
68 Trần Quốc Hùng, Nguyễn Phi Hùng, Lê Thị Thu Trang, Phạm Thị Thùy Trang
NGHIÊN CỨU SINH TRƯỞNG CỦA CÂY BẢY LÁ MỘT HOA
(PARIS VIETNAMENSIS (TAKHT.) H.LI) TRONG ĐIỀU KIỆN
TRỒNG THỬ NGHIỆM DƯỚI TÁN RỪNG TẠI TỈNH KON TUM
THE GROWTH OF PARIS VIETNAMENSIS (TAKHT.) H.LI IN
FIELD CONDITION UNDER FOREST CANOPY IN KONTUM PROVINCE
Trần Quốc Hùng
1
*, Nguyễn Phi Hùng
2
, Lê Thị Thu Trang1, Phạm Thị Thùy Trang1
1Phân hiệu Đại học Đà Nẵng tại Kon Tum, Việt Nam
2Đại học Đà Nẵng, Việt Nam
*Tác giả liên hệ / Corresponding author: tqhung@kontum.udn.vn
(Nhận bài / Received: 11/11/2024; Sửa bài / Revised: 04/3/2025; Chấp nhận đăng / Accepted: 06/3/2025)
DOI: 10.31130/ud-jst.2025.476
Tóm tắt - Tại Kon Tum, cây dược liệu Bảy lá một hoa (tên khoa
học là Paris vietnamensis (Takht.) H.Li) là loài có giá trị cao,
tuy nhiên việc khai thác và thương mại sản phẩm chưa hợp lý.
Một số cá thể được phát hiện ở vùng núi cao cho thấy, khả năng
canh tác loại dược liệu này phù hợp. Loài Paris vietnamensis
(Takht.) H.Li sau ba năm trồng thử nghiệm, cây có tỷ lệ sống
khá cao (77,26%); chiều cao và đường kính thân tăng trưởng
tương ứng là 5,2 cm và 0,55 cm; đường kính, chiều dài và khối
lượng thân rễ tương ứng là 0,71 cm, 3,86 cm và 15,5 gam; năng
suất cá thể đạt 21,2 g/cây; năng suất lý thuyết đạt 0,70 tấn/ha;
mức độ gây hại của sâu bệnh hại từ không đến nhẹ. Kết quả ban
đầu cho thấy hàm lượng saponin tổng số trung bình đạt 4,44%;
hàm lượng Saponin D trung bình đạt 1,8%. Loài Paris
vietnamensis (Takht.) H.Li trồng dưới tán rừng tại Kon Tum cho
kết quả khả quan và có thể thương mại hóa loài dược liệu này
tại địa phương.
Abstract - In Kon Tum province, Paris vietnamensis (Takht.)
H.Li is highly valuable; however, its exploitation and trade are
not optimally managed. Some individuals found in highland areas
suggest that cultivation of this species is feasible. After three
years of experimental planting, Paris vietnamensis (Takht.) H.Li
demonstrated a high survival rate of 77.26%; the growth in height
and stem diameter were 5.2 cm and 0.55 cm respectively; the
diameter, length, and mass of the rhizome were 0.71 cm, 3.86 cm,
and 15.5 grams respectively; the yield per plant was 21.2 gram;
the theoretical yield was 0.70 tons/ha; pest damage ranged from
negligible to mild. Preliminary results indicate that, the average
total saponin content was 4.44%; the average Saponin D content
was 1.8%. Cultivating Paris vietnamensis (Takht.) H.Li under
forest canopy in Kon Tum has shown promising result,
suggesting potential for commercialization this medicinal plant in
the locality.
Từ khóa - Bảy lá một hoa; Kon Tum; Paris vietnamensis (Takht.)
H.Li; sinh trưởng; tán rừng
Key words - Paris L.; Kon Tum; Paris vietnamensis (Takht.)
H.Li; growth; forest canopy
1. Đặt vấn đề
Cây dược liệu Bảy lá một hoa còn có nhiều tên gọi
khác như thất diệp nhất chi hoa, thất diệp nhất chi mai,
thiết đăng hài… thuộc chi Paris, sống ở những nơi ẩm ướt
dưới rừng già có độ che phủ hơn 80% [1], [2]. Hầu hết
các loài chi Paris thuộc cây thân thảo, sinh trưởng chậm,
sống nhiều năm và qua bốn giai đoạn sinh trưởng: Nảy
chồi, ra hoa, tạo quả và rụi thân vào mùa đông, để lại
những vết sẹo trên rễ tương ứng với tuổi của cây [3]. Tuy
nhiên, các chu kỳ sinh trưởng của cây trong năm phụ
thuộc vào vùng phân bố [4]. Khả năng nảy mầm của hạt
ở chi Paris trong điều kiện tự nhiên và phòng thí nghiệm
rất thấp, bên cạnh đó việc chặt phá rừng, đốt nương làm
rẫy của người dân địa phương đã làm suy giảm đáng kể
khả năng tái sinh và phân bố của chi Paris trong điều kiện
tự nhiên. Vì vậy, số lượng cây Bảy lá một hoa còn lại bị
suy giảm đáng kể [1], [5]. Ở Trung Quốc, chi Paris được
coi là vị thuốc quý với tên gọi "Trọng lâu" với công dụng
chữa sốt rét cơn, mụn nhọt, viêm tuyến vú, hen suyễn, ho
lao… nhất là giải độc nhất là khi bị rắn độc cắn [6], [7].
Cây Bảy lá một hoa tại Việt Nam được đánh giá là loài
1
The University of Danang - Campus in Kontum, Vietnam (Tran Quoc Hung, Le Thi Thu Trang, Pham Thi Thuy Trang)
2
The University of Danang, Vietnam (Nguyen Phi Hung)
dược liệu được đánh giá là cấp hiếm (R) theo phân hạng
về góc độ bảo tồn và được ghi trong Sách đỏ Việt Nam
(IUCN) [4], [8]. Chính vì vậy, loài dược liệu này cần được
khai thác và sử dụng hợp lý, đồng thời cần phải lưu giữ,
đánh giá và bảo vệ nguồn gen.
Loài Paris vietnamensis (Takht.) H.Li tại Việt Nam có
hình thái rất đa dạng. Các cá thể khác nhau về số lượng của
lá, lá đài, cánh hoa, nhị, đầu nhuỵ [9], [10], [11]. Các công
bố nghiên cứu ở Việt Nam và trên thế giới về chi Paris cho
thấy loài Paris vietnamensis (Takht.) H.Li mang các đặc
điểm khác biệt với các loài khác thuộc chi Paris về nhị,
cánh hoa, bầu nhụy, nhụy và màu sắc của áo hạt [11]. Ở
Việt Nam, chi Paris được tìm thấy ở các vùng núi cao và
rậm rạp ở các tỉnh phía Bắc Việt Nam như Hà Nam, Lào
Cai, Ninh Bình, Hà Giang, Hòa Bình [9].
Trên thế giới, chi Paris phân bố từ 81,760 - 110,041oE
Kinh độ Đông đến 23,360 - 36,061oN Vĩ độ Bắc, bao gồm
một số khu vực ở Pakistan, Tây Nam Trung Quốc, Ấn Độ,
Nepal, Bhutan, Nam Tây Tạng, Thái Lan, Đài Loan, Lào,
Việt Nam và Myanmar [12]. Trong tự nhiên, các yếu tố độ
che phủ tán rừng hơn ≥ 80%, đất có thành phần cơ giới nhẹ,