (biến số S2.1 -S2.9)
3.2.1.1. Chỉ số lâm sàng tình trạng răng và mô nha chu
Khám đánh giá được thực hiện và lấy số liệu trên 08 chỉ số lâm sàng (từ
S2.1 đến S2.8) ở thời điểm ban đầu trước điều trị và các thời điểm tái đánh giá 4
tuần, 9-12 tuần và 13-16 tuần. Phần mã số và tên của các biến số lâm sàng được
trình bày ở bảng 2.2 và các mức độ (1), (2), (3) và (4) chú thích chi tiết ở phụ
lục.
66
❖ Chỉ số mảng bám, viêm nướu và sâu răng (S2.1, 2.2)
Về chỉ số mảng bám, viêm nướu và sâu răng ta thấy trước điều trị không
có sự khác biệt khi so sánh giữa hai cặp nhóm (p >0,05; kiểm định chính xác
Fisher). Tại thời điểm 4 tuần và 9-12 tuần, giữa hai nhóm MTA1 và BD1 và
MTA2-BD2, có sự cải thiện rõ về chỉ số mảng bám và viêm nướu qua từng thời
gian theo dõi. Tuy nhiên, không ghi nhận sự khác biệt có ý nghĩa về các mức độ
của mảng bám, viêm nướu giữa hai nhóm nghiên cứu (p >0,05; kiểm định chính
0
0
0 0
0
0 0
0 0
0 0
1
0 1
0 1
0 0 2
0 0 2
0 0 2
0 0 2
3
4
4
4
5
5
5
5
9
9
9
9
9
9
8
7
7
7
6
6
6
5
1
1
100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%
0
0
0
0
MTA BD MTA BD MTA BD
MTA BD MTA BD MTA BD MTA BD
9-12 tuần
4 tuần
13-16 tuần
Trước điều trị
Trước điều trị
xác Fisher) (biểu đồ 3.1 và 3.2).
4 tuần MTA1 - BD1
9-12 tuần MTA2 - BD2
Không MB
MB ít
MB TB
MB nhiều
Biểu đồ 3.1: Chỉ số mảng bám.
0 0
0 0
0 0
0 0
0 0
0 0
0 0
0 0
0 1
0 1
0 1
0 0 1
0 0 2
0 0 2
3
3
3
3
4
5
6
6
6
8
8
10
9
9
8
8
8
8
7
6
5
4
4
3
2
100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%
MTA BD MTA BD MTA BD
MTA BD MTA BD MTA BD MTA BD
4 tuần
9-12 tuần
4 tuần
9-12 tuần
13-16 tuần
Trước điều trị
MTA1 - BD1
Không viêm
Trước điều trị Viêm TB
Viêm nhẹ
MTA2 - BD2 Viêm nặng
Biểu đồ 3.2: Chỉ số nướu.
67
❖ Chỉ số viêm nha chu, lung lay, sưng và lỗ dò (S2.3, 2.4, 2.5)
Các chỉ số viêm nha chu, lung lay, sưng và lỗ dò sàng lọc ban đầu theo
tiêu chí chọn mẫu là chỉ chọn các răng không bệnh lý, do đó các chỉ số này có
tỷ lệ trước điều trị là 100% mức độ 1. Sau điều trị tại các thời điểm ghi nhận các
chỉ số này không có sự thay đổi ở hai nhóm MTA1 và BD1, MTA2 và BD2.
Khám đánh giá cho thấy 100% răng trong nghiên cứu không có biểu hiện bệnh
lý nha chu, khớp cắn và vùng quanh chóp sau điều trị ở các thời điểm quan sát.
❖ Chỉ số miếng trám và độ hoạt động sâu răng (S2.6, 2.7, 2.8)
Về chỉ số sâu răng, không phát hiện thêm sâu răng tiến triển sau điều trị
4, 9-12 tuần và 13-16 tuần. Đồng thời, không có thay đổi đáng chú ý trên các
miếng trám hay độ hoạt động sâu răng sau thời gian theo dõi ở các cặp quan sát
giữa hai nhóm MTA1 và BD1, MTA2 và BD2.
3.2.1.2. Đánh giá màu sắc (S2.9)
Biến số màu sắc răng được ghi nhận qua bảng so màu và hình ảnh chụp
không cho thấy sự thay đổi màu có ý nghĩa trước điều trị và sau điều trị ở các
thời điểm 4, 9-12 và 13-16 tuần và không có sự khác biệt giữa hai nhóm MTA1
và BD1 cũng như MTA2 và BD2.
3.2.2. Đánh giá các thử nghiệm tủy (S2.10 - S2.13)
Qua các phương tiện đánh giá lâm sàng như thử nóng, thử lạnh và thử
điện (S2.10, 2.11, 2.12) đều cho kết quả 100% ở mức độ đáp ứng dương tính ở
các thời điểm trước và và sau điều trị ở các thời điểm 4, 9-12 và 13-16 tuần và
không có sự khác biệt giữa hai nhóm MTA1 và BD1 cũng như MTA2 và BD2.
Biến số đánh giá tình trạng tủy (S2.13) ghi nhận 100% các răng đều có
tủy còn sống (thử nghiệm điện và thử nghiệm nhiệt đáp ứng dương tính, đồng
thời khi mở tủy điều trị có máu chảy ra) ở thời điểm ngay khi điều trị.
3.2.3. Đánh giá cảm giác đau (biến số S2.14 - S2.21)
Các thử nghiệm lâm sàng về đau và hỏi cảm giác đau được thu thập tại
các thời điểm 1 ngày, 1 tuần, 4 tuần, 9-12 tuần, 13-16 tuần.
68
Kết quả ghi nhận hai giá trị: (1) Không đau; (2) Đau
3.2.3.1. Đánh giá cảm giác đau qua thử nghiệm gõ (S2.14, 2.15)
Ở Cặp nhóm MTA1-BD1, chỉ có 03 trường hợp nhóm MTA1 và 01
trường hợp nhóm BD1 có cảm giác nhạy cảm rõ khi gõ dọc. Hầu hết các răng
khác trong nghiên cứu (8/11 nhóm MTA1 và 10/11 nhóm BD1) không thấy đau
khi gõ dọc sau đặt vật liệu 24 giờ. Sau 9-12 tuần có 01 răng trong mỗi nhóm
cho cảm giác còn ê nhẹ khi gõ. Kết quả không có sự khác biệt giữa hai nhóm
MTA1 và BD1 với p>0,05 (kiểm định chính xác Fisher) (bảng 3.5).
Ở cặp nhóm MTA2-BD2, tỷ lệ răng không đau sau điều trị chiếm đa số
(81,8-90,9%) ở tất cả các thời điểm 1 ngày, 1 tuần, 4 tuần, 9-12 tuần hay 13-16
tuần sau điều trị và không có sự khác biệt giữa hai nhóm MTA2 và BD2 với
p>0,05 (kiểm định chính xác Fisher) (bảng 3.5).
Ở cả hai cặp nhóm MTA -BD không có trường hợp nào đáp ứng đau với
Bảng 3.5: Cảm giác đau trong thử nghiệm gõ dọc ở nhóm MTA1-BD1 và MTA2-BD2.
Đau khi gõ dọc
(1) Không đau
(2) Đau
(1) Không đau
(2) Đau
p
MTA1 (n = 11)
BD1 (n = 11)
n (%)
8 (72,7)
3 (27,3)
10 (90,9)
0,59
1 (9,1)
1 ngày
9 (81,8)
2 (18,2)
10 (90,9)
>0,5
1 (9,1)
1 tuần
9 (81,8)
2 (18,2)
10 (90,9)
>0,5
1 (9,1)
4 tuần
1 (9,1)
10 (90,9)
//
1 (9,1)
9 -12 tuần
10 (90,9)
MTA2 (n = 11)
BD2 (n = 11)
10 (90,9)
1 (9,1)
9 (81,8)
2 (18,2)
>0,5
1 ngày
9 (81,8)
2 (18,2)
10 (90,9)
>0,5
1 (9,1)
1 tuần
9 (81,8)
2 (18,2)
10 (90,9)
>0,5
1 (9,1)
4 tuần
10 (90,9)
1 (9,1)
10 (90,9)
//
1 (9,1)
9 -12 tuần
11 (100)
0
10 (90,9)
>0,5
1 (9,1)
13-16 tuần
Kiểm định chính xác Fisher
thử nghiệm cắn.
0
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
1
2
2
2
2
2
3
11
10
10
10
10
10
10
10
10
10
10
10
9
9
9
9
9
8
100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%
MTA BD MTA BD MTA BD MTA BD
MTA BD MTA BD MTA BD MTA BD MTA BD
1 ngày
1 ngày
1 tuần
4 tuần
9-12 tuần
1 tuần
4 tuần
9-12 tuần
13-16 tuần
69
MTA2 - BD2
MTA1 - BD1
Không đau
Đau
Biểu đồ 3.3: Cảm giác đau trong thử nghiệm gõ dọc.
3.2.3.2. Đánh giá cường độ đau (S2.16)
Cường độ đau hay nhạy cảm của bệnh nhân được thể hiện trong bảng 3.6
ở các thời điểm trước và sau đặt vật liệu 1 ngày, 1 tuần, 4 tuần, 9-12 tuần. Các
mức độ của cường độ đau như sau: (1) không đau, (2): đau nhẹ và vừa phải (1-4
điểm); (3): đau nhiều (5-8 điểm); (4): đau rất nhiều (9-10 điểm).
Cặp nhóm MTA1-BD1: Thời điểm 24 giờ là khoảng thời gian đầu sau điều
trị, mức độ đau còn tương đối cao; có 7/11 ca (63,6%) ở nhóm MTA1 và 5/11 ca
(45,5%) ở nhóm BD1 mô tả hiện tượng đau nhẹ và vừa. Trong cả hai nhóm chỉ
có 1 bệnh nhân báo cáo mức độ đau nhiều ở nhóm BD1 sau 1 ngày. Sau đó cơn
đau giảm dần sau vài ngày và trở lại bình thường sau 4 tuần ở tất cả các đối tượng
nghiên cứu. Sự khác biệt về cường độ đau giữa hai nhóm MTA1 và BD1 không
có ý nghĩa thống kê (p>0,05, kiểm định chính xác Fisher) (Bảng 3.6).
Cặp nhóm MTA2-BD2: Cường đau ghi nhận thời điểm 1 ngày sau điều
trị, đa số ghi nhận không đau tương đối cao; có 7/11 ca (63,6%) ở nhóm MTA2
và BD2. Trong cả hai nhóm chỉ có 1 bệnh nhân báo cáo mức độ đau nhiều ở
nhóm MTA2 sau 1 ngày. Sau đó, cảm giác đau có thay đổi sang các mức độ
theo hướng khả quan hơn sau thời gian và biến mất sau 4 tuần. Sự khác biệt về
70
cường độ đau giữa hai nhóm MTA1 và BD1 không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05, kiểm định chính xác Fisher) (Bảng 3.6).
Xét nhóm MTA, sự thay đổi về mức độ đau giữa hai thời điểm 1 ngày và
1 tuần không có sự khác biệt (p>0,5), tuy nhiên có sự khác biệt ý nghĩa về cảm
giác đau giữa thời điểm 1 tháng sau điều trị và 1 ngày hay 1 tuần (p<0,005). Xét
nhóm BD, sự thay đổi về mức độ đau không có sự khác biệt giữa ba thời điểm 1
ngày, 1 tuần và 1 tháng, 9-12 tuần, 13-16 tuần (p>0,05, kiểm định chính xác
Bảng 3.6: Cường độ đau ở nhóm MTA1-BD1 và MTA2-BD2.
(3) (4)
(1)
(2)
(3)
(4)
(1)
4 (36,4) 7 (63,6) 6 (54,5) 5 (45,5) 11 (100) 11 (100)
BD1 (n = 11) 5 (45,5) 5 (45,5) 1 (9,1) 0 5 (45,5) 5 (45,5) 1 (9,1) 0 0 10 (90,9) 1 (9,1) 0 11 (100)
0 0
0
0 0 0 0
Cường độ đau n (%) 1 ngày 1 tuần 4 tuần 9 -12 tuần 1 ngày 1 tuần 4 tuần 9 -12 tuần 13-16 tuần
(2) MTA1 (n = 11) 0 0 0 0 0 0 MTA2 (n = 11) 0 0 0 0 0
7 (63,6) 4 (36,4) 8 (72,7) 3 (27,3) 11 (100) 11 (100) 11 (100)
0 0 0
BD2 (n = 11) 7 (63,6) 3 (27,3) 1 (9,1) 0 0 7 (63,6) 4 (36,4) 0 9 (81,8) 2 (18,2) 0 1(9,1) 10 (90,9) 0 0 11 (100)
0 0 0 0
0 0 0 0 0
p 0,67 >0,5 >0,5 >0,5 >0,5 >0,5 0,48 >0,5 //
Kiểm định chính xác Fisher
0 0 0
0 0 0
0 0 0
0 0 0
0 0 0
0 0 0
0 0 0
0 0
0 0
0 0
0 0
0 0
0 0 1
0 0 1
0 1
0 1
0 1
0 0 2
3
4
4
3
5
7
5
5
11
11
11
11
11
11
11
10
10
9
8
7
7
7
6
5
5
4
100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%
1 ngày
1 ngày
1 tuần
4 tuần
9-12 tuần
1 tuần
4 tuần
Fisher).
9-12 tuần MTA2 - BD2
13- 16 tuần
MTA1 - BD1 Không đau
Đau nhẹ vừa
Đau nhiều
Đau rất nhiều
Biểu đồ 3.4: Cường độ đau.
71
3.2.3.3. Đánh giá đặc điểm thời gian đau, tác nhân gây đau, kiểu đau và đặc
điểm tần suất đau (S2.17-S2.21)
Cặp nhóm MTA1-BD1: sự khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu không có
ý nghĩa thống kê (Kiểm định chính xác Fisher, p>0,05) (Bảng 3.7)
Ở nhóm MTA1, trong 7 trường hợp đau thì 2 ca chỉ đau trong 1 ngày đầu,
3 ca kéo dài trong 1 tuần và 2 ca kéo dài 1 tháng. Ở nhóm BD1, trong 6 trường
hợp đau thì không có trường hợp nào chỉ đau trong ngày đầu mà kéo dài 1 tuần
(2 ca) và 1 tháng (4 ca) (bảng 3.7). Tất cả bệnh nhân đều chỉ cảm thấy cơn nhạy
cảm hay đau thoáng qua ngắn dưới 10 giây. Cơn đau không gây khó chịu quá
lâu, vì vậy hầu hết bệnh nhân trong nghiên cứu không cần sử dụng vật liệu giảm
đau hoặc uống trong 6 giờ đầu sau đặt vật liệu.
Về tác nhân gây đau, đa số bệnh nhân (5/7 ca ở nhóm MTA1 và 6/6 ca ở
nhóm BD1) cảm thấy nhạy cảm khi ăn hoặc uống thực phẩm nóng hay lạnh.
Riêng nhóm MTA có 2 bệnh nhân mô tả cơn đau tự phát. Kiểu đau được mô tả
ở nhóm MTA1 đa phần là đau âm ỉ (3/7 ca), hoặc đau ê buốt (4/7 ca), còn nhóm
Bảng 3.7: Thời gian, tác nhân, kiểu đau và đặc điểm tần suất đau ở nhóm MTA1 và BD1.
BD1 (n = 11)
p
(1)
(2)
(4)
(1)
(3)
(4)
2 (18,2) 4 (36,4) 0,61
MTA1 (n = 11) (3) 4 (36,4) 2 (18,2) 3 (27,3) 2 (18,2) 5 (45,5) 11 (100) 0
0
0
(2) 0 0
Mức độ n (%) Tổng thời gian Thời gian mỗi lần đau 11 (100) Tác nhân Kiểu đau Tần suất đau
4 (36,4) 4 (36,4) 1 (9,1) 2 (18,2) 5 (45,5) 6 (54,5) 4 (36,4) 3 (27,3) 4 (36,4) 0 11 (100)
5 (45,5) 11 (100)
0 0
0 0
0
0 0 6 (54,5) 0
0 0 0 0
// >0,5 0,27 //
Kiểm định chính xác Fisher
BD1 thì bệnh nhân cho rằng đau ê buốt nhiều hơn (6/6) (bảng 3.7).
Cặp nhóm MTA2-BD2; Sự khác biệt giữa hai nhóm nghiên cứu không có
ý nghĩa thống kê (Kiểm định chính xác Fisher, p>0,05) (Bảng 3.8).
Ở nhóm MTA2, có 5 trường hợp đau, trong đó có 3 ca kéo dài trong 1
tuần và 1 ca kéo dài 1 tháng. Ở nhóm BD2, trong 4 trường hợp đau thì không có
trường hợp nào đau trong ngày đầu mà có 3 ca kéo dài 1 tuần và 1 ca kéo dài 1
tháng (bảng 3.8). Đa số trở lại cảm giác bình thường hoặc không cảm thấy khó
chịu với cảm giac sau điều trị.
72
Về tác nhân gây đau, đa số ca (4/5 ca ở nhóm MTA2 và 4/4 ca ở nhóm
BD2) cảm thấy nhạy cảm khi ăn hoặc uống thực phẩm nóng, lạnh. Kiểu đau
được mô tả ở nhóm MTA2 là đau âm ỉ (2/5 ca), hoặc đau ê buốt (3/5 ca), còn
nhóm BD2 thì bệnh nhân cho rằng đau ê buốt nhiều hơn (4/4). Tất cả đều mô tả
cơn nhạy cảm hay đau thoáng qua ngắn dưới 10 giây và không gây khó chịu
Bảng 3.8: Thời gian, tác nhân, kiểu đau và đặc điểm tần suất đau ở nhóm MTA2 và BD2.
(2)
(1)
(4)
(1)
p
(4)
1 (9,1) >0,5
(2) 0 0
//
MTA2 (n = 11) (3) 6 (54,5) 1 (9,1) 3 (27,3) 1 (9,1) 7 (63,6) 11 (100) 0 7 (63,6) 4 (36,4) 7 (63,6) 11 (100)
0 6 (54,5) 4 (36,4) 1 (9,1) 6 (54,5) 2 (18,2) 3 (27,3) 0 11 (100)
BD2 (n = 11) (3) 3 0 0 4 (36,4) 0
0 0 0 0
0 0
0
0 0 >0,5 0,66 0 // 0
Mức độ n (%) Tổng thời gian Thời gian mỗi lần đau 11 (100) Tác nhân Kiểu đau Tần suất đau Kiểm định chính xác Fisher
0 0 0
0 0 0
0 0 0
0 0 0
0 0 0
0 0 0
0 0 0
0 0 0
0 0
0
0
0 0
0
1
1
0 1
2
0 3
4
4
4
4
2 1
3
6
6
4
3
3 0
2
0
1
4
3
11 11
11 11
11 11
11 11
2
2 0
0
7
7
7
6
6
6
5
5
5
4
4
4
100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%
D B
D B
D B
D B
D B
D B
D B
D B
D B
D B
A T M
A T M
A T M
A T M
A T M
A T M
A T M
A T M
A T M
A T M
Tổng thời gian
Tác nhân Kiểu đau Tần suất cơn đau
Tổng thời gian
Tác nhân Kiểu đau Tần suất cơn đau
đáng kể.
MTA1 - BD1
Thời gian mỗi lần đau
Thời gian mỗi lần đau
MTA2 - BD2
Mức độ (1) Mức độ (2) Mức độ (3) Mức độ (4)
Biểu đồ 3.5: Thời gian đau, tác nhân đau, kiểu đau và đặc điểm tần suất đau.
3.3. ĐÁNH GIÁ PHIM X QUANG
3.3.1. Đánh giá phim quanh chóp (S3.1-S3.8)
3.3.1.1. Đánh giá sự thay đổi về độ dày ngà răng (gần xa) (S3.1)
Biến số sự thay đổi độ dày ngà được ghi nhận với thang đo: (1) Không
tăng, (2) Tăng ở 1 vị trí, (3) Tăng ở 2 vị trí, (4) Tăng ở 3 vị trí.
Cặp nhóm MTA1-BD1 (Bảng 3.9): Tỷ lệ tăng kích thước ở 1 vị trí trở lên
(mức 2+3+4) chiếm 10/11 ca ở nhóm MTA1 và chiếm 8/11 ca ở nhóm BD1.
73
Tuy vậy sự thay đổi về độ dày ngà răng gần xa giữa hai thời điểm T3 và T0 tất
cả vị trí A, B, C ở hai nhóm MTA1 và BD1 là không có sự khác biệt (kiểm định
Bảng 3.9: Sự thay đổi độ dày ngà gần-xa trên phim quanh chóp ở nhóm MTA1 và BD1.
MTA1 (n = 11)
BD1 (n = 11)
p
1,86 ± 4,16 0,94 ± 4,68
1,46 ± 4,98 0,33 ± 4,20
0,04 ± 4,10 (3) (2)
0,12 ± 5,83 (3) (2)
0,87a 0,67 a 0,77 a
(1)
(4)
(4)
(1) 1 (9,1) 4 (36,4) 4 (36,4) 2 (18,2) 3 (27,3) 3 (27,3) 2 (18,2) 3 (27,3) 0.71b
Sự thay đổi độ dày ngà G-X TB ± ĐLC (mm) Vị trí A Vị trí B Vị trí C Mức độ n (%) a: kiểm định Mann Whitney U/Wincoxon b: kiểm định chính xác Fisher
Mann Whitney U, p>0,05).
Cặp nhóm MTA2-BD2 (Bảng 3.10): Tỷ lệ tăng kích thước ở 1 vị trí trở
lên (mức 2+3+4) chiếm 8/11 ca ở nhóm MTA1 và chiếm 10/11 ca ở nhóm BD1.
Sự khác biệt giữa hai nhóm MTA2 và BD2 được tìm thấy ở kích thước trung
Bảng 3.10: Sự thay đổi độ dày ngà gần-xa trên phim quanh chóp ở nhóm MTA2 và BD2.
MTA2 (n = 11)
BD2 (n = 11)
p
(1)
0,98 ± 3,84 0,17 ± 4,71 0,85 ± 2,73 (3) (2)
0,73 ± 5,00 1,55 ± 3,20 1,38 ± 3,63 (3) (2)
0,82a 0,31 a 0,03 a
(4)
(4)
(1) 3 (27,3) 3 (27,3) 4 (36,4) 1 (9,1) 1 (9,1) 4 (36,4) 4 (36,4) 2 (18,2) 0.78b
Sự thay đổi độ dày ngà G-X TB ± ĐLC (mm) Vị trí A Vị trí B Vị trí C Mức độ n (%) a: kiểm định Mann Whitney U/Wincoxon b: kiểm định chính xác Fisher
100%
1
2
2
3
80%
4
Tăng ở 3 vị trí
4
2
4
60%
Tăng ở 2 vị trí
3
3
40%
Tăng ở 1 vị trí
4
4
20%
Không tăng
3
3
1
1
0%
MTA1
BD1
MTA2
BD2
Biểu đồ 3.6: Sự thay đổi độ dày ngà gần-xa trên phim quanh chóp.
bình sự thay đổi độ dày ngà ở vị trí C (kiểm định Mann Whitney U, p<0,05).
74
3.3.1.2. Đánh giá kích thước cầu ngà trên phim X quang quanh chóp theo
chiều gần xa (S3.2), trên dưới (S3.3) và ngoài trong (S3.4), độ dày trung
bình (S3.5) và sự liên tục của cầu ngà (S3.6)
Kích thước của cầu ngà được ghi nhận qua thang đo: (1) ≥ 0,25 mm; (2)
0,1-0,24 mm; (3) 0,01-0,09 mm; (4) không có cầu ngà
Cặp nhóm MTA1-BD1 (Bảng 3.11): Nhóm MTA1 lần lượt có 7/11 ca
(63,6%) ở thời điểm T2 và 5/11 ca (45,5%) ở thời điểm T3 không quan sát thấy
cầu ngà theo chiều gần xa; 5/11 (45,5%)/ thời điểm T2 và 1/11 (9,1%)/thời
điểm T3 không quan sát thấy cầu ngà theo chiều trên dưới; và 3/11 (27,3%)/thời
điểm T3 không quan sát thấy cầu ngà theo chiều ngoài trong. Tuy nhiên, ở
nhóm BD1, tỷ lệ không có cầu ngà ít hơn, chỉ có 1/11 (9,1%) ở cả hai thời điểm
T2 và T3 ở các chiều hướng.
Kích thước trung bình cầu ngà theo chiều trên-dưới ở thời điểm T2, T3 và
cầu ngà chiều ngoài trong thời điểm T3 của BD1 cao hơn MTA1 có ý nghĩa
Bảng 3.11: Kích thước và sự liên tục cầu ngà trên phim quanh chóp ở nhóm MTA1 và BD1.
TB ± ĐLC (mm) Kích thước gần-xa
Kích thước trên-dưới
(kiểm định Mann Whitney U, p<0,05).
p 0,300a 0,135a 0,001a 0,006a 0,015a 0,016a
MTA1 (n = 11) 0,30 ± 0,45 0,48 ± 0,56 0,31 ± 0,38 0,53 ± 0,46 0,90 ± 0,86 0,63 ± 0,58 (3) (2)
(1)
(4)
(1)
(4)
BD1 (n = 11) 0,72 ± 0,37 0,80 ± 0,43 1,37 ± 0,75 1,41 ± 0,84 1,81 ± 0,71 1,34 ± 0,57 (2) 0
(3) 0
T2 T3 T2 T3 Kích thước ngoài-trong* T3 T3 Độ dày TB cầu ngà Mức độ n (%) Độ dày TB cầu ngà Sự liên tục cầu ngà
1 (9,1) 0,450b T3 7 (63,6) 1 (9,1) 2 (18,2) 1 (9,1) 10 (90,0) T3 2 (18,2) 3 (27,3) 1 (9,1) 5 (45,5) 7 (63,6) 1 (9,1) 2 (18,2) 1 (9,1) 0,079b
a: kiểm định Mann Whitney U/Wincoxon b: kiểm định chính xác Fisher *: Phim quanh chóp chỉ ghi nhận được chiều NT cầu ngà ở thời điểm T3 khi răng đã nhổ (ở T2 không chụp được chiều N-T trên bệnh nhân).
Cặp nhóm MTA2-BD2 (Bảng 3.12): Ở nhóm MTA2 lần lượt có 6/11 ca
(54,5%) ở thời điểm T2 và 3/11 ca (27,3%) ở thời điểm T3 không quan sát thấy
cầu ngà theo chiều gần xa; 5/11 (45,5%)/ thời điểm T2 và 4/11 (36,4%)/thời
điểm T3 không quan sát thấy cầu ngà theo chiều trên dưới; và 3/11 (27,3%)/thời
75
điểm T3 không quan sát thấy cầu ngà theo chiều ngoài trong. Tuy nhiên ở nhóm
BD1, tỷ lệ không có cầu ngà ít hơn, chỉ có 1/11 (9,1%) ở cả hai thời điểm T2 và
T3 không quan sát thấy cầu ngà theo chiều trên dưới, còn lại các mẫu khác đều
có thấy hiện diện cầu ngà.
Kích thước trung bình cầu ngà theo ba chiều ở thời điểm T2,T3 của BD2
cao hơn MTA2 có ý nghĩa (kiểm định Mann Whitney U, p<0,05). Sự khác biệt
có ý nghĩa cũng thể hiện ở độ dày trung bình và sự liên tục cầu ngà (Kiểm định
Bảng 3.12: Kích thước và sự liên tục cầu ngà trên phim quanh chóp ở nhóm MTA2 và BD2.
TB ± ĐLC (mm) Kích thước gần-xa
Kích thước trên-dưới
MTA2 (n = 11) 0,25 ± 0,30 0,42 ± 0,50 0,34 ± 0,49 0,45 ± 0,54 0,81 ± 0,90 0,56 ± 0,60
chính xác Fisher, p<0,05).
p 0,003a 0,008a 0,017a 0,005a 0,010a 0,003a
(1)
(2)
(3)
(1) 11 (100)
(4) 0
T2 T3 T2 T3 Kích thước ngoài-trong* T3 T3 Độ dày TB cầu ngà Mức độ Độ dày TB cầu ngà Sự liên tục cầu ngà
BD2 (n = 11) 0,72 ± 0,27 0,97 ± 0,35 0,84 ± 0,49 1,2 ± 0,49 1,84 ± 0,66 1,34 ± 0,43 (4) (3) (2) 0 0,012b 0 0 6 (54,5) 9 (81,8) 1 (9,1) 1 (9,1) 0 0,007 b
T3 5 (45,5) 5 (45,5) 1 (9,1) T3 3 (27,3) 2 (18,2)
0
a: kiểm định Mann Whitney U/Wincoxon b: kiểm định chính xác Fisher *: Phim quanh chóp chỉ ghi nhận được chiều NT cầu ngà ở thời điểm T3 khi răng đã nhổ (ở T2 không chụp được chiều N-T trên bệnh nhân).
Biểu đồ 3.7: Giá trị độ dày cầu ngà trung bình trên phim quanh chóp.
100%
0 0 0
0 1
1 0 0
80%
1 2 1
5
60%
11
10
40%
7
5
20%
0%
MTA1
BD1
MTA2
BD2
MTA1 - BD1
MTA2 - BD2
0.1 - 0.24 mm
0.01 - 0.09 mm
≥0.25 mm
Không có cầu ngà
Biểu đồ 3.8: Độ dày trung bình cầu ngà.
0 1 1
5
6
1 2 1
9
0 2
1 3
7
3
2
100% 80% 60% 40% 20% 0%
MTA1
BD1
MTA2
BD2
MTA1 - BD1
MTA2 - BD2
Che hoàn toàn
Che < 1/2
Che ≥ 1/2
Không cầu ngà
Biểu đồ 3.9: Sự liên tục cầu ngà.
76
3.3.1.3. Đánh giá sang thương quanh chóp (S3.7) và tình trạng nội ngoại
tiêu (S3.8)
Tình trạng tổn thương quanh chóp và tiêu ngót ở 100% mẫu phim quanh
chóp đều ghi nhận mã số (1), nghĩa là không xuất hiện sang thương quanh chóp,
khoảng dây chằng nha chu không bất thường và không có nội tiêu ngoại tiêu.
3.3.2. Đánh giá phim CBCT (S4.1-S4.12)
3.3.2.1. Đánh giá độ dày ngà răng ở các vị trí và theo các chiều hướng
(S4.1)
❖ Đánh giá sự thay đổi về độ dày ngà răng (S4.1)
Biến số này được ghi nhận với thang đo: (1) Không tăng, (2) Tăng ở 1 vị
trí, (3) Tăng ở 2 vị trí, (4) Tăng ở 3 vị trí.
Ở nhóm MTA1-BD1, sự thay đổi độ dày ngà N-T nhóm MTA1 có 4/11
mẫu có tăng độ dày ở 1 vị trí và 3 mẫu tăng 4 vị trí trong khi nhóm BD1 có 7/11
77
mẫu tăng độ dày ở 1 vị trí và 3 mẫu tăng ở 3 vị trí, không có mẫu nào tăng ở 4
vị trí. Độ dày ngà G-X nhóm MTA1 có 4/11 mẫu có tăng độ dày ở 4 vị trí trong
khi nhóm BD1 có 3/11 mẫu tăng độ dày ở 4 vị trí.
Ở nhóm MTA2-BD2, sự thay đổi độ dày ngà N-T nhóm MTA1 có 6/11
mẫu có tăng độ dày ở 3 vị trí và 2 mẫu tăng 4 vị trí trong khi nhóm BD1 có 3/11
mẫu tăng độ dày ở 3 vị trí và 4 vị trí. Độ dày ngà G-X nhóm MTA1 có 4/11
mẫu có tăng độ dày ở 3 và 4/11 mẫu có tăng độ dày 4 vị trí trong khi nhóm BD1
có 4/11 mẫu tăng độ dày ở 2, 4/11 mẫu có tăng độ dày ở 3 vị trí.
Không có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm MTA và BD trong cùng
Bảng 3.13: Sự thay đổi độ dày ngà trên phim CBCT.
(4)
(1)
(2)
(3)
(4)
(3)
(2)
(1)
p 0.307b
0
0.881b
3 (27,3) 4 (36,4)
7 (63,6) 4 (36,4)
BD1 (n = 11) 1 (9,1) 2 (18,2)
3 (27,3) 2 (18,2)
3 (27,3)
4 (36,4) 2 18,2)
MTA1 (n = 11) 1 (9,1) 3 (27,3)
3 (27,3) 2 (18,2)
0.700b
MTA2 (n = 11) 2 (18,2)
0,151b
0
2 (18,2) 4 (36,4)
3 (27,3) 1 (9,1)
BD2 (n = 11) 2 (18,2) 4 (36,4)
3 (27,3) 4 (36,4)
3 (27,3) 2 (18,2)
1 (9,1) 3 (27,3)
6 (54,5) 4 (36,4)
Mức độ n (%) Sự thay đổi độ dày ngà N-T Sự thay đổi độ dày ngà G-X Sự thay đổi độ dày ngà N-T Sự thay đổi độ dày ngà G-X a: kiểm định Mann Whitney U/Wincoxon b: kiểm định chính xác Fisher
cặp quan sát (kiểm định chính xác Fisher, p>0,05) (Bảng 3.13).
3.3.2.2. Đánh giá cầu ngà (S4.3-S4.6)
❖ Kích thước cầu ngà
Cầu ngà nếu xuất hiện sau thời gian điều trị (ở T2 và T3) được được ghi
nhận kích thước qua thang đo: (1) ≥ 0,25 mm; (2) 0,1-0,24 mm; (3) 0,01-0,09
mm; (4) không có cầu ngà.
Cặp nhóm MTA1-BD1 (Bảng 3.14): Cầu ngà có sự gia tăng kích thước từ
thời điểm T2 sang T3. Ở nhóm MTA1 có 7/11 mẫu có kích thước cầu ngà ≥
0,25 mm và 4/11 mẫu không hiện diện cầu ngà. Nhóm BD1 có 10/11 mẫu có
kích thước cầu ngà ≥ 0,25 mm, 1/11 mẫu có kích thước cầu ngà 0,1-0,24 mm và
không có mẫu nào không hiện diện cầu ngà. Kết quả thống kê không có sự khác
78
biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm MTA1 và BD1 trong cùng cặp (kiểm định chính
xác Fisher, p>0,05). Tuy nhiên, kích thước cầu ngà chiều NT, GX, TD và sự
liên tục của cầu ngà lại cho thấy có sự khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm
Bảng 3.14: Đánh giá cầu ngà trên phim CBCT ở nhóm MTA1 và BD1.
TB ± ĐLC (mm) Cầu ngà N-T Cầu ngà G-X Cầu ngà T-D
T2 T3 T2 T3 T2 T3 Độ dày TB cầu ngà T2 T3
MTA1 và BD1 trong cùng cặp (kiểm định Wincoxon và Fisher, p<0,05).
p 0,003a 0,045a 0,077a 0,047a 0,001a 0,006a 0,003a 0,019a
(4)
(1)
(4)
(1)
BD1 (n = 11) 1,37 ± 0,55 1,71 ± 0,66 0,62 ± 0,28 0,89 ± 0,36 0,79 ± 0,65 1,19 ± 0,88 0,93 ± 0,44 1,26 ± 0,54 (3) (2) 0 0 0
0
Mức độ n (%) Độ dày TB cầu ngà T2 5 45,5) T3 7 63,6)
MTA1 (n = 11) 0,47 ± 0,59 0,96 ± 0,93 0,29 ± 0,37 0,50 ± 0,58 0,20 ± 0,24 0,37 ± 0,35 0,32 ± 0,39 0,61 ± 0,58 (3) (2) 0 0 0 0 0
Sự liên tục cầu ngà T2 3 27,3) 2 18,2)
1 (9,1) 0, 063b 6 54,5) 10 (90,9) 0, 090b 4 (36,4) 10 (90,9) 1 (9,1) 6 (54,5) 7 (63,6) 1 (9,1) 2 (18,2) 1 (9,1) 0, 046b 0, 026b
0
T3 3 (27,3) 2 (18,2) 2 (18,2) 4 (36,4) 9 (81,8) 1 (9,1) 1 (9,1)
a: kiểm định Mann Whitney U/Wincoxon b: kiểm định chính xác Fisher
Cặp nhóm MTA2-BD2 (bảng 3.15): Cầu ngà có sự gia tăng kích thước từ
thời điểm T2 sang T3. Ở nhóm MTA2 có 5/11 mẫu có kích thước cầu ngà ≥
0,25 mm, 1 mẫu có kích thước 0,01-0,09 mm và 5/11 mẫu không hiện diện cầu
ngà. Nhóm BD2 có 11/11 mẫu có kích thước cầu ngà ≥ 0,25 mm và không có
mẫu nào không hiện diện cầu ngà. Kết quả thống kê có sự khác biệt có ý nghĩa
giữa hai nhóm MTA2 và BD2 trong cùng cặp (kiểm định chính xác Fisher,
p<0,05) ở kích thước cầu ngà các chiều NT,GX,TD; độ dày trung bình cầu ngà
Bảng 3.15: Đánh giá cầu ngà trên phim CBCT ở nhóm MTA2 và BD2.
TB ± ĐLC (mm) Cầu ngà N-T Cầu ngà G-X Cầu ngà T-D
Độ dày TB cầu ngà
T2 T3 T2 T3 T2 T3 T2 T3
MTA2 (n = 11) 0,60 ± 0,87 0,74 ± 0,94 0,28 ± 0,43 0,40 ± 0,57 0,21 ± 0,30 0,31 ± 0,38 0,37 ± 0,51 0,48 ± 0,59
BD2 (n = 11) 1,38 ± 0,57 1,66 ± 0,57 0,85 ± 0,26 1,07 ± 0,32 0,83 ± 0,76 0,94 ± 0,80 1,02 ± 0,45 1,22 ± 0,46
và cả ở sự liên tục của cầu ngà.
p 0,023a 0,110a 0,006a 0,007a 0,003a 0,025a 0,210a 0,190a
(4)
(1)
(1)
(3) 0
(2) 0 0
7 (63,6) 11 (100) 1 (9,1) 5 (45,5) 11 (100)
(2) 0 0
(3) 0 0
0
7 (63,6) 6 (54,5) 2 (18,2) 3 (27,3)
T2 4 (36,4) T3 5 (45,5) T2 3 (27,3) 1 (9,1) T3 4 (36,4) 1 (9,1) 1 (9,1) 5 (45,5) 11 (100)
0
0
(4) 0 0 0 0
79
0,004 b 0,012 b 0,006 b 0,004b
Mức độ n (%) Độ dày TB cầu ngà Sự liên tục cầu ngà a: kiểm định Mann Whitney U/Wincoxon b: kiểm định chính xác Fisher
Biểu đồ 3.10: Giá trị độ dày cầu ngà trung bình trên phim CBCT.
100%
0 0 0
0 0 0
0 0 1
1 0 0
80%
5
6
7
4 0 0
60%
11
11
0 0
10
10
1 0
40%
7
5
5
20%
0 0 4
0%
MTA
BD
MTA
BD
MTA
BD
MTA
BD
T2
T3
T2
T3
MTA1 - BD1
MTA2 - BD2
0.1 - 0.24 mm
0.01 - 0.09 mm
≥0.25 mm
Không có cầu ngà
Biểu đồ 3.11: Độ dày cầu ngà TB trên phim CBCT.
0 0 0
0 1 1
0 3
4
5
6
1 2 1
7
2
11
9
1 1
0 2
2 2
7
6
4
3
3
0 1 3
100% 80% 60% 40% 20% 0%
MTA
BD
MTA
BD
MTA
BD
MTA
BD
T2
T3
T2
T3
MTA1 - BD1
MTA2 - BD2
Che hoàn toàn
Che < 1/2
Che ≥ 1/2
Không cầu ngà
Biểu đồ 3.12: Sự liên tục của cầu ngà trên phim CBCT.
80
Thể tích cầu ngà được ghi nhận qua bốn mức độ: (1) ≥ 1 mm3 , (2) 0,5-
0,99 mm3,(3) 0,1-0,49 mm3,(4) không có cầu ngà hoặc <0,1 mm3.
Thể tích cầu ngà có sự gia tăng từ thời điểm T2 đến T3 (sự khác biệt
không có ý nghĩa thống kê, p>0,05), với thể tích trung bình là 0,54 ± 0,61 mm3
(nhóm MTA1) và 1,10 ± 1,01mm3 (nhóm BD1) (Bui A.H., 2021) 103 (bảng
Bảng 3.16: Thể tích cầu ngà trên phim CBCT ở nhóm MTA1 và BD1.
TB ± ĐLC (mm3)
MTA1 (n = 11)
BD1 (n = 11)
p
Thể
tích
T2
0,38 ± 0,46
0,62 ± 0,56
0,082a
cầu ngà
T3
0,54 ± 0,61
1,10 ± 1,01
0,061a
Thấp nhất-
0,02 – 1,32
0,06 – 1,49
T2
cao nhất
T3
0,02 – 1,91
0,12 – 4,12
Mức độ
(1)
(2)
(3)
(4)
(1)
(2)
(3)
(4)
Thể
tích
T2 2 (18,2) 2 (18,2) 1 (9,1) 6 (54,5) 4 (36,4) 1 (9,1) 5 (45,5)
1
0,057b
cầu ngà
T3 2 (18,2) 3 (27,3) 2 (18,2) 4 (36,4) 5 (45,5) 4 (36,4) 2 (18,2)
0
0,218 b
a: kiểm định Mann Whitney U/Wincoxon b: kiểm định chính xác Fisher
3.16).
Thể tích cầu ngà có sự gia tăng từ thời điểm T2 đến T3, với thể tích trung
bình là 0, 47 ± 0,63 mm3 (nhóm MTA2) và 1,36 ± 1,08 mm3 (nhóm BD2). Sự
khác biệt về thể tích đo được giữa hai nhóm MTA2 và BD2 là có ý nghĩa thống
Bảng 3.17: Thể tích cầu ngà trên phim CBCT ở nhóm MTA2 và BD2.
TB ± ĐLC
(mm3)
MTA2 (n = 11)
BD2 (n = 11)
p
Thể tích cầu
T2
0,34 ± 0,47
1,04 ± 0,81
kê (p<0,05) (bảng 3.17).
0,007a
ngà
T3
0, 47 ± 0,63
1,36 ± 1,08
0,009a
Thấp nhất-
T2
0,02 – 1,32
0,17 – 2,98
cao nhất
T3
0,02 – 1,91
0,24 – 4,12
Mức độ
(1)
(2)
(3)
(4)
(1)
(2)
(3)
(4)
T2
Thể tích cầu
2 (18,2) 1 (9,1) 1 (9,1) 7 (63,6) 5 (45,5) 3 (27,3) 3 (27,3)
0
0,009 b
T3
ngà
2 (18,2) 1 (9,1) 3 (27,3) 5 (45,5) 7 (63,6) 2 (18,2) 2 (18,2)
0
0, 033b
a: kiểm định Mann Whitney U/Wincoxon b: kiểm định chính xác Fisher
Biểu đồ 3.13: Giá trị thể tích cầu ngà.
100%
0
1
0 2
0 2
90%
3
4
80%
5
6
2
70%
5
7
4
60%
3
2
50%
1
1
3
40%
3
7
30%
2
5
5
1
1 1
20%
4
10%
2
2
2
2
0%
MTA
BD
MTA
BD
MTA
BD
MTA
BD
T2
T3
T2
T3
MTA1 - BD1
MTA2 - BD2
0.5-0.99 mm3
0.1-0.49 mm3
≥1 mm3
Không cầu ngà hoặc ≤ 0.1mm3
Biểu đồ 3.14: Thể tích cầu ngà trên phim CBCT.
81
Do dữ liệu không phân phối chuẩn, kiểm định thứ hạng Wincoxon một
mẫu được áp dụng để phát hiện sự khác biệt thống kê giữa hai lần: thời điểm T0
ban đầu và T3 răng đã nhổ đối với so sánh thể tích cầu ngà. Có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê giữa hai thời điểm đánh giá về thể tích cầu ngà (Kiểm định
Wincoxon, p <0,05). Chúng tôi áp dụng thêm phép biến đổi logarit để chuẩn hóa
82
dữ liệu cho phân tích thống kê so sánh hai nhóm giữa hai thời điểm T2 và T3.
Có sự khác biệt đáng kể thể tích cầu ngà giữa trong từng nhóm qua hai phép đo
trên răng bệnh nhân trước (T2) và sau khi đã nhổ (T3) (kiểm định T, p<0,05)
Bảng 3.18: Thể tích cầu ngà- giá trị chuẩn hóa ở hai cặp nhóm.
MTA1
BD1
MTA2
BD2
p
TB log 0,31 0,39
Phương sai 0,08 0,10
TB log 0,37 0,67
Phương sai 0,24 0,17
TB log 0,36 0,38
Phương sai 0,08 0,10
TB log 0,47 0,51
Phương sai 0,11 0,12
Thể tích cầu ngà (mm3) T2 T3
p=0,004c
p=0,018c
p=0,014c
p=0,006c
(Bui A.H., 2021) 103 (bảng 3.18).
0,001a 0,001 a
a: kiểm định Mann Whitney U/Wincoxon, so với giá trị ban đầu c:Kiểm định T 2 mẫu bắt cặp (log x+2 thể tích)/ pp chuẩn 3.3.2.3. Đánh giá mật độ (S4.7-S4.10)
Giá trị mật độ đánh giá qua thang đo 4 mức độ: (1) ≥ 1700 HU: mật độ
khoáng hóa cao; (2) 1200-1699 HU: mật độ khoáng hóa trung bình; (3) 450-
1199 HU: mật độ khoáng hóa thấp; (4) < 450 HU: mật độ khoáng hóa rất thấp.
Trên phim T3, các thông số mật độ ngà chân răng NT, GX (S4.7), mật độ
tủy (S4.8) được ghi nhận trong bảng 3.19. Ta thấy không có sự khác biệt có ý
nghĩa (p>0,05) giữa các cặp nhóm MTA1 - BD1 và MTA2-BD2.
Mật độ vật liệu che tủy (S4.9) có giá trị mật độ/đơn vị HU cao nhất là
2974,43 ± 165,32 HU (MTA1), 2768,68 ± 226,59 HU (BD1), 2996,09 ± 140,71
(MTA2), 2635,59 ± 299,28 (BD2) và có sự khác biệt về mật độ giữa hai loại vật
liệu MTA và BD trong cặp (p<0,05).
Mật độ của cầu ngà (S4.10) trung bình đo trên phim kỹ thuật số thời điểm
T3 lần lượt là 1509,41 ± 271,28 HU (MTA1), 1387,06 ± 272,81 HU (BD1),
1549,01 ± 295,74 (MTA2), 1522,00 ± 192,28 (BD2). Trên bảng 3.19 và 3.20,
đa số giá trị mật độ cầu ngà nằm trong phạm vi (2) giá trị dao động từ 1200-
1699 HU. Tuy nhiên, không tìm thấy sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mật
độ cầu ngà giữa hai cặp MTA1-BD1 và MTA2-BD2 (kiểm định Fisher,
p>0,05).
Bảng 3.19: Đánh giá mật độ ở nhóm MTA1 và BD1.
MTA1 (n = 11) 2397,24 ± 138,95 2364,06 ± 138,40 653,76 ± 195,22 2974,43 ± 165,32 1509,41 ± 271,28 (3)
(2)
BD1 (n = 11) 2835,92 ± 1508,26 2343,17 ± 148,15 878,27 ± 318,30 2768,68 ± 226,59 1387,06 ± 272,81 (3)
(2)
(1) 2 (18,2)
7 (63,6) 2 (18,2)
10 (90,9) 1 (9,1)
(4) 0
83
p 0,922a 0,974a 0,094a 0,006a 0,178a 0,380 b
(4) 0
(1) 0
TB ± ĐLC (HU) Mật độ ngà chân răng N-T Mật độ ngà chân răng G-X Mật độ tủy Mật độ vật liệu che tủy Mật độ cầu ngà Mức độ Mật độ cầu ngà a: kiểm định Mann Whitney U/Wincoxon b: kiểm định chính xác Fisher
Bảng 3.20: Đánh giá mật độ ở nhóm MTA2 và BD2.
MTA2 (n = 11) 2365,45 ± 100,16 2315,91 ± 109,76 600,23 ± 282,62 2996,09 ± 140,71 1549,01 ± 295,74
BD2 (n = 11) 2373,11 ± 126,82 2340,19 ± 131,57 793,59 ± 360,64 2635,59 ± 299,28 1522,00 ± 192,28
(1)
(2)
(3)
(1)
p 0,818a 0,491a 0,200a 0,003a 0,450a >0,5b
(2) 2 (18,2) 8 (72,7) 1 (9,1)
3 (27,3) 8 (72,7)
(4) 0
(4) 0
(3) 0
TB ± ĐLC (HU) Mật độ ngà chân răng N-T Mật độ ngà chân răng G-X Mật độ tủy Mật độ vật liệu che tủy Mật độ cầu ngà Mức độ Mật độ cầu ngà a: kiểm định Mann Whitney U/Wincoxon b: kiểm định chính xác Fisher 3.3.2.4. Đánh giá sang thương quanh chóp (S4.11) và tình trạng nội ngoại
tiêu (S4.12)
Tình trạng tổn thương quanh chóp và tiêu ngót ở 100% mẫu đều ghi nhận
mã số (1), nghĩa là không xuất hiện sang thương quanh chóp, khoảng dây chằng
nha chu không bất thường và không có nội tiêu, ngoại tiêu trên phim CBCT.
3.4. ĐÁNH GIÁ MÔ HỌC
Kết quả đánh giá mô học thực hiện sau khi quan sát các tiêu bản nhuộm ở
nhóm MTA1-BD1 (9-12 tuần).
3.4.1. Sự xâm nhập vi khuẩn (S5.1)
Sự hiện diện vi khuẩn được đọc kết quả dương tính với màu xanh (vi
khuẩn Gram dương) và màu đỏ (vi khuẩn Gram âm). Kết quả cho thấy không
tìm thấy hình ảnh có vi khuẩn gram dương và gram âm ở dọc thành bên xoang,
trong ống ngà và trong buồng tủy trong 100%, trường hợp (hình 3.1).
84
Hình 3.1: Không tìm thấy vi khuẩn ở ba vị trí (A,D) thành xoang, (B,E) trong ống ngà ,(C,F) trong buồng tủy ở nhóm MTA (A,B,C) và BD (D,E,F) (nhuộm gram, X40).
3.4.2. Tình trạng viêm (S5.2-5.4)
Sau thời gian 9-12 tuần, 100% mẫu nhuộm HE trong mô tủy không tìm
thấy phản ứng viêm (cấp hoặc mãn), không tìm thấy các tế bào viêm như bạch
cầu trung tính lan tỏa, tế bào lympho, tương bào, đại thực bào. Tuy nhiên, có
phát hiện tăng sung huyết rải rác và tập trung sợi collagen trong buồng tủy (hình
3.2). Có sự hiện diện các vùng hoại tử rất nhỏ sát vùng lộ tủy, nhưng không
hiện diện bên dưới lớp ngà sửa chữa. Không tìm thấy hoại tử hay áp xe ở sâu
bên trong mô tủy xa vùng tủy lộ. Các mẫu mô học cho thấy không có sự khác
Hình 3.2: Hình ảnh tăng sung huyết, tập trung sợi collagen (S) trong tủy (T), và cầu ngà có
độ dày không đồng nhất ở nhóm MTA (hình A) và BD (hình B) (nhuộm HE, X10).
biệt về hiện tượng viêm giữa hai nhóm MTA và BD.
85
3.4.3. Sự hình thành mô khoáng hóa sửa chữa (S5.5-5.7)
Kết quả quan sát thấy 11/12 (91.67%) mẫu ở nhóm MTA và BD có sự
Bảng 3.21: Đánh giá mô học về hình thành mô khoáng sửa chữa nhóm MTA1 và BD1.
hình thành mô khoáng hóa sửa chữa với mức độ khác nhau (Bảng 3.21).
p 0,002c
TB ± ĐLC (mm) Độ dày cầu ngà Mức độ n (%) Giới hạn cầu ngà
0
0
0,034b
(1) 6 (54,5)
0
0,39b
BD (n = 11) 0,76 ± 0,43 (2) (3) 3 (27,3) 7 (63,6)
Hình thái cầu ngà Kích thước cầu ngà
0
0,28 b
5 (45,5)
(1) 7 (63,6) 2 (18,2) 9 (81,8)
0
0,64 b
0
MTA (n = 11) 0,31 ± 0,27 (3) (2) 4 (36,4) 4 (36,4) 4 (36,4) 7 (63,6)
1 (9,1) 1 (9,1) 5 (45,5)
3 (27,3)
(4) 1 (9,1) 1 (9,1) 1 (9,1) 3 (27,3)
(4) 1 (9,1) 1 (9,1) 1 (9,1) 3 (27,3)
6 (54,5) 1 (9,1) 1 (9,1)
Lớp tế bào dạng nguyên bào ngà b: kiểm định chính xác Fisher c:Kiểm định T 2 mẫu bắt cặp
- Độ dày của cầu ngà sửa chữa có trường hợp khá đều đặn (hình 3.3A)
nhưng thường không đồng nhất, với các vùng dày xen kẽ với các đoạn rất mỏng
(Hình 3.2). Có 5/11 mẫu MTA và 9/11 mẫu BD có kích thước cầu ngà > 0,25
mm. Độ dày cầu ngà trung bình đo được ở mẫu MTA và BD lần lượt là 0,31 ±
0,27 mm và 0,76 ± 0,43 mm. Có sự khác biệt ý nghĩa giữa hai nhóm nghiên cứu
(p<0,05).
- Về giới hạn mô khoáng hóa, 6/11 mẫu MTA và 7/11 mẫu BD đạt được
mức độ che tủy hoàn toàn vùng tủy lộ và liên tục với lớp ngà sinh lý ở thành
chân răng (hình 3.3A). Trong các trường hợp còn lại, cầu ngà có vẻ hoàn chỉnh
ở một số đoạn, và gián đoạn ở một vài vị trí (Hình 3.3B). Trong một số trường
hợp, gần vùng lộ tủy không tìm được mô khoáng hóa hay cầu ngà (Hình 3.3C).
- Về hình thái mô khoáng hóa, khi quan sát ở vật kính x40 bên trong cầu
ngà sửa chữa có 6/11 mẫu MTA và 9/11 mẫu BD cho thấy hình ảnh các ống ngà
có cấu trúc ống biệt lập, cùng hướng khá song song hoặc không rõ hướng; các
ống ngà có mật độ từ rải rác đến khá nhiều ở vùng ngoại vi (hình 3.4A, B, C).
Các mẫu còn lại chỉ có mô khoáng vô định hình, đồng nhất, không có hình ảnh
ống ngà (hình 3.4 D, E, F) hoặc có chứa các mảnh mô hoại tử hoặc tế bào vùi
86
bên trong (hình 3.4 G, H, I). Ngoài ra, có hình ảnh các lớp ngà phản ứng khá
Hình 3.3: Giới hạn mô khoáng hóa dày đều đặn, liên tục, che tủy hoàn toàn vùng tủy
lộ (A), gián đoạn (B) và không có mô khoáng sửa chữa (C) (nhuộm HE, X10).
Hình 3.4: Hình ảnh các ống ngà có cùng hướng, khá song song (A, B, C); cầu ngà là
mô khoáng vô định hình, không rõ ống ngà (D, E, F), có tế bào vùi bên trong (G, H,
I). Lớp ngà phản ứng dày ở vùng thành tủy sát cầu ngà (A). Lớp tế bào dạng nguyên
bào ngà (mũi tên hình B,C) và lớp tế bào dạng nguyên bào sợi (mũi tên hình H, I)
(nhuộm HE, X10, X40).
dày ở vùng thành tủy sát cầu ngà (hình 3.4A).
87
3.4.4. Lớp tế bào dạng nguyên bào ngà hoặc nguyên bào sợi (S5.8)
Kết quả quan sát có 8/11 mẫu MTA và BD có hình ảnh tế bào thể hiện
các đặc điểm của nguyên bào ngà hoặc tế bào giống nguyên bào ngà hoặc
nguyên bào sợi ở lân cận cầu ngà với mật độ khác nhau (bảng 3.23).
- Tế bào dạng nguyên bào ngà dạng cột cao, giả tầng, nhân ở cực đáy, và
thỉnh thoảng có đuôi bào tương ngắn đi vào ống ngà; tỷ lệ tế bào chất/ nhân
tăng, nhân lệch ở đáy. Hình thái của các tế bào mô khoáng xếp tầng khó
quan sát được ở những vùng bị ảnh hưởng bởi hiện tượng co, do sự tách rời
của mô mềm (hình 3.4B, C).
- Tế bào dạng nguyên bào sợi dạng phẳng hoặc hình khối dẹt, mỏng, đuôi bào
tương dài và tiếp xúc nhau bằng các thể nối giống nguyên bào sợi. Các tế
bào này hiện diện ở dưới cầu ngà và xếp thành một hàng đều đặn (hình 3.4H,
I).
3.5. TỶ LỆ THÀNH CÔNG
3.5.1. Tỷ lệ thành công về lâm sàng (S6.1)
Thành công của CTTT về mặt lâm sàng được ghi nhận dựa trên đánh giá
(1) Thành công tốt, 10 tiêu chí (S2.4, S2.5, S2.9, S2.10, S2.11, S2.12, S2.13, S2.14, S2.15, S2.16)
có mức (1), và ≥ 5 tiêu chí khác có mức (1) ở lần đánh giá sau cùng.
(2) Thành công khá, 10 tiêu chí (S2.4, S2.5, S2.9, S2.10, S2.11, S2.12, S2.13, S2.14, S2.15, S2.16)
có mức (1), và 3-4 tiêu chí khác có mức (1) ở lần đánh giá sau cùng.
(3) Thành công tiêu chuẩn, 10 tiêu chí (S2.4, S2.5, S2.9, S2.10, S2.11, S2.12, S2.13, S2.14, S2.15,
S2.16) có mức (1), và 1-2 tiêu chí khác có mức từ (1) trở lên ở lần đánh giá sau cùng.
(4) Thất bại, một trong 9 tiêu chí (S2.4, S2.5, S2.9, S2.10, S2.11, S2.12, S2.13, S2.14, S2.15) có
mức (2) trở lên ở lần đánh giá sau cùng.
16 tiêu chí lâm sàng (S2.1 – S2.16) với các mức độ như sau:
Tỷ lệ thành công về mặt lâm sàng ghi nhận được ở nhóm MTA1 là 90,9%
và MTA2 là 100%, ở nhóm BD1 là 100% và BD2 là 90,9%. Tuy nhiên, không
có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thành công lâm sàng giữa MTA1-
BD1 và MTA2-BD2 (kiểm định Fisher, p>0,05) (bảng 3.22).
88
3.5.2. Tỷ lệ thành công về X quang (S6.2)
Thành công của CTTT trên phim quanh chóp (S6.2a) và CBCT (S6.2b)
được ghi nhận dựa trên đánh giá 5 tiêu chí quanh chóp (S3.1, S3.5-S3.8) và 8
Quanh chóp (S3.1, S3.5-S3.8)
CBCT (S4.1-S4.3, S4.6-S4.10)
(1) Thành công tốt, hai tiêu chí S3.5, S3.6 có
(1) Thành công tốt, một trong ba tiêu chí S4.6-
mức (1), hai tiêu chí (S3.7, S3.8) mức (1) ở
S4.8 có mức cao nhất là (1) và 2 tiêu chí
lần đánh giá sau cùng.
(S4.9, S4.10) mức (1) ở lần đánh giá sau
(2) Thành công khá, một trong hai S3.5, S3.6
cùng.
có mức cao nhất là (2) và hai tiêu chí
(2) Thành công khá, một trong ba tiêu chí
(S3.7, S3.8) mức (1) ở lần đánh giá sau
S4.6-S4.8 có mức cao nhất là (2) và 2 tiêu
chí (S4.9, S4.10) mức (1) ở lần đánh giá
cùng.
(3) Thành công tiêu chuẩn, một trong hai S3.5,
sau cùng.
S3.6 có mức cao nhất là (3) và hai tiêu chí
(3) Thành công tiêu chuẩn, một trong ba tiêu
(S3.7, S3.8) mức (1) ở lần đánh giá sau
chí S4.6-S4.8 có mức cao nhất là (3) và 2
tiêu chí (S4.9, S4.10) mức (1) ở lần đánh
cùng.
(4) Thất bại, một trong 2 tiêu chí S3.5, S3.6 có
giá sau cùng.
mức cao nhất là (4), hai tiêu chí (S3.7,
(4) Thất bại, một trong 3 tiêu chí S4.6-S4.8 có
S3.8) từ (2) trở lên ở lần đánh giá sau
mức cao nhất là (4), 2 tiêu chí (S4.9, S4.10)
cùng.
từ (2) trở lên ở lần đánh giá sau cùng.
tiêu chí CBCT (S4.1-S4.3, S4.6-S4.10) với các mức độ như sau:
Tỷ lệ thành công trên phim quanh chóp ở nhóm MTA1 là 54,5% và
MTA2 là 45,5%, ở nhóm BD1 là 90,9% và BD2 là 100%. Có sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê về tỷ lệ thành công trên phim quanh chóp giữa MTA2-BD2
(kiểm định Fisher, p<0,05) (bảng 3.22).
Tỷ lệ thành công trên phim CBCT ở nhóm MTA1 là 63,6% và MTA2 là
54,5%, ở nhóm BD1 và BD2 là 100%. Có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về
tỷ lệ thành công trên phim CBCT giữa MTA2-BD2 (kiểm định Fisher, p<0,05)
Bảng 3.22: Tỷ lệ thành công lâm sàng, X quang và mô học.
MTA
BD
Tỷ lệ thành công
Mức độ
(1)
(2)
(3)
(4)
(1)
(2)
(3)
(4)
p
(bảng 3.22).
0,586 b
0
0
0
2 (18,2)
1 (9,1)
1 (9,1)
p>0,5 b
0
0
0
0
0
Lâm sàng
p>0,5 b
0
0
0,073 b
0
1 (9,1) 1 (4,5) 1 (9,1)
0,007 b
0
0
X quang quanh chóp
0
1 (4,5)
<0,001 b 0,218b
0
X quang CBCT
0,033
0
0,002
0
8 (72,7) 11 (100) 19 (86,4) 3 (27,3) 3 (27,3) 6 (27,3) 2 (18,2) 2 (18,2) 4 (18,2) 0
0,276 b
2 (9,1) 3 (27,3) 2 (18,2) 5 (22,7) 3 (27,3) 1 (9,1) 4 (18,2) 4 (36,4)
2 (18,2) 3 (27,3) 5 (22,7) 6 (54,5)
1 (4,5) 5 (45,5) 6 (54,5) 11 (50,0) 4 (36,4) 5 (45,5) 9 (40,9) 1 (9,1)
10 (90,9) 10 (90,9) 20 (90,9) 7 (63,6) 9 (81,8) 16 (72,7) 5 (45,5) 7 (63,6) 12 (54,5) 2 (18,2)
1 (4,5) 1 (9,1) 1 (9,1) 2 (9,1) 4 (36,4) 2 (18,2) 6 (27,3) 6 (54,5)
2 (18,2) 1 (9,1) 3 (13,6) 2 (18,2) 2 (18,2) 4 (18,2) 2 (18,2)
1 (9,1)
MTA1-BD1 (9-12 tuần) MTA2-BD2 (13-16 tuần) MTA-BD (9-16 tuần) MTA1-BD1 (9-12 tuần) MTA2-BD2 (13-16 tuần) MTA-BD (9-16 tuần) MTA1-BD1 (9-12 tuần) MTA2-BD2 (13-16 tuần) MTA-BD (9-16 tuần) MTA-BD Mô (9-12 tuần) học b: kiểm định chính xác Fisher
89
Khi so sánh hai nhóm MTA và BD để tìm kiếm ảnh hưởng đến biến kết
cục (thành công hay thất bại) theo yếu tố thời gian, sử dụng hàm Log xếp hạng
với phân tích xác suất sống tích lũy Kaplan-Meier. Đối với ước lượng thành
công lâm sàng theo thời gian, không có sự khác biệt giữa hai nhóm MTA và BD
theo thời gian. Ước lượng chung thành công lâm sàng là 95,5% sau 16 tuần
(biểu đồ 3.15).
Tương tự, ước lượng tỷ lệ thành công chung trên phim quanh chóp vào
khoảng 72,7% (MTA 50% và BD 95,5%) và tỷ lệ thành công chung trên phim
CBCT vào khoảng 79,5% (MTA 59,1% và BD 100%) sau 16 tuần. Có sự khác
biệt giữa hai nhóm theo thời gian, điều này cho thấy hiệu quả cao hơn của phác
đồ BD so với MTA trên X quang với p<0,05.
Tuy nhiên, vì nhiều nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của sự hình thành và
liên tục của cầu ngà là yếu tố quan trọng trong tỷ lệ thành công, vì vậy khi sử
dụng mô hình hồi qui Cox để đánh giá tỷ số nguy cơ khi phân tích đa biến có
hiệu chỉnh thì tỷ lệ thành công quanh chóp và CBCT không khác biệt có ý nghĩa
giữa hai nhóm MTA và BD (biểu đồ 3.16, 3.17).
Biểu đồ 3.15: Đường biểu diễn Kaplan Meier trong thành công lâm sàng của MTA và BD.
Biểu đồ 3.16: Thành công phim quanh chóp (hiệu chỉnh 2 yếu tố độ dày và liên tục cầu ngà).
Biểu đồ 3.17: Thành công phim CBCT (hiệu chỉnh 2 yếu tố thể tích và liên tục cầu ngà).
90
3.5.3. Tỷ lệ thành công về mô học (S6.3)
Thành công của CTTT về mặt mô học được ghi nhận dựa trên đánh giá 7
(1) Thành công tốt, tất cả các tiêu chí đều có mức (1).
(2) Thành công khá, S5.1-S5.4 chỉ ở mức (1) và (2); S5.5-S5.7 có mức (2).
(3) Thành công tiêu chuẩn, S5.1-S5.4 chỉ ở mức (1) và (2); S5.5-S5.7 có mức (3).
(4) Thất bại, S5.1-S5.4 ở mức (3) và (4); S5.5-S5.7 có mức (4).
tiêu chí mô học (S5.1 – S5.7) với các mức độ như sau:
Tỷ lệ thành công về mặt mô học ghi nhận được ở nhóm MTA và BD là
tương tự nhau (90,9%) và không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ
thành công mô học giữa MTA và BD (kiểm định Fisher, p>0,05) (bảng 3.22).
91
CHƯƠNG 4: BÀN LUẬN
4.1. ĐẶC ĐIỂM CHUNG CỦA NGHIÊN CỨU
4.1.1. Đối tượng nghiên cứu
4.1.1.1. Độ tuổi
Nghiên cứu thực hiện trên đối tượng bệnh nhân trẻ có tuổi từ 18 đến 25,
có thể thực hiện tốt các hướng dẫn và có sự thích nghi khá tốt với các loại hình
điều trị can thiệp. Các nhóm nghiên cứu thiết kế theo cặp bệnh nhân như vậy
kết quả không bị nhiễu do không ảnh hưởng bởi yếu tố khác biệt về tuổi bệnh
nhân giữa hai nhóm. Độ tuổi trung bình của cặp nhóm MTA1-BD1 và MTA2-
BD2 lần lượt là 21,36 ± 2,25 tuổi và 20,82 ± 2,56 tuổi.
Nhiều bằng chứng khoa học cho thấy độ tuổi của bệnh nhân liên quan
khả năng tái tạo và lành thương. Nhiều nghiên cứu đồng tình rằng những bệnh
83,104,105, Biodentine 90.9% 105 (Bảng 4.3). Theo tác giả Linu 2017 106, tỷ lệ thành
nhân trẻ dưới 40 tuổi cho tỷ lệ thành công cao hơn tuổi trên 40: MTA 87-100%
công cũng giảm dần khi tuổi tăng trong riêng nhóm tuổi dưới 30 là: 15-20 tuổi
(92,9%), 21-25 tuổi (88,9%) và 26-30 tuổi (66,7%) hay theo Harms 2018 107:
<20 tuổi (100%), 20–30 tuổi (93,3%), 30–40 tuổi (92,4%), 40–60 tuổi (82,5%),
>60 tuổi (76,2%). Tuổi càng lớn thì khả năng tái tạo, đặc biệt là sản xuất
collagen kém hơn, có sự giảm thể tích buồng tủy, sừng tủy và ống tủy, và hệ
thống tuần hoàn thoái hóa hơn. Nguy cơ phơi nhiễm vốn có và đau có xu hướng
giảm theo tuổi của bệnh nhân. Người ta cho rằng lưu lượng máu trong tủy khi
nghỉ hay khi đáp ứng với các kích thích lạnh giảm theo tuổi. Tuổi tăng cũng làm
giảm neuropeptid của tủy. Vì vậy, độ tuổi trẻ trong nghiên cứu có thể là một
trong những yếu tố giúp tăng tỷ lệ thành công điều trị CTTT.
4.1.1.2. Giới tính
Ban đầu trong số 14 bệnh nhân tham gia nghiên cứu, tỷ lệ nữ : nam là
14:3, sau đó trong nghiên cứu sau cùng, chỉ còn 01 bệnh nhân nam, vì thế số
răng ở bệnh nhân là nữ chiếm 81,8% ở cặp MTA1-BD1 và 90,9% ở cặp MTA2-
92
BD2. Nghiên cứu ban đầu kỳ vọng đối tượng tham gia có tỷ lệ nam nữ đồng đều
nhưng do tỷ lệ bệnh nhân nữ có nhu cầu khám chỉnh hình răng mặt chiếm phần
lớn hơn số bệnh nhân nam, đồng thời nam giới thường e ngại tham gia nghiên
cứu ảnh hưởng công việc và học tập nên ít nhiệt tình tham gia hơn nữ giới. Vì
vậy, nghiên cứu có số lượng đối tượng nữ đồng ý tham gia vượt trội hơn số
bệnh nhân nam. Tuy vậy, trong báo cáo của nhiều tác giả, không tìm thấy khác
biệt về tỷ lệ thành công giữa nam và nữ trong đáp ứng lành thương sau nội nha
và che tủy 83, 104,105.
4.1.1.3. Loại răng điều trị
Hiện nay, việc thực hiện được các thử nghiệm lâm sàng trong nha khoa
luôn gặp các vấn đề khó khăn trong khía cạnh đạo đức cần phải thực hiện nhổ
răng để đánh giá sự thay đổi về bản chất trên phim X quang và vi thể. Các loại
vật liệu sinh học với tỷ lệ thành công khá cao thì việc tìm được các trường hợp
thất bại để tìm hiểu nguyên nhân hay bản chất vấn đề thường khá khó khăn hoặc
gần như là bất khả thi. Việc nhổ răng quan sát chỉ có thể thực hiện được đối với
răng có chỉ định nhổ thật sự như sâu mất chất lớn không phục hồi được, nhiễm
trùng nặng, nha chu phá hủy xương nghiêm trọng hay răng không sử dụng cần
phải nhổ vì lý do vệ sinh răng miệng, cắn khớp hay phục hình,..., nói chung đây
là những răng nhổ đa số vì lý do chức năng. Tuy vậy, những răng trong các
trường hợp này đa số đều hư hỏng hoặc tủy đã chết hoặc quá thoái hóa nên lại
không đúng chỉ định điều trị CTTT. Nếu muốn đánh giá phản ứng chính xác
hơn, răng phù hợp để CTTT với vật liệu sinh học là răng có tủy lành mạnh hoặc
lộ tủy mới. Vì vậy, đa số nghiên cứu che tủy hay lấy tủy buồng trong y văn
thường sử dụng các răng có chỉ định nhổ vì lý do thẩm mỹ như răng dư, răng
nhổ chỉnh nha hay lý do khác như răng khôn lệch ngầm,... Bakhtiar (2015) 23
gặp khó khăn khi sử dụng răng khôn để đặt che tủy vì răng khôn ở vị trí sâu rất
khó kiểm soát tốt khi đặt vật liệu, đồng thời cần chọn lựa các răng không
nghiêng lệch để bảo toàn sự nguyên vẹn cho răng khi nhổ. Nghiên cứu này sử
93
dụng nguồn dữ liệu từ răng nhổ chỉnh nha tương tự các nghiên cứu Nowicka
(2013) 85, Muruganandhan (2021) 108. Các nghiên cứu nửa miệng khác thực hiện
trên lâm sàng nên thường gặp thuận tiện là các răng cối lớn hai bên dễ bị sâu
sớm 89,11, và có một nghiên cứu sử dụng răng cối nhỏ chỉnh nha tương tự chúng
tôi 108. Các răng cối nhỏ có vị trí khá thuận lợi cho việc đặt đê để kiểm soát độ
ẩm và nhiễm khuẩn, đồng thời các răng này mọc tương đối thẳng hoặc chen
chúc nhẹ nên có thể giữ nguyên răng khi nhổ. Tuy vậy, trong nghiên cứu có một
răng nằm nghiêng ngoài và bị vỡ thân răng khi nạy trong quá trình nhổ đã bị
loại khỏi nghiên cứu.
Trong vài nghiên cứu báo cáo tỷ lệ thành công không có sự khác biệt rõ
giữa răng hàm trên - hàm dưới và giữa hai nhóm răng trước- răng sau (Mente
2014, Lipski 2018 83,105) (Bảng 4.3), tuy nhiên cần ghi nhận về mặt giải phẫu
răng cối nhỏ có buồng tủy diện tích khá nhỏ, tuần hoàn máu ít hơn nên khả năng
hoặc tôc độ lành thương của chúng có thể kém hơn các răng khác. Vì vậy,
nghiên cứu dự đoán kết quả có thể khả năng tái tạo và hồi phục ở các răng cối
nhỏ trong nghiên cứu không cao như các nghiên cứu trên răng cối lớn khác 1,8,81.
4.1.2. Phương pháp nghiên cứu
4.1.2.1. Cỡ mẫu nghiên cứu
Nghiên cứu khám sàng lọc trên tổng 23 bệnh nhân (74 răng) khám chỉnh
hình răng mặt tại khoa Răng Hàm Mặt, ĐHYD – TP. HCM từ tháng 5/2019 đến
tháng 6/2021. Thử nghiệm lâm sàng này thực hiện trong điều kiện dịch bệnh
Covid-19 bắt đầu xuất hiện vào cuối năm 2019, kéo dài suốt năm 2020, 2021 và
đến năm 2022 vẫn chưa ổn định. Các cơ sở điều trị, bệnh viện và phòng thí
nghiệm nghiên cứu buộc phải tạm ngưng hoạt động hoặc có lúc hoạt động gián
đoạn, việc giao tiếp xã hội và giao thông đình trệ trong tình trạng dãn cách xã
hội kéo dài dẫn đến việc bệnh nhân không còn hăng hái chấp nhận tham gia
nghiên cứu, chậm trễ hoặc hủy bỏ buổi hẹn/ tái khám, và thậm chí trong giai
đoạn cuối có một số bệnh nhân yêu cầu hoãn nhổ răng điều trị chỉnh nha đến
94
khi hết dịch bệnh nên buộc phải loại khỏi nghiên cứu. Tổng hợp lại, có 8 bệnh
nhân (18 răng) rút khỏi nghiên cứu sau điều trị ban đầu (do thay đổi quyết định
nhổ răng, không sắp xếp được thời gian cho nghiên cứu), 1 bệnh nhân (4 răng)
không tham gia tiếp sau khi đặt CTTT 1 răng do chuyển công tác, 1 bệnh nhân
(2 răng) bỏ hẹn và nhổ răng quá trễ sau điều trị 22 tuần (lúc dịch cao điểm
không tiếp tục điều trị được), 1 bệnh nhân (4 răng) yêu cầu hoãn lại nhổ răng do
là F0 trễ 8 tuần so với lịch hẹn nhổ răng ban đầu và 1 bệnh nhân (2 răng) vỡ
thân răng khi nhổ nên bỏ mẫu. Sau cùng có tổng số là 44 răng hoàn tất quy trình
nghiên cứu và thỏa các tiêu chí nghiên cứu lâm sàng và cận lâm sàng.
So với nghiên cứu gốc về CBCT của Nowicka (2015) so sánh không bắt
cặp 86 , tổng cỡ mẫu hai nghiên cứu là tương đương (mỗi nhóm 11 răng) nhưng
với thiết kế nửa miệng để bắt cặp, thiết lập điều kiện lâm sàng hai bên đối xứng,
nghiên cứu này đã loại bỏ yếu tố gây nhiễu giữa hai nhóm hiệu quả hơn. Nếu
xem xét trên các nghiên cứu nửa miệng khác, nghiên cứu tuy có có số lượng
mẫu ít hơn so với Katge (2017) với cỡ mẫu 29 11 nhưng nhiều hơn so với nghiên
cứu Muruganandhan (2021) với cỡ mẫu 15 108.
4.1.2.2. Thiết kế nghiên cứu
Trong các thử nghiệm lâm sàng nha khoa, bác sĩ lâm sàng có tùy chọn điều
trị ngẫu nhiên trên từng cá nhân (cấp độ miệng) hoặc trên các phân đoạn trong
miệng (cấp độ phân đoạn) trong mỗi cá nhân. Nếu tất cả các phân đoạn hay vị
trí của một cá nhân đều nhận được cùng một cách xử lý hay can thiệp, được gọi
là thiết kế nhóm song song. Ngoài ra, do trong môi trường đối xứng của miệng
có các răng cùng tên và cùng chức năng nên một thiết kế khá đặc biệt giới thiệu
từ năm 1968 bởi Ramfjord gọi là thiết kế nửa miệng/chia miệng (split-mouth
sudy), trong đó miệng được chia thành hai hoặc nhiều phân đoạn thử nghiệm
được chỉ định ngẫu nhiên cho các phương pháp can thiệp khác nhau trong cùng
điều kiện môi trường thực nghiệm như nhau. Nghiên cứu thiết kế thử nghiệm
lâm sàng nửa miệng bắt cặp được xem là mô hình nghiên cứu chặt chẽ và có giá
95
trị nhất đối với các nghiên cứu phương pháp điều trị răng miệng và hạn chế tối
thiểu yếu tố gây nhiễu. Vật liệu nha khoa và mô sống có những tác động qua lại
thông qua các hoạt tính sinh học, do đó, đặc tính sinh học luôn cần được đánh
giá về mặt hiệu quả sinh lý trước, trong và sau khi ứng dụng trên lâm sàng. Các
thử nghiệm lâm sàng với các nhóm so sánh luôn được xem là biện pháp đánh
giá tốt nhất về tính an toàn và hiệu quả các loại can thiệp điều trị trên người
bệnh. Thiết kế nửa miệng có lợi thế là loại bỏ nhiều biến thể giữa các đối tượng
khỏi hiệu quả điều trị ước tính và yêu cầu số lượng cỡ mẫu ít đối tượng hơn và
giá trị độ mạnh nghiên cứu cao hơn thử nghiệm nhóm song song. 109,110.
Mẫu nghiên cứu được chọn lựa theo sàng lọc ban đầu là chọn cùng loại
răng cối nhỏ thứ nhất hoặc thứ hai, nằm ở hai bên trái phải trên cùng cung hàm,
đối xứng ở hai bên với, các phương thức can thiệp và điều kiện nghiên cứu là
cùng thời điểm và hoàn toàn như nhau ở hai bên phần hàm với hai loại tác nhân
che tủy khác nhau (không có giả dược) để loại bỏ tối đa các yếu tố gây nhiễu.
Tuy vậy, mỗi cặp răng cũng có thể có mức độ chen chúc có sự khác biệt nhỏ, vì
vậy chúng tôi đã hướng dẫn bệnh nhân sử dụng bàn chải răng thay đổi tùy theo
hướng mọc của từng răng để loại bỏ mảng bám tốt nhất và yêu cầu bệnh nhân
ăn nhai đều hai bên cho lực nhai cân bằng.
Khi xem xét các thiết kế để đánh giá hiệu quả thành công, báo cáo lâm
sàng về nghiên cứu bắt cặp của Abuelniel (2021) 89 chỉ xét trên ba biểu hiện lâm
sàng là đau, sưng/lỗ dò và lung lay mà không quan tâm đến kết quả các thử
nghiệm sự sống tủy, hay nghiên cứu song song của Peskersoy (2021) sử dụng 3
biểu hiện lâm sàng và 3 biểu hiện X quang. Trong khi đó nghiên cứu này đánh
giá tỷ lệ thành công chi tiết hơn khi ghi nhận hệ thống nhiều tiêu chí lâm sàng,
X quang và mô học bao gôm triệu chứng chủ quan, khách quan và thử nghiệm
tủy lâm sàng, và biểu hiện X quang quanh chóp, CBCT và mô học để có cái
nhìn cụ thể và toàn diện hơn.
96
4.1.2.3. An toàn bức xạ trong nghiên cứu
Vấn đề nhiễm tia xạ luôn là mối quan tâm hàng đầu khi thực hiện các
nghiên cứu có chẩn đoán hình ảnh sử dụng máy phát tia X. Theo Cơ quan năng
lượng nguyên tử quốc tế (International Atomic Energy Agency- IAEA), liều
bức xạ khi chụp X quang nha khoa phim kỹ thuật số thấp hơn nhiều so với loại
phim X quang thông thường, liều tia ước tính của phim quanh chóp khoảng
0,001 – 0,008 mSv/1 lần chụp và liều phim CBCT (trường quan sát nhỏ) 30-50
µSv/1 lần chụp. Tổng số phim chụp cho mỗi răng tham gia nghiên cứu là 3
phim quanh chóp và 3 phim CBCT, vậy tổng lượng tia xạ của mỗi bệnh nhân
tham gia nghiên cứu tối đa là 93-174 µSv /răng (tương đương 0,093-0,174
mSV).
Xét theo tiêu chuẩn ngưỡng an toàn cho phép < 2 mSV/năm, ta thấy trung
bình lượng phim chụp cho phép mỗi năm là 775 - 6.200 phim quanh chóp và
62- 124 phim CBCT. Ngoài ra, báo cáo của Cơ quan Bảo Vệ môi trường Hoa
Kỳ (EPA) cho biết một người Mỹ hằng năm chịu bức xạ nền (bao gồm tất cả
các bức xạ có sẵn trong môi trường sống) là 6,2 mSv/ năm. Vậy tổng lượng tia
trong nghiên cứu này nếu chụp X quang quanh chóp thì lượng bức xạ nhiễm
thấp hơn lượng bức xạ tự nhiên của một ngày, nếu chụp phim CBCT liều nhiễm
nhiều hơn nhưng cũng không đáng kể và thấp hơn nhiều so với mức ngưỡng an
toàn 2 mSV/năm. Tuy vậy, tất cả bệnh nhân khi chụp phim đều được thông báo
về số lần chụp X quang và được yêu cầu sử dụng áo chì che phủ tuyến giáp đến
qua vùng dưới cằm và các lần chụp được xếp lịch cách nhau 2-8 tuần để hạn
chế sự tích lũy tia xạ và tạo thuận lợi cho sự chuyển hóa, thải tia X ra môi
trường ngoài.
4.1.3. Quy trình nghiên cứu
4.1.3.1. Thời gian nghiên cứu
Theo tổng quan của Zanatta (2017), các thiết kế nửa miệng thường sử
dụng đánh giá thời gian ngắn và trung bình khi đánh giá thuốc hoặc phương
97
pháp điều trị; nghiên cứu cũng thực hiện đánh giá thời gian ngắn hạn về phản
ứng ngà tủy với vật liệu MTA/ BD, có sự tương đồng về thời gian với nghiên
cứu nửa miệng có nhổ răng trong 8 tuần của Muruganandhan (2021) 108, tuy
nhiên một số tác giả khác khi không lấy mẫu răng nhổ có thời gian theo dõi lâm
sàng dài đến hơn một năm như Katge (2017) 11, Fouad (2019) 111 Abuelniel
(2021) 89. Nghiên cứu này có điểm mới là thiết kế hai nhóm bắt cặp cho phép so
sánh và đánh giá hai loại vật liệu che tủy trong hai khoảng thời gian khác nhau
9-12 tuần và 13-16 tuần.
Theo tác giả Trần Xuân Vĩnh (2012), thời gian thành lập cầu ngà có thể
thấy được sau 2 tuần trên tiêu bản mô học, tuy nhiên cầu ngà nếu vừa xuất hiện
có thể sẽ chưa phát hiện được trên X quang 28 . Vì thế, chúng tôi chọn mốc thời
gian từ sau 4 tuần để tái đánh giá vì đây là khoảng thời gian đủ cho lành thương
mô liên kết và có thể thấy hình ảnh khoáng hóa cản quang rõ hơn trên phim X
quang. Tương tự, Bakhtiar (2017) 23 cũng chọn thời gian đánh giá sau điều trị
sau 4- 8 tuần trong thời gian đầu khi mới đặt để đánh giá thành công ban đầu.
Tuy nhiên sau dưới tác dụng của vật liệu che tủy, sự thay đổi chỉ số lâm sàng
như đáp ứng sự sống tủy, lung lay, lỗ dò khi thăm khám và xảy ra nhiều nhất,
sau đó vẫn có sự lành thương và tái tạo mô tủy tiếp tục đến 12 tháng nhưng với
mức độ cải thiện lâm sàng rất nhỏ. Vì vậy, hẹn tái đánh giá lâm sàng thường
quy sẽ là sau 1 tháng, 6 tháng và mỗi năm như Parinyaprom (2017) 88,
Awawdeh (2018) 8, Paula (2019) 112 để đánh giá sự sống tiếp diễn của răng và
cũng có một số răng gặp vấn đề tủy sau thời gian theo dõi dài.
4.1.3.2. Quy trình khám lâm sàng điều trị can thiệp
Khám và thực hiện thử nghiệm lâm sàng
Đòi hỏi của việc phát hiện và chẩn đoán sâu răng trong chăm sóc nha
khoa cá thể cần độ chính xác cao, do đó độ nhạy và độ chuyên đều phải ở mức
cao, hạn chế tối đa chẩn đoán sai lầm hoặc thiếu sót để điều trị bệnh càng sớm
càng tốt. Độ nhạy của hệ thống phát hiện sâu răng đo tỉ lệ của các vị trí sâu răng
98
được xác định một cách chính xác. Độ chuyên đo tỉ lệ của các vị trí lành mạnh
được xác định một cách chính xác. Quy trình khám sâu răng tuy khám bằng
quan sát cho độ nhạy và độ chuyên không cao nhưng kết hợp việc sử dụng dụng
cụ thăm khám đầu tròn, xịt hơi đồng thời sử dụng các chỉ số hình ảnh chi tiết
của thang đo ICDAS (phụ lục 4) để cải thiện độ chính xác, cho phép phát hiện
và ghi nhận các dấu hiệu sâu răng sớm, hạn chế tổn thương bề mặt răng.
Quy trình điều trị can thiệp
Do tính chất bệnh cảnh lộ tủy hiếm gặp trên lâm sàng vì đa số trường hợp
phát hiện lộ tủy trễ đã chuyển nặng, đa số nghiên cứu che tủy khó mô phỏng
lâm sàng một cách chính xác nhất. Nghiên cứu lâm sàng này thiết kế theo mô
hình điển hình trong hầu hết thử nghiệm che tủy lâm sàng. Quy trình đặt tuân
thủ việc cách ly bằng đê cao su, đánh bóng pumic và khử trùng, tạo xoang nhẹ
nhàng với các mũi khoan vô trùng, kiểm soát chảy máu bằng dung dịch sát
khuẩn theo phác đồ điều trị CTTT chuẩn như nhau theo Hướng dẫn của Hiệp
hội Nội Nha Châu Âu (2016) 102. Việc tạo xoang trám bộc lộ tủy theo tiêu chuẩn
của thiết kế nghiên cứu được thực hiện dưới sự kiểm soát về nhiệt độ, độ ẩm,
kích thích sinh hóa học và sự xâm nhập vi khuẩn.
Về nhiệt độ, các thủ thuật tạo xoang trám nếu không làm mát có thể làm
tăng nhiệt độ bên trong tủy, giảm lưu lượng máu tủy rất đáng kể. Các mô hình
động vật linh trưởng cho thấy khi tăng nhiệt độ bên trong tủy lên hơn 200C có
thể gây ra bệnh lý tủy không hồi phục. Về độ ẩm, sự khô khi sửa soạn xoang
hay mài cùi răng được xem là nguyên nhân gây hút nhân nguyên bào ngà vào
trong ống ngà và có thể làm viêm tủy. Do đó, cần hạn chế để khô quá lâu răng
quá vài phút khi tạo xoang và kiểm soát độ ẩm cẩn thận. Vì vậy, cần thiết sử
dụng tay khoan siêu tốc kèm nước phun sương để làm mát tay khoan và hoàn
thành việc tạo xoang nhanh chóng để giảm thiểu các kích thích cơ học.
Về tác nhân kích thích hóa học và vi khuẩn, thủ thuật sửa soạn răng quá
mức gây tác động làm mất chất mô răng, cắt đứt các đuôi nguyên bào ngà, làm
99
rung và phân tán vi khuẩn lên bề mặt sửa soạn và ống ngà. Nghiên cứu thực
hiện mô phỏng tạo xoang lộ tủy trong tình huống răng lành không có sâu răng
hoạt động, khi thực hiện quy trình tạo xoang lộ tủy đã thực hiện kiểm soát lây
nhiễm gồm: đặt đê (để loại bỏ nhiễm khuẩn từ nước bọt và các răng lân cận); sử
dụng nguồn nước cất tiệt trùng cho tay khoan (để xoang không bị nhiễm bẩn bởi
vi khuẩn có trong nước phun sương); thay mới mũi khoan đã hấp tiệt trùng và
rửa xoang với dung dịch CHX 2% trước khi tạo điểm lộ tủy; bơm rửa kỹ bằng
dung dịch sát khuẩn NaOCl 1.5% sau lộ tủy (nồng độ thấp để hạn chế sự gây
độc tế bào tủy); sau đó thực hiện sát khuẩn nhanh xoang với NaOCl 3% ngay
trước che tủy theo phác đồ che tủy chuẩn. Tuy nhiên, một nghiên cứu trước đây
cho rằng, lượng vi khuẩn còn sót lại sau khi sửa soạn xoang là không đáng kể 81.
Khi ngà lộ, dịch ngà chảy từ trong ra ngoài cũng giúp hạn chế sự chảy ngược
vào trong của dòng tác nhân gây độc bên ngoài.
Trên thực tế, nếu là lộ tủy do nguyên nhân sâu răng thì vi khuẩn và độc
tính ảnh hưởng đến tủy qua ống ngà ngay cả ở trong giai đoạn sớm, rất lâu trước
khi đến tủy, dù đã được làm sạch hết những phần sâu có thể thấy được nhưng
chắc chẵn vẫn còn nhiễm bẩn do vi khuẩn ở đáy xoang, khó kiểm soát và loại
bỏ hoàn toàn vi khuẩn gây bệnh. Nếu là lộ tủy do chấn thương trên răng lành thì
thường ít hoặc không có sự xâm nhập vi khuẩn qua ống ngà ban đầu, việc này
giúp ích cho kiểm soát nhiễm khuẩn trong và sau điều trị tốt hơn. Nói chung,
các thủ thuật phục hồi được thực hiện chủ yếu để điều trị tình trạng nhiễm trùng
(sâu răng), nhưng chính thủ thuật và những tác động hiệp đồng của nhiều yếu tố
như nhiệt độ, độ ẩm và kích thích có thể gây ra những kích thích đáng kể với
tủy răng. Thông thường, nếu không có những triệu chứng tự phát trầm trọng hay
lộ tủy, thường rất khó xác định tình trạng viêm tủy trước đó của bệnh nhân có
sâu ngà sâu. Vì vậy, cần thiết giảm thiểu tối đa những kích thích có hại cho tủy
khi thực hiện các thủ thuật che tủy để tránh chuyển tình trạng viêm hồi phục
được chuyển thành viêm tủy không hồi phục. Mục tiêu của thủ thuật che tủy
100
trong nghiên cứu là chỉ tạo kích thích tối thiểu lên tủy, không cản trở sự lành
thương bình thường của tủy, đây cũng là chìa khóa cho điều trị thành công. Khi
tạo mô hình đánh giá khả năng duy trì sự sống của tủy qua quá trình bộc lộ cơ
học và che tủy trên răng lành như nghiên cứu, tình trạng tủy viêm hồi phục có
thể được ghi nhận tạm thời trong vài tuần đầu. Vì vậy, việc thực hiện thủ thuật
phải tiến hành trong điều kiện tạo chấn thương tối thiểu để không chuyển chẩn
đoán tạm thời thành viêm tủy không thể hồi phục. Cần đánh giá thận trọng và
nhiều lần vì viêm tủy không hồi phục có thể có triệu chứng đau tự phát rầm rộ
nhưng cũng có thể không có triệu chứng. Vẫn còn rất nhiều yếu tố mà ảnh
hưởng đối với phản ứng của tủy với các hậu quả tích lũy như sâu răng, vi kẽ,
thủ thuật phục hồi, và vật liệu còn chưa được hiểu rõ.
Quy trình đặt vật liệu che tủy
Khi thao tác sử dụng vật liệu che tủy, MTA và BD sẽ khó được đưa đến
vị trí đặt vật liệu ở sâu nếu không sử dụng các dụng cụ đặt chuyên dùng và cần
sử dụng lực thích hợp nhồi nén kỹ với đầu dụng cụ nhồi phẳng. Thành phẩm vật
liệu che tủy là dạng đặc sệt, nhưng BD có độ kết dính các hạt tốt hơn MTA nên
dễ nhồi nén tạo sự kết dính tốt hơn, vì vậy sử dụng MTA cần đặc biệt lưu ý khi
đặt vật liệu vào các thành xoang, tránh hở bờ và tạo bọt 19.
Vì bản chất đông cứng vật liệu đều là phản ứng thân nước, nếu MTA/BD
giữ được độ ẩm và được hydrat hóa hai mặt miếng trám thì lớp che tủy sẽ độ
bền uốn tốt hơn so với hydrat hóa một mặt 113. Ngoài ra, theo y văn thời gian
đông cứng MTA/BD bị ảnh hưởng bất lợi khi mẫu được giữ trong điều kiện
khô. Mặc dù thời gian đông cứng BD ngắn và có thể thực hiện CTTT và trám
trong một lần hẹn nhưng để thống nhất cùng điều kiện nghiên cứu và tuân thủ
hướng dẫn của nhà sản xuất để đảm bảo đông cứng tốt của vật liệu, bác sĩ đặt
một viên gòn ẩm để giữ nước lên mặt trên lớp vật liệu che tủy, sau đó tháo gòn
và trám composite sau một tuần tái khám.
Quy trình trám kết thúc
101
Việc trám tạm thời và chờ trám kết thúc lần hai có thể làm tăng nguy cơ
nhiễm khuẩn hay sút, vỡ miếng trám trong thời gian chờ. Nghiên cứu sử dũngi
măng GIC Fuji Lining LC IX (GC, Nhật) vốn là một vật việu trám vĩnh viễn có
độ cứng cao và độ khít sát tốt theo rất nhiều báo cáo y văn, thực hiện trộn GIC
bằng máy, nhồi nén chặt và chỉnh khớp cắn kỹ để trám tạm thời trong tuần lễ
chờ trám kết thúc, đồng thời dặn dò bệnh nhân ăn nhai nhẹ nhàng và quay lại
ngay khi có nứt vỡ hay sút miếng trám tạm để giải quyết kịp thời.
Thời gian đông cứng dài của MTA đòi hỏi hoàn tất trong hai lần hẹn: đặt
MTA trong lần đầu và trám kết thúc trong lần thứ hai khi MTA đã đông cứng
hoàn toàn. Trong quy trình trám tái tạo, các hóa chất có thể kích thích tủy nếu
được đặt trực tiếp lên vùng tủy lộ hay có vi kẽ cho vi khuẩn giữa giao diện dán.
Các kích thích hóa học mạnh nhất đến từ việc xoi mòn trước khi dán ngà, đặc
biệt là khi che tủy lộ. Xoi mòn được thực hiện để lấy đi lớp mùn, làm tăng
cường hình thành các đuôi nhựa và lớp lai trong thủ thuật dán và trong nha khoa
phục hồi dùng nhựa composite. Yếu tố quan trọng gây kích thích tủy khi dùng
composite để trám răng chính là phần monomer chưa trùng hợp và sự co khi
trùng hợp của loại vật liệu này. Những thành phần này có thể đi vào tủy và gây
ra kích thích hóa học. Sự co khi đông cứng tạo ứng suất trên ngà và tạo nên vi
kẽ. Co khi đông cứng thường vào khoảng 0,6% – 1,4% và giảm thiểu bằng cách
bắt đầu bằng lớp composite lỏng và đặt từng lớp composite đặc để giảm co 114.
4.2. ĐÁNH GIÁ LÂM SÀNG
4.2.1. Đặc điểm lâm sàng chung của răng trước và sau điều trị
4.2.1.1. Mảng bám và viêm nướu
Nghiên cứu ghi nhận dấu hiệu lâm sàng trước điều trị khi khám sàng lọc
thường gặp nhất là mảng bám và viêm nướu. Tỷ lệ 100% ban đầu có mảng bám
mức nhẹ và trung bình, nghiên cứu viên thực hiện hướng dẫn vệ sinh răng
miệng và kết quả sau điều trị 4 tuần có 90,0% và sau 100% chuyển sang mức
mảng bám nhẹ và không mảng bám sau 9-12 tuần ở nhóm MTA1 và BD1 và
102
13-16 tuần ở nhóm MTA2-BD2. Tỷ lệ viêm nướu nhẹ ở cặp nhóm MTA1-BD1
ban đầu cũng từ 72,7%, sau 4-8 tuần giảm còn 54,5%(MTA1) và 27,7%(BD1)
và cặp MTA2-BD2 ban đầu 54,5% sau 13-16 tuần giảm 27,3% (MTA2) và
9,1% (BD2) (bảng 3.6 và 3.7). Các đối tượng tham gia nghiên cứu có ý thức giữ
gìn vệ sinh khá tốt có thể do nguyên nhân phần lớn là nữ giới nên nhu cầu và
mức độ quan tâm chăm sóc răng miệng cao. Mặc dù không nằm trong mục tiêu
của nghiên cứu, thông qua bảng câu hỏi, nghiên cứu cũng đánh giá sự thay đổi
thói quen hành vi vệ sinh răng miệng của bệnh nhân trong suốt thời gian tham
gia nghiên cứu, bệnh nhân đã có những thay đổi tích cực về thói quen, hành vi
chăm sóc răng miệng để phòng tránh sâu răng ở cả hai nhóm nghiên cứu, đây
cũng là một điểm thành công thêm vào hiệu quả của nghiên cứu, mặc dù không
thuộc mục tiêu của nghiên cứu, vì thay đổi thói quen hành vi giúp cải thiện sức
khỏe răng miệng và là một yêu cầu quan trọng của điều trị chỉnh nha sau này.
4.2.1.2. Mức độ sâu răng và độ hoạt động sâu răng
Đa số đối tượng ghi nhận ở mức thấp hoặc không có ban đầu và không có
sâu răng tiến triển trong quá trình điều trị. Những phơi nhiễm tủy do cơ học
(không do sâu răng) thường được xem là yếu tố thuận lợi để tiên lượng khả
năng thành công của điều trị 115 tuy vậy Marque (2015) báo cáo tỷ lệ thành công
chỉ tương đương ở răng lộ tủy do cơ học và do sâu 104. Tác giả này cũng ghi
nhận điều trị che tủy MTA thành công 88,9% ở răng sâu thứ phát, so với 94,7%
thành công điều trị ở răng sâu nguyên phát. Tỷ lệ tương tự ở nghiên cứu khác
của Lipski (2018) ở răng sâu nguyên phát cao hơn và thứ phát lần lượt là 88,6%
và 76,2% (p>0,05) 105 củng cố ý kiến cho rằng hiện tượng sâu răng tái phát sau
điều trị che tủy trong thực tế sẽ làm giảm tỷ lệ thành công theo thời gian (Bảng
4.3). BD cũng cho hiệu quả tương đương MTA trên các răng có sâu ban đầu
(Iyer 2021) 116. Khi vệ sinh răng miệng được kiểm soát tốt, các vật liệu và quy
trình trám đảm bảo khít sát và tình trạng sâu răng thứ phát không tiến triển,
103
chúng tôi nhận thấy sự hạn chế khả năng tái nhiễm vi khuẩn vào xoang trám che
tủy cũng là một yếu tố giúp tăng khả năng thành công của nghiên cứu.
104
4.2.1.3. Sự thay đổi màu răng
Kết quả nghiên cứu không ghi nhận trường hợp nào có đổi màu mức độ
qua bảng so màu và hình ảnh chụp sau điều trị ở các thời điểm 4, 9-12 và 13-16
tuần ở nhóm MTA và BD. Điều này có thể do việc lựa chọn sử dụng MTA
trắng là chất ít làm đổi màu thân răng so với MTA xám theo ghi nhận của y văn.
Tuy vậy, nhiều báo cáo trong các thử nghiệm lâm sàng cho thấy MTA trắng vẫn
có tỷ lệ ghi nhận từ ít 13,6% (Marques 2015) 104 đến trung bình 55%
(Parinyaprom 2017) 88 và nhiều 69,2% (Linu 2017) 106. Trong tổng quan của
Mozyńska (2017) 117 qua 390 tài liệu cũng cho thấy rõ rằng xi măng AMTA có
khả năng nhuộm màu mô cứng. Biodentine hầu như không gây đổi màu trên
lâm sàng hoặc chỉ cho thấy một sự thay đổi nhỏ về màu sắc mà mắt người gần
như không thể nhìn thấy được. Trong các NC mới đây của Al-Hiyasat (2021) 118
và Nagas (2021) 119 không khuyến khích sử dụng MTA cho răng vùng thẩm mỹ
ở người trẻ vì sự đổi màu nghiêm trọng (p> 0,05) hơn của hai vật liệu này bắt
đầu từ tháng thứ ba đến sau hai năm, trong khi đó BD lại cho thấy sự ổn định
màu sắc hơn sau 6 tháng (Palma 2019) 39, 48 tháng (Marten 2015) 21 và ít biến
màu hơn đáng kể so với PMTA (Marconyak 2016) 41.
Nguyên nhân đổi màu răng được cho là do sự hiện diện của bismut
oxid, bị tách thành bismut kim loại màu tối và oxy với sự hiện diện của ánh
sáng làm màu răng chuyển tối hơn. Sự oxy hóa bismut oxit quá mức với sự hiện
diện của natri hypochlorite dùng để cầm máu do lộ tủy cũng có thể dẫn đến sự
đổi màu. Có ý kiến cho rằng phục hồi dán và trùng hợp bằng đèn thúc đẩy môi
trường không có oxy và có thể gây đổi màu, vì vậy sử dụng MTA trong vùng
răng trước nên thận trọng và vì nhìn giống như biểu hiện sâu răng thứ phát.
Ngoài ra, hiệu ứng đổi màu có thể bị cộng gộp bởi sự hiện diện của máu
tiếp xúc với MTA trong khi đặt vật liệu sau 6 tháng (Palma 2019 39 đến 2 năm
Krug (2022) 120. Trong tình huống vật liệu nhiễm máu, sự đổi màu được quan
sát thấy ở cả hai nhưng BD ít đổi màu hơn MTA (Pednekar 2021) 121. Vì vậy
105
trong toàn bộ quy trình che tủy, việc cầm máu tốt, kiểm soát chảy máu cũng như
bơm rửa xoang, đặt vật liệu đủ độ sâu quy định luôn được tuân thủ nghiêm ngặt
và đảm bảo tất cả các mẫu trong nghiên cứu không bị ảnh hưởng màu sắc thân
răng.
4.2.1.4. Đặc điểm tình trạng tủy trước và sau điều trị
Đáp ứng với các thử nghiệm tủy
Các kiểm tra độ nhạy của tủy (thử nhiệt và điện) được sử dụng để gián
tiếp xác định trạng thái sức khỏe tủy bằng cách đánh giá tình trạng của thần
kinh tủy răng, cho thấy 100% trường hợp ở nhóm MTA và BD không cho thấy
biểu hiện bệnh lý nha chu, bệnh lý tủy hay vùng quanh chóp sau điều trị ở các
thời điểm 4,6,8 và 13-16 tuần. Kết quả này tương đồng với hai nhóm đặt MTA
và BD đều cho đáp ứng thử nghiệm dương tính sau 6 tuần (Nowicka 2013) 85,
12 tháng (Brizuela 2017) 1 và 24 tháng (Farsi 2006) 84.
Phản ứng dương tính giả trong thử nghiệm lạnh cũng có thể do các mắc
cài kim loại ở các vùng lân cận dẫn truyền nhiệt độ hoặc các răng có tiền sử
chấn thương. Răng trong trường hợp này sẽ bị giảm kích thước buồng tủy sinh
lý sau chấn thương, phản ứng hay thay thế. Cũng tồn tại các trường hợp có dấu
hiệu bệnh lý nhưng vẫn dương tính trong thử điện vì khi ấy tủy vẫn còn khả
năng nhận cảm. Những lý do này dẫn đến cảm giác của tủy không rõ khi có sự
thay đổi nhiệt độ và do đó có khả năng kết quả thử nghiệm không chính xác 122.
Parinyaprom (2017) với 1/28 ca đặt Biodentine thất bại đáp ứng âm tính
với thử tủy lạnh trên răng có lỗ chóp mở 88 cho rằng âm tính giả với thử nghiệm
lạnh có thể xảy ra do phục hồi quá lớn hoặc sự hình thành thần kinh không hoàn
chỉnh trong răng có chóp mở 123. Ngoài ra, Biodentine có thể hoạt động như một
chất cách điện ngăn chặn sự kích thích từ xét nghiệm gây âm tính giả. Tuy
nhiên, kết quả âm tính cũng có thể là kết quả của sự phát triển của hoại tử tủy
chưa được thể hiện trên lâm sàng hoặc X quang. Trong những trường hợp như
vậy, theo dõi lâu dài có thể xác định kết quả thực sự của răng điều trị. Trong
106
báo cáo của Miles (2010) sau điều trị CTTT với MTA chỉ thấy với thử nghiệm
lạnh và với thử nghiệm gõ có lần lượt 23% và 3% đáp ứng dương tính. Tuy vậy
tác giả vẫn ghi nhận các răng này vẫn còn sống với các dấu chứng lâm sàng
bình thường khác và phim X quang cũng không có biểu hiện bất thường vùng
quanh chóp 82.
Thất bại điều trị được đề cập trong một số nghiên cứu xảy ra trong những
tuần đầu tiên sau khi điều trị, chủ yếu là do sự suy yếu trước đó của trạng thái
tủy 106. Điều này rất khó chẩn đoán thông qua các thử nghiệm sự sống tủy vì các
xét nghiệm này không đánh giá được chính xác sức sống tủy, mà chỉ đo độ nhạy
tủy thông qua cảm nhận chủ quan về đau của bệnh nhân.
Trong nghiên cứu có 35,2% số ca thử điện sau khi vừa đặt CTTT với chỉ
số ghi nhận ở mức chỉ số kém đáp ứng tủy (mức 8-9). Tuy nhiên, giá trị này có
thay đổi và chuyển sang dương tính mạnh hơn sau những lần tái khám sau vài
tuần. Điều này có thể giải thích là là biểu hiện của phản ứng sửa chữa trong tủy
khi có sự hình thành cầu ngà trên thử nghiệm mô học sau 2-4 tuần 97. Theo
nhiều tác giả, thử nghiệm điện được cho là đáng tin cậy hơn trong việc phát
hiện răng khỏe mạnh hơn là mô tủy răng bị bệnh. Tuy nhiên điều ngược lại đã
được báo cáo bởi Karayilmaz & Kirzioglu (2011) 122. Ngoài ra, để có được chẩn
đoán chính xác về tình trạng tủy răng hơn, có tác giả đề xuất nên tăng cường
bằng thử nghiệm kiểm tra sức sống của tủy răng bằng cách đo độ bão hòa oxy
và đo laser Doppler là các công nghệ chẩn đoán tập trung vào việc cung cấp
tuần hoàn máu 122.
Tình trạng chảy máu tủy răng
Trong nghiên cứu điểm lộ tủy đường kính khoảng 1-1,5mm được bộc lộ
khi tạo xoang mô phỏng và được kiểm soát cầm máu hoàn toàn trước khi đặt vật
liệu che tủy. Thời gian kiểm soát được chảy máu tương ứng với kích thước
điểm lộ tủy trong các nghiên cứu dao động trong khoảng 3-5 phút đối với kích
thước lộ 0,5-1,5mm 124 và 10 phút đối với kích thước lộ dưới 2mm 1,88. Các quy
107
trình che tủy truyền thống thường chỉ sử dụng nước muối 0,9% cầm máu,
nhưng hiệu quả kháng khuẩn kém hơn so với dung dịch chlorhexidine và natri
hypoclorit. Theo các quy trình che tủy mới, người ta khuyến nghị kết hợp
chlorhexidine 2% trong khoảng 3 phút để đạt được hiệu quả tối đa với độc tính
tế bào tối thiểu 125.
Một số tác giả cho rằng mức độ xuất huyết sau khi lộ tủy là một chỉ số tốt
để đo lường tình trạng viêm của mô tủy. Nghiên cứu này lựa chọn mẫu là các
tình huống răng khỏe mạnh không viêm ban đầu, vì vậy khi bộc lộ tủy, ghi nhận
dòng máu chảy đỏ tươi và việc cầm máu thực hiện tương đối thuận lợi và nhanh
chóng. Thực tế cho thấy có tương quan giữa chẩn đoán lâm sàng và mô học đã
được báo cáo trong nghiên cứu của Ricucci (2014) 126, hình ảnh mô tủy và thời
gian chảy máu được sử dụng như là yếu tố tiên lượng cho tình trạng tủy. Các
chỉ báo này là thực tế lâm sàng nhưng khá chủ quan và không thể phản ánh mô
học tủy chính xác. Sự cần thiết phải xét nghiệm phân tử chính xác để chẩn đoán
tình trạng tủy là cần thiết để tránh điều trị xâm lấn quá mức. Thất bại điều trị
khi che tủy bởi BD có chảy máu kéo dài, có thể do đánh giá và chẩn đoán lâm
sàng không chính xác và loại bỏ không hoàn toàn các mô tủy viêm. Cũng có tác
giả e ngại việc đặt BD có thể gây kích thích chảy máu thêm ngay cả sau khi
chảy máu ban đầu đã được kiểm soát vì BD nhớt và nặng hơn MTA 17. Tuy vậy,
nghiên cứu của Bortoluzzi (2015) lại chứng minh Biodentine là vật liệu bảo vệ
cục máu đông tốt đông cho quá trình tái sinh mạch máu tủy và có đáp ứng tủy
tốt 7. Đáng chú ý là trong 80% trường hợp thất bại, chảy máu ban đầu cao và
không kiểm soát được. Trong báo cáo của Awadeh 2018, 7 bệnh nhân (1 trong
nhóm BD và 6 trong nhóm MTA) đã báo cáo đau dữ dội khi làm thử nghiệm
lạnh sau ngày thứ hai điều trị đã không báo cáo bất kỳ tiền sử đau tự phát và
được điều trị bằng lấy tủy toàn bộ vì chảy máu khó kiểm soát 8. Nguyên nhân là
do giải phẫu của hệ thống tuần hoàn tủy, vùng viêm chỉ khu trú dưới vùng bị
phơi nhiễm mà không lan đến các mô sâu hơn. Do đó, thành công tăng lên khi
108
mô tủy không bị viêm hoặc ít viêm được che tủy. Sự xuất hiện của chảy máu dữ
dội, khó kiểm soát, là gợi ý của tủy với giai đoạn viêm từ trung bình đến nặng
(vùng viêm đã lan rộng) và do đó, không nên chỉ định CTTT mà cần lấy tủy
buồng hoặc toàn phần nếu triệu chứng chảy máu không cầm được trong vòng
hơn 10-15 phút.
4.2.2. Đau và nhạy cảm sau điều trị
Cảm giác đau và nhạy cảm trong nghiên cứu được ghi nhận qua hai hình
thức thử nghiệm gõ và qua bảng câu hỏi thu thập cảm giác của bệnh nhân.
Thử nghiệm gõ
Nghiên cứu ghi nhận 4/22 trường hợp đau với thử nghiệm gõ sau 1 ngày
ở các nhóm MTA và BD và giảm còn 1/22 ở nhóm MTA và 2/22 ở nhóm BD.
Có sự giảm dần trong phản ứng tủy từ tuần 1,4 đến tuần 12,16. Khi gõ, vài bệnh
nhân nhóm BD1 và BD2 mô tả cảm giác lạ nhưng không hẳn là đau cũng được
ghi nhận và theo dõi, những cảm giác khó chịu này biến mất sau 9-12 tuần.
Điều tương tự cũng được Paula (2019) 112 báo cáo 9,5% gõ dọc đau, sau 1-3
tháng thì bình thường trở lại, đến 6 tháng thì có 1 răng đau khi gõ dọc ở nhóm
BD. Như đã đề cập, thử nghiệm gõ giúp phần nào phân biệt được răng lành
mạnh và răng bị viêm dây chằng và vùng quanh chóp nếu có. Khi nhiễm trùng
trong ống tủy lan đến chóp chân răng, các triệu chứng viêm quanh chóp sẽ diễn
ra. Điều này dẫn đến tăng áp lực lên mô quanh chóp và kích thích đầu tận thần
kinh dẫn đến đau. Khi răng bị nhiễm trùng và có hiện tượng viêm dây chằng
nha chu, cơn đau sẽ trở nên rõ ràng với bệnh nhân. Do đó, răng bị ảnh hưởng sẽ
dễ nhận biết bằng thử nghiệm gõ hơn là giai đoạn đầu mới có triệu chứng tủy.
Trên thực tế lâm sàng, qua các giai đoạn sau điều trị khác nhau, thời gian
và cường độ phản ứng với xét nghiệm tủy tăng cho phép nghĩ đến sự lành
thương ở mô quanh răng nơi có thể đã từng xuất hiện hiện tượng viêm ban đầu.
Nghiên cứu chúng tôi chọn lựa đối tượng có tủy đáp ứng 100% lành mạnh nên
sau điều tri, kết quả khi gõ có thể khác biệt khi so sánh với các nghiên cứu răng
109
có nguyên nhân phơi nhiễm sâu răng ban đầu (Abuelniel 2021) 89 hoặc có viêm
tủy ban đầu (Awawdeh 2018) 8, cũng cho thấy kết quả thử tủy 95% vẫn còn
dương tính sau 17 tháng- 3 năm. Các thử nghiệm gõ ban đầu cho kết quả dương
tính trong một số trường hợp, nhưng không thường xuyên và không tái phát
trong các lần tái đánh giá sau. Tuy nhiên, y văn vẫn đưa ra các khuyến nghị
rằng sự thành công của CTTT phụ thuộc vào sự lựa chọn khắt khe các trường
hợp và sử dụng thích hợp của phác đồ điều trị. Thời điểm trước điều trị, không
có răng nào của hai nhóm đáp ứng đau khi gõ dọc thể hiện vùng dây chằng nha
chu bình thường. Sau điều trị, mặc dù nhiễm trùng được loại bỏ do hiệu quả diệt
khuẩn và tạo hàng rào bảo vệ tốt của vật liệu che tủy nhưng hiệu quả có thể
không phải là hoàn toàn. Vì vậy tuy khả năng lành thương có thể khởi phát do
dự giảm viêm nhiễm và hoạt tính sinh học của vật liệu nhưng mức độ đáp ứng
có thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: đặc tính vật liệu, khả năng miễn dịch,
lực cơ học tác động hay kích thích...
Cường độ và thời gian đau
Theo Farrar (2001), sự thay đổi 20% giữa hai thời điểm đánh giá trên
thang VAS tức là 2 điểm trên thang 0 – 10 được coi là có ý nghĩa lâm sàng 127.
Đây là cơ sở để đánh giá các thử nghiệm lâm sàng mới có hiệu quả giảm đau
thực sự hay không so với phương pháp thông thường.
Cường độ đau hay nhạy cảm của bệnh nhân được thể hiện trong bảng 3.7
ở các thời điểm sau đặt vật liệu 1 ngày, 1 tuần và 1 tháng. Thời điểm 24 giờ là
khoảng thời gian đầu sau điều trị, mức độ đau còn tương đối cao; nhìn chung có
50% nhóm MTA và 36,4% nhóm BD là đau nhẹ và vừa. Có hai trường hợp đau
nhiều nhóm BD sau 1 ngày. Hiện tượng đau giảm dần sau vài ngày và trở lại
bình thường sau 1 tháng ở tất cả các đối tượng nghiên cứu. Sự khác biệt về
cường độ đau giữa hai nhóm nghiên cứu không có ý nghĩa thống kê (p>0,5).
Đồng thời, Bokhari (2016) 128 cho biết về các cơn đau mức độ trung bình trong
ngày đầu sau CTTT với MTA và BD ở 100 răng (nhóm tuổi 15-34 và 35-50).
110
Trên cả hai nhóm nghiên cứu, sự thay đổi về mức độ đau giữa hai thời
điểm 1 ngày và 1 tuần không có sự khác biệt (p>0,5) , tuy nhiên có sự khác biệt
ý nghĩa về cảm giác đau giữa thời điểm 1 tháng sau điều trị (p<0,005) ở nhóm
MTA. Theo Miles (2010), có 26% bị đau sau điều trị CTTT với MTA ở mức
trung bình và nhẹ, và thời gian đau kéo dài hơn 6 tuần chiếm 16% 82. Tỷ lệ
trường hợp đau khá cao tương tự (65,6%) cũng được ghi nhận với lấy tủy buồng
MTA (Shafie 2017) 129. Trong số ít nghiên cứu in vivo có quan sát mô học trên
răng người, Iwamoto (2006) ở 43 răng khôn đặt che tủy trước nhổ 136 ngày,
20/22 răng đặt MTA có hình thành cầu ngà trên tiêu bản mô học và không có
biểu hiện đau hay nhạy cảm đáng kể sau 7-30 ngày 94.
Sự thay đổi về mức độ đau giữa ba thời điểm ghi nhận trong nghiên cứu
là 1 ngày, 1 tuần và 1 tháng giúp hình dung được mức độ giảm đau là nhiều hay
ít trong thời gian sau khi đặt vật liệu. Ở bệnh nhân có biểu hiện đau trong 1
ngày và kéo dài trong tháng đầu tiên có thể được giải thích là khi hàm lượng tế
bào viêm tăng lên, phản ứng viêm nhanh chóng xảy ra trong một không gian tủy
răng tương đối lớn ở người trẻ với tuần hoàn dồi dào và hiện tượng đau có thể
đến nhanh và khá rõ. Tuy nhiên, các cơn đau được kiểm soát tốt với thuốc giảm
đau và giảm dần sau 1 tuần-1 tháng.
Tác nhân, kiểu đau và tần suất đau
Trong nghiên cứu, khi hỏi về tác nhân đau, bệnh nhân nói rằng có nhạy
cảm khi ăn hoặc uống thực phẩm nóng hay lạnh ở cả hai nhóm MTA (8/22 ca)
và BD (10/22 ca). Riêng nhóm MTA1 có 2 bệnh nhân mô tả cơn đau tự phát
ngắn và thoảng qua. Trong nghiên cứu, 100% ca chỉ cảm thấy cơn nhạy cảm
hay đau thoáng qua ngắn dưới 10 giây, sự xuất hiện của đau không thường
xuyên, có khi 1 lần/ ngày hoặc vài lần/ tuần. Hiện tượng đau thoáng qua này
cũng được nhận thấy tương tự ở đa số bệnh nhân trong thử nghiệm lâm sàng của
Nowicka (2013) 85 với 7/28 ca (3 ca MTA và 4 ca Biodentine). Kiểu đau được
mô tả ở nhóm MTA là đau âm ỉ, hoặc đau ê buốt, còn nhóm BD thì bệnh nhân
111
cho rằng đau ê buốt nhiều hơn và không gây khó chịu cho bệnh nhân. Những
đặc điểm đau tự phát hoặc kéo dài liên tục có thể có liên quan đến hiện tượng
viêm tủy không hồi phục tiếp diễn. Trong báo cáo Parinyaprom 2017, 2/27 ca
thất bại có đau tủy trong nhóm MTA, có liên quan sự hiện diện vi khuẩn và đề
kháng miễn dịch của ký chủ vì che tủy không thể loại bỏ vi khuẩn hoàn toàn
khỏi mô tủy 88. Với theo dõi lâm sàng khi che tủy các răng cối sâu lớn không
triệu chứng của Hegde (2017), 3/24 răng (1 MTA và 3 BD) cảm thấy đau liên
tục tự phát sau điều trị 3 tuần và đã được quyết định điều trị nội nha để giảm
đau 90. Điều này có thể do bệnh nhân có thể bị viêm tủy nghiêm trọng mà không
có tiền sử đau kéo dài hoặc tự phát; do đó, tiền sử đau không thể chỉ ra mức độ
mở rộng viêm tủy. 6. Gần đây, sự chú ý về khả năng lành thương của bằng
chứng mô học tủy răng đã cho thấy nhu cầu cấp thiết cho việc sửa đổi thuật ngữ
về các bệnh viêm tủy, liệu chẩn đoán bệnh tủy là viêm không hồi phục là thực
sự thích hợp hay không. Nhiều tác giả đề xuất một số chẩn đoán cần xem xét để
đạt được sự đồng thuận trong lĩnh vực chẩn đoán và điều trị này 130. Ngược lại,
nghiên cứu bắt cặp của Abuelniel (2021) bảng câu hỏi đau lại có kết quả rất khả
quan khi không ghi nhận trường hợp đau nào sau thời gian 6 tháng theo dõi che
tủy và lấy tủy buồng với MTA và BD, và chỉ có một vài ca đau sau 18 tháng.
Giai đoạn đầu sau điều trị là khoảng thời gian khó chịu nhất với bệnh
nhân vì cơ thể sinh ra một loạt các đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu gây ra
cơn đau. Do đó, việc lựa chọn vật liệu có khả năng bịt kín tủy lộ và ngăn ngừa
sự xâm nhập vi khuẩn được coi là yếu tố quan trọng nhất trong tránh và giảm
thiểu viêm tủy. Trong nghiên cứu, có một bệnh nhân nhóm BD1 có sử dụng
thuốc giảm đau sau đặt vật liệu 1 tuần. Việc giảm mức độ đau nhiều trong giai
đoạn đầu có ý nghĩa lớn. Điều này giúp các bệnh nhân không cần sử dụng thêm
thuốc giảm đau để cảm thấy dễ chịu. Khi xem xét thêm các nghiên cứu khác,
khi bệnh nhân có cơn đau do viêm tủy trước điều trị, việc sử dụng vật liệu sinh
học che tủy cho thấy sự giảm đau rõ rệt sau điều trị 8.
112
Tuy nhiên, trên lâm sàng, đau sau điều trị còn bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu
tố, ví dụ kích thích hóa học hoặc do chấn thương cơ học khi sửa soạn xoang.
Nếu các quy tắc vô trùng không được tuân thủ trong quá trình điều trị, vệ sinh
miệng bệnh nhân không đủ, làm việc mà không có hệ thống cô lập đê cao su,
không làm sạch mô sâu hoặc trám tạm không kín, nhiễm trùng thứ cấp trong
ống tủy có thể là nguyên nhân gây đau sau điều trị. Giữa các lần hẹn, các vi sinh
vật cũng có thể xâm nhập vào tủy thông qua miếng trám tạm không kín hoặc
trong trường hợp sút miếng trám. Sau khi điều trị, nhiễm trùng có thể xâm nhập
thông qua miếng trám tạm mà để quá lâu hơn hai tuần hoặc thông qua phục hồi
vĩnh viễn không kín 80. Việc làm lộ tủy trong các tình huống sửa soạn xoang
trám mô phỏng cũng là một hình thức tạo chấn thương cơ học, vì vậy có thể gây
đau trong quá trình đặt vật liệu. Tuy y văn đánh giá việc sửa soạn cơ – hóa học
để làm sạch vi khuẩn ở các xoang sâu là một yếu tố quan trọng góp phần thành
công của các điều trị nhưng trong những thủ thuật đó, việc sửa soạn quá mức
không kiểm soát tốt mũi khoan hay dụng cụ làm sạch có thể khiến đầu dụng cụ
phá hủy lớp mô bảo vệ bên ngoài tủy và gây đau do chấn thương mô ngà tủy.
Các chất bơm rửa hay sát khuẩn tuy có tác dụng loại bỏ vi khuẩn nhưng chúng
cũng có thể gây đau do kích thích. Vật liệu che tủy và các chất có trong thành
phần của chúng được sử dụng trong điều trị CTTT có thể tạo ra những phản ứng
hóa học, phóng thích các sản phẩm hóa học, do đó chúng tạo kích ứng hóa học
trên hệ thần kinh gây đau và nhạy cảm ngà sau can thiệp điều trị.
Cảm nhận về cơn đau của bệnh nhân mang tính chủ quan, dựa trên trải
nghiệm cá nhân từng người; ngưỡng chịu đau cũng khác nhau giữa cá thể và bị
ảnh hưởng bởi các yếu tố tâm sinh lý; vì vậy đánh giá đau sau điều trị là một
vấn đề khó khăn và phức tạp. Ở nghiên cứu này, MTA và BD không có sự khác
biệt có ý nghĩa về cảm giác đau hay nhạy cảm sau điều trị CTTT, cho thấy đây
là những vật liệu an toàn và hiệu quả lâm sàng tốt. Những kết quả nghiên cứu
113
góp phần cung cấp thêm minh chứng về tác động trên hệ thần kinh của vật liệu
sinh học calci silicat dùng cho phương pháp bảo tồn tủy.
4.3. ĐÁNH GIÁ X QUANG (PHIM QUANH CHÓP VÀ CBCT)
Việc khám và đánh giá vẫn dựa hầu hết trên những đánh giá lâm sàng
kinh điển như: dấu chứng sưng viêm, lỗ dò khi thăm khám, đau với các thử
nghiệm sự sống hay dấu hiệu cản quang của cầu ngà trên phim quanh chóp. Lợi
điểm của những chẩn đoán kinh điển là đơn giản, chi phí thấp và không xâm
lấn, ít nhiễm xạ. Tuy vậy, dựa vào kết quả đáp ứng đau với các thử nghiệm sự
sống không có độ chính xác cao, độ nhạy và độ đặc hiệu của chúng không cao.
Trong nghiên cứu này, để bổ sung dữ liệu cho chẩn đoán và quản lý chặt chẽ
tình trạng bệnh trong giai đoạn điều trị tái đánh giá, chúng tôi sử dụng cả hai
phương tiện chẩn đoán hình ảnh X quanh chóp thường quy lẫn phim X quang
3D để đánh giá các biểu hiện ở ngà chân răng, mô nha chu quanh chóp và tình
trạng xương.
Phim X quang quanh chóp cung cấp hình ảnh hai chiều trong khi giải
phẫu hình thái ống tủy vô cùng phức tạp và nhiều biến thể, vị trí đặt bảng nhận
tia khó kiểm soát hoàn toàn nên việc chuẩn hóa yếu tố này trong các nghiên cứu
lâm sàng chỉ sử dụng phim quanh chóp là vẫn chưa tối ưu. Do đó, sử dụng thêm
hình ảnh phim CBCT là cần thiết để giảm thiểu các biến số gây nhiễu đến mức
thấp nhất có thể khi đánh giá các giá trị đo về kích thước, mật độ. Phương tiện
nghiên cứu sử dụng là máy CBCT với kích cỡ voxel là 0,075 mm (một trong
những kích cỡ voxel nhỏ nhất ở các nghiên cứu khoa học về nội nha dùng
CBCT trên thế giới), ưu việt hơn so kích cỡ 0,133 mm ở nghiên cứu Nowicka
(2015), nhưng so với chuẩn vàng là micro-CT (0,005-0,050 mm), độ phân giải ở
phương tiện nghiên cứu vẫn có mặt hạn chế. Nghiên cứu này chọn X quang cắt
lớp CBCT để thu được dữ liệu định tính và định lượng có độ chính xác cao. Khi
đo đạc, chúng tôi thu thập cả dữ liệu răng trước nhổ (thời điểm T2) và ngay sau
nhổ (thời điểm T3). Tuy vậy, hình ảnh CBCT trước nhổ khó quan sát và đo đạc
114
hơn vì độ tương phản hình ảnh không cao và hiện tượng chập cấu trúc mô mềm
và xương xung quanh. Điều này dẫn đến việc xác định và đo đạc gặp không ít
khó khăn, mất nhiều thời gian khi quan sát, số liệu lấy được có thể bị nhiễu do
sai lệch hình ảnh. Trong khi đó, răng sau nhổ được chụp CBCT trên mẫu hàm
nhựa chuẩn hóa vị trí ở thời điểm cách T2 không quá 2 ngày, hạn chế tối đa sự
chồng ảnh, vì vậy khi bàn luận nghiên cứu viên sử dụng các số liệu của răng sau
nhổ để đánh giá sự hình thành cầu ngà khi CTTT.
4.3.1. Phương pháp đo đạc và các điểm mốc tham chiếu trên phim X quang
Khi đo đạc trên phim quanh chóp, điều cần quan tâm là sự biến dạng và
thay đổi vị trí cũng như chiều hướng của răng khi chụp có thể dẫn đến kết quả
không đáng tin cậy. Ngoài các bộ định vị chuẩn hóa giữa các lần chụp trước và
sau điều trị với khóa cắn cá nhân, người đo cũng thực hiện thao tác hiệu chuẩn
thang đo từ pixel sang milimet với định chuẩn chiều ngang ảnh 1696 pixel
tương đương chiều ngang sensor (34mm). Điều này có ý nghĩa chuẩn hóa thang
đo theo đơn vị pixel là 49,8824 pixel /milimet.
Khi nghiên cứu về X quang CBCT, vì sự cần thiết đo đạc trên cùng một
vị trí mặt phẳng trước và sau can thiệp, để đảm bảo các lát cắt cùng 1 vị trí,
chuẩn hóa điểm mốc để chồng phim đo đạc là giao điểm men-xê măng G-X ở
vùng cổ răng giải phẫu (điểm này dễ xác định và không thay đổi giữa các hình
chụp trước và sau điều trị). Điều tra viên định vị mặt phẳng tham chiếu trực tiếp
bằng phần mềm đọc và đo đạc ảnh CBCT là mặt phẳng đi ngang vuông góc với
trục dài của răng, đi qua đường nối men-xê măng G-X (vị trí A). Với voxel kích
cỡ nhỏ 0,075 mm, khoảng cách giữa các lát cắt và độ dày lát cắt được cài đặt
trên phần mềm cũng bằng kích cỡ voxel là 0,075 mm, các vị trị đo khác lần lượt
lấy cách đó 7 lát cắt về phía thân (vị trí B) hoặc phía chóp (vị trí C), tương
đương 0,525mm. Sai số có thể xảy ra của khoảng cách giữa mặt phẳng ghi nhận
được và mặt phẳng tham chiếu cần đo đạc sẽ nằm trong khoảng từ 0 đến 0,075
mm.
115
Đánh giá mô khoáng hóa răng là rất quan trọng để hiểu các quá trình sửa
chữa và bệnh lý xảy ra trong tủy. Mặc dù chẩn đoán CBCT được sử dụng trong
nghiên cứu có độ nhạy thấp hơn so với kính hiển vi ánh sáng, nhưng nó vẫn có
thể cung cấp thông tin về khoáng hóa mô ngà thứ ba. Trên hình ảnh CBCT,
người đọc phim có thể quan sát các khu vực có mức độ khoáng hóa khác nhau
và các biểu đồ để tạo điều kiện phân tích dữ liệu và xác định sự phân bố các
tông màu xám trong hình ảnh, giúp đánh giá tính đồng nhất của cấu trúc và
khoáng hóa của cầu ngà. Đây là một ưu điểm của chẩn đoán hình ảnh bằng tia X
so với các quan sát mô học vì điều này là không thể thực hiện khi răng đã bị
khử khoáng hoàn toàn trước khi nhuộm màu trên lam mô học.
4.3.2. Thay đổi độ dày ngà
Trên phim quanh chóp, tỷ lệ tăng kích thước ở 1 vị trí trở lên trong các vị
trí đo đạc được nhận thấy ở đa số mẫu ở nhóm MTA và BD khi quan sát trên
phim quanh chóp (72,7-90,9%) và phim CBCT ở phim CBCT (63,6-90,0%). Sự
thay đổi này không có khác biệt ý nghĩa giữa hai nhóm, sau hai khoảng thời
gian khác nhau 9-12 tuần và 13-16 tuần và cũng không cho thấy khác biệt rõ so
với giá trị thành ngà ban đầu. Chưa thực sự có nhiều minh chứng cho sự bù đắp
lớp ngà phản ứng trên thành thân chân răng khi có kích thích trên phim quanh
chóp và CBCT. Rất ít tài liệu X quang quan tâm đến sự thay đổi của thành ngà
cũng như không tìm được biều hiện bù đắp ngà ngoại vi sau CTTT. Lý do có
thể do việc đo đạc giá trị độ dày thành ngà sau các thời điểm tái khám khó phát
hiện sự thay đổi độ dày rất nhỏ (nếu có), hầu như không có ý nghĩa trong thống
kê. Đa số tác giả thường sử dụng hình ảnh trường hợp có cầu ngà là minh chứng
cho sự hiện diện lớp ngà thứ ba. Kết luận tương tự cũng được một số tác giả
khác ghi nhận khi không phát hiện sự thay đổi đáng kể độ dày thành ngà chân
răng sau điều trị che tủy 86,108.
Từ góc độ sửa chữa, vai trò tế bào của nguyên bào ngà là rất quan trọng:
hình thành nên ngà răng trong suốt quá trình phát triển răng, hình thành ngà
116
răng thứ cấp trong suốt vòng đời của răng và kéo dài sự lắng đọng của ngà răng
thứ ba để ngăn chặn kích thích. Tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của kích
thích, sự lắng đọng ngà thứ ba có thể là ngà phản ứng hoặc ngà sửa chữa. Ngà
phản ứng tạo bởi sự điều chỉnh của nguyên bào ngà tiếp xúc với ảnh hưởng của
các kích thích nhẹ tương đối, trong khi ngà sửa chữa được hình thành sau các
kích thích mạnh dẫn đến cái chết của nguyên bào ngà. Mặc dù sự tạo ngà phản
ứng và ngà sửa chữa là hai đáp ứng riêng biệt, nhưng trong trường hợp có lộ
tủy, ngà sửa chữa sẽ tạo thành cầu ngà khoáng hóa, và đồng thời khi đó ở ngoại
vi của xoang sự hình thành ngà phản ứng cũng sẽ xảy ra liên tục.
Trong sự tiến triển nhiễm trùng của tổn thương, các chất chuyển hóa của
vi khuẩn như acid được cho là khởi đầu của phản ứng tủy, tuy nhiên khả năng
đệm của chất lỏng ngà răng có thể làm giảm độ pH, kích thích hồi phục tổn
thương. Sự kết hợp của việc tăng lắng đọng ngà và lắng đọng trực tiếp của các
tinh thể khoáng vào các ống ngà bị thu hẹp để làm giảm tính thấm của ngà răng
là biện pháp bảo vệ đầu tiên đối với sâu răng và được gọi là xơ hóa ngà. Điều
này do sự kết hợp của tăng lắng đọng ngà và tắc ống do các tinh thể kết tủa.
Điều này dẫn đến việc giảm hiệu quả thẩm thấu ngà răng xảy ra trong một
khoảng thời gian tương đối ngắn 131. Tính thấm của ngà răng bị chi phối bởi các
yếu tố khác như tuổi và tình trạng sâu răng.
Tác động gây hư hại tủy của vật liệu không chỉ do chính vật liệu mà còn
do tác động hiệp đồng của nhiều yếu tố khác như vi khuẩn, quá trình bệnh tật
(sâu răng), quá trình làm sạch xoang và chủ yếu phụ thuộc vào tính thấm của
ngà răng. Nếu không có vi khuẩn, các ảnh hưởng này thường chỉ trong ngắn
hạn. Các đáp ứng tủy tùy mức độ sâu răng và độ dày ngà còn lại thể hiện trong
sơ đồ 4.157.
Một biểu hiện khác thường được xem xét trên thành ngà chân răng khi
điều trị CTTT hoặc lấy tủy buồng là sự tiếp tục hoàn thành lớp ngà chân răng ở
chóp, hay còn gọi là sự đóng chóp; hiện diện trên phim quanh chóp dưới dạng
117
một cầu xê măng - ngà có hình dạng chóp ở điểm kết thúc của chân răng trong
xương ổ (Abuelniel 2020) 89. Đây có thể được coi là bằng chứng của việc hình
thành cấu trúc ngà thứ ba giúp chữa lành tủy răng. Tuy nhiên, cần theo dõi thủy
sau đóng chóp vì vẫn có tỷ lệ nhỏ có thoái hóa tủy răng sớm có thể xảy ra sau
thời gian dài và phải điều trị tủy chân khi răng đã trưởng thành hoàn toàn 88. Vì
vậy cần lưu ý rằng tủy răng non chưa đóng chóp có khả năng bảo tồn sức sống
Sơ đồ 4.1: Phản ứng ngà đối với độ dày ngà còn lại trong xoang sâu (Murray 2002) 57.
trong điều trị che tủy cao hơn nhiều so với răng vĩnh viễn trưởng thành.
4.3.3. Cấu trúc khoáng hóa dạng cầu ngà
• Phim quanh chóp
Giá trị độ dày cầu ngà trung bình ở nhóm MTA1 và MTA2 lần lượt là
0,63 ± 0,58 mm và 0,56 ± 0,60 mm. Giá trị này cao hơn giá trị đo được độ dày
cầu ngà mới hình thành 3 tháng trên phim quanh chóp của Benoist (2012) 132 là
0,121 ± 0,050 mm ở nhóm MTA. Tại thời điểm 6 tháng, mức trung bình là
0,235 ± 0,110 mm ở nhóm MTA. Thời điểm 6 tháng cao hơn xấp xỉ hai lần so
với 3 tháng, với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê.
Đối với nhóm BD1 và BD2 giá trị độ dày cầu ngà là 1,34±0,57mm
1,34±0,43mm, cao hơn nhóm MTA1 và cũng cao hơn nhóm MTA2 (có ý
nghĩa). Giá trị này của vật liệu BD được Hossain (2019) 133 đo được trên phim
CBCT là 1±1,03mm ở ngày 14 và 1,4 ± 0,2mm ở ngày 28, cao hơn gấp đôi so
với độ dày cầu ngà tạo bới CH sau CTTT.
Hình 4.1: Phim quanh chóp, hình ảnh CTT trước và sau nhổ răng, xuất hiện cầu ngà ở nhóm MTA (A, B) (MS A08) và BD (C, D) (MS B08).
118
Kết quả quan sát thấy có hình ảnh cầu ngà ở nhóm MTA trong 20/22 (90%)
trường hợp và tỷ lệ này ở nhóm BD là 22/22 (100%) ở các thời điểm sau 9-12
tuần vsau 13-16 tuần trên phim quanh chóp trên phim răng đã nhổ (Hình 4.1).
Tỷ lệ ghi nhận thấy cầu ngà trên phim quanh chóp này cao hơn nhiều so với báo
cáo của Linu (2017) lần lượt là 9/13 (69,2%) và 8/13 (61,5%) ở MTA và BD
sau 18 tháng CTTT. So với nghiên cứu lâm sàng khác của tác giả Hedge (2017),
kết quả chúng tôi khá tương đồng ở nhóm MTA (91,7%) nhưng lại cao hơn khi
tác giả này chỉ thành công 83,3% ở nhóm BD dựa trên triệu chứng lâm sàng,
cảm giác đau, thử tủy và X quang quanh chóp khi CTTT sau 6 tháng 90. Với
Katge (2017), tuy 100% trường hợp không có biểu hiện bệnh lý trên phim
quanh chóp, nhưng chỉ tìm thấy cầu ngà ở 16/21 ca (76,19%) với nhóm MTA
có và 15/21 (71,43%) nhóm BD sau 6 tháng (không khác biệt ý nghĩa) 11. Tỷ lệ
cầu ngà của nghiên cứu chúng tôi (thời điểm T3) cao hơn các nghiên cứu X
quang khác, có thể do nghiên cứu này chụp và đo đạc trên răng đã nhổ mà
không phải răng còn trong miệng, vì thế giảm được sự chồng chéo hình ảnh của
các cấu trúc mô mềm và có giá trị phục vụ nghiên cứu hoặc cho các đánh giá
hồi cứu.
• Phim CBCT
Về độ dày trung bình cầu ngà, các hình ảnh CBCT trong nghiên cứu cho
thấy giá trị này ở nhóm MTA1 và MTA2 lần lượt là 0,61 ± 0,58 mm và 0,48 ±
0,59 mm; nhóm BD1 và BD2 là 1,26±0,54mm và 1,22±0,46mm. Cầu ngà của
119
Arafa (2019) đo được ở MTA là 0,89 ± 0,19mm và ở nhóm BD là 1,01 ±
0,43mm 134, cao hơn nhóm MTA và thấp hơn nhóm BD của nghiên cứu này.
Cầu ngà nhóm BD dày hơn nhóm MTA1 (có ý nghĩa) và MTA2 (không ý
nghĩa) ở cả hai thời điểm nghiên cứu và cũng phù hợp các ghi nhận của
Nowicka (2015) khi so sánh BD, MTA và CH 86.
So sánh trước và sau nhổ, giá trị cầu ngà sau khi nhổ trên CBCT cao hơn
răng trước khi nhổ khi còn trong miệng bệnh nhân, điều này nhắc nhở về sự
kém chính xác khi đo kích thước mô trên CBCT trong tình huống nhiễu nền của
các cấu trúc mô mềm. Ngoài ra, giá trị CBCT sau nhổ lại cao hơn so với giá trị
đo được trên phim quanh chóp, cho thấy nếu chỉ căn cứ phim quanh chóp thì
cũng chưa đủ thông tin chính xác để đo đạc sự hình thành mô khoáng.
Ở nhóm MTA hình ảnh cầu ngà tìm thấy trong 7/11 trường hợp sau 9-12
tuần và 5/11 trường hợp sau 13-16 tuần; tỷ lệ này ở nhóm BD là 10/11 sau 9-12
tuần và 11/11 sau 13-16 tuần. Tỷ lệ xuất hiện cầu ngà trên phim CBCT cao hơn
nghiên cứu 6 tuần có 25/37 ca 86 và tỷ lệ này ít hơn nghiên cứu 8 tuần thì có
60/60 ca 108 và trong ở cả nhóm MTA và BD (nhóm tuổi tương đương). Tuy
hình ảnh CBCT cho thấy những ưu điểm chính trong việc đánh giá các dấu hiệu
sớm của sự hình thành cầu ngà, nhưng nghiên cứu Nowicka (2015) có thời gian
nghiên cứu (6 tuần) ngắn hơn nghiên cứu này (6-16 tuần) nên có thể điều này là
nguyên nhân tạo ra sự khác biệt về số lượng răng không có cầu ngà trên CBCT.
Với các răng vĩnh viễn chưa trưởng thành trong giai đoạn răng hỗn hợp,
cầu ngà đo được trong nghiên cứu này có tần suất xuất hiện thấp hơn (Pairokh
2010, 3 và Mahmoud 2018 135). Đây là các răng có buồng tủy lớn, nguồn tế bào
phong phú và khả năng hồi phục nhanh chóng hơn nên được khuyến khích thực
hiện các liệu pháp CTTT càng sớm càng tốt và theo dõi tình trạng lành thương
cùng như đóng chóp (nếu có) trong 2-5 năm tiếp theo.
Về thể tích cầu ngà, ưu thế vượt trội của phim cắt lớp CBCT so với phim
quanh chóp là có thể thu được hình ảnh tái cấu trúc 3D và đo đạc được giá trị
120
thể tích. Ở nhóm MTA, cầu ngà có thể tích trung bình 0,54 ± 0,61 mm3 ở
nhóm MTA1 và 0,47 ± 0,63 mm3 ở nhóm MTA2. Ở nhóm BD, cầu ngà có thể
tích trung bình 1,1 ± 1,01 mm3 ở nhóm BD1 và 1,36 ± 1,08 mm3 ở nhóm
BD2. Có sự khác biệt về thể tích có ý nghĩa ở nhóm MTA2 và BD2 (13-16
tuần) (hình 4.2). Giá trị thể tích của nghiên cứu gốc (Nowicka 2015 86) ở nhóm
MTA và BD lần lượt là 0,45 ± 0,31 mm và 0,47 ± 0,27 m), như vậy giá trị ghi
nhận là tương đồng ở nhóm MTA nhưng cao hơn ở nhóm BD so với tác giả
này. Ngược lại, giá trị thể tích cầu ngà đo được lại thấp hơn của tác giả Arafa
Hình 4.2: Đo thể tích cầu ngà ở răng trước nhổ - sau nhổ và tái cấu trúc ba chiều tương quan
giữa khối vật liệu che tủy và cầu ngà ở nhóm BD (MS B28).
(2019) ở cả nhai nhóm MTA và BD (5,38 ± 1,95mm và 5,93 ± 1,36mm) 134.
Thể tích cầu ngà ở mức trung bình và lớn (≥ 0,5mm3) ở 8/22 (36,4%)
mẫu MTA và 18/22 (81,8%) mẫu BD tuy nhiên, những khác biệt này không có
ý nghĩa thống kê. Tỷ lệ này khá cao vì tác giả Nowicka ghi nhận tỷ lệ 2/11
121
(18,1%) ở nhóm MTA và 3/11 (27,3%) ở nhóm BD 86. Sự khác biệt này có thể
do các nguyên nhân phần mềm tái cấu trúc, độ tuổi của bệnh nhân và chênh
lệch khoảng thời gian theo dõi sau điều trị của hai nghiên cứu. Thời gian hình
thành cầu răng trong nghiên cứu hiện tại là từ 9 đến 16 tuần, trong khi Nowicka
chỉ là 6 tuần. Độ tuổi của đối tượng trẻ hơn và thời gian điều tra dài hơn so với
nghiên cứu trước đó, điều này có thể tạo ra cầu ngà có khối lượng thể tích lớn
hơn.
Về sự liên tục của cầu ngà, trên phim X quang CBCT ghi nhận có 7/22
mẫu ở nhóm MTA và 20/22 mẫu nhóm BD có hình ảnh cầu ngà liên tục không
gián đoạn. Bên cạnh đó có 3/13 và 1/22 trường hợp cầu ngà chỉ che phủ được
ít hơn ½ vùng tủy lộ hoặc cách xa vùng tủy lộ. So với báo cáo của Nowicka
(2013) với 6/11 nhóm MTA và 7/11 nhóm BD, kết quả có sự chênh lệch rõ và
có khác biệt ý nghĩa giữa hai nhóm MTA và BD ở hai thời điểm nghiên cứu.
Tuy vậy, do chỉ theo dõi thời gian tối đa 16 tuần nên sự liên tục của cầu ngà có
tỷ lệ khác hơn ở nghiên cứu của Pespersoy (2021) là 86,7% (MTA) và 85,7%
(BD) sau 36 tháng theo dõi X quang 136.
Về hình dạng cầu ngà, đa số các trường hợp cầu ngà khi xuất hiện sẽ có
dạng một dải mô khoáng hóa che phủ hoàn toàn hoặc che phủ một phần điểm
lộ tủy, hình ảnh này thường được tìm thấy ở sát vùng tủy lộ hoặc cách vùng
tủy lộ 0,3-0,5 mm (hình 4.3). Kiểu hình ảnh này cũng đã được ghi nhận trong
đa số y văn, mô tả các dải cản quang trên phim X quang (quanh chóp và
CBCT) che phủ vùng tủy tổn thương, tạo một hàng rào ngăn cách giữa vùng đã
phơi nhiễm phía thân răng và vùng mô tủy lành bên dưới.
Ngoài ra, điều tra viên ghi nhận được hai trường hợp (1 ở nhóm MTA và
1 ở nhóm BD) cầu ngà hình thành ở cách xa vùng lộ tủy hình ảnh có mức độ
cản quang khá tương đồng với ngà xung quanh và có một nhánh nối cản quang
từ cầu ngà đến gần trung tâm vùng tủy lộ (hình 4.4). Hình ảnh này chưa được
mô tả ở bất kỳ một y văn nào khác.
122
Ngoài ra, chúng tôi cũng phát hiện một trường hợp có sự khoáng hóa lan
tỏa trong buồng tủy ở nhóm BD với sự xuất hiện của khối cản quang mờ có kích
thước rất lớn, độ dày lên đến 3,23mm và thể tích lên đến 4,12 mm3 (Hình 4.5).
Hiện tượng này đã từng được mô tả bởi Linu (2017) ở 1/13 ca đặt MTA và 3/13
đặt BD sau 18 tháng, và Bogen (2008) ở 10,2% ca đặt MTA sau 9 năm. Hiện
tượng này có phần tương tự như hình ảnh calci hóa thường thấy ở tủy răng sau
chấn thương là do phản ứng của tế bào tủy và được nhận biết trên lâm sàng sớm
nhất là 3 tháng sau chấn thương, đặc trưng bởi sự lắng đọng của mô cứng trong
khoảng không gian tủy và sự đổi màu của thân răng trên lâm sàng.
Hình 4.3: Che tủy với MTA (A,B) (MS A11) và BD (C,D) (MS B08) cầu ngà dạng liên tục,
có nhánh nối đến vùng tủy lộ.
Hình 4.4: Cầu ngà dạng khoáng hóa lan tỏa ở trường hợp CTTT với BD (MS B24).
A B C D
Theo y văn, sự kích thích tủy ở mức độ thấp giúp hình thành cầu ngà nhờ
sự hiện diện của Calci hydroxid xuất hiện sau phản ứng hydrat hóa các xi măng
123
silicat như đã trình bày ở mục 1.3.6. Sau hiện tượng viêm tại chỗ sẽ có thể xuất
hiện phản ứng lành thương trong tủy trong 30 ngày sau che tủy. Những phản
ứng này có thể là biểu hiện xơ hóa mô tủy hay hình thành các vùng khoáng hóa
rải rác hay lan tỏa cũng làm giảm tính thấm ngà và tạo ra những rào cản như
một cơ chế bảo vệ phức hợp ngà tủy. Tuy vậy cũng như nhiều nhà lâm sàng,
chúng tôi lo ngại hiện tượng khoáng hóa ngà lan tỏa quá dày đặc có thể sẽ gây
nhiều bất lợi trong các trường hợp điều trị tủy sẽ gặp khó khăn tìm kiếm ống tủy
trong tương lai và có thể có hiện tượng đổi màu gây mất thẩm mỹ răng 48.
Mật độ cầu ngà
Về các giá trị HU trung bình trên CBCT của cấu trúc răng, ở răng trước
nhổ ghi nhận mật độ cầu ngà ở nhóm MTA1 và MTA2 lần lượt là 943,66 ±
161,50 HU và 1040,65 ± 306,46 HU. Mật độ cầu ngà ở nhóm BD1 và BD2 lần
lượt là 797,89 ± 213,19 HU và 909,00 ± 267,46 HU). Không khác biệt giữa hai
nhóm MTA và BD (p>0,1). Giá trị này thấp hơn nghiên cứu của Arafa (2019),
với nhóm MTA và BD lần lượt là 1167,71 HU và 1296,46 HU. Nghiên cứu
Nowicka (2015) cũng ghi nhận giá trị mật độ này ở nhóm MTA cao hơn nhóm
BD không ý nghĩa 86, tương đồng với kết quả của nghiên cứu này.
Các giá trị mật độ cầu ngà đo được trong hầu hết nghiên cứu đều thấp
hơn giá trị ngà trẻ và ngà trưởng thành, nhưng cao hơn giá trị mật độ của tủy.
Tác giả Marzook (2010) ghi nhận giá trị HU trung bình của mô ngà là 1312,02
và của mô tủy là 706,36 HU 137. Trong các y văn khác, giá trị HU trung bình của
ngà trong khoảng 1179-1250 HU. Giá trị HU trung bình cũng có thể dao động
tùy phần mềm đo đạc và độ tương phản của hình ảnh.
Ngoài ra, kết quả nghiên cứu ghi nhận tất cả giá trị mật độ đều tăng đáng
kể trên phim sau nhổ, điều này là hợp lý vì trên mẫu hàm mô phỏng không có
mô xương và các cấu trúc xung quanh răng nên không có các tác nhân gây
nhiễu tương phản, tương tự lý giải trong nghiên cứu Muruganandhan (2021).
124
Mật độ và hình ảnh cản quang của vật liệu che tủy
Mật độ vật liệu che tủy đo được lần lượt nhóm MTA (2667,68 ±
478,01HU) và BD (1578,35 ± 143,06 HU), có sự khác biệt ý nghĩa giữa MTA
và BD về mật độ vật liệu che tủy (p<0,001). Trong khi mật độ MTA cao hơn
nhiều so với ngà và cầu ngà thì mật độ của BD chỉ cao hơn mật độ ngà và cầu
ngà rất ít (hình 4.4). Điều này có nghĩa nếu quan sát MTA khá rõ so với các cấu
trúc ngà thì BD hầu như rất khó phân biệt với các cấu trúc ngà và xê măng khi
quan sát trên phim X quang, khiến cho một số nhà lâm sàng gặp khó khăn trong
tái đánh giá theo dõi tình trạng mô ngà tủy sau che tủy do sự nhầm lẫn với BD.
Mật độ cũng tỷ lệ thuận với độ cản quan của vật liệu. Nhiều tác giả cũng
đồng thuận khi mô tả sự cản quang rõ hơn hẳn của MTA so với BD (Tanalp
2013, Kaup 2015, Lucas 2017) 138. Tác giả Carredu (2018) nhận xét MTA có độ
mờ bức xạ tốt trên mức chuẩn độ phóng xạ ISO, còn BD khó quan sát giới hạn
rõ với ngà xung quanh do độ mờ bức xạ tương tự như ngà và thấp hơn tiêu
chuẩn ISO về độ mờ bức xạ của vật liệu nha khoa 7. Tuy vậy, Camilleri (2013)
khẳng định mức độ cản quang của cả hai loại này đều đạt trên chuẩn cản quang
của vật liệu (3mm Al) 17.
So sánh hai phương tiện X quang quanh chóp và CBCT
Ở một trường hợp ở nhóm MTA, sự hiện diện liên tục của cầu ngà không
quan sát được trên phim chụp quanh chóp nhưng trên phim CBCT, cầu ngà có
thể nhìn thấy và đo đạc với giá trị thấp nhất trong dải dữ liệu kết quả. Ngoài ra,
nghiên cứu có hai trường hợp không phát hiện cầu ngà trên CBCT nhưng lại
quan sát được dấu vết cản quang mờ vùng tủy trên phim quanh chóp. Điều này
được các tác giả khuyến cáo có thể là do dị vật hoặc một số yếu tố làm nhiễu
ảnh dẫn đến sự quan sát không rõ trên phim quanh chóp (Bảng 3.17). Chúng tôi
nhận thấy, mặc dù có sự tương đồng cao giữa hai phương thức chụp X quang,
phim quanh chóp cho thấy độ nhạy thấp khi so sánh với phim CBCT trong khảo
sát sự hình thành cầu ngà sau khi CTTT. Với các mẫu phim có hình ảnh chập
125
cấu trúc nhiều (B25) hoặc cầu cản quang kém (B09) trên phim quanh chóp thì
CBCT cũng không cho phép quan sát thấy cầu ngà.
Hình ảnh kỹ thuật số quanh chóp thường quy trong miệng được sử dụng
phổ biến hơn CBCT cho các điều trị thông thường trong nha khoa, chủ yếu vì
các lý do liều bức xạ thấp, ít tốn kém chi phí và và cho kết quả nhanh. Nhưng
phim quanh chóp thường dùng tốt khi chỉ xác định sự hiện diện tổn thương hay
cấu trúc khoáng lớn đủ lớn nhìn thấy được thì việc đo đạc các kích thước (cầu
ngà) trên phim quanh chóp không thật sự chính xác do độ phân giải phim thấp.
Thông thường, việc xác nhận sự hình thành cầu ngà thường được tiến hành
bằng chụp quanh chóp ở những bệnh nhân không triệu chứng sau thủ thuật
CTTT. Vì thế, X quang kỹ thuật số quanh chóp với các giới hạn của hình ảnh
hai chiều, có thể kém chính xác trong phát hiện dấu vết cầu ngà sớm ở 9-12
tuần như trong nghiên cứu này.
Khi nhắc đến lựa chọn phương tiện X quang có độ phân giải tốt nhất cho
nghiên cứu thì phim Micro-CT luôn được xem là chuẩn vàng trong nghiên cứu
tia X nội nha để đánh giá hình thái giải phẫu ống tủy, đo thể tích ống tủy/mô
ngà loại bỏ sau sửa soạn ống tủy. Phim Micro-CT có kích thước voxel nhỏ 5 –
50 μm (trong khi CBCT là 76 – 400 μm 139) có thể cung cấp những hình ảnh có
độ phân giải cao. Nghiên cứu che tủy MTA và BD trên chuột dùng Micro-CT
chụp các răng trên miệng cho thấy sự hình thành cầu ngà liên tục ở MTA và các
dải mô cứng dày đồng nhất ở BD (Kim 2016) 140. Tuy nhiên, micro-CT lại có
các hạn chế như chi phí cao, thời gian quét lâu, ngoài ra vì lý do tỉ lệ nhiễm xạ
cao không an toàn nên không được phép sử dụng trên bệnh nhân. CBCT tuy độ
phân giải thấp hơn nhưng là một phương pháp ít tốn kém hơn về chi phí và thời
gian và vẫn cho phép đánh giá lượng ngà được lấy đi (bằng hiệu số độ dày
thành chân răng trước và sau sửa soạn), diện tích bề mặt, hình dạng 3 chiều của
ống tủy mà không gây bất kì tác động có hại nào lên răng.
126
So sánh về hình ảnh trước và sau nhổ trên phim X quang
Trong nghiên cứu chúng tôi sử dụng răng đã nhổ để chụp quanh chóp và
CBCT để thu được dữ liệu định tính và định lượng có độ chính xác cao nhất
khi đánh giá sự hình thành cầu ngà khi CTTT. Theo tìm hiều y văn, đây là một
trong hai nghiên cứu hiếm hoi về cầu ngà sửa chữa bằng cách sử dụng CBCT ở
cả răng đã nhổ và răng thật 86. Độ nhiễu nền và độ tương phản thấp hơn của
hình ảnh CBCT làm cho việc tìm kiếm dấu vết cầu ngà quá nhỏ cũng là một
thử thách với người đọc phim. Tuy có sự chênh lệch giá trị nhưng không có sự
khác biệt có ý nghĩa giữa răng đã nhổ và răng thật trên lâm sàng về thể tích cầu
ngà răng khi so sánh (bảng 3.17), nhưng việc chụp CBCT với kích thước voxel
nhỏ 0,1 mm3 cũng được khuyến khích sử dụng nhiều hơn 103. Với trang thiết bị
hiện đại và kích thước voxel cực nhỏ ở bức xạ thấp, kết quả của nghiên cứu
cho thấy việc phát hiện dấu hiệu sửa chữa ngà đầu tiên hoàn toàn có thể quan
sát được trên ca lâm sàng thực tế.
Mặc dù nhiều nghiên cứu sử dụng hình ảnh cầu ngà che phủ bên dưới
vùng lộ tủy làm minh chứng cho sự tạo thành ngà sửa chữa do các tế bào dạng
nguyên bào ngà chế tiết, tuy nhiên trong các nghiên cứu đều có một tỷ lệ các
răng không tìm được hình ảnh cầu ngà vẫn giữ được sự sống trong thời gian
theo dõi dài 99,141. Tương tự, nghiên cứu không phát hiện dấu hiệu viêm nhiễm
tủy nhưng có nhiều mẫu không tìm được cầu ngà cũng như không có sự khác
biệt về độ dày ngà trước và sau điều trị, có thể do thời gian che tủy và nhổ răng
sớm nên chưa thể nhận ra những thay đổi này. Nghi vấn đặt ra là có thể có
những biểu hiện lành thương khác ngoài hình ảnh cầu ngà mà chúng ta vẫn
chưa ghi nhận được với các phương tiện vốn có. Tác giả Mathur (2016) 142 và
Katge (2017) 11 mô tả hình ảnh dày lên của lớp ngà vùng trần tủy ở vị trí tiếp
xúc vật liệu sau 12 tháng che tủy MTA. Sự thay đổi kích thước thành ngà như
vậy tương đối khó nhận biết trên phim X quang quanh chóp lâm sàng nếu
không có sự so sánh trong nhiều lần tái khám và có thể không có sự khác biệt
127
rõ nếu có chênh lệch góc độ chụp hay thời gian quá ngắn. Dù vậy, chúng tôi
cũng đề nghị cần bổ sung thêm các tình huống này như là một trong những dấu
hiệu để xem xét sự lành thương phức hợp ngà-tủy ngoài hình ảnh cầu ngà liên
tục.
4.3.4. Sang thương quanh chóp
Quan sát trên các răng có mô quanh chóp không bệnh lý, hình ảnh X-
quang cho thấy phiến cứng và dây chằng nha chu nguyên vẹn. Trong nghiên
cứu này, không có răng nào quan sát thấy có khoảng dây chằng nha chu dãn
rộng và phiến cứng mất liên tục (hình 4.5). Kết quả tương đồng với Miles
(2010) 82 (che tủy với MTA); Hedge (2017) 90 và Katge (2017) 11 (che tủy MTA
và BD), đều quan sát thấy 100% hình ảnh X quang không cho thấy biểu hiện
bệnh lý vùng quanh chóp và kết quả này tương đối cao hơn so với tỷ lệ 82,6%
của Lipski (2018) 105.
Một răng viêm quanh chóp không có triệu chứng lâm sàng có thể có hoặc
không đáp ứng với thử nghiệm độ sống tuỷ và hình ảnh X-quang biểu hiện sự
giãn rộng của dây chằng nha chu, thấu quang quanh chóp. Răng thường không
nhạy cảm với thử nghiệm cắn nhưng khi gõ bệnh nhân có thể có cảm giác khác
lạ so với răng khác. Với các tình trạng viêm sớm không triệu chứng lâm sàng
hoặc triệu chứng mơ hồ, và răng đáp ứng bình thường với thử nghiệm ấn và gõ,
lúc này các biểu hiện quanh chóp có thể giúp phát hiện các vị trí bệnh lý và ước
đoán nguy cơ bệnh hoặc tiên lượng điều trị. Đặc biệt trong các tình huống có
triệu chứng viêm tủy mơ hồ ở những răng không lộ tủy, các khi so hình ảnh X
quang nghiên cứu lâm sàng sau khi đặt vật liệu cách mô tủy 0,5-1mm khi che
tủy gián tiếp bằng MTA (George 2016, Mathur 2016) và BD (Hashem 2015,
Rangel 2017) cũng cho các kết quả cao tương đồng (95-98,3%) về khả năng
lành thương và duy trì tủy sống sau 6-12 tháng 142-144. Nhờ khả năng hồi phục
tốt của tủy tên các răng chưa trưởng thành, nhiều y văn khuyến khích đặt che
tủy gián tiếp cho các trường hợp viêm tủy hồi phục trong khi CTTT cần thận
128
trọng ở các răng có viêm và theo dõi chặt chẽ, ưu tiên đặt trong các điều kiện
nghiêm ngặt hơn như răng không triệu chứng viêm, kiểm soát tốt nhiễm trùng
Hình 4.5: Sau đặt CTTT BD (A), phim quanh chóp, vùng quanh chóp không có dấu hiệu dãn
rộng và hình thành cầu ngà (B); phim CBCT có tạo cầu ngà (C) (MS B15).
và chảy máu, xoang loại I không liên quan phía bên, đảm bảo khít sát 145.
4.4. ĐÁNH GIÁ MÔ HỌC
4.4.1. Sự xâm nhập vi khuẩn
Trong nghiên cứu này, không tìm được sự hiện diện của vi khuẩn gram
dương và gram âm tại các vị trí quan sát trên thành tủy ngoài trong và trần tủy
cũng như trong buồng tủy. Kết quả tương tự ghi nhận trong nghiên cứu của
Nowicka (2013) 85. Trong nhiều năm, thậm chí nhiều thập kỷ, các học giả tin
rằng một số vật liệu đã "giết chết" tủy do đặc tính độc hại vốn có. Tuy nhiên,
nghiên cứu từ giữa những năm 1970 đã chỉ ra rằng tủy có thể chịu được nhiều
loại vật liệu phục hồi nếu vi khuẩn và / hoặc chất độc của chúng được loại trừ
129
khỏi tủy. Điều này có liên quan tính chất vật liệu cụ thể và liệu vật liệu đó có
tiếp xúc trực tiếp với mô tủy răng hay không hoặc có hiện diện lớp ngà ngăn
cách bảo vệ. Một khi vi khuẩn xâm nhập vào tủy, các phản ứng tủy nghiêm
trọng và có hại sẽ xảy ra. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng tủy răng là một mô mềm, và
tương tự như các mô mềm khác trong cơ thể, sẽ tạo phản ứng viêm để phản ứng
với một kích thích độc hại. Một số vật liệu có thể gây độc tính tế bào và ức chế
miễn dịch. Phản ứng đầu tiên sẽ phá hủy các tế bào tủy răng, và phản ứng sau sẽ
làm giảm khả năng của tủy răng để đáp ứng với sự xâm nhập của vi khuẩn.
Nghiên cứu của Kakehashi (1965) cho thấy vai trò quan trọng của vi khuẩn kích
thích viêm, hình thành vùng hoại tử và áp xe trong tủy. Viêm tủy có thể do cả vi
khuẩn Gram dương và Gram âm gây ra. Khả năng kháng khuẩn khá tốt của
MTA và BD được cho là do độ pH cao của vật liệu, sự tổng hợp phức hợp tấn
công màng sửa chữa trên màng của vi khuẩn và đồng thời phản ứng viêm cũng
sinh ra chất kháng khuẩn nitrogen oxid, dẫn đến sự tiêu diệt vi khuẩn. Đối với
các vi khuẩn gram dương Streptococcus salivarius, AMTA và PMTA cho thấy
hoạt động kháng khuẩn cao hơn đáng kể so với BD 146. Đối với Streptococcus
mutans, BD biểu hiện tối thiểu hoặc gần như không hoạt động kháng khuẩn. BD
có hoạt tính kháng khuẩn tương tự như AMTA nhưng cao hơn đáng kể so với
PMTA và MTA Plus đối với vi khuẩn gram dương Enterococcus faecalis
(Bhavana 2015; Hiremath 2015) 47 và vi khuẩn gram âm Escherichia coli
(Bhavana 2015) 22. Tác giả Özyürek (2016) ghi nhận hiệu quả kháng gram
dương Staphylococcus aureus và gram âm Escherichia coli của BD cao hơn
AMTA, tuy nhiên AMTA lại cho hiệu quả kháng Pseudomonas aeruginosa và
Enterococcus faecium cao hơn BD 147 .
Sự xâm nhập vi khuẩn phụ thuộc nhiều vào tính thấm của mô ngà. Tính
thấm của ngà không đồng nhất ở mọi vị trí và phụ thuộc vào nhiều yếu tố như vị
trí và sự hiện diện của tình trạng bệnh lý như sâu răng. Đường kính ống ngà
tăng từ khoảng 0,6 μm – 0,8 μm ở đường nối men ngà đến khoảng 3 μm ở tủy.
130
Cho rằng đường kính của vi khuẩn vào khoảng 0,5 μm đến 1 μm thì ở những
xoang sâu, vi khuẩn có thể dễ dàng đi vào tủy qua các ống ngà. Sâu răng gây ra
mất khoáng ở lớp ngà phía bên trên, có sự tái khoáng và hình thành các tinh thể
bên trong ống ngà của lớp ngà chưa bị khử khoáng. Điều này làm giảm tính
thấm của ngà bên cạnh lớp ngà sâu và có thể được xem như là cơ chế bảo vệ vì
nó có thể làm chậm quá trình sâu răng. Lớp nguyên bào ngà cũng được cho làm
góp phần làm giảm tính thấm của các phân tử có khối lượng lớn như protein và
độc tố vi khuẩn. Bên cạnh việc tạo ra rào cản vật lý và tạo ra ngà phản ứng hay
ngà sửa chữa, lớp nguyên bào ngà còn đóng góp vào phản ứng ký chủ của tủy
răng bằng cách biểu hiện các hóa chất trung gian viêm quan trọng hay nhận diện
được vi khuẩn thông qua các thụ thể.
Cầu ngà sửa chữa là một nổ lực nhằm đóng kín vùng tủy phơi nhiễm, sự
hình thành cầu ngà mới được xem là một dấu hiệu điều trị thành công, với điều
kiện tiên quyết phải là cầu ngà thật sự ngăn chặn được sự xâm nhập của vi
khuẩn để làm dừng phản ứng viêm. Vi khuẩn hiện diện trong xoang trám và tủy
sẽ kích thích phản ứng viêm và ngăn cản sự hình thành mô khoáng sửa chữa.
Hoặc các độc tố vi khuẩn cũng có thể gây hiện tượng hoại tử tủy, và phá hủy
cầu ngà sửa chữa. Vật liệu che tủy bị hòa tan sẽ dẫn đến các khiếm khuyết, vi
khuẩn xâm nhập từ các vị trí khiếm khuyết có thể làm thất bại điều trị. Một số
tác giả cho rằng khả năng bảo vệ tủy khỏi tác nhân vi khuẩn của vật liệu che tủy
thậm chí quan trọng hơn là hoạt động sinh học của chúng trong sự sống còn của
tủy 27,69,148. Bên cạnh các hiệu quả trực tiếp, các yếu tố kích thích gián tiếp khác
cũng ảnh hưởng đến tủy. Tính nhạy cảm về mặt kỹ thuật của một số loại vật liệu
phục hồi làm chúng không dính vào mô răng có thể dẫn đến nhạy cảm ngà,
bệnh tái phát, viêm tủy hay hoại tử tủy. Độ bền dán giữa vật liệu và mô răng
cũng được xem là có ảnh hưởng đến việc thành lập rào cản vi khuẩn tốt. Nhiều
tài liệu đã đồng ý rằng đáp ứng ngà tủy có liên quan mật thiết đến sự hở vi kẽ và
xâm nhập vi khuẩn 94,148. Tuy nhiên, nghiên cứu này không thiết kế theo hướng
131
nghiên cứu độ thấm vi kẽ mà chủ yếu là tìm kiếm sự hiện diện của vi sinh vật
trong mẫu răng sau điều trị như là kết quả của sự hở bờ của vật liệu. Việc quan
sát thấy chỉ có hiện diện vi khuẩn gram dương trong mẫu mô ở vùng rìa thành
xoang với số lượng rất ít mà không tìm thấy trên bất cứ mẫu nào khác cho thấy
sự khít kín khá tốt của MTA và BD sau điều trị. Thật vậy, nhiều nghiên cứu vi
kẽ và độ bền dán cho thấy khả năng tạo liên kết tốt với ngà của calci silicat, vì
vậy có thể ngăn chặn hiệu quả vi khuẩn xâm nhập qua ống ngà, điều này giải
thích cho sự thành công lâu dài của MTA và BD trong CTTT 33,149. BD tỏ ra
thích nghi với môi trường pH cao và phóng thích ion calci và silic kích thích sự
khoáng hóa và tạo ra “vùng nhiễm khoáng” dọc theo giao diện xê măng-ngà
giúp dán tốt hơn. Sự khít sát bờ viền tỉ lệ với khả năng dán của vật liệu, do đó
ảnh hưởng đến thành công lâm sàng. Sự dán vi cơ học của BD cho thấy khả
năng khít sát tốt của tinh thể BD với mô ngà bên dưới. Bám dính tốt hơn của
BD trong ngà có thể là do quá trình tăng trưởng của tinh thể hydroxyapatit trong
các ống ngà dẫn đến liên kết dán vi cơ học, khi loại bỏ lớp mùn ngà cũng cải
thiện đáng kể khả năng dán của BD 54. Sự chế tiết cầu ngà có thể bị ảnh hưởng
bởi loại vật liệu che tủy, mức độ tổn thương cơ học và các mảnh vụn của ngà
răng trong quá trình điều trị. Vì vậy trong quá trình điều trị, việc kiểm soát vi
khuẩn và vi kẽ, cố gắng giảm thiểu các vụn ngà và đặt các vật liệu che tủy đúng
kỹ thuật để giúp liên kế dán khít sát tối đa được coi là giúp ích nhiều cho việc
tạo rào cản vi khuẩn và tạo thuận lợi cho sự hình thành lớp ngà sửa chữa thứ ba.
Do đó, một trong những nguyên tắc chìa khóa quan trọng cho sự tồn tại của tủy
sau khi che tủy là phải được trám kín.
4.4.2. Đáp ứng ngà tủy
4.4.2.1. Hiện tượng viêm
Khi quan sát về hiện tượng viêm, kết quả cho thấy đa số là hình ảnh tủy
hầu như không có sự tập trung tế bào viêm như các tế bào bạch cầu trung tính
lan tỏa, tế bào lympho, tương bào, đại thực bào. Vùng tủy bên dưới cầu ngà
132
giàu mô liên kết sợi fribrodentin, giàu tế bào (nguyên bào sợi, tế bào trung
mô,...) và mạch máu (hình 3.2). Y văn mô tả khả năng tái tạo của mô tủy thể
hiện qua sự giảm số lượng tế bào viêm và tăng hàm lượng các mô sợi, khoáng
hóa. Đây là các dấu hiệu cho thấy có sự tiến triển lành thương thuận lợi, được
quan sát thấy ở nghiên cứu của Nowicka (2013) 85, Mahendran (2020) 150 và
Hoseinifar (2020) 151.
Viêm tủy là một quá trình hoạt động trong đó độc lực của vi khuẩn và
đáp ứng miễn dịch của ký chủ quyết định tình trạng của tủy. Viêm tủy sau lộ tủy
có thể biểu hiện dạng cấp sau đó chuyển sang mãn tính hoặc thường có thể viêm
mãn nguyên phát trong một số tình huống. Nhiều nghiên cứu dù mô học tương
tự đã cho thấy có viêm tủy mãn khi che tủy bệnh nhân không có triệu chứng, và
không có dấu hiệu và không có bệnh lý quanh chóp trên phim X quang. Hầu hết
các nghiên cứu bao gồm phân tích mô học về che tủy trực tiếp hiện nay đều có
thời gian khá ngắn, thường là từ hai đến bốn tháng, và được thực hiện ở động
vật như chuột và chó 97, đến động vật linh trưởng. Tuy nhiên, kết quả của việc
che tủy ở động vật có khi không hẳn phản ánh được hoàn toàn những gì sẽ xảy
ra ở người. Nhiều tác giả cho rằng viêm cũng là một tác nhân kích thích quan
trọng để thúc đẩy quá trình sửa chữa nguyên bào ngà truyền kích thích cảm giác
ban đầu từ ngà răng và cũng có vai trò miễn dịch trong hệ thống phòng ngự của
tế bào. Sự khử khoáng của ngà và sự tiếp xúc với các vật liệu sinh học như calci
silicat giải phóng rất nhiều phân tử hoạt tính sinh học bao gồm một vài trong
các yếu tố của nhóm TGF–β -có thể kích thích một loạt các sự kiện phân tử
phức tạp thúc đẩy sửa chữa viêm tủy. Có thể do diện tích quá nhỏ của khối mô
tủy, gây khó khăn cho các thao tác kỹ thuật ngâm, cắt, dán và nhuộm mô, khi
quan sát dưới kính hiển vi quang học, một số mẫu mô tủy có co sau quá trình
ngâm khử khoáng và tạo thành một số khoảng không tách khỏi lớp ngà dọc
thành trong của chân răng khi quan sát, gần vùng mô khoáng mới hình thành,
tuy nhiên vẫn có thể xác định hình thái mô tủy tốt. Ngoài ra, quan sát thấy ít
133
mẫu có hiện tượng giãn mạch, tăng sung huyết và rất ít tế bào viêm. Một số thay
đổi như sự tập trung sợi collagen và tắc mạch cũng được tìm thấy như các biểu
hiện viêm mãn nhẹ trong 2 mẫu ở nhóm MTA/BD. Trương Minh Tâm (2019) 97
cũng ghi nhận không còn hiện tượng viêm trong tủy răng chuột sau 4-8 tuần
CTTT.
Đối với thiết kế lâm sàng mô hình lộ tủy do sâu răng của Dammaschke
(2019), khi đó, tủy răng đã có thể có thay đổi bệnh lý trước đó, chẳng hạn như
viêm, đã có tạo ngà phản ứng, hoặc chết nguyên bào ngà,... nên biểu hiện trên
mô ngà tủy có thể đa dạng hơn, bao gồm các hình ảnh hoại tử nhiều hơn và cầu
ngà cũng có sự hình thành lộn xộn hơn, không thấy các lớp nguyên bào ngà hay
tế bào dạng nguyên bào ngà.
Dammaschke (2019) cũng phát hiện các mẫu có vùng hoại tử nhỏ trên
cầu ngà ở sát vị trí tủy lộ tương tự, và cho rằng dạng huyền phù calci silicat
ngậm nước (giải phóng Calci hydroxid) đặt trên chỗ lộ tủy làm hoại tử lớp bề
mặt tủy, tiếp đến là tình trạng viêm ở mức độ thấp. Trong vòng 30 ngày, mô tủy
sát chỗ hoại tử sẽ sắp xếp lại và trở về cấu trúc bình thường, cho thấy tiến triển
lành thương thuận lợi. Khi calci sililicate đông cứng lại giúp hình thành cầu ngà
có rất ít hay thậm chí không có vùng hoại tử và lành thương ổn định 152. Hàng
rào khoáng hóa hình thành tại vị trí phơi nhiễm sau 7 tháng chỉ có trong 3/7
trường hợp. 4/7 trường hợp còn lại không có cầu ngà, hoặc chỉ là vùng khoáng
hóa nhỏ không điển hình, và các vùng chỉ có vật liệu che tủy tiếp xúc trực tiếp
với tủy 152. Những phát hiện này cũng tương đồng với quan điểm cho rằng cần
xem xét lại hệ thống chẩn đoán lâm sàng đối với tình trạng được nhận định với
thuật ngữ “viêm tủy không hồi phục”. Vì theo ý nghĩa này, trước đây bác sĩ chỉ
có hai lựa chọn khả thi để điều trị là nội nha lấy tủy họặc nhổ. Tuy nhiên, những
bằng chứng gần đây cho thấy rằng khi che tủy, lấy tủy buồng một phần hoặc
toàn bộ ở các răng viêm tủy không phục hồi, tủy răng có thể được bảo tồn
(Asgary 2017, Taha 2017) 153. Vì vậy, tuy hiện nay chưa có một thống nhất mới
134
hơn về chỉ định đối với viêm tủy nhưng quan diểm lựa chọn giải pháp cho viêm
tủy có thể cân nhắc các điều trị thay thế an toàn và ít xâm lấn hơn với calci
silicat.
4.4.2.2. Hình thành mô khoáng sửa chữa
Sự hình thành mô khoáng được biểu hiện ở hai loại đáp ứng ngà tủy là
tạo ngà phản ứng và ngà sửa chữa (cầu ngà) như là hai đáp ứng riêng biệt. Ở
ngoại vi sát thành tủy có sự hình thành lớp ngà phản ứng ở 2/10 mẫu MTA và
4/10 mẫu BD qua sự khác biệt rõ rệt về kích thước lớp ngà nguyên thủy và ngà
mới tạo thành trong vùng ngà ngoại vi (hình 4.6). Lớp nguyên bào ngà ở vùng
ngà phản ứng liên tục với lớp tiền ngà ở vùng ngoại vi. Lớp ngà phản ứng có có
mật độ khoáng hóa đồng nhất và rất ít hình ảnh ống ngà bên trong.
Sự tạo thành cầu ngà khoáng hóa quan sát thấy trong 10/11 mẫu MTA và
BD. Phần ngoại vi của cầu ngà thường biểu hiện rãnh hình ống ngà chạy cùng
hướng nhau (Hình 3.4 B, C). Nhiều trường hợp không thấy mô khoáng hóa hiển
thị đặc điểm của ngà nguyên phát với các ống ngà song song nhau, quan sát
không thấy ống ngà rõ và hướng ống ngà không đồng nhất. Thay vào đó, mô
khoáng hóa có dạng vô định hình và không đều, có mảnh vụn hoại tử hoặc vụn
tế bào bên trong (Hình 3.4 H,I). Có trường hợp, cầu ngà gồm các hạt hình cầu
trong cấu trúc bạch cầu ái toan vô định hình.
Về độ dày cầu ngà, trên tiêu bản mô học, Hossain (2019) ghi nhận được
độ dày cầu ngà ở BD là 1,4 ± 0,2mm sau ngày thứ 28, cao hơn giá trị của
nghiên cứu nàychungs. Khi so sánh nhóm, Tziafa (2014) cũng ghi nhận độ dày
cầu ngà của Biodentine nhiều hơn MTA ở thời điểm sớm sau 3-8 tuần 26, tương
tự của chúng tôi sau 9-12 tuần. Mặc dù nghiên cứu này thì sự xuất hiện cầu ngà
và độ dày cầu ngà ở nhóm BD nhiều hơn nhóm MTA, tuy nhiên đa số các
nghiên cứu khác thì không tìm thấy sự khác biệt giữa hai loại vật liệu về tần
suất xuất hiện cũng như độ dày mô khoáng trên vi thể 23,85.
Hình 4.6: Lớp ngà phản ứng dày lên ở dọc thành tủy ở nhóm MTA và BD.
135
Trong những trường hợp lộ tủy sạch, hay răng bị chấn thương lộ tủy
trong thời gian ngắn tương tự mô hình lộ tủy cơ học của nghiên cứu này, tủy
thường đáp ứng tốt với các liệu pháp điều trị 23,85. Sau 9-12 tuần, kết quả quan
sát có sự hình thành cầu ngà hoàn chỉnh, không có viêm tủy và các lớp tế bào
dạng nguyên bào ngà tìm thấy sau tương tự báo cáo sau 6 tuần của Nowicka
(2013) 85 hoặc Bakhtiar (2017) 23 cũng nhận thấy sự lành thương và tái tạo mô
tủy với MTA và BD sau 4- 8 tuần, tiếp tục đến 12 tháng nhưng với mức độ cải
thiện lâm sàng rất nhỏ, các cầu ngà hoàn chỉnh chỉ được báo cáo ở 3/11 ca, và
có 1 ca hoàn toàn không có cầu ngà nhưng mô tủy vẫn không có dấu hiệu viêm
hay bất thường. Tuy nhiên nhiều tác giả ghi nhận hiệu quả thủ thuật che tủy phụ
thuộc thời gian bị lộ tủy, người ta thấy rằng tủy phản ứng tốt với những lộ tủy
xảy ra trong vòng 24 giờ nhưng lại giảm đáp ứng tốt sau 24 giờ 7.
4.4.2.3. Sự hiện hiện của tế bào đặc biệt ở rìa mô khoáng sửa chữa
Kết quả quan sát thấy một số tế bào dạng khối dẹp, nhân lệch tâm, kích
thước lớn xếp vài lớp không điển hình ở giữa cầu ngà và mô tủy (hình 4.7).
Trong y văn, người ta cho rằng các tế bào gốc của tủy răng sẽ di cư vào vị trí bị
tổn thương và biệt hóa thành các tế bào giống nguyên bào ngà 27. Tiêu chí nhận
dạng hình thái của các tế bào này gần giống của nguyên bào ngà chính danh như
dạng cột cao, nhân ở cực đáy, có đuôi bào tương ngắn từ cực gần đi vào ống
ngà; nhưng khi điều tra viên quan sát các tế bào xếp lớp không điển hình gần
136
khu vực khoáng hóa này thì không thấy rõ ống ngà. Các nghiên cứu Nowicka
(2013) 85, Bakhtiar (2017) 23, Riccuci 2018 154, Dammaschke 2019 152, Reis
(2021) 155 cũng ghi nhận cấu trúc tế bào tương tự khi che tủy với MTA và BD.
Ngoài ra, trong nhiều mẫu khác, vùng rìa cầu ngà xuất hiện một hàng tế
bào không có hình thái điển hình của nguyên bào ngà mà gần giống với nguyên
bào sợi hơn (hình 4.7). Tuy vậy, có lẽ đây là những tế bào chịu trách nhiệm cho
sự hình thành của mô khoáng hóa sửa chữa này. Trong một số mẫu không tìm
thấy dạng tế bào này. Điều này cũng phù hợp với các lý thuyết thay thế không
đồng ý với lý thuyết được chấp nhận về sự biệt hoá tế bào dạng nguyên bào ngà,
mà nhấn mạnh rằng các tế bào khác như nguyên bào sợi hoặc tế bào sợi trên
thực tế cũng có thể tạo ra mô khoáng hoá (Ricucci 2014, Yoshiba 2018 156).
Về hình dạng nguyên bào ngà, tổng quan của Tziafas (2019) ghi nhận chưa
có sự đồng thuận về các tiêu chí xác định tế bào giống nguyên bào ngà. Các tài
liệu thường sử dụng tiêu chí sự hiện diện hình ảnh khuôn ngà sửa chữa mới
hình thành, có kiểu ống ngà ngắn/dài, phân bố liên tục/không liên tục nhưng
không phải lúc nào cũng xác định sự hiện diện và kiểu hình của tế bào giống
nguyên bào ngà. Trong 86 nghiên cứu báo cáo có khuôn khoáng hóa dạng ống
chỉ có 42% nghiên cứu kèm ghi nhận phát hiện tế bào giống nguyên bào ngà.
Hơn nữa, trong 93% các nghiên cứu trên cho thấy sự khác biệt của tế bào giống
nguyên bào ngà rằng các tế bào này có liên kết với vùng khuôn khoáng hóa
dạng ống, giúp các tác giả xác định rằng sự hiện diện khuôn ngà dạng ống là
một dấu hiệu biểu hiện mạnh của tế bào giống nguyên bào ngà 58.
Theo y văn, tiêu chí nhận dạng hình thái của các tế bào dạng nguyên bào
ngà sử dụng hầu hết đặc điểm của nguyên bào ngà chính danh: tế bào dạng cột
cao, nhân ở cực đáy, và thỉnh thoảng có đuôi bào tương ngắn từ cực gần đi vào
ống ngà; nhưng chúng có tỷ lệ tế bào chất/ nhân tăng, nhân lệch tâm ở đáy tế
bào, tế bào chất phát triển tốt, mạng lưới nội chất thô song song với trục dài của
thân tế bào. Các hạt tiết và khuôn nội bào collagen tốt được phát hiện ở cực gần
137
của các tế bào. Quá trình tế bào chất chứa chủ yếu là các vi chất tìm thấy khi
tiếp xúc trực tiếp với khuôn mới hình thành, chỉ ra rằng sự biệt hóa tế bào giống
nguyên bào ngà là một quá trình phụ thuộc vào tế bào, xảy ra do sự biệt hóa
nguyên bào ngà (Tziafas 1995 157, Huang 2006 158). Không có sự khác biệt về
loài, tuổi và loại can thiệp trong sự hình thành tế bào giống nguyên bào ngà
Hình 4.7: Tế bào dạng nguyên bào ngà (A, B, C) và tế bào dạng nguyên bào sợi (D, E, F).
(Tziafas 2019)58.
Tóm lại, tiêu chuẩn vàng của các đáp ứng ngà tủy các hình ảnh phân tích
trên vi thể. Vì vậy, dù kết quả của nghiên cứu tuy không cung cấp bằng chứng
hình thái học về tế bào dạng nguyên bào ngà, nhưng chúng tôi đã tìm thấy sự
đồng thuận cao khi mô tả các phản ứng ngà - tủy tốt trên quan sát mô học qua
hình ảnh mô tủy không hiện diện viêm nghiêm trọng và có sự hình thành mô
khoáng hóa. Nghiên cứu cho thấy BD có tiềm năng không thua kém MTA trong
khả năng ngăn chặn vi sinh vật xâm nhập, và hình thành cầu ngà sửa chữa che
138
phủ mô tủy lộ. Chiều dày cầu ngà sửa chữa có sự gia tăng theo thời gian cũng
giúp gia tăng khoảng cách giữa tủy và tác nhân kích thích. Lớp cầu ngà sửa
chữa có mật độ ống ngà ít, giảm tính thấm cũng giảm sự xâm nhập độc tố vào
mô tủy, bảo vệ tủy tốt hơn, từ đó duy trì thành công lâu dài cho điều trị.
4.5. ĐÁNH GIÁ TỶ LỆ THÀNH CÔNG
Tiền đề cho điều trị tủy răng quan trọng là bảo tồn sức sống, chức năng
của răng và không có triệu chứng bệnh lý. Tỷ lệ thành công lâm sàng căn cứ
tiêu chí thành công của điều trị CTTT được mô tả trong y văn bao gồm các vấn
đề: không có triệu chứng bệnh lý tủy và quanh chóp, đáp ứng bình thường với
thử nghiệm tủy, Không đau do bệnh nhân cảm nhận và khi gõ, không lỗ dò/
lung lay/ đổi màu. Do đó, chúng tôi sử dụng có biến đổi một số tiêu chí từ các
nghiên cứu Katge (2017) 11 và Abuelniel (2020) 89 với các mức độ đánh giá về
tỷ lệ thành công lâm sàng và X quang. Trong một số nghiên cứu invivo, người
ta tính chung tỷ lệ thành công trên lâm sàng và quanh chóp, và một số nghiên
cứu khác tính riêng biệt từng tỷ lệ thành công. Đánh giá tỷ lệ thành công từ
những nhóm chỉ số lâm sàng và X quang của điều trị CTTT với MTA và BD
nhằm cung cấp thông tin giúp nhà lâm sàng nhận biết và theo dõi đánh giá và
tiên lượng điều trị CTTT.
Tỷ lệ thành công về mặt lâm sàng ghi nhận được ở nhóm MTA1 là 90,9%
và MTA2 là 100%, ở nhóm BD1 là 100% và BD2 là 90,9% (p>0,05). Xét
chung, hai nhóm đều tỷ lệ thành công như nhau là 95,5%.
Đối với cận lâm sàng, tỷ lệ thành công quanh chóp ở nhóm MTA1 là
54,5% và MTA2 là 45,5%, ở nhóm BD1 là 90,9% và BD2 là 100%. Có sự khác
biệt có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ thành công trên phim quanh chóp giữa hai
nhóm ở thời điểm 13-16 tuần. Tỷ lệ thành công quanh chóp chung lần lượt là
50% (MTA) và 95,5% (BD). Tỷ lệ thành công CBCT ở nhóm MTA1 là 63,6%
và MTA2 là 54,5%, ở nhóm BD1 và BD2 là 100%. Có sự khác biệt có ý nghĩa
139
thống kê về tỷ lệ thành công trên phim CBCT giữa hai nhóm ở thời điểm 13-16
• Các nghiên cứu riêng từng loại calci silicat
tuần. Tỷ lệ thành công CBCT chung lần lượt là 59,1% (MTA) và 100% (BD).
Đối với MTA, trong nghiên cứu quan sát dài nhất trong y văn của Bogen
(2008) 99 là 9 năm, 49/53 răng (97,96%) thành công trên cơ sở X quang, các
triệu chứng chủ quan và thử nghiệm lạnh. Đây là một nghiên cứu khởi đầu với
MTA làm nền tảng khẳng định bước tiến thành công của vật liệu sinh học trong
điều trị 99. Tương tự, Caliskan (2017) theo dõi sau 24-72 tháng trong tái đánh
giá lâm sàng và X quang 172 răng với tỷ lệ thành công là 85,9% (sau 2 năm là
91,4%, sau 4 năm là 84% và 6 năm là 65%) 141. Tương tự, với thử nghiệm ngẫu
nhiên song song của Kundzina (2017) cho thấy sự khác biệt trong tỷ lệ thành
công giữa MTA và Calci hydroxid lần lượt là 85% và 52% sau 36 tháng theo
dõi 70 răng che tủy 159. Theo các nghiên cứu hồi cứu, tỷ lệ thành công của MTA
được đánh giá là tốt khi hầu như luôn ở mức độ trên trung bình đến khá cao
(76,36-100%) 124 (Matsuura 2019- 452 răng/ 6-36 tháng) nhưng nhấn mạnh cần
xem xét thêm về nguy cơ sai lầm của nhiều nghiên cứu đã công bố. Tuy vậy
cũng có nghiên cứu hồi cứu thực hiện bởi Miles (2010) ở 51 răng bệnh nhân
được sinh viên sử dụng MTA che tủy sau 12-27 tháng, tỷ lệ răng còn tủy đáp
ứng dương tính sau 1 năm và sau 2 năm lần lượt là 67,7% và 56,2% 82. Tỷ lệ
này chỉ ở mức trung bình cao và không vượt trội đáng kể so với calci hydroxid.
Đối với Biodentine, tỷ lệ thành công cho CTTT ghi nhận là 100% sau 2-3
tháng và 82,6% sau 1-1,5 năm (Lipski 2018) (112 răng/14,7 tháng) 105. Tác giả
Dube (2018) cũng báo cáo các trường hợp lâm sàng sử dụng BD cho 100% kết
quả răng không triệu chứng sau 24 tháng theo dõi 160. Ở các nghiên cứu khác, tỷ
lệ này thường nằm ở khoảng mức độ thành công cao 96,4-100% (Matsuura
2019-118 răng/6-31,8 tháng), cũng tương đồng với nghiên cứu này về thành
• Các thử nghiệm lâm sàng so sánh MTA và BD
công lâm sàng và X quang.
140
Hai vật liệu CTTT này cho kết quả có khi rất cao (100%) cho cả MTA và
BD (Katge 2017 11, Brizuela 2017 1, Awawdeh 2018 8) hoặc khá cao (trên dưới
90%), lần lượt MTA và Biodentine là : 92,6% và 96,4% (Parinyaprom 2018 88);
91,7% và 83,3% (Hedge 2017 90); 88,89% và 81,48% (Awadeh 2018 8) và
không cho thấy sự khác biệt đáng kể giữa hai loại vật liệu (Bảng 4.1).
Bảng 4.2 tổng hợp các tỷ lệ thành công của điều trị theo các mốc thời
gian và cho thấy tỷ lệ thành công giảm dần theo thời gian theo dõi, thời gian
càng dài càng có thể xuất hiện thêm trường hợp có bệnh lý tủy.
Khi xem xét biểu đồ Kaplan-Meier để tiên lượng thành công như
Abueniel (2020) 98, chúng tôi cũng có kết quả tương tự khi không tìm thấy khác
biệt giữa hai nhóm MTA và BD ở biểu hiện lâm sàng. Khi xem xét cận lâm
sàng, dù có sự khác biệt giữa hai nhóm trên X quang nhưng khi sử dụng mô
hình hồi quy Cox có hiệu chỉnh thêm các yếu tố đã được chứng minh có ảnh
hưởng đến hiệu quả điều trị như độ dày, thể tích hay sự liên tục cầu ngà, lại cho
thấy không có khác biệt về mô hình tỷ số nguy cơ này giữa MTA và BD, nghĩa
là tỷ lệ thành công X quang không thua kém nhau giữa hai nhóm MTA và BD
(Biểu đồ 3.16, 3.17).
Thành công về mặt mô học của nghiên cứu cũng tương tự của Nowicka
(2013) 85 đồng thời khẳng định thêm minh chứng cho hiệu quả của vật liệu qua
những biều hiện lành thương thuận lợi của phức hợp ngà tủy qua sự hình thành
mô khoáng hóa sửa chữa trong tủy và không có các dấu hiệu viêm và nhiễm
khuẩn đáng kể.
Nhiều y văn công nhận rằng thành công của các liệu pháp CTTT phụ
thuộc vào việc lựa chọn nghiêm ngặt trường hợp và áp dụng phác đồ điều trị
thích hợp. Ngoài ra, các yếu tố tình trạng tủy cũng như sự hiện diện vi khuẩn
gây bệnh ban đầu cũng ảnh hưởng đến lành thương. Ví dụ nghiên cứu tiền cứu
của Marques (2015) và Lipski (2018) cho thấy tỷ lệ thành công cao hơn nhóm
141
lộ tủy cơ học so với nhóm lộ tủy do sâu hay thành công cao hơn ở xoang mặt
nhai so với xoang mặt bên (Bảng 4.3) 104,105.
Bảng 4.1: Tổng hợp nghiên cứu che tủy răng vĩnh viễn trên thế giới và nghiên cứu này.
142
Thiết kế Tuổi
Vật liệu
Kết quả
Số lượng và loại răng
Thời gian
Tác giả (năm)
BD, MTA
42 ngày
BD hiệu quả tương tự MTA
19- 28
Quan sát tiền cứu
Nowicka (2013)
Phương pháp đánh giá Lâm sàng Mô học
Cầu ngà ở MTA và BD có thể tích lớn hơn ở Single Bond
Quan sát tiền cứu
42 ngày CBCT Mô học
Nowicka (2015)
8 và 30 ngày
MTA và BD có hiệu quả sửa chữa tủy tốt hơn Calxyl
CH, MTA, BD, Single Bond Calxyl, MTA, BD
19- 32 18- 40
Quan sát tiền cứu
Lâm sàng Mô học
Eftimoska (2015)
MTA, BD
19- 50
Quan sát tiền cứu
MTA và BD không có sự khác biệt về phản ứng đau
MTA, BD
28 RCL3 HT và HD (nhổ răng) 44 RCL3 HT và HD (nhổ răng) 84 R cửa, nanh, cối nhỏ, cối lớn 100 RCL1,2 HT, HD có sâu, 24 RCL có sâu
18- 40
Quan sát tiền cứu
Tỷ lệ thành công MTA (91,7%) và BD (83,3%)
Shafaat Bokhari (2016) Hegde (2017)
Hồi cứu
MTA, BD
30 Răng có sâu
15- 30
30,90 và 180 ngày 90 và 180 ngày 30-540 ngày
Linu (2017)
18- 40
Quan sát tiền cứu
CH, MTA, BD
72 bệnh nhân
365 ngày
Tỷ lệ thành công MTA (84,6%) và BD (92,3%), tỷ lệ chung (88,5%) BD hiệu quả hơn CH và MTA, không có ca thất bại
7-16 CH, MTA, BD
169 RCL1,2 HT, HD
Sabrah and Alqahtani (2017) Brizuela (2017)
Quan sát tiền cứu- RCT
BD (100%) hiệu quả hơn CH và MTA, 6 ca thất bại (3 CH, 3 MTA)
Thang điểm số đau Lâm sàng X quang quanh chóp Lâm sàng X quang quanh chóp Lâm sàng X quang quanh chóp Lâm sàng X quang quanh chóp
Katge (2017)
1 tuần 3 tháng 6 tháng 12 tháng 6 tháng 12 tháng
Chia miệng
Lâm sàng X quang quanh chóp
6-18 MTA, BD
7-9 AMTA, BD 29 bệnh nhân có RCL1 hai bên HT/HD 55 răng HT và HD
Parinyaprom (2017)
MTA, BD
68 Răng có sâu
Awawdeh (2018)
Lâm sàng X quang quanh chóp Lâm sàng X quang quanh chóp
18.9 ±12.9 tháng 6 tháng 1 năm 2 năm 3 năm
Quan sát tiền cứu- RCT NC quan sát tiền cứu-thử nghiệm lâm sàng
Quan sát tiền cứu
18- 55
WP-MTA, BD
21 Răng các loại
Tỷ lệ thành công 100% ở BD và MTA, cầu ngà MTA>BD sau 6 tháng, BD>MTA sau 12 tháng Tỷ lệ thành công MTA (92,6%) và BD (96,4%). Đổi màu ở MTA (55%) Tỷ lệ thành công: - 6 tháng: 93,3% (BD 93,1%, MTA 93,5%) - 1 năm: 96.2% (BD 96%, MTA 100%) - 2 năm: 100% - 3 năm: 93,8% (BD 91,7%, MTA 96%) Tỷ lệ thành công MTA (100%) và BD (95%)
Paula (2019)
Lâm sàng X quang quanh chóp
Bắt cặp
1 tuần 1 tháng 3 tháng 6 tháng 8 tuần
Song song
18- 30 18- 42
60 RCN (nhổ răng) 105 răng có sâu
Muruganadhan (2021) Peskersoy (2021)
CBCT Mô học Lâm sàng X quang quanh chóp
Cầu ngà ở MTA (10/15) > BD (9/15), 100% tủy sống. Tỷ lệ thành công LS và X quang: MTA (86,3% và 85,4%) BD (79,4% và 80,1%)
1 tháng 6 tháng 1 năm 3 năm
Bắt cặp
CH, MTA, BD, ERRM CH, LC CAL, THERA CAL, MTA, BD
Nghiên cứu này (2022)
18- 25
44 RCN (nhổ răng)
9-12 tuần 3-16 tuần
Tỷ lệ thành công LS, X quang quanh chóp và CBCT: MTA (95,5%; 50% và 59,1%) BD (95,5%; 95,5% và 100%
Lâm sàng X quang quanh chóp CBCT Mô học
Bảng 4.2: Tỷ lệ thành công của các nghiên cứu CTTT khác và nghiên cứu này theo thời gian.
143
Nghiên cứu
1-3 tháng
6 tháng
Vật liệu MTA BD MTA BD MTA BD MTA
1.5 - 2 năm 92 96 100 100
Tỷ lệ chung 92,6 96,4 88,89 81,48
Parinyaprom (2017) 88 Brizuela (2017) 1 Awawdeh (2018) 8 Peskersoy (2021) 136
BD
>2-3 năm 92 96 96 91,6 LS:85 XQ:86 LS:79 XQ:80
10 - 12 tháng 96 96 86,36 100 100 96 LS:86 XQ:86 LS:80 XQ:82
Nghiên cứu này (2022)
BD
100 100 LS: 93 XQ:99 LS: 92 XQ:91 MTA LS: 90,9 XQ: 63,6 LS: 100 XQ: 100
100 96 91,89 100 93,5 93,1 LS:86 XQ:88 LS:84 XQ:86 LS: 100 XQ: 54,5 LS: 90,9 XQ: 100 Bảng 4.3: Tỷ lệ thành công CTTT với MTA và BD theo các yếu tố ảnh hưởng.
Yếu tố
Phân loại
Tỷ lệ thành công MTA (%)
Tỷ lệ thành công Biodentine (%) Lipski (2018) 105
Tuổi Giới Vị trí răng Loại răng Sâu răng Vị trí sâu Lộ tủy Thời gian chờ trám kết thúc Chảy máu
< 40 tuổi ≥40 tuổi Nam Nữ Hàm trên Hàm dưới Răng trước Răng sau Nguyên phát Tái phát Nhai Bên/cổ Do sâu Do cơ học Nhỏ Lớn Tức thì-trước 2 ngày Từ 2 ngày -2-3 tháng Có Không
Mente (2014) 83 87 81 81 81 79 84 83 80 82 77 85 62
Marques (2015) 104 100 80 94,7 88,9 100 87,9 80 84 82 80 90,5 92
90,9 73,8 83,3 81,6 87,2 78,7 76,9 83,6 88,6 76,2 99,5 78,8 85,7 78,4
144
Tóm lại, ngày nay MTA hiện đã gần như thay thế calci hydroxid trở
thành “tiêu chuẩn vàng” của vật liệu CTTT. Tuy nhiên, MTA cũng có một số
nhược điểm, như khó thao tác, chi phí rất cao-hiệu quả và thời gian đông cứng
dài, có thể góp phần tạo vi kẽ, rỗ mặt, hở bờ. Vì thế, vật liệu sứ sinh học đã
được tiếp tục nghiên cứu, theo hướng cải tiến về cả đặc tính độ bền, độ khít sát,
và đồng nhất cũng như khả năng tương hợp sinh học. Ngoài ra, vật liệu cũng
cần ở mức giá thành hợp lý hơn để các tầng lớp bệnh nhân không có đủ điều
kiện kinh tế có thể tiếp cận và hưởng lợi ích từ các điều trị bảo tồn tủy. Sự xuất
hiện của BD trong những tiến bộ của vật liệu sinh học calci silicat mang đến
một lựa chọn điều trị trong lĩnh vực nội nha tái tạo. BD là vật liệu có các tính
năng của chất thay thế ngà với hoạt tính sinh học cao, được các nghiên cứu ghi
nhận thành công trong CTTT không thua kém MTA. Trong nghiên cứu này,
Biodentine được đưa vào so sánh với MTA về các hiệu quả lâm sàng, cận lâm
sàng và mô học nhằm hướng đến một vật liệu sinh học có giá thành dễ tiếp cận
hơn với đa số người bệnh mà vẫn đảm bảo hiệu quả trong điều trị. Mặc dù tỷ lệ
của chúng tôi cũng có khác biệt so với các nghiên cứu CTTT trước đây về ưu
điểm vượt trội hơn của BD trong sự hình thành mô khoáng nhưng tỷ lệ thành
công lâm sàng và cận lâm sàng rất khả quan về hiệu quả của Biodentine so với
MTA là đáng ghi nhận như những minh chứng cho hiệu quả của vật liệu.
Thật ra, tình trạng thực sự của sức khỏe tủy răng hoặc bệnh lý không thể
được xác định chỉ bằng các dấu hiệu lâm sàng, triệu chứng hoặc biểu hiện X
quang. Các bác sĩ lâm sàng chỉ có những đánh giá tương đối, chẳng hạn như thử
nhiệt độ nóng hoặc lạnh, thử điện, gõ, dựa trên những thay đổi về sự xuất hiện
của các mô mềm liên quan và báo cáo của bệnh nhân về các triệu chứng. Mục
tiêu của đề tài này là để trình bày một đánh giá có hệ thống về các đặc điểm lâm
sàng, cận lâm sàng về hiệu quả của xi măng calci silicat với hai đại diện MTA
và BD. Với thiết kế mô hình lộ tủy cơ học trong nghiên cứu, các phản ứng ngà
tủy mà chúng tôi ghi nhận được có lẽ chỉ thể hiện một phần các phản ứng có thể
xảy ra khi bị lộ tủy trên thực tế trong bối cảnh thường gặp là sửa soạn xoang sâu
lộ tủy trên lâm sàng.
145
4.6. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI
Đây là một nghiên cứu toàn diện đầu tiên tại Việt Nam về CTTT gồm 3
nghiên cứu độc lập, kế tiếp, bổ sung cho nhau: (I) lâm sàng, (II) X quang, (III)
mô học. Mục tiêu cuối cùng của thử nghiệm lâm sàng này là đưa ra kết luận dựa
trên bằng chứng có thể áp dụng cho thực hành lâm sàng. Vì vậy các vấn đề cần
quan tâm là trước hết là các thủ thuật, ưu khuyết điểm, rủi ro và trải nghiệm của
bệnh nhân trước khi bắt đầu quá trình điều trị che tủy, tiếp theo là xem xét hiệu
quả và tiên lượng của điều trị dựa trên các bằng chứng X quang và vi thể. Điều
này giúp đánh giá được toàn diện và tổng quát mối liên quan giữa vật liệu calci
silicat và các phản ứng ngà tủy, cũng như tình trạng sống của răng. Trong bối
cảnh này, chúng tôi mới có thể nhận thức được những thách thức và thiếu sót
vốn có trong việc rút ra những nhận xét hay đánh giá từ những kết quả nghiên
cứu.
Nghiên cứu thực hiện mô phỏng tạo xoang lộ tủy trong tình huống răng
lành không có sâu răng hoạt động ban đầu, thiết kế này có ưu điểm là loại bỏ
được hoàn toàn các yếu tố gây nhiễu bởi mức độ và thời gian sâu răng ban đầu
có thể ảnh hưởng kết quả, tuy nhiên đây cũng là hạn chế vì mô hình này chưa
thật sự phản ảnh tình trạng thực tế lâm sàng.
Điểm mới của nghiên cứu là thực hiện so sánh kết quả của mô khoáng đo
được trên phim quanh chóp và trên phim CBCT; và so sánh kết quả chụp CBCT
giữa R trước và sau nhổ, minh họa được hiệu quả và hạn chế của phim quanh
chóp và phim CBCT trong đánh giá mô tủy. Các nghiên cứu trước đây chưa có
đề tài nào thực hiện các đánh giá so sánh tương tự.
Trong những năm đầu của thế kỷ 21 cho đến nay sự hiểu biết về sinh bệnh
học và lành thương trong nội nha tái tạo đã có nhiều bước tiến lớn, hướng điều
trị mới cho các phương pháp điều trị che tủy truyền thống. Tuy nhiên do tần
suất thực hiện các điều trị CTTT trên lâm sàng không nhiều nên các báo cáo về
lành thương của điều trị vẫn còn hạn chế. Việc chẩn đoán, tái đánh giá và theo
dõi kiểm soát tiến triển gặp khó khăn khi thực hiện định kỳ và đa số bệnh nhân
thường không trở lại tái khám hay bỏ hẹn khi đã hết triệu chứng lâm sàng. Do
146
vậy, việc có minh chứng khi theo dõi lành thương là rất quan trọng để đánh giá
hiệu quả lành thương đồng thời khảo sát mối liên hệ giữa những trường hợp
được đánh giá là thành công sau thời gian theo dõi. Những thông tin trong
nghiên cứu sẽ góp phần cung cấp thêm bằng chứng khoa học cho sự hiểu biết về
hiệu quả phương pháp điều trị nội nha tái tạo còn khá mới mẻ, và do ít minh
chứng nên chưa được nhiều nhà lâm sàng đặt niềm tin. Hy vọng trong tương lai
không xa đây sẽ là một lựa chọn điều trị tối ưu giúp giữ lại và phục hồi sự sống
tủy cho các răng vĩnh viễn có bị tổn thương tủy như một giải pháp can thiệp tối
thiểu nhằm mục đích bảo tồn giữ tủy tối đa và đủ tiềm năng thay thế các
phương pháp lấy tủy cổ điển.
Các quan điểm cổ điển về chỉ định CTTT luôn khuyến cáo về khả năng
thành công rất thấp khi hiện diện sâu răng hoặc viêm tủy không hồi phục. Ngày
nay, trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của công nghệ vật liệu, nhiều vật
liệu mới có hoạt tính sinh học trong phục hồi răng ra đời. Với các kết quả thành
công tốt của nghiên cứu này về khả năng tạo lành thương tủy, các nhà lâm sàng
có thể cân nhắc thực hiện CTTT trên các trường hợp mà trong quá khứ các vật
liệu cũ đã thất bại, từ đó kéo dài hơn tuổi thọ của các răng có tiền sử sâu hoặc
viêm tủy, tránh tình trạng phải lấy tủy một cách đáng tiếc.
Điểm mạnh của nghiên cứu là ghi nhận sự vượt trội trong hình thành cầu
ngà sửa chữa ở nhóm BD so với MTA, tuy sự khác biệt không có ý nghĩa nhưng
cũng thu được hình ảnh cầu ngà khá rõ và có độ cản quan đồng nhất. Một đặc
điểm đáng lưu ý là trong thời gian nghiên cứu tất cả các trường hợp tủy vẫn
sống dù có hay không hiện diện mô khoáng hóa điển hình là cầu ngà trên X
quang hay mô học, các minh chứng mô học không cho thấy có biểu hiện viêm
tiến triển. Điều này có vẻ mâu thuẫn với quan điểm nhiều tác giả cho rằng chất
lượng mô sửa chửa phản ánh tình trạng sức khỏe tủy sau che tủy, phải có sự hiện diện cầu ngà thì điều trị mới được xem là đã thành công 10. Chúng tôi cho
rằng cầu ngà chưa hẳn là biện pháp bảo vệ tủy hiệu quả duy nhất với các tác
nhân bệnh lý, các mô ngà phản ứng trên thành tủy (giúp giảm tính thấm ngà
răng) cũng có thể góp phần bảo tồn tủy sống. Hơn nữa, sự hình thành cầu ngà
147
có cấu trúc không đồng nhất về mật độ có nghĩa là mô tủy không hẳn là bị bịt
kín hoàn toàn khỏi môi trường nên vẫn sẽ có thể có xâm nhiễm vi khuẩn theo
thời gian. Vì thế cũng còn nhiều nghi vấn về loại kiểu hình ngà thứ ba thật sự
thuận lợi cho sự lành thương và bảo tồn sự sống tủy răng. Tuy nhiên, phát hiện
này vẫn cho thấy sự đa dạng của đáp ứng tủy (không chỉ là hình thành cầu ngà)
và hiệu quả thật sự đáng ghi nhận của calci silicat trong CTTT, từ đó các nhà
lâm sàng có thêm cơ sở khoa học khi lựa chọn sử dụng calci silicat trong quá
trình điều trị bảo tồn tủy.
4.7. Ý NGHĨA ỨNG DỤNG VÀ HẠN CHẾ CỦA ĐỀ TÀI
4.7.1. Ý nghĩa ứng dụng
Tủy răng sống góp phần vào sản xuất ngà thứ phát đáp ứng với kích thích
ngoại lai. Vì vậy, vấn đề bảo tồn tủy răng, hay duy trì sự sống của tủy là mục
tiêu giúp CTTT thành công và cũng là yếu tố mấu chốt có ý nghĩa vô cùng quan
trọng để kích tạo lành thương và giúp duy trì sự tồn tại lâu dài của răng.
Về ứng dụng thực tiễn lâm sàng, kết quả nghiên cứu cho thấy có sự khác
biệt về đáp ứng đối với điều trị CTTT của hai nhóm vật liệu sinh học MTA và
BD, từ đó giúp có cái nhìn rõ hơn về hiệu quả lâm sàng, cận lâm sàng khi ứng
dụng của hai loại vật liệu trong các điều trị lộ tủy do cơ học hoặc chấn thương,
không liên quan nhiễm khuẩn kéo dài.
Ngoài ra, nhờ hiệu quả cao của vật liệu qua kết quả nghiên cứu ở các
trường hợp lộ tủy cơ học, có thể tìm thêm minh chứng để hướng dần đến kiến
nghị để xem xét bổ sung ứng dụng lâm sàng của CTTT trên các đối tượng mà
trước đây có chống chỉ định do tỷ lệ thất bại cao như lộ tủy kích thước lớn hoặc
thậm chí lộ tủy do sâu răng. Khi có cơ sở khoa học từ các thành công và không
ngần ngại đặt niềm tin vào phương pháp điều trị, nhà lâm sàng sẽ làm chủ thủ
thuật, thực hiện đúng chỉ định, đồng thời giải thích và khuyến khích người bệnh
sử dụng các vật liệu mới, từ đó giúp ích trong việc kiểm soát, ngăn ngừa viêm
tủy và kích thích lành thương, duy trì tuổi thọ cho răng cũng như mang lại chất
lượng điều trị cho bệnh nhân.
148
Về ứng dụng khoa học và giảng dạy, nghiên cứu cung cấp thêm bằng
chứng khoa học về đáp ứng của tủy đối với điều trị che tủy của MTA và BD ở
răng vĩnh viễn người trẻ. Từ đó mở ra nhiều hướng nghiên cứu về hiệu quả của
các vật liệu calci sillicat trong khả năng ngăn chặn vi sinh vật xâm nhập, và
hình thành cầu ngà sửa chữa che phủ mô tủy lộ. Đồng thời trong giảng dạy về
chẩn đoán và điều trị cũng có thể cập nhật các quan điểm mới trong kiểm soát
các tình huống viêm tủy được cho là khó thành công trước đây.
4.7.2. Hạn chế của đề tài
Nghiên cứu lâm sàng này vẫn còn những điểm hạn chế sau:
Một là, nghiên cứu sử dụng mô hình tạo lộ tủy mô phỏng, không có bệnh
căn thật do vi khuẩn nên kết quả của nghiên cứu tuy có giá trị cao trong đánh
giá đáp ứng ngà tủy với các nguyên nhân lộ tủy do cơ học nhưng lại không đại
diện cho mô hình lộ tủy do sâu răng thông thường hay lộ tủy do chấn thương.
Hai là, đối tượng nghiên cứu là trên các răng cối nhỏ một hoặc hai ống
tủy. Việc lấy mẫu vi khuẩn trong các ống tủy như vậy rõ ràng dễ kiểm soát hơn.
tuy nhiên, đối với các răng sau nhiều ống tủy, các ống tủy cong hẹp và giải phẫu
phức tạp hơn thì kết quả về mức độ giảm lượng vi khuẩn sau khi sửa soạn có
thể sẽ khác. Ngoài ra, theo thống kê dịch tể, bệnh nhân trẻ thường hay sâu răng
và có chỉ định CTTT ở răng cối nhỏ ít hơn các nhóm răng cối lớn hoặc răng
cửa.
Ba là, thời gian nghiên cứu còn hàn chế, do chỉ thiết kế nhằm mục tiêu
chủ yếu là quan sát đánh giá và đưa ra những nhận xét về lành thương sơ khởi
trong những tháng đầu tiên và giảm thiểu ảnh hưởng đến kế hoạch điều trị của
các đối tượng tham gia nên không có cơ hội đánh giá và quan sát quá trình lành
thương lâu dài. Ngoài ra, do việc nhổ răng theo kế hoạch chỉnh hình cũng không
cho phép tiếp tục theo dõi bệnh nhân sau điều trị CTTT. Cần có nghiên cứu dọc
xác định quan hệ nhân quả, nghiên cứu thực nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, trong
phòng thí nghiệm cũng như trong lâm sàng và theo dõi theo thời gian để làm
sáng tỏ yếu tố tương quan giữa hai bệnh trong cơ chế viêm và hình thành phản
ứng sửa chữa ngà.
149
KẾT LUẬN
Qua nghiên cứu hiệu quả che tủy trực tiếp của xi măng Calci Silicat trên 44
trường hợp (18-25 tuổi) ở hai cặp nhóm sử dụng MTA và BD (thời điểm 9-12 tuần
và 13-16 tuần) cho phép rút ra các kết quả sau:
1. Đánh giá lâm sàng
- 100% răng có đáp ứng bình thường với các thử nghiệm tủy, không có dấu hiệu
bệnh lý nha chu; 90,9% (MTA và BD) sau 9-12 tuần; 100% (MTA) và 90,9%
(BD) sau 13-16 tuần không có cảm giác đau khi gõ dọc (p>0,5).
- 63,6% (MTA) và 45,5% (BD) đau nhẹ/vừa (p>0,05); 2 trường hợp đau nhiều ở
nhóm BD sau 24 giờ; trong đó 75% (MTA) và 100%(BD) đau do tác nhân nhiệt
độ (p>0,5), 2 ca MTA đau tự phát và 100% hết đau sau 4 tuần.
2. Đánh giá X quang
- 100% không có sang thương quanh chóp và nội ngoại tiêu.
2.1. Phim quanh chóp
- Độ dày trung bình cầu ngà sau 9-12 tuần là 0,63 ± 0,58 mm (MTA) và 1,34 ±
0,57 mm (BD); sau 13-16 tuần là 0,56 ± 0,60 mm (MTA) và 1,34 ± 0,43 mm
(BD) (p<0,05).
2.2. Phim CBCT
- Độ dày trung bình cầu ngà sau 9-12 tuần là 0,61 ± 0,58 (MTA) và 1,26 ± 0,54
mm (BD); sau 13-16 tuần là 0,48 ± 0,59 mm (MTA) và 1,22 ± 0,46 mm (BD)
(p<0,05).
- Thể tích cầu ngà sau 9-12 tuần là 0,54 ± 0,61 mm3 (MTA) và 1,10 ± 1,01 mm3
(BD) (p>0,05); sau 13-16 tuần là 0, 47 ± 0,63 mm3 (MTA) và 1,36 ± 1,08 mm3
(BD) (p<0,05).
- Mật độ cầu ngà sau 9-12 tuần là 1509,41 HU (MTA) và 1387,06 HU (BD)
(p>0,05); sau 13-16 tuần là 1549,01 HU (MTA) 1522,00 HU (BD) (p>0,05).
- Mật độ vật liệu che tủy sau 9-12 tuần là 2974,43 HU (MTA), và 2768,68 HU
(BD); sau 13-16 tuần 2996,09 HU (MTA), và 2635,59 HU (BD) (p<0,05).
150
3. Đánh giá mô học
- Không có vi khuẩn và hiện tượng viêm ở 100% mẫu trong mô tủy.
- 91,67% mẫu ở nhóm MTA và BD có sự hình thành mô khoáng hóa sửa chữa
với mức độ khác nhau.
- Độ dày cầu ngà trung bình mẫu MTA và BD lần lượt là 0,31 ± 0,27 mm và 0,76
± 0,43 mm.
- 72,7% mẫu MTA và BD có hình ảnh tế bào dạng nguyên bào ngà hoặc nguyên
bào sợi ở lân cận cầu ngà với mật độ khác nhau.
4. Đánh giá tỷ lệ thành công
- Tỷ lệ thành công chung lâm sàng của MTA là 95,5% (90,9% sau 9-12 tuần và
100% sau 13-16 tuần) và BD là 95.5% (100% sau 9-12 tuần và 90,9% sau 13-
16 tuần).
- Tỷ lệ thành công chung trên phim quanh chóp của MTA là 50% (54,5% sau 9-
12 tuần và 45,5% sau 13-16 tuần) và của BD là 95,5% (90,9% sau 9-12 tuần và
100% sau 13-16 tuần).
- Tỷ lệ thành công chung trên phim CBCT của MTA là 59,1% (63,6% sau 9-12
tuần và 54,5% sau 13-16 tuần) và của BD là 100% (100% sau 9-12 tuần và
100% sau 13-16 tuần).
- Tỷ lệ thành công mô học của MTA và BD đều là 90,9% sau 9-12 tuần.
- Không có sự khác biệt về tỷ lệ thành công giữa hai nhóm MTA và BD trên lâm
sàng và cận lâm sàng (X quang, mô học).
Tóm lại, sau 9-16 tuần CTTT với MTA và BD, kết quả lâm sàng cho thấy
biểu hiện tình trạng tủy ổn định; đánh giá X quang và mô học thể hiện liên quan
chặt chẽ giữa phản ứng hình thành mô khoáng hóa với sự lành thương và bảo tồn
tủy sống. Tỷ lệ thành công sau điều trị cao và không có khác biệt ý nghĩa giữa hai
nhóm ở hai thời điểm nghiên cứu. Từ các kết quả thu được trong nghiên cứu, có
thể kết luận rằng MTA và BD là hai loại vật liệu sinh học calci silicat đạt hiệu quả
cao tương tự nhau và đều là lựa chọn tốt cho thủ thuật điều trị CTTT.
151
KIẾN NGHỊ
Dựa trên kết quả nghiên cứu, chúng tôi xin có một số kiến nghị:
- Ứng dụng thang đánh giá chi tiết gồm hệ thống các tiêu chí về lâm sàng và X
quang trong nghiên cứu khi đánh giá hiệu quả điều trị CTTT với các loại vật
liệu sinh học MTA và BD.
- Ngoài hình ảnh X quang quanh chóp, đề nghị bổ sung thêm chỉ định chụp
CBCT vào các xét nghiệm thường quy ở các giai đoạn theo dõi và tái đánh
giá sau điều trị CTTT để hỗ trợ lâm sàng, phát hiện và nhận diện sớm những
trường hợp bệnh lý tủy và vùng quanh chóp.
- Mở rộng hướng nghiên cứu đánh giá tình trạng đau của bệnh nhân, triệu
chứng lâm sàng, hình ảnh quanh chóp, CBCT, mô học trên các tình huống
lâm sàng có lộ tủy thật do các nguyên nhân khác nhau như cơ học, sâu răng
hoặc đang viêm tủy không hồi phục sẽ theo dõi và đánh giá tiến triển lành
thương cũng như tiên lượng bệnh hiệu quả hơn.
- Tiếp tục nghiên cứu trên các đối tượng khác (trẻ vị thành niên có hệ răng
hỗn hợp, người trung niên, người lớn tuổi..); các nhóm răng khác (răng trước
và răng cối lớn) để đánh giá đáp ứng của các nhóm vật liệu calci silicat trong
điều trị CTTT.
- Tiếp tục nghiên cứu trên cỡ mẫu lớn hơn và ở những thời điểm dài hơn như
6-12-18 tháng để xem xét hiệu quả lâu dài của vật liệu trong điều trị.
- Tiếp tục nghiên cứu đánh giá hiệu quả của nhóm vật liệu calci silicat qua các
đáp ứng mô học trên các xét nghiệm hóa mô miễn dịch với các dấu ấn sinh
học để tìm kiếm các minh chứng về bản chất của các mô ngà khoáng hóa và
loại tế bào (nguyên bào sợi, tế bào dạng nguyên bào ngà) chịu trách nhiệm
cho quy trình tạo ngà sửa chữa trong CTTT.
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1. Bùi Huỳnh Anh (2022), “Vật liệu sinh học Calcium Silicate và những
thành công trong điều trị che tủy trực tiếp”, Báo cáo Hội Nghị Khoa học
kỹ thuật Răng Hàm Mặt lần thứ 44, Đại Học Y Dược TPHCM
05/04/2022.
2. Bùi Huỳnh Anh, Phạm Văn Khoa (2021), “Đánh giá cảm giác đau và
nhạy cảm sau điều trị che tủy trực tiếp với vật liệu sinh học Calcium
silicate”, Tạp chí Y học Việt Nam, tháng 5-2021, 502(2), 33-38.
3. Anh Huynh Bui, Khoa Van Pham (2021), “Evaluation of reparative
dentine bridge formation after direct pulp capping with Biodentine”,
Journal of International Society of Preventive and Community Dentistry,
ISSN 22310762 / 22501002, 11(1), 77–82.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Brizuela C, Ormeno A, Cabrera C, et al. Direct Pulp Capping with
Calcium Hydroxide, Mineral Trioxide Aggregate, and Biodentine in
Permanent Young Teeth with Caries: A Randomized Clinical Trial.
Journal of endodontics. Nov 2017; 43(11):1776-1780.
doi:10.1016/j.joen.2017.06.031
2. Parirokh M, Torabinejad M. Mineral trioxide aggregate: a
comprehensive literature review--Part I: chemical, physical, and
antibacterial properties. Journal of endodontics. Jan 2010; 36(1):16-27.
doi:10.1016/j.joen.2009.09.006
3. Parirokh M, Torabinejad M. Mineral trioxide aggregate: a
comprehensive literature review--Part III: Clinical applications,
drawbacks, and mechanism of action. Journal of endodontics. Mar 2010;
36(3):400-13. doi:10.1016/j.joen.2009.09.009
4. Torabinejad M, Parirokh M. Mineral trioxide aggregate: a
comprehensive literature review--part II: leakage and biocompatibility
investigations. Journal of endodontics. Feb 2010; 36(2):190-202.
doi:10.1016/j.joen.2009.09.010
5. Kaur M, Singh H, Dhillon JS, Batra M, Saini M. MTA versus
Biodentine: Review of Literature with a Comparative Analysis. Journal
of clinical and diagnostic research : JCDR. 2017; 11(8):ZG01-ZG05.
doi:10.7860/JCDR/2017/25840.10374
6. Rajasekharan S, Martens LC, Cauwels R, Anthonappa RP, Verbeeck
RMH. Biodentine material characteristics and clinical applications: a 3
year literature review and update. European archives of paediatric
dentistry : official journal of the European Academy of Paediatric
Dentistry. Feb 2018; 19(1):1-22. doi:10.1007/s40368-018-0328-x
7. Careddu R, Duncan HF. How does the pulpal response to Biodentine and
ProRoot mineral trioxide aggregate compare in the laboratory and clinic?
British dental journal. Oct 19 2018; doi:10.1038/sj.bdj.2018.864
8. Awawdeh L, Al-Qudah A, Hamouri H, Chakra RJ. Outcomes of Vital
Pulp Therapy Using Mineral Trioxide Aggregate or Biodentine: A
Prospective Randomized Clinical Trial. Journal of endodontics. Nov
2018; 44(11):1603-1609. doi:10.1016/j.joen.2018.08.004
9. Komabayashi T, Zhu Q, Eberhart R, Imai Y. Current status of direct
pulp-capping materials for permanent teeth. Dental materials journal.
2016; 35(1):1-12. doi:10.4012/dmj.2015-013
10. About I. Recent Trends in Tricalci silicats for Vital Pulp Therapy.
Current Oral Health Reports. 2018; 5:178-185.
11. Katge FA, Patil DP. Comparative Analysis of 2 Calci silicat-based
Cements (Biodentine and Mineral Trioxide Aggregate) as Direct Pulp-
capping Agent in Young Permanent Molars: A Split Mouth Study.
Journal of endodontics. Apr 2017; 43(4):507-513.
doi:10.1016/j.joen.2016.11.026
12. Torabinejad M, Watson TF, Pitt Ford TR. Sealing ability of a mineral
trioxide aggregate when used as a root end filling material. Journal of
endodontics. Dec 1993; 19(12):591-5. doi:10.1016/s0099-
2399(06)80271-2
13. Lee SJ, Monsef M, Torabinejad M. Sealing ability of a mineral trioxide
aggregate for repair of lateral root perforations. Journal of endodontics.
Nov 1993; 19(11):541-4. doi:10.1016/s0099-2399(06)81282-3
14. Jenkins S, Kulild J, Williams K, Lyons W, Lee C. Sealing ability of
three materials in the orifice of root canal systems obturated with gutta-
percha. Journal of endodontics. Mar 2006; 32(3):225-7.
doi:10.1016/j.joen.2005.10.042
15. Komabayashi T, Spangberg LS. Comparative analysis of the particle size
and shape of commercially available mineral trioxide aggregates and
Portland cement: a study with a flow particle image analyzer. Journal of
endodontics. Jan 2008; 34(1):94-8. doi:10.1016/j.joen.2007.10.013
16. Song JS, Mante FK, Romanow WJ, Kim S. Chemical analysis of powder
and set forms of Portland cement, gray ProRoot MTA, white ProRoot
MTA, and gray MTA-Angelus. Oral surgery, oral medicine, oral
pathology, oral radiology, and endodontics. Dec 2006; 102(6):809-15.
doi:10.1016/j.tripleo.2005.11.034
17. Camilleri J, Sorrentino F, Damidot D. Investigation of the hydration and
bioactivity of radiopacified tricalci silicat cement, Biodentine and MTA
Angelus. Dental materials : official publication of the Academy of
Dental Materials. May 2013; 29(5):580-93.
doi:10.1016/j.dental.2013.03.007
18. Kum KY, Kim EC, Yoo YJ, et al. Trace metal contents of three tricalci
silicat materials: MTA Angelus, Micro Mega MTA and Bioaggregate.
International endodontic journal. Jul 2014; 47(7):704-10.
doi:10.1111/iej.12208
19. Gandolfi MG, Siboni F, Botero T, Bossu M, Riccitiello F, Prati C. Calci
silicat and calcium hydroxide materials for pulp capping:
biointeractivity, porosity, solubility and bioactivity of current
formulations. Journal of applied biomaterials & functional materials.
Jan-Mar 2015; 13(1):43-60. doi:10.5301/jabfm.5000201
20. Bachoo IK, Seymour D, Brunton P. A biocompatible and bioactive
replacement for dentine: is this a reality? The properties and uses of a
novel calcium-based cement. British dental journal. Jan 2013;
214(2):E5. doi:10.1038/sj.bdj.2013.57
21. About I. Biodentine: from biochemical and bioactive properties to
clinical applications. Giornale Italiano di Endodonzia. 2016/11/01/
2016; 30(2):81-88. doi:https://doi.org/10.1016/j.gien.2016.09.002
22. Bhavana V, Chaitanya KP, Gandi P, Patil J, Dola B, Reddy RB.
Evaluation of antibacterial and antifungal activity of new calcium-based
cement (Biodentine) compared to MTA and glass ionomer cement.
Journal of conservative dentistry : JCD. Jan-Feb 2015; 18(1):44-6.
doi:10.4103/0972-0707.148892
23. Bakhtiar H, Nekoofar MH, Aminishakib P, et al. Human Pulp Responses
to Partial Pulpotomy Treatment with TheraCal as Compared with
Biodentine and ProRoot MTA: A Clinical Trial. Journal of endodontics.
Nov 2017; 43(11):1786-1791. doi:10.1016/j.joen.2017.06.025
24. Laurent P, Camps J, About I. Biodentine(TM) induces TGF-beta1
release from human pulp cells and early dental pulp mineralization.
International endodontic journal. May 2012; 45(5):439-48.
doi:10.1111/j.1365-2591.2011.01995.x
25. Han L, Okiji T. Bioactivity evaluation of three calci silicat-based
endodontic materials. International endodontic journal. Sep 2013;
46(9):808-14. doi:10.1111/iej.12062
26. Tziafa C, Koliniotou-Koumpia E, Papadimitriou S, Tziafas D.
Dentinogenic responses after direct pulp capping of miniature swine
teeth with Biodentine. Journal of endodontics. Dec 2014; 40(12):1967-
71. doi:10.1016/j.joen.2014.07.021
27. Accorinte ML, Loguercio AD, Reis A, et al. Response of human dental
pulp capped with MTA and calcium hydroxide powder. Operative
dentistry. Sep-Oct 2008; 33(5):488-95. doi:10.2341/07-143
28. Tran XV, Gorin C, Willig C, et al. Effect of a calcium-silicate-based
restorative cement on pulp repair. Journal of dental research. Dec 2012;
91(12):1166-71. doi:10.1177/0022034512460833
29. Roberts HW, Toth JM, Berzins DW, Charlton DG. Mineral trioxide
aggregate material use in endodontic treatment: a review of the literature.
Dental materials : official publication of the Academy of Dental
Materials. Feb 2008; 24(2):149-64. doi:10.1016/j.dental.2007.04.007
30. Duarte MA, Demarchi AC, Yamashita JC, Kuga MC, Fraga Sde C. pH
and calcium ion release of 2 root-end filling materials. Oral surgery, oral
medicine, oral pathology, oral radiology, and endodontics. Mar 2003;
95(3):345-7. doi:10.1067/moe.2003.12
31. Santos AD, Araujo EB, Yukimitu K, Barbosa JC, Moraes JC. Setting
time and thermal expansion of two endodontic cements. Oral surgery,
oral medicine, oral pathology, oral radiology, and endodontics. Sep
2008; 106(3):e77-9. doi:10.1016/j.tripleo.2008.04.021
32. Butt N, Talwar S, Chaudhry S, Nawal RR, Yadav S, Bali A. Comparison
of physical and mechanical properties of mineral trioxide aggregate and
Biodentine. Indian journal of dental research : official publication of
Indian Society for Dental Research. Nov-Dec 2014; 25(6):692-7.
doi:10.4103/0970-9290.152163
33. Kaur M, Singh H, Dhillon JS, Batra M, Saini M. MTA versus
Biodentine: Review of Literature with a Comparative Analysis. J Clin
Diagn Res. Aug 2017; 11(8):Zg01-zg05.
doi:10.7860/jcdr/2017/25840.10374
34. Vargas JW, Liewehr FR, Joyce AP, Runner RR. A comparison of the in
vitro retentive strength of glass-ionomer cement, zinc-phosphate cement,
and mineral trioxide aggregate for the retention of prefabricated posts in
bovine incisors. Journal of endodontics. Nov 2004; 30(11):775-7.
35. Nagas E, Cehreli ZC, Uyanik MO, Vallittu PK, Lassila LV. Effect of
several intracanal medicaments on the push-out bond strength of
ProRoot MTA and Biodentine. International endodontic journal. Feb
2016; 49(2):184-8. doi:10.1111/iej.12433
36. Torabinejad M, Chivian N. Clinical applications of mineral trioxide
aggregate. Journal of endodontics. Mar 1999; 25(3):197-205.
doi:10.1016/s0099-2399(99)80142-3
37. Parirokh M, Torabinejad M. Mineral trioxide aggregate and other
bioactive endodontic cements: an updated overview - part I: vital pulp
therapy. Feb 2018; 51(2):177-205. doi:10.1111/iej.12841
38. Marciano MA, Costa RM, Camilleri J, Mondelli RF, Guimaraes BM,
Duarte MA. Assessment of color stability of white mineral trioxide
aggregate angelus and bismuth oxide in contact with tooth structure.
Journal of endodontics. Aug 2014; 40(8):1235-40.
doi:10.1016/j.joen.2014.01.044
39. Palma PJ, Marques JA. Six-Month Color Stability Assessment of Two
Calci silicat-Based Cements Used in Regenerative Endodontic
Procedures. Feb 28 2019; 10(1)doi:10.3390/jfb10010014
40. Valles M, Mercade M, Duran-Sindreu F, Bourdelande JL, Roig M.
Influence of light and oxygen on the color stability of five calci silicat-
based materials. Journal of endodontics. Apr 2013; 39(4):525-8.
doi:10.1016/j.joen.2012.12.021
41. Marconyak LJ, Jr., Kirkpatrick TC, Roberts HW, et al. A Comparison of
Coronal Tooth Discoloration Elicited by Various Endodontic Reparative
Materials. Journal of endodontics. Mar 2016; 42(3):470-3.
doi:10.1016/j.joen.2015.10.013
42. Yoldas SE, Bani M, Atabek D, Bodur H. Comparison of the Potential
Discoloration Effect of Bioaggregate, Biodentine, and White Mineral
Trioxide Aggregate on Bovine Teeth: In Vitro Research. Journal of
endodontics. Dec 2016; 42(12):1815-1818.
doi:10.1016/j.joen.2016.08.020
43. Aguilar P, Linsuwanont P. Vital pulp therapy in vital permanent teeth
with cariously exposed pulp: a systematic review. Journal of
endodontics. May 2011; 37(5):581-7. doi:10.1016/j.joen.2010.12.004
44. Holt DM, Watts JD, Beeson TJ, Kirkpatrick TC, Rutledge RE. The anti-
microbial effect against enterococcus faecalis and the compressive
strength of two types of mineral trioxide aggregate mixed with sterile
water or 2% chlorhexidine liquid. Journal of endodontics. Jul 2007;
33(7):844-7. doi:10.1016/j.joen.2007.04.006
45. Al-Hezaimi K, Al-Shalan TA, Naghshbandi J, Oglesby S, Simon JH,
Rotstein I. Antibacterial effect of two mineral trioxide aggregate (MTA)
preparations against Enterococcus faecalis and Streptococcus sanguis in
vitro. Journal of endodontics. Nov 2006; 32(11):1053-6.
doi:10.1016/j.joen.2006.06.004
46. Al-Hezaimi K, Al-Shalan TA, Naghshbandi J, Simon JH, Rotstein I.
MTA preparations from different origins may vary in their antimicrobial
activity. Oral surgery, oral medicine, oral pathology, oral radiology,
and endodontics. May 2009; 107(5):e85-8.
doi:10.1016/j.tripleo.2009.01.045
47. Hiremath GS, Kulkarni RD, Naik BD. Evaluation of minimal inhibitory
concentration of two new materials using tube dilution method: An in
vitro study. Journal of conservative dentistry : JCD. Mar-Apr 2015;
18(2):159-62. doi:10.4103/0972-0707.153056
48. Cushley S, Duncan H, Lappin MJ, et al. Efficacy of direct pulp capping
for management of cariously exposed pulps in permanent teeth: A
systematic review and meta‐analysis. International endodontic journal.
11/22 2020; 54doi:10.1111/iej.13449
49. Sanz JL, Rodriguez-Lozano FJ. Bioactivity of Bioceramic Materials
Used in the Dentin-Pulp Complex Therapy: A Systematic Review. Mar
27 2019; 12(7)doi:10.3390/ma12071015
50. Giraud T, Jeanneau C, Rombouts C, Bakhtiar H, Laurent P, About I.
Pulp capping materials modulate the balance between inflammation and
regeneration. Dental materials : official publication of the Academy of
Dental Materials. Jan 2019; 35(1):24-35.
doi:10.1016/j.dental.2018.09.008
51. Bjørndal L, Simon S, Tomson PL, Duncan HF. Management of deep
caries and the exposed pulp. Jul 2019; 52(7):949-973.
doi:10.1111/iej.13128
52. Cuadros-Fernández C, Rodríguez A, Sáez-Martínez S, Garcia J, About I,
Mercadé M. Short-term treatment outcome of pulpotomies in primary
molars using mineral trioxide aggregate and Biodentine: a randomized
clinical trial. Clinical oral investigations. 09/01 2016;
20doi:10.1007/s00784-015-1656-4
53. Abbasipour F, Rastqar A, Bakhtiar H, Khalilkhani H, Aeinehchi M,
Janahmadi M. The nociceptive and anti-nociceptive effects of white
mineral trioxide aggregate. International endodontic journal. Sep 2009;
42(9):794-801. doi:10.1111/j.1365-2591.2009.01585.x
54. Bachoo IK, Seymour D, Brunton P. A biocompatible and bioactive
replacement for dentine: is this a reality? The properties and uses of a
novel calcium-based cement. British dental journal. 2013/01/01 2013;
214(2):E5-E5. doi:10.1038/sj.bdj.2013.57
55. Zhou HM, Shen Y, Wang ZJ, et al. In vitro cytotoxicity evaluation of a
novel root repair material. Journal of endodontics. Apr 2013; 39(4):478-
83. doi:10.1016/j.joen.2012.11.026
56. Zakerzadeh A, Esnaashari E, Dadfar S. In Vitro Comparison of
Cytotoxicity and Genotoxicity of Three Vital Pulp Capping Materials.
Iranian endodontic journal. Fall 2017; 12(4):419-425.
doi:10.22037/iej.v12i4.15104
57. Murray PE, Windsor LJ, Smyth TW, Hafez AA, Cox CF. Analysis of
pulpal reactions to restorative procedures, materials, pulp capping, and
future therapies. Critical reviews in oral biology and medicine : an
official publication of the American Association of Oral Biologists.
2002; 13(6):509-20.
58. Tziafas D. Characterization of Odontoblast-like Cell Phenotype and
Reparative Dentin Formation In Vivo: A Comprehensive Literature
Review. Journal of endodontics. Mar 2019; 45(3):241-249.
doi:10.1016/j.joen.2018.12.002
59. Fitzgerald M, Chiego DJ, Jr., Heys DR. Autoradiographic analysis of
odontoblast replacement following pulp exposure in primate teeth.
Archives of oral biology. 1990; 35(9):707-15.
60. Alliot-Licht B, Hurtrel D, Gregoire M. Characterization of alpha-smooth
muscle actin positive cells in mineralized human dental pulp cultures.
Archives of oral biology. Mar 2001; 46(3):221-8.
61. Carlile MJ, Sturrock MG, Chisholm DM, Ogden GR, Schor AM. The
presence of pericytes and transitional cells in the vasculature of the
human dental pulp: an ultrastructural study. The Histochemical journal.
Apr 2000; 32(4):239-45.
62. About I, Bottero MJ, de Denato P, Camps J, Franquin JC, Mitsiadis TA.
Human dentin production in vitro. Experimental cell research. Jul 10
2000; 258(1):33-41. doi:10.1006/excr.2000.4909
63. Margunato S, Taşlı P, Aydin S, Karapinar-Kazandağ M, Sahin F. In
Vitro Evaluation of ProRoot MTA, Biodentine, and MM-MTA on
Human Alveolar Bone Marrow Stem Cells in Terms of Biocompatibility
and Mineralization. Journal of endodontics. 09/27 2015; 41:1646-1652.
doi:10.1016/j.joen.2015.05.012
64. Nhung TPH, Vĩnh TX. Đáp ứng in vitro của tế bào gốc trung mô tuỷ
xương người với Biodentine. Tạp chí Y học. 2017; 21(4):86-92.
65. Smith AJ. Pulpal responses to caries and dental repair. Caries research.
Jul-Aug 2002; 36(4):223-32. doi:10.1159/000063930
66. Lesot H, Lisi S, Peterkova R, Peterka M, Mitolo V, Ruch JV. Epigenetic
signals during odontoblast differentiation. Advances in dental research.
Aug 2001; 15:8-13. doi:10.1177/08959374010150012001
67. Vongsavan N, Matthews RW, Matthews B. The permeability of human
dentine in vitro and in vivo. Archives of oral biology. Nov 2000;
45(11):931-5.
68. Smith AJ, Lesot H. Induction and regulation of crown dentinogenesis:
embryonic events as a template for dental tissue repair? Critical reviews
in oral biology and medicine : an official publication of the American
Association of Oral Biologists. 2001; 12(5):425-37.
69. Nair PN, Duncan HF, Pitt Ford TR, Luder HU. Histological,
ultrastructural and quantitative investigations on the response of healthy
human pulps to experimental capping with mineral trioxide aggregate: a
randomized controlled trial. International endodontic journal. Feb 2008;
41(2):128-50. doi:10.1111/j.1365-2591.2007.01329.x
70. Parirokh M, Asgary S, Eghbal MJ, et al. A comparative study of white
and grey mineral trioxide aggregate as pulp capping agents in dog's
teeth. Dental traumatology : official publication of International
Association for Dental Traumatology. Jun 2005; 21(3):150-4.
doi:10.1111/j.1600-9657.2005.00311.x
71. Endodontology ESo. Quality guidelines for endodontic treatment:
consensus report of the European Society of Endodontology.
International endodontic journal. 2006; 39(12):921-930.
doi:10.1111/j.1365-2591.2006.01180.x
72. Kumar KH, Elavarasi P. Definition of pain and classification of pain
disorders. Journal of Advanced Clinical & Research Insights. 2016;
3:87-90.
73. Haefeli M, Elfering A. Pain assessment. European spine journal :
official publication of the European Spine Society, the European Spinal
Deformity Society, and the European Section of the Cervical Spine
Research Society. Jan 2006; 15 Suppl 1(Suppl 1):S17-24.
doi:10.1007/s00586-005-1044-x
74. Closs SJ, Barr B, Briggs M, Cash K, Seers K. A comparison of five pain
assessment scales for nursing home residents with varying degrees of
cognitive impairment. Journal of pain and symptom management. 2004;
27(3):196-205.
75. Farrar JT, Young Jr JP, LaMoreaux L, Werth JL, Poole RM. Clinical
importance of changes in chronic pain intensity measured on an 11-point
numerical pain rating scale. Pain. 2001; 94(2):149-158.
76. Price DD, Bush FM, Long S, Harkins SW. A comparison of pain
measurement characteristics of mechanical visual analogue and simple
numerical rating scales. Pain. Feb 1994; 56(2):217-26.
doi:10.1016/0304-3959(94)90097-3
77. Kremer E, Atkinson JH, Ignelzi RJ. Measurement of pain: patient
preference does not confound pain measurement. Pain. Apr 1981;
10(2):241-8. doi:10.1016/0304-3959(81)90199-8
78. Jensen MP, Karoly P, Braver S. The measurement of clinical pain
intensity: a comparison of six methods. Pain. Oct 1986; 27(1):117-26.
doi:10.1016/0304-3959(86)90228-9
79. Price DD, Harkins SW, Baker C. Sensory-affective relationships among
different types of clinical and experimental pain. Pain. Mar 1987;
28(3):297-307. doi:10.1016/0304-3959(87)90065-0
80. Naoum H, Chandler N. Temporization for endodontics. International
endodontic journal. 2002; 35(12):964-978.
81. Nowicka A, Lipski M, Parafiniuk M, et al. Response of human dental
pulp capped with biodentine and mineral trioxide aggregate. . J Endod.
2013; 39(743–747)
82. Miles JP, Gluskin AH, Chambers D, Peters OA. Pulp capping with
mineral trioxide aggregate (MTA): a retrospective analysis of carious
pulp exposures treated by undergraduate dental students. Operative
dentistry. Jan-Feb 2010; 35(1):20-8. doi:10.2341/09-038cr1
83. Mente J, Hufnagel S, Leo M, et al. Treatment outcome of mineral
trioxide aggregate or calcium hydroxide direct pulp capping: long-term
results. Journal of endodontics. Nov 2014; 40(11):1746-51.
doi:10.1016/j.joen.2014.07.019
84. Farsi N, Alamoudi N, Balto K, Al Mushayt A. Clinical assessment of
mineral trioxide aggregate (MTA) as direct pulp capping in young
permanent teeth. The Journal of clinical pediatric dentistry. Winter
2006; 31(2):72-6. doi:10.17796/jcpd.31.2.n462281458372u64
85. Nowicka A, Lipski M, Parafiniuk M, et al. Response of human dental
pulp capped with biodentine and mineral trioxide aggregate. Journal of
endodontics. Jun 2013; 39(6):743-7. doi:10.1016/j.joen.2013.01.005
86. Nowicka A, Wilk G, Lipski M, Kolecki J, Buczkowska-Radlinska J.
Tomographic Evaluation of Reparative Dentin Formation after Direct
Pulp Capping with Ca(OH)2, MTA, Biodentine, and Dentin Bonding
System in Human Teeth. Journal of endodontics. Aug 2015; 41(8):1234-
40. doi:10.1016/j.joen.2015.03.017
87. Celik BN, Mutluay MS, Arikan V, Sari S. The evaluation of MTA and
Biodentine as a pulpotomy materials for carious exposures in primary
teeth. Clinical oral investigations. Feb 2019; 23(2):661-666.
doi:10.1007/s00784-018-2472-4
88. Parinyaprom N, Nirunsittirat A, Chuveera P, et al. Outcomes of Direct
Pulp Capping by Using Either ProRoot Mineral Trioxide Aggregate or
Biodentine in Permanent Teeth with Carious Pulp Exposure in 6- to 18-
Year-Old Patients: A Randomized Controlled Trial. Journal of
endodontics. Mar 2018; 44(3):341-348. doi:10.1016/j.joen.2017.10.012
89. Abuelniel GM, Duggal MS, Duggal S, Kabel NR. Evaluation of Mineral
Trioxide Aggregate and Biodentine as pulpotomy agents in immature
first permanent molars with carious pulp exposure: A randomised
clinical trial. European journal of paediatric dentistry. 2021; 22(1):19-
25. doi:10.23804/ejpd.2021.22.01.04
90. Hegde S, Sowmya B, Mathew S, Bhandi SH, Nagaraja S, Dinesh K.
Clinical evaluation of mineral trioxide aggregate and biodentine as direct
pulp capping agents in carious teeth. Journal of conservative dentistry :
JCD. Mar-Apr 2017; 20(2):91-95. doi:10.4103/0972-0707.212243
91. Thư TTA, Khoa PV. Hiệu quả lành thương của phương pháp tạo nút
chặn chóp bằng mta trên răng có chóp mở rộng. Tạp Chí Y Học TPHCM.
2021; 25(2):73-80.
92. Patel S, Brown J, Pimentel T, Kelly RD, Abella F, Durack C. Cone beam
computed tomography in Endodontics – a review of the literature.
International endodontic journal. 2019; 52(8):1138-1152.
doi:https://doi.org/10.1111/iej.13115
93. Resnik R. Misch's Contemporary Implant Dentistry
4th Edition. Mosby 2020; 2020:281.
94. Iwamoto CE, Adachi E, Pameijer CH, Barnes D, Romberg EE, Jefferies
S. Clinical and histological evaluation of white ProRoot MTA in direct
pulp capping. American journal of dentistry. Apr 2006; 19(2):85-90.
95. Accorinte Mde L, Holland R, Reis A, et al. Evaluation of mineral
trioxide aggregate and calcium hydroxide cement as pulp-capping agents
in human teeth. Journal of endodontics. Jan 2008; 34(1):1-6.
doi:10.1016/j.joen.2007.09.012
96. Swarup SJ, Rao A, Boaz K, Srikant N, Shenoy R. Pulpal response to
nano hydroxyapatite, mineral trioxide aggregate and calcium hydroxide
when used as a direct pulp capping agent: an in vivo study. The Journal
of clinical pediatric dentistry. Spring 2014; 38(3):201-6.
97. Tran XV, Salehi H, Truong MT. Reparative Mineralized Tissue
Characterization after Direct Pulp Capping with Calcium-Silicate-Based
Cements. Jun 29 2019; 12(13)doi:10.3390/ma12132102
98. Abuelniel GM, Duggal MS, Kabel N. A comparison of MTA and
Biodentine as medicaments for pulpotomy in traumatized anterior
immature permanent teeth: A randomized clinical trial. Dental
traumatology : official publication of International Association for
Dental Traumatology. Feb 25 2020; doi:10.1111/edt.12553
99. Bogen G, Kim JS, Bakland LK. Direct pulp capping with mineral
trioxide aggregate: an observational study. Journal of the American
Dental Association (1939). Mar 2008; 139(3):305-15; quiz 305-15.
doi:10.14219/jada.archive.2008.0160
100. Schulz KF, Altman DG, Moher D, the CG. CONSORT 2010 Statement:
updated guidelines for reporting parallel group randomised trials. BMC
Medicine. 2010/03/24 2010; 8(1):18. doi:10.1186/1741-7015-8-18
101. Young DA, Nový BB, Zeller GG, Hale R, Hart TC, Truelove EL. The
American Dental Association Caries Classification System for clinical
practice: a report of the American Dental Association Council on
Scientific Affairs. Journal of the American Dental Association (1939).
Feb 2015; 146(2):79-86. doi:10.1016/j.adaj.2014.11.018
102. Galler KM, Krastl G, Simon S, et al. European Society of
Endodontology position statement: Revitalization procedures.
International endodontic journal. Aug 2016; 49(8):717-23.
doi:10.1111/iej.12629
103. Bui AH, Pham KV. Evaluation of Reparative Dentine Bridge Formation
after Direct Pulp Capping with Biodentine. Journal of International
Society of Preventive & Community Dentistry. Jan-Feb 2021; 11(1):77-
82. doi:10.4103/jispcd.JISPCD_390_20
104. Marques MS, Wesselink PR, Shemesh H. Outcome of Direct Pulp
Capping with Mineral Trioxide Aggregate: A Prospective Study. Journal
of endodontics. Jul 2015; 41(7):1026-31. doi:10.1016/j.joen.2015.02.024
105. Lipski M, Nowicka A, Kot K, et al. Factors affecting the outcomes of
direct pulp capping using Biodentine. Clinical oral investigations. Jun
2018; 22(5):2021-2029. doi:10.1007/s00784-017-2296-7
106. Linu S, Lekshmi MS, Varunkumar VS, Sam Joseph VG. Treatment
Outcome Following Direct Pulp Capping Using Bioceramic Materials in
Mature Permanent Teeth with Carious Exposure: A Pilot Retrospective
Study. Journal of endodontics. Oct 2017; 43(10):1635-1639.
doi:10.1016/j.joen.2017.06.017
107. Harms CS, Schäfer E, Dammaschke T. Clinical evaluation of direct pulp
capping using a calci silicat cement—treatment outcomes over an
average period of 2.3 years. Clinical oral investigations. 2019;
23(9):3491-3499. doi:10.1007/s00784-018-2767-5
108. Muruganandhan J, Sujatha G, Poorni S, et al. Comparison of Four Dental
Pulp-Capping Agents by Cone-Beam Computed Tomography and
Histological Techniques—A Split-Mouth Design Ex Vivo Study.
Applied Sciences. 2021; 11(7):3045.
109. Smaïl-Faugeron V, Fron-Chabouis H, Courson F, Durieux P.
Comparison of intervention effects in split-mouth and parallel-arm
randomized controlled trials: a meta-epidemiological study. BMC
Medical Research Methodology. 2014/05/11 2014; 14(1):64.
doi:10.1186/1471-2288-14-64
110. Lesaffre E, Philstrom B, Needleman I, Worthington H. The design and
analysis of split-mouth studies: what statisticians and clinicians should
know. Statistics in medicine. Dec 10 2009; 28(28):3470-82.
doi:10.1002/sim.3634
111. Fouad W, Abd Al Gawad R. Is Biodentine, as successful as, mineral
trioxide aggregate for pulpotomy of primary molars? A split-mouth
clinical trial. Original Article. Tanta Dental Journal. April 1, 2019 2019;
16(2):115-119. doi:10.4103/tdj.tdj_35_18
112. Paula A, Carrilho E. Direct Pulp Capping: Which is the Most Effective
Biomaterial? A Retrospective Clinical Study. Oct 16 2019;
12(20)doi:10.3390/ma12203382
113. Walker MP, Diliberto A, Lee C. Effect of setting conditions on mineral
trioxide aggregate flexural strength. Journal of endodontics. Apr 2006;
32(4):334-6. doi:10.1016/j.joen.2005.09.012
114. Torabinejad M, Parirokh M. Mineral trioxide aggregate and other
bioactive endodontic cements: an updated overview - part II: other
clinical applications and complications. Mar 2018; 51(3):284-317.
doi:10.1111/iej.12843
115. Brodén J, Heimdal H, Josephsson O, Fransson H. Direct pulp capping
versus root canal treatment in young permanent vital teeth with pulp
exposure due to caries. A systematic review. American journal of
dentistry. Aug 2016; 29(4):201-207.
116. Iyer JV, Kanodia SK, Parmar GJ, Parmar AP, Asthana G, Dhanak NR.
Comparative evaluation of different direct pulp capping agents in carious
tooth: An in vivo study. Journal of conservative dentistry : JCD. May-
Jun 2021; 24(3):283-287. doi:10.4103/jcd.jcd_71_21
117. Możyńska J, Metlerski M, Lipski M, Nowicka A. Tooth Discoloration
Induced by Different Calci silicat-based Cements: A Systematic Review
of In Vitro Studies. Journal of endodontics. Oct 2017; 43(10):1593-
1601. doi:10.1016/j.joen.2017.04.002
118. Al-Hiyasat AS, Ahmad DM, Khader YS. The effect of different calci
silicat-based pulp capping materials on tooth discoloration: an in vitro
study. BMC Oral Health. 2021/07/02 2021; 21(1):330.
doi:10.1186/s12903-021-01677-y
119. Nagas E, Ertan A, Eymirli A, Uyanik O, Cehreli ZC. Tooth
Discoloration Induced by Different Calci silicat–Based Cements: A
Two-Year Spectrophotometric and Photographic Evaluation in Vitro.
Journal of Clinical Pediatric Dentistry. 2021; 45(2):112-116.
doi:10.17796/1053-4625-45.2.7
120. Krug R, Ortmann C, Reich S, Hahn B, Krastl G, Soliman S. Tooth
discoloration induced by apical plugs with hydraulic calci silicat-based
cements in teeth with open apices-a 2-year in vitro study. Clinical oral
investigations. Jan 2022; 26(1):375-383. doi:10.1007/s00784-021-
04009-0
121. Pednekar A, Ataide I, Fernandes M, Lambor R, Soares R.
Spectrophotometric Analysis of Coronal Discolouration Induced by
ProRoot MTA, Biodentine and MTA Repair HP Used for Pulpotomy
Procedures. European endodontic journal. Aug 2021; 6(2):189-196.
doi:10.14744/eej.2021.66375
122. Alghaithy RA, Qualtrough AJ. Pulp sensibility and vitality tests for
diagnosing pulpal health in permanent teeth: a critical review. Feb 2017;
50(2):135-142. doi:10.1111/iej.12611
123. Jafarzadeh H, Abbott PV. Review of pulp sensibility tests. Part I: general
information and thermal tests. International endodontic journal. Sep
2010; 43(9):738-62. doi:10.1111/j.1365-2591.2010.01754.x
124. Matsuura T, V KSK-M, Yamada S. Long-term clinical and radiographic
evaluation of the effectiveness of direct pulp-capping materials. Journal
of oral science. Mar 28 2019; 61(1):1-12. doi:10.2334/josnusd.18-0125
125. Silva AF, Tarquinio SB, Demarco FF, Piva E, Rivero ER. The influence
of haemostatic agents on healing of healthy human dental pulp tissue
capped with calcium hydroxide. International endodontic journal. Apr
2006; 39(4):309-16. doi:10.1111/j.1365-2591.2006.01101.x
126. Ricucci D, Loghin S, Siqueira JF, Jr. Correlation between clinical and
histologic pulp diagnoses. Journal of endodontics. Dec 2014;
40(12):1932-9. doi:10.1016/j.joen.2014.08.010
127. Farrar J, Young J, Lamoreaux L, Werth J, Poole RM. Farrar JT, Young
JP Jr, LaMoreaux L, Werth JL, Poole RM. Clinical importance of
changes in chronic pain intensity measured on an 11-point numerical
pain rating scale. Pain. 94: 149-158. Pain. 12/01 2001; 94:149-58.
doi:10.1016/S0304-3959(01)00349-9
128. Bokhari SS. A comparison of the human pulpal pain response to
Biodentine And Mineral Trioxide Aggregate as pulp capping agent.
Pakistan Oral & Dental Journal 2016; 36(3):464-467.
129. Shafie L, Barghi H, Parirokh M, Ebrahimnejad H, Nakhae N, Esmaili S.
Postoperative Pain following Pulpotomy of Primary Molars with Two
Biomaterials: A Randomized Split Mouth Clinical Trial. Iranian
endodontic journal. Winter 2017; 12(1):10-14. doi:10.22037/iej.2017.02
130. Wolters WJ, Duncan HF, Tomson PL, et al. Minimally invasive
endodontics: a new diagnostic system for assessing pulpitis and
subsequent treatment needs. International endodontic journal. Sep 2017;
50(9):825-829. doi:10.1111/iej.12793
131. Sloan AJ, Smith AJ. Stimulation of the dentine-pulp complex of rat
incisor teeth by transforming growth factor-beta isoforms 1-3 in vitro.
Archives of oral biology. Feb 1999; 44(2):149-56.
132. Leye Benoist F, Gaye Ndiaye F, Kane AW, Benoist HM, Farge P.
Evaluation of mineral trioxide aggregate (MTA) versus calcium
hydroxide cement (Dycal(®) ) in the formation of a dentine bridge: a
randomised controlled trial. International dental journal. Feb 2012;
62(1):33-9. doi:10.1111/j.1875-595X.2011.00084.x
133. Hossain M, Sajedeen M, Nakamura Y. Induction of reparative dentin by
calci silicat-based material as direct pulp capping agent. Bangabandhu
Sheikh Mujib Medical University Journal. 12/23 2019; 12(4):182-186.
doi:10.3329/bsmmuj.v12i4.43857
134. Arafa A Kenawi L, Issa N. . Assessment of reparative hard tissue
formation after direct pulp capping with Biodentine versus mineral
trioxide aggregate. Endodontic Practice Today 2019; 13:9. 2019;
135. Mahmoud SH, El-Negoly SA, Zaen El-Din AM, et al. Biodentine versus
mineral trioxide aggregate as a direct pulp capping material for human
mature permanent teeth - A systematic review. Journal of conservative
dentistry : JCD. Sep-Oct 2018; 21(5):466-473.
doi:10.4103/jcd.jcd_198_18
136. Peskersoy C, Lukarcanin J, Turkun M. Efficacy of different calci silicat
materials as pulp-capping agents: Randomized clinical trial. Journal of
dental sciences. Mar 2021; 16(2):723-731. doi:10.1016/j.jds.2020.08.016
137. Marzook H, Elhawary Y, El-gindy A, Radwan L. Cone Beam Computed
Tomography Voxel Values Of Dental Structures. Egyptian dental
journal. 10/15 2010; 56
138. Kaup M, Schafer E, Dammaschke T. An in vitro study of different
material properties of Biodentine compared to ProRoot MTA. Head &
face medicine. May 2 2015; 11:16. doi:10.1186/s13005-015-0074-9
139. Ozer SY. Comparison of root canal transportation induced by three
rotary systems with noncutting tips using computed tomography. Oral
Surg Oral Med Oral Pathol Oral Radiol Endod. Feb 2011; 111(2):244-
50. doi:10.1016/j.tripleo.2010.08.017
140. Kim J, Song Y-S, Min KS, et al. Evaluation of reparative dentin
formation of ProRoot MTA, Biodentine and BioAggregate using micro-
CT and immunohistochemistry. Restor Dent Endod. 2016; 41:29 - 36.
141. Caliskan MK, Guneri P. Prognostic factors in direct pulp capping with
mineral trioxide aggregate or calcium hydroxide: 2- to 6-year follow-up.
Clinical oral investigations. Jan 2017; 21(1):357-367.
doi:10.1007/s00784-016-1798-z
142. Mathur VP, Dhillon JK, Logani A, Kalra G. Evaluation of indirect pulp
capping using three different materials: A randomized control trial using
cone-beam computed tomography. Indian journal of dental research :
official publication of Indian Society for Dental Research. Nov-Dec
2016; 27(6):623-629. doi:10.4103/0970-9290.199588
143. Hashem D, Mannocci F, Patel S, et al. Clinical and radiographic
assessment of the efficacy of calci silicat indirect pulp capping: a
randomized controlled clinical trial. Journal of dental research. Apr
2015; 94(4):562-8. doi:10.1177/0022034515571415
144. Nair M, Gurunathan D. Clinical and Radiographic Outcomes of Calcium
Hydroxide vs Other Agents in Indirect Pulp Capping of Primary Teeth:
A Systematic Review. International journal of clinical pediatric
dentistry. Sep-Oct 2019; 12(5):437-444. doi:10.5005/jp-journals-10005-
1672
145. Boutsiouki C, Frankenberger R, Krämer N. Relative effectiveness of
direct and indirect pulp capping in the primary dentition. European
Archives of Paediatric Dentistry. 2018/10/01 2018; 19(5):297-309.
doi:10.1007/s40368-018-0360-x
146. Ceci M, Beltrami R, Chiesa M, Colombo M, Poggio C. Biological and
chemical-physical properties of root-end filling materials: A comparative
study. Original Article. Journal of Conservative Dentistry. March 1,
2015 2015; 18(2):94-99. doi:10.4103/0972-0707.153058
147. Ozyurek T, Demiryurek EO. Comparison of the antimicrobial activity of
direct pulp-capping materials: Mineral trioxide aggregate-Angelus and
Biodentine. Journal of conservative dentistry : JCD. Nov-Dec 2016;
19(6):569-572. doi:10.4103/0972-0707.194018
148. Asgary S, Eghbal MJ, Parirokh M, Ghanavati F, Rahimi H. A
comparative study of histologic response to different pulp capping
materials and a novel endodontic cement. Oral surgery, oral medicine,
oral pathology, oral radiology, and endodontics. Oct 2008; 106(4):609-
14. doi:10.1016/j.tripleo.2008.06.006
149. Pedano M, Li X, Yoshihara K, Van Landuyt K, Van Meerbeek B.
Cytotoxicity and Bioactivity of Dental Pulp-Capping Agents towards
Human Tooth-Pulp Cells: A Systematic Review of In-Vitro Studies and
Meta-Analysis of Randomized and Controlled Clinical Trials. Materials.
06/12 2020; 13doi:10.3390/ma13122670
150. Mahendran K, Christa H, Ambalavanan N, Sivaprakasam S. Histological
Evaluation of Pulpal Response to Direct Pulp Capping with Biodentine
and Mineral Trioxide Aggregate: An In Vivo Study. Journal of
Operative Dentistry & Endodontics. 07/21 2020; 4:57-61.
doi:10.5005/jp-journals-10047-0080
151. Hoseinifar R, Eskandarizadeh A, Parirokh M, Torabi M, Safarian F,
Rahmanian E. Histological Evaluation of Human Pulp Response to
Direct Pulp Capping with MTA, CEM Cement, and Biodentine. Journal
of dentistry (Shiraz, Iran). Sep 2020; 21(3):177-183.
doi:10.30476/dentjods.2019.81796.0
152. Dammaschke T, Nowicka A, Lipski M, Ricucci D. Histological
evaluation of hard tissue formation after direct pulp capping with a fast-
setting mineral trioxide aggregate (RetroMTA) in humans. Clinical oral
investigations. Dec 2019; 23(12):4289-4299. doi:10.1007/s00784-019-
02876-2
153. Asgary S, Eghbal MJ, Bagheban AA. Long-term outcomes of pulpotomy
in permanent teeth with irreversible pulpitis: A multi-center randomized
controlled trial. American journal of dentistry. Jun 2017; 30(3):151-155.
154. Ricucci D, Loghin S, Niu LN, Tay FR. Changes in the radicular pulp-
dentine complex in healthy intact teeth and in response to deep caries or
restorations: A histological and histobacteriological study. Journal of
dentistry. Jun 2018; 73:76-90. doi:10.1016/j.jdent.2018.04.007
155. Reis MS, Scarparo RK. Pulp capping with mineral trioxide aggregate or
Biodentine: a comparison of mineralized barrier formation and
inflammatory and degenerative events. 2021; 35:e118.
doi:10.1590/1807-3107bor-2021.vol35.0118
156. Yoshiba N, Edanami N, Tohma A, et al. Detection of bone marrow-
derived fibrocytes in human dental pulp repair. Nov 2018; 51(11):1187-
1195. doi:10.1111/iej.12940
157. Tziafas D, Alvanou A, Panagiotakopoulos N, et al. Induction of
odontoblast-like cell differentiation in dog dental pulps after in vivo
implantation of dentine matrix components. Archives of oral biology.
Oct 1995; 40(10):883-93. doi:10.1016/0003-9969(95)00069-2
158. Huang GT, Shagramanova K, Chan SW. Formation of odontoblast-like
cells from cultured human dental pulp cells on dentin in vitro. Journal of
endodontics. Nov 2006; 32(11):1066-73. doi:10.1016/j.joen.2006.05.009
159. Kundzina R, Stangvaltaite L, Eriksen HM, Kerosuo E. Capping carious
exposures in adults: a randomized controlled trial investigating mineral
trioxide aggregate versus calcium hydroxide. International endodontic
journal. Oct 2017; 50(10):924-932. doi:10.1111/iej.12719
160. Dube K, Jain P, Rai A, Paul B. Preventive endodontics by direct pulp
capping with restorative dentin substitute-biodentine: A series of fifteen
cases. Original Research. Indian Journal of Dental Research. May 1,
2018 2018; 29(3):268-274. doi:10.4103/ijdr.IJDR_292_15
PHỤ LỤC 1. GIẤY CHẤP THUẬN Y ĐỨC
PHỤ LỤC 2. CÁC BIỂU MẪU NGHIÊN CỨU
2.1. BẢN THÔNG TIN DÀNH CHO ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU I. THÔNG TIN VỀ NGHIÊN CỨU
Tên nghiên cứu: “Nghiên cứu hiệu quả che tủy răng trực tiếp của xi măng calcium
silicate”.
Nghiên cứu viên chính: Thạc sĩ Bác sĩ Bùi Huỳnh Anh. Đơn vị chủ trì: Khoa Răng Hàm Mặt, Đại học Y Dược TP Hồ Chí Minh Chúng tôi mời anh/chị tham gia nghiên cứu này. Trước khi anh/chị quyết định về việc liệu có tham gia vào nghiên cứu hay không, mời anh chị tìm hiểu các thông tin liên quan đến nghiên cứu. Mời anh/chị vui lòng đọc kỹ những thông tin dưới đây, anh/chị có thể hỏi chúng tôi nếu không rõ hay muốn biết thêm thông tin. Anh/chị hãy dành thời gian suy nghĩ kỹ trước khi đồng ý hoặc không đồng ý tham gia vào nghiên cứu.
Cám ơn anh/chị đã đọc bản thông tin. 1. Mục đích của nghiên cứu là gì?
Việc giữ tủy răng sống, tránh việc lấy tủy và cứu sống những phần tủy răng đang tổn thương giúp cho răng có thể tồn tại, phát triển và thực hiện chức năng lâu dài. Nhằm mang lại lợi ích giữ tủy răng sống khi răng viêm nhiễm hay tổn thương, chúng tôi thực hiện nghiên cứu này cung cấp thông tin cho các điều trị che tủy với các chất tương hợp sinh học Calcium silicate giúp bảo vệ và tái sinh tủy. Thuốc chứa chứa Calcium silicate là loại vật liệu sinh học có độ an toàn cao đã được chỉ định sử dụng rất phổ biến trên thế giới với tỷ lệ thành công cao đáng kể. Tuy nhiên ở Việt Nam hiện chưa có nghiên cứu nào đánh giá hiệu quả thuốc trên điều trị che tủy. Thông qua nghiên cứu, chúng tôi xin phép đánh giá cảm giác của anh/chị, các biểu hiện X quang và mô học của tủy sau khi đặt thuốc trên tủy răng có chỉ định nhổ trong kế hoạch Chỉnh Nha.
2. Tại sao chúng tôi mời anh chị tham gia?
Chúng tôi xin mời anh/chị tham gia vào nghiên cứu vì anh/chị có độ tuổi đủ 18 tuổi và
có răng cần nhổ vì lý do Chỉnh nha hoặc lý do khác thỏa các điều kiện nghiên cứu.
3. Anh/chị có bắt buộc phải tham gia nghiên cứu không?
Không, anh/chị có toàn quyền quyết định tham gia hay không. Nếu anh chị quyết định tham gia vào nghiên cứu, anh/chị sẽ đọc bản thông tin này và ký vào giấy tự nguyện đồng ý tham gia. Kể cả khi anh/chị đã kí giấy đồng ý, anh/chị vẫn có thể từ chối không tham gia nữa. Nếu anh/chị là người đang trong giai đoạn điều trị, dù anh chị quyết định không tham gia, từ chối không tham gia nữa, hay tham gia nghiên cứu thì việc này sẽ không có bất kì một ảnh hưởng nào đến chất lượng chăm sóc sức khỏe hay kế hoạch điều trị khác của anh/chị.
4. Các hoạt động sẽ diễn ra như thế nào khi anh/chị tham gia nghiên cứu?
Về quy trình làm nghiên cứu, chúng tôi xin phép chia ngẫu nhiên anh/chị vào một trong hai nhóm điều trị với hai loại thuốc chứa calcium silicate: Mineral Trioxide Aggregate - MTA và Biodentine.
- MTA hiện là một loại xi măng sinh học, được xem là chuẩn vàng mới trong điều trị lộ tủy trên thế giới hiện nay với độ tương hợp sinh học rất tốt và đáp ứng lành thương với tỷ lệ thành công cao.
- Biodentine: là một loại chất thay thế ngà sinh học, với ưu điểm vượt trội trong bảo
tồn sự sống của tủy và thúc đẩy quá trình sửa chữa ngà và tái tạo tủy.
Anh/chị sẽ nhận phiếu trả lời các câu hỏi và vui lòng ghi nhận lại cảm giác của mình trong quá trình nghiên cứu. Quy trình điều trị gồm có gây tê răng, che chắn để tránh nhiễm
bẩn nước bọt và loại bỏ mô ngà sâu có chứa vi khuẩn. Sau đó vùng tủy lộ trong răng sẽ được khử khuẩn, đặt hoặc bơm thuốc bảo vệ tủy sau đó trám răng lại.
Quy trình điều trị này đòi hỏi tối thiểu 2 lần hẹn và tối thiểu 2 lần tái khám và tuân theo kế hoạch nhổ răng trong kế hoạch điều trị Chỉnh nha thông thường. Tái đánh giá bao gồm thăm khám lâm sàng thường quy và chụp phim X quang. Sau khi nhổ răng chúng tôi xin phép dùng mẫu răng đã nhổ của anh/chị để tiến hành nghiên cứu và đánh giá kết quả.
Nghiên cứu này được thực hiện dưới sự cho phép của: Khoa Răng Hàm Mặt Đại học Y
Dược Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Có bất lợi và rủi ro khi anh/chị tham gia vào nghiên cứu không? Cách xử trí
như thế nào?
- Thời gian: Anh/ chị sẽ mất ít thời gian để điền các phiếu thu thập thông tin. Trung bình thời gian mỗi lần là 1 phút, tổng thời gian điền thông tin toàn bộ nghiên cứu không quá 5 phút. Những lần hẹn của nghiên cứu diễn ra cùng lúc trong các lần hẹn Chỉnh Nha, bao gồm 3-4 lần hẹn: lần hẹn điều trị (30 phút), 1-2 lần tái khám (5 phút) và lần hẹn nhổ răng (30 phút). Thời gian cách nhau giữa hai lần hẹn là 1 tuần, 4 tuần, 8 tuần hoặc 12 tuần tùy kế hoạch Chỉnh nha.
- Có thể có cảm giác đau do tiêm thuốc tê: thuốc tê được tiêm chậm, bơm chậm. - Có thể có cảm giác ê hoặc đau do phản ứng thuốc: cần sử dụng đến thuốc giảm đau theo toa thuốc được kê. Nếu không giảm đau, có thể điều trị tiếp với kỹ thuật lấy tủy buồng, tủy chân hoặc nhổ răng theo chỉ định.
- Bên cạnh đó, do đang điều trị Chỉnh nha cùng lúc nên anh/chị cũng có thể cảm thấy
ê ẩm các răng đang trong quá trình di chuyển răng.
- Chụp X quang: trước và sau điều trị, răng sẽ được chụp 02 phim quanh chóp và conebeam CT với liều tia rất thấp và mặc áo chì khi chụp (Liều tia phim quanh chóp = 1/10 phim phổi, liều tia 1 phim Conebeam CT = 1/750 lần ngưỡng tia cho phép/năm).
- Biến chứng khi gây tê thông thường: dị ứng, sốc phản vệ: hỏi kỹ tiền sử bệnh, tiêm tê chậm, xử trí sốc theo phác đồ chuẩn của Bộ Y Tế. Nếu có vấn đề về sức khỏe toàn thân liên quan những thủ thuật nói trên hay có những vấn đề dị ứng thuốc tê, thuốc giảm đau anh/chị cần thông báo cho chúng tôi trước khi tham gia. 6. Lợi ích có thể khi tham gia vào nghiên cứu?
Chúng tôi cam đoan tiến trình của nghiên cứu này không gây ảnh hưởng, kéo dài hoặc
thay đổi kế hoạch điều trị cũng như kết quả điều trị Chỉnh nha của anh/chị.
Mặc dù không có được những lợi ích trực tiếp, nhưng sự tham gia vào nghiên cứu của anh/chị đã giúp cung cấp thông tin khoa học quý báu về các vật liệu sinh học calcium silicate đang được coi là chỉ định tốt nhất cho các liệu pháp tủy hiện nay và mang lại bước tiến đáng kể trong điều trị bảo tồn tủy tương lai.
Khi tham gia nghiên cứu, anh/chị được miễn các chi phí khám, thuốc dùng trong phạm vi nghiên cứu, chụp X quang và nhổ răng (nhổ thường, không nhổ tiểu phẫu) và điều trị tủy răng can thiệp (nếu cần). Ngoài ra, anh/chị nhận được chi phí hỗ trợ 1.000.000 đồng/răng can thiệp và theo dõi sau điều trị.
7. Việc chi trả, bồi thường/ điều trị khi có tổn thương liên quan đến nghiên cứu? Người thực hiện nghiên cứu chịu trách nhiệm chi trả cho các khoản chi trên và việc chi trả được thực hiện sau khi người tham gia tuân thủ đúng và đầy đủ qui trình nghiên cứu như đã giải thích trong mục 4.
8. Việc anh/chị đồng ý tham gia vào nghiên cứu sẽ được giữ bí mật?
Mọi thông tin liên quan đến cá nhân thu thập được trong suốt quá trình nghiên cứu sẽ được giữ bí mật và mã hóa hồ sơ. Những điều anh/chị trao đổi với nghiên cứu viên sẽ được giữ kín và sẽ chỉ thảo luận trong nhóm nghiên cứu viên trong quá trình phân tích số liệu.
Nhóm nghiên cứu đảm bảo rằng trong các báo cáo cũng như ấn phẩm xuất bản sẽ không ghi họ tên người tham gia và không có bất cứ phiền toái phát sinh nào sau khi kết thúc nghiên cứu.
9. Cách thức sử dụng kết quả nghiên cứu?
Khi hoàn thành thu thập số liệu, nhóm nghiên cứu sẽ bắt đầu phân tích số liệu và viết
luận án, viết bài báo và báo cáo tại các Hội nghị khoa học trong và ngoài nước. 10. Ai là người chủ trì và tài trợ cho nghiên cứu?
Nghiên cứu này được chủ trì bởi Đại học Y Dược TP.HCM và nghiên cứu viên chính
là Thạc sĩ Bác sĩ Bùi Huỳnh Anh. Nghiên cứu này không nhận bất kì tài trợ nào. 11. Người cần liên hệ để biết thông tin chi tiết?
Thạc sĩ Bác sĩ Bùi Huỳnh Anh
1. Đại học Y Dược Thành Phố Hồ Chí Minh - Khoa Răng Hàm Mặt Địa chỉ: 217 Hồng Bàng, phường 13, quận 5, TP Hồ Chí Minh Điệ thoại: 0909094950. Email: buihuynhanh@ump.edu.vn 2.
Hội đồng đạo đức – Đại học Y Dược TP HCM. Địa chỉ: 217 - Hồng Bàng -
Quận 5 - TP.HCM. Điện thoại: 083. 8558411.
3.
Phòng sau đại học – Đại học T Dược TP HCM. Địa chỉ: 217 - Hồng Bàng -
Quận 5 - TP.HCM. Điện thoại: 083. 8573461. Xin trân trọng cám ơn anh/chị tham gia vào nghiên cứu của chúng tôi.
II. CHẤP THUẬN THAM GIA NGHIÊN CỨU
Tôi đã đọc và hiểu thông tin trên đây, đã có cơ hội xem xét và đặt câu hỏi về thông tin liên quan đến nội dung trong nghiên cứu này. Tôi đã nói chuyện trực tiếp với nghiên cứu viên và được trả lời thỏa đáng tất cả các câu hỏi. Tôi nhận một bản sao của Bản Thông tin cho đối tượng nghiên cứu và chấp thuận tham gia nghiên cứu này. Tôi tự nguyện đồng ý tham gia nghiên cứu.
Chữ ký của người tham gia: Họ tên___________________________________ Chữ ký___________________ Ngày tháng năm Tôi, người ký tên dưới đây, xác nhận rằng người tình nguyện tham gia nghiên cứu kỹ bản chấp thuận đã đọc toàn bộ bản thông tin trên đây, các thông tin này đã được giải thích cặn kẽ cho anh/chị và anh/chị đã hiểu rõ bản chất, các nguy cơ và lợi ích của việc anh/chị tham gia vào nghiên cứu này.
Chữ ký của Nghiên cứu viên/người lấy chấp thuận: Họ tên ___________________________________ Chữ ký___________________ Ngày tháng năm
2.2. PHIẾU ĐÁNH GIÁ DÀNH CHO BỆNH NHÂN VÀ NGHIÊN CỨU VIÊN
Bảng câu hỏi được gửi đến để bệnh nhận điền trong buổi khám và tái đánh giá. Trong thời gian dịch bệnh Covid 19, bảng câu hỏi được thiết kế trực tuyến và gửi cho bệnh nhân đánh giá và phản hồi, sau đó chữ ký được thu thập khi bệnh nhân đến tái khám chỉnh nha sau này.
PHIẾU ĐÁNH GIÁ Phần dành cho Bệnh nhân
Họ tên bệnh nhân: ……………………………………… Mã số: ………………… Năm sinh: ……………………………………………………… Giới tính: Nam/ Nữ Răng cần điều trị: ………....………………………………………………………….
Sau đây là các câu hỏi tự đánh giá về cảm giác của bạn khi tham gia điều trị, vui lòng
đánh dấu vào ô thích hợp (ghi cụ thể là răng nào nếu có nhiều răng).
1. Sau khi điều trị đặt thuốc trong răng, bạn vui lòng cho biết sau đó có cảm thấy khó
chịu, đau nhức hay ê buốt hay không?
Có
Không
2. Vui lòng khoanh tròn một số trong thang điểm từ 1 đến 10 dưới đây để đánh giá cảm giác không thoải mái/khó chịu hay đau của bạn trong điều trị. Nếu không đau hoặc cảm thấy bình thường vui lòng chọn số 0.
Thời gian
Mức độ 0
Mức độ 1-2
Mức độ 3-4
Mức độ 5-6
Mức độ 7-8
Mức độ 9-10
24 giờ sau điều trị Ngày thứ 2- ngày thứ 7 sau điều trị Tuần thứ 2- tuần thứ 4 sau điều trị Thời điểm hiện tại
Nếu không đau, xin bỏ qua những câu sau đây.
3. Các từ sau đây mô tả đặc điểm đau thông thường. Nếu có đau, vui lòng đánh dấu
vào ô mà bạn thấy phù hợp với cơn đau của mình:
Đau âm ỉ, ê ẩm Đau buốt Đau theo mạch đập Đau nhói kiểu dao đâm
Khác: ………………………………………………………………………
4. Mô tả vị trí đau:
Răng đang điều trị Hàm trên bên trái / phải Hàm dưới bên trái / phải Đau lan thái dương, đầu
Khác: ………………………………………………………………………..
5. Những tác nhân làm xuất hiện, làm tăng hay giảm đau: Tự phát, đột ngột: Ăn, nhai: Thức ăn/uống nóng: Thức ăn/uống lạnh: Ngủ hoặc khi nằm: Thuốc giảm đau:
Xuất hiện đau Xuất hiện đau Xuất hiện đau Xuất hiện đau Xuất hiện đau Xuất hiện đau
Tăng đau Tăng đau Tăng đau Tăng đau Tăng đau Tăng đau
Giảm đau Giảm đau Giảm đau Giảm đau Giảm đau Giảm đau
Khác: …………………………………………………………………….. 6. Mô tả kiểu đau kéo dài:
Ngắn, thoảng qua, chốc lát Không liên tục, theo chu kỳ, nhịp điệu Liên tục, đều đặn, không thay đổi Liên tục, không đều đặn, tăng dần 7. Thời gian kéo dài của mỗi cơn đau:
< 10 giây < 1 phút <10 phút ≥10 phút
Xin chân thành cảm ơn sự đánh giá của bạn.
Ngày ………..tháng ………… năm……….. Ký tên (Ghi rõ họ tên)
III. PHIẾU ĐÁNH GIÁ
Phần dành cho Nghiên cứu viên
Mã số: ……………… Giới tính: Nam/ Nữ
Họ tên bệnh nhân (viết tắt tên):..……………………………... Năm sinh: …………………………………………………… Răng cần điều trị: ………..Ngày giờ điều trị:……………………Thuốc: …………………
TRƯỚC ĐIỀU TRỊ Ngày:
KHÁM LÂM SÀNG RĂNG:
Có +
Không -
Ghi chú Bệnh sử: ………………………………………
Đáp ứng với thử lạnh Đáp ứng với thử điện Sự nhạy cảm với gõ/ đau nhẹ khi gõ Lung lay răng Gõ Đau khi thăm khám Xoang sâu Sưng Lỗ dò Đổi màu thân răng
Độ sâu nướu
+ ………. Thang đau: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Thang đau: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Đo 6 vị trí: góc gần ngoài, ngoài, xa ngoài, gần trong, trong, xa trong
Kích thước Kích thước ………………………………………………….. ………………………………………………….. ………………………………………………….. ………………………………………………….. …………………………………………………. ………………………………………………….. ………………………………………………….. …………………………………………………..
Đường nứt gãy PHÂN TÍCH PHIM Điểm lộ tủy Buồng tủy Kích thước lỗ chóp Phân tích phim quanh chóp: -Hình thành cầu ngà: -Bề dày thành ngà phía G- phía X: -Bề rộng hốc tủy Phân tích CBCT: -Hình thành cầu ngà: -Bề dày thành ngà phía G- phía X: -Bề rộng hốc tủy TÁI ĐÁNH GIÁ Ngày:
Ghi chú
KHÁM LÂM SÀNG RĂNG:
Có +
Không -
Đáp ứng với thử lạnh Đáp ứng với thử điện Sự nhạy cảm với gõ/ đau nhẹ khi gõ Lung lay răng Gõ Đau khi thăm khám Xoang sâu Sưng Lỗ dò Đổi màu thân răng
Độ sâu nướu, túi nha chu
+ ………. Thang đau: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Độ lung lay: 1 2 3 Thang đau: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Gần ngoài: ……….. Ngoài:………Xa ngoài:……. Gần trong: ………. Trong: ………Xa trong:.……
Đường nứt gãy PHÂN TÍCH PHIM Điểm lộ tủy Buồng tủy Kích thước lỗ chóp
Kích thước Kích thước
Phân tích phim quanh chóp: -Hình thành cầu ngà: -Bề dày thành ngà phía G- phía X: -Bề rộng hốc tủy
Phân tích CBCT: -Hình thành cầu ngà: -Bề dày thành ngà phía G- phía X: -Bề rộng hốc tủy
………………………………………………….. ………………………………………………….. ………………………………………………….. ………………………………………………….. …………………………………………………. ………………………………………………….. ………………………………………………….. …………………………………………………..
TÁI ĐÁNH GIÁ 3 - NHỔ RĂNG Ngày:
Ghi chú
KHÁM LÂM SÀNG RĂNG:
Có +
Không -
Đáp ứng với thử lạnh Đáp ứng với thử điện Sự nhạy cảm với gõ/ đau nhẹ khi gõ Lung lay răng Gõ Đau khi thăm khám Xoang sâu Sưng Lỗ dò Đổi màu thân răng
Độ sâu nướu, túi nha chu
+ ………. Thang đau: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Độ lung lay: 1 2 3 Thang đau: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 Gần ngoài: ……….. Ngoài:………Xa ngoài:……. Gần trong: ………. Trong: ………Xa trong:.……
Đường nứt gãy PHÂN TÍCH PHIM Điểm lộ tủy Buồng tủy Kích thước lỗ chóp Phân tích phim quanh chóp: -Hình thành cầu ngà: -Bề dày thành ngà phía G- phía X: -Bề rộng hốc tủy Phân tích CBCT: -Hình thành cầu ngà: -Bề dày thành ngà phía G- phía X: -Bề rộng hốc tủy
Đánh giá mô học: Mã số: .................. Loại viêm Mức độ viêm Sự lan rộng của viêm Tế bào ngà Sự xâm nhập vi khuẩn Hình thành cầu ngà
Kích thước: Kích thước: ………………………………………………….. ………………………………………………….. ………………………………………………….. ………………………………………………….. …………………………………………………. ………………………………………………….. ………………………………………………….. ………………………………………………….. Độ: 1 2 3 4 Độ: 1 2 3 4 Độ: 1 2 3 4 Độ: 1 2 3 4 Độ: 1 2 3 4 Độ: 1 2 3 4
Ngày … tháng … năm Người đánh giá (Ký và ghi rõ họ tên)
PHỤ LỤC 4. MÔ TẢ, PHƯƠNG PHÁP THU THẬP VÀ GIÁ TRỊ CÁC BIẾN SỐ
4.1.Mô tả biến số và các giá trị
Bảng PL4: Các nhóm biến số và các giá trị chi tiết trong nghiên cứu
Giá trị thang đánh giá
Mô tả
Loại biến số
Tên biến số NHÓM BIẾN SỐ NỀN
Mã S1.1
Tuổi
Năm thực hiện điều trị trừ năm sinh, ghi từ bệnh án
S1.2
Giới
Liên tục, thứ tự Nhị giá, danh định,
S1.3
Danh định
(1) Nam (2) Nữ (1) MTA (2) BD
Phương pháp điều trị NHÓM BIẾN SỐ KHÁM LÂM SÀNG Mảng bám
Liên tục
Đánh giá độ dày của mảng bám bám trên mặt răng (phụ lục)
S2.1
Viêm nướu
Liên tục
Đánh giá mức độ viêm của nướu răng (phụ lục)
S2.2
Viêm nha chu
Liên tục
S2.3
Thăm khám theo chỉ số phân loại mức độ VNC (Phụ lục)
Độ lung lay
Liên tục
S2.4
(1) Không. Không hiện diện mảng bám. (2) Ít: Mắt thường không thấy mảng bám nhưng thấy khi dùng đầu cây thăm dò túi nha chu lấy trên bề mặt răng từ khe nướu. (3) TB: Mảng bám thấy thường. (4) Nhiều: Mảng bám, vụn thức ăn tích tụ nhiều. (1) Nướu bình thường (2) Nướu viêm nhẹ: thay đổi nhẹ về màu sắc, hơi phù nề. Không chảy máu khi thăm dò (3) Nướu viêm trung bình: nướu đỏ, phù nề. Chảy máu khi thăm dò. (4) Nướu viêm nặng: nướu đỏ và phù nề nhiều, lở loét. Chảy máu tự phát (1) Không viêm nha chu (2) Viêm nha chu nhẹ (3) Viêm nha chu trung bình (4) Viêm nha chu nặng (1) Răng lung lay nhẹ cảm thấy bằng tay (sinh lý) (2) Răng lung lay theo chiều ngang < 1mm. (3) Răng lung lay theo chiều ngang >1mm. (4) Răng lung lay theo chiều ngang và chiều dọc
Sưng, lỗ dò
Danh định
(1) Không có sưng và lỗ dò (2) Sưng phồng vỏ xương ổ (3) Có lỗ dò (4) Có sưng viêm kết hợp lỗ dò
S2.5
Mức độ sâu răng
Liên tục
S2.6
Dùng 2 đầu ngón tay trỏ của 2 bàn tay, một ngón làm điểm tựa ở phía trong, một ngón đẩy nhẹ từ phía ngoài vào để phát hiện răng có bị lung lay hay không. Sưng phồng vỏ xương ổ quan sát thấy và sờ trên niêm mạc. Lỗ dò trên niêm mạc xương ổ quan sát thấy và chẩn đoán qua phim X quang đường dò bằng côn gutta percha Sử dụng thang đánh giá sâu răng ICDAS-II (phụ lục)
Nhị giá
S2.7
Độ hoạt động sâu răng
Miếng trám
Nhị giá
S2.8
Sử dụng thanh đánh giá sâu răng ICDAS-II (phụ lục) Tái đánh giá kiểm tra các miếng trám có ảnh hưởng đến sâu răng và tạo xoang che tủy
Sử dụng bảng màu Vita
Liên tục
S2.9 Màu sắc răng
(1) Không sâu răng (ICDAS 0) (2) Sâu răng nhẹ (ICDAS 1-2) (3) Sâu răng trung bình (ICDAS 3-4) (4) Sâu răng nặng (ICDAS 5-6) (1) Sâu răng không hoạt động hoặc hoạt động thấp (2) Sâu răng hoạt động cao (1) Miếng trám ổn định trơn láng, không sút rớt, không sâu tái phát (2) Miếng trám không trơn láng, sút rớt, phải trám lại (3) Có sâu tái phát, phải trám lại (1) Không đổi
(2) Đổi màu ít (< 2 bậc)
(3) Đổi màu nhiều (2-3 bậc) (4) Đổi màu rất nhiều (>3 bậc) (4)
Thử nghiệm lạnh
Nhị giá
S2.10
(1) Đau thoáng qua không kéo dài (2) Không đáp ứng đau hoặc đau kéo dài khi loại bỏ kích thích
3D-MASTER®, so màu và chụp ảnh dưới ánh sáng huỳnh quang (phụ lục) Sử dụng nước đá vừa tan bơm nhẹ lên mặt ngoài răng Thử nghiệm nóng Áp đầu côn gutta percha
Nhị giá
(1) Không đau
S2.11
Thử nghiệm điện
hơ nóng lên mặt ngoài răng Sử dụng máy thử điện
Nhị giá
S2.12
trạng
tủy
Nhị giá
Tình răng
Xét các thử nghiệm nhiệt và điện và khi mở tủy
S2.13
(2) Đau và đau nhiều (1) (1) Đau ở mức 0-8 (2) Đau ở mức 9-10 hoặc không dâu (1) Tủy còn sống: Thử nghiệm điện và thử nghiệm nhiệt đáp ứng dương tính. Mở tủy có máu chảy ra. (2) Tủy hoại tử: Thử nghiệm điện và thử lạnh đáp ứng âm tính. Mở tủy không thấy có máu.
Thử nghiệm gõ
Nhị giá
(1) Không đau
S2.14
Gõ dọc trên mặt nhai, mặt ngoài, mặt trong của răng
Nhị giá
(2) Đau (3) (1) Không đau
S2.15
(2) Đau (3)
Cho cắn chặt hai hàm ở vị trí lồng múi tối đa và trên gòn cuộn
Thử nghiệm nhạy cảm dưới áp lực cắn NHÓM BIẾN SỐ ĐAU VÀ NHẠY CẢM Cường độ đau
S2.16
Liên tục
Bệnh nhân tự đánh giá mức độ đau qua thang đau VAS 0-10 điểm (phụ lục)
Thời gian đau
Liên tục
S2.17
Liên tục
Thời gian mỗi lần đau
S2.18
Tác nhân đau
Danh định
S2.19
(1) Không đau (mức độ 0) (2) Đau nhẹ và vừa phải (mức độ 1-4) (3) Đau nhiều (mức độ 5-8) (4) Đau rất nhiều (mức độ 9-10) (1) Không đau (2) Đau trong 1 ngày (3) Đau trong 2-7 ngày (4) Đau trong 8-30 ngày (1) Ngắn (0- 10 giây) (2) Trung bình (10 giây - 1 phút) (3) Dài (2-10 phút) (4) Rất dài (>10 phút) (1) Không đau, không rõ (2) Nhiệt độ nóng, lạnh (3) Lực ăn nhai (4) Tự phát, không có tác nhân
(5)
Kiểu đau
Danh định
S2.20
(1) Không đau, không rõ (2) Đau âm ỉ, ê ẩm (3) Đau buốt (4) Đau theo mạch đập
Liên tục
Đặc điểm tần suất cơn đau
S2.21
Bệnh nhân tự đánh giá sự kéo dài của cảm giác nhạy cảm hay đau sau khi đặt thuốc che tủy Bệnh nhân tự đánh giá sự kéo dài của mỗi lần có nhạy cảm hay đau sau khi đặt thuốc che tủy Bệnh nhân tự đánh giá về các yếu tố hay tác nhân làm xuất hiện cảm giác nhạy cảm hay đau sau khi đặt thuốc che tủy Bệnh nhân tự tìm từ thích hợp để mô tả về cảm giác nhạy cảm hay đau sau khi đặt thuốc che tủy Bệnh nhân tự tìm từ thích hợp để mô tả về đặc điểm tần suất nhạy cảm hay đau sau khi đặt thuốc che tủy
(1) Ngắn, thoảng qua, chốc lát, không rõ (2) Không liên tục, theo chu kỳ, nhịp điệu (3) Liên tục, đều đặn, không thay đổi (4) Liên tục, không đều, đau tăng dần
Liên tục
NHÓM BIẾN SỐ X QUANG PHIM QUANH CHÓP Sự thay đổi kích thước thành ngà chân răng G- X
S3.1
(1) Không tăng (2) Tăng ở 1 vị trí (3) Tăng ở 2 vị trí (4) Tăng ở 3 vị trí
thước Trung bình kích thành ngà chân răng phía G, X ở ba vị trí (A), (B), (C) ở phim thời điểm T0, T2, T3 % thay đổi kích thước
thước cầu
Liên tục
Kích ngà chiều G- X
S3.2
thành ngà chân răng phía G-X ở ba vị trí (A), (B), (C) ở phim thời điểm T0, T3 Giá trị trung bình đo trên phim kỹ thuật số thời điểm T2,T3
thước cầu
Liên tục
S3.3
Kích ngà chiều T-D
Giá trị trung bình đo trên phim kỹ thuật số thời điểm T2,T3
thước cầu
Liên tục
S3.4
Kích ngà chiều N-T
Giá trị trung bình đo trên phim kỹ thuật số thời điểm T2,T3
Liên tục
Độ dày trung bình cầu ngà
Giá trị trung bình của ba chiều NT,GX,TD
S3.5
liên
Liên tục
Sự liên tục của cầu ngà
S3.6
Quan sát sự tục, không ngắt quãng của đường viền cầu ngà trên phim chụp các chiều N,T,G,X
Liên tục
Sang thương quanh chóp, tiêu xương
S3.7
(1) ≥ 0,25 mm (2) 0,1-0,24 mm (3) 0,01-0,09 mm (4) Không có cầu ngà (1) ≥ 0,25 mm (2) 0,1-0,24 mm (3) 0,01-0,09 mm (4) Không có cầu ngà (1) ≥ 0,25 mm (2) 0,1-0,24 mm (3) 0,01-0,09 mm (4) Không có cầu ngà (1) ≥ 0,25 mm (2) 0,1-0,24 mm (3) 0,01-0,09 mm (4) Không có cầu ngà (1) Hình thành cầu ngà/khối ngà che phủ hoàn toàn vùng tủy lộ (2) Hình thành cầu ngà/khối ngà một phần hoặc không hoàn toàn, đến hơn ½ vùng tủy lộ nhưng không che hoàn toàn vùng tủy lộ (3) Cầu ngà/khối ngà sơ khởi che phủ ít hơn ½ vùng tủy lộ hoặc cách xa vùng tủy lộ (4) Không hình thành cầu ngà/khối ngà (1) Không thấu quang quanh chóp, khoảng dây chằng nha chu không bất thường (2) Khoảng dây chằng nha chu dãn rộng, không thấu quang quanh chóp (3) Có thấu quang quanh chóp < 3mm (4) Có thấu quang quanh chóp ≥ 3mm
tiêu
Liên tục
Nội ngoại chân răng
(1) Không có nội tiêu và ngoại tiêu (2) Có nội tiêu và ngoại tiêu (1)
S3.8
Thấu quang quanh chóp để đánh giá tiêu xương quanh chóp Khoảng phiến cứng quanh chóp lamina dura để đánh giá sự dãn rộng của dây chằng nha chu quanh chóp Quan sát dọc thành ngà chân răng ngoài và trong để tìm vùng thấu quang biểu hiêij nội tiêu hoặc ngoại tiêu chân răng
Liên tục
NHÓM BIẾN SỐ X QUANG PHIM CBCT (Nowicka 2013 biến đổi) Kích thước thành ngà răng chân phía N-T
Liên tục
S4.1
Sự thay đổi kích thước thành ngà chân răng phía N- T
(1) Không tăng (2) Tăng ở 1 vị trí (3) Tăng ở 2 vị trí (4) Tăng ở 3 vị trí
Liên tục
Kích thước thành ngà răng chân phía G-X
thước Trung bình kích thành ngà chân răng phía N, T ở ba vị trí (A), (B), (C) ở phim 3 thời điểm T0, T2, T3 % thay đổi kích thước thành ngà chân răng phía N, T ở ba mức (A), (B), (C) ở phim 3 thời điểm T0, T2, T3 Trung bình kích thước thành ngà chân răng phía G, X ở ba vị trí (A), (B), (C) ở phim 3 thời điểm T0, T2, T3
Liên tục
S4.2
(1) Không tăng (2) Tăng ở 1 vị trí (3) Tăng ở 2 vị trí (4) Tăng ở 3 vị trí
thước
Liên tục
Liên tục
% thay đổi kích thước thành ngà chân răng phía G, X ở ba mức (A), (B), (C) ở phim 3 thời điểm T0, T2, T3 Trung bình kích hốc tủy chiều NT, GX % thay đổi kích thước tủy
S4.3
Sự thay đổi kích thước thành ngà chân răng phía G- X Kích thước hốc tủy chiều NT, GX Sự thay đổi kích tủy thước hốc (chiều NT, GX
thước cầu
(1) Không giảm (2) Giảm ở 1-2 vị trí (3) Giảm ở 3-4 vị trí (4) Giảm ở 5-6 vị trí
Liên tục
Kích ngà chiều N-T
S4.4
thước cầu
Liên tục
S4.5
thước cầu
Liên tục
S4.6
Liên tục
Kích ngà chiều G- X Kích ngà chiều T-D Độ dày trung bình cầu ngà
Giá trị trung bình đo trên phim kỹ thuật số thời điểm T3 ở ba vị trí (A), (B), (C) Giá trị trung bình đo trên phim kỹ thuật số thời điểm T3 Giá trị trung bình đo trên phim kỹ thuật số thời điểm T3 Giá trị trung bình của ba chiều NT,GX,TD
S4.7
Liên tục
Sự liên tục của cầu ngà
S4.8
Quan sát sự liên tục, ngắt quãng của đường viền cầu ngà trên các mặt phẳng coronal, sagital, và axial so với các thành ngà chân răng quanh vùng tủy lộ
Thể tích cầu ngà
Liên tục
S4.9
Giá trị trung bình đo trên phim kỹ thuật số thời điểm T3
Liên tục
Sang thương quanh chóp, tiêu xương
S4.10
(1) ≥ 0,25 mm (2) 0,1-0,24 mm (3) 0,01-0,09 mm (4) Không có cầu ngà (1) Hình thành cầu ngà/khối ngà che phủ hoàn toàn vùng tủy lộ (2) Hình thành cầu ngà/khối ngà một phần hoặc không hoàn toàn, đến hơn ½ vùng tủy lộ nhưng không che hoàn toàn vùng tủy lộ (3) Cầu ngà/khối ngà sơ khởi che phủ ít hơn ½ vùng tủy lộ hoặc cách xa vùng tủy lộ (4) Không hình thành cầu ngà/khối ngà (1) ≥ 1 mm3 (2) 0.5-0.99 mm3 (3) 0.1-0.49 mm3 (4) Không có cầu ngà hoặc <0,1 mm3 (1) Không thấu quang quanh chóp, khoảng dây chằng nha chu không bất thường (2) Khoảng dây chằng nha chu dãn rộng, không thấu quang quanh chóp (3) Có thấu quang quanh chóp < 3mm (4) Có thấu quang quanh chóp ≥ 3mm
S4.11 Nội ngoại
tiêu
Liên tục
chân răng
(1) Không có nội tiêu và ngoại tiêu (2) Có nội tiêu và ngoại tiêu
Liên tục
S4.12 Mật độ của ngà chân răng chiều N-T và G-X
S4.13 Mật độ tủy
Liên tục
(1) ≥ 1700 HU: mật độ khoáng hóa cao (tương tự mật độ ngà trưởng thành) (2) 1200-1699 HU: mật độ khoáng hóa trung bình (tương tự mật độ ngà non) (3) 450-1199 HU: mật độ khoáng hóa thấp (tương tự mô xương) (4) < 450 HU: mật độ khoáng hóa rất thấp
Thấu quang quanh chóp để đánh giá tiêu xương quanh chóp Khoảng phiến cứng quanh chóp lamina dura để đánh giá sự dãn rộng của dây chằng nha chu quanh chóp Quan sát dọc thành ngà chân răng ngoài và trong để tìm vùng thấu quang biểu hiêij nội tiêu hoặc ngoại tiêu chân răng Giá trị trung bình đo trên phim kỹ thuật số thời điểm T3 ở ba vị trí (A), (B), (C) Giá trị trung bình đo trên phim kỹ thuật số thời điểm T3
(tương tự mô tủy)
Liên tục
S4.14 Mật độ của cầu (Nowicka
Giá trị trung bình đo trên phim kỹ thuật số thời điểm T3
ngà 2015)
Liên tục
S4.15 Mật độ của VL che tủy
Giá trị trung bình đo trên phim kỹ thuật số thời điểm T3
Liên tục
S5.1
Danh định
Loại viêm
Quan sát trên lam nhuộm HE vùng mô tủy
S5.2
Liên tục
Mức độ viêm
Quan sát trên lam nhuộm HE vùng mô tủy
S5.3
Liên tục
Sự lan rộng của viêm
Quan sát trên lam nhuộm HE vùng mô tủy
S5.4
Giới hạn cầu ngà
Liên tục
Quan sát trên lam nhuộm HE mô khoáng hóa sửa chữa hoặc cầu ngà
S5.5
Liên tục
Hình thái cầu ngà
Quan sát trên lam nhuộm HE mô khoáng hóa sửa chữa hoặc cầu ngà
S5.6
thước cầu
Liên tục
S5.7
Quan sát trên lam nhuộm HE mô khoáng hóa sửa chữa hoặc cầu ngà
Kích ngà
Danh định
Lớp tế bào dạng nguyên bào ngà
S5.8
Quan sát trên lam nhuộm HE vùng rìa mô khoáng hóa sửa chữa hoặc cầu ngà
NHÓM BIẾN SỐ MÔ HỌC (Nowicka 2015 biến đổi, Kavitha 2019, Hoseinifar 2020) (1) Không có nhuộm màu vi khuẩn Sự xâm nhập VK Quan sát trên lam nhuộm (2) Có nhuộm màu vi khuẩn ở dọc các thành thành bên Gram vùng bên của xoang trám xaong trong ống trám, (3) Có nhuộm màu vi khuẩn ở trong ống ngà ngà, thành đáy xoang và hoặc thành đáy của xoang buồng tủy (4) Có nhuộm màu vi khuẩn ở trong buồng tủy (1) Không viêm (2) Viêm mãn: ít tế bào lympho, huyết tương, hình thành mạch và xơ hóa (3) Viêm cấp và mãn (4) Viêm cấp: nhiều bạch cầu trung tính lan tỏa, tế bào lympho, huyết tương và giãn mạch (1) Không viêm (0-25 ít tế bào viêm, rải rác) (2) Viêm nhẹ (26-50 tế bào viêm) (3) Viêm trung bình (51-75 tế bào viêm) (4) Viêm nặng (>76 tế bào viêm, áp xe, hoại tử và có các tế bào đa nhân) (1) Không viêm (2) Lan rộng ít (tế bào viêm chỉ ở bên cạnh cầu ngà hoặc vùng tủy lộ) (3) Lan rộng trung bình (tế bào viêm được tìm thấy ở 1/3 giữa vùng trung tâm của tủy hoặc xa hơn) (4) Lan rộng nhiều (tế bào nằm lấp đầy vùng trung tâm tủy hoặc có hoại tử) (1) Hình thành cầu ngà hoàn toàn (2) Hình thành cầu ngà một phần hoặc không hoàn toàn, đến hơn ½ vùng tủy lộ nhưng không che hoàn toàn vùng tủy lộ (3) Cầu ngà sơ khởi che phủ ít hơn ½ vùng tủy lộ (4) Không hình thành cầu ngà (1) Ngà hoặc ngà kết hợp với mô cứng khác, có ống ngà nhiều, dày đặc (2) Nhỉ có mô cứng không đều đặn lắng đọng, có ít ống ngà rải rác (3) Chỉ có lớp rất mỏng mô cứng lắng đọng, không có ống ngà (4) Không có mô cứng lắng đọng (1) ≥0,25mm (2) 0,10-0,24mm (3) 0,01-0,10 mm (4) Không có cầu ngà (1) Hàng rào nguyên bào ngà và/hoặc tế bào dạng nguyên bào ngà; và/hoặc tế bào dạng nguyên bào sợi (2) Có một số nguyên bào ngà và/hoặc tế bào dạng nguyên bào ngà; và/hoặc tế bào dạng nguyên bào sợi
(3) Chỉ có tế bào dạng nguyên bào ngà; hoặc tế bào dạng nguyên bào sợi (4) Không có nguyên bào ngà, tế bào dạng nguyên bào ngà, tế bào dạng nguyên bào sợi
Liên tục
S6.1
NHÓM BIẾN SỐ ĐÁNH GIÁ THÀNH CÔNG -Không có triệu chứng Thành công của bệnh lý tủy và quanh chóp CTTT về mặt lâm S2.13 (1) sàng -Đáp ứng bình thường với (Katge 2017) thử tủy nghiệm (S2.10,S2.11,.S2.12 (1). -Không đau do BN cảm nhận S2.16 (1) và khi gõ S2.14 (1), khi cắn S2.15 (1) -Không lỗ dò S2.5 (1) , không lung lay (S2.4 (1) -Không đổi màu S2.9 (1)
Liên tục
S6.2a Thành công của CTTT về mặt X quang quanh chóp (Katge 2017)
thể
-cầu ngà hiện diện trên phim có độ dày S3.5,S4.6 (1,2,3); liên tục S3.6, S4.7 (1,2,3); tích S4.8 (1,2,3) -không dãn rộng khoảng dây chằng nha chu hay thấu quang quanh chóp S3.7, S4.9 (1) -không nội tiêu ngoại tiêu S3.8,S4.10 (1)
Liên tục
S6.2b Thành công của CTTT về mặt X quang CBCT (Peskersoy 2020)
S6.3
Liên tục
Thành công của CTTT về mặt mô học (Nowicka 2015)
-không có vi khuẩn trong ồng ngà (S5.1) -không có hiện tượng viêm và tế bào viêm (S5.2 -S5.4) -có hình ảnh mô sửa chữa (S5.5-5.7)
(1) Thành công tốt, 10 tiêu chí (S2.4, S2.5, S2.9, S2.10, S2.11, S2.12, S2.13, S2.14, S2.15, S2.16) có mức (1), và ≥ 5 tiêu chí khác có mức (1) ở lần đánh giá sau cùng. (2) Thành công khá, 10 tiêu chí (S2.4, S2.5, S2.9, S2.10, S2.11, S2.12, S2.13, S2.14, S2.15, S2.16) có mức (1), và 3-4 tiêu chí khác có mức (1) ở lần đánh giá sau cùng. (3) Thành công đạt tiêu chuẩn, 10 tiêu chí (S2.4, S2.5, S2.9, S2.10, S2.11, S2.12, S2.13, S2.14, S2.15, S2.16) có mức (1), và 1-2 tiêu chí khác có mức từ (1) trở lên ở lần đánh giá sau cùng. (4) Thất bại, một trong 9 tiêu chí (S2.4, S2.5, S2.9, S2.10, S2.11, S2.12, S2.13, S2.14, S2.15) có mức (2) trở lên ở lần đánh giá sau cùng. (1) Thành công tốt, hai tiêu chí S3.5, S3.6 có mức (1), hai tiêu chí (S3.7, S3.8) mức (1) ở lần đánh giá sau cùng. (2) Thành công khá, một trong hai S3.5, S3.6 có mức cao nhất là (2) và hai tiêu chí (S3.7, S3.8) mức (1) ở lần đánh giá sau cùng. (3) Thành công tiêu chuẩn, một trong hai S3.5, S3.6 có mức cao nhất là (3) và hai tiêu chí (S3.7, S3.8) mức (1) ở lần đánh giá sau cùng. (4) Thất bại, một trong 2 tiêu chí S3.5, S3.6 có mức cao nhất là (4), hai tiêu chí (S3.7, S3.8) từ (2) trở lên ở lần đánh giá sau cùng. (5) Thành công tốt, một trong ba tiêu chí S4.6- S4.8 có mức cao nhất là (1) và 2 tiêu chí (S4.9, S4.10) mức (1) ở lần đánh giá sau cùng. (6) Thành công khá, một trong ba tiêu chí S4.6-S4.8 có mức cao nhất là (2) và 2 tiêu chí (S4.9, S4.10) mức (1) ở lần đánh giá sau cùng. (7) Thành công tiêu chuẩn, một trong ba tiêu chí S4.6-S4.8 có mức cao nhất là (3) và 2 tiêu chí (S4.9, S4.10) mức (1) ở lần đánh giá sau cùng. (8) Thất bại, một trong 3 tiêu chí S4.6-S4.8 có mức cao nhất là (4), 2 tiêu chí (S4.9, S4.10) từ (2) trở lên ở lần đánh giá sau cùng. (5) Thành công tốt, tất cả các tiêu chí đều có mức mong muốn (1) (6) Thành công khá, S5.1-S5.4 chỉ ở mức (1) và (2); S5.5-S5.7 có mức (2) (7) Thành công tiêu chuẩn, S5.1-S5.4 chỉ ở mức (1) và (2); S5.5-S5.7 có mức (3) (8) Thất bại, S5.1-S5.4 ở mức (3) và (4); S5.5- S5.7 có mức (4)
PHỤ LỤC 6. DỤNG CỤ VÀ VẬT LIỆU NGHIÊN CỨU
6.1. Dụng cụ và vật liệu khám chẩn đoán và đánh giá lâm sàng - Khay và bộ khám cơ bản - Cây đo túi - Thuốc nhuộm màu sâu răng Seek Caries Indicator (Ultradent, Mỹ) - Bộ thử tủy nhiệt - Bộ thử tủy điện DigitestTM II Pulp Vitality Tester (Parkell, Mỹ) - Bảng so màu răng Vita Toothguide 3D Master (VITA Zahnfabrik, Đức). - Bộ dụng cụ chụp ảnh (DSLR full frame D600, Nikon, Nhật)
3.2 Dụng cụ và vật liệu điều trị che tủy trực tiếp
- Thuốc tê Lidocaine 2%, Epinephrine 1:100.000 (Lignospan Standard, Septodont, Pháp) - MTA Angelus (Angelus Solucoes Odontologicas, Londrina, Braxil) - Biodentine: Biodentine TM (Septodont, Pháp) - NaOCl 1,5%, 3% (Hyposol, Prevest, Chile) - CHX 2% - NaCl 0,9% - Nước cất vô khuẩn. - Gòn hấp - GIC Fuji Lining LC IX (GC, Nhật). - Composite G-aenial (GC, Nhật) - Khay và bộ khám nội nha - Bộ đặt đê cao su Coltene (Thụy Sĩ) và soft clamp (Kerr, Đức) - Ống chích sắt - Tay khoan siêu tốc - Tay khoan chậm - Mũi khoan kim cương tròn và trụ thô màu xanh đường kính 1mm, mũi khoan kim
cương ngọn lửa và trụ mịn màu đỏ.