Nhà tạo lập thị trường P.2
Để nghiên cứu tiếp về nhà tạo lập thị trường, trước tiên ta phải đặt câu hỏi: Vì sao
một tổ chức lại chấp nhận làm nhà tạo lập thị trường?
Ta sđi tìm hiểu "lợi ích đối với tổ chức thực hiện vai trò nhà to lập thị
trường"
Lợi ích đối với tổ chức làm chức năng tạo lập thị trường có thể
được chỉ ra trên hai khía cạnh chính, đó là lợi ích thu được
trực tiếp từ việc tiến hành các giao dịch trên thị trường và lợi
ích do là một nhà tạo lập thị trường thu được từ những hỗ trợ
của nhà nước (được qui định trong các điều luật về hoạt động
của nhà nhà tạo lập thị trường), chẳng hạn như những ưu đãi
trong cho vay vốn, ưu đãi về khả năng tiếp cận thông tin, các
quyền của nhà tạo lập thị trường liên quan đến điều chỉnh thị
trường, ở trên mt khía cạnh nào đó mang tính chất thao túng
thị trường”.
Đối với lợi ích thu được trực tiếp từ các giao dịch. Lợi ích này phn ánh rõ ràng
doanh thu mà nhà tạo lập thị trường nhận được. Như đã trình bày bài trước, nhà
tạo lập thị trường sẽ tiến hành giao dịch với khách hàng, đóng vai trò đối ứng hoặc
tìm một lệnh đối ứng. Khi trực tiếp giao dịch, khoản lợi mà một nhà tạo lập thị
trường nhận được chính là khoảng chênh lệch giữa mức giá chào mua và chào bán.
Độ lớn của khoảng chênh lch thường chịu ảnh hưởng bởi ba yếu tố: chi phí của
lựa chọn đối nghịch, chi phí lưu kho (lưu giữ chứng khoán) và chi phí thực hiện
giao dịch. Ta sphân tích cụ thể ba yếu tố này trong phần sau.
Khi tìm lệnh đối ứng cho giao dịch, nhà tạo lập thị trường sẽ đóng vai trò môi giới
và nhận hoa hồng từ giao dịch. Số lượng giao dịch mà nhà tạo lập thị trường thực
hiện càng lớn, khả năng tạo chênh lệch càng cao thì lợi nhuận của nhà tạo lập thị
trường sẽ càng lớn. Tất nhiên, thực hiện được điều này hoàn toàn không d dàng
do những áp lực cạnh tranh cũng như áp lực lựa chọn từ phía khách hàng.
Lợi ích từ những ưu đãi và hỗ trợ của nhà nước thường xuất phát từ những ưu tiên
đối với một tổ chức làm chức năng tạo lập thị trường. Năng lực về vốn của các tổ
chức khi tham gia thị trường luôn là một hạn chế, đặc biệt đối với thị trường trái
phiếu. Các nhà tạo lập thị trường luôn có nhu cầu huy động vốn để đáp ứng cho
các giao dịch, nhu cầu vốn thường tuỳ thuộc vào khối lượng giao dịch trung bình
thị trường, thời gian thì lại thường là ngắn hạn do bản chất giao dịch thường
xuyên, tuy nhiên lại cần có những đảm bảo chắc chắn về khả năng có thể vay vốn.
Đây là những tiêu chí rất khó đối với một tổ chức thông thường. Tuy nhiên với
một nhà tạo lập thị trường, nhà nước thường có các ưu đãi về nguồn huy động, về
lãi suất đây rõ ràng là một lợi thế rất lớn đối với các nhà tạo lập thị trường. Bên
cạnh đó, chứng khoán nói riêng và các tài sản tài chính nói chung đều có đặc tính
rủi ro cao, thông tin do đó là yếu tố hàng đầu đảm bảo cho yêu cầu giảm thiểu rủi
ro.
Với một số hình thức tổ chức như hình thức
chuyên gia trên sàn NYSE, chuyên gia được
quyền tiếp cận với những thông tin về toàn bộ tình
hình cung cầu trên thtrường, về các chủ sở hữu
đang nắm giữ chứng khoán. Do đó, khả năng dự
báo tình hình thtrường của các chuyên gia này
rất cao. Đối với các nhà tạo lập thị trường tại NASDAQ, họ cũng có quyền truy
cập vào những hệ thống tin riêng hạn chế trong phạm vi nhất định. Những nguồn
thông tin này cho phép nhà tạo lập thị trường có thể dự báo tốt nhất tình hình th
trường, từ đó có những phương án điều chỉnh giá, khối lượng các chào mua, chào
bán, điều chỉnh lượng chứng khoán “trong kho”, ước lượng vốn cần thiết, … Đây
rõ ràng là những lợi thế rất lớn khi tham gia vào giao dịch trên thị trường.
Tuy có thể phân tích nhiều lợi ích khác nhau đối với một tổ chức đóng vai trò một
nhà tạo lập thị trường, rõ ràng lợi ích chung nhất và ln nhất bao hàm các lợi ích
khác là quyền-khả năng truy cập vào những nguồn thông tin mà không phải bất kỳ
thành viên nào tham gia trên thị trường cũng có thể tiếp cận được. Có được thông
tin, mỗi nhà tạo lập thị trường sẽ biết cách sử dụng tốt nhất để tối đa hoá lợi ích
của mình.
Những yếu tố nào nh hưởng đến hoạt động tạo lập thị trường của công ty
chứng khoán.
Do dặc tính ngành kinh doanh chứng khoán, hoạt động của công ty chứng khoán
luôn chịu ảnh hưởng từ các điều kiện kinh tế tài chính bên ngoài Đồng thời do
phải phản ứng với những biến đổi môi trường nên bản thân mỗi công ty cũng luôn
cần điều chỉnh. Như thế, công ty luôn đối mặt với những vấn đề khách quan cũng
như chủ quan khi thực hiện các hoạt động của mình. Ta thử phân tích với một
công ty chứng khoán làm chức năng tạo lập thị trường cho trái phiếu.
Những yếu tố nội tại-chủ quan
Đối với hoạt động tạo lập thị trường trái phiếu,một số
vấn đề chủ quan mà một công ty khi muốn thực hiện nghiệp
cụ sẽ phải đối mặt, đó là những vấn đề về khả năng tài
chính, khả năng nắm bắt thông tin thị trường, khả năng phân
tích nhu cầu thị trường, kĩ thuật hoạt động và vấn đề về các công cụ phòng vệ.
Khả năng tài chính luôn là yếu tố hàng đầu khi một công ty chứng khoán muốn trở
thành một nhà tạo lập thị trường cho trái phiếu. Hỗ trợ từ phía nhà nước chỉ đảm
bảo được một phần hoạt động về sau, công ty khi muốn bắt đầu thực hiện hoạt
động này luôn sẽ phải chứng minh về khả năng tài chính của mình. Do đặc tính
trái phiếu, giá trcủa mỗi lần giao dịch thường rất lớn, khả năng tài chính mạnh sẽ
tạo cho công ty một cơ sở chắc chắn để tham gia.
Xét về khía cạnh luật pháp, mỗi thị trường có tồn tại hình thức nhà tạo lập thị
trường đều có những qui định rất rõ ràng về yêu cầu tài chính đối với mỗi công ty
khi muốn đăng ký làm nhà tạo lập thị trường. Việc đáp ứng các điều kiện ban đầu
mới chỉ là điều kiện cần, điều kiện đủ công ty khi đã được chấp nhận là một nhà
tạo lập thị trường thì phải luôn đảm bảo những tiêu chí nhất định được qui định
trong luật pháp. Điều này rất quan trọng. Rủi ro được nói đến ở đây là rủi ro vỡ nợ
(default risk). Rủi ro vỡ nợ có thể hiểu trên hai phương diện. Nếu như tổ chức phát
hành trái phiếu vỡ nợ, nhà tạo lập thị trường đối với trái phiếu đó không chỉ chịu
tác động trực tiếp đến số trái phiếu còn nằm “trong kho” của mình mà còn phải
chịu trách nhiệm với những trái phiếu đã bán cho khách hàng và những trái phiếu
đã mua vào trong danh mục đầu tư mà khách hàng nhờ quản lý. Rõ ràng trong
những tình huống như thế, khả năng tài chính tốt hoặc có một chỗ dựa tài chính
vững chắc là rất cần thiết.
Khía cạnh thứ hai liên quan trực tiếp đến hoạt động của nhà tạo lập thị trường. Bản
thân nhà tạo lập thị trường khi muốn tiến hành họat động tạo lập thị trường trái
phiếu sẽ luôn phải đi vay vốn để tiến hành giao dịch. Tuy việc vay vốn này nhận
được sự ưu tiên với những hoạt động mang tính tạo lập thị trường, nhưng nếu như
công ty không giả quyết tốt bài toán “lưu kho”, không ước lượng và dự báo tốt nhu
cầu thị trường thì khả năng nó không thể thực hiện các giao dịch cần thiết để cân
bằng cán cân tài chính là rất cao và rủi ro vỡ nợ là không tránh khỏi. Tất nhiên,
các cơ quan quản lý thị trường luôn yêu cầu nhà tạo lập thị trường phải có một
khoản đặt cọc nhất định nhưng rõ ràng khoản đặc cọc này skhó có thể cứu vãn
nếu như công ty rơi vào tình trạng vỡ nợ. Đây là vấn đề mà một công ty khi muốn
tiến hành tạo lập thị trường trái phiếu cần phân tích và lập kế hoạch chi tiết.
Từ vấn đề trên,thể thấy khả năng nm bắt thông tin thị trường, khả năng phân
tích nhu cầu thị trường là cơ sở đảm bảo cho một nhà tạo lập thị trường thành
công. Nm bắt và phân tích tốt tình hình thị trường, mô hình hóa bài toán “lưu
kho”, ước lượng nhu cầu tài chính cần thiết theo đặc tính thtrườnghai bài toán
mà công ty chứng khoán buộc phải giải quyết trước khi muốn thực hiện hoạt động
tạo lập thị trường. Hai bài toán này trên thực tế có thể coi là một. Với bài toán “lưu
kho”, vấn đề cần giải quyết không chỉ dừng lại việc tính toán với một loại trái
phiếu bất kỳ trong kho khi muôn tiến hành giao dịch loại trái phiếu đó, “kho” của
một nhà nhà tạo lập thị trường bao gồm rất nhiều loại trái phiếu nói riêng và nhiều
loại công cụ tài chính noi chung. Tối ưu với loại trái phiếu đó không chắc sẽ đảm
bảo tối ưu cho toàn kho – lúc này có th coi “kho” là một danh mục đầu tư, các
công cụ tài chính đều có những tương quan về rủi ro và lợi nhuận, tiến hành thành
công giao dịch đối với loại trái phiếu này nhưng gây ảnh hưởng đến toàn bộ cấu
trúc của “kho” rõ ràng chưa chắc đã là một quyết định đúng. Với những nhà tạo
lập thị trường có tổ chức lớn, thường có nhiều đơn vị nhỏ chịu trách nhiệm tạo lập
thị trường với các loại trái phiếu khác nhau. Trong trường hợp đó, khả năng đảm
bảo được tính tối ưu của danh mục sẽ khó hơn. Điều này sẽ dễ dàng hơn với
những công ty và thị trường có qui mô nhỏ. Khá nhiều nghiên cứu về vấn đề này
đã được thực hiện, chẳng hạn như Ho, T.và Stoll, H (Journal of Finance - 1983) ;
Froot K.và Stein, J. (Journal of Financial Economics - 1998) và nghiên cứu của
Narayan Y. Naik và Pradeep K. Yadav đối với sàn giao dịch chứng khoán London
(2002). Kết quả của mỗi nghiên cứu là khác nhau, tuy nhiên điểm cơ bản làm cho
các kết quả này khác nhau là đối tượng nghiên cứu: môi loại hình nhà tạo lập thị