Nhà tạo lập thị trường P.2

Để nghiên cứu tiếp về nhà tạo lập thị trường, trước tiên ta phải đặt câu hỏi: Vì sao

một tổ chức lại chấp nhận làm nhà tạo lập thị trường?

Ta sẽ đi tìm hiểu "lợi ích đối với tổ chức thực hiện vai trò nhà tạo lập thị

trường"

Lợi ích đối với tổ chức làm chức năng tạo lập thị trường có thể

được chỉ ra trên hai khía cạnh chính, đó là lợi ích thu được

trực tiếp từ việc tiến hành các giao dịch trên thị trường và lợi

ích do là một nhà tạo lập thị trường thu được từ những hỗ trợ

của nhà nước (được qui định trong các điều luật về hoạt động

của nhà nhà tạo lập thị trường), chẳng hạn như những ưu đãi

trong cho vay vốn, ưu đãi về khả năng tiếp cận thông tin, các

quyền của nhà tạo lập thị trường liên quan đến điều chỉnh thị

trường, ở trên một khía cạnh nào đó mang tính chất “thao túng

thị trường”.

Đối với lợi ích thu được trực tiếp từ các giao dịch. Lợi ích này phản ánh rõ ràng ở

doanh thu mà nhà tạo lập thị trường nhận được. Như đã trình bày ở bài trước, nhà

tạo lập thị trường sẽ tiến hành giao dịch với khách hàng, đóng vai trò đối ứng hoặc

tìm một lệnh đối ứng. Khi trực tiếp giao dịch, khoản lợi mà một nhà tạo lập thị

trường nhận được chính là khoảng chênh lệch giữa mức giá chào mua và chào bán.

Độ lớn của khoảng chênh lệch thường chịu ảnh hưởng bởi ba yếu tố: chi phí của

lựa chọn đối nghịch, chi phí lưu kho (lưu giữ chứng khoán) và chi phí thực hiện

giao dịch. Ta sẽ phân tích cụ thể ba yếu tố này trong phần sau.

Khi tìm lệnh đối ứng cho giao dịch, nhà tạo lập thị trường sẽ đóng vai trò môi giới

và nhận hoa hồng từ giao dịch. Số lượng giao dịch mà nhà tạo lập thị trường thực

hiện càng lớn, khả năng tạo chênh lệch càng cao thì lợi nhuận của nhà tạo lập thị

trường sẽ càng lớn. Tất nhiên, thực hiện được điều này hoàn toàn không dễ dàng

do những áp lực cạnh tranh cũng như áp lực lựa chọn từ phía khách hàng.

Lợi ích từ những ưu đãi và hỗ trợ của nhà nước thường xuất phát từ những ưu tiên

đối với một tổ chức làm chức năng tạo lập thị trường. Năng lực về vốn của các tổ

chức khi tham gia thị trường luôn là một hạn chế, đặc biệt đối với thị trường trái

phiếu. Các nhà tạo lập thị trường luôn có nhu cầu huy động vốn để đáp ứng cho

các giao dịch, nhu cầu vốn thường tuỳ thuộc vào khối lượng giao dịch trung bình

thị trường, thời gian thì lại thường là ngắn hạn do bản chất giao dịch thường

xuyên, tuy nhiên lại cần có những đảm bảo chắc chắn về khả năng có thể vay vốn.

Đây là những tiêu chí rất khó đối với một tổ chức thông thường. Tuy nhiên với

một nhà tạo lập thị trường, nhà nước thường có các ưu đãi về nguồn huy động, về

lãi suất – đây rõ ràng là một lợi thế rất lớn đối với các nhà tạo lập thị trường. Bên

cạnh đó, chứng khoán nói riêng và các tài sản tài chính nói chung đều có đặc tính

rủi ro cao, thông tin do đó là yếu tố hàng đầu đảm bảo cho yêu cầu giảm thiểu rủi

ro.

Với một số hình thức tổ chức như hình thức

chuyên gia trên sàn NYSE, chuyên gia được

quyền tiếp cận với những thông tin về toàn bộ tình

hình cung cầu trên thị trường, về các chủ sở hữu

đang nắm giữ chứng khoán. Do đó, khả năng dự

báo tình hình thị trường của các chuyên gia này

rất cao. Đối với các nhà tạo lập thị trường tại NASDAQ, họ cũng có quyền truy

cập vào những hệ thống tin riêng hạn chế trong phạm vi nhất định. Những nguồn

thông tin này cho phép nhà tạo lập thị trường có thể dự báo tốt nhất tình hình thị

trường, từ đó có những phương án điều chỉnh giá, khối lượng các chào mua, chào

bán, điều chỉnh lượng chứng khoán “trong kho”, ước lượng vốn cần thiết, … Đây

rõ ràng là những lợi thế rất lớn khi tham gia vào giao dịch trên thị trường.

Tuy có thể phân tích nhiều lợi ích khác nhau đối với một tổ chức đóng vai trò một

nhà tạo lập thị trường, rõ ràng lợi ích chung nhất và lớn nhất bao hàm các lợi ích

khác là quyền-khả năng truy cập vào những nguồn thông tin mà không phải bất kỳ

thành viên nào tham gia trên thị trường cũng có thể tiếp cận được. Có được thông

tin, mỗi nhà tạo lập thị trường sẽ biết cách sử dụng tốt nhất để tối đa hoá lợi ích

của mình.

Những yếu tố nào ảnh hưởng đến hoạt động tạo lập thị trường của công ty

chứng khoán.

Do dặc tính ngành kinh doanh chứng khoán, hoạt động của công ty chứng khoán

luôn chịu ảnh hưởng từ các điều kiện kinh tế tài chính bên ngoài Đồng thời do

phải phản ứng với những biến đổi môi trường nên bản thân mỗi công ty cũng luôn

cần điều chỉnh. Như thế, công ty luôn đối mặt với những vấn đề khách quan cũng

như chủ quan khi thực hiện các hoạt động của mình. Ta thử phân tích với một

công ty chứng khoán làm chức năng tạo lập thị trường cho trái phiếu.

Những yếu tố nội tại-chủ quan

Đối với hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu, có một số

vấn đề chủ quan mà một công ty khi muốn thực hiện nghiệp

cụ sẽ phải đối mặt, đó là những vấn đề về khả năng tài

chính, khả năng nắm bắt thông tin thị trường, khả năng phân

tích nhu cầu thị trường, kĩ thuật hoạt động và vấn đề về các công cụ phòng vệ.

Khả năng tài chính luôn là yếu tố hàng đầu khi một công ty chứng khoán muốn trở

thành một nhà tạo lập thị trường cho trái phiếu. Hỗ trợ từ phía nhà nước chỉ đảm

bảo được một phần hoạt động về sau, công ty khi muốn bắt đầu thực hiện hoạt

động này luôn sẽ phải chứng minh về khả năng tài chính của mình. Do đặc tính

trái phiếu, giá trị của mỗi lần giao dịch thường rất lớn, khả năng tài chính mạnh sẽ

tạo cho công ty một cơ sở chắc chắn để tham gia.

Xét về khía cạnh luật pháp, mỗi thị trường có tồn tại hình thức nhà tạo lập thị

trường đều có những qui định rất rõ ràng về yêu cầu tài chính đối với mỗi công ty

khi muốn đăng ký làm nhà tạo lập thị trường. Việc đáp ứng các điều kiện ban đầu

mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ là công ty khi đã được chấp nhận là một nhà

tạo lập thị trường thì phải luôn đảm bảo những tiêu chí nhất định được qui định

trong luật pháp. Điều này rất quan trọng. Rủi ro được nói đến ở đây là rủi ro vỡ nợ

(default risk). Rủi ro vỡ nợ có thể hiểu trên hai phương diện. Nếu như tổ chức phát

hành trái phiếu vỡ nợ, nhà tạo lập thị trường đối với trái phiếu đó không chỉ chịu

tác động trực tiếp đến số trái phiếu còn nằm “trong kho” của mình mà còn phải

chịu trách nhiệm với những trái phiếu đã bán cho khách hàng và những trái phiếu

đã mua vào trong danh mục đầu tư mà khách hàng nhờ quản lý. Rõ ràng trong

những tình huống như thế, khả năng tài chính tốt hoặc có một chỗ dựa tài chính

vững chắc là rất cần thiết.

Khía cạnh thứ hai liên quan trực tiếp đến hoạt động của nhà tạo lập thị trường. Bản

thân nhà tạo lập thị trường khi muốn tiến hành họat động tạo lập thị trường trái

phiếu sẽ luôn phải đi vay vốn để tiến hành giao dịch. Tuy việc vay vốn này nhận

được sự ưu tiên với những hoạt động mang tính tạo lập thị trường, nhưng nếu như

công ty không giả quyết tốt bài toán “lưu kho”, không ước lượng và dự báo tốt nhu

cầu thị trường thì khả năng nó không thể thực hiện các giao dịch cần thiết để cân

bằng cán cân tài chính là rất cao và rủi ro vỡ nợ là không tránh khỏi. Tất nhiên,

các cơ quan quản lý thị trường luôn yêu cầu nhà tạo lập thị trường phải có một

khoản đặt cọc nhất định nhưng rõ ràng khoản đặc cọc này sẽ khó có thể cứu vãn

nếu như công ty rơi vào tình trạng vỡ nợ. Đây là vấn đề mà một công ty khi muốn

tiến hành tạo lập thị trường trái phiếu cần phân tích và lập kế hoạch chi tiết.

Từ vấn đề trên, có thể thấy khả năng nắm bắt thông tin thị trường, khả năng phân

tích nhu cầu thị trường là cơ sở đảm bảo cho một nhà tạo lập thị trường thành

công. Nắm bắt và phân tích tốt tình hình thị trường, mô hình hóa bài toán “lưu

kho”, ước lượng nhu cầu tài chính cần thiết theo đặc tính thị trường là hai bài toán

mà công ty chứng khoán buộc phải giải quyết trước khi muốn thực hiện hoạt động

tạo lập thị trường. Hai bài toán này trên thực tế có thể coi là một. Với bài toán “lưu

kho”, vấn đề cần giải quyết không chỉ dừng lại ở việc tính toán với một loại trái

phiếu bất kỳ trong kho khi muôn tiến hành giao dịch loại trái phiếu đó, “kho” của

một nhà nhà tạo lập thị trường bao gồm rất nhiều loại trái phiếu nói riêng và nhiều

loại công cụ tài chính noi chung. Tối ưu với loại trái phiếu đó không chắc sẽ đảm

bảo tối ưu cho toàn kho – lúc này có thể coi “kho” là một danh mục đầu tư, các

công cụ tài chính đều có những tương quan về rủi ro và lợi nhuận, tiến hành thành

công giao dịch đối với loại trái phiếu này nhưng gây ảnh hưởng đến toàn bộ cấu

trúc của “kho” rõ ràng chưa chắc đã là một quyết định đúng. Với những nhà tạo

lập thị trường có tổ chức lớn, thường có nhiều đơn vị nhỏ chịu trách nhiệm tạo lập

thị trường với các loại trái phiếu khác nhau. Trong trường hợp đó, khả năng đảm

bảo được tính tối ưu của danh mục sẽ khó hơn. Điều này sẽ dễ dàng hơn với

những công ty và thị trường có qui mô nhỏ. Khá nhiều nghiên cứu về vấn đề này

đã được thực hiện, chẳng hạn như Ho, T.và Stoll, H (Journal of Finance - 1983) ;

Froot K.và Stein, J. (Journal of Financial Economics - 1998) và nghiên cứu của

Narayan Y. Naik và Pradeep K. Yadav đối với sàn giao dịch chứng khoán London

(2002). Kết quả của mỗi nghiên cứu là khác nhau, tuy nhiên điểm cơ bản làm cho

các kết quả này khác nhau là đối tượng nghiên cứu: môi loại hình nhà tạo lập thị

trường sẽ có những phương án khác nhau để giải quyết bài toán. Vấn đề vẫn là lựa

chọn mô hình nhà tạo lập thị trường thích hợp.

Khi muốn đăng ký làm chức năng tạo lập thị trường, ngoài việc chứng minh khả

năng tài chính, công ty chứng khoán còn phải chứng minh về nhân sự thực hiện và

khả năng tiến hành. Đây là vấn đề liên quan đến kĩ thuật hoạt động. Hoạt động để

tiến hành chức năng tạo lập thị trường bao gồm nhiều hoạt động khác nhau như đã

phân tích ở trên. Công ty chứng khoán khi thực hiện chức năng tạo lập thị trường

sẽ phải phối hợp các hoạt động hiện có tại công ty. Để có thể tham gia vào giao

dịch với vai trò đối tác với nhà đầu tư, công ty cần phát huy các bộ phận phân tích,

đưa vào hoạt động tự doanh, quản lý danh mục đầu tư. Để có thể mở rộng phạm vi

khách hàng, công ty cần phối hợp tốt các bộ phận môi giới và tư vấn.

Kĩ thuật hoạt động tốt không chỉ thể hiện ở việc thực hiện tốt các hoạt động hiện

có tại công ty mà còn thể hiện ở các công cụ phòng vệ. Đặc tính của công việc tạo

lập thị trường là vừa phải phân tích ước lượng, dự báo tình hình thị trường, đưa ra

các điều chỉnh về phương pháp và chiến lược, đồng thời phải tiến hành áp dụng

các công cụ phòng vệ. Các công cụ phòng vệ có chức năng giúp nhà tạo lập thị

trường phòng ngừa các rủi ro có thể xảy ra. Các công cụ phòng vệ bao gồm cả các

dạng hợp đồng phái sinh, các sản phẩm tài chính, kĩ thuật ứng dụng trong kinh

doanh chứng khoán nói riêng và trái phiếu nói chung. Việc áp dụng các công cụ

này có hai chức năng là (i) đáp ứng tốt hơn với nhu cầu khách hàng thông qua các

kĩ thuật xử lý với kỳ hạn và lãi suất của các loại trái phiếu, các kĩ thuật này giúp

tăng tính thanh khoản đối với trái phiếu; và (ii) phòng ngừa rủi ro, ứng dụng điển

hình là các hợp đồng kỳ hạn và quyền chọn đối với trái phiếu.

Những yếu tố bên ngoài-khách quan.

Bên cạnh điều chỉnh các yếu tố nội tại, nhà tạo lập thị trường cũng đối mặt với rất

nhiều tác động khách quan. Những tác động này có thể được phân thành hai loại

cụ thể là các yếu tố vĩ mô và các yếu tố vi mô.

Những yếu tố vĩ mô

Các yếu tố vĩ mô có thể gây tác động với một nhà tạo lập thị trường bao gồm

những vấn đề liên quan đến tình hình thế giới, các thị trường chứng khoán trong

khu vực; tình hình kinh tế trong nước; mô hình thị trường; quy định pháp luật: hạn

chế đối tượng tham gia, yêu cầu về vốn, nhân sự,...; các ưu đãi và rủi ro: đặc biệt

là rủi ro lãi suất và rủi ro thông tin không cân xứng.

Thị trường chứng khoán là một bộ phận cấu thành quan trọng của thị trường tài

chính, là kênh huy động vốn lớn của nền kinh tế. Thông qua thị trường chứng

khoán, vốn được tích tụ, tập trung và phân phối hiệu quả. Rõ ràng, thị trường

chứng khoán có những tác động rất lớn đến toàn nền kinh tế. Điều này có nghĩa là

nó cũng sẽ chịu những ảnh hưởng từ thị trường chứng khoán thế giới và khu vực.

Tác động này sẽ còn rất mạnh nếu như có những chứng khoán được niêm yết tại

nhiều quốc gia. Trong chuỗi các mắt xích này có cả những tổ chức hoạt động trên

thị trường chứng khoán. Một nhà tạo lập thị trường, xét trên một khía cạnh nào đó

là một tổ chức chịu trách nhiệm với tình hình thị trường, những phản ứng và điều

chỉnh của nhà tạo lập thị trường đối với các tác động này không chỉ có ý nghĩa với

bản thân nó mà còn có ý nghĩa với toàn thị trường. Biến động về tỉ giá có thể tăng

lợi nhuận hoặc cũng có thể đe doạ đến những trái phiếu phát hành bằng ngoại tệ

mà nhà tạo lập thị trường đang nắm giữ, biến động về một loại hàng hoá bất kỳ

trên thị trường thế giới, chẳng hạn như giá dầu, chắc chắn sẽ có tác động tới giá

trái phiếu mà các tập đoàn dầu khí lớn phát hành…

Tồn tại như một cột trụ trong nền kinh tế, thị trường chứng khoán ở những nước

phát triển luôn chiếm tỉ trọng rất lớn trong đóng góp vào GDP, hơn thế nữa còn là

động lực thúc đẩy nền kinh tế. Tác động này không phải là tác động một chiều mà

là tương tác hai chiều. Nền kinh tế cũng có những ảnh hưởng không nhỏ đến thị

trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng. Đặc tính của trái

phiếu là những công cụ tài chính trung và dài hạn, chịu tác động của biến động lãi

suất trên thị trường. Những thông tin trên thị trường có thể làm thay đổi lãi suất thị

trường hoặc ảnh hưởng đến tính ổn định trong nền kinh tế sẽ đồng thời gây ảnh

hưởng rất lớn đến các loại trái phiếu, phản ánh vào rủi ro vỡ nợ và rủi ro cấu trúc

thời gian (kỳ hạn). Phản ứng trước những tác động này một cách nhanh nhạy và có

chuẩn bị sẽ đảm bảo cho nhà tạo lập thị trường hoạt động hiệu quả.

Như trong phần trên đã trình bày, với mỗi hình thức tổ chức thị trường khác nhau

sẽ có những hình thức hoạt động tương ứng của nhà tạo lập thị trường, theo đó là

các quyền lợi và nghĩa vụ nhất định. Đây là những điều được thể hiện trong luật

pháp và nhà tạo lập thị trường phải tuân theo. Đối với những thị trường chưa từng

có sự tồn tại chính thức của nhà tạo lập thị trường, việc hợp thức hóa vai trò nhà

tạo lập thị trường hoàn tòan không đơn giản. Công việc ấy bao gồm cả lựa chọn

một mô hình, cơ chế hoạt động phù hợp, xây dựng khung pháp lý qui định các tiêu

chí hoạt động, các yêu cầu và thước đo đối với hoạt động của nhà tạo lập thị

trường. Việc lựa chọn một mô hình tạo lập thị trường phù hợp không chỉ là tìm và

chọn hay xây dựng mới mà bao gồm cả việc điều chỉnh bản thân thị trường hiện

tại thành mô hình thích ứng với sự tồn tại của nhà tạo lập thị trường, do đó mỗi

công ty chứng khoán khi có chiến lược trở thành một nhà tạo lập thị trường cần

đánh giá và dự kiến những khả năng có thể xảy ra với cấu trúc thị trường, một mặt

để điều chỉnh các hoạt động hiện đang tiến hành cho phù hợp, mặt khác để có

chiến lược phù hợp mục tiêu.

Luật định trên thị trường chứng khoán luôn là cơ sở cho mọi hoạt động diễn ra

trên thị trường. Đặc biệt với hoạt động tạo lập thị trường là hoạt động có đặc tính

điều phối có thể dẫn đến thao túng thị trường do đó các điều luật qui định thường

rất chặt chẽ, một mặt đảm bảo hiệu quả hoạt động, một mặt đảm bảo tránh được

các hoạt động tiêu cực. Do đó, các điều luật một mặt hỗ trợ cho hoạt động của các

nhà tạo lập thị trường, nhưng mặt khác cũng sẽ gây ra những cản trở nhất định đối

với hoạt động tạo lập thị trường.

Yếu tố ảnh hưởng rõ nhất và trực tiếp đến hoạt động của

nhà tạo lập thị trường là các rủi ro, đặc biệt là rủi ro về

thông tin không cân xứng, rủi ro lãi suất. Như ở trên đã

trình bày, lợi nhuận mà nhà tạo lập thị trường thu được

chủ yếu từ khoảng chênh lệch giá mua-bán mà nhà tạo

lập thị trường yết lên, khoảng chênh lệch này chịu tác

động của ba yếu tố, hai trong số đó là rủi ro lựa chọn đối

nghịch, rủi ro cầm giữ chứng khoán - rủi ro lãi suất. Với

những thị trường như NASDAQ, nhà tạo lập thị trường

tuy có quyền truy cập vào những nguồn thông tin tốt hơn

so với các nhà đầu tư công chúng nhưng điều đó không đảm bảo cho nhà tạo lập

thị trường có những thông tin hoàn toàn vượt trội. Thông tin mà nhà tạo lập thị

trường trên NASDAQ tiếp cận được thường chỉ là những thông tin chi tiết hơn về

các đối tượng tham gia yết giá trên thị trường. Khi nhà tạo lập thị trường tiến hành

giao dịch với những nhà đầu tư nắm thông tin nội gián, hầu như không thể phân

biệt đâu là người có thông tin nội gián và ai không có. Tiến hành giao dịch với

những nhà đầu tư có thông tin nội gián, nhà tạo lập thị trường khó có thể kiếm lời,

hay thậm chí có thể bị lỗ. Mỗi phiến giao dịch phải tiếp cận với số lượng rất lớn

nhà đầu tư do đó rủi ro này có tác động không nhỏ tới nhà tạo lập thị trường. Mặt

khác để tiến hành giao dịch, nhà tạo lập thị trường luôn cần cân nhắc khối lượng

chào mua, chào bán. Khi xác định khối lượng chứng khoán yết lên, điều này có

nghĩa là nhà tạo lập thị trường sẽ phải đảm bảo khả năng tiến hành giao dịch với

khối lượng chứng khoán đã yết. Trong đa số các trường hợp, nhà tạo lập thị trường

sẽ phải đối mặt với việc nắm giữ chứng khoán trong kho của mình và đối mặt với

những rủi ro có thể xảy ra đối với loại chứng khoán đó.

Những yếu tố vi mô

Có hai tác nhận vi mô có thể gây tác động đến hoạt động của nhà tạo lập thị

trường là:

 Cạnh tranh giữa các nhà tạo lập thị trường và từ phía các tổ chức tài chính-

ngân hàng khác.

 Ảnh hưởng từ phía khách hàng.

Các công ty chứng khoán khác, các tổ chức tài chính ngân hàng khi đáp ứng đủ

các yêu cầu trong luật khi đề xuất đều có thể được cho phép làm chức năng tạo

lập thị trường. Áp lực cạnh tranh, đặc biệt với những thị trưòng được tổ chức theo

mô hình NASDAQ, là rất lớn. Các nhà tạo lập thị trường phải luôn phân tích để có

các quyết định hợp lý về qui mô, về các mức giá chào mua, chào bán. Cạnh tranh

càng mạnh thì giá yết sẽ cáng phải bám sát với giá thị trường và lợi nhuận do đó

cũng sẽ giảm xuống. Tuy nhiên đối với những thị trường tổ chức theo mô hình của

NYSE, nơi mà mỗi chuyên gia đều chịu trách nhiệm hoàn toàn với mộ loại chứng

khoán nhất định thì áp lưc cạnh tranh hầu như không có. Nhà tạo lập thị trường chỉ

chịu duy nhất tác động của các luật lệ yêu cầu phải tạo ra những điều kiện tốt nhất

cho nhà dt tham gia trên thị trường.

Khách hàng cũng là một yếu tố tác động đến hoạt động tạo lập thị trường. Khách

hàng luôn muốn tìm đến những mức giá tốt nhất với mức rủi ro mà theo họ là thấp

nhất, điều này càng làm gia tăng áp lực lên các tổ chức này.

Kinh nghiệm thế giới trong tổ chức hoạt động tạo lập thị trường

Trong bảng dưới ta có 30 thị trường chứng khoán ở 29 nước (cột 1). Trong đó bao

gồm 20 nước phát triển ở Bắc Mỹ, Châu Âu và Châu Á, và 10 nước đang phát

triển, hầu hết là các nước ở Châu Âu. Trong bảng có thể hiện hệ thống giao dịch

được áp dụng ở mỗi nước và cho thấy ở thị trường chứng khoán đó có sự tồn tại

của nhà tạo lập thị trường hay không, số lượng nhà tạo lập thị trường trung bình

đối với mỗi loại chứng khoán. Trong bảng bảng 1 có thể thấy hầu hết các thị

trường đều có tồn tại hình thức nhà tạo lập thị trường. Sở Giao dịch Chứng khoán

Tokyo là nơi duy nhất vẫn sử dụng duy nhất hệ thống ghi sổ và không có sự hiện

diện của con người tham gia với vai trò trung gian.

Bảng này cũng cho ta thấy có 4 hình thức cơ bản của thị trường tài chính, với bốn

hình thức thị trường này đều có 4 thị trường cụ thể đặc trưng. (MM viết tắt cho tạo

lập thị trường)

Nước Tên Hình thức sàn Số lượng nhà tạo lập thị trường

Châu Mỹ

Mỹ NYSE Sàn cổ điển đấu 1

lệnh

Mỹ NASDAQ Sàn điện tử đấu Ít nhất 1 (Tối đa là 3 với chứng

giá (NASDAQ) khoán mới niêm yết)

Canada Sàn GD Sàn điện tử đấu 1

Toronto lệnh

Châu Âu

Anh Sàn GD Sàn điện tử đấu Ít nhất 1

London giá (SEAQ) Không có

và Sàn

điện tử đấu lệnh

(SETS)

Đức Deutsche Sàn cổ điển đấu 1

Borse lệnh và Sàn 1 hoặc nhiều

điện tử đấu giá

(XETRA)

Pháp Euronext Paris Sàn điện tử đấu 1 hoặc nhiều

lệnh (NSC)

Hà Lan Euronext Sàn điện tử đấu 1 hoặc nhiều

Amsterdam lệnh (NSC)

Bỉ Euronext Sàn điện tử đấu 1 hoặc nhiều

Brussels lệnh (NSC)

Bồ Đào Nha Euronext Sàn điện tử đấu 1 hoặc nhiều

Lisbon lệnh (NSC)

Tây Ban Nha Sàn GD Sàn điện tử đấu 1 hoặc nhiều

Maldrid lệnh (SIBE)

Ý Sàn GD Ý Sàn điện tử đấu Tối đa là 1

lệnh (MTA)

Hi Lạp Sàn GD Sàn điện tử đấu 1 hoặc nhiều MM riêng cho trái

Athens lệnh (OASIS) phiếu

Đan Mạch Sàn GD Sàn điện tử đấu 1 hoặc nhiều

Copenhagen lệnh

Áo Wiener Borse Sàn điện tử đấu 1

lệnh

Phần Lan Sàn GD Sàn điện tử đấu Tối đa là 1

Hensilki lệnh

Na Uy Sàn GD Oslo Sàn điện tử đấu 1 hoặc nhiều

lệnh

Thuỵ Sĩ Sàn GD Thuỵ Sàn điện tử đấu 1 hoặc nhiều

Sĩ lệnh

Ai Len Sàn GD Ailen Sàn điện tử đấu 1 hoặc nhiều MM cho trái phiếu

lệnh

Châu Á

Nhật Bản Sàn GD Tokyo Sàn điện tử đấu không có

lệnh

Israel Sàn GD Tel- Sàn điện tử đấu không có

Aviv lệnh

Thị trường

mới nổi (Gia

nhập khối

Châu Âu)

Ba Lan Sàn GD Sàn điện tử đấu ít nhất 1

Warsaw lệnh

Czech Sàn GD Sàn điện tử đấu ít nhất 1

Prague lệnh

Slovakia Sàn GD Sàn điện tử đấu không có

Ljubjana lệnh

Malta Sàn GD Malta Sàn điện tử đấu không có

lệnh

Estonia Sàn GD Sàn điện tử đấu Tối đa là 1

Estonia lệnh

Cyprus Sàn GD Sàn điện tử đấu không có

Cyprus lệnh

Thị trường

mới nổi

Ai Cập Sàn GD Cairo Sàn điện tử đấu MM riêng cho trái phiếu

lệnh

Thổ Nhĩ Kì Sàn GD Sàn điện tử đấu MM riêng cho chứng khoán phái

Istanbul lệnh sinh

Hông Kông Sàn GD Sàn điện tử đấu MM riêng cho chứng khoán phái

Hongkong lệnh sinh

Ấn Độ Sàn GD Sàn điện tử đấu không có

Bombay lệnh