
Phần 1: Dẫn nhập & giới thiệu Nhóm 4 – TCDN Ngày 1 – K20
Monetary Policy Transparency and Pass-Through of Retail Interest Rates 3/28
1.2.3 Ý nghĩa của nghiên cứu:
Có ít nhất 3 lý do lý giải thích tầm quan trọng của việc nghiên cứu cơ chế truyền
dẫn tại New Zealand.
Trước tiên, New Zealand là quốc gia đầu tiên áp dụng chế độ lạm phát mục tiêu rõ
ràng với những điều khoản có trách nhiệm pháp lý và có tính minh bạch cao. Chế độ này
đã trở thành mô hình mẫu cho các khuôn khổ chính sách được áp dụng tại các nước khác
trong khối OECD (Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế - Organization for Economic
Cooperation and Development), và gần đây ở nhiều các quốc gia phát triền.
Thứ hai, không như các quốc gia khác, New Zealand đã có một chuyển dịch trong
cơ chế điều hành chính sách tiền tệ cụ thể là từ bỏ thanh toán bù trừ tiền mặt và áp dụng
mức lãi suất đáp ứng lạm phát mục tiêu (OCR). Mặc dù với cơ chế nào thì mức độ truyền
dẫn của chính sách tiền tệ sẽ được điều hành qua kênh lãi suất, câu hỏi đặt ra là sự thay
đổi & tốc độ điều chỉnh của các công cụ thuộc chính sách tiền tệ sẽ ảnh hưởng lên lãi
suất ngân hàng & tính hiệu quả của chính sách tiền tệ ở mức độ nào.
Thứ ba, quốc gia New zealand là một trong những quốc gia trong khối OECD nợ
nần nhiều nhất và có lãi suất tiết kiệm khu vực tư nhân âm. Khối ngân hàng, hầu hết các
ngân hàng nước ngoài ngày càng phụ thuộc vào nợ nước ngoài. Do đó việc thấy sự mất
hiệu quả hoạt động của chính sách tiền tệ khi có một sự rò rỉ trong hệ thống là rất cần
thiết..Theo thông kê chính thức từ Ngân hàng trung ương New Zealand , vào tháng
03/2005, nợ nước ngoài khu vực tư nhân là 149 tỷ đôla New Zealand , bằng 101% GDP
cả nước và gấp 8.8 lần nợ nước ngoài của chính phủ (NZ$ 17 tỷ , 12% GDP). Trong khi
lãi suất tiết kiệm khu khu vực doanh nghiệp tăng do lơi nhuận cao hơn, lãi suất tiết kiệm
khu vực hộ tư nhân giảm đều đặn. Lãi suất tiết kiệm khu vưc hộ tư nhân New Zealand có
mức thấp nhất trong khối OECD. Theo thống kê New Zealand, các hộ tư nhân thường
không tiết kiệm từ khoản thu nhập nhưng thay vào đó là vay nợ khoảng 12% mức thu
nhập hàng năm. Vay nợ bất động sản có thế chấp chiếm khoản 90% trong tổng nợ khu
vực hộ gia đình. Khoản vay khu vực này chiếm trên 50% trong tổng danh mục các khoản
vay tại các định chế tài chính New Zealand. Do khan hiếm nguồn tiết kiệm trong nước,
các ngân hàng New Zealand đã ngày càng vay nợ từ các nguồn tài chính lớn ở thị trường