NHÂN LỰC THÔNG TIN-THƯ VIỆN TRONG XÃ HỘI THÔNG TIN VÀ XÃ HỘI TRI THỨC

TSKH. Nguyễn Thị Đông*

Thành quả của cuộc cách mạng công nghệ thông tin là sự hình thành xã hội thông tin và tiến tới xã hội tri thức. Trong đó, xã hội thông tin là nền tảng của xã hội tri thức, là phương tiện để xây dựng xã hội tri thức, là chìa khóa để tiến tới một xã hội tốt đẹp hơn.

Xã hội thông tin và xã hội tri thức là hai khái niệm có mối quan hệ bổ sung tương hỗ lẫn nhau. Trong đó, xã hội thông tin gắn liền với “các đổi mới công nghệ” và khái niệm Internet. Đó là một xã hội dựa trên những ứng dụng phổ biến của công nghệ thông tin và truyền thông mới, tức là công nghệ máy tính điện tử và kỹ thuật số, mà đỉnh cao là công nghệ Internet. Trong khi đó, xã hội tri thức gắn liền với sự đổi mới tổng thể các khía cạnh về xã hội, văn hóa, kinh tế, chính trị và pháp luật [8]. Như vậy, khái niệm xã hội tri thức phản ánh đầy đủ hơn tính phức tạp và linh hoạt của các thay đổi đã diễn ra.

Trên góc độ văn minh, xã hội thông tin và xã hội tri thức là hai khái niệm có điểm gặp nhau, vì thế có sự lẫn lộn trong cách hiểu. Nền kinh tế tạo ra các sản phẩm có hàm lượng thông tin cao được gọi là nền kinh tế tri thức. Trong khi đó, có nhiều người quan niệm xã hội thông tin đồng nghĩa với kinh tế tri thức và kinh tế tri thức lại đồng nghĩa với xã hội tri thức. Theo quan niệm của nhiều người, xã hội thông tin và xã hội tri thức cũng có thể được dùng thay thế cho nhau [2].

Tuy nhiên, nếu đứng từ góc độ chủ thể sáng tạo thì có thể dễ dàng phân biệt được rõ ràng hơn ý nghĩa của hai khái niệm này. Khi nói xã hội thông tin là xuất phát từ góc độ người phát. Còn khi nói xã hội tri thức là từ góc độ người nhận. Nếu đứng từ góc độ người phát thì thông tin mang nặng tính thương mại và thị trường hàng hóa. Còn đứng từ góc độ người nhận, thông tin mang nặng tính phục vụ cho mục đích sáng tạo của con người [2]. Trên quan điểm “tri thức phải là tài sản chung của loài người chứ không thể là hàng hóa trao đổi”, xã hội tri thức quan tâm hơn tới việc hiểu và sử dụng thông tin của người nhận hơn là cho mục đích thương mại. Vì thế xã hội tri thức mang ý nghĩa nhân quyền cao hơn, và vì thế ý nghĩa đạo đức nhân quyền của xã hội tri thức cũng cao hơn. Điều này phù hợp với mục tiêu phát triển bền vững của xã hội loài người, do vậy, việc chuyển sang xã hội tri thức là một xu hướng tất yếu và khoa học, phù hợp với sự tiến bộ xã hội của mọi quốc gia nói chung.

Theo quan điểm của Vụ các vấn đề kinh tế và xã hội của LHQ (DESA), bản chất của xã hội tri thức là sự phát triển tri thức, nghĩa là, việc tạo ra ý nghĩa mới, tạo ra giá trị gia tăng của thông tin thông qua việc xử lý một cách sáng tạo của con người đối với thông tin có sẵn, và được đo

* PGĐ Trung tâm Thông tin Khoa học Thống kê.

lường bằng khả năng ứng dụng hay tính hữu ích to lớn/hoặc mới mẻ của thông tin đã được xử lý so với thông tin có sẵn ban đầu. DESA cho rằng, một xã hội đạt tới trình độ tạo ra ý nghĩa mới (hay tri thức mới) trên qui mô sản xuất hàng loạt, và có khả năng áp dụng các tri thức mới đó trên qui mô hàng loạt thì mới được gọi là xã hội tri thức [4].

Vậy, giáo dục và đào tạo giữ vai trò gì trong quá trình chuyển từ xã hội thông tin sang xã hội tri thức? Giáo dục và đào tạo dù ở hình thái nào, truyền thống hay hiện đại, đều giữ vai trò vô cùng quan trọng cho quá trình hình thành một xã hội công minh. Hình thái giáo dục và đào tạo hiện đại đòi hỏi phải bổ sung thêm nguyên tắc “hình thành sự hiểu biết (tinh thông) nghề nghiệp” vào nguyên tắc truyền thống “hình thành kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp” cho học viên [8].

Sự tinh thông nghề nghiệp phản ánh mối quan hệ giữa kiến thức, kỹ năng và hành động của mỗi cá nhân. Sẽ không thể có sự tinh thông nghề nghiệp nếu thiếu kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm. Nhưng không phải mọi kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm trong bất kỳ tình huống nào đều là biểu hiện của sự hiểu biết. Theo ý kiến của các chuyên gia thuộc Uỷ ban Châu Âu về giáo dục và đào tạo, có 5 nhóm kiến thức cơ bản cần có của mọi công dân trong xã hội thông tin và xã hội tri thức như sau [12]:

- Nhóm kiến thức về chính trị và xã hội, đó là khả năng nhận về mình trách nhiệm, tham gia đóng góp vào các quyết định chung, giải quyết sung đột bằng con đường hòa bình và tăng cường thực hiện qui chế dân chủ.

- Nhóm kiến thức có liên quan tới cuộc sống trong xã hội đa dạng văn hóa. Giáo dục và đào tạo cần trang bị cho thanh niên các hiểu biết về các nền văn hóa khác nhau, cụ thể là các hiểu biết về đặc điểm các nền văn hóa, hành vi ứng xử tôn trọng lẫn nhau, cũng như khả năng sống với mọi người không có đồng văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo.

- Nhóm kiến thức có liên quan tới giao tiếp bằng lời và khả năng trình bày văn bản, trong đó, cần phải biết thêm tối thiểu một ngoại ngữ. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

- Nhóm kiến thức có liên quan tới xã hội thông tin, như biết cách sử dụng các công nghệ mới, biết ứng dụng chúng vào hoạt động của bản thân, hiểu được mặt mạnh và mặt yếu của chúng, cũng như khả năng phê phán trong đánh giá các kênh thông tin và quảng cáo.

- Khả năng không ngừng học tập và bồi dưỡng kiến thức trong suốt cuộc đời nghề nghiệp

cũng như trong đời sống cá nhân và xã hội của mình.

Như vậy, ngoài trang bị các kiến thức cơ bản nói trên, giải quyết vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo nói chung và nhân lực thông tin - thư viện nói riêng đòi hỏi phải lưu ý tới các yếu tố mang tính đặc trưng của hệ thống giáo dục và đào tạo hiện đại là:

• Phát triển xã hội thông tin và tiến tới xã hội tri thức; • Thay thế hình thái “học suốt đời” bằng “học trong suốt cuộc đời”

• Bổ sung nguyên tắc “hình thành sự hiểu biết (tinh thông) nghề nghiệp” vào nguyên tắc truyền thống “hình thành kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm nghề nghiệp” cho học viên.

Để khắc phục những hạn chế của xã hội thông tin, theo đề xuất của UNESCO, cần thiết lập một xã hội học hành, bảo tồn đa dạng tri thức trên nguyên tắc tối cao là đảm bảo quyền truy cập thông tin và tri thức cho tất cả mọi người. Theo quan điểm của UNESCO, tri thức phải là tài sản chung của toàn nhân loại và mọi người đều có quyền tự do tiếp cận tri thức. Do vậy, cần phải có sự dung hòa giữa bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ với việc thúc đẩy phổ biến rộng rãi tri thức trong cộng đồng. Ở đây Thư viện giữ một vai trò cực kỳ quan trọng - trung gian kết nối giữa người dùng với thông tin và tri thức trên cơ sở dung hòa quyền sở hữu trí tuệ trong phổ biến thông tin phục vụ mục tiêu tiến bộ xã hội. Hơn nữa, Thư viện là nơi lưu giữ khối lượng tri thức khổng lồ, chiếm 2/3 tri thức tích lũy được của nhân loại để truyền lại qua các thế hệ, đồng thời, cho đến nay Thư viện vẫn là một thể chế xã hội duy nhất phục vụ thông tin công cho mọi đối tượng người sử dụng .

Khẩu hiệu “Thư viện - trái tim của xã hội thông tin” do IFLA đưa ra [11] đã phản ánh chính xác sứ mệnh của Thư viện trong giải quyết một trong các vấn đề mang tính chiến lược của xã hội hiện đại, đó là đảm bảo quyền tự do truy cập thông tin và tri thức cho mọi công dân. Có thể nói, Thư viện là tấm gương phản chiếu rõ nét về mức độ tiến bộ xã hội của một quốc gia. Bởi vì, một xã hội không thể được coi là tiến bộ khi trong đó con người thiếu văn hóa, thiếu cơ sở thông tin và tri thức cho giáo dục và đào tạo. Vì thế, sự tụt hậu trong hiện đại hóa Thư viện là nguy cơ tụt hậu không chỉ của Thư viện hoặc thậm chí của nền văn hóa, mà còn của cả quốc gia nói chung. Do vậy, Thư viện phải trở thành một cấu thành hữu cơ không thể tách rời trong xây dựng cấu trúc hệ thống hạ tầng thông tin mới. Vấn đề hiện đại hóa hệ thống thư viện phải được giải quyết tổng thể và toàn diện bằng các chính sách quốc gia thống nhất trên phạm vi cả nước. Quan trọng hơn là, cần hiện đại hóa tư duy con người trong quá trình triển khai hiện đại hóa sự nghiệp Thư viện, cần phải hiểu khái niệm hiện đại hóa là quá trình đổi mới và hoàn thiện không ngừng các mắt xích cấu thành hệ thống, trong đó yếu tố con người luôn giữ vai trò quyết định trong giải quyết các vấn đề phức tạp nhất của hệ thống.

Trong thế kỷ 21, Thư viện đã trở thành trung tâm thông tin tư liệu lớn, trong đó tập trung vốn tư liệu khổng lồ ở dạng in giấy và điện tử, là cơ quan phục vụ tra cứu và đáp ứng cao nhất nhu cầu thông tin của xã hội. Ngoài ra, trong thời đại số, ngày càng gia tăng vai trò của Thư viện trong tổ chức đào tạo điện tử và Thư viện đã trở thành trung tâm nguồn lực thông tin phục vụ đắc lực cho quá trình hiện đại hóa sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

Vậy, với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện đại, Thư viện có bị thay thế

bởi Internet không?

Trước đây khuynh hướng sùng bái Internet đã khiến nhiều người cho rằng Internet có thể thay thế được cho Thư viện truyền thống. Gần đây khi thư viện số trở nên thịnh hành khắp nơi, lại

có quan điểm cho rằng Internet và thư viện số là một. Quan niệm này hoàn toàn không đúng, bởi vì, Internet thiếu hẳn những đặc tính quan trọng trong việc sưu tầm, tổ chức sắp xếp, lưu giữ và phục vụ thông tin. Trong khi đó, thư viện số ngày càng được hoàn thiện về tổ chức và công nghệ, hơn nữa, công nghệ xây dựng thư viện số về cơ bản được dựa trên nền tảng của thư viện truyền thống. Như vậy, thư viện số chỉ là sự hiện hình khác của thư viện truyền thống trong bối cảnh công nghệ thông tin hiện đại. Do vậy, có thể khẳng định chắc chắn rằng, Internet không thể là sự thay thế hoàn thiện cho Thư viện.

Với sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin, trong hoạt động của thư viện truyền thống và khoa học thông tin đã xuất hiện sự “can thiệp” của các cộng sự khác thuộc lĩnh vực công nghệ thông tin, phân tích hệ thống, dịch vụ tư vấn và thậm chí của cả các nhà kinh tế. Do ảnh hưởng của Internet, sự gia tăng nhu cầu tin và quản trị thông tin, cũng như sự thiếu hiểu biết của các cộng sự trên về ý nghĩa lý thuyết và thực hành của thư viện học và khoa học thông tin đã dẫn tới việc xem thường nghiệp vụ thông tin - thư viện. Vì thế, việc đào tạo nhân lực cho các thư viện hiện đại đòi hỏi phải có sự thay đổi cơ bản về quan điểm trong tổ chức và nội dung đào tạo.

Nếu chúng ta thực sự coi Thư viện là trái tim của xã hội thông tin và xã hội tri thức thì vấn đề đào tạo nguồn nhân lực thông tin - thư viện có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nhiệm vụ cơ bản nhất của giáo dục và đào tạo nghề thông tin - thư viện là làm sao để sinh viên có thể định hướng được một cách chuyên nghiệp trong khối công nghệ bao la, nắm bắt được các kỹ năng cần thiết để nghiên cứu phát triển các hướng ứng dụng công nghệ hiện đại vào thực tiễn hoạt động thông tin - thư viện. Trên góc độ này, việc thay đổi quan điểm trong đào tạo thông tin - thư viện không thể tách rời với các đổi thay có liên quan tới xã hội thông tin, xã hội tri thức, cũng như đặc điểm của hình thái giáo dục và đào tạo hiện đại.

Các yếu tố đặc trưng của xã hội thông tin và xã hội tri thức cần phải được tính đến trong đào tạo nguồn nhân lực cho bất kỳ lĩnh vực nào, đặc biệt là nguồn nhân lực thông tin - thư viện, vì đó là đội ngũ được trao sứ mệnh hiện thực hóa ý tưởng của xã hội thông tin và xã hội tri thức vào thực tiễn cuộc sống. Các đặc trưng cơ bản của xã hội thông tin và xã hội tri thức thể hiện ở các khía cạnh sau [8]:

- Thông tin và tri thức là sức mạnh chính để cải biến xã hội, nguồn lực thông tin là nguồn

lực chiến lược quan trọng của xã hội.

- Tin học hóa toàn cầu, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin-truyền thông là

cơ sở của nền kinh tế mới - nền kinh tế tri thức.

- Đặc tính mới mẻ, nhanh chóng, tăng tốc là những khía cạnh đặc trưng của cuộc sống hiện

đại.

- Vòng đời của công nghệ trong sản xuất cũng như trong xã hội chỉ còn 6-8 năm.

- Đào tạo không ngừng và khả năng chuyển nghề là phần không thể tách rời để duy trì vị

thế xã hội của mỗi cá nhân.

- Số phận của mỗi cá nhân phụ thuộc vào khả năng chiếm lĩnh, thu nhận kịp thời, lĩnh hội

thích hợp và sử dụng sáng tạo những thông tin mới.

Với các đặc trưng trên, do tác động của sự thay đổi nhanh chóng trên thị trường lao động và sự đa dạng nghề nghiệp đòi hỏi phải tăng cường quá trình đa cấp độ hóa trong đào tạo nghề. Bản chất của khái niệm “đa cấp độ hóa” thể hiện ở xu hướng nhiều cấp độ (trình độ) trong phát triển giáo dục và đào tạo. Đa cấp độ hóa trong đào tạo nhân lực thông tin - thư viện là xu hướng xã hội-sư phạm mới về chất trong cải cách đào tạo nguồn nhân lực ở lĩnh vực này, phản ánh quá trình nghề nghiệp hóa trong đào tạo mà bản chất của nó được thể hiện rõ nét ở nội dung đào tạo tiếp tục về thông tin - thư viện. Đa cấp độ hóa trong đào tạo nhân lực thông tin - thư viện là mệnh lệnh khách quan của thời đại và phù hợp với khuyến nghị của IFLA, theo đó “đào tạo thông tin - thư viện phải đáp ứng nhu cầu của từng nước về chính trị, kinh tế, xã hội, trình độ phát triển kỹ thuật và đặc điểm của các cơ sở đào tạo. Các cơ sở đào tạo cần thực hiện đào tạo thông tin - thư viện ở các trình độ cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ theo sự phân loại của INESCO” [7].

Đa cấp độ hóa trong đào tạo thông tin - thư viện được thể hiện ở các nội dung cơ bản sau: Thay đổi toàn diện và phát triển các hệ thống cơ cấu-chức năng, các hình thức đào tạo mới có nhiều cấp độ với thời gian đào tạo khác nhau đáp ứng nhu cầu luôn thay đổi của thị trường lao động; bên cạnh các cơ sở đào tạo công lập cần phát triển các loại hình đào tạo ngoài công lập, cũng như đa dạng hóa các dịch vụ đào tạo và bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ; phát triển danh mục các chuyên ngành theo kịp với nhu cầu của thị trường lao động; mở rộng các chương trình đào tạo theo hướng đáp ứng nhu cầu và đòi hỏi về giáo dục và đào tạo của xã hội. Thực tế đã chứng minh rằng, đa cấp độ hóa làm cho hệ thống đào tạo trở lên mềm dẻo và linh hoạt hơn, có thể đáp ứng cao hơn và đa dạng hơn nhu cầu về nhân lực của thị trường lao động.

Nghiên cứu tài liệu nước ngoài cho thấy, đa số các nước trong cộng đồng Châu Âu, trong đó có Liên bang Nga đã thực hiện đào tạo đại học thông tin - thư viện theo chuẩn hai giai đoạn: Cử nhân và thạc sỹ, cho phép học viên có thể linh hoạt lựa chọn chuyên ngành và có thể tiếp tục bồi dưỡng chuyên sâu trong tương lai về chuyên ngành đã chọn. Đồng thời cộng đồng Châu Âu cũng đã xây dựng chương trình đào tạo, trong đó kết hợp hai trình độ cử nhân và thạc sỹ vào khuôn khổ chương trình đào tạo đại học thông tin - thư viện [1]. Trong khi đó ở Việt Nam, bậc thạc sỹ được coi là trình độ sau đại học.

Với chuẩn đào tạo hai giai đoạn này trong đào tạo đại học thông tin - thư viện, nội dung đào tạo cử nhân tập trung vào truyền tải các kiến thức nền tảng về nghề nghiệp, còn nội dung đào tạo thạc sỹ gồm các kiến thức chuyên ngành cụ thể phụ thuộc vào vị trí công việc tương lai theo chuyên ngành đã chọn của học viên. Nội dung đào tạo thạc sỹ có thể được thực hiện theo hình thức truyền đạt cá nhân (thày và trò) với khối lượng lớn về kỹ năng thực hành có lưu ý tới các đặc tính của vị trí làm việc và triển vọng phát triển nghề nghiệp trong tương lai của học viên. Như vậy, trình độ cử nhân trong đào tạo

đại học thông tin - thư viện là nền tảng để sinh viên có thể linh hoạt thay đổi môn học, thay đổi trường đào tạo và thậm chí cả quốc gia cho học tiếp bậc thạc sỹ.

Đa cấp độ hóa trong đào tạo thông tin - thư viện ở Liên bang Nga được thể hiện ở mô hình đề xuất cơ cấu tổ chức đào tạo thông tin - thư viện trong tương lai [13]. Đặc điểm nổi bật của mô hình này là, thừa nhận quyền lựa chọn chuyên ngành của học viên sau khi kết thúc giai đoạn đào tạo nghề bắt buộc đối với tất cả sinh viên trong 3 năm đầu. Ở giai đoạn tiếp theo, sinh viên sẽ được phân bổ về các khoa (hoặc phân theo giáo viên bộ môn) để tiến hành đào tạo chuyên sâu trong 2 năm. Theo đó, ngoài các khóa học theo chuyên ngành đã chọn, học viên phải thực hiện chương trình thực tập bắt buộc phù hợp với chuyên ngành đã chọn của mình. Khi kết thúc hai giai đoạn đào tạo này (5 năm thay vì 4 năm như trước đây) học viên sẽ được nhận bằng cử nhân và có thể hoặc đi làm luôn theo chuyên ngành đã học, hoặc tiếp tục theo học thạc sỹ ngay, hoặc cũng có thể hoàn thiện chuyên ngành đã chọn ở bậc thạc sỹ sau vài năm làm việc tại các cơ quan thông tin - thư viện. Các cá nhân có bằng thông tin - thư viện, hoặc không có bằng thông tin - thư viện, cũng như các nhà quản lý trong lĩnh vực thông tin - thư viện ở các trình độ nghiệp vụ khác nhau đều có cơ hội được đào tạo phù hợp với khuôn khổ chung trong cơ cấu tổ chức đào tạo tiếp tục về thông tin - thư viện. Với mô hình đào tạo này, việc tiếp tục trau dồi các kỹ năng thực hành được thực hiện thông qua các khóa học bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ theo chuyên ngành đã chọn. Việc đào tạo tiếp tục về các kiến thức lý luận thông tin - thư viện có thể tiến hành thông qua đào tạo tiến sỹ và tiến sỹ khoa học về lĩnh vực này.

Quá trình hiện đại hóa và nâng cao vai trò xã hội của Thư viện trong bối cảnh xã hội thông tin và xã hội tri thức đòi hỏi phải hình thành các kỹ năng nghề nghiệp mới ở đội ngũ cán bộ thông tin - thư viện, đặc biệt là các kỹ năng có liên quan tới thu thập, xử lý, lưu trữ, tìm kiếm, khai thác và phổ biến thông tin. Tuy nhiên, vấn đề “dạy ai, dạy cái gì và dạy như thế nào” trong đào tạo thông tin - thư viện hiện nay vẫn chưa có lời giải thỏa đáng không chỉ ở Việt Nam mà còn trên thế giới.

Trong bối cảnh hiện nay, cần lưu ý tới vai trò và ý nghĩa của các môn học nền tảng, nắm vững công nghệ hiện đại và nắm bắt được các kỹ năng cho phép học viên nhanh chóng sử dụng thành thạo các chương trình, kỹ thuật mới. Trong đó, các môn học nền tảng như cơ sở thư viện học và thông tin học, khoa học máy tính, tâm lý học, kinh tế học, … giữ vai trò vô cùng quan trọng cho đào tạo nhân lực thông tin - thư viện. Cụ thể, tâm lý học cho phép xây dựng mối quan hệ phù hợp giữa cán bộ thông tin - thư viện và người dùng tin, cũng như đáp ứng các yêu cầu cụ thể về tâm lý trong quá trình tương tác giữa con người với máy tính, với thư viện điện tử. Môn học này đặc biệt quan trọng đối với những cán bộ có nhiệm vụ khai thác các sản phẩm chương trình phần mềm chuyên dụng cho thư viện. Môn kinh tế học cho phép học viên hiểu rõ các yếu tố tác động tới quá trình hình thành giá trong khai thác các nguồn thông tin trực tuyến, cũng như xác định được các khía cạnh quyết định sự tồn tại của thư viện trong điều kiện kinh tế thị trường. Việc

giảng dạy các môn học về công nghệ thông tin hiện đại giúp học viên nắm bắt được các kỹ năng cho phép phân tích và hiểu biết về các công nghệ mới trong xã hội. Các môn học này là một trong các nội dung quan trọng trong chương trình đào tạo thông tin - thư viện không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước khác trên thế giới, đặc biệt là trong bối cảnh đổi thay nhanh chóng của xã hội hiện đại. Trong thực tiễn hoạt động thông tin - thư viện trên thế giới hiện nay thường gặp các vị trí cán bộ thông tin - thư viện chuyên nghiệp sau: “Chuyên viên thư viện”, “Cán bộ quản trị mạng”, “Cán bộ thư viện cho hệ thống máy tính”, “Cán bộ phối hợp tìm kiếm thông tin”, “Chuyên gia Web”, “Chuyên gia công nghệ đa phương tiện”, “Chuyên gia mã hóa” [3].

Như vậy, việc gia tăng các yếu tố “công nghệ” trong nội dung đào tạo nhân lực thông tin - thư viện ở mọi trình độ khác nhau là một đòi hỏi khách quan và tất yếu. Nhưng, không thể cho rằng, càng tăng khối lượng các môn học này trong chương trình đào tạo thông tin - thư viện càng tốt. Cần phải suy nghĩ thấu đáo xem công nghệ có thể giúp cán bộ thông tin - thư viện như thế nào trong thực thi nghiệp vụ của họ. Theo ý kiến của nhà sư phạm, chuyên gia thư viện người Mỹ - White Herbert, “bản thân công nghệ không thay đổi mục đích công việc của cán bộ thư viện mà chỉ tạo điều kiện thuận lợi để họ hoàn thành nhiệm vụ đó tốt hơn” [5]. Do vậy, việc cân đối hài hòa giữa nội dung đào tạo về kỹ thuật và nhân văn trong chương trình đào tạo thông tin - thư viện là vấn đề có ý nghĩa quyết định chất lượng trình độ nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ ở lĩnh vực này. Ở đây cần lưu ý tới khía cạnh chuyên dụng của công nghệ thông tin trong hoạt động thông tin - thư viện. Điều này có nghĩa là, cần dạy các kiến thức và kỹ năng cơ bản của quá trình thu thập, xử lý, lưu giữ, tìm kiếm, khai thác và phổ biến thông tin trong bối cảnh công nghệ thông tin luôn thay đổi nhanh chóng, cũng như phương pháp đánh giá hệ thống thông tin và các dịch vụ của nó.

Dưới tác động của công nghệ Internet, trong thực tiễn hoạt động thông tin - thư viện đã có xu hướng hình thành các tập đoàn thông tin - thư viện (консорциум, côngxoocxiom). Trong đó, các nguồn lực thông tin chuyên ngành được liên kết lại với nhau theo lãnh thổ, theo bộ ngành, hoặc theo lĩnh vực khoa học. Trên cơ sở này đã nảy sinh vấn đề đào tạo và bồi dưỡng nhân lực thông tin - thư viện cho các thư viện - thành viên của các côngxoocxiom.

Trên thế giới, vấn đề này được giải quyết bằng hai cách: a) Nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ thông tin - thư viện đương chức thông qua các khóa học khác nhau; b) bổ sung các kiến thức và kỹ năng cần thiết cho sinh viên các trường đào tạo thông tin - thư viện [9]. Trên thực tế, phương án đầu thường hay gặp hơn, vì số lượng sinh viên ra trường đầu quân vào các cơ quan thông tin - thư viện ngày càng ít hơn. Với phương án này, các khóa đào tạo lại và đào tạo bồi dưỡng nghiệp vụ cho các cán bộ thông tin - thư viện đương chức được tiến hành tại các cơ sở đào tạo thông tin - thư viện, hoặc tại các trung tâm có chức năng bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, hoặc tại chỗ của cơ quan thông tin - thư viện thông qua sự hướng dẫn trực tiếp của các chuyên gia thuộc côngxoocxiom. Nội dung chương trình đào tạo được thực hiện song hành hợp lý giữa truyền tải kiến thức lý thuyết và tập huấn kỹ năng thực hành, tập trung vào các khía cạnh sau: Đặc điểm

thiết kế các côngxoocxiom thông tin - thư viện; hạ tầng cơ sở viễn thông; công nghệ cơ bản cho xây dựng trang web; đặc điểm của các chuẩn trình bày và trao đổi thông tin; tổ chức và phục vụ kỹ thuật cho hệ thống thông tin. Để các côngxoocxiom thông tin - thư viện hoạt động có hiệu quả trong tương lai, cần thiết phải quan tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cả đội ngũ cán bộ làm công tác bổ sung, xử lý thư mục và quản trị CSDL, cũng như cho các cán bộ thuộc bộ phận phục vụ thông tin.

Đối với cán bộ quản trị CSDL, cán bộ bổ sung và xử lý thư mục cần được bồi dưỡng các kiến thức về mục đích và nhiệm vụ xây dựng các nguồn thông tin dùng chung trong các côngxoocxiom; các bảng phân loại; công nghệ tìm kiếm và khai thác thông tin; các hình thức mới cho lưu thông tài liệu điện tử trong các côngxoocxiom; các nguyên tắc xây dựng và đưa thông tin tổng hợp lên mạng Internet; phân tích so sánh các khổ mẫu nhập và trao đổi dữ liệu giữa các thành viên trong côngxoocxiom; phương pháp đánh chỉ số tài liệu; tổ chức và công nghệ xử lý tài liệu trong các côngxoocxiom.

Để thực hiện đa cấp độ hóa trong đào tạo nhân lực thông tin - thư viện ở Việt Nam, trước hết, cần xây dựng khung chương trình chuẩn quốc gia cho đào tạo nghề ở các cấp độ khác nhau, phù hợp với chuẩn quốc tế trong đào tạo thông tin - thư viện. Các chuẩn quốc gia về đào tạo thông tin -thư viện được xem như các công cụ quan trọng nhất cho đánh giá chất lượng đào tạo nhân lực thông tin - thư viện. Xuất phát từ nguyên tắc kế tục, toàn diện và trọn vẹn của hệ thống đào tạo ở các cấp độ khác nhau, các chuẩn quốc gia cho đào tạo thông tin - thư viện là cơ sở quan trọng để xây dựng các nguyên tắc và phương pháp trắc nghiệm đào tạo, hình thành hệ thống các yêu cầu đối với đào tạo thông tin - thư viện ở từng trình độ cụ thể. Vì thế, việc xây dựng các tiêu chuẩn này phải gắn chặt với quá trình đổi mới nội dung đào tạo phù hợp với các thay đổi về chất của nền kinh tế và xã hội nước nhà; sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin hiện đại; quá trình toàn cầu hóa thông tin, sự hình thành xã hội thông tin và tiến tới xã hội tri thức; và thay đổi các yếu tố mang tính quyết định tới sự phát triển của hệ thống giáo dục và đào tạo quốc gia.

Việc xây dựng các tiêu chuẩn quốc gia cho đào tạo thông tin - thư viện phải được thực hiện trên nguyên tắc chiến lược tập thể nhằm phát huy sức mạnh tổng thể của đội ngũ các nhà khoa học thuộc các cơ sở đào tạo, các cơ quan thông tin - thư viện và Hội nghề nghiệp ở lĩnh vực này. Hoạt động này có thể thực hiện theo các phương thức cơ bản sau:

- Thông tin rộng rãi trên các phương tiện thông tin và truyền thông về việc chuẩn bị soạn

thảo khung chương trình chuẩn quốc gia về đào tạo thông tin - thư viện.

- Tổ chức các hội thảo, hội nghị khoa học ở các mức độ khác nhau: Khu vực, toàn quốc và quốc tế để thảo luận rộng rãi dự thảo khung chương trình chuẩn quốc gia cho đào tạo thông tin - thư viện. Bằng cách này sẽ thu hút được sự quan tâm và tham gia thảo luận giữa các cơ sở đào tạo với các cơ quan thông tin - thư viện trong nước và quốc tế, nhằm nâng cao chất lượng của các dự thảo khung chương trình chuẩn quốc gia, đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn hoạt động thông tin

- thư viện và của các nhà tuyển dụng, cũng như phù hợp với yêu cầu của Hội nghề nghiệp, đặt nền tảng cho sự liên kết đào tạo với nước ngoài có hệ thống đào tạo tương tự, đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi để tìm kiếm các dự án tài trợ nước ngoài cho phát triển sự nghiệp thông tin - thư viện nước nhà.

- Trên góc độ thảo luận quốc tế, cần tập trung chú trọng tới các vấn đề sau: Sự đồng bộ, có hệ thống và toàn vẹn theo quan điểm đào tạo tiếp tục về thông tin - thư viện phù hợp với ý tưởng “học trong suốt cuộc đời” để phát triển và hoàn thiện các chuẩn đào tạo thông tin - thư viện nước nhà.

Việc hiệu chỉnh các chuẩn đào tạo hiện hành và xây dựng các chuẩn mới đòi hỏi phải tăng cường công tác nghiên cứu khoa học một cách đồng bộ với sự tập trung sức mạnh tổng hợp của các nhà khoa học thuộc các cơ quan hữu quan. Phải coi công tác xây dựng các chuẩn đào tạo thông tin - thư viện là một trong các nhiệm vụ đặc biệt của khoa học thông tin - thư viện. Để hoàn thành nhiệm vụ này cần:

• Xác định rõ mục tiêu đào tạo thông tin - thư viện trong xã hội hội thông tin và tiến tới xã

hội tri thức

• Vạch ra các tiêu chí cụ thể để lựa chọn nội dung đào tạo thông tin - thư viện cho phù hợp

với thời đại

• Đưa ra các tiêu chí đánh giá mức độ sẵn sàng với hoạt động nghề nghiệp của sinh viên tốt

nghiệp.

Giải quyết thỏa đáng các vấn đề trên sẽ góp phần đảm bảo tính khoa học trong lựa chọn các tiêu chí để phân hóa nội dung đào tạo ở các cấp độ khác nhau trong hệ thống đào tạo (cử nhân, thạc sỹ, tiến sỹ); nhận định chính xác hơn các yêu cầu đòi hỏi đối với từng trình độ nghiệp vụ của sinh viên ra trường; đảm bảo tính trọn vẹn và thống nhất của hệ thống các chuẩn đào tạo thông tin - thư viện.

Vấn đề cơ bản ở đây là lựa chọn cơ chế hợp tác có hiệu quả giữa các cơ sở đào tạo, các cơ quan thông tin - thư viện và Hội nghề nghiệp trong soạn thảo và thực hiện các chuẩn quốc gia về đào tạo thông tin - thư viện. Có thể thực hiện cơ chế phối hợp hoạt động giữa các đơn vị bằng sự phân định rõ các chức năng và nhiệm vụ cụ thể của từng đơn vị như sau:

• Đối với các trường: Nghiên cứu một cách khoa học về các yêu cầu của xã hội đối với nhân lực thông tin - thư viện; xem xét các cơ sở khoa học để xây dựng nội dung các chương trình đào tạo; đảm bảo các yếu tố về phương pháp luận khoa học cho đào tạo nhân lực thông tin - thư viện.

• Đối với Hội thông tin - thư viện: Xác định quan điểm thống nhất, khái quát hóa và đưa ra các yêu cầu của xã hội về trình độ nghiệp vụ và chất lượng đào tạo thông tin - thư viện ở các cấp độ khác nhau; tổ chức thảo luận và thẩm định các chuẩn quốc gia về lĩnh vực này; đánh giá chất lượng giáo trình và tài liệu học tập về thông tin - thư viện do các trường

soạn thảo thông qua các hình thức đăng trên các tạp chí chuyên ngành hoặc thảo luận trong các kỳ họp thường niên của Hội; theo dõi chặt chẽ biến động của thị trường lao động đối với nhân lực thông tin - thư viện để đưa ra các dự báo kịp thời và chính xác làm căn cứ cho các cơ sở đào tạo điều chỉnh hoạt động đào tạo cho phù hợp; thực hiện chức năng giám sát việc thực hiện các chuẩn quốc gia về đào tạo thông tin - thư viện; là trung gian trong giải quyết mối quan hệ giữa đào tạo và sử dụng đội ngũ cán bộ thông tin - thư viện.

• Đối với các cơ quan thông tin - thư viện: Xác định và xây dựng các yêu cầu cụ thể về trình độ nghiệp vụ, phẩm chất nghề nghiệp đối với cán bộ thông tin - thư viện ở các vị trí công tác khác nhau, cũng như đối với chất lượng đào tạo thông tin - thư viện; tham gia tích cực vào việc đánh giá thẩm định các chuẩn đào tạo, chất lượng giáo trình và tài liệu học tập do các trường soạn thảo trên tư cách chuyên gia thực hành.

Để nâng cao chất lượng của việc xây dựng chuẩn quốc gia cho đào tạo thông tin - thư viện ở Việt Nam, cần tập trung giải quyết các vấn đề cơ bản sau: Xác định rõ phạm vi của từng trình độ đào tạo; đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa đào tạo đại học và đào tạo trung cấp nghề thông tin - thư viện; vạch rõ chức năng, nhiệm vụ của cán bộ thông tin - thư viện có trình độ đại học và trung cấp, cũng như sự tương hợp về trình độ đào tạo với các yêu cầu nghiệp vụ trong thực tế công tác; xác định rõ mục tiêu cuối cùng và nội dung đào tạo cho từng trình độ, đặc biệt là trình độ cử nhân và thạc sỹ; phân chia hợp lý danh mục các môn học bắt buộc và tự chọn, cũng như phân bố lại thời gian học cho phù hợp để tránh sự chồng chéo và xác định tối ưu thời lượng cho từng môn học. Vấn đề quan trọng là cần có sự phối hợp chặt chẽ và đảm bảo mối quan hệ khăng khít giữa các cơ sở đào tạo thông tin - thư viện với các cơ quan sử dụng nhân lực thông tin - thư viện, tạo điều kiện để các nhà khoa học-thực hành được tham gia giảng dạy và hướng dẫn nghiên cứu khoa học cho sinh viên. Điều này cho phép các cơ sở đào tạo thông tin - thư viện, một mặt, cập nhật được kịp thời các yêu cầu của thực tế hoạt động thông tin - thư viện để điều chỉnh và bổ sung vào lý luận khoa học thông tin - thư viện. Mặt khác, tạo điều kiện để đội ngũ giáo viên các cơ sở đào tạo thông tin - thư viện bồi dưỡng kiến thức thực hành mới cho điều chỉnh và bổ sung nội dung giảng dạy môn học của mình.

Thay lời kết luận có thể khẳng định, việc thực hiện tiêu chuẩn hóa hệ thống giáo dục và đào tạo hiện đại là xu thế chung của thế giới. Đó là cơ sở quan trọng nhất để đánh giá chất lượng đào tạo thông tin - thư viện, nhằm nâng cao chất lượng và đáp ứng yêu cầu của xã hội thông tin và xã hội tri thức. Việc xây dựng hệ thống các chuẩn đào tạo thông tin - thư viện là công việc mang tính tập thể nhằm kết nối và tận dụng sức mạnh tổng thể của các nhà khoa học-giảng viên thuộc các cơ sở đào tạo thông tin - thư viện, các nhà khoa học-thực hành thuộc các cơ quan thông tin - thư viện trên phạm vi cả nước và Hội nghề nghiệp. Vấn đề này đòi hỏi phải được tiến hành trên cơ

sở lâu dài chứ không phải là công việc trong chốc lát, đồng thời phải được thẩm định bắt buộc về chất lượng và giám sát chặt chẽ trong quá trình thực hiện.

TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Hanna D.E. Higher education in an era of digital competition: emerging organization models // // 1998.- Vol.2.- № of Asynchronous learning 1

networks.- Journal http://www.aln.org/alnweb/journal/vol.2_Issue/ hanna.htm.

2. Nguyễn Văn Dân. Tiến tới xã hội thông tin hay xã hội tri thức? // Thông tin và phát triển,

2008.- Số 8-9 (22-23).- Tr. 11-14. for 3. Seadle M. Education twenty-first century librarians // Library

Hi Tech.- Vol.22.- 2004.- P. 337-339.

4. Understanding Knowledge Societies / DESA.- UN, New York, May 2005.- 179 p. //

Http://www.unpan.org.- p.23 và 36.

5. White Herbert S. “Library computer: Tools or toys?” // Library journal.- 1998.- Nov. 123.-

Р. 40-41.

6. Адамьянц А.О. Новый взгляд на современные возможности обучения будущих библиотекарей: новые образовательные технологии кафедры информационных технологий и электронных библиотек МГУКИ // Библиотеки и ассоциации в меняющемся мире: новые технологии и новые формы сотрудничества: Материалы конф. - М.: ГПНТБ России, 2002. - Т. 1. - С. 312-314.

7. Акулич Ю.В. Новый вклад ИФЛА в концепцию библиотечно-информационного образования // Библиотечное дело 2001: Тез. докл. междунар. науч. конф.- Ч.2.- М., 2001.- С. 305-306.

8. Гендина Н.И. Взаимодействие вузов и профессиональной библиотечной библиотечно- повышения подготовки проблемы

качества ассоциации: информационных специалистов // http://ellib.gpntb.ru.

9. Линдеман Е.В. О подготовке библиотечных специалистов для участия в http://ellib.gpntb.ru/ библиотек //

деятельности корпоративной index.php?doc=Sborn&dir=1&art=14.

10. Линдеман Е.В. Создание и использование программы курсов повышения квалификации сотрудников библиотек, участвующих в корпоративных работах: опыт работ ЦБС "Люблино" // Информационные технологии, компьютерные системы и

издательская продукция для библиотек: Тез. докл. - М.: ГПНТБ России, 2003. - С. 151- 153.

11. Резолюция 69-й Генеральной конференции ИФЛА // http://www.ifla.org. 12. Рыжаков М.В. Ключевые компетенции в стандарте: возможности реализации // 1999.- образовании.- мониторинг и в

Стандарты С. 20-23.

13. Сукиасян Э.Р. Гипотетическая модель структуры библиотечного образования //

http://www.gpntb.ru/win/inter-events/crimea2008/disk/31.pdf.

14. Хан А.В. На пути к обществам знаний // Наука в информационном обществе.- СПб,

2004.- С. 22-26.