
TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TPHCM
VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC
Bài nghiên cứu
Sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái trong các thị
trường mới nổi
GVHD
Năm 2013
MỤC LỤC

Tóm lược
Bài nghiên cứu về sự truyền dẫn của tỷ giá đến giá cả trên 12
thị trường mới nổi tại Châu Á, Mỹ Latinh và các nước Trung và
Đông Âu. Kết quả nghiên cứu dựa trên việc sử dụng ba mô hình hồi
quy tiêu chuẩn (mô hình vecto tự hồi quy), một phần dựa trên sự
hiểu biết về ERPT trong giá nhập khẩu và giá tiêu dùng ở các thị
trường mới nổi luôn cao hơn thị trường ở các nước phát triển.Ở thị
trường mới nổi thì tỷ lệ lạm phát ít biến động (hầu hết ở các nước
Châu Á), sự truyền dẫn của giá nhập khẩu và giá tiêu dùng thường
thấp và mức độ không giống nhau ở các nền kinh tế phát
triển.Nghiên cứu này rất thiết thực để kiểm chứng mối quan hệ giữa
ERPT và lạm phát. Trong giả thuyết của Taylor’s loại trừ 2 nước
Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ ra khỏi mẫu nghiên cứu. Cuối cùng, kiểm
định mối quan hệ giữa mức độ mở cửa và ERPT dựa trên một lý
thuyết chưa có bằng chứng chứng thực để khẳng định rõ ràng.
Tóm tắt lý thuyết
Hiểu biết về tác động của biến động tỷ giá đến giá cả là rất
quan trọng để có thể đánh giá được mức độ phù hợp của các chính
sách tiền tệ với biến động của thị trường tiền tệ.
Nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng biến động tỷ giá hối
đoái và giá cả không biến động theo tỷ lệ tương đương 1-1 trong
ngắn hạn và trung hạn. Một lý thuyết đã phát triển trong ba thập kỷ
qua, các nghiên cứu đã cung cấp những giải thích khác nhau rằng tại
sao sự truyền dẫn của tỷ giá (EFPT) lên giá nhập khẩu và giá tiêu

dùng là không hoàn toàn.Phân tích thực nghiệm cũng đã đưa ra bằng
chứng về sự khác nhau đáng kể của sự truyền dẫn tỷ giá hối đoái
giữa các quốc gia. Một tranh luận lớn về vấn đề này đã được đề xuất
bởi Taylor (2000), người đưa ra giả thuyết rằng sự phản ứng của giá
do biến động của tỷ giá phụ thuộc rất nhiều vào lạm phát.
Bài viết khảo sát mức độ ERPT đến giá cả trong 12 thị trường
mới nổi ở châu Á, Mỹ Latinh, Trung và Đông Âu. Để đạt được điều
này, chúng tôi sử dụng một mô hình đã được phát triển cho các nước
tiên tiến do McCarthy (2000) và được ứng dụng bởi Hahn (2003)
cho khu vực đồng Euro. Chúng tôi ước tính mô hình vector tự hồi
quy, trong đó bao gồm các trường hợp cơ bản như các biến đầu ra,
tỷ giá hối đoái, giá nhập khẩu và giá tiêu dùng, mức lãi suất ngắn
hạn và giá dầu. Cách tiếp cận véc tơ hồi quy này cho phép khả năng
phát sinh biến nội sinh giữa các biến nghiên cứu.Những cú sốc tỷ giá
hối đoái được xác định bằng cách đưa biến lãi suất vào một cách phù
hợp và áp dụng một chương trình xác định đệ quy.Việc đưa các biến
vào có thể phát sinh vấn đề, chúng tôi tiến hành phân tích độ nhạy
bằng sự thay thế cách sắp xếp khác nhau của các biến. Để so sánh,
chúng tôi cũng ước tính mô hình theo một chuẩn mực riêng cho các
nền kinh tế phát triển, cụ thể là khu vực đồng Euro, Mỹ và Nhật
Bản.
Kết quả của chúng tôi khẳng định rằng tác động của sự truyền
dẫn tỷ giá hối đoái giảm dọc theo chuỗi giá, cụ thể là giá tiêu dùng
thấp hơn giá nhập khẩu. Ngoài ra còn có bằng chứng về ERPT thấp

ở các nền kinh tế phát triển, đặc biệt là trong trường hợp giá tiêu
dùng của Mỹ và Nhật Bản. Phù hợp với các nghiên cứu trước ERPT
tác động đến giá tiêu dùng và nhập khẩu trong khu vực đồng Euro
có phần cao hơn so với ở Mỹ. Phân tích của chúng tôi cũng phần
nào đã phá vỡ những kiến thức thông thường cho rằng ERPT ở các
quốc gia "mới nổi" thường cao hơn các quốc gia "phát triển". Đối
với các nền kinh tế mới nổi với chỉ số lạm phát ở mức một con số
(đặc biệt là các nước châu Á trong mẫu của chúng tôi), ERPT là thấp
và mức độ phổ biến không giống trong nền kinh tế phát triển.Tổng
quát hơn, bài nghiên cứu cung cấp những bằng chứng xác thực cho
mối quan hệ giữa mức độ của ERPT và lạm phát, phù hợp với giả
thuyết của Taylor. Kết quả này trở nên rõ ràng chỉ sau khi loại trừ
hai nước (Argentina và Thổ Nhĩ Kỳ), do khó khăn trong việc ước
lượng cùng với sự ước lượng về kinh tế vĩ mô đã diễn ra vượt tầm
kiểm soát trong phạm vi nghiên cứu ở hai nước này. Cuối cùng, bài
nghiên cứu cũng tìm ra được sự liên kết chặt chẽ giữa mức độ mở
cửa nhập khẩu của một nền kinh tế và ERPT, trong khi về mặt lý
thuyết vấn đề này chưa được nghiên cứu nhiều.
1. Giới thiệu
Trong suốt 2 thấp kỷ qua, lý thuyết về sự truyền dẫn của tỷ giá
trên thị trường mới nổi (ERPT) đã được phát triển.Bắt đầu từ những
điểm khác nhau, các nghiên cứu kiểm định vai trò của ERPT trong
các nền kinh tế nhỏ và lớn. Nghiên cứu tiến hành đối với trường hợp
của các nước phát triển bao gồm Anderton (2003), Campa và

Goldberg (2004), Campa et al. (2005), Gagnon và Ihrig (2004),
Hahn (2003), Ihrig et al. (2006) và McCarthy (2000). Ngoài ra cũng
có một số lý thuyết nghiên cứu đối với nền kinh tế trên thị trường
mới nổi, trong đó so sánh giữa các quốc gia như trong Choudhri và
Hakura (2006), Frankel et al. (2005) và Mihaljek et al. (2000).
Trong nền kinh tế giả định được đơn giản hóa, nghĩa là giá cả
hàng hoá giao dịch giữa các quốc gia là cùng một loại tiền và chỉ có
một mức giá, tức là điều kiện ngang bằng sức mua (PPP). Tuy nhiên,
giả thiết này chỉ áp dụng trong trường hợp các mẫu nhỏ và thời gian
từ ngắn hạn đến trung hạn. Trên cơ sở từ giả thuyết này, các lý
thuyết phát triển trong hai thập niên qua đã cung cấp nhiều nguyên
nhân khác nhau để giải thích tại sao ERPT là không hoàn toàn.
Trong bài báo của ông, Dornbusch (1987) giải thích sự không hoàn
toàn được phát sinh từ các công ty hoạt động trong thị trường cạnh
tranh không hoàn hảo và việc điều chỉnh tăng giá của họ (và không
chỉ có giá) là để phản ứng với một cú sốc tỷ giá hối đoái. Burstein et
al. (2003) nhấn mạnh vai trò của yếu tố đầu vào (phi thương mại)
trong nước trong chuỗi phân phối hàng hóa. Thay vì thế thì Burstein
và cộng sự (2005) chỉ ra vấn đề đo lường trong chỉ số CPI, mà bỏ
qua việc chất lượng của hàng hóa giao dịch có thể tác động rất lớn
đến việc điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Một nghiên cứu khác lại nhấn
mạnh hơn vai trò của các chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa,
bởi sự ảnh hưởng của chính sách phần nào làm ảnh hưởng đến sự
tác động của thay đổi tỷ giá hối đoái lên giá (Gagnon và Ihrig,