Người nghiện rượu dùng thuốc

chữa bệnh cần biết

Hiện nay, ngày càng có nhiều người lạm dụng bia rượu. Ở nhiều

nơi, số người nghiện rượu đang ngày một tăng. Hệ quả tất yếu là những

"sâu rượu" gây rối trật tự an toàn xã hội có xu hướng nhiều lên, thậm

chí suy đồi đạo lý và gây án mạng.

Hiện nay, ngày càng có nhiều người lạm dụng bia rượu. Ở nhiều nơi,

số người nghiện rượu đang ngày một tăng. Hệ quả tất yếu là những "sâu

rượu" gây rối trật tự an toàn xã hội có xu hướng nhiều lên, thậm chí suy đồi

đạo lý và gây án mạng. Nhưng khi người nghiện rượu mắc bệnh phải dùng

đến thuốc chữa trị, điều gì sẽ xảy ra thì còn ít người biết.

Rượu sau khi uống vào cơ thể bị ôxy hóa thành acetaldehyd ở gan nhờ

men alcol dehydrogenase. Acetaldehyd lại chuyển hóa tiếp để cuối cùng

thành khí CO2 và nước. Người ta đã nhận thấy rượu có ảnh hưởng lớn đến

tác dụng của nhiều loại thuốc chữa bệnh.

Khi đang uống các loại thuốc an thần như diazepam (các bd: seduxen,

valium, dizepin...) và meprobamat... thuốc sẽ tăng hấp thu vì tăng hòa tan

trong rượu, và vì lưu lượng máu ở ruột tăng lên sau khi uống rượu. Rượu

làm tăng ức chế thần kinh trung ương của diazepam... làm cho người bệnh

ngủ mê mệt. Nhưng trước đó các tác dụng phụ của thuốc cũng tăng mạnh

như rối loạn thăng bằng, mất tự chủ về tư thế, giảm trương lực cơ, thậm chí

có thể gây rối loạn tâm thần do tăng độc tính. Một số thuốc loại này

(flurazepam, nitrazepam, temazepam...) uống vào ban đêm, nhưng hôm sau

vẫn còn một lượng đáng kể trong máu vì vậy vẫn có thể tương tác với rượu

nếu người nghiện uống rượu vào.

Rượu và thuốc ngủ clorat hydrat (bd: dormal, chloradorm, noctec...),

barbiturat (bd: gardenal, luminal, phenobarbiton...) đều là những chất ức chế

hệ thần kinh trung ương, chúng có tác dụng cộng hợp. Khi đồng hành trong

cơ thể, nó có thể gây phản ứng mạnh dưới dạng giãn mạch, đánh trống ngực,

hạ huyết áp đột ngột (thường gặp ở bệnh nhân có bệnh tim mạch). Rượu có

thể còn tiếp tục tương tác đến ngày hôm sau. Người bệnh nghiện rượu cần ý

thức điều này khi phải hoạt động cần nhiều đến sự tỉnh táo (vận hành máy

móc, lái xe...).

Với thuốc chống viêm hạ nhiệt giảm đau aspirin và salicylat nếu gặp

rượu trong dạ dày người nghiện rượu cũng gây tác hại lớn. Bản thân rượu

không gây chảy máu đường tiêu hóa, nhưng aspirin và rượu tác dụng cộng

hợp sẽ gây tổn hại cho niêm mạc dạ dày. Khi đó sẽ xảy ra phản ứng ôxy hóa

aspirin tăng cường phân hủy rượu ngay tại dạ dày (do vậy có thể uống nhiều

rượu không say) tăng tác dụng kích ứng niêm mạc. Bởi vậy rượu kéo dài

thời gian chảy máu dạ dày do aspirin, ibuprofen, indomethacin... Ngoài ra, ở

người nghiện rượu, rượu có thể cảm ứng tăng các men chuyển paracetamol

thành chất chuyển hóa độc với gan là N-acetyl benzoguinoneimin.

Paracetamol là thuốc hạ nhiệt giảm đau, và nó cũng thường có trong các biệt

dược phối hợp 2-3 thuốc chữa cảm cúm... với các tên khác nhau.

Thuốc lợi niệu furosemid (bd: lasix, afsamid, franyl...) cũng thường

được dùng trong điều trị bệnh tăng huyết áp, nó thải nhiều các ion natri, kali

ra ngoài cơ thể. Rượu cũng có tác dụng tương tự, vì vậy nếu chúng đồng thời

có trong cơ thể người bệnh nghiện rượu, có thể gây nên các biến chứng như

nôn, tiêu chảy, giảm huyết áp, suy tim cấp... do mất nhiều kali.

Với thuốc metronidazol (bd: flagyl, klion, vagimid...) dùng điều trị lỵ

amýp, hoặc trùng roi âm đạo, nếu cùng uống với rượu, nó ức chế aldehyd

dehydrogenase và gây tích tụ acetaldehyd trong cơ thể gây ra những khó

chịu như: đỏ bừng mặt, nhức đầu, hạ huyết áp, tim đập nhanh, buồn nôn, lú

lẫn... Phản ứng càng nặng nếu liều metronidazol và lượng rượu người nghiện

uống vào càng cao. Thậm chí có trường hợp (tuy hiếm gặp) tương tác đã xảy

ra ở phụ nữ đặt metronidazol âm đạo, đồng thời uống rượu. Người nghiện

không được uống rượu trong khi đang dùng metronidazol, và cả 48 giờ sau

khi ngừng thuốc này. Phản ứng giống như vậy cũng xảy ra khi người nghiện

rượu dùng thuốc kháng sinh cephalosporin, tiêm cephamandol (nhưng với

các cephalosporin khác thì không xảy ra), bởi vậy người nghiện cần dứt

khoát kiêng cữ rượu khi dùng thuốc cephamandol. Có tài liệu còn cho rằng

với các thuốc cloramphenicol, phenylbutazol, propranolol... nếu uống cùng

với rượu cũng có thể gặp một số triệu chứng khó chịu tương tự.

Người nghiện rượu mà mắc bệnh lao, điều trị cũng có nhiều rắc rối.

Rượu ức chế chuyển hóa thuốc qua gan, làm tăng độc tính của các thuốc

chống lao. Nếu uống isoniazid (INH) mà người nghiện vẫn uống rượu là một

điều rất nguy hiểm.

Ngay một số vitamin cũng khó "chung sống" với rượu. Các công trình

nghiên cứu của Judith Halfrisch (công tác tại Trung tâm nghiên cứu thuộc

Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ) cho thấy rõ là rượu đã trực tiếp phá hủy trong gan

các enzym cần thiết cho việc sử dụng các loại vitamin B.

Ngoài ra, một số thuốc (thí dụ haloperidol...) lại làm chậm chuyển hóa

alcol etylic trong cơ thể, do đó làm tăng nồng độ cồn trong máu tăng độc

tính và tác dụng của rượu.