
68 Trần Quốc Hùng, Nguyễn Phi Hùng, Lê Thị Thu Trang, Phạm Thị Thùy Trang
NGHIÊN CỨU SINH TRƯỞNG CỦA CÂY BẢY LÁ MỘT HOA
(PARIS VIETNAMENSIS (TAKHT.) H.LI) TRONG ĐIỀU KIỆN
TRỒNG THỬ NGHIỆM DƯỚI TÁN RỪNG TẠI TỈNH KON TUM
THE GROWTH OF PARIS VIETNAMENSIS (TAKHT.) H.LI IN
FIELD CONDITION UNDER FOREST CANOPY IN KONTUM PROVINCE
Trần Quốc Hùng
1
*, Nguyễn Phi Hùng
2
, Lê Thị Thu Trang1, Phạm Thị Thùy Trang1
1Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum, Việt Nam
2Đại học Đà Nẵng, Việt Nam
*Tác giả liên hệ / Corresponding author: tqhung@kontum.udn.vn
(Nhận bài / Received: 11/11/2024; Sửa bài / Revised: 04/3/2025; Chấp nhận đăng / Accepted: 06/3/2025)
DOI: 10.31130/ud-jst.2025.476
Tóm tắt - Tại Kon Tum, cây dược liệu Bảy lá một hoa (tên khoa
học là Paris vietnamensis (Takht.) H.Li) là loài có giá trị cao,
tuy nhiên việc khai thác và thương mại sản phẩm chưa hợp lý.
Một số cá thể được phát hiện ở vùng núi cao cho thấy, khả năng
canh tác loại dược liệu này phù hợp. Loài Paris vietnamensis
(Takht.) H.Li sau ba năm trồng thử nghiệm, cây có tỷ lệ sống
khá cao (77,26%); chiều cao và đường kính thân tăng trưởng
tương ứng là 5,2 cm và 0,55 cm; đường kính, chiều dài và khối
lượng thân rễ tương ứng là 0,71 cm, 3,86 cm và 15,5 gam; năng
suất cá thể đạt 21,2 g/cây; năng suất lý thuyết đạt 0,70 tấn/ha;
mức độ gây hại của sâu bệnh hại từ không đến nhẹ. Kết quả ban
đầu cho thấy hàm lượng saponin tổng số trung bình đạt 4,44%;
hàm lượng Saponin D trung bình đạt 1,8%. Loài Paris
vietnamensis (Takht.) H.Li trồng dưới tán rừng tại Kon Tum cho
kết quả khả quan và có thể thương mại hóa loài dược liệu này
tại địa phương.
Abstract - In Kon Tum province, Paris vietnamensis (Takht.)
H.Li is highly valuable; however, its exploitation and trade are
not optimally managed. Some individuals found in highland areas
suggest that cultivation of this species is feasible. After three
years of experimental planting, Paris vietnamensis (Takht.) H.Li
demonstrated a high survival rate of 77.26%; the growth in height
and stem diameter were 5.2 cm and 0.55 cm respectively; the
diameter, length, and mass of the rhizome were 0.71 cm, 3.86 cm,
and 15.5 grams respectively; the yield per plant was 21.2 gram;
the theoretical yield was 0.70 tons/ha; pest damage ranged from
negligible to mild. Preliminary results indicate that, the average
total saponin content was 4.44%; the average Saponin D content
was 1.8%. Cultivating Paris vietnamensis (Takht.) H.Li under
forest canopy in Kon Tum has shown promising result,
suggesting potential for commercialization this medicinal plant in
the locality.
Từ khóa - Bảy lá một hoa; Kon Tum; Paris vietnamensis (Takht.)
H.Li; sinh trưởng; tán rừng
Key words - Paris L.; Kon Tum; Paris vietnamensis (Takht.)
H.Li; growth; forest canopy
1. Đặt vấn đề
Cây dược liệu Bảy lá một hoa còn có nhiều tên gọi
khác như thất diệp nhất chi hoa, thất diệp nhất chi mai,
thiết đăng hài… thuộc chi Paris, sống ở những nơi ẩm ướt
dưới rừng già có độ che phủ hơn 80% [1], [2]. Hầu hết
các loài chi Paris thuộc cây thân thảo, sinh trưởng chậm,
sống nhiều năm và qua bốn giai đoạn sinh trưởng: Nảy
chồi, ra hoa, tạo quả và rụi thân vào mùa đông, để lại
những vết sẹo trên rễ tương ứng với tuổi của cây [3]. Tuy
nhiên, các chu kỳ sinh trưởng của cây trong năm phụ
thuộc vào vùng phân bố [4]. Khả năng nảy mầm của hạt
ở chi Paris trong điều kiện tự nhiên và phòng thí nghiệm
rất thấp, bên cạnh đó việc chặt phá rừng, đốt nương làm
rẫy của người dân địa phương đã làm suy giảm đáng kể
khả năng tái sinh và phân bố của chi Paris trong điều kiện
tự nhiên. Vì vậy, số lượng cây Bảy lá một hoa còn lại bị
suy giảm đáng kể [1], [5]. Ở Trung Quốc, chi Paris được
coi là vị thuốc quý với tên gọi "Trọng lâu" với công dụng
chữa sốt rét cơn, mụn nhọt, viêm tuyến vú, hen suyễn, ho
lao… nhất là giải độc nhất là khi bị rắn độc cắn [6], [7].
Cây Bảy lá một hoa tại Việt Nam được đánh giá là loài
1
The University of Danang - Campus in Kontum, Vietnam (Tran Quoc Hung, Le Thi Thu Trang, Pham Thi Thuy Trang)
2
The University of Danang, Vietnam (Nguyen Phi Hung)
dược liệu được đánh giá là cấp hiếm (R) theo phân hạng
về góc độ bảo tồn và được ghi trong Sách đỏ Việt Nam
(IUCN) [4], [8]. Chính vì vậy, loài dược liệu này cần được
khai thác và sử dụng hợp lý, đồng thời cần phải lưu giữ,
đánh giá và bảo vệ nguồn gen.
Loài Paris vietnamensis (Takht.) H.Li tại Việt Nam có
hình thái rất đa dạng. Các cá thể khác nhau về số lượng của
lá, lá đài, cánh hoa, nhị, đầu nhuỵ [9], [10], [11]. Các công
bố nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới về chi Paris cho
thấy loài Paris vietnamensis (Takht.) H.Li mang các đặc
điểm khác biệt với các loài khác thuộc chi Paris về nhị,
cánh hoa, bầu nhụy, nhụy và màu sắc của áo hạt [11]. Ở
Việt Nam, chi Paris được tìm thấy ở các vùng núi cao và
rậm rạp ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam như Hà Nam, Lào
Cai, Ninh Bình, Hà Giang, Hòa Bình [9].
Trên thế giới, chi Paris phân bố từ 81,760 - 110,041oE
Kinh độ Đông đến 23,360 - 36,061oN Vĩ độ Bắc, bao gồm
một số khu vực ở Pakistan, Tây Nam Trung Quốc, Ấn Độ,
Nepal, Bhutan, Nam Tây Tạng, Thái Lan, Đài Loan, Lào,
Việt Nam và Myanmar [12]. Trong tự nhiên, các yếu tố độ
che phủ tán rừng hơn ≥ 80%, đất có thành phần cơ giới nhẹ,

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, VOL. 23, NO. 3, 2025 69
đủ ẩm, thoát nước tốt, giàu chất hữu cơ (mùn) được xem
điều kiện then chốt cho sự tồn tại và phát triển của các loài
thuộc chi Paris [13]. Chi Paris có 22 loài với 12 loài đặc
hữu [6], [14]. Tại Việt Nam, có 8 loài được tìm thấy phân
bố ở vùng núi cao và rậm rạp các tỉnh phía Bắc, phân bố ở
các tỉnh như Lào Cai, Hà Giang, Vĩnh Phúc, Cao Bằng, Phú
Thọ, Ninh Bình, Thanh Hóa... trong đó có loài Paris
vietnamensis được tìm thấy nhiều nhất [10].
Khu vực Tây Nguyên, cây Bảy lá một hoa được tìm
thấy ở các khu vực núi cao trên 800 m của tỉnh Kon Tum
và Gia Lai. Cây thường mọc dưới tán rừng rậm rạp có độ
che phủ cao, thích nghi với điều kiện lạnh, ưa ẩm và đất
có độ mùn cao [15], [16]. Paris vietnamensis (Takht.)
H.Li là loại cây thảo, sống lâu năm, chiều cao thân khí
sinh từ 0,5 - 0,7 m. Thân rễ mập và mang nhiều đốt, trên
thân rễ có những ngấn ngang và sẹo to do quá trình rụi
thân để lại. Trên thân có một tầng lá mọc vòng từ 6 đến 8
cái, thường là 7. Thân thẳng đứng, không phân nhánh, có
màu lục hoặc hơi tím. Paris vietnamensis (Takht.) H.Li là
cây thích nơi có khí hậu ẩm mát, ít gió, không chịu ngập
úng. Phân bố ở độ cao từ 800 - 1.500 m so với mực nước
biển; khả năng sinh trưởng và phát triển tốt ở rừng nguyên
sinh, môi trường rừng tốt, độ che phủ rừng đạt 70% trở
lên; đất có độ ẩm và lượng mùn hữu cơ cao, tầng đất mùn
dày [10].
Tại Kon Tum, cùng với hai loài dược liệu đặc hữu có
giá trị cao là Sâm Ngọc Linh (Panax vietnamensis) và
Sâm Tam thất (Panax pseudoginseng) có cả trong tự
nhiên và được trồng ở các vùng tập trung, cây Bảy lá một
hoa cũng được người dân bản địa phát hiện nhưng chỉ rải
rác một ít cá thể ở các vùng núi cao như Kon Plông, Tu
Mơ Rông. Tuy nhiên, nạn phá rừng làm nương rẫy đã làm
suy giảm loài dược liệu này nghiêm trọng. Nghiên cứu
này tiến hành trồng thử nghiệm loài Paris vietnamensis
(Takht.) H.Li ở các địa điểm khác nhau và đánh giá khả
năng sinh trưởng thân, lá, năng suất thân rễ, hoạt chất.
Hiện nay, tại Kon Tum chưa có tài liệu nào công bố các
dữ liệu liên quan về các loài của chi Paris, kết quả nghiên
cứu sẽ cung cấp bộ dữ liệu về khả năng sinh trưởng, phát
triển của loài này tại tỉnh Kon Tum. Đồng thời, nhóm tác
giả so sánh kết quả thu được so sánh với các nghiên cứu
công bố về cây Bảy lá một hoa tại các tỉnh phía Bắc, nơi
mà các loài dược liệu này phân bố chủ yếu tập trung. Trên
cơ sở đó, kết quả là nguồn dữ liệu tham khảo cho các nhà
quản lý xây dựng giải pháp bảo tồn, nhân giống và tiến
tới phát triển, khai thác bền vững nguồn tài nguyên dược
liệu; chuyển đổi cơ cấu cây trồng thích ứng với biến đổi
khí hậu; tạo sinh kế cho người dân, nhất là đồng bào dân
tộc thiểu số, phục vụ phát triển kinh tế - xã hội trên địa
bàn tỉnh Kon Tum.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Vật liệu nghiên cứu
Cây giống sử dụng trong nghiên cứu là cây Bảy lá một
hoa loài Paris vietnamensis (Takht) H.Li có chiều cao
cây trung bình trên 10 cm, 1 năm tuổi do Công ty TNHH
Sản xuất và Thương mại Công nghệ Xanh cung cấp có
nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng và được giám định tên khoa
học đầy đủ.
Hình 1. Cây giống 1 năm tuổi loài
Paris vietnamensis (Takht) H.Li trồng thử nghiệm
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Bố trí mô hình trồng thực nghiệm dưới tán rừng
- Bố trí thực nghiệm: Mô hình được bố trí ở địa bàn có
các độ cao đảm bảo các yếu tố khí hậu, thời tiết cho sinh
trưởng và phát triển của cây Bảy lá một hoa để đánh giá
khả năng thích nghi của cây tại mỗi địa điểm. Diện tích tại
mỗi điểm là 250 m2, được lên luống theo địa hình thực tế,
đảm bảo luống rộng 1 m. Tổng số cây trồng mỗi điểm là
825 cây/250 m2, khoảng cách trồng (cây x cây) là 50 cm,
hàng cách hàng là 60 cm, tương ứng với mật độ 33.000
cây/ha, trồng dưới tán rừng, đảm bảo độ che phủ từ 50 -
80%. Hai mô hình được ký hiệu như sau:
+ Paris TMR: địa điểm bố trí mô hình ở khoảnh 8, tiểu
khu 204 xã Đắk Na, huyện Tu Mơ Rông được trồng trên 6
luống chia theo địa hình bậc thang ở cao trình trung bình
trên 1.300 m so với mực nước biển, nhiệt độ trung bình
năm từ 10 đến 21oC. Độ che phủ rừng tự nhiên đạt từ 70
đến 80%.
+ Paris KP: địa điểm bố trí mô hình có tọa độ 20075’82”
Bắc và 161023’19” Đông ở xã Đắk Long, huyện Kon Plông,
được trồng trên 6 luống, khoảng cách các luống là 40 cm,
chiều cao luống trên 30 cm ở cao trình trung bình 1.170 m
so với mực nước biển, nhiệt độ trung bình năm từ 12 đến
230C. Độ che phủ có bổ sung lưới đen đạt từ 55 đến 60%.
Hình 2. Địa điểm mô hình Paris KP (bên trái) và
Paris TMR (bên phải)
2.2.2. Trồng và chăm sóc
- Xử lý đất: đất được phát dọn và gom thực bì sạch sẽ,
xử lý đất nhằm hạn chế các sinh vật gây hại trước khi trồng
15 ngày.
- Cách trồng: cho phân bón lót vào hốc, lấp đất mỏng 5
- 7 cm, đặt cây giống vào trồng. Củ giống được đặt nằm
ngang, chồi hướng lên trên thẳng đứng, độ sâu đặt củ từ 8
- 12 cm, lớp đất mặt 2 - 3 cm.
- Phân bón: hiện tại ở Kon Tum chưa có quy trình hay

70 Trần Quốc Hùng, Nguyễn Phi Hùng, Lê Thị Thu Trang, Phạm Thị Thùy Trang
hướng dẫn kỹ thuật trồng loài này. Nhóm tác giả đã tham
khảo liều lượng phân bón cho cây Bảy lá một hoa tại Lào
Cai, Cao Bằng và Quảng Nam để đưa ra lượng bón phù hợp
[17], [18]. Liều lượng phân bón áp dụng trong 1 năm: phân
chuồng (2 tấn/ha); lân (350 kg/ha); vôi (300 kg/ha); phân
hữu cơ vi sinh (750 kg/ha). Từ năm 2 trở đi bón phân hữu
cơ vi sinh với liều lượng 0,2kg/cây.
- Cách bón: bón lót toàn bộ phân chuồng, lân và vôi.
Bón thúc chia làm 2 đợt: bón thúc đợt 1 (50% phân hữu cơ
vi sinh) và đợt 2 (50% phân hữu cơ vi sinh còn lại).
2.2.3. Các chỉ tiêu và phương pháp theo dõi
- Chọn mẫu theo dõi: chọn các cây theo 5 điểm trên hai
đường chéo, không chọn những cây ở vị trí ngoài cùng, mỗi
điểm chọn 10 cây đại diện, được cắm cọc để đánh dấu theo
dõi, tổng số cây theo dõi là 50 cây tương ứng 6% cây theo
dõi/tổng số cây trồng.
- Tỷ lệ sống (%) = (Tổng số cây sống/ tổng số cây trồng)
x 100.
- Thời gian theo dõi: được thực hiện trong 03 năm sau
trồng (2022, 2023 và 2024).
- Chiều cao thân cây (cm): đo từ mặt đất đến điểm cuối
của lá.
- Chiều dài lá (cm): chiều dài đo từ cuống lá đến đầu
mút lá.
- Chiều rộng lá (cm): đo tại vị trí có chiều rộng lớn nhất
trên phiến lá.
- Số lá trên cây (lá): đếm số lá/cây.
- Đường kính thân khí sinh (cm): đo bằng thước kẹp, đo
cách gốc 3cm.
- Chiều dài thân rễ (cm): đo từ chỗ phân nhánh đến điểm
đầu mút rễ.
- Đường kính thân rễ (cm): dùng thước kẹp đo ở vị trí
lớn nhất.
- Khối lượng thân rễ (g): thân rễ của những cây đại diện
sẽ được nhổ, rửa sạch và cân để xác định khối lượng. Sau
khi cân đo xong những cây đại diện được trồng lại.
- Năng suất cá thể (g/cây): cân khối lượng thân rễ tươi
của 10 cây ở năm thứ 3, tính giá trị trung bình.
- Năng suất lý thuyết (tấn/ha):
Năng suất lý thuyết (tấn ha
⁄)=năng suất cá thể x mật độ
1.000.000
- Các chỉ tiêu sâu bệnh: Áp dụng QCVN 01-
38:2010/BNNPTNT, 2010 - Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia
về phương pháp điều tra phát hiện dịch hại cây trồng [19].
Theo dõi và đánh giá mức độ nhiễm sâu bệnh hại theo
thang điểm từ 1 - 5, cụ thể:
1 - Không bị hại: cây không bị sâu, bệnh hại;
2 - Nhẹ: dưới 20% cây bị sâu, bệnh hại;
3 - Trung bình: từ 20 - dưới 50% cây bị sâu, bệnh hại;
4 - Nặng: từ 50 - dưới 70% cây bị sâu, bệnh hại;
5 - Rất nặng: từ 70 - 100% cây bị sâu, bệnh hại.
- Phân tích thành phần hóa học: chọn 02 thân rễ củ
(03 năm tuổi) đại diện cho 01 mô hình, tổng số 02 mẫu nhằm
phân tích hàm lượng saponin tổng số có trong củ cây Bảy lá
một hoa. Mẫu được gửi Viện dược liệu (NIMM) phân tích.
2.2.4. Xử lý số liệu
Số liệu thu thập được nhập bằng phần mềm Microsoft
Excel 2016. Để so sánh sự khác biệt các chỉ tiêu nghiên cứu
ở hai địa điểm trồng thử nghiệm, nhóm tác giả sử dụng
kiểm định Independent-Samples T-Test bằng phần mềm
SPSS phiên bản 22.0 kiểm tra khác biệt trung bình giữa 2
nhóm giá trị bằng ở độ tin cậy 95%.
3. Kết quả và bình luận
3.1. Tỷ lệ sống và tăng trưởng của thân lá của loài Paris
vietnamensis (Takht.) H.Li
3.1.1. Tỷ lệ sống
Theo dõi số cây sống và chết trong 03 năm để tính tỷ lệ
sống (Bảng 1). Sử dụng phương pháp so sánh hình thái của
loài Paris vietnamensis (Takht.) H.Li theo [10], [11].
Bảng 1. Tỷ lệ sống của cây Bảy lá một hoa qua các năm
Mô hình
Tỷ lệ sống (%)
Năm 2022
Năm 2023
Năm 2024
Trung bình
Paris TMR
82,50a
79,22a
76,43a
79,38
Paris KP
79,12b
74,44b
71,82b
75,13
Trung bình
2 mô hình
80,81
76,83
74,13
77,26
LSD0,05
3,05
4,18
4,06
Các ký tự giống nhau trong cùng một cột khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% theo kiểm định T-Test.
LSD0,05 là sai biệt nhỏ nhất có ý nghĩa (Least Significant
Difference - LSD) ở mức ý nghĩa 0,05.
Kết quả Bảng 1 cho thấy, tỷ lệ sống sau trồng trung bình
tại 2 điểm đạt 77,26%; tại huyện Tu Mơ Rông cho tỷ lệ
sống đạt cao hơn (79,38%) so với tại huyện Kon Plông
(75,13%) là 4,25% và khác biệt ý nghĩa thống kê qua các
năm. Mô hình bố trí tại huyện Tu Mơ Rông là khu vực rừng
tự nhiên, độ che phủ đạt 70 - 80%; trong khi đó mô hình bố
trí tại điểm huyện Kon Plông độ che phủ rừng thấp, được
phủ thêm lưới đen đảm bảo độ che phủ từ 55 đến 60%. Độ
che phủ rừng đạt trên 80% là điều kiện quyết định cho sự
tồn tại và phát triển của chi Paris [13]. Kết quả này phù
hợp với nghiên cứu của [13], cho thấy yếu tố che phủ của
tán rừng cũng đã ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của cây Bảy lá
một hoa tại các điểm bố trí trồng thử nghiệm.
3.1.2. Sự tăng trưởng của thân
Bảy lá một hoa là loại dược liệu với bộ phận dùng chủ
yếu và có giá trị nhất là thân rễ. Sự sinh trưởng thân khí
sinh, lá cũng ảnh hưởng đến năng suất bộ phận thu hoạch
làm dược liệu [10]. Thân cây Bảy lá một hoa được chia làm
2 phần là phần thân khí sinh (phần trên mặt đất) và phần
thân rễ (nằm dưới mặt đất). Thân khí sinh là phần thân ở
trên mặt đất, được tính từ phần thân rễ đến điểm cuối là
phần mang lá, mỗi cây có thể có 1 hoặc một số thân khí
sinh, phụ thuộc vào sự phát triển của thân rễ. Vào mùa đông
hàng năm, thân trên mặt đất tàn lụi và tạo thành các sẹo
(mầm ngủ) trên thân rễ [11]. Cây Bảy lá một hoa được
trồng tại hai mô hình và theo dõi khả năng sinh trưởng qua
các năm.
Kết quả Bảng 2 cho thấy, chiều cao và đường kính thân
khí sinh của Paris vietnamensis (Takht.) H.Li tăng dần qua
các năm và không có sự khác biệt ở 2 mô hình. Năm thứ 3,

ISSN 1859-1531 - TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, VOL. 23, NO. 3, 2025 71
chiều cao cây ở mô hình Tu Mơ Rông cao hơn và khác biệt
có ý nghĩa thống kê so với mô hình tại Kon Plông. Mức
tăng trưởng trung bình chung tại 2 điểm sau 3 năm trồng
chiều cao cây đạt 5,2 cm và đường kính thân đạt 0,55 cm.
Kết quả này cũng phù hợp với nghiên cứu đánh giá sinh
trưởng trong 3 năm của loài Paris vietnamensis (Takht.)
H.Li nghiên cứu tại Sa Pa, Lào Cai [18].
Bảng 2. Đặc điểm và sinh trưởng thân khí sinh qua các năm
Mô hình
Đặc điểm
Chiều cao (cm)
Đường kính (cm)
Hình
dạng
Màu
sắc
Năm
2022
Năm
2023
Năm
2024
Năm
2022
Năm
2023
Năm
2024
Paris TMR
tròn
xanh
12,7a
14,3a
18,4a
0,46a
0,73a
1,02a
Paris KP
tròn
xanh
12,1a
13,9a
16,7b
0,42a
0,70a
0,96a
LSD0,05
-
-
0,8
0,5
1,2
0,08
0,06
0,11
Các ký tự giống nhau trong cùng một cột khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% theo kiểm định T-Test.
LSD0,05 là sai biệt nhỏ nhất có ý nghĩa (Least Significant
Difference - LSD) ở mức ý nghĩa 0,05.
3.1.3. Sự tăng trưởng của lá
Bên cạnh sinh trưởng thân thì sự phát triển của lá cũng
ảnh hưởng tăng trưởng của thân rễ. Lá thực hiện chức
năng quang hợp, trao đổi khí và hô hấp. Thực vật có hạt
nói chung, lá thường có các kiểu lá khác nhau về cấu tạo,
hình dạng và chức năng. Đối với cây Bảy lá một hoa, lá
thật trên thân khí sinh mang 4 - 7 lá, các lá xếp thành một
vòng trên thân; phiến lá mỏng, hình trứng ngược đến hình
elip [11].
Bảng 3. Sinh trưởng lá qua các năm
Mô hình
Số lá (lá)
Chiều dài (cm)
Chiều rộng (cm)
Năm
2022
Năm
2023
Năm
2024
Năm
2022
Năm
2023
Năm
2024
Năm
2022
Năm
2023
Năm
2024
Paris TMR
4,2a
4,7a
5,3a
9,1a
10,7a
11,4a
4,7a
6,5a
7,6a
Paris KP
3,9a
4,6a
5,1a
9,2a
11,3a
11,8a
5,1a
6,2a
7,3a
LSD0,05
0,6
0,4
0,4
0,5
0,8
0,6
0,8
0,5
0,5
Các ký tự giống nhau trong cùng một cột khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% theo kiểm định T-Test.
LSD0,05 là sai biệt nhỏ nhất có ý nghĩa (Least Significant
Difference - LSD) ở mức ý nghĩa 0,05.
Hình 3. Hình thái cây ở mô hình Paris KP (bên trái) và
Paris TMR (bên phải)
Tổng số lá, chiều dài và chiều rộng của lá của 2 mô
hình tăng dần trong 3 năm và khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (Bảng 3). Trong đó, số lá dao động từ 3,9 - 5,3
lá, chiều dài lá từ 9,1 - 11,8 cm và chiều rộng lá từ 4,7 -
7,6 cm. Theo nghiên cứu của [18] tại Sa Pa, Lào Cai đối
với loài Paris vietnamensis (Takht.) H.Li cho kết quả tổng
số lá đạt từ 6,3 lá/cây (Paris 1) lá đến 6,7 lá (Paris 2, 3)
trong năm 1 và tăng lên 8,2 lá (Paris 1) đến 8,8 lá (Paris
3) trong năm 2 và đạt 13,3 lá (Paris 1) đến 13,8 lá (Paris
2) trong năm 3, cao hơn so với kết quả nghiên cứu này.
Kết quả cho thấy, tăng trưởng lá thấp hơn so với nghiên
cứu tại Lạng Sơn đối với loài Paris vietnamensis (Takht.)
H.Li được lưu giữ ở vườn tiêu bản có chiều cao cây từ 25
- 70 cm; số lá trên cây từ 5 - 9 lá; chiều dài lá từ 11 - 12
cm; chiều rộng lá từ 5 - 9 cm; phiến lá và màu sắc lá cũng
mang những đặc điểm tương tự [20]. Hình thái lá loài
Paris vietnamensis (Takht.) H.Li trồng thử nghiệm tại
Kon Tum có dạng thuôn dài, lá màu xanh hoặc xanh đậm
(Hình 3) phù hợp với nghiên cứu của [10], [20] khi đánh
giá đặc điểm hình thái của loài này thuộc chi Paris được
tìm thấy tại Việt Nam.
Kết quả có sự khác biệt so với các cây trồng tại
Lào Cai và Lạng Sơn là do tuổi của cây. Củ giống loài
Paris vietnamensis (Takht.) H.Li được sử dụng là củ
giống ươm từ hạt, tuổi cây là 01 năm. Sau 03 năm trồng,
các chỉ tiêu theo dõi về sinh trưởng thân, lá còn khá thấp
so với loài này trong tự nhiên (Lào Cai: cây 5 tuổi và theo
dõi trong 3 năm) hoặc được lưu giữ trong các vườn tiêu
bản (Lạng Sơn).
3.2. Sự sinh trưởng của thân rễ của cây Bảy lá một hoa
Thân rễ của loài dược liệu này chủ yếu dùng để làm
dược liệu khô có hình khối trụ, hơi cong, dài, đường kính
1 - 7,5 cm, thường to ở đầu và nhỏ dần ở phần đuôi, vỏ
ngoài màu nâu đậm, những chỗ bị bong vỏ có màu trắng
hoặc trắng ngà, có nhiều vân vòng cung, một mặt có nhiều
sẹo lõm hình tròn hoặc hình elip do thân cây lụi hàng năm
để lại, mặt còn lại có nhiều rễ con hoặc sẹo do rễ con rụng
đi để lại. Phần thịt thân rễ có mùi thơm nhẹ, vị hơi đắng
[10], [11].
Đường kính, chiều dài và khối lượng thân rễ ở 2 mô
hình tăng lên theo các năm và khác biệt không có ý nghĩa
thống kê ở năm đầu tiên. Từ năm thứ 2 và thứ 3 sinh
trưởng của thân rễ ở mô hình Tu Mơ Rông cao hơn so với
mô hình ở Kon Plông và khác biệt ở độ tin cậy 95% (Bảng
4). Trung bình sau 3 năm trồng, đường kính thân rễ đạt
1,15 cm, mức tăng trưởng là 0,71 cm; chiều dài thân rễ
đạt 5,6 cm, mức tăng trưởng là 3,86cm và khối lượng thân
rễ 21,9 g với mức tăng trưởng là 15,5 g. Kết quả trên
tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Tiến Dũng tại Sa
Pa, Lào Cai trong 3 năm trồng với mức tăng trưởng đường
kính thân rễ là 0,82 cm, chiều dài thân rễ 4,01 cm và khối
lượng thân rễ là 17,4g [18].
Bảng 4. Khả năng sinh trưởng thân rễ qua các năm
Mô hình
Đường kính (cm)
Chiều dài (cm)
Khối lượng (g)
Năm
2022
Năm
2023
Năm
2024
Năm
2022
Năm
2023
Năm
2024
Năm
2022
Năm
2023
Năm
2024
Paris TMR
0,45a
0,92a
1,26a
1,75a
2,68a
5,86a
6,7a
12,8a
23,2a
Paris KP
0,43a
0,76b
1,03b
1,72a
2,43b
5,34b
6,1a
12,3a
20,6b
LSD0,05
0,08
0,13
0,11
0,06
0,23
0,36
0,6
1,4
2,1
Các ký tự giống nhau trong cùng một cột khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% theo kiểm định T-Test.
LSD0,05 là sai biệt nhỏ nhất có ý nghĩa (Least Significant
Difference - LSD) ở mức ý nghĩa 0,05.

72 Trần Quốc Hùng, Nguyễn Phi Hùng, Lê Thị Thu Trang, Phạm Thị Thùy Trang
Hình 4. Hình dạng thân rễ ở mô hình Paris KP (bên trái) và
Paris TMR (bên phải)
3.3. Năng suất cá thể, năng suất lý thuyết và hàm lượng
saponin
Cây Bảy lá một hoa thường được thu hoạch sau 6 đến
7 năm trồng [11], [16]. Mô hình thử nghiệm ở giai đoạn
năm thứ 3 sau trồng, để hạn chế các tác động đến sinh
trưởng và năng suất của cây, nhóm nghiên cứu không tính
năng suất thực thu mà chỉ tính năng suất lý thuyết dựa
trên năng suất cá thể theo mật độ trồng. Kết quả cho thấy,
năng suất cá thể của 2 mô hình năm thứ 3 dao động từ
20,1 đến 22,4 g/cây, trung bình đạt 21,3 g/cây; năng suất
lý thuyết (tấn/ha) từ 0,66 đến 0,74 tấn/ha, trung bình đạt
0,70 tấn/ha (Bảng 5). Hàm lượng saponin tổng ở thân rễ
của cây Bảy lá một hoa trên hai mô hình lần lượt đạt
4,59% (Paris TMR) và 4,28% (Paris KP). Kết quả trên so
với nghiên cứu của [18] đều có mức tương đồng về năng
suất cá thể (19,2 đến 24,2 g/cây), năng suất (0,52 đến
6,68 tấn/ha) và thấp hơn về hàm lượng saponin tổng số từ
1,02 đến 1,14% (5,82 đến 6,37%). So sánh tại 2 mô hình
thử nghiệm cho thấy, có sự khác biệt về năng suất ở độ
tin cậy 95%, trong đó mô hình ở Tu Mơ Rông cao hơn mô
hình ở Kon Plông về năng suất. Tiến hành phân tích mẫu
cây Bảy lá một hoa bản địa cùng tuổi, kết quả cho thấy
hàm lượng saponin tổng chỉ đạt 3,15%, thấp hơn so với
cây trồng ở cả hai mô hình thử nghiệm.
Bảng 5. Năng suất và hàm lượng saponin trong thân rễ
Mô hình
Năng suất cá
thể (g/cây)
Năng suất lý
thuyết (tấn/ha)
Hàm lượng
saponin (%)
Paris TMR
22,4a
0,74a
4,59
Paris KP
20,1b
0,66b
4,28
LSD0,05
1,2
0,06
Các ký tự giống nhau trong cùng một cột khác biệt không có ý
nghĩa thống kê với độ tin cậy 95% theo kiểm định T-Test.
LSD0,05 là sai biệt nhỏ nhất có ý nghĩa (Least Significant
Difference - LSD) ở mức ý nghĩa 0,05.
Bảng 6. Hàm lượng một số hoạt chất trong thân rễ
Mô hình
Hàm lượng Saponin
D (%)
Hàm lượng Saponin
H (%)
Paris TMR
2,65
1,31
Paris KP
0,98
0,99
Paris TN
0,11
0,57
(Ghi chú: Paris TN: mẫu Bảy lá một hoa thu trong tự nhiên)
Kết quả nghiên cứu về hoạt chất của các loài thuộc chi
Paris, hiện nay một số hợp chất được phân lập gồm saponin
polyphyllin A-D, dioscin và thử hoạt tính cho thấy có khả
năng chống một số dòng tế bào ung thư, chống viêm... [21].
Kết quả trên cho thấy, hàm lượng saponin tổng số trong
thân rễ dao động từ 4,28 đến 4,59%, trong đó mô hình tại
Tu Mơ Rông có xu hướng cao hơn mô hình tại Kon Plông
khoảng 0,31%. Ngoài ra, hàm lượng saponin D trong mẫu
Paris TMR và mẫu Paris KP khá cao (lần lượt là 2,65% và
0,98%) so với mẫu cây bản địa (0,11%) cho thấy cây Bảy
lá một hoa có khả năng sinh trưởng tốt và phù hợp với điều
kiện khí hậu, thổ nhưỡng địa bàn thử nghiệm.
So sánh với các loài thuộc chi Panax thì cây Bảy lá một
hoa có xu hướng sinh trưởng thân rễ mạnh hơn và tích lũy
saponin sớm hơn. Như nghiên cứu [22] tại tỉnh Lâm Đồng,
cây Sâm Ngọc Linh thuộc chi Panax sau 3 năm trồng khối
lượng thân rễ đạt 10,9 g/cây, hàm lượng saponin tổng số
đạt 1,6% và tăng dần khi cây đến đạt 5 đến 6 tuổi. Tại Hòn
Bà, Nha Trang, nghiên cứu của [23] cho thấy, cây Sâm
Ngọc Linh sau 2 năm trồng (2019 – 2021) khối lượng thân
rễ đạt 2,8 – 3,6 g/cây.
3.4. Tình hình sâu bệnh hại
Bệnh thối thân, thối củ do nấm Phytophthora sp. và
Pythium, Fusarium gây ra. Khi xuất hiện các vết thương hở
trên rễ củ hoặc phần thân gốc của cây, nấm sẽ xâm nhiễm
qua các vết thương và gây hại. Nếu không có biện pháp
ngăn chặn, tiêu diệt nấm hại, vết bệnh có thể lan rộng và
gây thối hoàn toàn củ sâm. Các chủng nấm phát sinh, phát
triển mạnh khi gặp các điều kiện như mùa mưa ẩm, đất yếm
khí, thiếu oxy và hàm lượng hữu cơ trong đất thấp [23].
Nấm Puccinia sp. là nguyên nhân gây ra bệnh gỉ sắt.
Biểu hiện bệnh ban đầu xuất hiện những đốm vàng trong
nhỏ, sau đó chuyển sang vàng nhạt và xuất hiện nằm rải rác
trên phiến lá. Sau đó, phát triển thành những khối u nổi bên
trong chứa khối bột từ vàng nhạt rồi đậm dần. Những khối
u này dần phủ kín lá, làm cho biểu bì lá bị nứt, lá lụi dần.
Bệnh thường xuất hiện nhiều vào giai đoạn cây sắp rụi thân.
Bệnh phát triển vào mùa mưa từ tháng 5 gây hại mạnh vào
tháng 9, 10. Cây bị ảnh hưởng lớn đến sinh trưởng và phát
triển khi bệnh gây hại mạnh và lây lan nhanh, nếu bệnh
nặng có thể gây chết cây hàng loạt [24].
Điều tra, theo dõi tình hình sâu bệnh hại theo [19], chu
kỳ 2 tháng 1 lần để đánh giá sự xuất hiện và khả năng gây
hại của sâu bệnh hại tại hai mô hình thử nghiệm. Mức độ
sâu bệnh hại trên loài Paris vietnamensis (Takht.) H.Li
trồng tại tỉnh Kon Tum được đánh giá ở mức độ từ không
đến rất nhẹ (Bảng 7).
Bảng 7. Tình hình sâu bệnh hại loài Paris vietnamensis (Takht.)
H.Li trồng tại tỉnh Kon Tum
Loại sâu bệnh hại
Paris TMR
Paris KP
Trung bình
Thối thân
1,06
1,18
1,12
Thối củ
1,14
1,30
1,22
Gỉ sắt
1,26
1,42
1,34
Các loại sâu ăn lá, ốc
sên
1,02
1,10
1,06
4. Kết luận
Cây Bảy lá một hoa lần đầu được nghiên cứu trồng thử
nghiệm tại hai huyện Tu Mơ Rông và Kon Plông của tỉnh
Kon Tum cho kết quả khả quan với khả năng thích nghi
cao. Kết quả chỉ ra rằng, cây Bảy lá một hoa loài Paris
vietnamensis (Tahkt.) H.Li phù hợp với điều kiện trồng