
5
Trong suốt 2 thập kỷ qua, nhiều nghiên cứu kinh tế về truyền dẫn tỷ giá hối đoái (ERPT) đã
được phát triển. Bắt nguồn từ những lập trường khác nhau, nghiên cứu thực nghiệm xem xét vai trò
của ERPT tại các nền kinh tế lớn và nhỏ. Các nghiên cứu được tiến hành cho các nước phát triển
bao gồm Anderton (2003), Campa và Goldberg (2004), Campa et al. (2005), Gagnon và Ihrig
(2004), Hahn (2003), Ihrig et al. (2006) và McCarthy (2000). Các tài liệu áp dụng cho các quốc gia
mới nổi như Choudhri và Hakura (2006), Frankel et al. (2005) và Mihaljek et al. (2000).
Các nhà kinh tế học thường đưa ra một giả định đơn giản hóa rằng giá của hàng hóa mua
bán được - một khi được thể hiện bằng cùng loại tiền tệ - là bằng nhau giữa các nước. Điều này
đồng nghĩa với điều kiện ngang bằng sức mua (purchasing-power parity) có h iệu lực. Tuy nhiên, về
mặt thực nghiệm, giả định này nhìn chung ít được ủng hộ, ít nhất là trong trường hợp của các mẫu
nhỏ và trong ngắn và trung hạn. Cung với các bằng chứng này, tài liệu lý thuyết được ph át triển
trong 2 thập kỷ qua đã đưa ra những lý giải khác nhau về việc tại sao ERPT lại không hoàn thiện.
Dornbusch (1987) cho rằng truyền dẫn không hoàn chỉnh là do các doanh nghiệp hoạt độn g trong
một thị trường cạnh tranh không hoàn hảo và điều chỉnh biên độ ( và không chỉ giá) khi có biến
động tỷ giá hối đoái. Burstein et al. (2003) thì nhấn mạnh vai trò của nguyên vật liệu đầu vào trong
nước (không được giao dịch) trong chuỗi phân phối hàng hóa giao dịch được. Burstien et al. (2005)
chỉ ra các vấn đề về đo lường CPI, trong đó bỏ qua sự điều chỉnh chất lượng của hàng hó a giao dịch
được. Một hướng lý giải khác nhấn mạnh hơn về vai trò của các nhà chức trách tiền tệ và tài khóa
thông qua việc phần nào làm giảm ảnh hưởng của thay đổi tỷ giá lên giá cả (Gagnon và Ihrig,
2004). Mặt khác, Devereux và Engel (2001) và Bacchetta và van Wincoop (2003) khám phá vai trò
của việc định giá đồn g tiền địa phương trong việc làm giảm mức độ ERPT.
Để chứng minh cho các lý thuyết khác nhau này, tài liệu thực nghiệm cho cả các nền kinh tế
tiên tiến và mới nổi đã tìm thấy chứng cứ v ề ERPT không hoàn chỉnh. Các nghiên cứu này cùng chỉ
ra sự khác biệt đáng kể giữa các nước, dẫn đến câu hỏi các yếu tố quyết định mức độ truyền dẫn là
gì. Taylor (2000) đã đưa ra giả thiết rằng độ nhạy của giá cả đối với dao động trong tỷ giá chắc
chắn phụ thuộ c vào lạm phát. Lý lẽ đằng sau giả thiết này liên quan đến m ối tương quan cùng chiều
giữa mức độ và tính lâu dài của lạm phát, cùng với mối liên hệ giữa tính lâu dài của lạm phát và
truyền dẫn. Mối liên hệ thứ 2 này có thể được diễn tả như sau: lạm phát càn g kéo dài thì biến động
tỷ giá càng ít được cho là tạm thời và doanh nghiệp càng có xu hướng phản ứng thông qua điều
chỉnh giá.
Các chứng cứ từ các nghiên cứu khác nhau nhìn chung ủng hộ giả thiết của Taylor. Tuy
nhiên, mối quan hệ cùng chiều giữa mức độ truyền dẫn v à lạm phát càng nổi trội hơn khi các thị
trường mới nổ i được đưa vào thời kỳ mẫu (tham khảo Choudhfi v à Hakura, 2006). Điều này có lẽ là
không đáng ngạc nhiên do luận điểm lý thuyết của Taylor càng trở nên có ý nghĩa khi lạm phát
càng cao.
Một yếu tố quyết định quan trọng khác của ERPT, từ quan điểm lý thuyết, là mức độ mở
cửa thương mại của một quốc gia. Mối liên hệ tức thời giữa 2 biến số này là dương (cùng chiều):
một nước càng mở cửa thì biến động tỷ giá càng được chuyển dịch vào CPI thông qua giá nhập
khẩu. Tuy nhiên, bức tranh trở nên phức tạp hơn khi xét đến việc lạm phát có thể tương quan ngược
chiều với sự mở cửa, như trong nghiên cứu thực nghiệm của Rom er (1993). Điều này dẫn đến một
suy luận gián tiếp rằng sự mở cửa tương quan ngược chiều với lạm phát và mức độ truyền dẫn (khi
xem xét giả thiết của Taylor). Các kênh trực tiếp và gián tiếp này đi theo 2 hướng ngược nh au và do
đó, dấu của mối tương quan giữa truyền dẫn và sự mở cửa có thể là dương hoặc âm.