20
TÔN BIÁ0 - TÍN NGƯỠNG
VÀ NGHÊ THUẬT T0 HÌNH
0UA NGƯỜI VIỆT
ĐINH HỒNG HẢI?)
¡9 Lặc (tiếng Phạn: Mfœireya) là một vị
Bồ Tát của Phật giáo Đại Thừa, được
xem như kế vị của đức Phật Thích Ca
thương gọi là VỊ Lai Phật. Ö Trung Hoa, Di
Lặc còn có tên goi khác là Từ Thị Bồ Tát.
Tương truyền Di Lặc là con của một vị Bà-
la-môn quy y cửa Phật, nhập diệt trước
Đức Thế Tôn (Thích Ca) rồi trở về Đâu
Suất thiên Nội 0iện. Sau khi trải qua 4000
năm ở trên cõi trời Đâu Suất, lại chuyển
sinh xuống nhân gian thành Phật ở dưới
gốc cây Long Hoa trong vườn Hoa Lâm.
Trong lịch sử của Phật giáo Ấn Lộ, Ùì Lặc
là một trong hai giáo tổ đã lập nên phái Du
Già (Yogacara) - một trong hai tông phái
lớn của Phật giáo Đại Thừa.
Tín ngưỡng Di Lặc có nguồn gốc từ Ấn
Độ, sau khi du nhập vào Trung Hoa đã trở
thành một tông phái riêng gọi là Di Lặc
tỉnh độ. Theo giáo lí của tông phái này thì
ngươi đời tu hành và tụng niệm danh hiệu
Phật DI Lặc sẽ được hoá sinh ở cõi trời Đâu
Suất đẹp đẽ. Đến thời Tây Tấn - Hậu Tần,
đất nước Trung Hoa rơi vào tình trang hỗn
loạn về chính trị, đời sống người dân do đó
trở nên cực khổ về vật chất, khủng hoảng
về tình thần, tín ngưỡng Di Lặc vì thế phát
triển cực kì mạnh mẽ, trở thành cứu cánh
cho đời sống tỉnh thần của người dân lúc
bấy giờ. Đó cũng là cách duy nhất để họ có
(9) G x.uấ Si 3 lở .
Thạc sĩ, Viện Nghiên cứu Văn hoá.
HÌNH TƯỢNG // /4/ TRŨNG
_ _ ĐINH HỒNG HẢI
thê tự trấn an tỉnh thần của mình. Nhằm
“hợp thức hoá” nguồn gốc của Di Lặc Bồ
Tát với văn hoá Trung Hoa, ngươi Trung
Hoa đã lấy hình tượng một nhà sư Trung
Quốc thời Ngũ Đại (907 - 959) tên là Khế
Thử, thường gọi là Hoà thượng túi 0udi làm
xuất thân Di Lặc Bồ Tát của riêng mình.
I. HĨNH TƯỢNG DI LẶC TRONG VĂN
HOÁ TRUNG HOA
Sau khi được định hình và có chỗ đứng
ở Trung Hoa, tín ngưỡng Di Lặc phát triển
ngày một rộng ra khắp nơi: Từ Bắc đến
Nam, từ tJ)ông sang Tây, từ cao nguyên Tây
Tạng đến các miền duyên hải. Vượt ra
ngoài biên giới Trung Hoa, tín ngưỡng ỦDì
Lặc còn lan rộng khắp vùng Đông Bắc Á và
Việt Nam - những quốc gia theo Phật giáo
Đại Thừa. Với hoá thân của Hoà thượng
Khế Thử, hình tượng DI Lặc được mô tả
bằng một vị Phật nam đầu hói troc, béo tốt,
bụng to, mặc áo hở ngực hở bụng. Với quan
niệm cho răng Di Lặc là vị Bồ Tát kế vi của
Đức Thích Tôn nên hình tượng Di Lặc ở
Bát Diệp uiện được mô tả với tư thế tay trái
đặt trước ngực, các ngón xoè ra, tay phải
cầm bông hoa sen, trên hoa sen có ngọn bảo
tháp bên trong chứa ngọc xá Ì]. Ö Vi Tế hội,
lại thể hiện chì tiết với các ngón cái, ngón
trỏ và ngón út duôi thăng, ngón giữa và
ngón vô danh gấp lại đặt trước ngực, tay
trái mang hạt châu đặt trên gối.
Theo Di Lặc Hạ sinh bình, DI Lặc
giáng sinh xuống nhân gian từ cõi trời Đâu
Suất thành Phật ngồi dưới gốc cây Long
Hoa trong vườn Hoa Lâm. Vì vậy hầu hết
các hình tượng Di Lặc đều được mô tả thêm
khung cảnh của vườn Hoa Lâm. Một số
khác lại mô ta cảnh đức Di Lặc ngư ở cõi
trơi Đâu Suất. Trong một bức hoạ của động
"nghìn Phật” ở Khắc Tư Nhĩ, Tân Cương.
hang số 77 hoạ hình Di Lặc ngồi xếp bằng ở
giữa, có bốn Bồ Tát ca nhi ở hai bên phục
vụ, "kẻ rắc hoa, người thổi sáo, người múa.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
5]
người dâng hoa sen”. Những Bồ Tát ca nhi
này giống như những cung nữ của vua
chúa: xinh đẹp, ngực nở, lưng ong, nửa
khoả thân. Điều đó cho thấy quan niệm của
các nghệ nhân xưa đối với các vị Thần -
Phật mà họ tôn thở cũng rất "đời thường”
(). Dường như họ lấy đời sống của vua chúa
để làm chuẩn mực của đời sống mọi đối
tượng, bất kế họ là Thần - Phật hay người
phàm trần.
Trong khi đó, hình tượng DI Lặc xuất
hiện ở một số nơi khác lại hoàn toàn khác
xa với những gì được thấy ở Khác Tư Nhĩ
và những mô ta trong Di Lặc Hạ sinh bình.
Tại 7d Ca tự, một ngôi chùa lớn ở Tây
Tạng, có một bức tượng DI Lặc được đúc
bằng đồng lại là một pho tượng nữ đứng
xinh đẹp với vẻ mặt dịu dàng. “Đầu đội mũ
vàng chóp nhọn, trên mũ có đính rất nhiều
những viên ngọc màu xanh, nơi cổ và bụng
đều có vật trang sức. Thân hình có dáng eo
nhỏ, vú cao, cánh tay đầy đặn như một cô
gái đang tuổi thanh xuân. Một tay kết ấn
thí vô uý đặt trước ngực trái, tay phải
buông xuông đặt trên đùi phai. Trên thân
thể chỉ có rất ít vật trang sức điểm xuyết,
hầu như là để lộ”. Có thể nói rằng, sự khác
biệt của hình tượng DI Lặc ở các vùng văn
hoá khác nhau là một minh chứng sống
động cho thấy mối quan hệ qua lại hết sức
sâu sắc giữa uăn hoá, tôn giáo và nghệ
thuật. Trong trương hợp này, văn hoá là
yếu tố quyết định sự ra đời của một hình
tượng nghệ thuật.
Thông thường, một tôn giáo - tín
ngưỡng ra đời khi con người bất lực và sợ
hãi trước sức mạnh của tự nhiên. Và chỉ
khi một tôn giáo hay tín ngưỡng ra đời, thì
những hình tượng về tôn giáo tín ngưỡng
đó mới hình thành. Những hình tượng này
được trau chuốt dần, theo thời gian chúng
trở nên những hình tượng nghệ thuật có
giá trị. Những tôn giáo - tín ngưỡng và các
hình tượng nghệ thuật của chúng đã góp
phần sáng tạo nên văn hoá. Từ đó, văn hoá
lại tác động lên tín ngưỡng và nghệ thuật
thành một vòng tuần hoàn có thể tóm tắt
bằng một sơ đồ như sau:
TG-TN
VẠN.
VH “———. „ NT
Š —Z
Trong nền văn hoá Trung Hoa, tín
ngưỡng DI Lặc có trước rồi mới sản sinh ra
những hình tượng DI Lặc khác nhau. Hình
tượng Di Lặc là nưm như ở Khắc Tư Nhi
hay nữ như ở Tây Tạng là do chính văn
hoá, hay nói chính xác hơn là những quan
niệm uăn hoá về DI Lặc và tín ngưỡng Di
Lặc ở những nơi này quyết định. Vì vậy, sự
khác biệt của hình tượng DI Lặc ở những
vùng văn hoá khác nhau là một điều tất
vếu. Điều này sẽ nhận thấy rõ hơn khi
nghiên cứu hình tượng Di Lặc ở Việt Nam.
II HÌNH TƯỢNG DI LẶC TRONG VĂN
HOÁ VIỆT NAM
Khó có thể nói một cách chính xác hình
tượng DI Lặc xuất hiện ở Việt Nam từ bao
giờ, vì hầu hết những ngôi chùa được xây
dựng từ thời Lê sơ trở về trước đều đã bị
phá huy, một vài ngôi còn sót lại bộ khung
và bệ tượng. Tuy nhiên, có thể khăng định
là muộn nhất thì đến nửa cuối thiên niên
ki thứ II cũng đã xuất hiện tín ngưỡng Di
Lặc và hình tượng DI Lặc trong các ngôi
chùa Việt. Tín ngưỡng DI Lặc theo Phật
giáo Đại Thừa du nhập vào Việt Nam, do
tín ngưỡng này theo tông phái 7T¡nh độ nên
chúng được Phật giáo dân gian của người
Việt đón nhận một cách hết sức dễ dàng. Vì
vây, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn.
ĐINH HỒNG HẢI
tín ngưỡng Di Lặc đã thâm nhập hầu khắp
các Phật đường của người Việt.
Ở đa số các ngôi chùa cổ miền Bắc hiện
tồn. Di Lặc luôn được đặt ở vị trí dưới Đức
Thế Tôn. Biêu hiện băng một vị Phật nam
to béo ngự trên toà sen, đầu trọc, mặc áo
phanh ngực hở bụng, ve mặt tươi tỉnh.
miệng cười to, vui ve. Rõ ràng đây là sự mô
ta hình tượng DI Lặc theo Phật giáo Đại
Thừa với đầy đủ vai trò và vị trí mà vị Phật
này "đam nhiệm”. Tuy nhiên. càng thâm
nhập sâu vào Phật giáo và văn hoá Việt
Nam, hình tượng DI Lặc của Phật giáo Đại
Thừa càng thay đổi nhiều, do chúng bị chỉ
phối bơi sự tác động của Phật giáo dân gian
cũng như văn hoá dân gian ngươi Việt. Có
thê tạm phản chia những *biến thê" của
hình tượng DI Lặc trong văn hoá dân gian
người Việt làm hai dạng: Hình tượng Di
Lặc trong Phạt giao dân gian; Hình tượng
DI Lặc bên ngoài Phát giao dân gian.
I. Hình tượng DI Lặc trong Phật
giáo dân gian người Việt
Thoát khỏi những giáo lí nghiêm ngặt
cua Phật giáo Đại Thừa, hình tượng DI Lặc
trong Phật giáo dân gian người Việt ngày
càng trở nên phổ biến hơn và tự do hơn. Có
những hình tượng DI Lặc được giữ nguyên
vị trí "tay trái mang chuồi hạt châu đặt
trên gôi” giống như ở V/ Tế hội (Trung
Quốc). còn tav phải nắm vạt áo cà sa (ảnh
l. 3). Ngược lại. có những hình tượng Di
Lặc với chuôồi hạt được chuyển sang tay trái
(anh 3). Hoặc là tượng đứng với một chiếc
túi vai trong tay phải (ảnh 8). Trong trường
hợp khác, hình tượng Di Lặc lại có thêm
sáu "tiêu đồng” ngồi trên vai, trên bụng,
trên đùi và chân của ngài (ảnh 4) tượng
trưng cho sáu thứ cám đô. Đặc biệt còn có
ca những hình tượng Di Lặc đứng dang
rộng hai tay đặt trước cửa chùa như đón
mời (ảnh 5). Điều đó cho thây tính tự do.
phóng khoảng trong quá trình sáng tạo các
hình tượng nghệ thuật phục vụ tôn giáo,
tín ngưỡng cua các nghệ sĩ dân gian. Chính
những sáng tác tự do này đã góp phần làm
"mềm" đi tính nguyên tắc trong giáo lí Phật
giáo Đại Thừa và khiến cho những hình
tượng cao siêu của các vị Thân - Phật trỏ
nên gần gũi hơn với đời sống của người
dân. Hơn thế, chúng kích thích óc tưởng
tượng của các nghệ sĩ để tạo ra những tác
phâm nghệ thuật vô cùng phong phú và đa
đạng. Không chỉ biến đổi về hình thức thể
hiện. hình tượng Di Lặc còn thay đôi luôn
cả VỊ trí (vốn rất nguyên tác: chỉ dưới Đức
Thế Tôn) trong các Phật điện ở các ngôi
chùa cô miền Bắc theo giáo lí của Phât giáo
Đại Thừa.
Từ một vị trí "ngôi cao" trong các Phật
điện, hình tượng Di Lặc đã chuyên *xuống”
các vị trí khác nhau như hành lang (ảnh 3,
5) hoặc ở một cung riêng ngoài vườn chùa
(anh 3, 4). Thâm chí. ở một số nơi còn được
đặt trong hang đá (ảnh 1). Điều đó cho thấy
quan niệm về ngôi bậc của các vị Thần -
Phật trong con mắt các nghệ sĩ dân gian
nói riêng và trong văn hoá dân gian người
Việt nói chung hết sức giản dị. Đối với họ.
dưỡng như các vị Thần - Phật càng gần gũi
bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, vì trên thực
tế họ cùng không quan tâm lắm đến ngôi vi
XÓéI
cho cùng thì tôn giáo, tín ngưỡng và nghệ
của các vị thân này như thế nào (9).
thuật được tạo nên từ văn hoá. và nó quay
trở lại phục vụ cho chính đời sống uăn hod
tình thần của người dân. Vì vậy, sự biến
đổi của các hình tượng nghệ thuật - tôn
giáo phụ thuộc vào tư duy của người đân
cũng là điều đễ hiểu. Mặc dù đã có những
thay đổi lớn lao đến như vậy nhưng những
biến đôi của hình tượng Di Lặc trong Phật
giáo dân gian người Việt chỉ là rất ít so với
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
ĐÓ
những gì được thê hiện ở bên ngoài Phật
ø1áo dân gian người Việt.
2. Hinh tượng DI Lặc bên ngoài
Phật giáo dân gian người Việt
Rời "ngôi cao” gần Đức Thế Tôn, hình
tượng Di Lạc không chỉ di chuyển xuống
các vị trí khác nhau trong khuôn viên của
một ngôi chùa mà còn *vi hành” khắp nơi
trong nhân gian đề "*eứu nhân độ thế”. Hơn
thế, hình tượng Di Lặc còn tham gia vào
cơn lốc xoáy của nền kinh tế thị trường thời
hiện đại, với việc “phù hộ độ trì” cho các
cửa hàng kinh doanh làm ăn phát đạt().
Thậm chí. hình tượng Dị Lặc còn được mô
tả bằng việc vác thoi vàng trên hai tay
trong vai trò của một vị Thần Tài (ảnh 6,
7). Nguyên do nào đã khiến cho hình tượng
Di Lặc có sự thay đổi lớn đến như vậy?
Thật khó trả lời một cách thấu đáo câu hỏi
này. Tuy nhiên. chúng ta có thê tiếp cận
vấn đề này thông qua việc tìm hiểu ngôn
ngữ tạo hình của hình tượng DI Lặc.
Có thể nói, nếu hình tượng Di Lặc
trong Phật giáo Đại Thừa không bị "dân
gian hoá” thì nó khó có thể vượt ra ngoài
khuôn viên của một ngôi chùa, hay nói một
cách chính xác hơn là nó sẽ không thể vượt
ra ngoài khuôn phép của các giáo lí trong
Phât giáo Đại Thừa. Tuy nhiên, nếu không
thích ứng được với Phật giáo dân gian nói
riêng và văn hoá dân gian của người Việt
nói chung thì hình tượng DI Lặc sẽ không
được tiếp nhân. hoặc sẽ bị "chết yêu” như
các hình tượng của Đạo giáo Trung Hoa đã
từng xay ra ở Việt Nam. Ö đây, nghệ thuật
tạo hình dân gian của người Việt vừa đóng
vai trò làm biến đổi hình tượng Di Lặc
trong Phật giáo Đại Thừa, vừa góp phần
phô biến tín ngưỡng này thông qua tín
ngưỡng dân gian của ngươi Việt. Tới đây,
hình tượng DI Lặc không còn đóng vai trỏ
duy nhất là vị Bồ Tát trong Phật điện nữa
mà đã biến thành Thần Tòi, hay Ông Địa
tuy theo mục đích của chính người dân.
Thậm chí có ngôi chùa cùng một lúc thờ hai
hình tượng DỊ Lặc khác nhau trong cùng
một điện thờ (anh 6) và thêm một hình
tượng nữa bên "ngoài khuôn viên chùa với
các hình thức thể hiện hoàn toàn khác
nhau: Phía trên là hình tượng Di Lặc theo
Phật giáo Đại Thừa, fy phai lần tràng hạt.
trong khi ở phía dưới lại là một vị "DI Lặc
bê thoi vàng” - tức thần Tài hay ông Địa
trong tín ngưỡng dân gian và ở ngoài vườn
chùa là hình tượng Di Lặc fay rái lần
tràng hạt. Điều đó cho thấy ảnh hưởng của
tín ngưỡng dân gian tới Phật giáo ở Việt
Nam hết sức mạnh mẽ. _
Vậy nguyên do nào khiến người dân “ca
san” đưa một vị Đại Bồ Tút ra làm vị "thần
riêng” của mình? Nếu xét riêng dưới góc độ
của nghệ thuật tạo hình thì sự "dê mến”
đến mức “dễ dãi” của hình tượng DI Lặc đã
khiến người dân không còn cam giác sợ hãi
đối với vi Bồ Tát này. Mặt khác, với thân
hình béo tốt, phương phi, hình tượng Di
Lặc được người dân coi như là sự biếu hiện
của sung túc và no đủ. Vì vậy mà nhiều
người dân - đặc biệt là những người hành
nghề buôn bán - coi hình tượng DI Lặc như
một biểu tượng của sự giàu có và thành
đạt. Và có thể thấy người ta thờ Di Lặc ỏ
khắp nơi: trong nhà, ngoài sân, ở cửa hàng.
trên xe ô tô, thâm chí là ở những gốc cây
ven đường đi cho dù nhiều người không hề
biết về gốc tích của vị thần mà mình đang
thờ. Như vậy, từ một vị Bồ Tát, được xem
như kế vị của Đức Thế Tôn ở Trung Hoa,
hình tượng Di Lặc thông qua ngôn ngữ của
nghệ thuật tạo hình ngươi Việt đã được
dân gian hoá biến thành những vị Thần
Tài. Ông Địa phổ biến rộng khắp trong tín
ngưỡng dân gian của người Việt.
54
ĐINH HỒNG HẢI
———_Ễ==ễïễỄ— ———————=—
Không chỉ có mặt trong tôn giáo - tín
ngưỡng, hình tượng DI Lặc còn góp mặt
khá nhiều trong những phòng khách sang
trọng của những gia đình giàu có và cả
những căn gác nhỏ hẹp của người nghèo,
chỉ với một vai trò làm vật trang trí tương
tự như Tam đa, Bát bứu, Tứ quý, Bút tiên...
Tai những nơi này hình thức của tượng Di
Lặc được mô tả băng nhiều cách thức khác
nhau với nhiều loại chất liệu khác nhau.
phổ biến nhất là tượng Di Lặc bằng gỗ,
øốm, đồng, đá, thạch cao. Những chất liệu
này tuy khác nhau về màu sắc, kích cõ
nhưng đều có một điểm chung đó là luôn
luôn đặc tả được hình dáng và chân dung
của Di Lặc. Cho tới nay, việc trưng bày
tượng DI Lặc tại các gia đình người Việt đã
trở nên một loại "mốt thời thượng.” Một số
gia đình giàu có có thể bỏ ra hàng triệu,
thậm chí vài chục triệu để có được những
pho tượng DI Lặc bằng những vật liệu quý
như vàng, bạc, đồng, đá, mã não, gỗ quý...
Họ coi đó như một biểu tượng của sự thành
đạt mà không quan tâm đến xuất xứ của
hình tượng này.
Có thể nói sự phổ biến hình tượng Di
Lặc từ trong giáo lí của Phật giáo Đại Thừa
ra bên ngoài là một kết quả tất yếu của quá
trình dân gian hoá tôn giáo - tín ngưỡng ở
Việt Nam. Sự biến đổi của hình tượng Di
Lặc trong cũng như ngoài Phật giáo chính
là một biểu hiện rõ nét của sức mạnh tiềm
ân trong văn hoá dân gian ngươi Việt, Ö
đây. văn hoá dân gian đóng vai trò làm chủ
thể trong văn hoá truyền thống người Việt.
Có lẽ cũng vì vậy mà hàng nghìn năm qua,
nền văn hoá Việt Nam tuy chịu nhiều áp
lực từ bên ngoài nhưng vân luôn luôn giữ
được bản sắc riêng mà không bị đồng hoá
bởi các nền văn hoá lớn. Hơn thế, văn hoá
Việt Nam đã biết tiếp thu một cách có chọn
lọc các yếu tố văn hoá bên ngoài để làm
giàu thêm vốn văn hoá của mình. Hầu hết
các triều đại phong kiến Việt Nam luôn
biết dựa vào dân, "lấy dân làm gốc”, lấy
uăn hoá trong dân làm nền tang. Trong khi
một số vị vua xa rời dân, cho Phật giáo dân
øian cũng như văn hoá dân gian là "quê
mùa”. là thứ yếu đã phải gánh chịu họa
diệt vong mà nhà Hồ là một ví dụ tiêu biểu.
Việc dân gian hoá hình tượng DI Lặc trong
Phật giáo Đại Thừa của người Việt là một
cách ứng xử mềm mỏng nhưng có hiệu quả
cao, bơi nó tránh được những xung đột gay
gắt giữa các giáo phái tôn giáo khác nhau
như đã từng xảy ra giữa Ki Tô và Tin Lành
(Thiên Chúa giáo), giữa Đại Thừa và Tiểu
Thừa (Phật giáo) v.v... Đó cũng là một
mình chứng rõ ràng cho câu hỏi tại sao ở
Việt Nam, một đất nước đa tôn giáo, đa sắc
tộc mà lại không hề có xung đột tôn giáo,
sắc tộc.
Ngày nay trong quá trình hội nhập và
giao lưu ngày càng mạnh mẽ với các nền
văn hoá lớn trên thế giới, nền văn hoá Việt
Nam đã và đang đứng trước thách thức của
quá trình toàn câu hoá văn hoá. Vì vậy,
Việt Nam cần phải gìn giữ bản sắc riêng
của mình để từ đó có thể quảng bá. giới
thiệu văn hoá Việt Nam với bên ngoài. Nếu
làm được như vậy thì chúng ta không chỉ
bảo tồn được những truyền thống văn hoá
quý báu của cha ông đã trao lại mà còn
kích thích sự phát triển của xã hội thông
qua các hoạt động phối hợp giữa kinh tế -
văn hoá - du lịch.
Với sự đa dạng về văn hoá và tỉnh thần
đoàn kết giữa các nhóm tôn giáo, các thành
phần dân tộc khác nhau thông qua tín
ngương, nghệ thuật và văn hoá, Việt Nam
đã và đang trở thành một điểm đến an toàn
và hấp dân của du khách nước ngoài trong
những năm đầu của thế kỉ XXI. Với những
(Xem tiếp trang 31)
LC
,
NGHIEN CƯU - TRAO ĐOI
ua
“
lặc ch
Tượn
g Di l
Tuyên Lâm, đường Hóng Bảng,
”
ễ
“ằ
:®. >>
> ề
$S.Đ
ÑeC
>6
s
>
—
'g
` c
SŠ
s¬
T+®e
(1 ;=
n=
ö ‹g.
"
q. 5
=_
a...-
bẻ
§
ma
TP. Hồ Chí
Tỉnh Kiên Giang
ía trên
`
gD
lân tràng hạt, phía dươi bê thoi
G
TP. Hồ Chí Minh
¡nh
ạc
đường 3-2,
Ỉ
Ô,
ùa
TP Hồ Chí
h
Hai pho tượn
vâng, c
F v
€,
¡nh
Bồ Ð
inh
hủa
ạC C
Bình Thạnh
g Di Ï
quận
TP Hồ Chí
Tượn
“
Lam
hùa Thiên
TP Vũng Tàu
äC C
g Di Í
Tượn
ân
nhà hàng Phong Lan, đường Lý
Lương,
K
“
đứng, chùa Hang,
ện Kiên
ạc
g Di Ï
xã Mũi Nai, huyc
tính Kiên Giang
~o 8
Tượn
ạc,
[
hong D
^ˆ
TP. Hồ Chí Minh
À3 #
}
ải mô p
r
ệt
Ï
gth
Thưởng K
Tượn