YOMEDIA
ADSENSE
Nhà giáo Nguyễn Thúc Hào
85
lượt xem 2
download
lượt xem 2
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
GS.NGND Nguyễn Thúc Hào (1912-2009) Nguyễn Thúc Hào (6 tháng 8 năm 1912 – 9 tháng 6 năm 2009) là người được Chính phủ Việt Nam công nhận chức danh Giáo sư đại học ngành Toán đầu tiên Tiểu sử Ông sinh tại Nam Đàn, Nghệ An, trong một dòng họ nhà nho, họ Nguyễn Thúc nổi tiếng.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nhà giáo Nguyễn Thúc Hào
- Nguyễn Thúc Hào GS.NGND Nguyễn Thúc Hào (1912-2009) Nguyễn Thúc Hào (6 tháng 8 năm 1912 – 9 tháng 6 năm 2009) là người được Chính phủ Việt Nam công nhận chức danh Giáo sư đại học ngành Toán đầu tiên Tiểu sử Ông sinh tại Nam Đàn, Nghệ An, trong một dòng họ nhà nho, họ Nguyễn Thúc nổi tiếng. Năm 1924, Nguyễn Thúc Hào thi đỗ thủ khoa vào trường Quốc học Huế (á khoa là Đại tướng Võ Nguyên Giáp - đây cũng là người bạn thân học cùng và làm việc trong nhiều năm về sau này). Năm sau, ông chuyển ra Hà Nội, vào học Trường Albert Sarraut. Năm 1929, thì sang Pháp, thi đỗ tú tài toán tại Aix-en-Provence. Ông theo học trường Đại học Khoa học Marseille. Sau 4 năm học tập, ông thi lấy 6 chứng chỉ: toán học đại cương, giải tích toán học, vật lý đại cương, cơ học lý thuyết, cơ học chất lỏng và thiên văn học. Ngoài ra, ông còn viết xong luận văn cao học, nay gọi là thạc sĩ, về một đề tài liên quan đến hình học và cơ học. Năm 1935, ông trở về dạy toán tại trường Quốc học Huế. Sau Cách mạng tháng Tám, ông được cử làm giám đốc Vụ Trung học Trung Bộ. Chẳng bao lâu sau, ông chuyển ra thủ đô Hà Nội, nhận chức tổng thư ký kiêm giám đốc trường Đại học Khoa học Hà Nội - nay là trường Đại học Quốc Gia. Ông đã mời một số nhà khoa học nổi tiếng đến dạy ở trường: Tạ Quang Bửu, Ngụy Như Kon Tum dạy vật lý, Hoàng Xuân Hãn dạy toán... Sau khi Hà Nội giải phóng, ông giữ chức phó hiệu trưởng trường Đại học Sư phạm Hà Nội, bên cạnh giáo sư hiệu trưởng Phạm Huy Thông. Tiếp đó là 15 năm liền, 1959-1974, ông trở về quê hương, xây dựng trường ĐH Vinh từ những ngày đầu sơ khai. Ông là hiệu trường đầu tiên của trường trường Đại học Sư phạm
- Vinh. Đây là trường đại học tiền tuyến của miền Bắc XHCN và là trường ĐH lớn thứ hai của Việt Nam (sau hệ thống Đại Học Quốc Gia) - cái nôi đào tạo nhiều lãnh đạo của Đảng và nhà nước Việt Nam. Ông còn là một nhà hoạt động xã hội nhiều mặt, như đại biểu Quốc hội ba khóa liên tiếp (2,3,4), Phó chủ tịch Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An, Ủy viên ban chấp hành Hội Hữu nghị Việt-Pháp. Giáo sư Nguyễn Thúc Hào đã nhận được nhiều huân huy chương của nhà nước Việt Nam: Huân chương kháng chiến chống Pháp hạng 2,3 / Huân chương kháng chiến chống Mỹ hạng nhất / Huân chương Lao Động hạng nhất. Sau đó, ông nghỉ hưu và sống tại Hà Nội. Ông mất ngày 9 tháng 6 năm 2009 tại bệnh viện Hữu Nghị, Hà Nội sau một thời gian dài nằm viện. Gia đình Ông nội là cụ Nguyễn Thúc Kiều, cử nhân nho học, thầy dạy của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Ông Kiều đỗ Cử nhân năm Mậu Dần (1878) dưới triều Tự Đức., được bổ dụng làm Hành tẩu Bộ Công, hàm Biên tu (1880). Nưm 1881, ông từ quan về quê mở trường dạy hoc. Giữa năm 1885, được tin Kinh thành Huế thất thủ, ông bèn đóng cửa trường. Buồn phiền, uất hận, ông nhịn ăn và hơn tháng sau ông qua đời vào ngày mùng 3 tháng 7 năm Ất Dậu (1885) hưởng dương 36 tuổi. Ông còn có tên hiệu là Anh Lâm. Cụ Phan Bội Châu đã viết (xem Phan Bội Châu niên biểu – NXB Văn Sử Địa – Hà Nội): “…Năm 13 tuổi, tôi vẫn ở nhà học cha tôi và xin tập văn ở trường Nguyễn tiên sinh ở làng Xuân Liễu. Tiên sinh tên là Kiều rất thâm thuý về Hán học. Tiên sinh rất yêu tôi, nhiều lúc Người đã đi mượn sách quý của các đại gia về cho tôi đọc, nhờ thế tôi được hiểu biết thêm nhiều (trang 26)”. Sau khi ông Kiều mất, các triều vua Tự Đức, Hàm Nghi, Khải Định, Bảo Đại đã truy tặng phẩm tước, cao nhất là “Gia nghị Đại phu hàm thái thường tự khanh”. Năm 1925, cụ Phan đã làm bài văn bia tưởng nhớ thầy học của mình, trong đó có đoạn: “…Trong khoảng Hùng sơn Lam thuỷ có khí thịnh bàng bạc chung đúc nên người, thỉnh thoảng lại có bậc anh hùng tuấn tú xuất hiện. Tiên sinh sinh ra là người đĩnh ngộ, tính ham đọc sách, ít nói cười. Được lệnh tiên công truyền dạy lối từ chương cử nghiệp, tiên sinh hạ bút là thành văn…Cuối đời Tự Đức, quân Tây dương thuận dòng sông nước xâm phạm kinh thành, tiên sinh bèn bỏ quan, rời khỏi đế đô, lui về lo việc tu dưỡng cuối đời. Tiên sinh đóng cửa, chỉ lo dậy học trò và để tâm vào sự nghiệp trước tác, ngâm nga ca vịnh, thả lòng theo cảnh núi non, sông nước; nếu có ai đem việc thế tục đến hỏi thì tiên sinh chỉ trậm mặc không đáp… Châu tôi lúc còn trẻ được hầu tiên sinh, học tập được rất nhiều ở phẩm hạnh của tiên sinh.” Cha là cụ Nguyễn Thúc Dinh, đỗ phó bảng, Thị lang Bộ Lại triều đình nhà Nguyễn (tương đương Thứ trưởng Bộ Nội vụ), đã từng nhận được Bắc đẩu bội tinh và Long bội tinh. Năm 1930-1931, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh lên cao, thực dân Pháp hoang mang lo sợ. Chúng bắt Triều đình Huế phải đưa quan lại người địa phương về cai trị dân địa phương. Một hôm, viên Công sứ Pháp nói với ông Dinh là sẽ đưa ông về làm Tổng đốc Nghệ An. Ông không đồng ý. Thế là bọn Pháp ra lệnh cho Nam Triều cho ông về hưu sớm trước tuổi quy định. Ông đưa vợ con về Huế ở, mãi đến năm 1933 khi phong trào Xô Viết đã dịu lắng do bị Tây đán áp, ông mới đem gia đình
- về quê Hồ – Liễu thăm viếng mồ mả và bà con nội ngoại. Cách mạng Tháng Tám thành công. Nận đói hoành hành. Ông tham gia đi phát chẩn, tham gia các tuần lễ quyên góp ủng hộ cách mạng, hội nhập phong trào Mùa đông binh sĩ, dự đấu giá áo lụa và chân dung Bác Hồ, cho mượn nhà mở lớp bình dân học vụ,… Ông là nhân sỹ trong Mặt trận Liên Việt. Các con của ông đều có học vấn cao và thành đạt: Nguyễn Thúc Hoàng được bầu làm phó chủ tịch kiêm tổng thư ký Hội Kiến trúc sư Việt Nam nhiều khóa; Nguyễn Thúc Hảilà giáo sư, tiến sĩ, nguyên chủ nhiệm Khoa Công nghệ thông tin của Đại học Bách khoa Hà Nội; Nguyễn Thúc Hà là tiến sĩ Hóa Lý tu nghiệp tại Đức... Đóng góp Giáo sư Nguyễn Thúc Hào đã góp phần đào tạo được nhiều học trò xuất sắc và xây dựng nền tảng quan trọng cho nền toán học Việt Nam hiện đại. Ông cũng được coi là người đặt nền móng cho nền giáo dục Đại Học tại Việt Nam. Trong các thế hệ học trò của giáo sư Nguyễn Thúc Hào, nhiều người đã trở thành những gương mặt khoa học quen thuộc, như: Hoàng Tụy, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Đình Tứ, Đinh Ngọc Lân, Nguyễn Văn Hiệu, Vũ Đình Cự, Nguyễn Văn Đạo, Phan Đình Diệu, Nguyễn Đình Trí, Hà Văn Mạo, Văn Như Cương,... Cũng có vài người trở thành nhà báo có tiếng như Nguyễn Hữu Chỉnh,... Đó là chưa kể các lớp học trò của giáo sư Hào trong 10 năm ông dạy tại trường Quốc học Huế (1935-1945); về sau, nhiều người đã trở thành những nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ như Tố Hữu, Huy Cận..v.v... Nguyễn Thúc Hào – Một đại trưởng lão trong làng Giáo sư ( kỳ 1) (Dân trí) – Khi tôi viết những dòng này, vị Giáo sư 97 tuổi, do rất ít khi xuất hiện trên báo đài, nên không mấy ai còn nhớ tới sự nghiệp của ông, trừ những sinh viên của ông ngày trước như Hoàng Tuỵ, Nguyễn Văn Hiệu, Vũ Đình Cự, Phan Đình Diệu, Văn Như Cương… Một số học trò của ông thời trung học như Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Văn Thương… đã ra đi trước thầy. Năm 1946, ông từng giữ chức Tổng Thư ký kiêm Quyền Giám đốc Trường Đại học Khoa học Hà Nội. Và rồi từ đấy, cuộc đời ông gắn liền với sự nghiệp giáo dục đại học. Kỳ I: Vị giáo sư từ ngày đầu cách mạng Chinh phục hạnh phúc Bertrand Russell, nhà triết học Anh, đã viết cuốn Chinh phục hạnh phúc. Đọc cuốn sách ấy, ta dễ dàng nhận thấy: Nếu mù quáng lao theo đồng tiền, thì con người ắt sẽ lạc bước vào… “mê cung bất hạnh”! B. Russell, tất nhiên, rất biết cách tránh khỏi cái “mê cung” ấy. Ông đã sống một cuộc đời hạnh phúc, rất dài, tới 98 tuổi, từ năm 1872 đến 1970! Ông rất gần gũi với nhân dân ta. Trong những năm 60-70 thế kỷ trước, chính ông đã sáng lập Tòa án Quốc tế Bertrand Russel xét xử tội ác chiến tranh của Mỹ ở ViệtNam. Theo ông, phải là người có cuộc đời trong trắng mới mong “chinh phục” được “nàng tiên hạnh phúc trắng trong”.
- Nghĩ về cuộc đời mẫu mực của Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Thúc Hào, tôi lại nhớ tới lời B. Russell: “Cuộc đời hạnh phúc là cuộc đời đẹp trong. Người hạnh phúc là con người luôn nhận được sự quan tâm và yêu mến của nhiều người khác”. Kẻ bị nhiều người căm ghét, kẻ có cuộc đời ô trọc, thì dù ngồi trên núi vàng, vẫn không hạnh phúc. Người thầy của những tên tuổi lừng danh Xã hội truyền thống coi người thầy giáo đáng tôn kính chỉ sau hoàng đế, còn cao hơn cả người cha: quân, sư, phụ. Trong lịch sử nước ta, đã từng có những đấng minh quân: Lý Thái Tổ, Lý Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Thái Tổ, Lê Thánh Tông… Và cũng đã có những người thầy phẩm hạnh cao khiết, trí tuệ hơn người như:ChuVăn An, Nguyễn Trãi, La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp, Nguyễn Văn Siêu, Lương VănCan… Thời đại chúng ta, rất may mắn, có được một vị anh hùng dân tộc mẫu mực về đạo đức, kiệt xuất về tài năng: Hồ Chí Minh. Cách mạng Tháng Tám mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Các giáo sư góp công đầu xây dựng nền Giáo dục đại học ViệtNamta quả là những gương mặt tiêu biểu, cả về đạo đức và tài năng. Ngành y – dược có Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Trần Hữu Tước, Đỗ Xuân Hợp… Ngành văn – sử có Đặng Thai Mai, Nguyễn Văn Huyên, Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy, Trần Văn Giàu… Nhìn sang ngành toán – lý, ta thấy Nguyễn Xiển, Trần Đại Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Ngụy Như Kon Tum, Lê Văn Thiêm, Nguyễn Thúc Hào… Những vị giáo sư đầu tiên mà tôi vừa nhắc tới, nay hầu hết đã trở thành “người thiên cổ”! Tên tuổi nhiều vị đã trở thành tên đường phố ở Thủ đô. Chỉ còn sót lại vài ba chiếc “lá ngô đồng buổi mạt thu”, như Trần Văn Giàu, Nguyễn Thúc Hào… GS Nguyễn Thúc Hào đã từng giữ chức Tổng Thư ký kiêm Quyền Giám đốc Trường Đại học Khoa học Hà Nội, ngay từ những ngày đầu mở nước dân chủ cộng hòa. Về sau, ông được bầu làm Phó Chủ tịch Hội Toán học ViệtNam(Chủ tịch là GS Lê Văn Thiêm). Lê Văn Thiêm và Nguyễn Thúc Hào là hai nhà toán học đầu tiên được Nhà nước ta công nhận chức danh Giáo sư đại học. Nhiều học trò của thầy Hào về sau đã trở thành những gương mặt khoa học quen thuộc, như: Hoàng Tụy, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Đình Tứ, Hà Văn Mạo, Đinh Ngọc Lân, Nguyễn Văn Hiệu, Vũ Đình Cự, Nguyễn Văn Đạo, Phan Đình Diệu, Nguyễn Đình Trí, Văn Như Cương, v.v. Cũng có người trở thành nhà báo như Nguyễn Hữu Chỉnh, hay nhà ngoại giao như Trịnh Ngọc Thái.
- Đó là chưa kể các lớp học trò của thầy Hào trong 10 năm thầy dạy tại Trường Quốc học Huế (1935-1945), nhiều người đã trở thành những nhà thơ, nhà văn, nhạc sĩ tên tuổi đi vào sử sách như Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Văn Thương,.. Có lẽ thầy Hào chưa được công chúng rộng rãi biết tiếng, do thầy đã “ở ẩn” tới 15 năm, khi tình nguyện trở về quê hương xứ Nghệ, đảm đương trọng trách Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Vinh. Rất đông học trò cũ của GS Nguyễn Thúc Hào đến dự Lễ mừng thọ thầy 90 tuổi, do PGS Văn Như Cương tổ chức tại Lễ đường Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2002. Đỗ thủ khoa vào Quốc học Huế Nguyễn Thúc Hào sinh ngày6/8/1912tạiNamĐàn, Nghệ An, trong một dòng họ khoa bảng nổi tiếng. Ông nội là cụ Nguyễn Thúc Kiều, Cử nhân nho học, thầy dạy của nhà chí sĩ Phan Bội Châu. Cha là cụ Nguyễn Thúc Dinh đỗ Phó bảng. Nam Đàn núi cao, sông rộng, có đền thờ Mai Hắc Đế dưới chân rú Đụn, có thị trấn Sa Nam mà sự đông vui nhộn nhịp đã đi vào ca dao: Sa Nam trên chợ dưới đò/Bánh đúc hai dãy, thịt bò mê thiên. Năm 722, Mai Thúc Loan phất cao cờ nghĩa, lật đổ ách đô hộ của Hoàng đế Huyền Tông nhà Đường. Đến thế kỷ 20, cũng chính mảnh đất này đã sinh ra hai bậc vĩ nhân: Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh. Năm 1924, mới 12 tuổi, chàng thiếu niên Nguyễn Thúc Hào thi đỗ thủ khoa vào Trường Quốc học Huế. Cùng dự thi có người bạn Võ Nguyên Giáp. Về sự việc này, có lần GS Hào kể với tôi:
- - Khi thi vào Trường Quốc học Huế, tôi đỗ đầu, anh Võ Nguyên Giáp đỗ thứ hai. Nhưng, khi vào học, thì anh Giáp đứng đầu lớp, tôi đứng thứ hai. “Học tài, thi phận” mà! Học cùng nhau trong một thời gian dài, mới bộc lộ hết cái tài của từng người. Rõ ràng anh Giáp thông minh hơn, học giỏi hơn tôi. Anh Giáp nhiều hơn tôi một tuổi… Trong một thiên hồi ký, GS Tạ Quang Bửu kể: “Tôi và anh Hào là người đồng hươngNamĐàn. Năm học 1923-1924, tôi lên lớp đệ tam ở Trường Quốc học Huế. Cụ Phó bảng Nguyễn Thúc Dinh, thân sinh anh Hào, cho tôi ở nhờ nhà cụ để đi học gần trường hơn. Cụ là nhà khoa bảng, tính tình rất ngăn nắp, cho nên đã thu xếp cho anh Hào học rất chu đáo. Tôi cùng ở với anh Hào và anh Tùng (hiện là Giáo sư, Thầy thuốc Nhân dân Nguyễn Thúc Tùng, 94 tuổi). Cả hai anh đều ngăn nắp, sạch sẽ, trong khi sách vở của tôi thì rất lôi thôi, luộm thuộm (…). Năm sau, tôi lên lớp đệ tứ, thì anh Võ Nguyên Giáp và anh Nguyễn Thúc Hào thi vào lớp đệ nhất. Hai anh đỗ rất cao. Anh Giáp dạo ấy là một học sinh nhỏ nhắn, rất khôi ngô, nét mặt rất thông minh.” Năm sau, anh Hào chuyển ra Hà Nội, vào học Trường Albert Sarraut cho đến năm 1929, thì sang Pháp, thi đỗ tú tài toán tại Aix-en-Provence. Theo học dự bị đại học tại Trường Saint Louis nổi tiếng ở Paris, anh chuẩn bị thi vào các “trường lớn” của nước Pháp. Nhưng rồi, người miền nhiệt đới không quen chịu rét, anh đành giã từParisbăng giá, xuống miền nam, theo học Trường Đại học Khoa học Marseille, bên bờ Địa Trung Hải chói chang ánh nắng mặt trời. Sau 4 năm (1931-1935) chăm chỉ học tập, anh thi lấy 6 chứng chỉ: toán học đại cương, giải tích toán học, vật lý đại cương, cơ học lý thuyết, cơ học chất lỏng, và thiên văn học (chỉ cần 3 chứng chỉ là đỗ cử nhân). Ngoài ra, anh còn viết xong luận văn cao học – nay gọi là thạc sĩ – về một đề tài liên quan đến hình học và cơ học. Vào thời ấy mà học cao đến thế là điều quá hiếm trong toàn cõi Đông Dương. Thầy dạy Toán trẻ măng tại trường Quốc Học 23 tuổi, trở về Cố Đô, anh trở thành một thầy giáo dạy toán trẻ măng tại Trường Quốc học Huế (lúc bấy giờ gọi là Trường trung học Khải Định). Thời ấy, trong toàn cõi “Đông Dương thuộc Pháp”, chỉ vẻn vẹn có 6 trường trung học chuyên khoa (như THPT hiện nay) quốc lập là: Trường Albert Sarraut và Trường Bưởi ở Hà Nội, Trường Khải Định ở Huế, Trường Chasseloup-Laubat và Trường Pétrus Ký ở Sài Gòn, Trường Yersin ở Đà Lạt. Những năm 1942-1944, các nhà khoa học Nguyễn Xiển, Hoàng Xuân Hãn, Đặng Phúc Thông… xuất bản báo Khoa học tại Hà Nội. Tờ báo thu hút sự chú ý của bạn đọc trong nước và cả Việt kiều ở nước ngoài. Một số trí thức ở Huế như Tạ Quang Bửu, Nguyễn Thúc Hào, Phạm Đình Ái… viết nhiều bài lý thú cho báo Khoa học. Các ông còn hăng hái tham gia Hội Truyền bá Quốc ngữ. Chừ đây Huế, Huế ơi! Xiềng gông xưa đã gãy Hãy bay lên! Sông núi của ta rồi!
- Với niềm say sưa tột đỉnh của tuổi thanh xuân, Tố Hữu, nhà thơ xứ Huế, ghi lại những ngày Tháng Tám sôi động ở chốn cố đô vốn “trầm mặc như lăng tẩm”. Trong những ngày bận rộn ấy, GS Nguyễn Thúc Hào làm việc với một niểm hứng khởi khác thường. Ông vừa dạy toán ở Trường Khải Định, vừa giữ chức Giám đốc Trung học vụ Trung Bộ, vừa tham gia Hội đồng Cố vấn Học chính của Bộ Quốc gia Giáo dục. Nguyễn Thúc Hào – Một Đại trưởng lão trong làng Giáo sư (kỳ 2) (Dân trí) – Đảm nhận chức vụ lãnh đạo chủ chốt Trường Đại học Khoa học Hà Nội vào thời điểm rối ren. Duy trì lớp Toán học đại cương tại Nam Đàn (Nghệ An) trong những năm kháng chiến gian nan, bồi dưỡng nhiều nhân tài cho đất nước. Kỳ II: Lòng hiếu học được “thử lửa” chiến tranh Sau Cách mạng Tháng Tám, GS Nguyễn Thúc Hào được cử làm Giám đốc Trung học vụ Trung Bộ. Theo thư mời của Bộ Quốc gia Giáo dục, một lần ra Hà Nội họp Hội đồng Cố vấn học chính, GS Hào được một người bạn cũ – lúc bấy giờ cũng là thành viên Hội đồng – mời về nhà chơi. Trong bữa cơm tối, hai người ôn lại những kỷ niệm xưa bên núi Ngự, sông Hương, khi cả hai còn theo học Trường Quốc học Huế. Cuộc đấu tranh nảy lửa Sau khi tốt nghiệp cử nhân sử học và cử nhân kinh tế, anh bạn về dạy sử tại Trường Thăng Long (Hà Nội), rồi bí mật vượt biên giới ở vùng Lào Cai – Hà Khẩu, sang Vân Nam, gặp Nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc trong công viên Thúy Hồ ở Côn Minh. Rồi lại theo Người trở về Pác Bó (Cao Bằng), chuyển dần xuống Tân Trào (Tuyên Quang), thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân, nhen nhóm ngọn lửa đấu tranh vũ trang… Anh bạn cùng lớp năm nào ấy, nay là Giáo sư sử học Võ Nguyên Giáp, đang giữ chức Bộ trưởng Bộ Nội vụ trong Chính phủ cách mạng… Sau này, trong những năm chiến tranh cũng như hoà bình, mỗi khi có sách mới in, Đại tướng Võ Nguyên Giáp không quên gửi tặng GS Nguyễn Thúc Hào… Tháng 8/1946, Giáo sư Nguyễn Thúc Hào chuyển hẳn ra Thủ đô. Chúng ta còn nhớ, sau Cách mạng Tháng Tám, Tổng hội Sinh viên Đông Dương (Association générale des étudiants indochinois/ A.G.E.I.) tự nguyện đổi tên thành Tổng hội Sinh viên Cứu quốc Việt Nam và gia nhập Mặt trận Việt Minh. Nhưng tình hình bỗng trở nên phức tạp khi một số kẻ cầm đầu Việt Nam Quốc dân đảng theo gót quân Tưởng vào miền Bắc nước ta. Bọn họ ra sức chia rẽ phong trào sinh viên, xúi giục số sinh viên đang hoang mang, dao động đòi Tổng hội phải đứng “trung lập”, “không làm chính trị”, và phải “rút ngay ra khỏi Việt Minh”! Cuộc đấu tranh diễn ra gay gắt. Sinh viên chia ra làm hai phe: phe tán thành ở lại trong Việt Minh, và phe đòi rút ra.
- Ngày 9/12/1945, sau một cuộc tranh cãi kéo dài và náo động, có khoảng 500 sinh viên tham dự, khi biểu quyết, phe đòi rút ra khỏi Việt Minh trội hơn 8 phiếu! Trong bài Mấy lời tâm huyết cùng các bạn sinh viên đăng trên báo Sự Thật ngày 15/12 năm ấy, ông Trường Chinh phê phán việc làm sai trái nói trên và vạch mặt bọn chia rẽ phong trào sinh viên. Tháng 2/1946, Bộ Quốc gia Giáo dục ra Nghị định cho phép tạm đình giảng đến hết kỳ nghỉ hè các ban đại học (trừ hai lớp Anh ngữ và Nga ngữ) để sinh viên đi làm các công tác thiết thực. Nghị định này nhằm, một mặt, thoả mãn yêu cầu tha thiết của nhiều sinh viên muốn được tạm thời nghỉ học để tham gia các hoạt động cách mạng đang rất sôi động, mặt khác, vô hiệu hoá âm mưu chia rẽ của Quốc dân đảng. Trước tình rối ren tưởng chừng không lối thoát ấy, bà Giám đốc Trường Đại học Khoa học Hà Nội Hoàng Thị Nga xin sang Pháp “định cư vì việc riêng”. Bà là tiến sĩ vật lý đầu tiên ở nước ta. Sau kỳ nghỉ hè năm 1946, Trường Đại học Khoa học Hà Nội lại mở cửa. GS Nguyễn Thúc Hào được Bộ Quốc gia Giáo dục điều từ Huế ra Hà Nội, và tín nhiệm giao trọng trách Tổng Thư ký kiêm Quyền Giám đốc nhà trường. Ông phải lo toan nhiều việc. Nào là sắp xếp lại tổ chức, tuyển sinh, ồn định tư tưởng cho sinh viên, vạch ra thời khoá biểu. Nào là mời thầy giảng dạy các môn toán, lý, hoá, sinh. Nhiều nhà khoa học nổi tiếng, vốn là chỗ quen biết GS Hào, nhận lời mời: Tạ Quang Bửu, Nguỵ Như Kon Tum dạy vật lý; Hoàng Xuân Hãn dạy toán… Nhờ GS Bửu giới thiệu, GS Hào được BS Trần Duy Hưng, Chủ tịch UBHC Hà Nội, hỏi thuê cho một căn gác nhỏ ở phố Đoàn Trần Nghiệp.
- Ngày 6/2/1983, tại Hà Nội, đã tổ chức cuộc họp mặt thân mật các học sinh cũ Trường Quốc học Huế. Trong ảnh: hàng đầu, từ trái sang phải: GS Nguyễn Thúc Hào (thứ hai), Đại tường Võ Nguyên Giáp (thứ ba), GS Nguyễn Lân (thứ tư)… Mở lớp toán học đại cương trong loạn lạc Đêm19/12/1946, đèn thành phố vụt tắt. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ. Theo chỉ thị của Bộ Quốc gia Giáo dục, GS Hào cùng vợ bế bồng, gồng gánh các con nhỏ đi bộ về phía ga Thường Tín, rồi lại đi tiếp đến tận ga Nam Định, chen lấn xô đẩy, mới bước chân lên được xe lửa, vào Vinh. Gần Tết, thì về tới quê nhà. Ra giêng, đã nhận được công văn của Bộ: Cần mở ngay Lớp Toán học đại cương! Thế là, chỉ vài tháng sau khi cả nước đứng lên nổ súng đánh trả bọn xâm lược, ở một làng quê Nam Đàn, lớp Toán học đại cương khóa I đã khai giảng trong ngôi nhà thờ họ của cụ Nguyễn Thạc Phỉ (bà con với GS Nguyễn Thạc Cát) gần chợ Liễu, bên sông Lam. Số sinh viên chỉ vẻn vẹn có 5 người, hầu hết là các giáo viên Trường THCS Nguyễn Công Trứ, trong đó có nhà giáo Lê Hải Châu. Các anh ngồi đò qua sông Lam học thầy Hào, rồi lại ngồi đò quay về trường, dạy các lớp đàn em. Cũng vào thời điểm ấy, GS Nguyễn Xiển mở một lớp Toán học đại cương khác, có 10 người học, lúc đầu học theo kiểu gửi bài, về sau, sinh viên tập trung tại làng Đại Điền, huyện Tam Dương (Vĩnh Yên). Tháng 10/1947, quân Pháp tiến công lên Việt Bắc, sinh viên lánh vào hang đá, rồi trở về quê. Lớp này phải đình giảng. Ở Nam Đàn, đến các khoá II, III, IV, lớp Toán học đại cương chuyển lên gần Bến Gành, bên làng Đan Nhiễm, quê hương nhà yêu nước Phan Bội Châu. Số sinh viên lên tới 20 người, học trong nhà thờ họ ông Chắt Cừ. Các anh phần lớn vừa tốt nghiệp trung học chuyên khoa (như THPT phân ban hiện nay) từ xa đến trọ học hay làm gia sư trong các gia đình ở mấy làng chung quanh: Bố Ân, Bố Đức, Thịnh Lạc, Yên Quả, Xuân Hồ… Nhiều người về sau trở thành những nhà khoa học danh tiếng, đi khắp nơi, nhưng trong những trang hồi ký của mình, vẫn không quên nhắc đến thời gian theo học thầy Hào ở Nam Đàn, với bao kỷ niệm vất vả, êm đềm, vui tươi về những làng quê kháng chiến mộc mạc bên dòng Lam xanh biếc. Kỳ thi… từ xa của một sinh viên độc đáo Để khỏi lộ địa điểm của lớp học, đề phòng máy bay Pháp đến bắn phá, GS Nguyễn Thúc Hào liên lạc với Bộ Quốc gia Giáo dục qua địa chỉ bí mật: Ông Nguyễn Tứ Đức, bưu cụcNamĐàn, Nghệ An. - Tại sao tôi lại tự đặt bí danh cho mình là Nguyễn Tứ Đức? – GS Hào kể lại. Cha tôi là một nhà nho đỗ đại khoa, cho nên chúng tôi đều được dạy bảo từ thuở bé rằng tứ đức của con trai là hiếu, đễ, trung, tín; còn tứ đức của con gái là công, dung, ngôn, hạnh. Tuy nhiên, tứ đức mà tôi chọn làm bí danh không hề mang ý nghĩa quen thuộc bao đời ở chốn “cửa Khổng, sân Trình”. Tứ đức mà tôi noi theo để tu dưỡng, rèn luyện mình, tứ đức mà tôi coi như chuẩn mực của phầm hạnh là: cần, kiệm, liêm, chính. Đức độ của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hoàn toàn cảm hoá tôi. Đến với Bác, với cách mạng muộn màng hơn anh Giáp, nhưng tôi quyết không bao giờ nản lòng, thoái chí…
- Một anh tú tài ở đất Quảng, trước kia từng theo học thầy Hào tại Trường Quốc học Huế, nay dạy trung học tại Liên khu V, không có điều kiện vượt Trường Sơn ra Liên khu IV, tiếp tục theo học thầy. Anh biên thư xin thầy tài liệu để tự học. Nghe đâu anh là cháu nội cụ Phó bảng Hoàng Diệu, vị Tổng đốc đã tuẫn tiết bên Hà Thành thất thủ hồi thế kỷ 19. Đến cuối khoá, anh xin dự kỳ thi tốt nghiệp… “từ xa”! Giải quyết như thế nào đây? GS Hào bèn xin phép Bộ được gửi đề thi niêm phong từ Nam Đàn vào cho Sở Giáo dục Liên khu V. Sở mở kỳ thi riêng, chỉ cho 2 thí sinh, trong đó có anh sinh viên họ Hoàng kia, xong, thu bài làm, bỏ vào phong bì dán kín, gắn xi, rồi gửi ra Hội đồng chấm thi ở Liên khu IV. Hội đồng gồm ba nhà khoa học Nguyễn Thúc Hào, Đặng Phúc Thông và Phạm Đình Ái, họp tại đền thờ Mai Hắc Đế dưới chân rú Đụn. Biên bản kỳ thi được gửi ra Việt Bắc cho Bộ kiểm tra, công nhận kết quả, rồi mới cấp chứng chỉ tốt nghiệp cho thí sinh. Anh sinh viên dòng dõi danh nho đất Quảng ấy đã đỗ, còn người thí sinh kia, cùng dự thi, thì bị trượt. Về sau, anh trở thành một nhà toán học nổi tiếng thế giới, được công nhận là “cha đẻ của tối ưu toàn cục” (the father of global optimization). Anh là GS Hoàng Tuỵ, người mà tên tuổi đã in “dấu ấn” trong một số thuật ngữ toán học, như: lát cắt Tuỵ (Tuy’s cut), thuật toán kiểu Tuỵ (Tuy-type algorithm), điều kiện không tương thích Tuỵ (Tuy’s inconsistancy condition)… Số sinh viên toán học đại cương ngày ấy không nhiều. Nhưng đó đều là những con người mà lòng hiếu học đã được “thử lửa” qua chiến tranh khốc liệt. Cho nên, về sau, hầu hết đều trở thành những nhà khoa học, thầy giáo dạy toán-lý, nhà báo, nhà ngoại giáo có uy tín như: Nguyễn Đình Tứ, Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Hoàng Phương, Hà Học Trạc, Nguyễn Văn Cung, Hà Văn Mạo, Nguyễn Hữu Chỉnh, Đinh Ngọc Lân, Trịnh Ngọc Thái, Lê Hải Châu, Lê Thạc Cán, Nguyễn Mậu Tùng, Cung Quang Chương, Đinh Ngọc Cẩn, Lê Nguyên Sóc, Nguyễn Trọng Di… Nguyễn Thúc Hào – Một Đại trưởng lão trong làng Giáo sư (kỳ cuối) (Dân trí) – Rời Thủ đô, GS Hào tình nguyện về “tỉnh lẻ” xây dựng Trường ĐHSP Vinh. Nhưng rồi trường phải sơ tán lên tận vùng núi rừng Thanh Hoá. Suốt đời tận tuỵ với nghề dạy học, GS Hào sống giản dị, thanh cao, được bao thế hệ học trò mến phục, kính yêu. Kỳ cuối: Trải bao “dâu bể”, vẫn tận tuỵ với nghề Từ năm 1951 đến 1954, Trường Dự bị đại học, rồi Trường Sư phạm Cao cấp mở tại tỉnh Thanh Hoá. GS Nguyễn Thúc Hào được Bộ Quốc gia Giáo dục cử vào Ban Giám đốc cùng các Giáo sư Trần Văn Giàu, Đặng Thai Mai, Đặng Xuân Thiều và Nguyễn Mạnh Tường. Giảng dạy tại hai trường này, còn có các ông: Cao Xuân Huy, Nguyễn Lương Ngọc, Phó Đức Tố, Hồ Đắc Liên, Tôn Thất Chiêm Tế…. Phan Huy Lê và Trần Quốc Vượng là sinh viên dự bị đại học dạo ấy. “Không gian đại học lúc bấy giờ là một mái đình xưa hay vài ngôi nhà mượn của dân. – Trần Quốc Vượng kể lại. Thời gian đại học là màn đêm, dưới ánh đèn “đom đóm”. Giáo trình đại học là dăm bảy cuốn sách in ty-pô hay ly-tô gói gọn trong ba-lô dã chiến. Nhưng không khí đại học sao mà hưng phấn lạ thường!”
- Hoà bình được lập lại trên miền Bắc, GS Nguyễn Thúc Hào trở về Hà Nội. Ông cùng GS Lê Văn Thiêm dạy toán tại Trường Đại học Khoa học và Trường Đại học Sư phạm Khoa học. Rồi ông được cử làm Phó Hiệu trưởng Trường ĐHSP Hà Nội bên cạnh Giáo sư, Hiệu trưởng Phạm Huy Thông. Các anh Nguyễn Văn Hiệu, Vũ Đình Cự, Nguyễn Văn Đạo, Phan Đình Diệu, Nguyễn Đình Trí, Nguyễn Văn Ba, Văn Như Cương, Đoàn Quỳnh… được học toán thầy Hào vào dạo ấy. Lê Văn Thiêm và Nguyễn Thúc Hào là hai nhà toán học đầu tiên được Nhà nước ta công nhận chức danh Giáo sư đại học. Ngoài trách nhiệm Phó Chủ tịch Hội Toán học Việt Nam, GS Hào còn là đại biểu Quốc hội nhiều khoá, Phó Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc tỉnh Nghệ An, v.v. Tận tuỵ với nghề, GS Hào biên soạn nhiều bộ giáo trình: Hình học giải tích, Hình học vi phân, Giải tích, Hình học vectơ, Hình học tuyến tính. Trong nhiều năm liền, ông còn dịch sang tiếng Việt 14 cuốn sách toán từ ba thứ tiếng Nga, Anh, Pháp, như: Giải tích tenxơ và hình học Riemann của Rashevsky, Cơ sở lý thuyết mặt của Kagan (từ tiếng Nga); Không gian, thời gian, vật chất của H. Weyl, Toán Ricci của J. A. Schouten (từ tiếng Anh); Không gian liên thông xạ ảnh của Élie Cartan, Xác suất và ứng dụng của H. Cramer, Thuyết tương đối và điện động lực học của A. Lichnerowicz (từ tiếng Pháp), v.v. Đáng tiếc, đến nay, nhiều bản dịch vẫn chưa được in do nhà xuất bản cảm thấy khó thu lãi! GS Nguyễn Thúc Hào và Hội Toán học ViệtNam. Từ trái sang phải, hàng đầu: GS Hoàng Tuỵ (thứ 3), GS Nguyễn Thúc Hào (thứ 4), GS Lê Văn Thiêm (thứ 5), GS Nguyễn Cảnh Toàn (thứ 6), GS Nguyễn Đình Trí (thứ 7)… Người khai sinh Đại học Vinh Năm 1959, GS Nguyễn Thúc Hào được bổ nhiệm làm Hiệu trưởng Trường ĐHSP Vinh (tiền thân của Đại học Vinh hiện nay). Đây là trường đại học đầu tiên trên miền Bắc đặt tại một tỉnh lẻ.
- Năm học đầu 1959-1960, cơ ngơi của trường chỉ có hai dãy nhà hoang. Thư viện lèo tèo vài nghìn cuốn sách. Cả trường vẻn vẹn có 17 cán bộ giảng dạy, 159 sinh viên. GS Hào cùng tập thể nhà trường và chính quyền địa phương bắt tay “nhen nhóm”. Sau 5 năm, cơ ngơi đã khá: 4 ngôi nhà cao tầng làm thư viện, phòng thí nghiệm, nơi ở, làm việc và học tập cho cán bộ, sinh viên. Số sách trong thư viện lên tới 6 vạn cuốn. Trường đã có 15 phòng thí nghiệm với thiết bị khá đủ. Từ 2 ban Văn-Sử và Toán-Lý, trường xây dựng thành 4 khoa: Văn, Toán, Lý, và Hoá-Sinh, cùng 4 bộ môn trực thuộc, gồm 140 cán bộ giảng dạy. Ba khoá sinh viên đã tốt nghiệp ra trường, đóng góp cho đất nước 1.085 giáo viên THPT trẻ tuổi. “Hành quân” lên rừng Hè 1964, Mỹ ném bom miền Bắc ViệtNam. Vinh – Bến Thuỷ bị đánh phá dữ dội. Trường sơ tán khỏi thành phố. Trong vòng 18 tháng, 4 lần di chuyển: Từ Vinh ra Nghi Lộc, lên Thanh Chương (Nghệ An); rồi từ Thanh Chương ra tận Hà Trung, Thạch Thành (Thanh Hoá). Hàng nghìn sinh viên, cán bộ dắt díu theo hàng trăm cháu bé, vận chuyển mấy vạn cuốn sách, mấy trăm tấn thiết bị, “hành quân” an toàn qua hơn 300 cây số, vượt nhiều trọng điểm bị đánh phá ngày đêm như Cầu Giát, Hoàng Mai, Tĩnh Gia… Giữa rừng núi Thạch Thành, sống chung với đồng bào dân tộc thiểu số, thầy, trò vào rừng chặt nứa, đẵn gỗ, dựng lán học, thư viện, phòng thí nghiệm, chỗ ở cho trò, nhà riêng cho thầy, cô có con nhỏ. Thầy Hiệu trưởng, tuổi ngót lục tuần, vẫn trèo đèo, lội suối đến từng khoa cách xa Hiệu bộ cả chục cây số, cùng khoa lo toan cho từng lán học, hầm trú ẩn, bếp ăn, gạo, mì, mắm, muối… Bận rộn thế, nhưng thầy vẫn dành thời gian bồi dưỡng toán chuyên đề cho các đồng nghiệp trẻ. Vợ con thầy sống kham khổ như mọi người, cũng ăn cơm độn sắn, độn khoai, cũng tự mình đào hầm trú ẩn. Thầy xắn quần lội bùn đến lớp, băng rừng tới dự những đêm liên hoan văn nghệ sinh viên. Biết bao công việc âm thầm ở chốn “tỉnh lẻ”, chẳng được báo, đài trung ương “ngó ngàng” tới để mà phản ánh, biểu dương… Thầy Hào như một “ẩn sĩ” giữa chốn “thâm sơn cùng cốc”. Chỉ còn một nét tài hoa kinh kỳ đêm đêm người dân miền núi cảm nhận được ở thầy, đó là tiếng đàn viôlông réo rắt mấy khúc nhạc Mozart, Beethoven hay Chopin, Tchaikovsky – “ngón đàn” mà thầy đã học được từ thời trai trẻ giữaParishoa lệ… Sau 7 năm sơ tán, trường lại trở về Vinh. Nhưng, cay đắng thay, cơ ngơi bao năm đổ mồ hôi xây đắp đã bị máy bay Mỹ giội bom phá đổ tan tành! Phải làm lại từ đầu… Năm 1976, thầy Hào về hưu, chuyển ra Hà Nội, sống cùng các con, nhưng vẫn theo dõi từng bước tiến của trường. Năm 1984, phát biểu tại lễ kỷ niệm 25 năm Ngày thành lập trường, thầy nói:
- “Trường ĐHSP Vinh đang lớn lên, đẹp về hình dáng cũng như về tâm hồn, xứng đáng là một trong những trường có truyền thống cao quý nhất ở nước ta.” Lúc bấy giờ, trường đã có 15 phó giáo sư, 53 tiến sĩ, 384 cán bộ giảng dạy và hàng mấy nghìn sinh viên. Một tuổi già thanh cao, hạnh phúc Từ đấy, thầy Hào sống trong mấy gian nhà trệt mái tôn ở phường Kim Liên, Hà Nội. Nhiều năm sau, các con thầy mới gom đủ tiền “nâng cấp” thành một ngôi nhà gạch tàm tạm ổn. Cái phúc của thầy là nuôi dạy được những người con ưu tú. Anh Nguyễn Thúc Hoàng nhiều khoá liền được bầu làm Phó Chủ tịch Hội Kiến trúc sư ViệtNam. Anh Nguyễn Thúc Hải, Giáo sư, Tiến sĩ, nhiều năm làm Chủ nhiệm Khoa Công nghệ Thông tin Trường Đại học Bách khoa Hà Nội… Tôi đến thăm thầy Hào vào một buổi chiều đầu đông mưa bụi. Gia đình thầy sống trong một nếp nhà xuềnh xoàng, bên hồ nước rộng in bóng mây trôi. Tôi chợt nhớ tới bài thơ Đường luật Mừng Thầy do anh Phan Đình Diệu mừng thầy vào dịp thầy Hào thọ tám mươi: Một tấm gương trong giữ vẹn tròn Sá bao công lội suối trèo non Tay dù trắng, đẹp đời trong trắng Lòng vẫn son, bền chí sắt son Từng trải nắng mưa, lo nghiệp lớn Giờ vui mây nước, mảnh tình con Đời còn sương bụi bao mờ tỏ Xin hãy long lanh ánh nguyệt tròn. Trong nhà thầy, chỉ thấy mấy thứ đồ đạc cũ kỹ, ọp ẹp. Không có một tiện nghi nào sang trọng, đắt tiền. Một tuổi già thanh thản. Một cuộc đời thanh bạch. “Tay dù trắng, đẹp đời trong trắng/ Lòng vẫn son, bền chí sắt son”. - Gần đây, cậu Châu có về trong ta không? - Dạ, đã khá lâu rồi, em chưa có dịp về quê. - Nam Đàn có thay đổi chi không, cậu? Tôi ngồi trầm ngâm… GS Hào và tôi là người đồng hươngNamĐàn, cùng quê Hồ Liễu, xóm dưới, xóm trên. Thuở nhỏ, tôi thường nghe ông nội tôi (cụ Phó bảng Nguyễn Văn Chấn mở trường dạy học ở quê) khuyên bảo: “Lớn lên, cháu phải gắng học cho chăm, cho giỏi theo gương các nhà “tân học” người huyện ta, như ông Tạ Quang Bửu, ông
- Nguyễn Thúc Hào. Chứ cái vốn “cựu học” của ông, thì giờ đây không còn đắc dụng nữa!” Chà, “nhà tân học” Nguyễn Thúc Hào ngày ấy, mặc com-plê, thắt cà-vạt, mới trẻ, đẹp làm sao! Nhà thơ Lý Bạch từng than dài: Thời gian trôi đi như nước sông Hoàng Hà chảy ra biển cả, chẳng bao giờ còn quay trở lại chốn Trung Nguyên! “Người ta không tắm hai lần ở một dòng sông”. Tuổi trẻ trôi qua là trôi mãi mãi! Và rồi, “Thế sự du du nại lão hà/ vô cùng thiên địa nhập hàm ca”, như Đặng Dung đã viết… “NamĐàn có thay đổi chi không?” Đúng là đã có đổi thay. Nhưng sao mà chậm quá!NamĐàn có rú Đụn, sông Lam, có thị trấn SaNam”trên chợ, dưới đò”.NamĐàn, một miền quê cần kiệm và hiếu học, có dứt bỏ được xích xiềng trì trệ để vươn tới, bay xa? Thế giới đang biến đổi từng ngày với tốc độ chóng mặt. Nhưng, trong cơn lốc của thời đại, cũng hiện lên bao đám sương mù và bụi bặm. Là những người trí thức hậu sinh, mỗi khi soi mình vào tấm gương thầy Hào, chúng tôi lại như có thêm niềm tin và nghị lực để giữ gìn nhân cách và phẩm hạnh trước bao cám dỗ lợi, danh: Đời còn sương bụi bao mờ tỏ Xin hãy long lanh ánh nguyệt tròn. Hàm Châu Giáo sư, Nhà giáo Nhân dân Nguyễn Thúc Hào, mất ngày 9/06/2009 (tức ngày 17 tháng Năm năm Kỷ Sửu). Tang lễ đã được cử hành trọng thể từ 9h00 đến 11h00 ngày Thứ Ba,16/6/2009 (tức ngày 24 tháng Năm năm Kỷ Sửu) tại Nhà Tang Lễ Bộ Quốc Phòng, số 5 Trần Thánh Tông, Hà Nội, dưói sự chủ trì của Bộ Giáo dục và Đào tạo (xem Một số hình ảnh Lễ tang GS.NGND. Nguyễn Thúc Hào) Ông Nguyễn Thúc Hào và vợ là bà Lê Thị Vân Dung có 4 người con (3 trai, 1 gái) là: Nguyễn Thúc Hoàng, Nguyễn Thúc Quỳnh Anh, Nguyễn Thúc Hải và Nguyễn Thúc Hà. Bà Lê Thị Vân Dung
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn