NHÀ ĐIÊU KHẮC ĐÀO CHÂU HẢI VỀ TRIỂN

LÃM "KHÔNG VÔ CAN VÀ BALLAD BIỂN

ĐÔNG" (Viet Art Center, tháng 12-2010)

Triển lãm “Không vô can và

Ballad biển Đông” vừa qua diễn ra

tại Viet Art Center đã gây được

tiếng vang lớn trong giới nghệ

thuật tạo hình và công chúng, bởi

cách diễn giải một chủ đề mang

tính chính trị - xã hội đầy nhạy ĐÀO CHÂU HẢI-Đường hầm cảm bằng phương án trưng bày sóng (tại khu du lịch Hòn Dấu, Đồ mạch lạc và ngôn ngữ nghệ thuật Sơn, Hải Phòng 2007) hiện đại, giàu xúc cảm. Một trong

hai nhân vật chính của triển lãm,

điêu khắc gia Đào Châu Hải, trong những năm gần đây đã liên tục theo

đuổi nhiều ý tưởng nghệ thuật lớn thông qua nhiều triển lãm cá nhân và

TL nhóm, những tìm tòi ngôn ngữ đương đại và một chất liệu mới đang

thịnh hành trong điêu khắc Việt Nam là sắt thép. Bài phỏng vấn này với

ông Đào Châu Hải sẽ xoay quanh những chủ đề sự hình thành ý tưởng

của nghệ sỹ, diễn giải về ngôn ngữ nghệ thuật mà ông sử dụng trong

triển lãm và điều mà ông đang theo đuổi trong nghề nghiệp. Bài viết rất

“hay” nhưng lại quá dài mà BBT TCMT lại không muốn “biên tập

ngắn lại” nên chúng tôi xin chia đăng thành 2 kỳ. Kỳ 1 số tháng

2/2011, kỳ 2 số tháng 3/2011. Xin mời

Nguyễn Anh Tuấn (N.A.T): Thưa ông Đào Châu Hải, cùng với Lý

Trực Sơn, Triển lãm (TL) của hai ông đã gây được nhiều ấn tượng và

cảm xúc đối với người trong giới cũng như những khán giả yêu nghệ

thuật. Vì nhiều người đã xem và thông tin về TL đã đầy đủ, tôi xin

phép đi thẳng vào những câu hỏi trọng tâm. Như đã biết, việc có được

triển lãm và ý tưởng chính của nó được hình thành sau chuyến đi

Trường Sa, tuy nhiên, là một người theo dõi các sáng tác của ông trong

thời gian không ngắn, tôi cảm nhận thấy TL còn chứa đựng nhiều tâm

tư khác của ông về nghệ thuật nói riêng, và về các vấn đề VH-XH nói

chung. Hay nói cách khác, cảm xúc và ấn tượng từ Trường Sa là chỉ

một nguyên cớ chính. Vậy ông có thể nói rõ thêm về câu chuyện lần

này của ông ?

Đào Châu Hải (Đ.C.H): Đối với một nghệ sỹ, trước hết, tôi luôn đặt vai

trò của mình là một công dân bình thường sống trong xã hội, có kỹ

năng nghề nghiệp, có quyền lợi cũng như có trách nhiệm của mình đối

với bản thân, gia đình, nghệ thuật và cộng đồng. Chúng ta đang sống

trong một môi trường xã hội phức tạp, nhiều biến động từ các vấn đề

của chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục v.v… và tất cả những điều ấy

đều nổi lên trên bề mặt xã hội, tác động trực tiếp hay gián tiếp đến đời

sống con người ở khía cạnh tiêu cực của chúng. Điều mâu thuẫn nhất

lại nằm ở chỗ chúng ta luôn muốn xây dựng, phát triển xã hội tiến lên

đời sống văn minh hơn, song tất cả dường như lại làm mọi việc trở nên

rối rắm hơn.

Thời gian gần đây, Trường Sa đã nổi lên như một tiêu điểm của các vấn

đề, vừa là một sự kiện có tính thời sự chính trị, vừa là một vấn đề hàm

chứa tính lịch sử, ảnh hưởng đến bề mặt xã hội, chủ quyền, lòng tự tôn

dân tộc, thậm chí, trong cảm nhận cá nhân tôi, nó có thể còn lớn hơn

nữa. Khi nhìn nhận và tiếp xúc với một câu chuyện như vậy, tôi tự hỏi,

nó có liên quan gì đến công việc của một nghệ sỹ hay không, đến quá

trình sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật hay không ? Và tôi tin chắc là

có. Nghệ thuật của ngày hôm nay không còn là nghệ thuật Thị giác

thuần túy. Nó đã vượt qua giới hạn đó rất xa. Nó liên quan nhiều hơn

nữa, trực tiếp hơn nữa đến số phận con người, nằm trong tương quan

nào đó giữa đời sống cộng đồng và nền văn hóa. Đó mới là điều gần

gũi nhất, đúng nhất của bản chất nghệ thuật, vì nghệ thuật thực thụ luôn

gắn liền với đời sống nhân văn. Tôi cho rằng, ở điểm này, nghệ thuật

của chúng ta có sự gần gũi với chủ nghĩa Hậu Hiện đại đã phát triển ở

Châu Âu và Mỹ những năm nửa đầu thế kỷ 20. Mặc dù xét trên các mặt

kiến trúc thượng tầng như kinh tế, tri thức, văn hóa… và hạ tầng cơ sở,

giữa chúng ta với các nước phát triển trên là một khoảng cách lớn và

không thể đặt để so sánh như vậy, song có thể nhận thấy ở Việt Nam

hiện nay và hoàn cảnh phát triển của các nước Âu châu trong giai đoạn

trên đã bắt đầu có nhiều điểm tương đồng. Nghệ thuật của chúng ta bắt

đầu xuất hiện những nội dung, những biểu hiện gần gũi với Chủ nghĩa

Hậu Hiện đại thoát thai từ nền văn hóa Âu châu thời gian đó. Và điểm

mấu chốt nhất trong khái niệm nghệ thuật mới là loại bỏ dần các vấn đề

Thị giác, sự quan tâm và bình luận đến sự đẹp - xấu trong từng tác

phẩm, trong cách hiểu và cảm nhận nghệ thuật theo nghĩa thông thường

nhất. Người ta bắt đầu chú ý đến sự tương tác giữa con người - xã hội -

tác phẩm trong cùng một bối cảnh là như thế nào. Đó cũng chính là

cảm nhận và quan tâm của cá nhân tôi, không còn tự trói mình vào các

vấn đề của thẩm mỹ thị giác nữa, hay nói cách khác, thẩm mỹ thị giác

đã không còn thỏa mãn tôi trong sáng tạo nghệ thuật.

Quay trở về với câu chuyện Trường Sa, đó là một chuyến đi đầy bất

ngờ, nhưng nó lại tạo cho tôi những ấn tượng thực sự mãnh liệt. Đối

với tôi, Trường Sa là một mảnh trong đời sống xã hội chung của chúng

ta cần quan tâm, một mảnh bé nhỏ nhưng hết sức điển hình, hết sức

mấu chốt. Quá trình hình thành suy tưởng của tôi từ mơ hồ dần dần trở

nên rõ ràng trong chuyến đi Trường Sa, như một quả trái cây từ từ bị

lột bỏ các lớp vỏ dầy bên ngoài để hiện rõ cái nhân quả bên trong. Khi

chúng ta ở đất liền, trong các đô thị hưởng thụ đời sống xa hoa, loanh

quanh với miếng ăn và đồng tiền, khả năng nhận biết và nhạy cảm thẩm

mỹ cũng trở nên mù mờ và hạn hẹp. Trường Sa đã tạo cho tôi những ấn

tượng sâu sắc nhất, cảm xúc mạnh mẽ nhất, vượt lên trên rất nhiều mối

quan tâm mà đời sống thường ngày tạo ra, và làm cho tôi khao khát

được khai thác nó, trình bày nó, kể lại câu chuyện ấy bằng những ngôn

ngữ nghệ thuật của mình. Đó thực sự là điều đầy bất ngờ và hấp dẫn

đối với một người luôn khao khát tìm cái mới trong quá trình sáng tạo

nghệ thuật như tôi.

N.A.T: Trong những năm gần đây, ông liên tục thay đổi với loại vật

liệu điêu khắc: gỗ, đá, bê-tông và kim loại, cùng với việc thể nghiệm

các ngôn ngữ hình khối và ý tưởng không gian khác nhau. Sự phát triển

của ngôn ngữ hình khối của mỗi tác giả diễn ra theo một quá trình nhất

định, mà qua đó người ta có thể nhận ra mạch tư duy về ý tưởng và

nghệ thuật phát triển. Đối với ông quá trình đó diễn ra như thế nào ?

Đ.C.H: Về bản chất, điêu khắc cũng tương tự các loại hình nghệ thuật

tạo hình khác như hội họa, đồ họa, kể cả kiến trúc và sau này là Sắp

đặt, là một quá trình tìm kiếm ngôn ngữ biểu hiện, phương án biểu

hiện, chất liệu biểu hiện cho bất kể nội dung gì, ý tưởng gì mà người

nghệ sỹ muốn nói. Nhiều khi trong một tác phẩm hình thức lại trở

thành nội dung, tự hình thức cũng có ngôn ngữ để nói lên ý tưởng cần

truyền đạt. Tôi nói như vậy không phải có ý đề cao Chủ nghĩa Hình

thức, mà muốn nói rằng chỉ khi ta tìm được một tiếng nói, tìm được

một cấu trúc, cái lõi hạt nhân của ngôn ngữ nghệ thuật, thì ta có thể

trình bày tất cả các ý tưởng và nội dung khác nhau bằng thứ ngôn ngữ

nghệ thuật tự thân của riêng ta một cách hoàn toàn tự do. Tôi cho rằng

đó là điều quan trọng nhất mà các nghệ sỹ tìm kiếm trong cuộc đời

sáng tạo của mình mà không phải ai cũng thành công. Trở lại vấn đề

chất liệu, tôi muốn quay lại khoảng thời gian từ xa hơn nữa, đó là khi

tôi bắt đầu sáng tác với mây tre đan, tạo nên những tác phẩm Nơm, Đó

đã trưng bày trong TL Không gian mới năm 1997. Từ lúc đó, tôi đã

luôn muốn đi tìm và thử thách với các chất liệu mới, ngôn ngữ mới

nhằm để truyền tải các câu chuyện của tôi, nội dung của tôi, để đến một

lúc nào đấy, tự thân tác phẩm đó, chất liệu đó và ngôn ngữ hình khối đó

có thể có được câu chuyện riêng của chúng, có được nội dung riêng của

chúng, vượt qua và lớn hơn ý tưởng của cá nhân người tạo ra chúng.

Đó cũng chính là quan niệm chung của chúng ta về một tác phẩm nghệ

thuật đích thực luôn có đời sống riêng của nó. Nhưng điều đó vượt qua

rất xa nghệ thuật hiện tại, và tôi cũng chưa muốn đặt mình vào mục

đích nhiều tham vọng như vậy. Đơn giản chỉ là tiếp tục quá trình tìm tòi

và thử thách với nhiều chất liệu khác nhau, kỹ thuật khác nhau để bộc

lộ điều mình mong muốn mà thôi.

N.A.T: Đứng trên phương diện nghiên cứu nghệ thuật, đánh giá một

nghệ sỹ cũng phải dựa trên quá trình sáng tác lâu dài, không còn phụ

thuộc vào việc nhìn nhận một bức tranh, một pho tượng là hay hay dở

nữa. ở phương Tây, đã có từ lâu rất nhiều nhà nghiên cứu chuyên biệt

và chuyên sâu theo từng nghệ sỹ, hoặc từng thời kỳ nghệ thuật, từ đó

nghiên cứu và phê bình trở nên sâu rộng. Quay lại với câu chuyện, từ

tác phẩm Sóng làm tại Đồ Sơn năm 2007, TL Tứ Pháp cuối năm 2007,

TL Sóng ngầm năm 2009 với những chiếc đe sắt hàn, đến TL Không

vô can này, rõ ràng rằng tư duy nghệ thuật và cách sử dụng ngôn ngữ

hình khối của ông thay đổi qua từng triển lãm. Ông có thể giải thích

thêm về ngôn ngữ điêu khắc của ông?

Đ.C.H: Nghệ sỹ có thể đưa ra nhiều khái niệm, nhiều cách hiểu về ngôn

ngữ điêu khắc. Tôi chỉ phân biệt hình khối ra hai dạng đơn giản: khối

đặc, khối rỗng và sự kết hợp của đặc-rỗng, tất cả các loại điêu khắc đều

nằm trong ba dạng đó. Mỗi dạng khối có ưu việt riêng của nó, điêu

khắc đặc là khả năng chiếm lĩnh không gian, và điêu khắc rỗng là

ngược lại. Hay nói rõ hơn, điêu khắc đặc chiếm lĩnh không gian bên

trong của nó, điêu khắc rỗng chiếm lĩnh không gian bên ngoài của khối

tự thân, và đó là hai mặt của ngôn ngữ hình khối. Sự kết hợp và tương

tác giữa khối đặc - rỗng lại tạo ra nhiều hiệu ứng khác: sự đan chéo

không gian, cảm giác bên trong - bên ngoài, đặc - rỗng, đầy - vơi… rất

phong phú và đa dạng. Khi muốn thể hiện nhiều phương án điêu khắc

như vậy, lại cần phải có những chất liệu phù hợp. Với chất liệu mây tre

đan như đã nói ở trên, sau một thời gian làm việc, tôi gặp phải rất nhiều

hạn chế. Xử lý và chế tác mây tre đan hoàn toàn là một quá trình thủ

công thuần túy, không áp dụng được nhiều kỹ thuật và công nghệ hiện

đại, do vậy cũng không đạt được ý đồ về hình khối, không gian và cũng

không tạo ra được ngôn ngữ tự thân của chính chất liệu. Cảm giác về

khối và hiệu quả thẩm mỹ bởi vậy cũng bị yếu đi rất nhiều. Đối với các

chất liệu tự nhiên khác như gỗ, đá, tôi cũng gặp những vướng mắc

tương tự. Chất liệu tự nhiên bộc lộ những hạn chế nhất định trong chế

tác, mặc dầu chúng rất gần gũi với con người về mặt cảm giác, sự gần

gũi tự nhiên, phù hợp với nền tảng kinh tế - văn hóa của dân tộc hiện

tại, cũng như đã có chỗ đứng nhất định trong lịch sử điêu khắc. Nhưng

hiện tại với tôi như thế là chưa đủ. Khi tìm đến với kim loại, tôi nhận

thấy kim loại là một chất liệu có nhiều ưu việt: về kết cấu, về khả năng

tổ chức không gian, chiều kích, về kỹ năng chế tác, có thể cắt ghép,

đúc, hàn, làm các mô-đun, cho ta nhiều phương án hơn để giải quyết

vấn đề. Và điểm quan trọng nhất là bản thân kim loại cũng có ngôn ngữ

tự thân, nó hấp dẫn, gần gũi với cảm quan của xã hội hiện đại, mặc dù

có thể nói Việt Nam chưa hoàn toàn là một xã hội phát triển công

nghiệp, nhưng nhận thức của chúng ta về đời sống công nghiệp đã rất

rõ rệt. Chúng ta hoàn toàn có thể cảm nhận được sự hiện diện của kim

loại ngày càng xuất hiện nhiều trong đời sống hàng ngày, các vật dụng,

đồ đạc, kiến trúc và thậm chí cả trong hơi thở và các giác quan. Đó là

lời giải thích của tôi về quá trình liên tục tìm kiếm và thử nghiệm các

vật liệu mới cùng ngôn ngữ mới nhưng vẫn dựa trên một tinh thần

xuyên suốt là thể nghiệm sự quan hệ, khả năng kết hợp của khối đặc -

rỗng trong không gian.

Một ý nữa mà tôi cảm thấy cần phải nói rõ hơn là việc lựa chọn chất

liệu chế tác, quá trình tư duy, ngôn ngữ hình khối cho đến xây dựng tác

phẩm đều dựa trên phong cách nghệ thuật của từng cá nhân. Hiểu một

cách rõ hơn là cái này chi phối toàn bộ quá trình sáng tạo của nghệ sỹ.

N.A.T: Nói chi tiết hơn, đối với tác phẩm Đường hầm Sóng ở Đồ Sơn

đầu năm 2007, người ta nhận thấy ông đã vận dụng cả tư duy về không

gian của kiến trúc hiện đại vào trong tác phẩm. TL Tứ pháp cuối năm

đó là một biểu hiện rõ rệt hơn, ông hứng thú với những kết cấu đa diện

và đồ sộ của các ngôi tháp, khả năng gây ấn tượng và phá vỡ không

gian mà chúng tạo ra, để xây dựng 4 pho tượng lớn. Và phương án

trưng bày cùng ngôn ngữ khối tự thân của mỗi pho tượng trong TL đó

có thể cho phép chúng được phóng lớn, dựng trong các không gian

ngoài trời, không gian công cộng như một kiểu kiến trúc - điêu khắc

trong môi cảnh hiện đại. Chúng ta bắt gặp điều này rất nhiều trong các

điêu khắc gia hiện đại phương Tây như Henry Moore, A.Calder…, sau

này là Anthony Caro ở Anh, Louise Bourgeois, Anish Kapoor ở Mỹ.

Ông có thể nói rõ hơn về sự ảnh hưởng và vận dụng ngôn ngữ kiến trúc

hiện đại trong các sáng tác?

Đ.C.H: Tôi có sự ngưỡng mộ nhất định với kiến trúc hiện đại ở sự phối

hợp giữa nhiều chất liệu tự nhiên và công nghiệp: gỗ, đá, tre, bê-tông,

thủy tinh, sắt, thép…, ở hình khối có tính đa hướng, đa chiều, kết cấu

khoa học, khả năng kiểm soát và chiếm lĩnh không gian. ở Việt Nam,

có một thực tế là chúng ta rất ít, hoặc không có khả năng tiếp cận đời

sống văn minh, văn hóa đô thị thực tế của các nước công nghiệp phát

triển, trong khi đô thị Việt Nam chưa vươn được đến tầm cỡ ấy. Từ đó

dẫn đến một xu hướng là ta luôn phải hướng ra ngoài quan sát, học hỏi,

nhưng hết sức hạn chế vì thực tế là ta không hoàn toàn sống trong môi

trường đó, do đó rất khó để phát triển các cảm quan nghệ thuật có hơi

thở của đô thị hiện đại. Cảm quan của con người sống trong đô thị hoàn

toàn khác so với cảm quan con người sống trong xã hội nông nghiệp,

văn minh lúa nước về mặt nhận thức, phẩm chất, hình thành tính cách

và nhân cách. Sự mâu thuẫn là chúng ta vẫn có thể tiếp xúc được những

đỉnh cao của văn minh nhân loại từ kiến trúc, công nghệ thông tin,

truyền thông, vật dụng… một sự thừa hưởng có tính ngẫu nhiên và

đương nhiên bởi do cùng ngồi trên cỗ xe chung của nhân loại, nhưng

chúng ta vẫn mang tâm thức của con người nông nghiệp, của nền văn

hóa lúa nước. Đó không phải là điều tốt hay xấu, mà rõ ràng những tâm

thức và thói quen đó không còn nhiều phù hợp trong thời điểm hiện tại

nữa, và đó là mẫu thuẫn của chúng ta, sự thiệt thòi của chúng ta. Tuy

vậy, chúng ta vẫn phải tìm cách tiếp cận, tìm hiểu những vấn đề chung

có tính bản lề, nền tảng của văn minh nhân loại ngày nay. Xét về khía

cạnh nghệ thuật, điêu khắc truyền thống đã có những thành tựu lớn, với

ngôn ngữ và chất liệu phù hợp và rõ ràng là đứa con đại diện cho nền

văn hóa-văn minh nông nghiệp. Tôi cảm thấy ngôn ngữ đó, chất liệu đó

cho đến nay không còn phù hợp nữa, không còn đi xa hơn được nữa,

mặc dù tôi cũng có gần 10 năm khai thác chất liệu gỗ, bề mặt phủ sơn

mài. Con đường đó đã trở nên nhỏ hẹp vì phụ thuộc rất nhiều vào kỹ

thuật thủ công truyền thống, phải nằm dưới cái bóng lớn của thẩm mỹ

truyền thống và rất khó từ đó nói lên cảm quan của cuộc sống hiện tại.

Khi xem xét sự ảnh hưởng của kiến trúc hiện đại với điêu khắc hiện

đại, tôi cho rằng đó là hai khía cạnh trong một vấn đề, hay nói rõ hơn,

kiến trúc và điêu khắc hiện đại hôm nay đã gặp nhau ở một điểm.

Chúng ta có thể nhìn ra điều đó từ nhiều công trình của các kiến trúc

gia hiện đại như Normal Foster với công trình kiến trúc hình quả dưa

chuột St. Mary Axe ở London (Anh quốc), Frank Gehry với công trình

bảo tàng nghệ thuật Guggenheim ở Bilbao (Tây Ban Nha) … và một số

người khác. Với họ, không còn ranh giới giữa kiến trúc và điêu khắc, vì

xét ở góc độ hình khối trong không gian, một tác phẩm kiến trúc không

khác gì một tác phẩm điêu khắc, chỉ khác ở vấn đề công năng sử dụng,

kết cấu bên trong. Hoặc có thể nói một tòa nhà hiện đại là tổng hòa của

rất nhiều loại hình: kiến trúc, điêu khắc, ánh sáng, design, công nghệ,

điện năng, kết cấu v.v… cũng như nhiều loại chất liệu phong phú. Đối

với tôi, ảnh hưởng của kiến trúc sang điêu khắc là rõ rệt và sâu sắc,

không chỉ giới hạn trong những vấn đề hình khối, không gian, mà còn

là sự tương tác, gợi ý, cảm hứng trong sự nhận thức và tư duy nghệ

thuật...

(Hết kỳ I)

NGUYỄN ANH TUẤN