ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN --------------------

VƢƠNG THANH HƢƠNG

NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG VI KHUẨN Geobacillus

stearothermophilus ĐỂ PHÁT HIỆN NHANH DƢ LƢỢNG

KHÁNG SINH TRONG SỮA

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội - Năm 2017

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN --------------------

VƢƠNG THANH HƢƠNG

NGHIÊN CỨU SỬ DỤNG VI KHUẨN Geobacillus

stearothermophilus ĐỂ PHÁT HIỆN NHANH DƢ LƢỢNG KHÁNG SINH TRONG SỮA

Chuyên ngành: Vi sinh vật học

Mã số: 60420107

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. MAI THỊ ĐÀM LINH

Hà Nội - Năm 2017

Luận văn thạc sỹ

MỞ ĐẦU

Được phát hiện lần đầu tiên vào năm 1928 bởi Alexander Flemming, chất

kháng sinh được coi là công cụ hữu hiệu trong việc điều trị bệnh cho người và động

vật. Chất kháng sinh được sử dụng rộng rãi trong ngành nông nghiệp như chăn nuôi,

trồng trọt, nuôi truồng thủy hải sản, … có tác dụng rất lớn là giúp cho vật nuôi trồng

chống lại bệnh tật. Việc sử dụng chất kháng sinh trong chăn nuôi đã được chứng

minh là làm tăng khả năng hấp thu dinh dưỡng, khả năng thu nhận thức ăn của vật

nuôi đề kháng lại các bệnh tật. Do hiệu quả nhanh và mạnh, chất kháng sinh hiện

nay được sử dụng tràn lan và phổ biến trong chăn nuôi mà không được kiểm soát.

Điều này dẫn đến một thực trạng là hiện tượng tồn dư chất kháng sinh trong vật

nuôi gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng sản phẩm. Tại Việt Nam, trong chăn nuôi

gia súc, gia cầm hiện nay người dân sử dụng rất tùy tiện các loại thức ăn có chứa

chất tăng trọng và thuốc kháng sinh nhằm ngăn ngừa, trị bệnh cho vật nuôi và giúp

vật nuôi mau ăn chóng lớn. Hậu quả là dư lượng chất kích thích và thuốc kháng

sinh trong thực phẩm từ vật nuôi này vượt ngưỡng cho phép gấp nhiều lần.

Trong ngành sản xuất sữa hiện nay, việc sử dụng thuốc kháng sinh để phòng

và chữa bệnh cho bò (phổ biến là bệnh viêm vú bò) là nguyên nhân gây ra sự tồn dư

thuốc kháng sinh trong mô và trong sữa của bò. Kháng sinh tồn dư trong sữa bò, dê,

cừu gây ức chế vi khuẩn được dùng trong quá trình chế biến sữa, đặc biệt là quá

trình chế biến phomat, sữa chua khi phải dùng vi khuẩn để lên men. Đồng thời sự

tồn dư lượng kháng sinh trong sữa gây nguy hiểm cho trẻ em và người già, là những

đối tượng dùng sữa nhiều.

Các nước Châu Âu đã ngừng sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi từ năm

2006. Mỹ và Thái Lan sẽ ngừng sử dụng trong năm 2017. Quốc tế đã có rào cản của

riêng mình để nói không với thực phẩm chứa kháng sinh. Ở Việt Nam, vấn đề kiểm

tra và kiểm soát dư lượng kháng sinh trong sữa đang được quan tâm. Trước đòi hỏi

ngày càng cao về chất lượng và độ an toàn của các sản phẩm có nguồn gốc từ đồng

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 1

Luận văn thạc sỹ

vật của con người, ngoài việc tăng cường quản lý các công đoạn sản xuất thì việc

xác định nhanh hàm lượng kháng sinh tồn dư trong thực phẩm là điều rất cần thiết.

Có rất nhiều phương pháp phát hiện nhanh dư lượng kháng sinh trong sữa

như phương pháp sắc ký, phương pháp sắc ký miễn dịch, phương pháp ELISA,...

Các phương pháp này hầu hết có độ nhạy cao, kết quả khá chính xác. Tuy nhiên quy

trình thường phức tạp, cần có trang thiết bị đi kèm và cần kỹ thuật viên chuyên

nghiệp cao. Hơn nữa quá trình kiểm nghiệm đều phải lấy mẫu ngay và thực hiện

trong phòng thí nghiệm.

Hiện nay, các phương pháp phân tích bằng vi sinh vật được sử dụng phổ biến

để xác định dư lượng kháng sinh vì tính đơn giản, tiện lợi của nó. Có nhiều test vi

sinh vật đã được nghiên cứu và ứng dụng để xác định kháng sinh trong nhiều loại

sản phẩm. Geobacillus stearothermophilus là chủng vi sinh vật ưa nhiệt, rất nhạy

cảm với kháng sinh, được sử dụng phổ biến trong các test của nước ngoài. Tuy

nhiên các test này có giá thành rất cao, thủ tục nhập khẩu đòi hỏi thời gian, gây trở

ngại cho việc áp dụng rộng rãi ở Việt Nam. Để chủ động trong nghiên cứu cũng như

đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu sử

dụng vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus để phát hiện nhanh dư lượng

kháng sinh trong sữa”.

Mục tiêu của đề tài

Xây dựng được quy trình chế tạo test thử từ bào tử vi khuẩn Geobacillus

stearothermophilus để phát hiện nhanh dư lượng kháng sinh trong sữa tươi nguyên liệu.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 2

Luận văn thạc sỹ

Chƣơng 1 - TỔNG QUAN

1.1. Tình hình sản xuất sữa tƣơi ở Việt Nam:

Là quốc gia đông dân với mức tăng trưởng dân số cao, khoảng 1,2%/năm,

Việt Nam được đánh giá là thị trường tiềm năng cho các hãng sản xuất sữa. Với tỷ

lệ tăng trưởng GDP 6-8%/năm, thu nhập bình quân đầu người tăng 14,2%/năm cùng

với xu hướng cải thiện sức khỏe và tầm vóc của người Việt khiến nhu cầu sử dụng

các loại sữa và các sản phẩm từ sữa luôn ở mức cao. Theo dự báo của Hiệp hội Sữa

Việt Nam (VDA), lượng sữa tiêu thụ bình quân đầu người tại Việt Nam vào năm

2010 đạt 15 lít/năm và sẽ tăng gần gấp đôi, lên mức 28 lít/năm vào năm 2020 [15].

Tăng trưởng doanh thu ngành sữa chủ yếu là sữa bột và sữa nước, chiếm 74% tổng

giá trị thị trường. Tuy nhiên, năng lực sản xuất sữa và các sản phẩm từ sữa trong

nước được dự báo sẽ không theo kịp nhu cầu tiêu thụ, đặc biệt là trong lĩnh vực sản

xuất sữa tươi. Lượng sữa tươi nguyên liệu trong nước chỉ đáp ứng được 30% nhu

cầu sử dụng [15]. Trong khi đó, chất lượng sữa thấp, không ổn định do nguồn cung

cấp chủ yếu từ các hộ chăn nuôi nhỏ, năng suất thấp.

Nắm bắt được tiềm năng tăng trưởng của thị trường, ngày càng có nhiều

doanh nghiệp tham gia vao ngành chế biến sữa Việt Nam. Đặc biệt, đa phần các

doanh nghiệp hiện đang tập trung đầu tư phát triển vùng nguyên liệu của riêng mình

dưới nhiều hình thức nhằm giải quyết được nhược điểm lớn nhất của ngành sữa Việt

Nam là thiếu hụt nguyên liệu. Một trong những doanh nghiệp sữa thành công nhất

với việc tạo lập vùng nguyên liệu để phát triển sản phẩm là Công ty Cổ phần sữa

TH (nhãn hiệu sữa TH true milk). Các doanh nghiệp khác cũng không đứng ngoài

cuộc đua phát triển vùng nguyên liệu như Công ty cổ phần sữa Việt Nam Vinamilk,

Công ty cổ phần Thực phẩm dinh dưỡng NutiFood Việt Nam, … Sức hấp dẫn của

thị trường sữa Việt Nam không chỉ kích thích các doanh nghiệp nội địa mở rộng sản

xuất mà còn thu hút nhiều nhà đầu tư nước ngoài bỏ vốn vào ngành. Ví dụ, doanh

nghiệp sữa Friesland Campina Việt Nam (nhãn hiệu sữa Cô gái Hà Lan) đang xúc

tiến đẩy mạnh phát triển vùng nguyên liệu tại tỉnh Hà Nam theo hình thức hợp tác

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 3

Luận văn thạc sỹ

với các hộ nông dân, hình thành các trang trại chăn nuôi bò sữa quy mô gia đình (50

- 80 bò sữa/trại) khác với mô hình trại lớn 500 - 1000 bò sữa/trại của các doanh

nghiệp khác. [15]

Có rất nhiều doanh nghiệp tham gia vào ngành chế biến sữa do họ nắm bắt

được tiềm năng tăng trưởng của thị trường. Điều này dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt

của các hãng sữa trong việc đưa ra sự lựa chọn sản phẩm sữa tốt nhất cho người tiêu

dùng. Vấn đề chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm của các sản phẩm này được

đặt lên hàng đầu. Một vấn đề đang được quan tâm hiện nay là xuất hiện sự tồn dư

của chất kháng sinh trong các sản phẩm sữa. Nguyên nhân là do người dân sử dụng

kháng sinh bừa bãi trong chăn nuôi, quy trình sử dụng không được kiểm soát. Do đó

việc kiểm soát chất lượng sữa, đặc biệt là dư lượng kháng sinh trong sữa ngay tại

nguồn là vấn đề đang được quan tâm và đẩy mạnh.

Hình 1.1. Quy trình kiểm soát chất lượng sữa đầu vào trước khi xử lý

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 4

Luận văn thạc sỹ

1.2. Tình hình sử dụng chất kháng sinh trong chăn nuôi:

1.2.1. Trên thế giới:

Kháng sinh đã và đang đóng vai trò quan trọng trong chăn nuôi và nuôi trồng

thủy sản, không chỉ để phòng và trị bệnh mà còn được dùng như một chất kích thích

sinh trưởng ở liều thấp (2,5 - 50 ppm) [8,52]. Nhu cầu về sử dụng kháng sinh trong

chăn nuôi động vật nói chung và nuôi bò sữa nói riêng là rất lớn. Việc sử dụng

kháng sinh trong thức ăn chăn nuôi được đánh dấu bằng một thí nghiệm của

Stokstad và Juke năm 1949 [65] khi cho gia cầm ăn thức ăn có bổ sung

Chlortetracycline, nhận thấy tốc độ sinh trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của gia

cầm tăng rõ rệt. Vì thế, người ta đã đưa vào thức ăn của gia súc, gia cầm nhiều loại

thuốc kháng sinh như Oxytetracycline, Aureomycine, Penicillin, Streptomycine.

Mỹ là nước đầu tiên phát hiện ra hiệu quả sử dụng kháng sinh làm chất kích

thích sinh trưởng trong thức ăn chăn nuôi. Ở Mỹ hàng năm có khoảng 6 triệu pao

(xấp xỉ 2730 tấn) kháng sinh được dùng trong chăn nuôi. Theo thống kê, xấp xỉ

80% số gia cầm, 70% lợn, 70% bò sữa và 60% bò thịt được nuôi dưỡng bằng thức

ăn có bổ sung kháng sinh. Ước tính cứ mỗi USD chi phí cho kháng sinh dùng trong

thức ăn, người chăn nuôi thu được lợi tức 2-4 USD [33]. Cơ quan quản lý Dược

phẩm và Thực phẩm (FDA) Mỹ đã ban hành các quy định về việc cho phép sử dụng

kháng sinh để kích thích tăng trọng từ năm 1951. Theo Hội đồng nghiên cứu Quốc

Gia Hoa Kỳ (NRC), 1998, Mỹ và Canada đã cho phép sử dụng 17 loại kháng sinh

vào thức ăn cho lợn, trong đó có 8 loại phải ngừng sử dụng trước khi giết mổ từ 5-

70 ngày. Liều lượng bổ sung thường rất thấp tùy theo loại kháng sinh, nhưng nếu sử

dụng Chlotetracycline hay Zinbacitracilin thì hàm lượng đó là 30 đến 40 ppm. [33]

Ở Anh và Pháp, trung bình một năm có khoảng 75% số động vật được dùng

kháng sinh để điều trị và gần 60% động vật được dùng kháng sinh để phòng bệnh.

Ở Anh, Tetracycline là nhóm kháng sinh được sử dụng nhiều nhất để bổ sung vào

thức ăn chăn nuôi, chiếm hơn 50% tổng số kháng sinh [52]. Theo số liệu của

Ghislain Follet, trong năm 1997 tổng lượng kháng sinh dùng trong dân y và chăn

nuôi ở các nước châu Âu là 10500 tấn (quy theo mức 100% tinh khiết của các thành

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 5

Luận văn thạc sỹ

phần hoạt tính), trong đó 52% sử dụng trong dân y, 33% trong điều trị thú y và 15%

như chất bổ sung trong thức ăn chăn nuôi. Trong đó, tỷ lệ các loại kháng sinh được

sử dụng trong chăn nuôi: Penicillin 9%; Tetracycline 66%; Macrolide 12%;

Aminoglycoside 4%; Fluoroquinolone 1%; Trimethomprimsulfamid 2% và các

kháng sinh khác 6% [10].

Việc bổ sung kháng sinh với liều lượng thấp được xác nhận là cải thiện về

trọng lượng vật nuôi, giảm lượng thức ăn cho vật nuôi, giúp vật nuôi chống lại bệnh

tật. Tuy nhiên, việc lạm dụng, sử dụng bất hợp pháp hoặc sử dụng sai nguyên tắc

thuốc thú y nói chung và kháng sinh nói riêng trong chăn nuôi và nuôi trồng thủy

sản đã gây hiện tượng kháng thuốc hoặc tồn dư thuốc trong sản phẩm, ảnh hưởng

xấu đến sức khỏe cộng đồng, môi trường cũng như hiệu quả điều trị bệnh [20,23].

Chính vì vậy, để tăng cường kiểm soát dư lượng thuốc, các nước phát triển đã có

những qui định rất chặt chẽ và kiểm soát nghiêm ngặt. Ngày 22/12/2009 EU đã ban

hành quyết định số 37/2010 thay cho quyết định số 2377/90 EC quy định giới hạn

tồn dư thuốc thú y cho phép trong sản phẩm động vật [34]. Hoa Kỳ và Liên minh

Châu Âu cho phép dư lượng tối đa của kháng sinh trong thịt và phủ tạng động vật là

100 µg/kg, trong khi đó, Nhật Bản chỉ cho phép 20 µg/kg và Hàn Quốc là 10 µg/kg

[17,22,28]. Do phát hiện ra những độc tính của Chloramphenicol (CAP) lên cơ quan

tạo máu (có thể gây thiếu máu không tái tạo, không phục hồi do suy tủy, gây tử

vong) nên từ năm 1990 Ủy ban Châu Âu đã cấm sử dụng CAP trong thú y. [3]

1.2.2. Tại Việt Nam:

Ở Việt Nam kháng sinh được sử dụng tràn lan để phòng bệnh và trị bệnh nên

tình trạng tồn dư kháng sinh trong thịt và sữa là rất phổ biến. Có tới 60-70% tổng

các thuốc đang dùng để phòng trị bệnh cho vật nuôi là thuốc hóa học trị liệu trong

đó chủ yếu là thuốc kháng sinh [16]. Theo Lã Văn Kính và cộng sự (2007), tỷ lệ sử

dụng kháng sinh trong chăn nuôi ở nước ta là rất cao: 100% các cơ sở chăn nuôi có

sử dụng Oxytetracycline, 67% các cơ sở chăn nuôi có sử dụng Chloramphenicol

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 6

Luận văn thạc sỹ

(mặc dù thuốc này đã bị cấm không được dùng để điều trị), 30% có sử dụng

Olaquindox, 77% các cơ sở chăn nuôi có sử dụng Dexamethasol [12,13].

Công bố nghiên cứu của khoa Chăn nuôi Thú y Trường Đại học Nông Lâm

thành phố Hồ Chí Minh có 628 hộ chăn nuôi lợn, gà cho thấy đa số người chăn nuôi

sử dụng kháng sinh không hợp lý như liều cao, sử dụng liên tục để phòng ngừa

bệnh cho gia súc cho đến khi nào bán được. Kết quả khảo sát tình hình sử dụng

kháng sinh trong chăn nuôi gà trên địa bàn tỉnh Bình Dương cho thấy có 26 loại

kháng sinh đã được sử dụng. Trong đó, loại được sử dụng nhiều nhất là

Chloramphenicol (chiếm 15,35%), Tylosin (15%), Colistin (13,24%), Norfloxacin

(10%), Gentamycin (8,35%), nhóm Tetracycline (7,95%), Ampicillin (7,24%), các

cơ sở sử dụng kháng sinh không hợp lý chiếm 17,22%, chủ yếu là sai về liều lượng

(12,57%) và liệu trình điều trị (3,09%) đồng thời số cơ sở không tuân thủ các quy

định về thời gian ngưng thuốc trước khi giết mổ chiếm tới 40,13% [14,18].

Khảo sát tình hình sử dụng kháng sinh ở các hộ chăn nuôi trên địa bàn Hà

Nội, kết quả nghiên cứu của Lê Thị Ngọc Diệp cho thấy kháng sinh thuộc hai

nhóm Quinolones và Macrolides được sử dụng nhiều nhất với tỷ lệ tương ứng là

78,14% và 86,89%. Các nhóm kháng sinh khác là Polipeptides (54,92%),

Aminoglycosides (50,96%), β-lactams (4,58%) và Tetracycline (46,58%) [5]. Từ

năm 2003 - 2006, kết quả phân tích lượng tồn dư thuốc kích thích tăng trưởng

trong 150 mẫu thịt và gan của gia cầm, gia súc thu thập tại Hà Nội của Khoa

Thực phẩm và vệ sinh an toàn thực phẩm, Viện dinh dưỡng Quốc gia cho thấy:

đã phát hiện tồn dư thuốc kháng sinh nhóm Tetracycline trong 18 mẫu, chiếm tỷ

lệ 12%. Có 5,5% số mẫu trong 290 mẫu thịt lợn trên thị trường Hà Nội có tồn dư

kháng sinh Tetracycline. Tại các khu vực chăn nuôi ở miền nam cũng nhận thấy

có 4 cơ sở chiếm 22,2% các mẫu thịt gà có tồn dư các loại kháng sinh

Tetracycline, Amoxyline, Erofloxacine với hàm lượng cao gấp từ 1,4 – 30,9 lần

so với ngưỡng cho phép [14].

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 7

Luận văn thạc sỹ

Các bệnh của bò thường được điều trị bằng kháng sinh như bệnh nhiễm

khuẩn nặng, viêm vú, viêm tử cung, viêm phổi, viêm móng, khớp, tiêu chảy,… Kết

quả nghiên cứu của Sa Đình Chiến và Cộng sự [4] cho thấy bệnh viêm vú đang gây

thiệt hại đáng kể cho người chăn nuôi. Tỷ lệ viêm vú lâm sàng của bò sữa mới nhập

vào địa bàn Mai Sơn, Sơn La là 27,46 %, viêm vú phi lâm sàng là 48,16 %. Có

nhiều nguyên nhân dẫn đến phát sinh phát triển bệnh viêm vú. Kháng sinh được sử

dụng để điều trị bệnh viêm vú bò sữa là: Amoxilin, Lincomycin, Ciprofloxacin,

Norfloxacin, Cefazolin, Neomycin, Tetracyclin, Gentamycin.

Hình 1.2. Khảo sát tình hình sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi trên địa bàn tỉnh

Bình Dương [18]

1.3. Tồn dƣ chất kháng sinh trong thực phẩm:

Theo tiêu chuẩn Việt Nam số 7405:2004 [1] về sữa tươi nguyên liệu - yêu

cầu kỹ thuật cho phép giới hạn tối đa dư lượng thuốc thú y như sau:

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 8

Luận văn thạc sỹ

Bảng 1.1. Giới hạn tối đa dư lượng kháng sinh cho phép trong sữa

Tên chất

- Chloraphenicol Mức tối đa (g/kg) 0

- Coumaphos 0

- Penicillin 4

- Ampicillin 4

- Amoxicillin 4

- Oxacillin 30

- Cloxacillin 30

- Dicloxacillin 30

- Cephalexine 100

- Ceftiofur 100

- Gentamicin 100

- Tetracylin 100

- Oxytetracyllin 100

- Chlortetracyllin 100

- Sulfonamin 100

1.3.1. Nguyên nhân:

Dư lượng kháng sinh là tình trạng tồn tại của chất kháng sinh trong thực

phẩm (thịt, cá, trứng, sữa,...) ở dạng nguyên chất hay đã bị chuyển hóa mà việc sử dụng

những loại thực phẩm này có thể gây ra những tác hại không ngờ đối với người tiêu

dùng. Có hiện tượng dư lượng kháng sinh là do việc không tuân thủ quy định về sử dụng

kháng sinh trong thực phẩm, chăn nuôi, thuốc bảo vệ thực vật; sử dụng các chất kích

thích sinh trưởng, thuốc thú y trong chăn nuôi và thuốc bảo vệ thực vật ngoài danh mục

cho phép; sử dụng kháng sinh để bảo quản thực phẩm. Dư lượng kháng sinh là một trong

những nguyên nhân của tình trạng mất an toàn vệ sinh thực phẩm.

Kháng sinh đã và đang đóng vai trò quan trọng trong chăn nuôi, không chỉ để

đề phòng và trị bệnh mà còn được dùng ở liều thấp như một chất kích thích sinh

trưởng [6,30,52]. Việc lạm dụng, sử dụng bất hợp pháp hoặc sử dụng sai nguyên tắc

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 9

Luận văn thạc sỹ

các chất kháng sinh trong chăn nuôi đã gây hiện tượng kháng thuốc hoặc tồn dư

thuốc trong sản phẩm thực phẩm, ảnh hưởng xấu đến sức khỏe cộng đồng cũng như

hiệu quả điều trị bệnh [20,23].

Những nguyên nhân tồn dư kháng sinh chính:

- Kháng sinh có thể nhiễm vào thức ăn do tiếp xúc với môi trường có chứa

kháng sinh.

- Kháng sinh có thể tồn dư trong sản phẩm chăn nuôi do sử dụng thường

xuyên trong thức ăn chăn nuôi nhằm kích thích tăng trọng cho gia súc (liều thấp)

hoặc cho vào nước uống để phòng bệnh trong mùa dịch bệnh (liều trung bình).

- Kháng sinh có thể cho thẳng vào thực phẩm với mục đích ức chế, tiêu diệt vi

sinh vật, để bảo quản thực phẩm.

- Kháng sinh sử dụng để chữa bệnh cho gia súc (liều cao).

1.3.2. Tác hại:

1.3.2.1. Nguy cơ đối với sức khỏe cộng đồng:

- Gây dị ứng, phản ứng quá mẫn: Theo các báo cáo về y tế, Penicillin là kháng

sinh thường gây dị ứng nhất. Kết quả nghiên cứu của Jones đã chỉ ra rằng có

khoảng 5-10% dân số mẫn cảm đối với Penicillin hoặc kháng sinh khác với biểu

hiện dị ứng da, mệt mỏi, nôn, thậm trí sốc ngay ở nồng độ thấp (1ppb) [48]. Đã có

trường hợp người bị nổi mẫn da trầm trọng vì uống sữa có dư lượng Penicillin (<1

IU/ngày tương đượng 0,003 IU/ml). Một số trường hợp khác gây ngứa da tay, da

mặt sau khi ăn thịt bò có tồn dư Penicillin hoặc thịt heo từ thú mới điều trị bằng

Penicillin cách đó 3 ngày. Gây sốc quá mẫn dẫn đến chết người ở người có cơ địa dị

ứng với kháng sinh.

- Gây ngộ độc: Cloramphenicol là loại kháng sinh cấm sử dụng trên thế giới

do gây thiếu máu suy tủy (phụ thuộc liều), đôi khi gây thiếu máu bất sản (không

phụ thuộc liều) ở những cá thể đặc ứng do di truyền có thể dẫn đến tử vong. Một số

thuốc như Nitrofurans, Quinoxalinedinoxides và Nitroimidazoles cần có sự kiểm

soát nghiêm ngặt vì sự tích lũy thuốc do dùng lâu ngày có thể gây suy gan, suy thận

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 10

Luận văn thạc sỹ

thậm chí gây ung thư, đột biến gen (do các loại kháng sinh chủ yếu tồn dư tại gan

thận là cơ quan lọc thải trừ phân giải chất dinh dưỡng).

- Chất kháng sinh còn gây ra những mối nguy hiểm tiềm tàng cho các thế hệ

sau. Nếu sử dụng kháng sinh Nitrofurane trong thời gian mang thai có thể gây quái

thai, dị dạng.

- Tạo dòng vi khuẩn đề kháng kháng sinh: Đề kháng kháng sinh hiện nay đang

là vấn đề toàn cầu bởi trong vòng 15 - 20 năm trở lại đây chưa có một kháng sinh

kiểu mới nào được phát hiện trong khi không có kháng sinh nào là không bị kháng

do sử dụng các sản phẩm động vật có tồn dư kháng sinh. Theo kết quả nghiên cứu

của một số tác giả cho thấy ở bệnh viện Bạch Mai, tỷ lệ E.coli kháng kháng sinh

tăng từ 18% năm 2005 lên 42% năm 2008: cho thấy mức độ kháng kháng sinh

Tetracycline là 88,6%, Ciprofloxacine là 82,3% [12].

1.3.2.2. Nguy cơ đối với môi trường:

Những chất kháng sinh không rõ nguồn gốc được tổng hợp bằng các loại phụ

gia gây ô nhiễm môi trường nặng nề không kém rác thải công nghiệp. Chất kháng

sinh vào cơ thể vật nuôi thông qua thức ăn hoặc bằng các con đường khác đều được

thải ra môi trường. Ảnh hưởng của việc thải chất kháng sinh đến môi trường được

thể hiện ở các khía cạnh sau:

+ Phá vỡ hệ sinh thái vi sinh vật đất: chất kháng sinh dù bằng con đường nào

được thải ra môi trường đều phá vỡ sự cân bừng sinh thái hệ vi sinh vật và ảnh

hưởng đến độ phì của đất, tăng ô nhiễm môi trường.

+ Sự tồn tại và luân chuyển của nguồn gen kháng kháng sinh trong môi

trường: chất thải của vật nuôi khi điều trị hoặc nuôi dưỡng bằng các loại thức ăn có

kháng sinh, không chỉ gồm các cặn bã của quá trình tiêu hóa hấp thu mà còn chứa

rất nhiều loại vi sinh vật kháng thuốc, nhất là các chủng vi khuẩn đa kháng. Chúng

là vật mang và luân chuyển các gen kháng kháng sinh trong môi trường.

1.3.2.3. Nguy cơ đối với công nghệ chế biến bảo quản thực phẩm:

Chất kháng sinh có thể gây trì hoãn sự khởi đầu tích cực của các vi sinh vật

có lợi trong sản xuất bơ, phomat, sữa chua chỉ với nồng độ 1ppb. Kháng sinh còn

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 11

Luận văn thạc sỹ

làm giảm bớt mùi, vị và độ axit trong các sản phẩm, làm giảm quá trình đông tụ của

sữa, đồng thời nó cũng là nguyên nhân không thể chấp nhận được với sự chín muồi

của phomat [48]. Sự có mặt của kháng sinh trong thịt gây nên những tác dụng ngoài

mong muốn trong sản xuất xúc xích và các sản phẩm lên men thịt khác.

Người tiêu dùng khó nhận biết được những sản phẩm có tồn dư kháng sinh

nếu không có chuyên môn. Vấn đề này cần phải được bắt đầu giải quyết từ quy

trình nuôi gia súc, gia cầm. Khi đó sẽ cải thiện được chất lượng của thực phẩm chế

biến từ động vật cũng như tránh được tình trạng kháng kháng sinh cho người. Do đó

cần phải biết được phương pháp xác định dư lượng thuốc kháng sinh trong thực

phẩm để hạn chế được những tác dụng nguy hại từ những thực phẩm chứa dư lượng

thuốc kháng sinh quá tiêu chuẩn cho phép.

1.4. Các phƣơng pháp phát hiện dƣ lƣợng kháng sinh trong sữa:

Hiện nay, việc phân tích nhóm kháng sinh trong các nền mẫu sinh học (có

nguồn gốc từ động vật) rất đa dạng, trong đó tập trung vào các phương pháp chính

như: Xác định định tính nhờ vi sinh vật [6,24,58], xác định bán định lượng bằng

phương pháp ELISA, định lượng kháng sinh bằng phương pháp quang phổ hấp thụ

phân tử [25], phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao [9,21,62],…

1.4.1. Phương pháp khẳng định (lý hoá)

Phương pháp này cho phép có thể nhận diện chất kháng sinh tồn dư, định

lượng chính xác và đối chiếu MRL (dư lượng tối đa cho phép).

1.4.1.1. Phương pháp sắc ký lỏng hiệu năng cao (HPLC):

Sắc ký lỏng hiệu năng cao (còn được gọi là Sắc ký lỏng áp suất cao) là một

kỹ thuật trong hóa phân tích dùng để tách, nhận biết, định lượng từng thành phần

trong hỗn hợp. Hiện nay, HPLC đang ngày càng phát triển và được ứng dụng rất

nhiều trong các ngành phân tích định tính và định lượng đặc biệt được ứng dụng

trong phân tích dư lượng kháng sinh sữa, phân tích các hợp chất thuốc trừ sâu , các

chất phụ gia thực phẩm trong lĩnh vực thực phẩm, dược phẩm, môi trường…

Khả năng phát hiện dư lượng kháng sinh: HPLC có khả năng phát hiện tất cả

các kháng sinh có mặt trong thực phẩm, các kháng sinh thuộc nhóm Betalactams,

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 12

Luận văn thạc sỹ

Tetracyclines, Sulphonamides, Macrolides, Chloramphenicol,… William và cộng

sự đã sử dụng phương pháp HPLC để định lượng kháng sinh tetracycline trong các

mẫu thịt và sữa bò với ngưỡng phát hiện là 20-50 ppb trong mẫu thịt và 4-8 ppb

trong các mẫu sữa [68], xác định được dư lượng kháng sinh Sulfamethazine ở 3

trong 4 mẫu sữa bò đã phân tích với hàm lượng 12,2 μg/kg cao hơn rất nhiều so với

giới hạn cho phép [26]. Sử dụng phương pháp HPLC để xác định các dư lượng

kháng sinh Cefotaxime và Cephalexine trong sữa, với giới hạn xác định tương ứng

là 0,1 và 0,3 ng/ml [64]. Tác giả W. Hela và cộng sự [41] đã phát triển phương pháp

HPLC với detector DAD để xác định 12 kháng sinh thuộc nhóm Sulfonamid (SAs)

trong thịt, gan, thận động vật (lợn, bò, gà).

Tại Việt Nam, TCVN 8345- 2010 [2] qui định phương pháp xác định 10 SAs

trong thủy sản và sản phẩm thủy sản bằng sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC.

Phương pháp này cũng được áp dụng để xác định dư lượng các thuốc thú y có chứa

Cephalexine. Phương pháp HPLC có thể kết hợp với các phương pháp sắc ký khác

như sắc ký khí, khối phổ cho phép xác định chính xác các dư lượng kháng sinh

trong các mẫu phân tích. HPLC đã và đang được sử dụng cho những mục đích sản

xuất, nghiên cứu, pháp lý và y dược [40].

Hình 1.3. Hệ thống sắc ký lỏng hiệu năng cao HPLC

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 13

Luận văn thạc sỹ

1.4.1.2. Phương pháp sắc ký lỏng khối phổ (LC-MS/MS):

Sắc ký lỏng khối phổ là kỹ thuật phân tích có sự kết hợp khả năng phân tách

các chất trong hỗn hợp của bộ phận sắc ký lỏng hiệu năng cao (High performance

liquid chromatography - HPLC) và khả năng phân tích số khối (m/z) của bộ phận

khối phổ (Mass spectrometry - MS). Phương pháp này đã được nghiên cứu để phát

hiện đồng thời tồn dư nhóm Phenicol gồm Chloramphenicol (CAP), Thiamphenicol

(TAP) và Florfenicol (FF) trong một số sản phẩm có nguồn gốc động vật.

Trên thế giới, nhiều tác giả đã nghiên cứu thành công phương pháp xác định

dư lượng CAP (Chloramphenicol) trong sữa bằng kỹ thuật sắc ký khác nhau. Gần

đây với sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật sắc ký, áp dụng kỹ thuật sắc ký lỏng

khối phổ để phân tích CAP có nhiều ưu điểm nổi trội. Nhóm tác giả Yanbin Lu,

Quing Shen [69] đã xác định được 13 SAs chỉ trong 7 phút với độ nhạy cao, LOQ

từ 2-10 ppb bằng sự tương tác trực tiếp chiết pha rắn phân tán cột C18-Silica với

sắc ký lỏng khối phổ chế độ bẫy tứ cực. Tác giả George Stubbings và cộng sự [39]

đã ứng dụng kỹ thuật QuEChERS và phương pháp sắc ký lỏng khối phổ để phát

triển và thẩm định phương pháp phân tích dư lượng 30 thuốc thú y trong thịt gia

súc, gia cầm.

Ở trong nước, việc áp dụng kỹ thuật sắc ký lỏng khối phổ để phát hiện dư

lượng kháng sinh trong thực phẩm đã được triển khai. Kết quả nghiên cứu của Vũ

Thị Trang [19] về việc xác định dư lượng một số kháng sinh nhóm Sulfonamides

trong thịt gia súc gia cầm bằng phương pháp sắc ký lỏng khối phổ (LC-MS/MS) đã

chỉ ra rằng phương pháp phân tích LC-MS/MS có độ nhạy cao, phân tích nhanh và

chính xác, có thể áp dụng phân tích dư lượng 10 SAs với độ tin cậy cao.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 14

Luận văn thạc sỹ

Hình 1.4. Hệ thống sắc ký lỏng khối phổ LC-MS/MS

1.4.1.3. Phương pháp sắc ký lớp mỏng (TLC)

Sắc ký lớp mỏng là một kỹ thuật tách các chất được tiến hành khi cho pha

động di chuyển qua pha tĩnh trên đó đã đặt hỗn hợp các chất cần tách. Pha tĩnh là

chất hấp phụ được chọn phù hợp theo từng yêu cầu phân tích, được trải thành lớp

mỏng đồng nhất và được cố định trên các bản kính hoặc bản kim loại. Pha động là

một hệ dung môi đơn hoặc đa thành phần được trộn với nhau theo tỷ lệ quy định

trong từng mục đích cụ thể. Trong quá trình di chuyển qua lớp hấp phụ, các cấu tử

trong hỗn hợp mẫu thử được di chuyển trên lớp mỏng, theo hướng pha động, với

những tốc độ khác nhau. Kết quả, ta thu được một sắc ký đồ trên lớp mỏng.

Các mẫu được áp dụng chủ yếu là dược phẩm và một số loại thực phẩm như

sữa, mật ong, thịt, cá, … Phương pháp này chủ yếu cho phép định tính sự hiện diện

của các kháng sinh trong mẫu phân tích nhưng đôi khi cũng có thể xác định được

lượng kháng sinh trong khoảng 0,4-0,6 μg/kg đối với Streptomycin, Kanamycin,

Gentamycin [53], khi sử dụng các hệ dung môi thích hợp, ví dụ Acetone-Methanol-

Ammonia, 5:4,5:0,5 trong phân tích Streptomycin, Chloroform-Methanol-

Ammonia, 1:1:1 trong phân tích Tetracycline.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 15

Luận văn thạc sỹ

Ưu điểm của phương pháp khẳng định lý hóa:

Nhận diện rõ ràng, khả năng định lượng tốt, có độ nhạy cao, thích hợp cho

việc khẳng định các chất cấm, các chất có dư lượng tối đa cho phép.

Nhược điểm của phương pháp khẳng định lý hóa:

Qui trình rất phức tạp (chuẩn bị, tách chiết, làm sạch), đòi hỏi thiết bị đắt

tiền, cần kỹ thuật viên chuyên nghiệp cao, một số kháng sinh không có qui trình

phân tích bằng phương pháp này. Do vậy phương pháp này không phù hợp cho các

phòng kiểm nghiệm quy mô nhỏ hay những phòng kiểm nghiệm của địa phương.

1.4.2. Phương pháp sử dụng kỹ thuật nano

Công nghệ nano đã tạo ra các loại vật liệu thế hệ mới có nhiều đặc tính siêu

việt. Ưu điểm nổi bật đối với việc sử dụng các cấu trúc nano trong tạo các cảm biến

sinh học cho độ đặc hiệu và độ nhạy cao. Hiện nay, việc ứng dụng các aptamer (là

các oligonucleotide ssDNA, RNA hoặc các peptid có khả năng liên kết đặc hiệu với

các phân tử đích) trong tạo cảm biến sinh học đang được các nhà khoa học quan tâm

nghiên cứu. Lã Thị Huyền và cộng sự [11] đã công bố các kết quả cho thấy có thể

sử dụng kỹ thuật nano để xác định sự có mặt của chất kháng sinh trong các mẫu

nghiên cứu, cụ thể như:

- Tạo được thư viện các aptamer (có bản chất ADN) có độ đa dạng cao để làm

nguồn sàng lọc, thu nhận aptamer có khả năng nhận biết và gắn kết đặc hiệu với

từng kháng sinh trong số 4 kháng sinh thường sử dụng trong chăn nuôi: Penicillin,

Streptomycin, Neomycin và Tetracycline.

- Thu nhận và gắn kết aptamer với các hạt nano (hạt nano vàng hoặc sillica

phát quang) để tạo phức hệ DNA-Au/DNA-sillica có khả năng gắn kết đặc hiệu với

từng kháng sinh: Penicillin, Streptomycin, Neomycin và Tetracycline.

- Sử dụng phức hệ DNA-Au/DNA-sillica để tạo được KIT xác định nhanh,

chính xác dư lượng kháng sinh Penicillin, Streptomycin, Neomycin và Tetracycline

trong sữa với thời gian 1,5-2 giờ và độ nhạy > 99%, độ đặc hiệu > 98%.

Ưu điểm: xác định chính xác dư lượng kháng sinh trong sữa với thời gian

ngắn, độ nhạy và độ đặc hiệu cao.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 16

Luận văn thạc sỹ

Nhược điểm: Cần có trang thiết bị đắt tiền và đội ngũ cán bộ thực hiện được

đào tạo chuyên sâu.

1.4.3. Phương pháp sàng lọc (screening method)

Đây là phương pháp được sử dụng để phát hiện sự hiện diện của một hoặc

một nhóm chất ở một nồng độ quan tâm hay để phân biệt giữa các mẫu đạt và mẫu

không đạt yêu cầu vệ sinh. Phương pháp này thường được thiết kế để tránh tối đa

kết quả âm tính giả. Trong chiến lược phân tích tồn dư, phương pháp sàng lọc

thường được tiến hành trước khi định danh và định lượng chính xác.

1.4.3.1. Phương pháp sắc ký miễn dịch

Hiện nay các test nhanh trên cơ sở sắc ký miễn dịch được sử dụng để phát

hiện nhanh và tương đối chính xác các loại kháng sinh trong sữa ngay tại địa điểm

thu mua, cho kết quả trong thời gian ngắn (khoảng 1-2 phút). Test thường ở dạng

que thử, được sử dụng phổ biến, rộng rãi trong nhiều lĩnh vực. Que thử dạng sắc kí

miễn dịch dựa trên cơ sở phản ứng đặc hiệu giữa kháng nguyên và kháng thể.

Trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại test thử nhanh dạng sắc ký miễn

dịch như:

- Test kiểm tra nhanh dư lượng kháng sinh trong sữa thuộc nhóm -lactam của

hãng Ar Brown - Nhật Bản cho kết quả sau 5 phút với độ nhạy từ 3-20 ppb tùy từng

loại kháng sinh như với Penicillin 3 ppb, Ceftiofur 5ppb, Cloxacillin 4ppb,...

- Test kiểm tra nhanh dư lượng kháng sinh trong sữa thuộc các nhóm -

lactam, Tetracycline, Streptomycin, Chloramphenicol của hãng Ballya - Trung

Quốc cho kết quả chỉ sau 3-5 phút với độ nhạy từ 0,3-100 ppb tùy từng loại kháng

sinh như Penicillin G 1,5-2ppb, Tetracycline 10 ppb, Streptomycin 100 ppb,

Chloramphenicol 03 ppb,…

- Test kiểm tra nhanh dư lượng kháng sinh thuộc nhóm Sulfonamides trong

sữa của hãng Nankai Biotech - Trung Quốc cho kết quả sau 10 phút với độ nhạy từ

3-30 ppb tùy từng loại kháng sinh, nhóm Beta-lactams từ 2-4 ppb trong 5 phút, …

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 17

Luận văn thạc sỹ

Ưu điểm:

Không đòi hỏi thiết bị đắt tiền, có độ nhạy và độ đặc hiệu cao; phát hiện

được nhiều nhóm kháng sinh trong sữa, cho kết quả nhanh, có thể sử dụng các mẫu

khác nhau, bán định lượng; thích hợp dùng để kiểm soát nguyên liệu đầu vào.

Nhược điểm:

Giá thành nguyên liệu cao, có thể phản ứng chéo.

Hình 1.5. Một số loại que thử sắc ký miễn dịch

1.4.3.2. Phương pháp ELISA:

Vài năm gần đây, cách tiếp cận mới về phương pháp phân tích dựa trên phản

ứng giữa kháng nguyên - kháng thể đã trở thành một công cụ khá hữu hiệu và được

cơ quan thẩm quyền chấp thuận cho phép sử dụng với mục đích thử nghiệm sàng

lọc. Phương pháp ELISA (Enzyme-Linked ImmunoSorbent Assay) dựa trên phản

ứng giữa kháng nguyên - kháng thể trong đó kháng thể được gắn với một enzyme.

Khi cho thêm cơ chất thích hợp (thường là nitrophenol phosphate) vào phản ứng,

enzyme sẽ thủy phân cơ chất thành một chất có màu. Sự xuất hiện màu chứng tỏ đã

xảy ra phản ứng đặc hiệu giữa kháng thể với kháng nguyên và thông qua cường độ

màu mà biết được nồng độ kháng nguyên hay kháng thể cần phát hiện.

Phương pháp ELISA có khả năng phát hiện hầu hết những chất kháng sinh

thường có mặt trong thực phẩm như nhóm Beta-lactams, nhóm Chloramphenicol,

nhóm Macrolides, nhóm Tetracyclines, nhóm Aminoglycosides, nhóm Sulphonamides.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 18

Luận văn thạc sỹ

Liên minh châu Âu (Chỉ thị 657/EC/2002) cho phép sử dụng phương pháp

ELISA trong phân tích dư luợng các hóa chất kháng sinh cấm, tuy nhiên có những

yêu cầu rất khắt khe về giới hạn phát hiện và độ không đảm bảo đo và các tỷ lệ

dương tính giả và âm tính giả của xét nghiệm. Abhishek Gaurav và cộng sự [38] đã

nghiên cứu trên 133 mẫu sữa thu thập được từ nhà sản xuất sữa thuộc 5 huyện của

Punjab, Ấn Độ vào tháng 5/2013 và đã thử nghiệm, phân tích tình trạng tồn dư

kháng sinh Tetracycline. Kết quả cho thấy có 18 mẫu sữa có tồn dư Tetracycline.

Tỷ lệ Tetracycline được phát hiện trong các mẫu sữa thuộc 5 huyện trong phạm vi

từ 0-46 là 15%. Nồng độ các mẫu sữa có chứa dư lượng kháng sinh Tetracycline

trong phạm vi từ 16-134 là 5ppm .

Với mục đích đưa việc xác vào xét nghiệm cận lâm sàng, nghiên cứu của

Hua-Jin Zeng và cộng sự năm 2011 đã sử dụng kháng thể thu được từ việc tạo miễn

dịch với Sparfloxacin trên thỏ kết hợp với huyết tương bò. Sau khi tối ưu hóa,

phương pháp ELISA đã xác định hàm lượng Sparfloxacin từ 5ng/mL đến 2mg/mL

với độ thu hồi từ 87,7 đến 106,2% [42]. Năm 2012, cũng với kỹ thuật ELISA gián

tiếp, tác giả Jiang Jinqing đã xác định được hàm lượng Sparfloxacin trong mẫu sữa

bò với khoảng xác định từ 0,036 đến 92,5 ng/mL với giới hạn phát hiện là 0,019

ng/mL, hệ số tương quan đạt 0,9844 [46].

Ở Việt Nam, từ năm 2002 đến nay phương pháp ELISA đã được sử dụng

trong phân tích sàng lọc tại phòng kiểm nghiệm của các Trung tâm Kiểm tra Chất

lượng với các chỉ tiêu CAP (Chloramphenicol), AOZ (3-amino-2-oxazolidone để

kiểm tra Furazolidone) và AMOZ (5-methylamorfolino-3-amino-2-oxazolidone để

kiểm tra Furaltadone). Phạm Kim Đăng và cộng sự đã sử dụng kít ELISA do CER

Vương Quốc Bỉ sản xuất để phân tích tồn dư chất kháng sinh Quinolone trong tôm tại

một số tỉnh ven biển khu vực phía Bắc. Kết quả được khẳng định lại bằng phương

pháp sắc ký lỏng khối phổ (LC-MS/MS). Kết quả cho thấy, bộ kít ổn định để phân

tích các Quinolone được thử vào trong tôm với giới hạn nồng độ phát hiện là

0,07ppb. Tác giả cũng cho rằng khả năng phát hiện, hiệu lực của kít trong điều kiện

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 19

Luận văn thạc sỹ

phòng thí nghiệm ở Việt Nam đáp ứng được yêu cầu của một phương pháp bán định

lượng qui định trong Quyết định số 2002/657/CE Uỷ ban Châu Âu (CE, 2002) [7].

Ưu điểm:

Phương pháp ELISA có ưu điểm: nhanh, thao tác đơn giản, dễ thực hiện;

không đòi hỏi thiết bị đắt tiền; không cần nhân viên chuyên môn cao; chi phí thử

nghiệm mẫu thấp do có thể thử nghiệm đồng thời số lượng mẫu lớn; một bộ kit có

thể phân tích được 50-80 mẫu.

Nhược điểm:

Một số hóa chất trong bộ kit phải bảo quản lạnh và có hạn sử dụng nhất định;

độ chính xác không cao bằng các phương pháp hóa lý như phương pháp sắc ký do

đó phương pháp này chỉ thích hợp với các phân tính sàng lọc hơn là các phân tích

định lượng.

Hình 1.6. Hệ thống phân tích ELISA

1.4.3.3. Phương pháp sử dụng vi sinh vật:

Để kiểm tra dư lượng kháng sinh trong các mẫu thực phẩm có nguồn gốc

động vật, phương pháp xác định dựa vào quá trình ức chế sự sinh trưởng của vi sinh

vật thường được sử dụng [57,55]. Phương pháp dựa trên sự ức chế vi sinh vật của

chất kháng sinh nhờ việc hình thành vòng vô khuẩn trên đĩa thạch. Người ta có thể

sử dụng mẫu đặt trực tiếp lên đĩa thạch hoặc dùng dung dịch chiết tách từ mẫu nhỏ

vào khoanh giấy thấm rồi đặt lên đĩa thạch.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 20

Luận văn thạc sỹ

Test vi sinh vật được thiết kế theo các hướng:

1. Sử dụng một chủng vi sinh vật ở cùng một điều kiện môi trường: Test một

đĩa dùng chủng Bacillus subtilis (test thận Bỉ).

2. Sử dụng một chủng vi sinh vật nhưng điều kiện môi trường khác nhau (pH

khác nhau) như New Two Plate Test [29].

3. Sử dụng các chủng vi sinh vật khác nhau ở cùng điều kiện môi trường.

4. Sử dụng các chủng vi sinh vật khác nhau ở các điều kiện môi trường khác

nhau (pH khác nhau). Điển hình là test 4 đĩa Châu Âu (FPT-Four Plate Test), test

cải tiến test 4 đĩa CPMA (Combined Plate Microbial Assay). Các chủng vi sinh vật

thường sử dụng là B.subtilis pH 7.2, Kocuria varians pH 8, B.cereus pH 6, E.coli

pH 8, Geobacillus stearothermophilus pH 7.

5. Đọc kết quả dựa vào phản ứng lên men, kết hợp với chỉ thị màu.

Hình 1.7. Test thận Bỉ sử dụng chủng vi khuẩn Bacillus subtilis

Vi sinh vật chính thức được dùng để thực hiện đầu tiên là Sarcina lutea trong

test thận của Van Schothorst và đã trở thành phương pháp chính thức được sử dụng

ở Hà Lan năm 1973. Vào khoảng thời gian đó, ở Đức đã nghiên cứu test BGA có sử

dụng vi khuẩn Bacillus subtilis và đã được một số nước dùng để thử nghiệm [60].

Vào năm 1980, EU sử dụng phương pháp test 4 tấm trong đó 3 tấm là môi trường

thạch agar có bổ sung bào tử vi khuẩn B. subtilis BGA ở pH 6; 7,2 ; 8 và 1 tấm là vi

khuẩn Micrococcus luteus ở pH 8. Môi trường có pH 7.2 được bổ sung với

trimethoprim (TMP) để tăng độ nhạy cho sulfonamides. Trong một thời gian dài các

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 21

Luận văn thạc sỹ

kết quả của thử nghiệm này đã được sử dụng [51]. Ferrini et al. [35] đã nghiên cứu

phương pháp sáu tấm, bao gồm 4 tấm ở trên có bổ sung thêm tấm chứa vi khuẩn B.

cereus và tấm có vi khuẩn E. coli. Nghiên cứu trên đã cho phép xác định được

nhóm kháng sinh trong sữa và sàng lọc ban đầu chỉ trong một bước.

Khả năng phát hiện tốt nhất đối với các kháng sinh nhóm β-lactam là các

chủng Geobacillus stearothermophilus, Kocuria rhizophila, và Bacillus subtilis,

trong khi đó đối với các kháng sinh macrolide là chủng K. rhizophila. Giới hạn phát

hiện Tetracycline thấp khi sử dụng chủng Bacillus cereus, còn đối với Quinolone là

Escherichia coli và Yersinia ruckeri. Sulfonamid được phát hiện khi sử dụng các

chủng G. stearothermophilus và Bacillus pumilus. Chủng B. subtilis được sử dụng

để phát hiện sự hiện diện của các Aminoglycoside [31].

Ưu điểm:

Trang thiết bị đơn giản, cần ít mẫu; phổ phát hiện rộng, tương đối nhạy (tùy

vào chủng vi sinh vật và môi trường), thời gian phát hiện tương đối nhanh, giá

thành rẻ; có thể tự động hoá, rất tiện để sàng lọc; dễ thực hiện, không cần kỹ thuật

viên tay nghề cao.

Nhược điểm:

Không định lượng được, độ nhạy phụ thuộc điều kiện của chủng vi sinh vật

sử dụng. Một số chất kháng sinh như Chloramphenicol, Nitrofurane, Nitroimidasole

không phát hiện được dù có nồng độ cao do các chủng vi sinh vật không mẫn cảm

với những chất này.

Có rất nhiều chủng vi sinh vật được sử dụng trong phương pháp này, chúng

được sử dụng như là một chỉ thị sinh học cho việc xác định dư lượng kháng sinh. Việc

lựa chọn đúng loài vi sinh vật chỉ thị đóng vai trò qua trọng đối với kết quả của phương

pháp. Để lựa chọn đúng loại vi sinh vật ta dựa vào những đặc điểm của mẫu nguyên liệu,

đặc điểm của loại kháng sinh cần xác định và nhiều yếu tố liên quan khác. Đề tài lựa

chọn chủng vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus vì đây là chủng rất nhạy cảm với

kháng sinh và là chủng vi sinh vật ưa nhiệt. Chúng có thể tồn tại ở nhiệt độ cao mà ở

nhiệt độ đó một số vi sinh vật khác không tồn tại được, giúp tránh lây nhiễm các chủng

khác trong không khí gây khó khăn trong quá trình xây dựng test.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 22

Luận văn thạc sỹ

1.5. Vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus và ứng dụng trong việc phát hiện

nhanh dƣ lƣợng kháng sinh trong sữa:

1.5.1. Vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus:

Đây là vi khuẩn được tìm thấy lần đầu tiên vào năm 1920 [32]. Năm 1986, vi

khuẩn này được đặt tên là Bacillus stearothermophilus [27,44]. Năm 2001, nhóm các

nhà khoa học từ Moscow [70] đã bắt đầu phân tích các hệ sinh thái vi sinh vật của các

mỏ dầu ở nhiệt độ cao ở Kazakhstan. Sau khi phun nước nóng từ biển Caspian để thay

thế nước ban đầu, các nhà khoa học phát hiện ra rằng có sự gia tăng vi sinh vật và đa

dạng sinh trưởng. Nguồn nước nóng, mặn và nước oxy hóa đã tạo điều kiện thuận lợi

cho sự sinh trưởng của vi khuẩn ưa khí, ưa nhiệt và hình thành nội bào tử của

thermophiles. Sau khi phân tích các đặc điểm di truyền và sinh lý, các nhà khoa học xác

định chỉ một phần thuộc vi khuẩn Bacillus stearothermophilus. Sau khi kiểm tra kỹ

lưỡng các loại vi khuẩn dựa trên đặc điểm về hình thái, sinh lý học, và phát sinh loài, họ

thấy nó thuộc một đơn vị phân loại riêng biệt là Geobacillus. Vi khuẩn này đã chính thức

đổi tên Geobacillus stearothermophilus vào năm 2004 [67].

G. stearothermophilus được phân bố rộng rãi trong tự nhiên và đã được phân

lập từ một số địa điểm quan trọng tại Hoa Kỳ như: trên gỗ mục nát ở Florida, đất đã

được sử dụng kỹ thuật làm giàu và suối nước nóng ở công viên Quốc gia

Yellowstone. Những địa điểm này thể hiện đặc điểm của nó là một vi khuẩn khử

nitơ, có khả năng sinh trưởng trong các môi trường nóng khác nhau và có tên là

Geobacillus mà chữ “Geo” có nghĩa là trái đất [70].

1.5.1.1. Phân loại:

Vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus thuộc: [70]

Giới: Bacteria

Ngành: Firmicutes

Lớp: Bacilli

Bộ: Bacillales

Họ: Bacillaceae

Chi: Geobacillus

Loài: G. stearothermophilus

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 23

Luận văn thạc sỹ

Hình 1.8. Cây phát sinh dựa trên sự sắp xếp gen 16S rRNA [70]

1.5.1.2. Đặc điểm của Geobacillus stearothermophilus:

Vi khuẩn G. stearothermophilus được phân bố rộng rãi trong các môi trường

ấm như: đất, cát sa mạc, vùng biển và suối nước nóng. G. stearothermophilus là

trực khuẩn ưa nhiệt được ứng dụng rộng rãi trong lĩnh vực công nghệ sinh học. Về

mặt lâm sàng, vi khuẩn này cũng có vai trò quan trọng trong việc chứng minh rằng

quá trình khử trùng phòng thí nghiệm đang hoạt động đúng tiến trình [60]. Cả hai

chỉ số sinh học và hóa học được sử dụng để xác định sự hiện diện của bào tử G.

stearothermophilus trên bề mặt đã trải qua một quá trình khử trùng [59,70]. Vi

khuẩn này cũng được sử dụng như là một chỉ số sinh học để chứng minh độ sạch

của các sông suối, cũng như nguồn chính cung cấp các enzyme chịu nhiệt được sử

dụng trong các ứng dụng công nghiệp [70]. G. stearothermophilus còn có ý nghĩa

trong việc xác minh các thực phẩm bị hư hỏng, chủ yếu là sữa và sữa chua [36,43].

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 24

Luận văn thạc sỹ

 Đặc điểm hình thái

Geobacillus stearothermophilus là vi khuẩn Gram dương, hình que, có thể

sinh trưởng đơn lẻ hoặc chuỗi, có khả năng tạo thành bào tử, có thể tạo thành nội bào

tử khi môi trường dinh dưỡng bị suy giảm. Thành tế bào của vi khuẩn có cấu trúc của

vi khuẩn Gram dương điển hình. Chúng có cấu tạo gồm một lớp peptidoglycan dày

xung quanh màng sinh chất [67]. Lớp peptidoglycan này chứa DAP hoặc axit meso-

diaminopimelic và có chứa lượng axit teichoic đáng kể với axit muramic giúp bảo vệ

thành tế bào trong suốt quá trình phân chia. [70]

Bề mặt của vi khuẩn này có chứa một lớp vỏ, lớp S-layer, các protein. Các

lớp này kết tinh trên bề mặt các protein giống như các lớp S-layer của các vi khuẩn

khác, chúng có mối liên quan chặt chẽ với các tế bào của vi khuẩn [67].

 Đặc điểm sinh hóa

G. stearothermophilus có phản ứng catalase và oxidase dương. Vi khuẩn này

sử dụng hoàn toàn các hợp chất hữu cơ đơn giản như đường, axit amin, axit hữu cơ

và oxy là chất nhận điện tử cuối cùng [67,70]. G. stearothermophilus cũng là vi

khuẩn khử nitơ. Vi khuẩn được tìm thấy trong đất công nghiệp và phân compost và

nó tham gia vào quá trình khử nitơ trong phân bón từ NO3 xuống NO2 dễ bay hơi

hoặc N2 [70].

 Đặc điểm nuôi cấy

- Điều kiện sinh trưởng: Vi khuẩn này có khả năng di động, hiếu khí. G. stearothermophilus sinh trưởng ở nhiệt độ khác nhau, từ 30-75oC, chịu axit với dải

pH từ 2-11 và nhiệt độ tăng trưởng tối ưu ở 50-65°C. Đặc biệt loài vi khuẩn này có thể sống sót ở nhiệt độ cao đến 130oC [59]. Vi khuẩn dễ dàng sinh trưởng và phân

lập trong phòng thí nghiệm vi sinh [70]. G. stearothermophilus là chủng vi khuẩn

rất dễ bị ức chế bởi kháng sinh, đặc biệt là nhóm β-lactam [54,61,66,45].

- Đặc điểm nuôi cấy:

Trên môi trường thạch đĩa Trypticase Soy Agar (TSA): khuẩn lạc dạng tròn,

rìa răng cưa không đều, màu vàng xám, đường kính 3 – 5 mm, sau 1 – 4 ngày bề

mặt nhăn nheo, màu hơi nâu. Trên môi trường canh Trypticase Soy Broth (TSB):

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 25

Luận văn thạc sỹ

vi khuẩn sinh trưởng làm đục môi trường, tạo màng nhăn, lắng cặn, kết lại như

vẩn mây ở đáy, khó tan khi lắc đều.

- Nhu cầu dinh dưỡng: chủ yếu cần các nguyên tố C, H, O, N và một số

nguyên tố vi lượng khác. Vi khuẩn sinh trưởng tốt trong môi trường cung cấp đủ

nguồn carbon (như Glucose) và nitơ (như Peptone).

Hình 1.9. Vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus trên môi trường thạch [31]

1.5.1.3. Sự hình thành bào tử ở vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus:

Bào tử vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus có dạng elip đến hình cầu,

có kích thước 0,6 – 0,9 µm x 1,0 – 1,5 µm, được bao bọc bởi nhiều lớp màng với

các thành phần lipoprotein, peptidoglycan… Bào tử G.stearothermophilus có chứa

một lượng lớn canxi, magie và acid dipicolinic.

Hình 1.10. Bào tử vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus [63]

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 26

Luận văn thạc sỹ

 Cấu tạo bào tử Geobacillus stearothermophilus:

Bào tử G. stearothermophilus là một khối nguyên sinh chất đặc, có chứa các

thành phần hóa học cơ bản như ở tế bào sinh dưỡng nhưng có một vài điểm khác về

tỉ lệ giữa các thành phần và có thêm một số thành phần mới. Bào tử được bọc trong

một vỏ dày gồm nhiều lớp:

- Lớp màng ngoài: Màng ngoài nằm ở ngoài cùng, đó là các phần còn sót

lại của tế bào mẹ, có khi có khi không, khi dày, khi xốp, chiếm 2 - 10% khối

lượng khô của bào tử. Màng ngoài gồm 2 lớp, lớp ngoài dày 6nm, lớp trong dày

19nm.

- Lớp áo bào tử: Lớp áo bào tử là một lớp peptidoglycan dày trong đó gồm

nhiều loại protein khác nhau. Lớp áo bào tử thường chứa các protein lắp ráp và các

yếu tố hình thái quan trọng. Lớp áo này cũng đóng vai trò quan trọng trong sự nảy

mầm của bào tử.

- Lớp vỏ bào tử: Vỏ bào tử chiếm thể tích rất lớn (36 - 60%). Lớp này có

vai trò như một lớp rào cản và là nguồn gốc kháng nguyên bề mặt của bào tử.

Lớp vỏ bào tử có phản ứng với lectin để tạo liên kết với các olysaccharide nằm

trong các sợi trên lớp vỏ bào tử.

- Lõi bào tử: còn gọi là thể chất nguyên sinh của bào tử. Lõi gồm 4 phần:

thành bào tử, màng bào tử, bào tử chất và vùng nhân.

1. Áo bào tử

2. Lớp màng ngoài

3. Vỏ bào tử

4. Vách tế bào

5. Lớp màng trong

6. Lõi bào tử

Hình 1.11. Cấu tạo bào tử vi khuẩn [49]

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 27

Luận văn thạc sỹ

 Sự hình thành và nảy mầm của bào tử:

Quá trình hình thành bào tử gồm các bước sau:

1. Hình thành những búi chất nhiễm sắc.

2. Tế bào bắt đầu phân cắt không đối xứng, tạo ra một vùng nhỏ gọi là tiền

bào tử.

3. Tiền bào tử hình thành hai lớp màng, tăng cao tính kháng bức xạ.

4. Lớp vỏ sơ khai hình thành giữa hai lớp màng của bào tử sau khi đã tích lũy

nhiều peptioglican và tổng hợp dipicolinat canxi, tính chiết quang tăng cao.

5. Kết thúc việc hình thành áo bào tử.

6. Kết thúc việc hình thành vỏ bào tử. Bào tử thành thục, bắt đầu có tính

kháng nhiệt.

7. Nang bào vỡ ra, bào tử thoát ra ngoài.

Hình 1.12. Quá trình hình thành bào tử

Lúc đầu lớp nguyên sinh chất trong tế bào được sử dụng. Tế bào chất và

nhân tập trung tại một vị trí nhất định trong tế bào. Tế bào chất tiếp tục cô đặc và

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 28

Luận văn thạc sỹ

tạo thành tiền bào tử (prospore). Tiền bào tử dần được bao bọc bởi các lớp màng.

Tiền bào tử phát triển và trở thành bào tử.

- Sự nảy mầm của bào tử: Quá trình chuyển từ trạng thái nghỉ sang tế bào sinh

dưỡng của vi khuẩn được gọi là quá trình nảy mầm của bào tử. Quá trình này gồm 3

giai đoạn: hoạt hóa, nẩy mầm và sinh trưởng.

Protein có chứa nhiều systein trong áo bào tử hoá xốp lên làm tăng tính thấm,

xúc tiến sự hoạt động của enzyme proteinaza. Khi đó lượng protein trong áo bào tử

giảm xuống. Các cation bên ngoài có thể xâm nhập vào lớp vỏ bào tử và làm trương

lớp vỏ lên, sau đó làm tan ra và tiêu thoái đi. Khi đó nước bên ngoài sẽ xâm nhập

vào lớp lõi bào tử làm cho lõi trương to lên, các loại enzyme bắt đầu được hoạt hoá

lên, bắt đầu quá trình tổng hợp thành tế bào.

Trong quá trình nảy mầm các đặc tính chịu nhiệt, chiết quang cao… bắt đầu

giảm dần, lượng BPA - Ca, acid amin, polipeptit dần dần mất đi, bắt đầu xảy ra việc

tổng hợp ADN, ARN và protein trong lõi bào tử. Bào tử chuyển sang thành tế bào

dinh dưỡng. Khi nảy mầm, bào tử mầm có thể đâm ra theo phía cực hoặc đâm

ngang ra. Lúc đó thành tế bào còn rất mỏng và chưa hoàn chỉnh do đó nâng cao khả

năng tiếp nhận thêm ADN ngoại lai để thực hiện quá trình biến nạp. Cuối cùng, bào

tử chứa một số enzyme sửa chữa ADN, ADN sẽ được sửa chữa trong quá trình nảy

mầm và tăng trưởng sau khi lõi đã được hoạt hóa trở lại.

 Sức đề kháng của bào tử vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus:

Bào tử có sức đề kháng cao với các yếu tố vật lý và hóa học như nhiệt độ, tia

cực tím, áp suất và chất sát trùng. Bào tử có sức đề kháng cao và sống lâu là do:

- Nước trong bào tử phần lớn ở trạng thái liên kết, do đó không có khả năng

làm biến tính protein khi tăng nhiệt độ.

- Do bào tử có khối lượng lớn ion Ca2+ và acid dipicolinic, protein của bào tử

kết hợp với dipicolinate canxi thành một phức chất có tính chất ổn định cao đối với

nhiệt độ.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 29

Luận văn thạc sỹ

- Các enzyme và các hoạt chất sinh học khác chứa trong bào tử đều tồn tại

dưới dạng không hoạt động, hạn chế sự trao đổi chất của bào tử đối với tế bào

bên ngoài.

- Với cấu trúc có nhiều màng bao bọc và tính ít thẩm thấu của các lớp màng

làm cho các tính chất hóa học và chất sát trùng khó có thể tác động tới bào tử.

1.5.2. Ứng dụng vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus trong việc phát hiện

nhanh dư lượng một số kháng sinh trong sữa:

Vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus là chủng vi khuẩn được ứng dụng

rộng rãi nhất trong các test của Châu Âu như: Improved Agar Diffusion test,

Delvotest SP-NT, Charm AIM – 96, Disk Assay Plate Method, Copan Milk test,…

[47]. Vi khuẩn thường được dùng ở dạng bào tử do khả năng chống chịu tốt với

những điều kiện bất lợi, dễ thương mại hóa, điều kiện bảo quản và sử dụng dễ dàng.

Hình 1.13. Test thử dư lượng kháng sinh trong sữa của hãng Delvotest

Năm 1962, Galesloot và cộng sự [37] đã sử dụng vi khuẩn Geobacillus

stearothermophilus hoặc G. calidolactis để phát hiện dư lượng kháng sinh trong

sữa. Phương pháp này được thực hiện bằng cách đặt miếng giấy có tẩm sữa lên môi

trường thạch dinh dưỡng có bổ sung vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus, sau đó ủ ở 55oC trong 2,5 giờ. Tiến hành quan sát sự ức chế của vi khuẩn lên khu vực

có chứa miếng giấy tẩm để biết được sự hiện diện của kháng sinh trong sữa. Phương

pháp này có độ nhạy đối với kháng sinh Penicillin khoảng 0.0025 IU/ml. Tuy nhiên

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 30

Luận văn thạc sỹ

phương pháp này không phù hợp do đòi hỏi người thực hiện phải có chuyên môn

cao và có nhược điểm là chỉ thực hiện được trong phòng thí nghiệm.

Năm 1969, Mol. H. [56] đã phát triển phương pháp của Galesloot. Phương

pháp này được thực hiện bằng cách đặt miếng giấy có thấm môi trường chứa:

Peptone 20%, Glucose 20% đã được làm khô, sau đó thấm sữa và đặt trên môi

trường agar có bổ sung bào tử vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus var. calidolactis. Sau đó đem ủ ở 63oC trong 6 giờ và quan sát sự hiện diện của kháng

sinh. Mặc dù phương pháp này được đánh giá tốt hơn phương pháp của Galesloot

nhưng có một số nhược điểm như: rất khó nhận ra vùng ức chế, thể tích mẫu không

đủ để thực hiện nhắc lại.

Năm 1990, Lameris và cộng sự [50] đã nghiên cứu phương pháp phát hiện

dư lượng kháng sinh trong sữa bằng cách bổ sung vào môi trường dinh dưỡng từ 105 đến 108 bào tử/ml vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus var. calidolactis

vào trong ống hình trụ, ủ ở nhiệt độ thích hợp là khoảng 55°C đến 70°C, tốt nhất là

60°C đến 65°C và ủ trong khoảng thời gian tương đối ngắn khoảng 1,5 đến 4 giờ,

tốt nhất là 2-3 giờ có thể quan sát được sự thay đổi màu sắc của môi trường.

Các nghiên cứu đã chứng minh được vai trò quan trong của vi khuẩn

Geobacillus stearothermophilus trong việc sản xuất ra các test thử để phát hiện

nhanh dư lượng kháng sinh trong sữa. Tuy nhiên hiện nay ở Việt Nam chưa có

đơn vị nào sử dụng chủng vi khuẩn Geobacillus stearothermophilus để sản xuất

test phát hiện nhanh dư lượng kháng sinh trong sữa dạng ống thạch mà chủ yếu

nhập ngoại với giá thành rất cao. Do vậy việc nghiên cứu chế tạo được các test

thử từ vi khuẩn này ở điều kiện Việt Nam là rất có ý nghĩa, góp phần tạo ra sản

phẩm có chất lượng tốt nhưng giá thành rẻ đồng thời nâng cao chất lượng sản phẩm

có nguồn gốc trong nước.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 31

Luận văn thạc sỹ

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Tài liệu tiếng Việt:

1. Bộ Khoa học và Công nghệ (2004), TCVN 7405:2004, Sữa tươi nguyên liệu - yêu

cầu kỹ thuật.

2. Bộ Khoa học và Công nghệ (2010), TCVN 8345-2010, Thủy sản và sản phẩm

thủy sản. Xác định dư lượng Sulfonamid. Phương pháp sắc ký lỏng hiệu

năng cao.

3. Bộ NN & PTNT (2009), Quyết định số 15/2009/TTBNN ngày 17 tháng 3 năm

2009, Danh mục một số hóa chất, kháng sinh cấm trong nhập khẩu, sản

xuất, kinh doanh và sử dụng thuốc thú y.

4. Sa Đình Chiến và cộng sự (2005), Báo cáo tổng kết đề tài: Nghiên cứu bệnh viêm

vú bò sữa nuôi tại Sơn la và biện pháp phòng trị, Sơn La, tr.50-54.

5. Lê Thị Ngọc Diệp (2003), “Một số kết quả khảo sát tình hình sử dụng thuốc

kháng sinh trong chăn nuôi gà và tồn dư kháng sinh trong thịt, trứng

gà trên địa bàn Hà Nội”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp, (1),

tr.40-43.

6. Phạm Kim Đăng, Marie-Louise Sippo, Guy Degand, Caroline Douny, Guy

Maghuin-Rogister (2007), “Chuẩn hóa phương pháp sàng lọc định tính

kiểm soát tồn dư kháng sinh trong thực phẩm có nguồn gốc động vật theo

quy định số 2002/657/EC (bài tổng hợp)”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật

Nông nghiệp, 5(1), tr. 24-30.

7. Phạm Kim Đăng và cộng sự (2008), “Ứng dụng phương pháp ELISA để phân

tích tồn dư kháng sinh nhóm Quinolone trong tôm tại một số tỉnh ven biển

khu vực phía Bắc”, Tạp chí Khoa học và phát triển, 6(3), tr.261-267.

8. Phạm Kim Đăng, Nguyễn Tú Nam, Bùi Thị Tho, Phạm Hồng Ngân (2012),

“Điều tra tình hình sử dụng kháng sinh trong chăn nuôi gà tại Hải Phòng”,

Tạp chí khoa học và Kỹ thuật thú y, Hội thú y Việt Nam, 19(5), tr. 92-98.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 70

Luận văn thạc sỹ

9. Nguyễn Minh Đức (2006), Sắc ký lỏng hiệu năng cao và một số ứng dụng vào

nghiên cứu, kiểm nghiệm dược phẩm, dược liệu và hợp chất tự nhiên, nhà

xuất bản Y học, Thành phố Hồ Chí Minh.

10. Phạm Khắc Hiếu (2009), Giáo trình dược lý học thú y, nhà xuất bản Bộ giáo dục

Việt Nam.

11. Lã Thị Huyền và cộng sự (2015), Báo cáo tổng kết đề tài: Nghiên cứu chế tạo

và sử dụng bộ Kit phát hiện kháng sinh trong sữa bằng kỹ thuật nano,

Viện Công nghệ Sinh học.

12. Nguyễn Văn Kính (2010), Phân tích thực trạng sử dụng kháng sinh và kháng

kháng sinh ở Việt Nam, Nhóm nghiên cứu của GARP-Việt Nam, tr.34.

13. Lã Văn Kính và cộng sự (2007), Báo cáo tổng kết đề tài : Nghiên cứu sản xuất

thịt lợn an toàn chất lượng cao, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

14. Dương Văn Nhiệm (2005), Phân tích bước đầu tồn dư Tetracycline trong thịt

lợn trên thị trường Hà Nội, Luận văn thạc sĩ khoa học thú y, Chieng Mai

University Thailand & Freie Universitot Berlin Germany.

15. Đặng Quang (2015), “Thị trường sữa tươi Việt Nam: tiềm năng còn rộng mở”,

Tạp chí Công thương, (18), tr.13-15.

16. Bùi Thị Tho (2003), Bài giảng thuốc kháng sinh và nguyên tắc sử dụng trong

chăn nuôi, nhà xuất bản Hà Nội.

17. Thông tư số 03/2012/TT-BNNPTNT, Danh mục thuốc, hóa chất, kháng sinh

cấm sử dụng, hạn chế sử dụng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

18. Đinh Thiện Thuật, Nguyễn Ngọc Tuấn, Võ Thị Trà An, Lê Thanh Hiển, Võ Bá

Lân, Khương Thị Ninh (2003), “Bước đầu khảo sát tình hình sử dụng

kháng sinh trong chăn nuôi và dư lượng kháng sinh trong thịt và thịt

thương phẩm trên địa bàn tỉnh Bình Dương”, Tạp chí Khoa học kỹ thuật

Thú y, 1(1), tr.50-57.

19. Vũ Thị Trang (2012), Phương pháp sắc ký lỏng khối phổ (LC-MS/MS) xác định

dư lượng một số kháng sinh nhóm Sulfonamides trong thịt gia súc gia

cầm, Luận văn thạc sỹ khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 71

Luận văn thạc sỹ

II. Tài liệu tiếng Anh:

20. Alali, W. Q., Scott, H. M., Christian, K. L., Fajt, V. R., Harvey, R. B., Lawhorn,

D. B. (2009), “Relationship between level of antibiotic use and resistance

among Escherichia coli isolates from integrated multi-site cohorts of

humans and swine”, Prev Vet Med, 90, pp. 160-167.

21. Al-Rimawi F. and Maher K. (2011), “Analysis of chloramphenicol and its

related Compound 2- Amino-1-(4-nitrophenyl)propane-1,3-diol by

Reversed-Phase High-Performance Liquid Chromatography with UV-

Detection”, Chromatography Research International, Vol 2011, Acticle

ID 482308.

22. Barbara Chiavarino (1998), “Determination of sulfonamid antibiotics by gas

chromatography coupled with atomic emission detection”, Journal of

Chromatography B, 706, pp. 269-277.

23. Bogaard van den A.E., and Stobberingh E.E. (2000), “Epidemiology of

resistance to antibiotics. Links between animals and humans”,

International journal of antimicrobial agents 14, 4(75), pp. 327-335.

24. Bogaerts, R. and Wolf, F (1980), “A standardized method for the detection of

residues of antibacterial substances in fresh meat – A report of the

working group of the Scientific Veterinary Commission of the European

Communities concerning a proposal for a common microbiological

method, the so-called EEC fourplate method”, Fleischwirtschaft, 60 pp.

667-669.

25. Chukwuenweniwe J E., Johnson S. and Sunday A A. (2003). “An alternative

colorimetric method for the determination of chloramphenicol”, Tropical

Journal of Pharmaceutical Research, 2(2), pp. 215-221.

26. Chung HH., Lee JB., Chung YH. and Lee KG. (2009), “Analysis of

sulfonamide and quinolone antibiotic residues in Korean milk using

microbial assays and high performance liquid chromatography”,

Analytical Methods, 113 (1), pp. 297-301.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 72

Luận văn thạc sỹ

27. Coorevits, A, Dinsdale, AE, Halket, G, Lebbe, L, De Vos, P, Van Landschoot,

A, Logan, NA (2012), "Taxonomic revision of the genus Geobacillus:

emendation of Geobacillus, G. stearothermophilus, G. jurassicus, G.

toebii, G. thermodenitrificans and G. thermoglucosidans (nom. corrig.,

formerly 'thermoglucosidasius'); transfer of Bacillus thermantarcticus to

the genus as G. thermantarcticus comb. nov.; proposal of Caldibacillus

debilis gen. nov., comb. nov.; transfer of G. tepidamans to Anoxybacillus

as A. tepidamans comb. nov.; and proposal of Anoxybacillus

caldiproteolyticus sp. nov.", International Journal of Systematic and

Evolutionary Microbiology, 62, pp. 85-1470.

28. Dal-Ho Kim, Dai Woon Lee (2003), “Comparison of separation conditions and

ionization methods for the liquid chromatography–mass spectrometric

determination of sulfonamid”, Journal of Chromatography A, 984, pp.

153-158.

29. Dang, P. K., Degand, G., Caroline, D., Ton, V. D., Maghuin-Rosister, G.

&Scippo, M. L. (2011), “Optimization of a new two-plate screening

method for the detection of antibiotic residues in meat”, International

Journal of Food Science and Technology, 46, Issue 10, pp.2070–2076.

30. Dang Pham Kim, Claude Saegerman, Caroline Douny, Ton Vu Dinh, Bo Ha

Xuan, Binh Dang Vu, Ngan Pham Hong, Marie-Louise Scippo (2013),

“First Survey on the Use of Antibiotics in Pig and Poultry Production in

the Red River Delta Region of Vietnam”, Food and Public Health, 3(5),

pp. 247-256.

31. De Brabander H.F., Noppe H., Verheyden, K. et al. (2009), Review. Residue

analysis: Future trends from a historical perspective, 1216, pp. 7964-

7976.

32. DONK P.J. (1920), “A highly resistant thermophilic organism", Journal of

Bacteriology , 5, pp. 373-374.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 73

Luận văn thạc sỹ

33. Ensminger M.E., Oldfield J.E., Heinemann W.W. (1990), Feeds and Nutrition

the Ensminger Publishing Company, USA, pp. 593–666.

34. European Commission. (2010), “Commission Regulation No 37/2010 of 22

December 2009 on pharmacologically active substances and their

classification regarding maximum residue limits in foodstuffs of animal

origin”, Official Journal, 15, pp. 1-72.

35. Ferrini AM, Mannoni V, Aureli P (2006), Food Addit Contam, 23, pp:16–24

36. Furukawaa, S., Watanabea, T., Koyamaa, T., Hirataa, J., Narisawaa, N.,

Ogiharaa, H., Yamasakib (2003), ”Inactivation of food poisoning bacteria

and Geobacillus stearothermophilus spores by high pressure carbon

dioxide treatment”, Appl Environ Microbiol, 69(12) pp. 7124-7129.

37. Galesloot et al. (1962), Neth. Milk & Dairy J., 16, pp. 89-95.

38. Gaurav A, Gill JPS, Aulakh RS and Bedi JS (2014), “ELISA based monitoring

and analysis of tetracycline residues in cattle milk in Punjab”, Veterinary

World 7(1), pp. 26-29.

39. George Stubbings, Timothy Bigwood (2009), “The development and validation

of a multiclass liquid chromatography tandem mass spectrometry (LC–

MS/MS) procedure for the determination of veterinary drug residues in

animal tissue using a QuEChERS (QUick, Easy, CHeap, Effective,

Rugged and Safe) approach”, Analytica Chimica Acta, 637 , pp. 68-78.

40. Gerber, F.; Krummen, M.; Potgeter, H.; Roth, A.; Siffrin, C.; Spoendlin, C.

(2004), “Practical aspects of fast reversed-phase high-performance liquid

chromatography using 3μm particle packed columns and monolithic

columns in pharmaceutical development and production working under

current good manufacturing practice”. Journal of Chromatography A, pp.

1036.

41. Hela W. et al. (2003), “Determination of sulfonamid in animal tissues using

cation exchange reversed phase sorbent for sample cleanup and HPLC–

DAD for detection”, Food Chemistry 83, pp. 601–608.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 74

Luận văn thạc sỹ

42. Hua-Jin Zenga, RanYangb, BingLiub, Li-FangLeib, Jian-JunLib, Ling-BoQu

(2012), “Simple and sensitive determination of sparfloxacin in

pharmaceuticals and biological samples by immunoassay”, Journal of

Pharmaceutical Analysis, 2(3), pp.214–219.

43. Hwang, Andy, Huang, Lihan (2009), ”Ready-to-Eat Foods: Microbial Concerns

and Control Measures”, CRC Press, pp. 88.

44. International Journal of Systematic and Evolutionary Microbiology (2001),

Notification that new names and new combinations have appeared in

volume 50, part 2, of the IJSEM , 51, 795–796.

45. Jevinova P, Dudrikova E, Sokol J, Nagy J, Mate D, Pipova M, Cabadaj R.

(2003), Determination of oxytetracycline residues in milk with the use of

HPLC method and two microbial inhibition methods. Bull. Vet. Inst.

Pulawy. ,47, pp.211-216.

46. Jiang Jinqing, Zhang Haitang, An Zhixing, Xu Zhiyong, Yang Xuefeng, Huang

Huaguo và Wang Ziliang (2012), “Development of an Heterologous

Immunoassay for Ciprofloxacin Residue in Milk”, Physics Procedia, 25,

pp.1829 - 1836.

47. John G. Holt, Noel R. Krieg, Peter H.A. Sneath, James T. Staley, Stanley T.

Williams (1957), Bergey's Manual of Determinative Bacteriology, 7th Ed,

pp. 613-693.

48. Jones G.M. (1999), On-farm tests for drug residues in milk, Virginia Coop

erative Extension, pp. 404-401.

49. Kumar N, Thakur G, Raghu HV, Singh N, Sharma PK, et al. (2013), “Bacterial

Spore Based Biosensor for Detection of Contaminants in Milk”, J Food

Process Technol, 4(11).

50. Lameris et a1. (1990), Method for determination of the presence of antibiotics,

pp. 1-7.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 75

Luận văn thạc sỹ

51. Mariel G. Pikkemaat (2009), “Microbial screening methods for detection of

antibiotic residues in slaughter animals”, Analytical and Bioanalytical

Chemistry, 395(4), pp. 893-905.

52. MCEVOY, J. D. G. (2002), “Contamination of animal feedingstuffs as a cause

of residues in food: a review of regulatory aspects, incidence and control”,

Analytica Chimica Acta, 473, pp. 3-26.

53. McGlinchey TA., Rafter PA., Regan F., McMahon GP (2008), “A review of

analytical methods for the determination of aminoglycoside and macrolide

residues in food matries”, J. Analytica chemica acta, 624, pp. 1-15.

54. Messer W, Leslie J, Houghtby G, Peeler J, Barnett J. (1982), “Bacillus

stearothermophilus disc assay for detection of inhibitors in milk”, J.

Assoc. Official Anal. Chem, 65 (5), pp. 1208-1214.

55. Mitchell JM, Griffiths MW, McEwen SA, McNab WB, Yee AJ (1998), J Food

Prot ,61, pp.742–756.

56. Mol H. et al. (1969), Neth. Milk & Dairy. J., 23, pp. 153-162.

57. Myers RP (1964), Rev Environ Contam Toxicol, 7, pp. 11–36.

58. Myllyniemi, A.L., Rintala, R., Backman, C., Niemi, A. (1999),

“Microbiological and chemical identification of antimicrobial drugs in

kidney and muscle samples of bovine cattle and pigs”, Food additives &

Contaminants, 16, pp. 339-351.

59. Nazina, T.N., Tourova, T.P., Poltaraus, A.B., Novikova, E.V., Grigoryan, A.A.,

Ivanova, A.E., Lysenko, A.M., Petrunyaka, V.V., Osipov, G.A., Belyaev,

S.S., Ivanov, M.V (2001), “Taxonomic study of aerobic thermophilic

bacilli”, Int. J. Syst. Evol. Microbiol, 51, pp. 433-446.

60. Nouws, J.F.M., Schothorst, M.v. and ziv G. (1979), “A critical evaluation of

several microbial test methods for residues of antimicrobial drugs in

ruminants”, Arch Lebensm Hyg, 30, pp.4-8.

61. Reybroeck W. (1995), “Evaluation of screening tests for the detection of

antimicrobial residues in milk”, International Dairy Federation,

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 76

Luận văn thạc sỹ

Symposium on residues of antimicrobial drugs and other inhibitors in

milk. Kiel, Germany, pp. 182-186.

62. Robert L. T. and Fischer L.J. (1978), “High Performance Liquid-

Chromatographic Assay for Chloramphenicol in Biological Fluids”,

Clinical Chemistry, 24(5), pp. 778-781.

63. Rossi F., Kylian O., Hasiwa M. (2006), Plasma Processes Polym, 3, pp. 431.

64. Samanidou VF., Tsochatzis ED., and Papadoyannis IN. (2006), “HPLC

determination of cefotaxime and cephalexine residues in milk and

cephalexine in veterinary formulation”, Microchimica Acta, Vol.160 (4),

pp. 471-475.

65. Stokstad, E.L.R. and T.H. Jukes. (1949), Further observations on the animal

protein factor, Proceedings of the Society of Biological and Experimental

Medicine, 73, pp. 523–528.

66. Suhren G, Beukers R. (1998), Delvotest SP for detection of cloxacillin and

sulfamethoxazole in milk: IDF interlaboratory study. J. Assoc. Official

Anal. Chem, 81, pp.978-990.

67. Todar Kenneth (2008), "Surface Structure of Bacillus", Textbook of

Bacteriology.

68. William A. M. and Raida HK. (1995), Rapid Determination of Tetracycline

Antibiotics in Milk and Tissues Using Ion-Pairing High-Performance

Liquid Chromatography, 43 (4), pp. 931-934.

69. Yanbin Lu, Qing Shen, Zhiyuan Dai, Hong Zhanghai, Honghai Wang (2011),

“Development of an on-line matrix solid-phase dispersion/fast liquid

chromatography-tandem mass spectrometry system for the rapid and

simultaneous determination of 13 Sulfonamid in grass carp tissue”,

Journal of Chromationgraphy A, 1218, pp. 929-937.

70. Zeigler, Daniel R. (2001), "The Genus Geobacillus." , Bacillus Genetic Stock

Center, 3, pp. 7-11.

Hv: Vương Thanh Hương Lớp: K23-QH2014 77