ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------------------- PHAN THÀNH TRUNG THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA THANH NIÊN KHU VỰC NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY (Qua nghiên cứu trường hợp thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương huyện Thanh Oai - Hà Nội) LUẬN VĂN THẠC SỸ Chuyên ngành Xã hội học Hà Nội - 2016

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ------------------------------------------------------- PHAN THÀNH TRUNG THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA THANH NIÊN KHU VỰC NGOẠI THÀNH HÀ NỘI HIỆN NAY (Qua nghiên cứu trường hợp thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương huyện Thanh Oai - Hà Nội) Luận văn thạc sỹ chuyên ngành xã hội học Mã sỗ: 60 31 03 01 Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS Hoàng Bá Thịnh Hà Nội - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây chính là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các

kết quả nêu trong luận văn là trung thực.

Các thông tin trích dẫn trong luận văn đều có nguồn gốc rõ ràng.

Hà Nội, tháng 8 năm 2016

Ngƣời cam đoan

Phan Thành Trung

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt quá trình thực hiện Luận văn tốt nghiệp với đề tài “Thực

trạng việc m của thanh niên khu vực ngoại thành Hà Nội hiện nay”

ua nghi n cứu trường hợp thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương,Huyện Thanh

Oai - Hà Nội), tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy giáo Giáo sư, Tiến

sỹ Hoàng Bá Thịnh - Người đã trực tiếp hướng dẫn và chỉ bảo tận tình trong

suốt quá trình nghiên cứu để tôi hoàn thành tốt Luận văn này.

Qua đây tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Xã hội

học, Trường Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội

đã giúp đỡ tôi trong quá trình học tập tại trường.

Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới Đảng ủy, chính quyền, các

đoàn thể và nhân dân tại xã Cao Dương, thị trấn Kim Bài - Huyện Thanh

Oai, Hà Nội đã tận tình hỗ trợ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu tại địa

phương.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất tới gia đình, người thân,

bạn bè và đồng nghiệp, những người đã luôn quan tâm, động viên và tạo

điều kiện tốt nhất cho tôi trong suốt thời gian qua.

Hà Nội, tháng 8 năm 2016

Ngƣời viết

Phan Thành Trung

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 5

1. Lý do chọn đề t i ......................................................................................... 5

2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................. 7

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................... 13

4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu ............................................. 14

5. Câu hỏi v giả thuyết nghiên cứu ............................................................ 14

6. Phƣơng pháp nghiên cứu .......................................................................... 15

7. Ý nghĩa ý uận v thực tiễn ..................................................................... 17

8. Khung phân tích ........................................................................................ 18

CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI ........... 19

1.1. Các khái niệm cơ bản ............................................................................. 19

1.1.1. Khái niệm về thanh ni n ........................................................................ 19

1.1.2. Khái niệm về lao động và việc làm ....................................................... 20

1.2. Lý thuyết áp dụng .................................................................................. 23

1.2.1. Lý thuyết mạng lưới xã hội .................................................................... 23

1.2.2. Lý thuyết nhu cầu .................................................................................. 24

1.3. Vài nét về tình hình ao động việc làm của thanh niên hiện nay ....... 26

1.4. Tiểu kết .................................................................................................... 28

1.5. Khái quát về địa b n nghiên cứu .......................................................... 28

1.5.1. Điều kiện tự nhi n, kinh tế và xã hội tại huyện Thanh Oai .................. 28

1.5.2. Thị trấn Kim Bài - Huyện Thanh Oai ................................................... 29

1.5.3. Xã Cao Dương - Huyện Thanh Oai ...................................................... 30

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA THANH NIÊN TẠI

THỊ TRẤN KIM BÀI VÀ XÃ CAO DƢƠNG - HUYỆN THANH OAI -

HÀ NỘI .......................................................................................................... 32

2.2.Đặc điểm nhân khẩu xã hội của thanh niên tại địa b n nghiên cứu ...... 32

2.2.1.Giới tính ................................................................................................. 32

1

2.2.2.Độ tuổi .................................................................................................... 33

2.2.3.Trình độ học vấn, chuy n môn kỹ thuật ................................................. 34

2.3.Cơ cấu nghề nghiệp việc m của thanh niên ....................................... 37

2.3.1. Nông nghiệp .......................................................................................... 38

2.3.2. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.................................................... 40

2.3.3.Dịch vụ ................................................................................................... 41

2.4. Thu nhập của thanh niên tại địa b n nghiên cứu ............................... 43

2.5. Nhu cầu việc m của thanh niên tại địa b n nghiên cứu ................. 48

2.5.1. Nhu cầu thông tin lao động việc làm của thanh ni n địa phương .............. 48

2.5.2. Nhu cầu định hướng, tư vấn nghề của thanh ni n địa phương ............ 50

2.5.3. Nhu cầu nâng cao chuyên môn, kỹ thuật .............................................. 52

CHƢƠNG III: MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC LÀM CỦA

THANH NIÊN TẠI THỊ TRẤN KIM BÀI VÀ XÃ CAO DƢƠNG

HUYỆN THANH OAI - HÀ NỘI. ............................................................... 55

3.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội địa phƣơng ............................... 55

3.2. Gia đình ................................................................................................... 59

3.3. Nh trƣờng .............................................................................................. 61

3.4. Các chính sách xã hội về việc làm tại địa phƣơng .............................. 64

3.5. Các giá trị truyền thống của địa phƣơng ............................................. 67

3.6. Các yếu tố nhân khẩu ............................................................................ 69

3.7. Những thuận lợi v khó khăn đối với giải quyết việc làm của thanh

niên tại địa bàn nghiên cứu .......................................................................... 75

KẾT LUẬN .................................................................................................... 80

KHUYẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP

83

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 87

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 89

2

DANH MỤC BẢNG

Bảng 1: Tổng hợp thông tin chung về khảo sát .............................................. 16

Bảng 2.1: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động tại huyệnThanh Oai giai đoạn

2010 - 2015 ...................................................................................................... 32

Bảng 2.2: Nhóm tuổi của thanh niên ............................................................... 33

Bảng 2.3: Trình độ học vấn của thanh niên ................................................... 34

Bảng 2.4: Trình độ chuyên môn, kỹ thuật của thanh niên ............................. 35

Bảng 2.5: Tỷ lệ nam, nữ thanh niên tham gia các ngành nghề ....................... 38

Bảng 2.6: Thu nhập bình quân của thanh niên tại địa bàn nghiên cứu ........... 43

Bảng 2.7: Thu nhập bình quân của thanh niên theo địa bàn ........................... 44

Bảng 2.8: Thu nhập bình quân của thanh niên theo giới tính ......................... 45

Bảng 2.9: Mức độ hài lòng về thu nhập của thanh niên ................................. 46

Bảng 2.10: Mức độ hài lòng về thu nhập theo giới tính ................................. 47

Bảng 2.11: Mức độ hài lòng về thu nhập theo địa bàn ................................... 47

Bảng 2.12: Kênh cung cấp thông tin ............................................................... 49

Bảng 2.13: Nhu cầu tư vấn nghề của thanh niên theo giới tính ...................... 51

Bảng 2.14: Nhu cầu nâng cao trình độ theo giới tính ..................................... 52

Bảng 2.15: Nhu cầu nâng cao trình độ theo học vấn ...................................... 54

Bảng 3.16: Yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn nghề của thanh niên theo

giới tính ........................................................................................................... 60

Bảng 3.17: Đánh giá về quá trình tìm việc thanh niên.................................... 66

Bảng 3.18: Tình trạng việc làm của thanh niên phân theo nhóm tuổi ............ 70

Bảng 3.19: Thực trạng việc làm của nam và nữ ............................................ 72

3

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BCH:

Ban chấp hành

CP:

Cổ phần

CNH - HĐH:

Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa

ĐH - CĐ:

Đại học - Cao đẳng

HĐND:

Hội đồng nhân dân

LLLĐ :

Lực lượng lao động

LĐ - TB & XH:

Lao động - Thương binh & Xã hội

TH:

Tiểu học

THCS:

Trung học cơ sở

THPT:

Trung học phổ thông

THCN:

Trung học chuyên nghiệp

TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn

TP:

Thành phố

TN:

Thanh niên

PVS:

Phỏng vấn sâu

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

UBND:

Ủy ban nhân dân

VL:

Việc làm

4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề t i

Lao động - việc làm từ lâu đã là một chủ đề lớn và quan trọng không chỉ của

một quốc gia, một khu vực mà còn trên phạm vi toàn cầu. Có việc làm ổn định, bền

vững đồng nghĩa với việc người đó có một nguồn thu nhập đảm bảo nuôi sống bản

thân và gia đình. Có việc làm cũng có nghĩa là người đó được cống hiến, được phát

huy khả năng, trí tuệ và sức lực của mình vào sự phát triển chung của cộng đồng.

Họ có cơ hội áp dụng những kinh nghiệm, kiến thức và kỹ năng mà mình tích lũy

trong suốt quá trình học tập và rèn luyện tại nhà trường cũng như trong xã hội vào

thực tế công việc. Được làm việc, được lao động cũng là cách để khẳng định giá trị,

vị trí của mỗi người trong xã hội hiện nay.

Lao động - việc làm đối với thanh niên lại càng có ý nghĩa quan trọng vì đây

là lực lượng trẻ, khỏe, năng động, sáng tạo, luôn biết nắm bắt và ứng dụng những

kiến thức, kỹ năng mới vào thực tiễn công việc. Sẽ thật là một thiếu sót lớn đối với

chính phủ các nước trên thế giới khi thực hiện các chính sách an sinh xã hội mà

không đề cập đến lao động - việc làm của thanh niên. Tại Việt Nam, vấn đề việc

làm nói chung, việc làm của thanh niên nói riêng mà nhất là thanh niên nông thôn

có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất

nước. Những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách

thiết thực nhằm phát huy tối đa nội lực, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trẻ,

đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng

sản Việt Nam khóa X "Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh

niên thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa" đã chỉ rõ nhiệm vụ: "Nâng

cao chất lượng lao động trẻ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời

sống cho thanh ni n".

Ngày 28/11/2013, tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam khóa XIII đã thông qua bản Hiến pháp 2013 và trong điều 35 thuộc chương

5

II của Hiến pháp cũng đã chỉ rõ: Công dân có quyền làm việc, lựa chọn nghề nghiệp,

việc làm và nơi làm việc. Người làm công ăn lương được đảm bảo các quyền làm

việc công bằng, an toàn, được hưởng lương và chế độ nghỉ ngơi.[15, tr.20]

Điều đó cho thấy, lao động việc làm và giải quyết việc làm là một trong

những chính sách và ưu tiên quan trọng của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Thiếu

việc làm, không có việc làm hoặc việc làm với năng suất và thu nhập thấp sẽ không

thể giúp thanh niên bảo đảm cuộc sống và phát triển bền vững. Đối với thanh niên

nông thôn, việc làm liên quan đến yếu tố đất đai, tư liệu lao động, công cụ lao động,

kỹ năng nghề và vốn sản xuất. Các yếu tố này kết hợp thành một chỉnh thể tác động

mạnh đến đời sống của thanh niên nông thôn. Tìm hiểu về thực trạng và giải quyết

việc làm cho thanh niên nông thôn là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả

nguồn lao động này.

Hà Nội là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thành phố

có lịch sử hơn 1000 năm này không những là trung tâm đầu não về chính trị mà còn

là một trung tâm lớn về kinh tế của cả nước.

Vào tháng 8 năm 2008, địa giới hành chính của Hà Nội chính thức được mở

rộng, diện tích tăng lên là 3,324.3 km2. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2014, dân

số toàn thành phố là 7,319,000 người trong đó dân số sinh sống tại khu vực nông

thôn là 3,691,900 người. TP có 12 quận, 17 huyện và 1 thị xã [4, tr.27]. Theo thống

kê, TP hiện có 3,200,000 người trong độ tuổi lao động song vẫn thiếu những lao

động có trình độ chuyên môn cao. Nhiều thanh niên được học tập trong những cơ sở

giáo dục chuyên nghiệp song vẫn phải đào tạo lại, cơ cấu và chất lượng nguồn lao

động chưa dịch chuyển theo yêu cầu cơ cấu ngành kinh tế. Những năm qua, đất

nông nghiệp thuộc diện thu hồi để xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu

đô thị, và các công trình công cộng trên địa bàn thành phố… tăng mạnh đã khiến

cho vấn đề lao động - việc làm cho thanh niên khu vực ngoại thành ngày càng trở

nên khó khăn. Ngoài ra, Hà Nội còn đang phải đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn

khác như: Năng lực cạnh tranh của nhiều sản phẩm dịch vụ cũng như sức hấp dẫn

môi trường đầu tư của thành phố còn thấp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn

chậm, đặc biệt cơ cấu nội ngành công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm chủ lực mũi

nhọn. Chất lượng quy hoạch phát triển các ngành kinh tế ở Hà Nội không cao và

6

thành phố cũng chưa huy động tốt tiềm năng kinh tế trong dân cư.

Do vậy, Thực trạng việc làm của thanh niên khu vực ngoại thành Hà Nội

hiện nay (Qua nghiên cứu trường hợp thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương, huyện

Thanh Oai - Hà Nội) được tôi chọn để làm luận văn Thạc sĩ Xã hội học, với hy

vọng góp phần luận giải một trong những vấn đề rất quan trọng có liên quan mật

thiết đến đời sống của thanh niên nông thôn. Từ nghiên cứu này, sẽ đưa ra một số

giải pháp, đề xuất trên cơ sở lý luận và thực tiễn sao cho phù hợp với kế hoạch phát

triển kinh tế - xã hội tại địa phương trong thời gian tới.

2. Tình hình nghiên cứu

Trong 20 năm trở lại đây, nhiều tác giả đã có những công trình nghiên cứu,

bài viết xung quanh vấn đề quan trọng này. Tôi xin được phép chia ra làm mấy

nhóm nghiên cứu có liên quan đến chủ đề việc làm như sau:

Nhóm nghiên cứu về việc làm nói chung

Trước hết phải kể đến công trình nghiên cứu “Chính sách giải quyết việc làm

ở Việt Nam” do TS. Nguyễn Hữu Dũng và TS. Trần Hữu Trung chủ biên được Nhà

xuất bản chính trị quốc gia phát hành vào năm 1997. Đây là một trong những công

trình nghiên cứu về việc làm đầu tiên kể từ khi nước ta thực hiện công cuộc đổi mới

do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI khởi xướng (1986). Các tác giả đã tập trung

vào trình bày tổng quát về phương pháp luận và phương pháp tiếp cận về chính sách

lao động việc làm. Làm rõ thực trạng vấn đề việc làm tại Việt Nam trong những

năm cuối của thế kỷ 20. Trên cơ sở đó đưa ra những định hướng về chính sách việc

làm trong quá trình CNH - HĐH đất nước.

Tác giả Đồng Văn Tuấn trong nghiên cứu về “Giải pháp giải quyết việc làm

và tăng thu nhập cho người lao động ở khu vực nông thôn tỉnh Thái Nguy n” thực

hiện trong các năm 2010 và 2011 cho thấy mặc dù địa bàn nghiên cứu là một tỉnh

trung du miền núi phía Bắc song vẫn mang những đặc điểm chung của thực trạng

lao động việc làm ở nước ta hiện nay. Qua nghiên cứu chỉ ra rằng trình độ văn hoá,

chuyên môn kỹ thuật và giới tính của người lao động có vai trò hết sức quan trọng

trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của cả nước nói chung cũng

như mỗi địa phương nói riêng.

Mặc dù giáp ranh với Hà Nội song trình độ văn hoá của lao động nông thôn

7

tỉnh Thái Nguyên nhìn chung còn thấp. Lao động có trình độ trung học phổ thông

chiếm tỷ lệ thấp, 22,6%. Trong đó phần lớn là lao động nam giới. Điều đó hạn chế

rất lớn đến khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất, ảnh hưởng đến

hiệu quả tạo việc làm và tăng thu nhập cho lao động nông thôn.

Trong khi đó, một tín hiệu đáng mừng là lực lượng lao động đã được đào tạo ở

Thái Nguyên lại tăng lên với tốc độ khá nhanh, năm 2009 lao động đã qua đào tạo

chiếm 19,3% thì đến năm 2011 đã tăng lên 25,5% và sẽ còn tăng lên trong những

năm tiếp theo. Điều này do hệ thống trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm dạy

nghề được quan tâm phát triển mạnh. Tuy nhiên, những người được qua đào tạo chủ

yếu làm việc ở các khu vực đô thị, do đó tỷ lệ lao động nông thôn đã qua đào tạo là

rất thấp, điều đó hạn chế rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế xã hội nông thôn.

Liên quan đến các ngành nghề, kết quả nghiên cứu cũng cho thấy lực lượng

lao động tại khu vực nông thôn tham gia vào lĩnh vực trồng trọt, chăn nuôi, lâm

nghiệp và ngư nghiệp chiếm một tỷ lệ rất lớn là 75,5%. Các lĩnh vực khác như tiểu

thủ công nghiệp và thương mại dịch vụ chiếm 24,33%. Điều đó thể hiện tại khu vực

nông thôn sản xuất thuần nông vẫn là chính, các hoạt động phi nông nghiệp kém

phát triển. Chúng ta đều biết rằng, sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao, sản

xuất mang tính thuần nông sẽ dẫn đến hiện tượng thiếu việc làm mang tính phổ

biến. Trong toàn bộ thời gian lao động thì thời gian dành cho trồng trọt tại khu vực

nông thôn chiếm tỷ lệ là 49,1%. Điều này làm cho hiện tượng thiếu việc làm thời vụ

càng trở nên gay gắt hơn. Cũng theo tác giả, muốn giải quyết việc làm cho lao động

nông thôn thì nhất thiết phải hạn chế tính thời vụ, phát triển các ngành phi nông

nghiệp, phân bổ lại lao động nông thôn vào các ngành một cách hợp lý.

Xét ở góc độ giới tính, qua nghiên cứu của mình, tác giả cũng cho thấy, phụ

nữ có vai trò to lớn trong các hoạt động kinh tế xã hội ở nông thôn. Có thể họ không

giữ vai trò là người chủ gia đình nhưng họ là những người tham gia trực tiếp nhiều

nhất vào các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nông thôn. Hiệu quả của sản xuất

nông nghiệp phụ thuộc rất lớn vào lực lượng lao động nữ. Tỷ lệ nữ trong lao động

nông thôn của tỉnh Thái Nguyên thấp hơn là hậu quả của hiện tượng tăng dân số

không cân đối trong những năm gần đây. Một số nơi vẫn còn tồn tại của tư tưởng

8

phong kiến trọng nam khinh nữ nên tỷ lệ nam sinh ra lớn hơn so với nữ giới (51,3%

so với 49,25%). Tuy nhiên, vai trò của lao động nữ trong nông thôn là rất to lớn,

điều đó đòi hỏi cần phải có chính sách bồi dưỡng lao động nữ hợp lý nhằm tăng

cường vai trò của họ trong phát triển kinh tế nông thôn.

Nhóm nghiên cứu về việc làm của thanh niên

Đối với vấn đề việc làm của thanh niên, trong thời gian vừa qua cũng đã xuất

hiện nhiều công trình nghiên cứu có giá trị liên quan đến lao động việc làm tại khu

vực Hà Nội và các khu vực lân cận. Tác giả Nguyễn Đức Hoàn trong nghiên cứu

Việc làm của thanh ni n lao động tự do từ nông thôn ra Hà Nôi (Nghiên cứu tại

Quận Đống Đa - Hà Nội) đã đưa ra một số kết quả như sau:

Trình độ học vấn của số thanh niên lao động tự do từ nông thôn ra Hà Nội

phần lớn chỉ học hết THPT và THCS thậm chí là Tiểu học. Do hạn chế về trình độ

học vấn nên họ không có nhiều cơ hội lựa chọn việc làm cho mình. Khi tìm hiểu

nguyên nhân tại sao thanh niên lại làm các công việc đó thì kết quả cho thấy có 35%

số người được hỏi cho rằng họ đi làm vì không mất nhiều tiền vốn. Lý do tiếp theo là

không tìm được việc khác chiếm tỷ lệ 32%, không đòi hòi chuyên môn tay nghề cao

là 18%, phù hợp với bản thân là 14% và lý do khác là 6%. Từ đây có thể thấy được

thực tế là các bạn thanh niên tự do luôn ở vị trí yếu thế trong thị trường lao động, luôn

bị động và chịu sự tác động của yếu tố ngoại cảnh.

Loại công việc quy định nơi làm việc của thanh niên lao đông tự do. Kết quả

điều tra của đề tài cho thấy có tới 57,3% các bạn thanh niên làm việc trên đường

phố vì công việc chủ yếu là đánh giày, hát rong, bán hàng rong thu mua phế liệu,

bốc vác thuê. Tiếp đến cửa hàng của nhà chủ cũng là nơi làm việc của khá đông

thanh niên lao động tự do (chiếm 24%). Ngoài ra còn một số nơi làm việc khác nữa

của thanh niên lao động tự do như: bến xe, bến tàu, gầm cầu… nhưng nhìn chung

nơi làm việc của các bạn thanh niên là ở ngoài trời và không cố định.

Cũng qua khảo sát cho thấy phần lớn thời gian làm công việc hiện tại của

thanh niên lao động tự do là từ ba tháng đến dưới một năm chiếm 54%, từ một năm

trở lên chiếm 28,7%, ngoài ra còn có 17,3% các bạn thanh niên đang làm việc hiện

tại dưới ba tháng. Bên cạnh đó, thời gian làm việc trong ngày của thanh niên lao

động tự do chủ yếu là trên 8 giờ/ ngày (chiếm 69%, từ 6-8 giờ/ngày chiếm 19% và

9

chỉ có 2% làm việc dưới 6 giờ/ngày).

Kết quả điều tra về thu nhập của thanh niên lao động tự do tuy rằng rất khó

có thể khách quan và chính xác nhưng nhìn chung qua khảo sát của đề tài cho thấy

có tới 51,3% số thanh niên có thu nhập trên 3 triệu đồng/tháng, 43,3% thanh niên có

thu nhập từ 2-3 triệu đồng/tháng, vẫn còn 4,7% số thanh niên có thu nhập 1-2 triệu

đồng/tháng và chỉ có sự 0,7% kiếm được dưới 1 triệu đồng/tháng. Tuy vậy thì nhìn

chung mức thu nhập này có cao hơn so với ở quê. Chính vì ở nhà không có hoặc có

thu nhập thấp đã là một trong những yếu tố thúc đẩy thanh niên ra đô thị tìm kiếm

việc làm.

Còn tác giả Vũ Thị Huệ trong nghiên cứu: Việc làm sau khi tốt nghiệp của

sinh viên ngành xã hội học: thực trạng và giải pháp (Nghiên cứu trường hợp Khoa

Xã hội học, trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội) cũng đã đưa ra

nhiều kết quả đáng chú ý:

Thứ nhất: Tỷ lệ sinh viên Khoa Xã hội học - Trường Đại học Khoa học Xã hội

và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội ra trường đã có việc làm đạt 100%, trong đó có

tới một nửa trong mẫu khảo sát tìm được việc làm ngay sau khi tốt nghiệp.

Cũng có tới gần một nửa (48,5%) số người tham gia nghiên cứu tìm được

công việc rất phù hợp và phù hợp với chuyên ngành được đào tạo.

Thu nhập tương đối ổn định, 55% số sinh viên tốt nghiệp ra trường tìm được

việc làm có mức từ 3 đến dưới 6 triệu trên một tháng.

Số sinh viên tốt nghiệp ra trường tìm được công việc theo đánh giá của họ là

rất ổn định và ổn định chiếm 67,5%.

Thứ hai: Kháo sát cho thấy sinh viên sau tốt nghiệp có việc làm hiện nay

phân bố trong nhiều lĩnh vực kinh tế khác nhau nhưng chủ yếu vẫn là làm trong khu

vực nhà nước, sau đó là tư nhân và các công ty cổ phần.

Thứ ba: Khoảng cách giữa ngành nghề được đào tạo và yêu cầu thực tế của

việc làm chính là tầm quan trọng và khả năng đáp ứng các kĩ năng mềm theo yêu

cầu của nhà tuyển dụng.

Thứ tư: Những yếu tố ảnh hưởng đến cơ hội tìm kiếm việc làm của sinh viên

sau khi tốt nghiệp chủ yếu là nguồn thông tin hỗ trợ mà phần nhiều là từ phía bố

mẹ, người thân trong gia đình.

Làm thêm cũng có những ảnh hưởng nhất định trong quá trình tìm kiếm việc

10

làm của sinh viên sau khi ra trường.

Thứ năm: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tìm kiếm việc làm cho sinh

viên sau tốt nghiệp trước hết nằm ở đánh giá chương trình đào tạo cần sát với yêu

cầu của công việc và việc phân bố hợp lý giữa lý thuyết và thực hành.

Bên cạnh đó, một điểm cần chú ý là về chất lượng giảng viên của khoa cần

đổi mới hơn nữa trong phương pháp dạy, cần sinh động, thu hút nhiều hơn nữa cũng

như việc thường xuyên khảo sát ý kiến của người học để biết được những đánh giá,

nhận xét đồng thời nắm được những yêu cầu, đòi hỏi của sinh viên trong quá trình

truyền tải nội dung kiến thức.

Cuối cùng là về phía nhà tuyển dụng nhận được rất nhiều sự quan tâm trong

ý kiến lựa chọn của các bạn sinh viên đã tốt nghiệp. Nhà tuyển dụng cần theo sát

thực tế hơn nữa ở chỗ kết hợp ngay từ công tác xây dựng đào tạo trong nhà trường

đến việc thường xuyên tạo điều kiện để thực hành, thực tập cho đến vấn đề cam kết

tuyển dụng sinh viên sau khi tốt nghiệp.

Các cuốn sách về việc làm hoặc các bài viết về việc làm đăng tải trên các tạp

chí, báo điện tử và các phương tiện truyền thông đại chúng khác.

Bên cạnh các công trình khoa học đã được công bố và nhận được phản hồi

tích cực từ phía giới nghiên cứu còn xuất hiện rất nhiều cuốn sách nói về vấn đề lao

động việc làm nói chung và lao động việc làm của thanh niên nông thôn nói riêng

hoặc những bài viết có liên quan đăng tải trên các tạp chí và phương tiện thông tin

đại chúng trong thời gian vừa qua.

Trong cuốn sách “Định hướng nghề nghiệp và việc làm” Tổng cục dạy nghề,

Nhà xuất bản Lao động - Xã hội, 2004 đã khái quát về nghề nghiệp và việc làm,

mối quan hệ giữa việc làm, nghề nghiệp và tương lai, nghề nghiệp và sự thành đạt.

Tiếp đó, để lựa chọn nghề nghiệp thì cần phải căn cứ vào năng lực, kỹ năng, tính

cách, tinh thần, trách nhiệm, sự thích thú các nhu cầu. Ngoài ra phải rèn luyện cho

mình các kỹ năng cơ bản như đọc, viết, nghe, nói và cả kỹ năng tư duy và các kỹ

năng sống trong cộng đồng. Cuốn sách cũng trình bày rất cụ thể, chi tiết về vấn đề

việc làm, các ngành nghề đang tăng trưởng ở Việt Nam, sự liên hệ giữa bản thân và

công việc, những nguồn cung cấp thông tin có được việc làm như trung tâm giới

11

thiệu việc làm, báo chí ,internet, phát thanh, truyền hình, hội chợ việc làm, bạn bè

và người thân, những người sử dụng lao động, các trường cơ sở đào tạo, quảng cáo

cá nhân. Cùng với đó, các hoạt động hướng nghiệp và giới thiệu việc làm cũng

được trình bày rất cụ thể, chi tiết.

Bàn về “Vấn đề việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng trong quá trình

đô thị hóa Hà Nội” (NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2007), tác giả Vũ Thị Mai

nêu thực trạng việc làm của người lao động bị ảnh hưởng trong quá trình đô thị hóa

và các giải pháp tạo việc làm cho người lao động. Theo tác giả, người lao động

muốn có việc làm phù hợp, thu nhập cao thì đương nhiên phải có kế hoạch thực

hiện và đầu tư sức lao động của mình để được đào tạo, trau dồi kiến thức, phát triển

và nắm vững một nghề nghiệp nhất định - Đây là điều kiện cần thiết cho người lao

động khi tham gia vào thị trường lao động.

Tác giả Triệu Thị Trinh - Trường Đại học Lao động - Xã hội trong bài viết

“Vấn đề lao động việc làm của thanh niên nông thôn hiện nay. Thực trạng và giải

pháp” đăng tải trên cổng thông tin điện tử của Bộ Lao động - Thương binh và xã

hội cũng đã đưa ra những con số thực tế về tình hình lao động việc làm của thanh

niên nông thôn hiện nay. Mặc dù đã có sự nỗ lực của cấp ủy Đảng và các cấp chính

quyền song tại nhiều vùng nông thôn, tình trạng thiếu việc làm vẫn diễn ra khá phổ

biến, không ít thanh niên nông thôn chơi bời, lêu lổng sa vào cờ bạc, rượu chè,

nghiện hút và các tệ nạn xã hội khác. Đây là nhóm người được đánh giá là có nguy

cơ cao về các tệ nạn xã hội. Do thiếu việc làm, nhiều thanh niên đã ra thành phố,

đến các khu đô thị, khu công nghiệp để tìm kế mưu sinh. Tuy nhiên, đại đa số việc

làm không ổn định, thu nhập bấp bênh. Nguyên nhân chủ yếu là do trình độ học vấn

hạn chế, quan hệ xã hội hạn hẹp, ít có điều kiện tiếp cận và sử dụng các tư liệu lao

động hiện đại nên họ chỉ có thể làm được những công việc giản đơn theo vụ việc

với mức lương thấp, đời sống khó khăn, tạm bợ... Qua một số điều tra xã hội học về

lao động và việc làm với đối tượng là lao động thanh niên ở nông thôn thì số người

không được đào tạo nghề chiếm 68,4%, số người không có đất để sản xuất - kinh

doanh là 53,1%, loại khó khăn tiếp cận các nguồn vốn là 22,3%, thiếu kinh nghiệm

sản xuất là 26,5%, thiếu thông tin về thị trường lao động là 23,3%. Cũng theo tác

12

giả thì việc phổ biến nghề mới, đào tạo nghề, tư vấn nghề và hỗ trợ các kỹ năng

nghề cũng như hỗ trợ, khuyến khích đầu tư vào khu vực nông thôn còn rất hạn chế

khiến cho nhiều thanh niên nông thôn vẫn lúng túng tìm ra cho mình một con đường

lập nghiệp phù hợp và đúng đắn.

Qua các nghiên cứu cũng như những cuốn sách, bài viết về lao động việc làm

nói chung và việc làm của thanh niên nông thôn nói riêng có thể thấy rằng đây là

một chủ đề không mới nhưng luôn thu hút sự quan tâm, chú ý của giới nghiên cứu

khoa họ, các nhà hoạch định chính sách cũng như cộng đồng. Các nghiên cứu, cuốn

sách hay bài viết đều tập trung vào việc phân tích, đánh giá thực trạng việc làm

cũng như đề xuất những giải pháp cả ở cấp vĩ mô và vi mô để giải quyết việc làm

việc làm, những kỹ năng cần và đủ để người trong độ tuổi lao động có thể tìm việc

làm phù hợp với khả năng và chuyên môn.

Đề tài “Thực trạng việc m của thanh niên khu vực ngoại thành Hà Nội

hiện nay” ua nghi n cứu trường hợp tại thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương -

huyện Thanh Oai) mang tính kế thừa những nghiên cứu trên để đi sâu vào tìm hiểu

thực trạng việc làm của thanh niên huyện Thanh Oai hiện nay như thế nào. Đồng

thời muốn tìm hiểu định hướng của thanh niên trong quá trình tìm việc làm và

những yếu tố tác động tới vấn đề việc làm của thanh niên trên địa bàn huyện Thanh

Oai hiện nay - Một trong những địa phương được đánh giá là có tốc độ đô thị hóa

và chuyển đổi cơ cấu lao động nhanh chóng, mạnh mẽ hiện nay trên địa bàn Thủ đô.

Trên cơ sở đó đưa ra một cái nhìn tổng quan về thực trạng việc làm hiện nay của

thanh niên khu vực ngoại thành Hà Nội.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu:

Nhận diện thực trạng việc làm của thanh niên ngoại thành Hà Nội và những

yếu tố ảnh hưởng đến việc làm của thanh niên.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

- Nhiệm vụ 1: Hệ thống rõ các khái niệm lý thuyết, quan điểm của xã hội học

về lao động, việc làm cho nhóm thanh niên nhất là thanh niên nông thôn.

- Nhiệm vụ 2: Tìm hiểu các chủ trương, luật pháp chính sách về lao động,

việc làm, nông nghiệp, nông thôn và thanh niên của Đảng Cộng sản Việt Nam và

13

nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam.

- Nhiệm vụ 3: Tìm hiểu, phân tích và đánh giá về tình trạng và đặc điểm về

việc làm của thanh niên tại khu vực ngoại thành Hà Nội mà cụ thể là thị trấn Kim

Bài và xã Cao Dương - Huyện Thanh Oai dựa trên các yếu tố về giới tính, trình độ

học vấn, chuyên môn kỹ thuật, cơ cấu lao động - việc làm v.v….

- Nhiệm vụ 4: Đề xuất các giải pháp cụ thể cho việc giải quyết tốt hơn nữa

vấn đề việc làm của thanh niên tại các địa bàn nghiên cứu.

4. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu:

- Thực trạng việc làm của thanh niên khu vực ngoại thành Hà Nội hiện nay.

4.2. Khách thể nghiên cứu

- Thanh niên trong độ tuổi từ 16 - 30 tuổi tại thị trấn Kim Bài và xã Cao

Dương - huyện Thanh Oai.

- Người dân địa phương.

- Cán bộ địa phương.

4.3. Phạm vi nghiên cứu

- Về không gian: xã Cao Dương và thị trấn Kim Bài - huyện Thanh Oai.

- Về thời gian: Từ tháng 8 năm 2015 đến tháng 11 năm 2015.

5. Câu hỏi v giả thuyết nghiên cứu

5.1. Câu hỏi nghiên cứu

+ Thực trạng việc làm của thanh niên tại địa bàn nghiên cưu như thế nào?

+ Nhu cầu việc làm của thanh niên địa phương nay ở mức độ nào?

+ Các yếu tố như giới tính, tuổi, trình độ học vấn - chuyên môn kỹ thuật, hoàn

cảnh, tình hình địa phương v.v…ảnh hưởng như thế nào tới việc làm của thanh niên?

5.2. Giả thuyết nghiên cứu

+ Phần lớn thanh niên có việc làm, tập trung vào các ngành dịch vụ và

công nghiệp.

+ Các yếu tố về giới tính, trình độ học vấn, chuyên môn, gia đình v.v.. có

ảnh hưởng tới việc làm của thanh niên.

14

+ Thanh niên ngoại thành có nhu cầu cao về việc làm.

6. Phƣơng pháp nghiên cứu

6.1. Phương pháp phân tích tài liệu

Phân tích các số liệu thống kê, các tài liệu đã công bố, kết quả một số cuộc

điều tra trên phạm vi quốc gia và địa phương, phân tích các bài báo và những

nghiên cứu lý luận về lao động, việc làm và thanh niên.

Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu khái quát vấn đề liên quan đến

nội dung nghiên cứu của đề tài thông qua các nghiên cứu về định hướng giá trị nói

chung, định hướng về lao động và việc làm trong nhóm thanh niên. Đồng thời qua

đó có sự so sánh, đối chiếu nhằm làm phong phú thêm nội dung đang tiến hành

nghiên cứu, tìm hiểu.

Tham khảo và xem xét các báo cáo hàng năm về đặc điểm tình hình kinh tế -

xã hội của địa phương từ cấp huyện đến cấp xã. Tham khảo một số tài liệu về lao

động, việc làm của thanh niên do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Sở Lao

động - Thương binh và Xã hội Thành phố Hà Nội, Đại học Khoa học xã hội và nhân

văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, Viện xã hội học và các tổ chức quốc tế như Chương

trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) v.v… biên

soạn và phát hành. Ngoài ra, tôi cũng tham khảo thông tin, số liệu từ một số bài viết

có liên quan đến lao động việc làm tại khu vực nông thôn đăng trên các báo Tuổi trẻ

Thành phố Hồ Chí Minh, báo người Lao động, báo phụ nữ Thủ đô v.v…một số

chương trình chuyên đề phát sóng trên các kênh truyền hình nông nghiệp nông thôn

VTC16, đài phát thanh và truyền hình Hà Nội (HTV).

6.2. Phương pháp điều tra bảng hỏi

Thiết kế một bảng hỏi phản ánh về thực trạng lao động, việc làm của thanh

niên khu vực ngoại thành Hà Nội hiện nay. Bảng hỏi gồm 20 - 25 câu hỏi với những

câu hỏi đóng, hỏi mở và câu hỏi nửa đóng nửa mở.

Loại mẫu sử dụng trong nghiên cứu là mẫu ngẫu nhiên thuận tiện trong độ

tuổi từ 16 đến 30 tuổi, tỷ lệ nam nữ tham gia khảo sát không quá chênh lệch nhau.

Số phiếu phát ra: 200 phiếu chia đều cho 2 địa bàn nghiên cứu

Số phiếu thu về: 200 phiếu hợp lệ

15

Cơ cẫu mẫu khảo sát như sau:

Bảng 1: Tổng hợp thông tin chung về khảo sát

Cơ cấu N %

Nam 104 52,0 Giới tính Nữ 96 48,0

Tốt nghiệp TH 8 4,0

Trình độ Tốt nghiệp THCS 26 13,0

học vấn Tốt nghiệp THPT 159 79,5

Khác 7 3,5

16 - 20 47 23,5

Nhóm tuổi 21 - 25 55 27,5

26 - 30 98 49,0

Xã Cao Dương 100 50,0 Địa bàn khảo sát Thị trấn Kim Bài 100 50,0

(Nguồn: Khảo sát của đề tài)

Nội dung trưng cầu ý kiến: Bảng hỏi được xây dựng nhằm mục đích tìm hiểu

về thực trạng lao động - việc làm của thanh niên địa phương, loại hình công việc,

thu nhập từ công việc hiện tại và nhu cầu lao động việc làm cũng như những chính

sách hỗ trợ đào tạo và hướng nghiệp tại địa phương.

Số phiếu thu về được xử lý trên phần mềm SPSS và Excel, tôi đã thu được

những thông tin định lượng có độ chính xác cao, cung cấp thông tin chủ yếu cho

việc kiểm chứng giả thuyết nghiên cứu của đề tài.

6.3. Phỏng vấn sâu

Phương pháp phỏng vấn sâu được thực hiện nhằm bổ sung các thông tin định

tính làm sáng tỏ cho các dữ liệu định lượng. Tất cả các phỏng vấn sâu đều được ghi

âm hoặc được ghi chép cẩn thận.

Tổng số lần phỏng vấn sâu đã thực hiện là 15 với khách thể bao gồm: 01 cán bộ

huyện, 01 cán bộ xã, 01 cán bộ thị trấn, 10 thanh thiếu niên và 02 người dân địa phương.

6.4. Phương pháp quan sát

Phương pháp quan sát là phương pháp được phối hợp sử dụng trong quá

16

trình thu thập thông tin thông qua sự tri giác trực tiếp để có được thông tin cần thiết

cho đề tài. Những biểu hiện bên ngoài như cách nói chuyện, thái độ, hành động,

ngôn ngữ, hoàn cảnh sống và làm việc của người được trả lời sẽ được ghi chép, ghi

âm lại cẩn thận để có thể phân tích, bổ sung vào trong luận văn nhằm có được

những thông tin chân thực nhất về vấn đề nghiên cứu.

Ngoài ra phương pháp quan sát còn được sử dụng để tìm hiểu về hoạt động của

một số cơ sở sản xuất và kinh doanh, các làng nghề truyền thống tại địa phương.

Một số bức ảnh về khung cảnh địa phương như văn phòng UBND xã, thị

trấn, trường học, trạm xá v.v…cũng được lưu lại nhằm làm góp phần làm cho bài

luận văn thêm phần phong phú, sinh động.

6.5. Phương pháp xử lý dữ liệu

Sử dụng các phần mềm xử lý số liệu như: SPISS, Excel… để nhập thông tin

và xử lý số liệu nghiên cứu.

7. Ý nghĩa ý uận v thực tiễn

7.1. Ý nghĩa lý luận

Ý nghĩa khoa học của đề tài “Thực trạng việc m của thanh niên khu vực

ngoại th nh H Nội” ( ua nghi n cứu trường hợp thị trấn Kim Bài và xã Cao

Dương - huyện Thanh Oai - Hà Nội) được thể hiện ở hệ thống một số khái niệm cơ

bản của xã hội học như lao động, việc làm, thất nghiệp, thiếu việc làm, thanh niên

v.v.. cũng như một số lý thuyết xã hội học thường được sử dụng để giải thích những

vấn đề có liên quan đến lao động - việc làm như lý thuyết về mạng lưới xã hội,

thuyết về nhu cầu v.v…Những kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp phần làm sáng

tỏ thêm các lý thuyết xã hội học này.

7.2. Ý nghĩa thực tiễn

Nghiên cứu về thực trạng việc làm của thanh niên khu vực ngoại thành Hà

Nội có một ý nghĩa hết sức thiết thực. Đề tài không chỉ góp phần làm rõ thực trạng

việc làm của thanh niên khu vực ngoại thành Hà Nội mà cụ thể là tại thị trấn Kim

Bài và xã Cao Dương - Huyện Thanh Oai hiện nay mà còn làm rõ được những yếu

tố nào tác động đến thực trạng này. Những kết quả của nghiên cứu đề tài có thể làm

tài liệu tham khảo cho cơ quan chính quyền, đoàn thể tại địa phương nơi tiến hành

cuộc nghiên cứu đồng thời cũng góp phần làm phong phú thêm những nghiên cứu

về việc làm của thanh niên khu vực ngoại thành Hà Nội hiện nay nhất là khi Thủ đô

17

chính thức được mở rộng vào năm 2008.

8. Khung phân tích

Điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội

Các yếu tố cộng đồng: Gia đình Nhà trường Phong tục tập quán…

Các yếu tố cá nhân: Giới Nhóm tuổi Học vấn Chuyên môn

Thực trạng việc làm của thanh niên khu vực ngoại thành

18

CHƢƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Khái niệm về thanh niên

Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của Ban Chấp hành Trung ương

Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy

mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đã chỉ rõ:

Thanh ni n là lực lượng xã hội to lớn, một trong những nhân tố quan trọng

quyết định tương lai, vận mệnh dân tộc; là lực lượng chủ yếu tr n nhiều lĩnh vực,

đảm nhiệm những công việc đòi hỏi hy sinh, gian khổ, sức khỏe và sáng tạo. Thanh

ni n là độ tuổi sung sức nhất về thể chất và phát triển trí tuệ, luôn năng động, sáng

tạo, muốn tự khẳng định mình. Song, do còn trẻ, thiếu kinh nghiệm n n thanh ni n

cần được sự giúp đỡ, chăm lo của các thế hệ đi trước và toàn xã hội. [19, tr.2]

Theo Điều 1 Luật Thanh niên được Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt

Nam khoá XI, kỳ họp thứ 8 thông qua ngày 29 tháng 11 năm 2005 và Luật này có

hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 7 năm 2006 thì:

Thanh ni n quy định trong Luật này là công dân Việt Nam từ đủ mười sáu

tuổi đến ba mươi tuổi.[23, tr.5]

Từ góc độ xã hội học, thanh niên được xem là một nhóm xã hội của những

người mới lớn. Theo từ điển xã hội học Oxford, thuật ngữ thanh niên được sử dụng

theo ba cách: một cách rất chung là nó bao hàm toàn bộ các giai đoạn trong vòng

đời, từ lúc còn ấu thơ đến khi bắt đầu người trưởng thành. Một cách khác để chỉ lý

thuyết và nghiên cứu về thanh niên tuổi từ 13 đến 19 và quá trình chuyển thành

người lớn. Một cách khác để chỉ một tập hợp những vấn đề giả định về tình cảm và

xã hội gắn với việc lớn lên trong xã hội công nghiệp đô thị. [21, tr.239]

Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, tôi xin được phép xem xét nghiên cứu

đối tượng là thanh niên khu vực ngoại thành Hà Nội đang có hộ khẩu thường trú tại

thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương - Huyện Thanh Oai trong độ tuổi từ 16 đến 30 và

được phân chia ra thành 2 nhóm:

- Nhóm đã hoàn thành việc học tập và đang làm việc tại địa phương.

- Nhóm đã hoàn thành việc học tập nhưng chưa có việc làm hoặc đã có việc

19

nhưng nghỉ việc và đang trong quá trình tìm kiếm việc làm ở địa phương.

1.1.2. Khái niệm về lao động và việc làm

1.1.2.1.Khái niệm lao động

Lao động là hoạt động có mục đích và ý thức của con người tác động vào thế

giới tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên thành các sản phẩm phục vụ cho nhu

cầu đời sống con người. Vì vậy, lao động là một hoạt động đặc thù riêng có của con

người, phân biệt giữa con người với các loài động vật; trong quá trình lao động sản

xuất, con người không những tạo ra của cải, mà tạo ra cho mình phát triển cả về thể

lực và trí lực.

Trong bất kỳ nền sản xuất nào, kể cả nền sản xuất hiện đại, lao động bao giờ

cũng là nhân tố cơ bản, là điều kiện không thể thiếu của sự tồn tại và phát triển đời

sống xã hội loài người. Từ khi hình thành, con người muốn tồn tại thì phải được đáp

ứng các nhu cầu cơ bản như: ăn, mặc, ở, đi lại... muốn như vậy phải lao động sản xuất

và sản xuất đó không ngừng được phát triển với quy mô ngày càng lớn.

Trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng thì vấn đề lao động luôn luôn

được coi trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Từ khi giành

chính quyền đến nay, Nhà nước ta đã sáu lần thông qua Hiến pháp; Hiến pháp được

xây dựng và thông qua đầu tiên là Hiến pháp năm 1946, sau đó đến các Hiến pháp

sửa đổi, bổ sung vào các năm 1959, 1980, 1992, 2001 và 2013. Tất cả các bản Hiến

pháp nói trên đều quy định lao động là quyền và nghĩa vụ của công dân.

Từ những căn cứ trên, tôi xin được đưa ra khái niệm về lao động như sau: là

hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm thay đổi các vật thể tự nhiên

phù hợp với nhu cầu của con người. Thực chất là sự vận động của sức lao động

trong qúa trình tạo ra của cải vật chất cho xã hội, lao động cũng chính là quá trình

kết hợp của sức lao động và tư liệu sản xuất để sản xuất ra sản phẩm phục vụ nhu

cầu con người.Có thể nói lao động là yếu tố quyết định cho mọi hoạt động kinh tế.

1.1.2.2.Khái niệm việc làm

Vấn đề việc làm là một trong những vấn đề kinh tế - xã hội phức tạp. Đó là

công việc cụ thể của mỗi cá nhân nhưng lại gắn liền với xã hội. Có việc làm, người

lao động không những có thu nhập để nuôi sống bản thân họ mà còn tạo ra một

lượng của cải vật chất cho xã hội.

Ở nước ta trước đây, nền kinh tế vận động theo cơ chế kế hoạch hoá tập

20

trung, quan liêu bao cấp, người lao động được coi là có việc làm và được xã hội

thừa nhận, trân trọng là những người làm việc trong thành phần kinh tế quốc doanh,

khu vực Nhà nước, kinh tế tập thể. Ở cơ chế đó, Nhà nước bố trí việc làm cho người

lao động. Do đó, trong xã hội không thừa nhận có hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc

làm, lao động dư thừa. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN

hiện nay, quan niệm của Đảng và Nhà nước ta về việc làm đã thay đổi một cách căn

bản. Theo Bộ luật Lao động của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sửa đổi đã được

Quốc hội khóa XIII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 18 tháng 6 năm 2012 quy định

trong điều 9, chương II như sau: “Việc làm là hoạt động lao động tạo ra thu nhập

mà không bị pháp luật cấm”.[17, tr.24]

Như vậy, theo quan niệm trên việc làm bao gồm hai yếu tố: lao động tạo ra

thu nhập và không bị pháp luật cấm. Vì vậy nó đã xoá bỏ được quan niệm cũ cho

rằng chỉ có làm việc trong khu vực Nhà nước mới được coi là có việc làm, bởi vì

lao động tạo ra nguồn thu nhập không chỉ trong khu vực Nhà nước mà cả trong khu

vực tư nhân, cá thể, hộ gia đình. Ý nghĩa về mặt kinh tế, xã hội của quan niệm này

đã xoá bỏ sự phân biệt đối xử lao động giữa các thành phần kinh tế; mặt khác, khái

niệm trên còn làm rõ đặc trưng của Nhà nước pháp quyền, thể hiện ở chỗ cho phép

công dân Việt Nam được làm những việc mà pháp luật không cấm.

Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, những người lao động làm

bất cứ việc gì, làm bất cứ ở đâu, miễn là không vi phạm pháp luật mang lại thu nhập

cho xã hội, cho bản thân mình; có thể nói, Bộ luật lao động đã mở ra một hướng

mới cho vấn đề giải quyết việc làm, mở ra một thị lao động phong phú và đa dạng,

thu hút nhiều lao động.

1.1.3. Khái niệm về thất nghiệp, thiếu việc làm

1.1.3.1.Khái niệm về thất nghiệp

Theo tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) trong tài liệu Hướng dẫn Tăng cường

triển vọng việc làm cho nam và nữ thanh niên cho rằng: Thất nghiệp là tình trạng

tồn tại một số người trong lực lượng lao động muốn làm việc nhưng không thể tìm

được việc làm ở mức lương thịnh hành”.[22, tr.76]

Còn tại nước ta, thất nghiệp là những người trong độ tuổi lao động, có khả

21

năng lao dộng, hiện chưa có việc làm và đang tích cực tìm kiếm việc làm. Những

người trong độ tuổi lao động (nữ từ 15-55 tuổi, nam từ 15-60 tuổi) không có việc

làm là những người thất nghiệp.

Tuy nhiên, những người trong độ tuổi lao động nhưng thuộc các đối tượng sau

đây không thuộc là những người thất nghiệp và không nằm trong lực lượng lao động:

- Người đang đi học. đang theo học các trường ĐH, CĐ và trung học chuyên

nghiệp, các trường THPT)

- Người không có khả năng lao động (những người khuyết tật, người mắc

bệnh hiểm nghèo v.v…)

- Người làm công việc nội trợ cho gia đình mình.

- Người không có nhu cầu tìm kiếm việc làm.

1.1.3.2. Khái niệm thiếu việc làm

Theo bản tin thị trường lao động quý II/2015 của Viện Khoa học Lao động

và Xã hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) thì:

Thiếu việc làm được chia ra làm 2 dạng là thiếu việc làm vô hình và thiếu

việc làm hữu hình.

Thiếu việc làm vô hình là sự phân bố không cân đối giữa lao động và các yếu

tố sản xuất khác. Ở đây việc làm không tạo ra cơ hội sử dụng đầy đủ chất lượng và

khả năng người lao động. Thu nhập mang lại từ việc làm thấp hơn so với mức thu

nhập trung bình. Năng suất lao động ở nơi người lao động làm việc thấp hơn so với

mức trung bình.

Thiếu việc làm hữu hình là không có đủ công việc để làm hết mức thời gian

quy định trong một ngày lao động bình thường. Ví dụ theo quy định của nhà nước,

các cơ quan hành chính sự nghiệp có thời gian làm việc khoảng 8 tiếng mỗi ngày,

tuần làm việc từ thứ hai đến thứ sáu. Tuy nhiên có nơi người lao động chỉ làm việc

có 4 tiếng mỗi ngày và công việc của họ chỉ tập trung vào những ngày đầu tuần là

hoàn thành xong công việc của mình, thời gian còn lại nhàn rỗi.[3, tr.3]

Còn tại khu vực nông thôn, tình trạng thiếu việc làm diễn ra khá phổ biến.

Trong một năm, người nông dân bận rộn nhất vào những ngày mùa cụ thể là vụ hè

thu và vụ đông xuân, còn lại là thời kỳ nông nhàn nên dẫn tới tình trạng là người

22

dân tại nhiều vùng quê không có công việc gì để làm tăng thu nhập cho bản thân và

gia đình. Một số thanh niên năng động có thể vay vốn để đầu tư kinh doanh sản xuất

tại địa phương hoặc buôn bán đường dài. Nhiều thanh niên khác phải đi vay mượn

để xuất khẩu lao động hoặc ra thành phố kiếm việc làm thêm, tăng thu nhập. Thiếu

việc làm khiến cho thanh niên dễ vướng vào các loại hình tệ nạn xã hội như: cờ bạc,

đề đóm, rượu chè, nghiện hút ma túy, mại dâm v.v… đúng như câu tục ngữ mà ông

cha từ xa xưa đã nói: “ Nhàn cư vi bất thiện”.

1.2. Lý thuyết áp dụng

1.2.1. Lý thuyết mạng lưới xã hội

Khái niệm về mạng lưới xã hội dùng để chỉ phức thể các mối quan hệ xã hội

do con người xây dựng nên, duy trì và phát triển trong cuộc sống thực của họ với tư

cách là thành viên của xã hội.

Trong xã hội học, các đặc điểm và tính chất của mạng lưới xã hội được

nghiên cứu từ nhiều trường hợp tiếp cận khác nhau. Lý thuyết tương tác xã hội của

Simmel tập trung vào phân tích các kiểu, hình thức của mạng lưới bao gồm các mối

liên hệ của các cá nhân đang tác động qua lại với nhau. Còn theo thuyết cấu trúc -

chức năng của Dukheim thì phân biệt hai kiểu đoàn kết xã hội hữu cơ và máy móc

trên cơ sở hai hình thức phân công lao động phức tạp và đơn giản tạo nên những

kiểu quan hệ và liên hệ tương ứng giữa các cá nhân và nhóm người. Mạng lưới quan

hệ chức năng đặc trưng cho kiểu quan hệ đoàn kết hữu cơ của xã hội hiện đại và

mạng lưới quan hệ phi chức năng đặc trưng cho kiểu đoàn kết máy móc của xã hội

truyền thống. Theo lý thuyết hệ thống xã hội, một số tác giả tập trung vào giải quyết

một nhiệm vụ trung tâm của xã hội học là nghiên cứu cốt lõi bên trong của xã hội.

Với tư cách là mối liên hệ và quan hệ giữa các thành tố xã hội, mạng lưới xã hội là

biểu hiện cụ thể, trực tiếp và rõ rệt nhất của cấu trúc xã hội. Phân tích mạng lưới xã

hội trở thành một phương pháp tiếp cận cấu trúc xã hội.

Liên quan đến lao động và việc làm, khi vận dụng lý thuyết về mạng lưới xã

hội, có thể hiểu rõ về thành phần và kiểu dạng các quan hệ xã hội mà các cá nhân có

thể sử dụng để tìm kiếm việc làm. Những yếu tố cơ bản, quan trọng nhất tạo nên

mạng lưới xã hội ở đây là các thành viên trong gia đình bao gồm bố mẹ, anh em bà

23

con ruột thịt; những người thân quen trong gia đình, bạn bè và những người khác,

những nhóm và các tổ chức xã hội mà mỗi cá nhân có mối quan hệ trong quá trình

sinh sống, học tập và làm việc như các câu lạc bộ sở thích, các đoàn thể v.v..Mạng

lưới xã hội có vai trò làm cầu nối trực tiếp và hỗ trợ tìm kiếm việc làm. Có thể nêu

ra 3 kiểu mạng lưới xã hội: thứ nhất là kiểu truyền thống là ở đó, cá nhân dựa vào

mối quan hệ gia đình để tìm kiếm việc làm; thứ hai là kiểu hiện đại là ở đó cá nhân

dựa vào mối quan hệ với các nhóm, các đoàn thể để có được việc làm; thứ 3 là kiểu

hỗn hợp giữa truyền thống và hiện đại. Kiểu thứ 3 đang chiếm ưu thế trong xã hội

hiện nay. Một cá nhân thường sử dụng các mối quan hệ bên trong bao gồm các

thành viên trong gia đình với các mối quan hệ bên ngoài với các nhóm, các thiết chế

khác để có được việc làm. Tuy nhiên, khi mà xã hội ngày càng phát triển với các

dịch vụ chuyên nghiệp và thuận tiện hơn thì kiểu mạng lưới hiện đại sẽ ngày càng

có xu hướng phát triển mạnh mẽ.

1.2.2. Lý thuyết nhu cầu

Abraham Maslow (1908-1970) là nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ. Ông

được thế giới biết đến qua mô hình nổi tiếng Tháp nhu cầu và được coi là cha đẻ

của tâm lý học nhân văn.

Năm 1943, ông đã phát triển một trong các lý thuyết mà tầm ảnh hưởng của

nó được thừa nhận rộng rãi và được sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao

gồm cả lĩnh vực giáo dục. Đó là lý thuyết về bậc thang nhu cầu của con người.

Trong lý thuyết này, ông sắp xếp các nhu cầu của con người theo một hệ thống trật

tự cấp bậc, trong đó các nhu cầu ở mức độ thấp hơn phải được thỏa mãn trước rồi

thì các nhu cầu ở mức độ cao hơn mới xuất hiện.

Theo thuyết A. Maslow, nhu cầu tự nhiên của con người được chia thành các

thang bậc từ đáy rộng rồi dần vươn lên đỉnh nhọn nhỏ dần thể hiện sự tồn tại và

phát triển của con người vừa là một sinh vật tự nhiên, vừa là một thực thể xã hội

.Việc sắp xếp nhu cầu theo thang bậc từ thấp đến cao cho thấy phần “con” phổ biến

ở những thang bậc thấp hơn sẽ dần biến mất, nhường chỗ cho phần “ người” ở

những phần thang bậc cao hơn.

Cấu trúc tháp nhu cầu có 5 tầng, trong đó:

24

1. Tầng thứ nhất bao gồm các nhu cầu như: ăn, ngủ, nghỉ, sinh lý v.v…

2. Tầng thứ hai gồm các nhu cầu an toàn về thân thể, sức khỏe, việc làm, tài sản…

3. Tầng thứ ba bao gồm các nhu cầu xã hội như tình cảm, tình bạn, muốn

muốn được trong một nhóm cộng đồng nào đó, muốn có gia đình yên ấm, bạn bè

thân hữu tin cậy.

4. Tầng thứ tư bao gồm các nhu cầu được kính trọng, được quý mến, tin tưởng…

5. Tầng thứ năm là các nhu cầu tự thể hiện bản thân như khả năng trình diễn,

khả năng sáng tạo, muốn được công nhận là thành đạt…

Đối với thanh niên - lực lượng lao động trẻ tuổi thì trước hết họ cần phải

thỏa mãn nhu cầu cơ bản liên quan đến các yếu tố tự nhiên của con người như

mong muốn có đủ thức ăn, nước uống, được ngủ nghỉ... Những nhu cầu cơ bản

này đều là các nhu cầu không thể thiếu hụt vì nếu con người không được đáp ứng

đủ những nhu cầu này, họ sẽ không tồn tại được nên họ sẽ đấu tranh để có được

nó và họ sẽ cố gắng để đảm bảo có nó hiện hữu trong cuộc sống hàng ngày.

Các nhu cầu cao hơn nhu cầu cơ bản bao gồm nhiều nhân tố tinh thần như sự

đòi hỏi công bằng, an tâm, vui vẻ, địa vị xã hội, sự tôn trọng, vinh danh với một cá

nhân…Hay nói cách khác, các cá nhân sau một thời gian làm việc và cống hiến, họ

bắt đầu yên tâm với công việc thì họ sẽ có nhu cầu được trả lương cao, được đóng

bảo hiểm xã hội, làm tốt được thưởng cùng với hàng loạt các chế độ ưu đãi khác, họ

sẽ có cơ hội để phát huy năng lực của bản thân, tìm kiếm cho bản thân một vị trí

trong công việc và cộng đồng.

Như vậy, đối với mỗi con người thì các nhu cầu cơ bản thường được ưu tiên

chú ý trước so với những nhu cầu bậc cao này. Với một người bất kỳ, nếu thiếu ăn

uống, thiếu mặc, thiếu mái nhà... thì họ sẽ không quan tâm đến các nhu cầu về vẻ đẹp,

sự tôn trọng, sự sáng tạo, thể hiện phong cách bản thân sẽ dần bị thui chột, mai một.

Sự hiểu biết về thứ bậc nhu cầu của Maslow giúp xác định được những nhu

cầu nào trong hệ thống thứ bậc nhu cầu của con người còn chưa được thỏa mãn tại

thời điểm hiện tại. Ai cũng cần được yêu thương, tôn trọng, an toàn, được thừa nhận

và nhu cầu được hoàn thiện bản thân. Sử dụng thuyết nhu cầu này sẽ giúp cho các

nhà hoạch định chính sách giúp cho con người mà đặc biệt là những thanh niên

25

trong lựa chọn việc làm nhằm thỏa mãn nhu cầu cả về vật chất và tinh thần.

1.3. Vài nét về tình hình ao động việc làm của thanh niên hiện nay

Trong xu thế hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới, đòi hỏi thị trường lao

động ở nước ta cần phải phát triển linh hoạt để hỗ trợ tăng trưởng, nâng cao sức

cạnh tranh của nền kinh tế. Tuy nhiên, do mới hình thành và phát triển chưa đồng

bộ nên thị trường lao động Việt Nam đang bộc lộ nhiều mâu thuẫn trong đó nghiêm

trọng nhất là mất cân bằng giữa cung và cầu, năng suất lao động thấp. Trong khi

chúng ta lại thừa sức lao động ở nông thôn thì các lĩnh vực như phát triển công

nghiệp, dịch vụ lại đang thiếu hút lao động trầm trọng.

Đối với thanh niên thì đây được xem là lực lượng nòng cốt với nguồn lực lao

động dồi dào và đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp CNH - HĐH đất nước.

Theo báo cáo điều tra lao động việc làm Việt Nam năm 2014, lực lượng lao

động thanh niên chiếm 14,1% lực lượng lao động toàn quốc, tương đương 7,6 triệu

người. Trong đó tỷ lệ nữ thanh niên tham gia lực lượng lao động ở cả khu vực thành thị

và nông thôn đều thấp hơn so với nam thanh niên là 45,7% so với 54,3%. [2, tr.18]

Cũng theo báo cáo này thì tỷ lệ thất nghiệp ở nữ thanh niên cao hơn so với nam

thanh niên và đáng chú ý là ở hai thành phố lớn nhất cả nước là Hà Nội và TP.Hồ Chí

Minh, tỷ lệ thanh niên thất nghiệp là khá cao khoảng hơn 10%.

Còn đánh giá của các chuyên gia quốc tế thì lao động Việt Nam giàu lực lượng

nhưng nghèo kỹ năng và thiếu trầm trọng về chất lượng. Lực lượng lao động nước ta

bao gồm cả thanh niên được nhìn nhận là khéo léo, thông minh, sáng tạo, tiếp thu

nhanh những thành tựu công nghệ và kỹ thuật hiện đại nhưng thiếu tính chuyên nghiệp.

Trên thực tế, chất lượng nguồn lao động nước ta còn thấp và có khoảng cách khá lớn so

với các nước trong khu vực. Nếu lấy thang điểm là 10 thì chất lượng nhân lực của nước

ta chỉ đạt 3,79 điểm, thấp hơn nhiều so với Malaysia đạt 5,59 điểm, Ấn Độ đạt 5,76

điểm, Hàn Quốc đạt 6,91 điểm. Do vậy, năng suất lao động của nước ta đứng vào hàng

thấp nhất ở Châu Á, chỉ bằng 1/5 của Malaysia và 2/5 của Thái Lan. [4, tr.29]

Tại địa bàn nghiên cứu, qua tìm hiểu cho thấy, số dân là 188 nghìn người, có

khoảng 51 nghìn người từ 16 đến 30 tuổi (chiếm 27,12% số dân toàn huyện). Mặc dù

là một huyện ngoại thành cách trung tâm Hà Nội không xa song đây vẫn là một vùng

26

đất từ hàng trăm năm nay luôn lấy sản xuất nông nghiệp làm nền tảng. Do vậy, nhân

dân trong huyện nói chung và thanh niên nói riêng luôn được coi là những người lao

động cần cù, chăm chỉ, chịu khó không nề hà cả những công việc nặng nhọc, vất vả.

Nhiều thanh niên đã có ý thức vươn lên trong cuộc sống, không cam chịu cuộc sống

nghèo khó. Họ chịu khó học hỏi và tìm ra cho mình một hướng đi để thoát nghèo đồng

thời giúp đỡ những người khác có công việc ổn định.

Trình độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của người lao động có vai trò hết

sức quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và phát triển kinh tế xã hội của cả nước

cũng như mỗi địa phương. Vì vậy, không ngừng đào tạo nâng cao trình độ chuyên

môn kỹ thuật cho người lao động luôn là nhệm vụ của các cấp các ngành. Trong

những năm qua, lực lượng lao động đã được đào tạo ở huyện tăng lên với tốc độ

khá nhanh. Tính đến năm 2015, lao động đã qua đào tạo trên toàn huyện đã tăng lên

là 50,5%. Tốc độ tăng bình quân là 17,6%. Điều này là do hệ thống trung tâm giáo

dục thường xuyên, trung tâm dạy nghề được quan tâm phát triển mạnh. Bên cạnh

đó, phần lớn các xã, thị trấn trong huyện đều có những chương trình phối hợp, liên

kết với nhiều công ty, trung tâm đào tạo đóng trên địa bàn thành phố để không

ngừng đẩy mạnh hoạt động đào tạo nghề cho người lao động.

Tuy nhiên, một thực tế cũng đặt ra hiện nay là thanh niên địa phương vốn

phần lớn xuất thân từ các gia đình nông dân nên chịu ảnh hưởng rất lớn từ văn hóa

nông nghiệp. Họ gặp rất nhiều khó khăn khi hòa nhập vào quá trình CNH - HĐH

với môi trường làm việc năng động, sáng tạo và đầy tính cạnh tranh khốc liệt. Đa

phần thanh niên địa phương còn thiếu tác phong làm việc công nghiệp, ý thức tổ

chức kỷ luật thấp và thiếu hiểu biết về pháp luật. Do vậy, vẫn xảy ra tình trạng bỏ

việc, thay đổi công việc liên tục trong một thời gian ngắn. Một bộ phận thanh niên

vẫn có tâm lý trông chờ, ỷ lại mong ngóng vào sự hỗ trợ từ phía gia đình và xã hội.

Lao động thanh niên tại một số làng nghề truyền thống vẫn chưa nhận thức

được vai trò của việc cải tiến mẫu mã, chất lượng sản phẩm để đáp ứng với thị hiếu

và nhu cầu ngày một cao của thị trường trong nước và quốc tế. Do vậy một số sản

27

phẩm truyền thống có giá trị ngày càng giảm sút về chất lượng, nghèo nàn về kiểu

dáng và mẫu mã, khó tiêu thụ tại thị trường trong nước chứ chưa nói đến thị trường

quốc tế.

1.4. Tiểu kết

Thực trạng việc làm của thanh niên ở nước ta không phải là một đề tài mới,

nhưng là một đề tài luôn thu hút sự quan tâm, chú ý của giới nghiên cứu trên các

lĩnh vực khác nhau cũng như của đông đảo nhân dân. Cho đến hiện nay, phần lớn

các công trình nghiên cứu về lao động việc làm được thực hiện dưới dạng báo cáo

riêng lẻ cho từng dự án phát triển hoặc những báo cáo tổng thể chung của một tỉnh

hoặc một thành phố chứ ít dành nhiều sự quan tâm đến khu vực ngoại thành các đô

thị lớn.Ngoài ra đề tài lao động việc làm cũng được thực hiện dưới dạng các bài

báo, báo cáo tham luận các hội thảo, luân án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ. Các nghiên

cứu về lao động việc làm về cơ bản thường tập trung vào một số vấn đề: việc làm

cho sinh viên sau khi tốt nghiệp ĐH; việc làm cho thanh niên từ nông thôn ra thành

thị; vấn đề về việc làm của người dân sau khi bị thu hồi đất, phục vụ cho các khu

kinh tế v.v…

Trong nghiên cứu về việc làm của thanh niên khu vực ngoại thành Hà Nội,

chúng tôi đã làm rõ khái niệm về thanh niên, lao động, việc làm, khái niệm về thất

nghiệp và thiếu việc làm.

Trên cơ sở các vấn đề đặt ra, chúng tôi sử dụng các lý thuyết xã hội học mà

trọng tâm là lý thuyết về nhu cầu và lý thuyết mạng lưới xã hội để tìm hiểu về thực

trạng việc làm của thanh niên tại thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương, huyện Thanh

Oai, Hà Nội.

1.5. Khái quát về địa b n nghiên cứu

1.5.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội tại huyện Thanh Oai

1.5.1.1. Điều kiện tự nhi n Thanh Oai là huyện đồng bằng có diện tích tự nhiên 123,85 km2, cách trung

tâm Hà Nội khoảng 20km về phía tây nam. Huyện Thanh Oai phía bắc và phía tây

bắc giáp quận Hà Đông, với Sông Nhuệ chảy ở rìa phía Đông Bắc huyện, là ranh

28

giới tự nhiên, phía Tây giáp huyện Chương Mỹ (với Sông Đáy là ranh giới tự

nhiên), phía Tây Nam giáp huyện Ứng Hòa, phía đông nam giáp huyện Phú Xuyên,

phía đông giáp huyện Thường Tín và phía Đông Bắc giáp huyện Thanh Trì.

Giao thông: Quốc lộ 21B là huyết mạch giao thông của huyện, từ Hà Đông đi

chùa Hương và sang Hà Nam, qua thị trấn Kim Bài. Quốc lộ 6 qua rìa phía Tây Bắc

huyện, dự án đường trục phía nam đi xuyên qua huyện, ngoài ra còn có tỉnh lộ 71.

Phía Đông Bắc có tuyến đường sắt vành đai phía Tây Hà Nội chạy qua, để

tới ga Văn Điển.

Huyện có 20 đơn vị hành chính cấp xã và 1 thị trấn huyện lỵ.

1.5.1.2.Đặc điểm kinh tế - xã hội

Thanh Oai là một vùng quê mang những nét đặc trưng của vùng đồng bằng

Bắc bộ với rất nhiều làng nghề truyền thống như nón lá làng Chuông, làm quạt nan,

đan mây tre, giang đan làng Vác và xã Cao Viên. Gần chục năm trở lại đây, các khu

công nghiệp mở ra trên địa bàn đã thu hút một lượng lớn lao động địa phương. Do

vị trí chỉ cách trung tâm Hà Nội không xa nên Thanh Oai sẽ tiếp tục phát triển. Hiện

nay thành phố Hà Nội đang triển khai xây dựng nhiều dự án trên địa bàn huyện bao

gồm: trục đường phát triển phía nam với các khu độ thị như (Mỹ Hưng, Thanh Hà

A, Thanh Hà B); dự án đường vành đai 4, cụm công nghiệp Cao Viên Bình Đà.

Năm 2015 vừa qua, tổng giá trị sản xuất toàn huyện đạt 10,722 tỷ đồng, giá

trị sản xuất nông nghiệp đạt 1823 tỷ đồng. Thu nhập bình quân đầu người là 25 triệu

đồng/người/năm tăng 11,4 triệu đồng so với năm 2010.Tỷ lệ hộ nghèo toàn huyện

còn khoảng 3%.

Dân số toàn huyện theo niên giám thống kê Hà Nội tính đến ngày 31 tháng

12 năm 2014 là 188,100 người. Mật độ dân số là 1519 người/km2.[6, tr.28]

1.5.2. Thị trấn Kim Bài - Huyện Thanh Oai

1.5.2.1. Điều kiện tự nhi n

Thị trấn Kim Bài có diện tích tự nhiên là 4,36 km². Thị trấn Kim Bài được

thành lập năm 1994 trên cơ sở một phần diện tích tự nhiên và dân số của các xã

Kim An và Đỗ Động. Kim Bài có 3 thôn là Kim Bài, Kim Lân, Cát Động. Thị trấn

29

tiếp giáp với các xã Thanh Văn, Phương Trung, Thị trấn có quốc lộ 21B chạy xuyên

qua và đây là một tuyến đường giao thông quan trọng đi tới những điểm du lịch nổi

tiểng của Hà Nội như khu du lịch Chùa Hương, hồ Quan Sơn v.v…

1.5.2.2. Đặc điểm kinh tế - xã hội

Năm 2015, thu nhập bình quân đầu người của thị trấn đạt 28,5 triệu

đồng/người/năm. Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống dưới 3%. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch

theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - dịch vụ. Tính đến

năm 2015, tỷ trọng sản xuất nông nghiệp từ hơn 90% giảm xuống còn 12,6 %. Bên

cạnh đó, đời sống văn hóa tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, hiện

nay, cả 4/4 làng, tổ dân phố của thị trấn đều đạt danh hiệu dơn vị văn hóa; 3/3

trường học đều đạt danh hiệu trường chuẩn quốc gia.

Năm 2014, UBND TP đã phê duyệt quy hoạch chung thị trấn Kim Bài. Đến

năm 2020, dân số toàn thị trấn sẽ là 8000 người, đến năm 2030, sẽ là 9000 người.

Theo quy hoạch chung của Huyện, thị trấn Kim Bài là trung tâm hành chính -

chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội của huyện Thanh Oai; là đô thị loại V, đảm nhận

vai trò đầu mối về hạ tầng kỹ thuật, dịch vụ công cộng, sản xuất của thành phố cho

vùng nông thôn huyện Thanh Oai nói riêng và khu vực phía Nam thành phố Hà

Nội nói chung.

Không gian quy hoạch được định hướng theo mô hình sinh thái mật độ thấp,

chủ yếu xây dựng thấp tầng, có không gian kiến trúc cảnh quan hài hòa với hệ thống

cảnh quan tự nhiên, di tích lịch sử và không gian kiến trúc truyền thống địa phương.

Hiện nay, dân số toàn thị trấn là 6285 người, mật độ dân số đạt 1212

người/km².

1.5.3. Xã Cao Dương - Huyện Thanh Oai

1.5.3.1. Điều kiện tự nhiên

Xã Cao Dương có diện tích là 4,62km2, xã có 5 thôn là Mục Xá, Đa Ngư,

Thị Nguyên, Cao Xá và Áng Phao. Xã cách trung tâm thị trấn huyện lỵ khoảng 7km

về phía đông nam. Toàn xã có khoảng gần 300 ha đất sản xuất nông nghiệp. Xã có

đường quốc lộ 21B chạy ven qua và có sông Đáy là ranh giới tự nhiên với một số xã

của huyện Chương Mỹ - Hà Nội. Xã cũng tiếp giáp với phố Vác nằm trên trục

30

đường quốc lộ 21B vốn là một thị tứ nổi tiếng trong hàng trăm năm nay chuyên sản

xuất và kinh doanh các mặt hàng truyền thống như quạt, lồng chim, giò chả. Trong

quá khứ đây được coi là những sản vật quý và được người dân địa phương tiến dâng

các bậc vua chúa.

1.5.3.2.Đặc điểm kinh tế - xã hội

Dân số xã Cao Dương là 9.213 người. Toàn xã có 5 thôn với lịch sử hàng

trăm năm và 2 cụm dân cư mới xuất hiện trong khoảng 10 năm trở lại đây, bám hai

bên trục đường liên xã. Ngoài trồng lúa, xã đã phát triển mạnh chăn nuôi gia cầm,

thủy cầm với tổng đàn trên 40.000 con, 9 trang trại tập trung quy mô lớn trên cơ sở

chuyển đổi những chân ruộng vàn cao sang trồng rau an toàn, chuyển vùng ruộng

trũng sang mô hình lúa - cá - vịt hoặc chuyên canh thủy sản. Đặc biệt, Cao Dương

đã chuyển đổi khá thành công cơ cấu kinh tế từ thuần nông sang phát triển dịch vụ,

ngành nghề, nâng cao đời sống cho nhân dân. Nhờ năng động trong làm ăn, những

năm qua, cơ cấu kinh tế của xã có sự chuyển dịch tích cực: Lao động nông nghiệp

giảm, lao động trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ, thương mại không ngừng tăng.

Thu nhập bình quân đầu người của xã năm 2015 đạt 29.456.000đ. Không chỉ phát

triển mạnh kinh tế, Cao Dương còn phát huy nét đẹp văn hóa, 4/5 làng trong xã đã

được công nhận danh hiệu làng văn hóa. Cùng với hoạt động sản xuất nông nghiệp,

tại mỗi làng trong xã, người dân đều phát triển những ngành nghề giúp tăng thu

nhập cho mỗi gia đình như: làm gỗ mộc, may mặc, làm khung chuồng, làm nón lá

v.v…Trong xã đã xuất hiện một số khu du lịch sinh thái tổng hợp có hệ thống nhà

hàng,khách sạn, khu hồ bơi, khu câu cá, bơi thuyền v.v…, một số tổ sản xuất các

mặt hàng lồng, chuồng kim loại nuôi gia cầm, tổ sản xuất đồ gỗ, tổ may mặc theo

mùa v.v.. Những ngành nghề này không những giúp giải quyết việc làm, tăng thu

nhập cho lao động địa phương mà còn thu hút lao động từ nhiều vùng khác trong

31

huyện đến làm việc.

CHƢƠNG II: THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA THANH NIÊN TẠI

THỊ TRẤN KIM BÀI VÀ XÃ CAO DƢƠNG - HUYỆN THANH OAI -

HÀ NỘI

2.2.Đặc điểm nhân khẩu xã hội của thanh niên tại địa b n nghiên cứu

2.2.1.Giới tính

Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2014, dân số Hà Nội là 7,319,000 người

trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 3,702,000 người chiếm 52,3% dân

số toàn thành phố trong đó khu vực Nhà nước là 577,000 người, khu vực Ngoài nhà

nước là 2,897,000 người, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là 228,000 người. Tỷ lệ

nữ tham gia lực lượng lao động toàn thành phố là 48,6%. [6, trg.27]

Riêng địa bàn nghiên cứu, thông qua các báo cáo do Phòng Lao động - Thương

binh và Xã hội Huyện Thanh Oai cung cấp, tổng hợp thành bảng biểu như sau:

Bảng 2.1: Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động tại huyệnThanh Oai

giai đoạn 2010 - 2015

LLLĐ từ 15 Trong đó Số lượng % tuổi trở lên Nam % Nữ %

Thành thị 6,250 4,6 49,5 51,5

Nông thôn 129,708 95,4 50,5 49,5

Tổng số 135,958 100 100 100

Nguồn: báo cáo kết quả thực hiện chính sách tạo việc làm gắn với đảm bảo

an sinh xã hội huyện Thanh Oai từ năm 2009 - tháng 6 năm 2015, tr.5)

Trong nghiên cứu của tôi thực hiện tại thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương, tỷ

lệ nam và nữ tham gia vào trả lời phỏng vấn bảng hỏi có sự chênh lệch nhưng

không nhiều. Trong tổng số 200 thanh niên từ 16 đến 30 tuổi tham gia thì nam giới

là 104 (chiếm 52%) còn nữ giới là 96 (chiếm 48%). Điều này cho thấy, những thông

tin có được từ bảng hỏi có tính đại diện tương đối cao, giúp chúng ta hình dung

được những điểm giống và khác nhau trong quan điểm, cách nhìn nhận giữa nam và

32

nữ về thực trạng lao động và việc làm tại địa phương.

2.2.2.Độ tuổi

Với mong muốn tìm hiểu về độ tuổi của thanh niên có ảnh hưởng thế nào

đến việc làm, tôi phân ra 3 nhóm tuổi trong 200 thanh niên từ 16 đến 30 tuổi tại địa

bàn nghiên cứu. Cụ thể là từ 16 đến 20 tuổi, từ 21đến 25 tuổi, từ 26 đến 30 tuổi.

Đây được coi là một trong những biến số quan trọng nói lên quan niệm, ý kiến của

mỗi thế hệ trong cùng một vấn đề. Với mỗi độ tuổi, khuynh hướng lựa chọn, áp lực

việc làm là khác nhau. Thông thường, giai đoạn đầu của tuổi thanh niên áp lực tìm

kiếm việc làm không cao bằng độ tuổi sau này của thanh niên. Đối với họ, làm việc

chỉ với mục đích thử sức, trải nghiệm, thỏa mãn những mơ ước và khát vọng của

bản thân. Họ có thể thay đổi công việc sau một khoảng thời gian nhất định làm việc.

Đối với những thanh niên ở giai đoạn sau, họ khao khát có được công việc lâu dài,

bền vững với thu nhập ổn định để đảm bảo cho cuộc sống bản thân và gia đình.

Làm việc không chỉ cho bản thân mà còn vì con cái. Mục đích của tôi khi phân chia

ra làm ba nhóm tuổi trong thanh niên để xem có sự khác biệt trong việc lựa chọn

việc làm hay không.

Bảng 2.2: Nhóm tuổi của thanh niên

STT Nhóm tuổi Số lượng %

1 Từ 16 đến 20 tuổi 47 23,5

2 Từ 21 đến 25 tuổi 55 27,5

3 Từ 26 đến 30 tuổi 98 49,0

Tổng 200 100

(Nguồn: khảo sát của đề tài)

Trong cuộc khảo sát này, tỷ lệ nhóm tuổi có sự chênh lệch, cụ thể là thanh

niên trả lời ở độ tuổi từ 16 đến dưới 20 tuổi là 23,5%; từ 21 đến 25 tuổi là 27,5%; từ 26

đến 30 tuổi là 49,0%. Sở dĩ số lượng thanh niên trong nhóm tuổi 16 - 20 và nhóm tuổi

21 - 25 ít hơn so với nhóm tuổi 26 - 30 tuổi là vì ở 2 nhóm tuổi đầu phần nhiều các

thanh niên vẫn còn đang ngồi trên ghế nhà trường, đang học ở các trường THPT, ĐH,

CĐ hay THCN/ Dạy nghề. Một số khác đi học xa hoặc theo gia đình đến sinh sống tại

33

những vùng khác, không thường xuyên có mặt tại địa bàn nghiên cứu mặc dù hộ khẩu

thường trú vẫn có tên họ. Do vậy, họ không thuộc đối tượng được lựa chọn để tham gia

vào nghiên cứu của tôi. Đối với nhóm từ 25 -30 tuổi nhìn chung là độ tuổi này hầu hết

đã đi làm và đang trong giai đoạn ổn định dần công việc. Nhóm này đã xác định được

đường đi nước bước rõ ràng trong công việc của họ. Nhiều người đã lập gia đình, có

con và một số đang dần khẳng định vị thế trên chính mảnh đất quê hương.

Trong tổng số 200 thanh niên tham gia trả lời phỏng vấn, có 87 thanh niên

(chiếm 43,5%) chưa có gia đình, 104 thanh niên (chiếm 52%) đã có gia đình. 5

thanh niên ( chiếm 2,5%) ly hôn và 4 thanh niên ( chiếm 2%) là góa bụa. Những

thanh niên kết hôn nằm rải rác trong nhóm tuổi 21 - 25 tuổi và 26 - 30 tuổi.

2.2.3.Trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật

Theo niên giám thống kê Hà Nội năm 2014, Hà Nội là địa phương có lực

lượng lao động được qua đào tạo cao nhất nước (39%). Tỷ lệ qua đào tạo của nam

cao hơn so với nữ ở cả khu vực thành thị và nông thôn.

2.2.3.1.Trình độ học vấn tại địa bàn nghi n cứu

Tại địa bàn được lựa chọn là xã Cao Dương và thị trấn Kim Bài - huyện Thanh

Oai, Hà Nội, qua quá trình thực hiện nghiên cứu nhóm thanh niên gồm 200 người bao

gồm đang đi làm và chưa đi làm trong độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi, tôi cũng đã thu được

một số kết quả về trình độ học vấn của nhóm này tại địa phương như sau:

Bảng 2.3: Trình độ học vấn của thanh niên (%)

Giới tính

THCS

THPT

Khác

TH

%

Nam

2,0

6,0

41,0

3,0

52,0

Nữ

2,0

6,0

37,5

2,5

48,0

Tổng

4,0

12,0

78,5

5,5

100

Nguồn: Khảo sát của đề tài)

Qua bảng số liệu về trình độ học vấn trên cho thấy, tỷ lệ thanh niên địa

phương có trình độ THPT chiếm 78,5% tổng số thanh niên tham gia vào quá trình

khảo sát. Tỷ lệ thanh niên địa phương có trình độ TH và THCS chỉ chiếm khoảng

16%. Còn lại là học các lớp bổ túc hoặc theo học những trung tâm giáo dục thường

34

xuyên tại địa phương để hoàn thành chương trình giáo dục cơ bản. Tuy nhiên con số

này chỉ chiếm 5,5% tổng số người được hỏi. Xét về mối tương quan giữa nam và nữ

về trình độ học vấn, ta vẫn thấy có một khoảng cách nhất định. Nếu như ở cấp TH

và THCS, tỷ lệ nam và nữ là ngang nhau song càng lên cao như ở cấp THPT, đã có

sự chênh lệch trong đó nam chiếm tỷ lệ là 41% và nữ là 37,5%.

Trong số những thanh niên được hỏi thì có một tỷ lệ nhỏ thanh niên mới

chỉ học hết tiểu học (chiếm 4%) và tốt nghiệp trung học cơ sở (chiếm 12%). Khi tôi

đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân vì sao mà các thanh niên này lại không đi học lên

nữa mà lại bằng lòng với trình độ học vấn khiêm tốn như vậy thì được biết lý do

chủ yếu là điều kiện kinh tế gia đình của họ còn khó khăn nên một số thanh niên dù

rất ham học nhưng vẫn phải nghỉ học vì không có tiền đóng học phí, có những thanh

niên nghỉ học sớm để phụ giúp cha mẹ làm kinh tế. Sau này, họ mải mê làm việc

nên không có thời gian học tập thêm để bù đắp những kiến thức còn thiếu hụt.

Xét một cách tổng thể, trình độ học vấn của thanh niên tại địa bàn nghiên

cứu là tương đương với mặt bằng chung của khu vực ngoại thành Hà Nội và cao

hơn so với mức bình quân của cả nước hiện nay.

2.2.3.2.Trình độ chuy n môn tại địa bàn nghi n cứu

Căn cứ vào kết quả xử lý bảng hỏi cho thấy, trình độ học vấn của thanh niên

tại thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương là khá cao. Vậy còn trình độ chuyên môn của

thanh niên tại những khu vực này thì như thế nào. Qua quá trình nghiên cứu đã cho

những kết quả như sau:

Bảng 2.4: Trình độ chuyên môn, kỹ thuật của thanh niên (%)

Giới

Chưa qua

Sơ cấp

THCN

ĐH

Khác

Tổng

tính

đào tạo

%

Nam

11,0

4,5

11,5

19,0

4,0

4,5

54,5

Nữ

16,0

4,5

10,0

10,5

3,0

1,5

45,5

Tổng

27,0

9,0

21,5

29,5

7,0

6,0

100

Nguồn: Khảo sát của đề tài)

Bảng số liệu trên cho thấy trong tổng số 200 thanh niên được hỏi, tỷ lệ thanh

35

niên được được đào tạo nghề ở mức THCN, cao đẳng và đại học tại địa bàn là khá

cao, chiếm 58%. Tuy nhiên vẫn còn có khoảng 27% tỷ lệ thanh niên được hỏi cho

biết họ chưa bao giờ được đào tạo về trình độ chuyên môn, kỹ thuật để phục vụ cho

công việc. Cũng giống như trình độ học vấn, càng đào tạo nghề ở mức cao, sự

chênh lệch giữa tỷ lệ giữa nam và nữ lại càng lớn. Nam là 11,5% so với nữ là 10%

ở mức THCN. 19% của nam so với 10,5% của nữ ở mức cao đẳng. 4% của nam so

với 3% của nữ ở mức đại học. Đối nhóm thanh niên chưa qua đào tạo thì họ cho

biết, họ chủ yếu mầy mò, tự tìm hiểu từ mọi người xung quanh rồi dần trở nên quen

việc. Điều này thấy rõ nhất ở nhóm lao động trẻ đang làm việc cho các cơ sở sản

xuất và kinh doanh tư nhân tại địa phương. Với công việc như vậy, không đòi hỏi

quá cao về trình độ chuyên môn, kỹ thuật, học xong THPT là có thể vào làm được,

điều quan trọng là cần có sự tỉ mỉ, kiên nhẫn và sức khỏe.

Thực ra làm việc tại xưởng là lao động phổ thông n n ti u chí cũng không

quá khắt khe. Vào làm thử mấy ngày nếu cảm thấy phù hợp thì bám trụ lại. Tất

nhi n là cũng có một số yêu cầu cơ bản như là có sức khỏe, có sự kiên trì, tỉ mỉ.Tôi

chọn công việc này vì xưởng gần nhà đi lại thuận tiện, công việc thường xuy n, đều

đặn, không phải theo kiểu thời vụ. (nam, 24 tuổi, THPT, công nhân)

Bản thân chủ một số cơ sở sản xuất kinh doanh khi tuyển dụng lao động vào

làm việc cũng không quan trọng hóa vấn đề là lao động đã qua đào tạo hay là chưa,

thời gian đầu chủ sẽ trực tiếp hướng dẫn để cho người mới thực hành.

Nam hay nữ đều có thể làm được. Tuy nhiên trong từng quá trình thì có

những khâu nữ lại đảm nhận tốt hơn. Ví dụ như khâu đan từng miếng kim loại vào

nhau thì đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo thì nữ làm tốt hơn và cẩn thận hơn.

Phần lớn người lao động khi vào làm trong xưởng là mình phải cầm tay chỉ

việc, người làm lâu hướng dẫn cho người mới làm chứ bản thân người mới cũng

không được đào tạo nghề bài bản trước khi làm, làm nhiều thành quen việc, mỗi

người được phân làm một quy trình. (nam, 29, THCN, chủ xưởng sản xuất)

Còn đối với nhóm thanh niên làm việc cho các cơ quan Nhà nước thì lại rất

đề cao tới việc học lên cao để có thể nắm vững công việc mình đang đảm nhận.

Vì tôi được học lớp đào tạo công chức nguồn của thành phố n n sau đó được

36

phân về địa phương làm việc theo chỉ ti u đăng ký. Chức danh chuyên môn của em

là văn hóa xã hội thì nó phù hợp với ngành công tác xã hội mà em đã theo học. Làm

việc tại đây thì cũng gần với nơi em sinh sống, đi lại thuận tiện. Hiện nay, để nâng

cao thêm kiến thức bản thân, ngày đi làm, tối em vẫn theo học cao học ngành Công

tác xã hội tại trường đại học khoa học xã hội và nhân văn ở Hà Nội. Nói chung là

hơi bận nhưng cũng phải cố thôi vì đã chọn làm cho cơ quan nhà nước thì phải thế.

(nữ, 24, ĐH, công chức)

Qua việc thực hiện nghiên cứu bằng bảng hỏi gửi tới thanh niên tại địa bàn

nghiên cứu cũng như qua một số cuộc phỏng vấn sâu có thể thấy rằng, phần lớn

thanh niên đã nhận thức được tầm quan trọng của việc học văn hóa và học nghề,

góp phần nâng cao trình độ và kỹ năng cho bản thân để lập nghiệp ngay trên chính

mảnh đất quê hương.

2.3.Cơ cấu nghề nghiệp việc m của thanh niên

Chuyển dịch cơ cấu kinh tế là xu hướng có tính quy luật của nền kinh tế

trong quá trình Công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Thực chất của xu hướng này là quá

trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế từ thuần nông là chủ yếu sang nền kinh tế đa ngành

với nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ để tạo thêm việc làm, tăng năng suất lao

động và thu nhập cho người lao động. Đó là quá trình giảm tỷ trọng nông nghiệp và

tăng tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong tổng giá trị sản xuất và giá trị tăng thêm

của nền kinh tế, gắn với chuyển đổi cơ cấu lao động theo hướng giảm số lượng

tuyệt đối và tỷ trọng lao động trong nông nghiệp, tăng số lượng và tỷ trọng lao động

trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, nhằm mục đích giải phóng lao động ở các

ngành có năng suất thấp sang các ngành có năng suất cao hơn. Từ đó tạo ra nhiều

của cải vật chất và sản phẩm dịch vụ cho xã hội. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tất yếu

cũng dẫn tới sự thay đổi về cơ cấu lao động việc làm nói chung và trong thanh niên

lao động khu vực nông thôn nói riêng.

Tại Thanh Oai, tỷ trọng trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và dịch vụ

tăng lên kéo theo sự thay đổi về cơ cấu lao động. Cùng với đó tỷ trọng trong lĩnh

37

vực nông nghiệp đang dần giảm đi.

Bảng 2.5: Tỷ lệ nam, nữ thanh niên tham gia các ngành nghề

Trong đó

Ngành nghề

%

N

Nam %

Nữ %

13,5

22,5

9,0

Làm nông nghiệp

45

Làm Công nghiệp,

Tiểu

thủ

công

49

24,5

19,5

5,0

nghiệp

Làm Dịch vụ

89

44,5

21,5

23

Làm hỗn hợp

17

8,5

2,0

6,5

Tổng số

200

100

52,0

48,0

Nguồn: Khảo sát của đề tài)

Căn cứ vào kết quả xử lý phiếu cho thấy, tỷ lệ lao động trẻ tại địa bàn nghiên

cứu làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp chiếm tỷ lệ là 22,5%. Trong khi đó, tỷ lệ

lao động trẻ trong các ngành công nghiệp, xây dựng có cao hơn một chút là 24,5%;

ngành dịch vụ chiếm tỷ trọng là 44,5%. Số còn lại là làm những ngành nghề hỗn

hợp như: vừa chăn nuôi tại nhà vừa kinh doanh buôn bán nhỏ ven đường hoặc có

thanh niên vừa làm các mặt hàng tiểu thủ công nghiệp (nón lá, mộc) vừa trồng nấm

và các loại rau củ quả hữu cơ v.v…

Xét về mối tương quan giữa nam và nữ trong các ngành nghề cơ bản tại địa

phương cho thấy tỷ lệ nữ trong lĩnh vực nông nghiệp đông hơn so với nam. Trong

khi đó, tỷ lệ nam lại nhiều hơn với nữ trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng. Đối

với các ngành dịch vụ, tỷ lệ nữ nhỉnh hơn nam.

2.3.1. Nông nghiệp

Trong các văn kiện Đại hội Đảng bộ Thị trấn Kim Bài và Đại hội Đảng bộ xã

Cao Dương nhiệm kỳ 2015 - 2020 vừa qua đều khẳng định rất rõ là các địa phương

sẽ dần giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp và tăng tỷ trọng các ngành dịch vụ, công

nghiệp trong định hướng phát triển. Điều này cũng xuất phát từ thực tế hiện nay là

38

lực lượng lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp đang dần giảm đi nhất là ở

nhóm thanh niên trong bối cảnh đô thị hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra

mạnh mẽ.

Có 45 thanh niên ở cả 2 địa bàn (chiếm 22,5%) cho biết công việc chính hiện

nay của họ là làm nông nghiệp. Tuy nhiên có sự chênh lệch giữa nam và nữ. Nam

chiếm 40% còn nữ là 60%. Xét về trình độ học vấn, có tới 88,8% nam thanh niên và

92,4% nữ thanh niên làm nông nghiệp cho biết họ mới tốt nghiệp THPT, THCS và

TH nên họ khó có điều kiện làm nghề gì khác ngoài nông nghiệp. Chỉ có 11,1%

nam thanh niên và 7,4% nữ thanh niên cho biết họ đã được đào tạo ở mức độ trung

cấp trở lên. Do vậy, đối với nhóm thanh niên không có điều kiện học lên cao hơn thì

họ vẫn phải theo nghề mà ông bà, cha mẹ họ đã từng làm trước đây dẫu biết rằng

nghề này chỉ đủ ăn chứ khó mà giàu lên được.

Qua tiếp xúc trực tiếp với một số thanh niên địa phương thì họ cũng tỏ ra

không hứng thú lắm với hoạt động nông nghiệp mặc dù họ cho biết khi còn nhỏ

cũng được người lớn hướng dẫn cách thức trồng trọt chăn nuôi.

Gia đình em thì chỉ có ông bà thôi chứ bố mẹ em thì không làm nông nghiệp

nữa mặc dù họ cũng biết làm nhưng không coi nông nghiệp là nguồn thu nhập

chính nữa. Ngay cả bọn em cũng vậy thôi, hồi nhỏ người lớn cũng hướng dẫn cho

cách làm ruộng, chăn nuôi song cũng chỉ là phụ giúp gia đình thôi chứ còn hiện tại

bọn em cũng chả làm gì li n quan đến nông nghiệp nữa. Bố mẹ em làm kinh doanh

buôn bán là chủ yếu. (nữ, 24, CĐ, chủ cửa hàng giải khát)

Nhiều bậc phụ huynh vốn xuất thân là nông dân, bao năm gắn bó với ruộng

đồng, chuồng trại nhưng cũng không khuyến khích con em mình theo nghề nông vì

họ thấy được cái cực khổ một nắng hai sương của công việc đồng áng.

Đời ông bà, bố mẹ đều chỉ biết làm nông nghiệp mà cũng chỉ đủ ăn n n tôi

cũng chả khuyến khích con cái theo nghề nông làm gì. Có điều kiện thì kiếm nghề

nào có thu nhập tốt hơn mà làm (nam, 60, THCS, nông dân).

Đối với cán bộ chính quyền thì nông nghiệp cũng chỉ còn phù hợp với những

đối tượng người lao động là trung niên tại địa phương.

Hàng năm, xã tổ chức các lớp tập huấn về chuyển giao khoa học kỹ thuật

39

chăn nuôi và trồng trọt cho người dân trong xã. Chúng tôi mời các giảng viên từ

thành phố và huyện về giảng dạy. Tuy nhiên phần lớn học viên của lớp học này là

trung niên từ 35 tuổi trở lên. Thanh niên không mặn mà lắm với nông nghiệp, có

chăng cũng chỉ là số ít mà thôi. (nam, 45, ĐH, cán bộ chính quyền).

Cũng theo đại diện chính quyền địa phương, nếu chỉ tập trung vào làm nông

nghiệp thuần túy thì có khi mấy tháng vất vả mới có thu nhập trong khi làm những

nghề phi nông nghiệp có thể cho thu nhập từ 150 - 200 nghìn/người/ngày.

2.3.2. Công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp

Theo lãnh đạo UBND xã Cao Dương, giá trị sản xuất tiểu thủ công nghiệp và

xây dựng cơ bản năm 2015 đạt 113 tỷ đồng, chiếm 36% cơ cấu ngành. Các ngành

nghề truyền thống của địa phương như làm nón lá, làm nghề mộc vẫn được duy trì

đều đặn. Cùng với đó, các nghề mới phát triển trong khoảng 10 năm trở lại đây như

nghề may mặc, gia công các sản phẩm kim loại thu hút đến 62% lao động tại địa

phương và một số vùng lân cận.

Còn theo lãnh đạo UBND thị trấn Kim Bài, công nghiệp và tiểu thủ công

nghiệp trên địa bàn cũng trên đang trên đà phát triển mạnh mẽ và đóng góp đáng kể

vào ngân sách của địa phương. Các cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, đồ uống có

cồn v.v..tại thị trấn mỗi năm nộp 100 tỷ đồng vào ngân sách của địa phương. Tại địa

bàn cũng đã xuất hiện nghề mới là làm tăm tre. Tuy nhiên, nghề này mới chỉ thu hút

một lượng nhỏ lao động trung niên chứ thanh niên không muốn làm.

Qua quá trình nghiên cứu cho thấy, với tỷ lệ 24,5% trong tổng số thanh niên

tham gia khảo sát cho biết họ đang làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng

và tiểu thủ công nghiệp. Theo dự báo của chính quyền địa phương tại những địa bàn

nghiên cứu thì tỷ lệ này cùng với ngành dịch vụ sẽ còn tăng lên trong thời gian tới

và tỷ lệ % lao động trẻ trong ngành nông nghiệp sẽ dần thu hẹp lại.

Xét mối tương quan giữa nam và nữ thì có thể thấy rằng, trong lĩnh vực công

nghiệp, xây dựng và tiểu thủ công nghiệp, tỷ lệ nam trong lực lượng lao động cao

hơn so với nữ, 59,2% so với 40,8%.

Về trình độ học vấn, cả nam và nữ đều tốt nghiệp THCS trở lên. Tuy nhiên

càng lên những cấp học cao hơn, tỷ lệ nam lại nhỉnh hơn so với nữ. Ví dụ như ở cấp

40

THPT, tỷ lệ nam là 48,2% trong khi nữ là 35%.

Đối với phụ nữ tại địa bàn khảo sát thì nghề may mặc là sự lựa chọn rất phù

hợp với trình độ, sức khỏe và khả năng. Chị em cho biết khi lập gia đình thì nghề

này thường linh hoạt về thời gian làm việc nên giúp họ có nhiều điều kiện chăm sóc

con cái và đảm đương công việc gia đình. Họ có thể chăn nuôi và trồng trọt khi vãn

các hợp đồng may mặc hoặc đang chờ các đơn hàng mới từ các công ty thu mua. Tỷ

lệ nữ thanh niên làm nghề may mặc chiếm tới 80% tổng số nữ lao động làm nghề

này tại địa bàn khảo sát. Những phụ nữ lớn tuổi thường chỉ làm những công đoạn

thủ công của một sản phẩm may mặc. Họ thường không quen với việc sử dụng các

loại máy móc hiện đại.

Vì chị em phụ nữ ở nông thôn không có điều kiện học lên cao nữa thì chọn

nghề may vì vừa nhẹ nhàng, phù hợp với khả năng, lại có điều kiện gần gũi để chăm

sóc gia đình. Nghề may cũng đa dạng sản phẩm, không may quần thì may áo, sửa

chữa quần áo cũ v.v….Học may cũng không mất thời gian lâu lắm nên tôi chọn

nghề may mặc. (nữ, 27, THPT, thợ may).

Còn với nam thanh niên tại địa bàn khảo sát khi được hỏi thì cho biết họ

thường vào làm những cơ sở sản xuất vật liệu xây dựng, xưởng mộc v.v…Họ

thường đảm nhận những quy trình khó hơn, phức tạp hơn.

Công việc liên tục phải tiếp xúc với máy móc, dầu mỡ nên nam giới làm việc

thì thuận tiện hơn là nữ giới. Nữ thì rụt rè hơn khi tiếp xúc với máy móc. Tuy nhiên

trong từng quá trình thì có những khâu nữ lại đảm nhận tốt hơn. Ví dụ như khâu

đan từng miếng kim loại vào nhau thì đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo thì nữ làm tốt hơn

và cẩn thận hơn.(25, nam, THPT, thợ cơ khí).

Với những thanh niên có kinh nghiệm đi làm nhiều nơi và có mối quan hệ xã

hội thì họ mạnh dạn vay vốn từ các đoàn thể địa phương để đầu tư mở rộng hoạt

động sản xuất.

Đoàn thanh ni n cho cơ sở vay vốn để đầu tư sản xuất với lãi suất thấp, tổ

chức cho anh em trong xưởng đi tham quan, học tập kinh nghiệm các mô hình

tương tự ở các địa phương khác. nam, 29, THCN, chủ cơ sở sản xuất).

2.3.3.Dịch vụ

Theo số liệu do chính quyền địa phương cung cấp thì ở cả 2 địa bàn khảo sát,

41

số hộ tham gia vào hoạt động kinh doanh là gần 700 hộ chiếm 10,2% tổng số hộ

kinh doanh trên địa bàn toàn huyện. Các loại hình kinh doanh chủ yếu bao gồm: ăn

uống, tạp hóa, đồ gia dụng v.v… Một số khác mở quán internet, ảnh viện, sữa chữa

xe cộ v.v…

Qua khảo sát bằng bảng hỏi tại địa bàn cho thấy, tỷ lệ thanh niên tham gia hoạt

động dịch vụ là 44,5% trong số đó có đến 56,5% là tự huy động vốn để hành nghề.

Còn lại là đi làm thuê như: bán hàng, bồi bàn, thu ngân, trông quán internet v.v…

Chúng em có đi tìm hiểu qua sách vở, internet, tham gia một khóa học ngắn

hạn như học cách pha chế đồ uống, làm đồ ăn nhanh v.v. Em thì xác định là mình

làm công việc gì gần nhà, không phải đi lại vất vả, mất thời gian là được. Sinh cơ

lập nghiệp tại qu hương có gia đình ủng hộ vẫn tốt hơn. (nam, 24, CĐ, chủ quán

giải khát).

Trong lĩnh vực dịch vụ, tôi còn đề cập đến nhóm thanh niên làm việc trong

các cơ quan Nhà nước tại địa phương. Họ đang là công chức, viên chức, có hợp

đồng từ 12 tháng trở lên cho các cơ quan tại Đảng ủy, chính quyền, đoàn thể, các

đơn vị giáo dục, y tế tại địa phương. Thời gian làm việc của họ dao động từ 1 năm

đến 8 năm và 100% số người được hỏi cho biết họ là người dân đang sinh sống tại

địa phương.

So với nhóm thanh niên làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp

thì đây là nhóm có trình độ học vấn và chuyên môn đa dạng nhất. 100% thanh niên

được hỏi cho biết họ đã tốt nghiệp THPT. Xét về trình độ chuyên môn, 65,5% thanh

niên được hỏi cho biết họ đều có trình độ THCN trở lên. Một số thanh niên còn

đang trong quá trình hoàn tất chương trình cao học tại một số trường đại học.

Em học lớp công chức nguồn của thành phố, ngoài ra có đăng ký chỉ tiêu về

các xã, phường, thị trấn. Chức danh chuyên môn của em là văn hóa xã hội thì nó phù

hợp với ngành công tác xã hội mà em đã theo học. Làm việc tại UBND Thị trấn Kim

Bài thì cũng gần với nơi em sinh sống, đi lại thuận tiện (nữ, 24 tuổi, ĐH, công chức ).

Một điểm khác khi tiến hành khảo sát tại địa phương cho thấy, có một số

lượng nhỏ thanh niên đảm nhiệm nhiều công việc cùng một lúc, chiếm tỷ lệ 8,5%.

Nhóm này cũng có đến 70% là nữ. Chị em làm công chức, viên chức nhà nước

42

trong giờ hành chính. Tranh thủ ngoài giờ hoặc ngày nghỉ, họ đảm đương thêm một

số nghề phụ khác như trồng nấm, bán tranh thuê hoặc làm nón lá rồi đem đi bán,

tăng thu nhập, phụ giúp gia đình.

Em làm công việc bán hàng tranh thuê này từ hồi sinh viên nên em có nhiều

mối khách hàng không chỉ ở địa phương mà còn ở các tỉnh, thành khác nữa. Nhà

em cũng có ruộng nhưng bây giờ không làm nữa để cho người ta cấy ruộng thuê

thôi. Đấy là em thì thế ngoài ra giáo vi n cùng trường em thì họ có thể về nhà làm

thêm nghề nón mới đảm bảo thu nhập được. Vì ở trường em, có giáo vi n đông con

nên mức lương hiện tại là không đủ nên họ phải làm thêm tại nhà thôi.( nữ, 26 tuổi,

CĐ, giáo viên mầm non).

2.4. Thu nhập của thanh niên tại địa b n nghiên cứu

Thu nhập là một trong những chỉ báo rất quan trọng để đánh giá được mức

sống của người dân địa phương. Trong báo cáo của huyện Thanh Oai năm 2015 cho

biết, thu nhập bình quân đầu người toàn huyện là 25 triệu đồng/người/năm. Đối với

xã Cao Dương là 30 triệu đồng/người/năm và thị trấn Kim Bài là 29 triệu

đồng/người/năm.

Qua tiến hành khảo sát bằng bảng hỏi tới 200 thanh niên tại xã Cao Dương

và thị trấn Kim Bài cho kết quả như sau:

Bảng 2.6: Thu nhập bình quân của thanh niên tại địa bàn nghiên cứu

Thu nhập bình quân

N

%

< 2 triệu đồng/tháng 47 23,5

2,1 triệu đồng - 3 triệu đồng/tháng 65 32,5

3,1 triệu đồng - 4 triệu đồng/tháng 27 13,5

4,1 triệu đồng - 5 triệu đồng/tháng 26 13,0

> 5 triệu đồng/tháng 6 3,0

Không cố định 29 14,5

100 Tổng 200

43

Nguồn: khảo sát của đề tài)

Với bảng số liệu trên cho thấy, thu nhập bình quân của thanh niên tại địa bàn

nghiên cứu tập trung đông nhất trong nhóm từ 2 - 3 triệu đồng/người/tháng. Tỷ lệ

thanh niên cho biết có mức thu nhập từ 4 triệu đồng/tháng trở lên chỉ chiếm 16%.

Tỷ lệ thanh niên có mức thu nhập hàng tháng dưới 2 triệu đồng/người/tháng là

23,5%. Đây chủ yếu tập trung ở nhóm thanh niên mới học xong và bắt đầu đi làm

để tích lũy kinh nghiệm. Nhóm này cho biết do mới đi làm nên họ chỉ có lương

cứng là chủ yếu chứ không có khoản phụ cấp thêm

Nghiên cứu của tôi cũng hướng tới việc xem xét có sự khác biệt nào giữa thu

nhập của thanh niên tại xã và thị trấn. Qua quá trình xử lý bảng hỏi của khảo sát đã

cho một số kết quả như sau:

Bảng 2.7: Thu nhập bình quân của thanh niên theo địa bàn

Thu nhập bình quân

Thị trấn

theo địa b n

N

%

N

%

< 2 triệu đồng/tháng 25 25 22 22

2,1 triệu đồng - 3 triệu đồng/tháng 29 29 36 36

3,1 triệu đồng - 4 triệu đồng/tháng 15 15 12 12

4,1 triệu đồng - 5 triệu đồng/tháng 15 15 11 11

> 5 triệu đồng/tháng 2 2 4 4

Không cố định 14 14 15 15

Tổng 100 100

Nguồn: khảo sát của đề tài)

Với kết quả của bảng trên cho thấy rằng, 1 xã và 1 thị trấn trong nghiên cứu

của tôi tuy có khác nhau về vị trí địa lý, khoảng cách cũng như những đặc điểm về

điều kiện kinh tế - xã hội song không vì thế mà có sự chênh lệch lớn về khía cạnh

thu nhập bình quân của thanh niên. Thu nhập của thanh niên tại cả 2 địa bàn vẫn rơi

vào nhóm từ 2,1 triệu - 3 triệu đồng/người/tháng. Một số thanh niên có mức thu

nhập cao hơn song tỷ lệ % cũng không có sự cách biệt quá lớn giữa 2 địa bàn. Với

nhóm thanh niên cho biết, mức thu nhập hàng tháng của họ là không cố định thì tỷ

44

lệ % gần như là bằng nhau.

Bảng 2.8: Thu nhập bình quân của thanh niên theo giới tính

Thu nhâp hàng tháng

Nam

Nữ

N

%

N

%

< 2 triệu đồng/tháng

20

19,2

26

27,0

2,1 triệu đồng - 3 triệu đồng/tháng

31

29,8

36

37,5

3,1 triệu đồng - 4 triệu đồng/tháng

19

18,2

9

9,3

4,1 triệu đồng - 5 triệu đồng/tháng

18

17,3

8

8,6

> 5 triệu đồng/tháng

3

3,0

1

1,0

Không cố định 13 12,5 16 16,6

96

100

Tổng

104

100

Nguồn: Khảo sát của đề tài)

Bảng số liệu trên cho thấy, thu nhập hàng tháng có sự chênh lệch giữa nam

và nữ tại địa bàn nghiên cứu. Đối với mức thu nhập dưới 2 triệu đồng/người/tháng

và mức 2,1 triệu đồng/người/tháng đến 3 triệu đồng/người/tháng thì tỷ lệ nữ cao

hơn so với nam, 27% so với 19,2% và 37,5% so với 29,8%. Tuy nhiên, khi mức thu

nhập bình quân đầu người càng tăng thì tỷ lệ nam nữ lại dần có sự đảo chiều. Với

mức thu nhập 3,1 triệu đồng/người/tháng đến 3 triệu đồng/người/tháng, tỷ lệ nam là

18,2% còn nữ là 9,3%. Với mức thu nhập 4,1 triệu đồng/người/tháng đến 5 triệu

đồng/người/tháng, tỷ lệ nam là 17,3% còn nữ là 8,3%. Trên 5 triệu

đồng/người/tháng, tỷ lệ nam là 3% còn nữ là 1%. Đáng chú ý là có 14,5% thanh

niên tham gia khảo sát cho biết họ không thể tính được chính xác mức thu nhập

hàng tháng vì không cố định, có tuần có việc thì có thu nhập, có tuần lại ngồi chơi

thì không có gì cả.

Nó cũng còn tùy ví dụ vào giữa mùa hè thì hàng hè bán rất chạy, tuy nhiên

đến cuối vụ thì hàng lại có xu hướng chững lại. Hàng mùa đông cũng vậy, giữa

mùa hàng rất chạy, cuối vụ hàng chậm hơn. (nữ, 28, tuổi, THPT, thợ may)

Liên quan đến câu hỏi về sự hài lòng với thu nhập hiện tại đã cho kết quả

45

như sau:

Bảng 2.9: Mức độ hài lòng về thu nhập của thanh niên

Mức độ hài lòng

N

%

Hài lòng

52

26,0

Không hài lòng

117

58,5

Khó trả lời

31

15,5

Tổng

200

100

Nguồn: Khảo sát của đề tài)

Bảng biểu trên cho thấy, có 52 người chiếm 26% cho biết họ thấy hài lòng

với mức thu nhập từ công việc hiện tại trong khi đó có đến 117 người chiếm 58,5%

cho biết họ không thấy hài lòng. Tỷ lệ 15,5% cho biết họ rất khó có thể đưa ra được

câu trả lời chính xác về vấn đề thu nhập vì nó phụ thuộc vào quan điểm sống của

từng người, từng giới tính, từng nhóm tuổi và từng địa bàn sinh sống. Với một nữ

thanh niên sinh sống tại khu vực nông thôn đã có gia đình thì cảm thấy hài lòng với

mức thu nhập hiện tại. Điều quan trọng là họ có thời gian để chăm sóc gia đình, con

cái. Việc kiếm tiền phụ thuộc nhiều vào người đàn ông.

Thu nhập trung bình là 4 triệu/tháng, cũng có tháng cao hơn nhưng bình

quân là như vậy. Với khoản thu nhập này nếu ở nông thôn đối với phụ nữ ở nhà có

điều kiện chăm con thì như thế là tạm đủ lại chủ động trong công việc. Ngoài ra

còn thu nhập của chồng nữa (nữ, 27, THPT, thợ may).

Trong khi đó, một nam thanh niên chưa lập gia đình lại có suy nghĩ khác về

mức thu nhập.

Tôi thấy thu nhập 4, 5 triệu/tháng với tôi cũng không đủ nên cứ có them việc

gì làm th m được là tôi sẽ bố trí thời gian làm. Mình còn trẻ tiêu pha nhiều nên làm

th m được cái nào thì hay cái đấy thôi. Nói gì thì mình cũng là thanh ni n. Thanh

niên không chỉ làm mà còn phải biết giải trí nữa chứ (nam, 21, THPT, lái xe).

Từ cách suy nghĩ của 2 cá nhân đại diện cho giới tính nam - nữ trong nghiên

cứu của mình, tôi đi tới việc xem xét có sự khác biệt nào giữa nam và nữ về mức độ

46

đối với thu nhập. Kết quả cho thấy ở bảng dưới đây:

Bảng 2.10: Mức độ hài lòng về thu nhập theo giới tính

Mức độ hài lòng

Nam

Nữ

N

%

N

%

Hài lòng

16

15,4

36

37,5

Không hài lòng

74

71,1

43

44,8

Khó trả lời

14

13,4

17

17,7

Tổng

104

100

96

100

Nguồn: Khảo sát của đề tài)

Với số liệu trên cho thấy, trong nhóm thanh niên được khảo sát, nữ thường

hài lòng với mức thu nhập hiện tại hơn là so với nam thể hiện ở tỷ lệ là 37,5% của

nữ so với 15,4% của nam. Trong khi đó, tỷ lệ không hài lòng về mức thu nhập hiện

tại của nam lại cao hơn nhiều so với nữ, thể hiện qua số liệu là 71,1% của nam so

với 44,8% so với nữ. Mức độ khó trả lời có sự chênh lệch không đáng kể giữa nam

và nữ.

Liên quan đến địa bàn sinh sống của thanh niên có ảnh hưởng như thế nào

đến mức độ hài lòng của họ về thu nhập không, tôi đã tiến hành xem xét và phân

tích xử lý các bảng hỏi đã phát ra để có thêm thông tin. Kết quả như sau:

Bảng 2.11: Mức độ hài lòng về thu nhập theo địa bàn

Mức độ hài lòng

Thị trấn

N

%

N

%

Hài lòng

22

22,0

30

30,0

Không hài lòng

66

66,0

51

51,0

Khó trả lời

12

12,0

19

19,0

Tổng

100

100

100

100

Nguồn: Khảo sát của đề tài)

Từ kết quả trên thấy rằng, do là 2 địa bàn khác nhau, một bên là thị trấn

huyện lỵ, một bên là xã nên mức độ hài lòng cũng như không hài lòng về thu nhập

cũng có sự khác biệt. Về mức hài lòng, ở thị trấn là 22% trong khi ở xã là 30%, điều

47

này thể hiện rằng người dân sống ở khu vực nông thôn thường có xu hướng bằng

lòng với những gì mình có được và họ cố gắng duy trì ở mức độ như thế. Nhưng đối

với người dân sinh sống tại thị trấn nơi ít nhiều mang dáng dấp của cuộc sống đô thị

thì hơi hướng muốn có thêm thu nhập cao hơn nữa vẫn là một trong những mục tiêu

quan trọng đối với họ. Chính vì lẽ đó, mà có đến 66% thanh niên trong khảo sát tại

thị trấn cho biết, họ không hài lòng với mức thu nhập hiện tại trong khi có 51%

thanh niên trong khảo sát tại xã nói rằng họ không hài lòng. Báo cáo của huyện năm

2015 cũng cho biết là thu nhập của người dân tại thị trấn thấp hơn so với người dân

tại xã.

2.5. Nhu cầu việc m của thanh niên tại địa b n nghiên cứu

2.5.1. Nhu cầu thông tin lao động việc làm của thanh niên địa phương

Thông tin là một nhu cầu và thuộc tính của loài người. Mọi diễn tiến sự kiện

của các vùng lãnh thổ, hay tri thức khoa học - xã hội đều được phổ biến và tiếp

nhận bởi thông tin. Vì vậy mà thông tin đáp ứng nhu cầu hiểu biết và tìm hiểu cuộc

sống của con người, là động lực để thúc đẩy sự phát triển. Có thể nói, thông tin gắn

bó hữu cơ với sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, góp phần quan trọng

cho sự tiến hóa nhân loại.

Riêng trong lĩnh vực lao động - việc làm, thông tin lại càng đóng vai trò quan

trọng và cần thiết. Người lao động nào càng nắm bắt, thu thập được nhiều thông tin

về nhu cầu, xu hướng của thị trường lao động, tất yếu họ sẽ thu được nhiều thành

công trong quá trình tìm kiếm việc làm và vượt qua được những khó khăn, thử

thách trong quá trình khẳng định mình trong công việc.

Qua tiến hành khảo sát tại địa bàn nghiên cứu, mặc dù chính quyền và các tổ

chức đoàn thể tại địa phương đã luôn tích cực tuyên truyền, phổ biến những thông

tin về lao động việc làm tới mọi người dân song không phải lúc nào họ cũng dành

thời gian và tâm sức để cập nhật những thông tin cần thiết, có liên quan trực tiếp

đến cuộc sống và quyền lợi của họ.

Với câu hỏi liên quan đến việc nắm bắt những thông tin về các khóa đào tạo

nghề được tổ chức tại địa phương, có 71 người chiếm 35,5% nói rằng họ không hề

biết đến thông tin về những khóa đào tạo nghề được tổ chức tại địa bàn mình sinh

48

sống. Đây chính là một thiệt thòi lớn đối với họ khi mất đi những cơ hội nâng cao

kỹ năng và kiến thức để có thể làm việc tốt hơn trong tương lai.

Khi được hỏi về việc có biết đến thông tin về những chương trình tư vấn,

giới thiệu việc làm được tổ chức tại địa phương không, có 53 người, chiếm 26,5%

cho biết họ đã nghe nói và đã tham gia. Trong khi đó 92 người, chiếm 46% trả lời

họ có biết những hoạt động như vậy nhưng chưa bao giờ tham gia vì bận nhiều việc

khác. Có 55 người, chiếm 27,5% trả lời họ chưa bao giờ nghe nói đến những

chương trình như vậy tại địa bàn mình sinh sống.

Từ thực tế về việc hạn chế trong quá trình nắm bắt những thông tin về lao

động việc làm của thanh niên tại địa phương, tôi tiếp tục tìm hiểu về nhu cầu được

cung cấp thông tin của nhóm đối tượng này qua bảng hỏi và thực hiện phỏng vấn sâu.

Bảng 2.12: Kênh cung cấp thông tin

Trong đó

Kênh thông tin

N

Nam %

Nữ %

Chính quyền

103

49,5

50,5

Đoàn thể

57

53,0

47,0

Trung tâm GTVL

59

49,2

50,8

Gia đình, người quen

65

46,6

53,4

Đài báo

58

50,0

50,0

(Nguồn: khảo sát của đề tài)

Với câu hỏi về kênh cung cấp thông tin, người trả lời đã chọn nhiều phương

án song thông tin về lao động việc làm từ phía chính quyền địa phương vẫn được cả

nam và nữ thanh niên lựa chọn đầu tiên và nhiều nhất với 103 lượt chọn. Các sự lựa

chọn tiếp theo là gia đình với 65 lượt lựa chọn, trung tâm giới thiệu việc làm với 59

lượt lựa chọn, đài báo là 58 lượt chọn, còn các đoàn thể là 57 lượt. Xét về tương

quan giữa nam và nữ cho thấy không có khoảng cách chênh lệch đáng kể giữa nam

và nữ thanh niên trong việc được cung cấp thông tin từ các kênh. Chính quyền là sự

lựa chọn đầu tiên của cả nam và nữ khi muốn có thông tin về lao động và việc làm.

Điều này cho thấy vai trò của chính quyền địa phương trong việc cung cấp thông tin

49

về lao động việc làm là rất quan trọng và cần thiết. Người dân dù ở thị trấn hay ở xã

vẫn luôn có thói quen giao dịch với chính quyền sở tại mỗi khi họ gặp khó khăn hay

vướng mắc gì có liên quan đến công việc và cuộc sống.

Trước đây, em quen vào mạng để tìm kiếm thông tin về việc làm nhưng thấy

trên mạng nhiều khi cũng ảo lắm lại toàn việc thời vụ, không ổn định lâu dài. Bây

giờ cũng đã đi làm được một thời gian rồi lại sinh sống ở địa phương n n có việc gì

cũng chạy ra ngoài ủy ban liên lạc cho tiện. Thấy thông tin gì hay hay lại về lại

chia sẻ với mọi người xung quanh. Mỗi tội nhiều khi các bác trong ủy ban cũng

nhiều việc nên không phải lúc nào cũng cập nhật thông tin về việc làm được. Em

làm kinh doanh cũng muốn giữ liên lạc với chính quyền để thuận lợi hơn trong công

việc. (nữ, 24, THPT, kinh doanh tự do)

2.5.2. Nhu cầu định hướng, tư vấn nghề của thanh niên địa phương

Thời gian qua, công tác tư vấn việc làm luôn được các cấp chính quyền và

các đoàn thể tại Hà Nội xác định là nhiệm vụ trọng tâm, triển khai với nhiều cách

làm sáng tạo, hiệu quả, tạo ra một hiệu ứng tốt trong đời sống xã hội. Riêng với

huyện Thanh Oai, các ban, ngành đoàn thể trong huyện cực triển khai nhiều hoạt

động hướng tới thanh thiếu niên và người lao động như: tư vấn, trao đổi định hướng

nghề nghiệp cho học sinh THPT, ngày hội việc làm cho thanh niên, sàn giao dịch

việc làm v.v....đã góp phần giúp cho các bạn trẻ có cơ hội tìm được những công việc

phù hợp với năng lực bản thân cũng như tăng cường sự hiểu biết về thị trường lao

động hiện nay. Tuy nhiên, qua tiến hành khảo sát tại thị trấn Kim Bài và xã Cao

Dương cho thấy nhu cầu về tư vấn, định hướng nghề nghiệp vẫn là một trong những

nguyện vọng chính thanh niên địa phương. Lựa chọn nghề nghiệp gì, hướng phát

triển ra sao, đầu tư ban đầu như thế nào v.v… là hàng loạt những câu hỏi được các

bạn trẻ đặt ra mà cần phải có sự tư vấn, định hướng từ những chuyên gia trong lĩnh

vực lao động việc làm. Điều này đặc biệt cần thiết trong bối cảnh nước ta ngày càng

hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu đặc biệt là khi hiệp định đối tác kinh tế

xuyên Thái Bình Dương (TPP) vừa được các quốc gia trong đó có Việt Nam tham

gia ký kết. Sự kiện này vừa mở ra cơ hội nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức với

50

nền kinh tế nước ta trong đó có liên quan đến cả lao động và việc làm.

Bảng 2.13: Nhu cầu tư vấn nghề của thanh niên theo giới tính

Trong đó

Nhu cầu

N

tư vấn nghề

Nam %

Nữ %

154

48,05

51,95

Không

46

47,6

52,4

(Nguồn: khảo sát của đề tài)

Kết quả xử lý bảng hỏi trên cho thấy, có 154 người được hỏi cho biết cần

thiết có sự hỗ trợ tư vấn và định hướng nghề từ các chuyên gia tư vấn lao động việc

làm. Trong số đó tỷ lệ nữ có nhu cầu tư vấn cao hơn so với tỷ lệ nam, 51,95% so

với 48,05%.Theo nhiều thanh niên, lời khuyên từ phía gia đình là rất quan trọng và

cần thiết vì cha mẹ nào cũng muốn tốt cho con cái mình song dù sao đó chỉ dựa trên

kinh nghiệm cá nhân của những người lớn tuổi. Trên thực tế, nhiều khi những người

lớn tuổi cũng không thể nhận biết được những biến động khó lường của thị trường

lao động hiện tại. Do vậy, sư tư vấn, định hướng nghề nghiệp từ đội ngũ các chuyên

gia vẫn rất hữu ích nhất là đối với thanh niên trong nhóm tuổi từ 16 đến 30. Xét về

góc độ tâm lý, đây là nhóm tuổi có nhiều sự chuyển biến về nhận thức, tư duy và

hành động. Có thanh niên được học hành bài bản nhưng sau khi tốt nghiệp vẫn loay

hoay tìm việc hoặc làm trái với ngành nghề mình được đào tạo, dễ dẫn tới tâm lý

bất mãn, chán chường.

Theo em, thiếu việc làm và thất nghiệp bắt nguồn từ việc không có định

hướng rõ ràng về công việc mà mình đang làm. Làm mà không dành cả tâm huyết

của mình vào đó thì sẽ chóng chán, dần sẽ bỏ bê. Do vậy, tư vấn, định hướng tốt là

rất cần thiết. Hiện nay, trên mạng thấy quảng cáo có nhiều trung tâm tư vấn việc

làm nhưng cũng chả đáng tin lắm đâu ạ (24, nữ, THPT, thợ may).

Từ thực tế khảo sát tại địa bàn nghiên cứu có thể thấy rằng, công tác tư vấn

và định hướng nghề cho thanh niên vẫn cần phải có sự quan tâm và đầu tư đúng

mức. Sự tư vấn cần có cách tiếp cận theo hướng hiện đại của quốc tế, vừa cụ thể, rõ

ràng nhưng không áp đặt, gò ép. Khi tư vấn nghề cần tính đến những yếu tố về giới

51

tính, trình độ và chuyên môn kỹ thuật của thanh niên.

2.5.3. Nhu cầu nâng cao chuyên môn, kỹ thuật

Nắm vững chuyên môn, kỹ thuật là một trong những yếu tố rất quan trọng

đối với người lao động để có thể tìm một công việc phù hợp, trụ lại được lâu dài và

thăng tiến với nghề.

Qua quá trình tiến hành khảo sát tại địa bàn nghiên cứu, tôi thấy rằng trình độ

học vấn cũng như trình độ chuyên môn, kỹ thuật của thanh niên địa phương là khá cao

so với mặt bằng chung của huyện nói riêng và của Thành phố Hà Nội nói chung.

Thanh niên có trình độ THPT tại 2 địa bàn nghiên cứu chiếm gần 80%, còn thanh niên

đã qua đào tạo từ mức sơ cấp đến mức đại học là 66%. Mặc dù vậy, đa phần thanh niên

tham gia khảo sát do tôi tiến hành đều cho biết, nhu cầu lớn và cần thiết hiện nay của

họ vẫn là được nâng cao chuyên môn, kỹ thuật để có thể đáp ứng với yêu cầu ngày

càng cao của công việc trong một xã hội hiện đại, phát triển không ngừng.

Bảng 2.14: Nhu cầu nâng cao trình độ theo giới tính

Trong đó

Nhu cầu

N

Nam %

Nữ %

Chuyên môn, kỹ thuật

150

53,4

46,6

Ngoại ngữ

48

50,0

50,0

Tin học

34

51,2

48,8

Luật pháp,

38

57,4

42,6

chính sách

( Nguồn: Khảo sát của đề tài)

Qua bảng biểu trên cho thấy, với câu hỏi có thể lựa chọn nhiều phương án thì

có 150 lượt thanh niên cho biết họ lựa chọn trước hết là việc nâng cao chuyên môn,

kỹ thuật trong đó tỷ lệ nam cao hơn nữ là 53,4% so với 46,6% . Sự lựa chọn tiếp

theo cũng được khá đông thanh niên hướng tới là học tập ngoại ngữ với 48 lượt lựa

chọn. Lần lượt tiếp theo sau là lĩnh vực luật pháp, chính sách với 38 lượt lựa chọn

và tin học với 34 lượt lựa chọn.

Một câu hỏi đặt ra là ở địa bàn nơi mà trình độ chuyên môn, kỹ thuật của

thanh niên là khá cao thì tại sao nâng cao chuyên môn, kỹ thuật vẫn là sự lựa chọn

52

trước hết của nhóm đối tượng này. Qua tìm hiểu, tôi được biết, mặc dù thanh niên

tại địa bàn nghiên cứu được qua đào tạo là đông song vẫn chủ yếu là ở mức sơ cấp

và trung cấp, chiếm gần 45% ( theo kết quả của đề tài) và có đến 55% trong tổng số

người được hỏi cho biết, họ đang làm công việc không đúng với chuyên ngành đào

tạo ban đầu nên gặp khá nhiều khó khăn khi tiếp cận công việc. Mặc dù có việc làm

song thu nhập không tốt lắm và họ vẫn hy vọng có điều kiện để nâng cao chuyên

môn, nghiệp vụ vừa tìm việc tốt hơn với mức thu nhập cao hơn và có điều kiện

thăng tiến trong sự nghiệp.

Em học ngành lao động - xã hội nhưng bây giờ về làm giáo vụ tại trường

học. Công việc thì tùy lúc, trong năm học thì bận hơn, còn mùa hè thì nhàn, ở nhà

suốt nên em cùng mấy chị em mở cơ sở trồng và chế biến nấm, vừa có thu nhập,

vừa đỡ có việc để làm. Em hiện tại có bằng cử nhân ngành lao động rồi nên chuyển

sang làm giáo vi n cũng không mất công lắm. (nữ, 28, ĐH, giáo vụ tiểu học).

Một số khác cho biết, do yêu cầu của công việc hiện tại nên bắt buộc họ phải

học lên mức cao hơn để không bị tụt hậu.

Tôi làm công chức ở thị trấn nhưng cũng đang theo học cao học, ngày đi

làm, tối đi học n n cũng vất vả lắm. Biết làm thế nào được, bây giờ mình không học

l n thì nay mai cũng chả còn cơ hội ( nữ, 24, ĐH, công chức).

Đối với nhóm thanh niên làm việc trong hệ thống cơ quan nhà nước thì đưa ý

kiến như vậy. Còn đối với nhóm thanh niên làm việc cho các cơ sở tư nhân hoặc tự

tạo việc làm thì sao. Họ có nhu cầu và nguyện vọng gì không. Tương tự như những

công chức, viên chức, nhóm thanh niên này cũng cho biết họ vẫn lựa chọn việc

nâng cao chuyên môn, kỹ thuật là điều kiện trước hết.

Em làm kinh doanh tự do, nghe thì có vẻ là không cần phải học nhiều nhưng

thực tế cũng phải mầy mò học qua internet, qua sách báo. Nếu có thời gian cũng

muốn đi học để có được nền tảng kinh doanh vì em vốn học ngành xây dựng (nam,

24, CĐ, kinh doanh).

Còn theo đại diện chính quyền địa phương thì lực lượng thanh niên được đào

tạo nhiều song không có nghĩa là họ có thể đảm đương ngay được công việc trong

thực tế. Họ vẫn cần có quá trình rèn luyện, tu dưỡng và tích lũy những kinh nghiệm

53

và kỹ năng mới có thể làm tốt công việc của mình được.

Bảng 2.15: Nhu cầu nâng cao trình độ theo học vấn

Nhu cầu

TH%

THCS%

THPT%

N

150

0

29,5

70,5

Chuyên môn, kỹ thuật

48

0

0

100

Ngoại ngữ

34

7,5

11,5

81,0

Tin học

38

4,5

6,0

89,5

Luật pháp,

chính sách

Căn cứ vào trình độ học vấn cho thấy thanh niên có trình độ học vấn cao hơn

thì lại càng có nhu cầu nâng cao chuyên môn kỹ thuật hơn. Cũng với 150 lượt lựa

chọn việc nâng cao chuyên môn, kỹ thuật thì có 70,5% là có trình độ THPT, 29,5%

là có trình độ THCS, trình độ TH không có thanh niên nào. Các nhu cầu về ngoại

ngữ, tin học v.v…cũng tập trung chủ yếu vào nhóm thanh niên có trình độ THPT

54

trở lên.

CHƢƠNG III: MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƢỞNG ĐẾN VIỆC LÀM CỦA

THANH NIÊN TẠI THỊ TRẤN KIM BÀI VÀ XÃ CAO DƢƠNG

HUYỆN THANH OAI - HÀ NỘI.

3.1. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội địa phương

Tỷ lệ thanh niên có việc làm cao hay thấp là một trong những kênh thông tin

quan trọng để đánh giá sự phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương. Đây là

một trong những mối quan tâm lớn nhất của thanh niên đến tuổi trưởng thành. Do

vậy, những chủ trương, chính sách về kinh tế - xã hội khi được ban hành ra đều phải

nhằm mục đích tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động, giúp họ đảm bảo đời

sống bản thân và gia đình, từ đó khẳng định được vị trí, năng lực của mình trong xã

hội.

Là một huyện ngoại thành, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20km, trong

những năm vừa qua Thanh Oai đã có những bước chuyển mình đáng kể trong phát

triển kinh tế - xã hội, cuộc sống của người dân trong đó có lực lượng thanh niên

từng bước được cải thiện.

Trong năm 2015, tình hình kinh tế - xã hội huyện Thanh Oai tiếp tục có bước

phát triển so với năm 2014. Tổng giá trị sản xuất đạt 10.722 tỷ đồng, đạt 105% so

với kế hoạch, trong đó, giá trị sản xuất nông nghiệp đạt 1.823 tỷ đồng, bằng 103%

kế hoạch; giá trị sản xuất công nghiệp và xây dựng đạt 5.811 tỷ đông đạt 113% so

với cùng kỳ; giá trị sản xuất dịch vụ và thương mại đạt 3.088 tỷ đồng đạt 113%.

Tổng thu ngân sách đạt 152,005 tỷ đồng, đạt 114% kế hoạch thành phố giao; thu

ngân sách địa phương ước đạt 791,303 tỷ đồng đạt 125% kế hoạch. Thu nhập bình

quân đầu người đạt 25 triệu đồng/người/năm (27, tr.2).

Bên cạnh việc đầu tư phát triển kinh tế, chính quyền huyện cũng tập trung

mạnh vào việc đảm bảo các chính sách an sinh xã hội cho người dân, từng bước giải

quyết những vấn đề có liên quan thiết thân đến lợi ích của cộng đồng như giáo dục,

y tế, việc làm v.v…

Thực hiện tốt công tác giảm nghèo, toàn huyện đã giảm 820 hộ đạt 108% kế

hoạch; tổ chức 54 lớp dạy nghề cho 1.890 lao động nông thôn, tạo việc làm và việc

55

làm mới cho 5.000 lao động; cho vay vốn từ quỹ quốc gia giải quyết việc làm cho

672 lao động với tổng kinh phí trên 13 tỷ đồng (27, tr.4).

Còn trong báo cáo chính trị được trình bày tại đại hội đại biểu Đảng bộ

huyện lần thứ XXII trong năm 2015, đã chỉ rõ một số nhiệm vụ trọng tâm trong

nhiệm kỳ 2015 - 2020 như sau: Kinh tế huyện duy trì ở mức tăng trưởng khá, cơ

cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tăng dần tỷ trọng công nghiệp, thương mại -

dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp; thu ngân sách tăng bình quân 14,5%/năm;

huyện tập trung vào phát triển các làng nghề truyền thống để tạo điều kiện cho các

doanh nghiệp, hiệp hội phát triển, quảng bá sản phẩm, thu hút lao động nông thôn,

nâng cao thu nhập cho người dân. Đến năm 2020, thu nhập bình quân đạt 49 triệu

đồng/người/năm (trích báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ huyện Thanh Oai khóa

XXI).

Từ việc nghiên cứu những chủ trương, chính sách của huyện Thanh Oai, tôi

thấy rằng địa phương đã có nhiều cố gắng trong việc đảm bảo ổn định đời sống kinh

tế xã hội cho người dân trong đó có việc giải quyết việc làm cho lao động trẻ trên

địa bàn. Tuy nhiên, cũng giống như nhiều huyện ngoại thành khác của Hà Nội,

Thanh Oai cũng đang phải đối mặt những tác động của tình hình suy giảm kinh tế

thế giới và khó khăn của kinh tế trong nước. Một số doanh nghiệp lớn trên địa bàn

huyện hoạt động kém hiệu quả, lao đao thậm chí đứng bên bờ vực của sự phá sản,

đẩy một lượng lớn lao động rơi vào tình trạng thất nghiệp và thiếu việc làm. Một số

hộ gia đình bị thu hồi đất chưa được hỗ trợ đào tạo nghề và giới thiệu việc làm nên

rơi vào hoàn cảnh nghèo túng. Đứng trước thực trạng này, tâm lý của một bộ phận

thanh niên địa phương cũng có những hoang mang, dao động, mất niềm tin vào

đường lối lãnh đạo của Đảng và chính quyền. Nhiều thanh niên còn dễ dàng bị lôi

kéo những công việc phi pháp, gây ảnh hưởng đến không chỉ bản thân, gia đình mà

còn cả cộng đồng.

Đối với 2 địa bàn nghiên cứu là thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương, qua tìm

hiểu thì tôi thấy rằng tình hình phát triển kinh tế - xã hội cũng có những bước phát

triển khả quan.

- Thị trấn Kim Bài

56

Theo như báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ thị trấn khóa IV trình đại hội

đại biểu Đảng bộ thị trấn khóa V nhiệm kỳ 2015 - 2020 cho thấy: Tổng giá trị sản

xuất tính đến năm 2015 ước đạt 394 tỷ đồng, đạt 186% chỉ ti u đại hội IV đề ra.

Năm 2014, giá trị thương mại và tiểu thủ công nghiệp của thị trấn là 292 tỷ đồng,

chiếm 74% cơ cấu kinh tế. Toàn thị trấn có 700 hộ tham gia vào hoạt động thương

mại, dịch vụ. Thu nhập bình quân đầu người trong năm qua đã đạt mức 28,5 triệu

đồng/người/năm. [9, tr.5]

Cũng theo tinh thần nghị quyết của Đại hội Đại biểu Đảng bộ thị trấn Kim

Bài khóa V thì dịch vụ thương mại vẫn được chú trọng phát triển sau đó mới đến

nông nghiệp, tỷ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế sẽ giảm dần. Lực lượng lao

động trẻ được khuyến khích tham gia vào các ngành phi nông nghiệp hoặc tự tạo

nghề ngay tại nơi mình sinh sống.

Tăng cường công tác đào tạo nghề cho lao động trẻ, đặc biệt là việc hỗ trợ

đào tạo lao động trẻ để họ có cơ hội tìm kiếm việc làm phi nông nghiệp hoặc tự tạo

nghề. Khuyến khích phat triển các ngành công nghiệp chế biến nông sản như làm

bún, làm đậu phụ, nấu rượu, sản xuất đồ mộc, vật liệu xây dựng, nghề may. Hỗ trợ

các hộ phát triển ngành nghề như may mặc, cơ khí sửa chữa, sản xuất đồ gỗ gia

dụng, điện tử, điện lạnh v.v... [9, tr.8]

- Xã Cao Dương

Theo như báo cáo chính trị của BCH Đảng bộ xã khóa XXI trình đại hội đại

biểu Đảng bộ xã khóa XXII nhiệm kỳ 2015 - 2020 cho thấy: Tổng giá trị sản xuất

đến năm 2015 đạt 309 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng bình quân toàn xã là 15%. Về cơ

cấu kinh tế, tỷ trọng nông nghiệp là 16% giảm 3,5%, tiểu thủ công nghiệp - xây

dựng là 36%, dịch vụ thương mại là 48% tăng 5% so với năm 2010. Thu nhập bình

quân đầu người trong năm qua là 29,5 triệu đồng/người/năm. [8,trg.4]

Qua làm việc với lãnh đạo chính quyền xã, tôi được biết trong thời gian tới,

xã tập trung phát triển mạnh du lịch - thương mại và dịch vụ vì trên địa bàn xã có

các tuyến đường quốc lộ bao bọc lấy xã, rất thuận lợi cho người dân tiến hành hoạt

động kinh doanh, buôn bán. Ngoài ra, xã có điểm du lịch sinh thái gồm tổ hợp nhà

hàng, khách sạn, hồ bơi, hồ câu cá và vườn cây. Hiện nay tuy điểm vui chơi giải trí

57

này chưa hoạt động nhưng chính quyền xã đang lên kế hoạch quảng bá mạnh mẽ để

thu hút người dân địa phương và du khách. Bên cạnh đó, xã còn có chợ Cao - đây là

một chợ phiên rất điển hình của đồng bằng Bắc bộ với rất nhiều mặt hàng địa

phương được bày bán. Chính vì vậy, định hướng thời gian tới thì cơ cấu ngành nghề

thương mại du lịch, dịch vụ sẽ chiếm khoảng 50%, còn nông nghiệp sẽ chỉ duy trì ở

mức dưới 20%.

Qua những bảng hỏi khảo sát và thực hiện phỏng vấn sâu với thanh niên và

người dân tại các địa bàn nghiên cứu, tôi nhận thấy rằng, công đồng dân cư ở đây

đều rất tin tưởng và ủng hộ vào đường lối kinh tế - xã hội của các cấp lãnh đạo địa

phương. Họ cho rằng những chủ trương lớn này là đúng đắn và hợp lý song để biến

những nghị quyết của Đảng đi vào thực tiễn thì không hề dễ dàng, đòi hỏi phải có

sự đồng tâm hiệp lực của cả hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở, sự vào cuộc của

đông đảo quần chúng nhân dân trong đó lực lượng thanh niên là nòng cốt vì suy cho

cùng, thế hệ trẻ với sự trẻ trung, năng động và nhạy bén luôn khao khát khám phá

cái mới sẽ đóng vai trò tiên phong trong lực lượng lao động, tạo ra những sản phẩm

có chất lượng và hiệu quả. Thanh niên cần được đánh giá và nhìn nhận đúng đắn về

vai trò và trách nhiệm của mình. Trên thực tế, tình hình kinh tế - xã hội tại các địa

bàn về cơ bản có sự phát triển ổn định, vững chắc. Chính quyền và các đoàn thể

cũng hỗ trợ được một phần thanh niên trong quá trình học nghề, tư vấn nghề và tìm

công việc với mức thu nhập tuy chưa phải là cao song cũng đủ để giúp họ trang trải

được những nhu cầu thường nhật.

Tuy nhiên, vẫn có một bộ phận người dân trong đó có cả thanh niên vẫn tỏ ra

hoài nghi về tình hình kinh tế xã hội hiện nay. Họ cho rằng đó chỉ là bề nổi của tình

hình còn thực tế vẫn ẩn chứa những vấn đề nghiêm trọng là hệ quả của tình hình đô

thị hóa, dồn điền đổi thửa, chuyển đổi cơ cấu nghề, phân hóa giàu nghèo

v.v…Nhóm này cho rằng, địa phương tổ chức học nghề, hỗ trợ vay vốn song không

đến lượt họ. Họ không phải dạng “ con ông cháu cha” cũng không phải là đoàn viên

Thanh niên, Hội viên Hội phụ nữ nên rất khó được xét duyệt. Do đó cái vòng đói

nghèo, việc làm bấp bênh cứ luẩn quẩn trong cuộc sống của họ, khiến họ không thể

thoát ra được từ đời ông bà, cha ông cho đến con cháu.

58

Từ xưa đến nay, địa phương có bao giờ hỗ trợ gì cho nhà tôi đâu mà tôi

cũng chả nhờ đến sự hỗ trợ nào từ phía địa phương cả. Sức mình đến đâu thì mình

làm thế thôi. Từ thời ông bà, cha mẹ đến thời tôi đã thế. Đời sống kinh tế của địa

phương dù có khá cũng chả ảnh hưởng đến tôi và gia đình nhà tôi đâu. Tôi tự làm,

tự ăn hết. ( nam, 30 tuổi, THPT, nông dân)

Thực tế này cũng cho thấy, vẫn còn một bộ phận thanh niên địa phương chưa

được tiếp cận hay nói đúng hơn là chưa được hưởng lợi từ những chủ trương, chính

sách của nhà nước. Họ bị đặt ra bên lề của sự phát triển chung khiến cho họ có một

tâm lý tự ti, e dè. Dù cho kinh tế có phát triển đến mức nào đi nữa mà một bộ phận

người dân vẫn gặp khó khăn trên con đường mưu sinh thì chắc hẳn trong suy nghĩ

và trong com mắt của họ đời sống sẽ chỉ là một màu u ám.

3.2. Gia đình

Gia đình là một thiết chế rất quan trọng và cơ bản trong đời sống xã hội. Gia

đình có những chức năng cơ bản như sau: sinh sản duy trì nòi giống, kinh tế, giáo

dục và thỏa mãn nhu cầu tinh thần, tình cảm. Dù xã hội loài người có nhiều thay đổi

từ cổ đại cho đến hiện đại song gia đình về cơ bản vẫn giữ nguyên những chức năng

này. Chúng không đứng độc lập mà đan xen, hỗ trợ lẫn nhau.

Con người sống gắn bó với gia đình, vì thế phẩm chất và giá trị của mỗi

thành viên phụ thuộc rất nhiều vào cuộc sống gia đình, đặc biệt là phụ thuộc vào

"giáo dục gia đình". Giáo dục gia đình cần được hiểu theo nghĩa rộng, đó là việc

truyền thụ (truyền dạy và tiếp thụ), chuyển giao giữa các thế hệ về kiến thức cuộc

sống, những kinh nghiệm sản xuất, những giá trị văn hoá truyền thống được đúc

kết, trải nghiệm trở thành những di sản quí báu của gia đình, cộng đồng, dân tộc.

Thực hiện tốt chức năng giáo dục gia đình là điều kiện tiên quyết trong việc

hình thành nhân cách cho các thế hệ tiếp nối. Có thể gọi đây là quá trình xã hội hoá

cá nhân để con người gia đình trở thành con người của xã hội.

Bên cạnh đó, tổ ấm gia đình vừa là điểm xuất phát cho con người trưởng

thành, vững tin bước vào cuộc sống xã hội, đồng thời cũng là nơi bao dung, an ủi

cho mỗi cá nhân trước những rủi ro, sóng gió cuộc đời. Càng trưởng thành hơn,

con người càng trở nên thấm thía và khao khát tìm về sự bình ổn, thoả mãn nhu

59

cầu cân bằng trạng thái tâm lý, tình cảm trong sự chăm sóc, đùm bọc của gia đình

sau khoảng thời gian làm việc vất vả.

Liên quan đến lao động - việc làm, gia đình cũng là một yếu tố có một ảnh

hưởng rất lớn đến các bạn trẻ trong việc ra quyết định chọn nghề nghiệp của bản

thân nhât là những gia đình ở khu vực nông thôn. Bên cạnh đó, trong quá trình gây

dựng sự nghiệp của bản thân mỗi người đều trong đó bóng dáng của cha mẹ, bạn

đời và những người thân khác. Sự hỗ trợ không chỉ là những lời khuyên răn, động

viên, khuyến khích, kinh nghiệm mà có khi còn lại sự ủng hộ về vật chất ban đầu

như vốn, mặt bằng sản xuất, công nghệ v.v… Đây là những yếu tố rất quan trọng

nhất là đối với bạn trẻ vừa bắt đầu ra đời tạo dựng sự nghiệp.

Nhận thấy tầm quan trọng của gia đình với thanh niên lập nghiệp nên trong

bảng hỏi tôi đã đề cập đến yếu tố này. Chính vì vậy, qua khảo sát bằng bảng hỏi và

gặp gỡ với thanh niên tại thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương, khi được hỏi về yếu tố

nào có ảnh hưởng đến quyết định chọn nghề của bạn, kết quả cho thấy như sau:

Bảng 3.16: Đánh giá yếu tố ảnh hưởng đến quyết định chọn nghề của

thanh niên theo giới tính

Nam

Nữ

Yếu tố

N

%

N

%

Gia đình

104

43,69

96

41,0

Nhà trường

10

4,1

44

18,48

Khả năng bản thân

84

34,3

49

21,4

Mối quan hệ xã hội

40

16,3

45

19,2

238

100

234

100

Tổng số ý kiến

(Nguồn: Khảo sát của đề tài)

Căn cứ vào kết quả xử lý cho thấy, mặc dù người được hỏi đều đưa ra nhiều

phương án trả lời cho câu hỏi song gia đình vẫn là yếu tố có ảnh hưởng nhiều nhất

đến quyết định lựa chọn nghề của các bạn trẻ, chiếm 43,69% với nam và 41% với

60

nữ. Tiếp đó là khả năng bản thân, 34,3% với nam và 21,4% đối với nữ. Các yếu tố

như: mối quan hệ xã hội thì nam chiếm 16,3%, nữ chiếm 19,2%; Nhà trường có tỷ

lệ là 4,1% với nam và 18,48% với nữ.

Gia đình em cũng có định hướng nên em quyết định theo công việc này.

Hiện nay, để nâng cao thêm kiến thức bản thân, ngày đi làm, tối em vẫn theo học

cao học ngành Công tác xã hội tại trường đại học quốc gia (nữ, 24, ĐH, công

chức chính quyền).

Không chỉ là sự định hướng ban đầu mà có thanh niên còn được gia đình

hỗ trợ nguồn vốn ban đầu để lập nghiêp tại quê hương.

Khi em mở quán này, gia đình cũng ủng hộ lắm, bố mẹ còn cho em ít tiền

gọi là vốn liếng để mở, thêm khoản tiền em tích góp trước đây nữa là đủ để có

cơ ngơi như thế này. Anh chị của em cũng làm kinh doanh n n sẵn sang chia sẻ

nhiều kinh nghiệm (nữ, 24, CĐ).

Tuy nhiên, không phải thanh niên nào cũng có may mắn khi được gia đình

hỗ trợ vốn, kiến thức, vẫn có những thanh niên phải tự lực gánh sinh do bố mẹ

già cả, sức khỏe yếu lại không có nhiều mối quan hệ xã hội cũng như dư dả vốn

liếng để giúp đỡ.

Bố tôi thì tàn tật từ lúc trẻ, mẹ thì chỉ là nông dân quanh năm làm ruộng,

cũng chả quen biết gì ai nên học xong là lao đi tìm việc. Bố ẹm cũng chỉ động

viên thôi chứ cũng chả có gì mà cho cả đâu (nam, 28, THPT, lái xe)

Qua việc phát bảng hỏi và tiến hành trao đổi với thanh niên tại các địa bàn

nghiên cứu có thể thấy rằng yếu tố gia đình không bao giờ tách rời trong mỗi quyết

định lựa chọn nghề của mỗi cá nhân. Dù là đi làm công ăn lương hoặc tự tạo việc

cho mình thì phần lớn các bạn trẻ vẫn tham khảo ý kiến trước hết, thậm chí là tìm

kiếm sự trợ giúp đầu tiên cả tinh thần lẫn vật chất từ phía những người thân trong

gia đình.

3.3. Nhà trường

Hướng nghiệp, tư vấn nghề là một trong những hoạt động quan trọng trong

hệ thống giáo dục của nước ta nhằm định hướng về mặt nghề nghiệp cho học sinh

ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Thông qua việc được tư vấn, giới thiệu về

61

nghề nghiệp, học sinh sẽ được trang bị các thông tin về thế giới nghề nghiệp, nhu

cầu của thị trường lao động, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của địa phương

một cách đầy đủ. Cũng thông qua hoạt động này, học sinh sẽ được trang bị đầy đủ

hơn về hệ thống các trường đào tạo từ trung cấp đến cao đẳng, đại học trên cả nước,

cơ cấu nghề nghiệp trong tương lai, những ngành nghề có triển vọng, những ngành

nghề sẽ dần mất đi...

Trên cơ sở đó, học sinh sẽ dần hiểu biết đầy đủ về năng lực, phẩm chất của

bản thân, nhận thức được sở trường, sở đoản của chính mình để từ đó có những

quyết định chọn nghề đúng đắn trong tương lai.

Nhận thức được tầm quan trọng của công tác này nên trong thời gian vừa

qua, các trường THCS, THPT trên địa bàn huyện Thanh Oai đã xây dựng chương

trình phối hợp hàng năm với những trung tâm tư vấn, giới thiệu việc làm và Đoàn

Thanh niên địa phương. Đối với học sinh lớp 9 khối THCS đều được theo học

những lớp học nghề điện, tin học. Học sinh THPT theo học các lớp học nghề điện,

tiện, may. Các em học sinh THPT luôn được khuyến khích tham gia vào các sàn

giao dịch lao động - việc làm được tổ chức 2 năm/lần trên địa bàn huyện. Mỗi lần tổ

chức thu hút được từ 2500 đến 3000 học sinh địa phương. Phòng LĐ - TB & XH

Huyện còn mời các chuyên gia, giáo viên về lao động việc làm, đại diện các doanh

nghiệp, công ty đến gặp gỡ, trao đổi trực tiếp với các em học sinh lớp 12 của các

trường THPT trên địa bàn huyện.

Qua tiến hành khảo sát tại địa bàn nghiên cứu, 100% thanh niên được phỏng

vấn cho biết, họ đều được tham gia vào những chương trình tư vấn hướng nghiệp do

trường học tổ chức. 100% thanh niên cũng nói rằng họ đã từng tham gia một trong

các lớp nghề tiện, điện hoặc may được tổ chức ngay tại trường học theo sự định

hướng của các thầy cô giáo. Kết thúc các lớp học này, học sinh sẽ được cấp chứng

chỉ học nghề và đây được coi là điều kiện căn bản để xét tốt nghiệp cho các em học

sinh năm cuối bậc THCS, THPT.

Tuy nhiên, khi được hỏi về tính hiệu quả của các lớp học nghề này, có đến

55,5% thanh niên được hỏi cho biết, họ thấy nó không mang tính thực tiễn lắm vì

chương trình đào tạo nặng về lý thuyết, học sinh không có điều kiện thực hành, áp

dụng vào thực tế nên việc học chỉ cốt lấy bằng. Học nghề thực chất cũng là theo

62

hiệu ứng số đông chứ thực tâm cũng không hề có nguyện vọng và nhu cầu.

Các bạn nam học điện, tiện thì còn biết chứ em là nữ học xong quên hết rồi,

chả nhớ gì cả. (nữ, 27, CĐ)

Đưa ra ý kiến của mình về chương trình tư vấn, hướng nghiệp tại trường học,

có 65% thanh niên cho biết, họ không thấy ấn tượng với hoạt động này. Nhà trường

mời chuyên gia về lao động việc làm đến nói chuyện song theo hình thức truyền

thống: giáo viên nói và hàng trăm học sinh ngồi lắng nghe cùng lúc. Học sinh ít

hoặc không có điều kiện phản hồi, tương tác với giáo viên, khiến cho hoạt động này

trở nên buồn tẻ, gượng ép. Những bài nói chuyện trở nên xa vời và mờ nhạt với

người nghe.

Hồi cấp 2, cấp 3 và học Cao Đẳng, em đều được tham gia những buổi tư

vấn, hướng nghiệp và học nghề tại trường. Các thầy cô giáo và những chuyên giao

lao động việc làm cũng có chia sẻ những kiến thức, kỹ năng và định hướng. Tuy

nhi n, để theo được những định hướng đó không phải dễ dàng vì nó hơi trừu tượng

mà thời điểm đó chúng em còn trẻ khó mà tiếp thu được những kiến thức đó.Giáo

viên cứ nói phía trên, còn học sinh ở dưới làm việc ri ng cũng chả ai biết. Bọn em

chỉ coi đây như hoạt động ngoại khóa chứ cũng chả chú tâm nhiều lắm đâu (nam,

24, CĐ)

Từ những thông tin về hoạt động hướng nghiệp, chọn nghề với thanh thiếu

niên, có thể thấy được tầm quan trọng của hoạt động này không chỉ với học sinh mà

còn với sự phát triển của xã hội cũng như chiến lược phát triển nhân lực của một

quốc gia…Tại địa bàn nghiên cứu, công tác hướng nghiệp, tư vấn nghề đã được

nhiều trường học quan tâm, chú trọng. Các hoạt động được tổ chức theo đúng như

kế hoạch và chương trình phối hợp đã đề ra. Ở góc độ số lượng đây là điều đáng

mừng song xét về chất lượng cũng cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với học sinh

phổ thông. Hoạt động hướng nghiệp, chọn nghề trong nhà trường hiện nay cần phải

sinh động, hấp dẫn, tập trung nhiều hơn nữa vào chiều sâu. Bản thân giảng viên

truyền đạt cũng cần phải được nâng cao hơn nữa kỹ năng làm việc với thanh thiếu

niên. Đội ngũ giáo viên phổ thông cũng cần được trang bị thêm những kiến thức về

lao động, việc làm để kịp thời hỗ trợ, tư vấn học sinh của mình thông qua những bài

63

giảng trên lớp, trong những buổi trò chuyện thân mật, cởi mở. Qua đó đem lại cho

học sinh nhiều hứng thú, góp phần phân luồng, giúp đỡ các em học sinh có được sự

lựa chọn một cách đúng đắn, khoa học cho tương lai, nghề nghiệp của bản thân.

3.4. Các chính sách xã hội về việc làm tại địa phương

Trong 30 năm đổi mới, nhất là từ giai đoạn 2001 đến nay, hệ thống pháp luật

nước ta tiếp tục được hoàn thiện. Các văn bản pháp luật như: Luật Đất đai, Luật

Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Luật Hợp tác xã, Luật Thuế, Luật Phá sản... đã góp

phần giải phóng sức sản xuất, tạo điều kiện cho thị trường lao động phát triển. Bộ

Luật Lao động, sửa đổi bổ sung năm 2002 và 2006, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Dạy

nghề, Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài, các nghị định,

thông tư liên quan tới lao động, thị trường lao động và việc làm đã hoàn thiện

khung pháp lý cho thị trường lao động phát triển, tăng cường cơ hội việc làm và

hoàn thiện quan hệ lao động. Các chế độ về tiền lương, thu nhập, trợ cấp ngày càng

hoàn thiện, góp phần nâng cao năng suất lao động và cải thiện thu nhập của người

lao động nói chung và lao động trẻ nói riêng.

Tại huyện Thanh Oai, chính sách về lao động, việc làm cũng được chính

quyền địa phương quan tâm, chú trọng trong những năm vừa qua. Nhiều ngành

nghề mới được mở ra tại nhiều xã, thị trấn trên địa bàn huyện. Đối tượng học nghề

được mở rộng tới cả người khuyết tật, người dân tộc thiểu số v.v. Hoạt động đào tạo

nghề luôn gắn liền với giới thiệu việc làm và nhu cầu của các doanh nghiệp trên địa

bàn. Nhờ đó đã đem lại niềm tin vào sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng, Nhà nước cho

người dân, đặc biệt là lực lượng thanh niên, giúp họ phát huy và đóng góp sức trẻ

vào công cuộc CNH - HĐH Thủ đô và đất nước.

Theo một số báo cáo do huyện cung cấp cho thấy, địa phương đã ban hành

rất nhiều quyết định liên quan đến lao động việc làm như: Quyết định số 1284/QĐ-

UBND ngày 28/7/2014 về việc phê duyệt phương thức đặt hàng dạy nghề ngắn hạn

cho lao động nông thôn của Trường Trung cấp nghề du lịch, Trường Cao đẳng nghề

kỹ thuật - công nghệ - kinh tế Simco Sông Đà, Trung tâm dạy nghề tư thục nhân

đạo Minh Tâm, Công ty CP dạy nghề kỹ thuật và nông nghiệp Thanh Xuân, Công

ty đào tạo nghề xuất khẩu lao động, Trường trung cấp nghề đa ngành Vạn Xuân,

64

Cty TNHH sản xuất và thương mại mây tre Hùng Việt. Đề án số 82/ĐA-UBND

ngày 24 tháng 11 năm 2011 của UBND Huyện về đào tạo nghề cho lao động nông

thôn giai đoạn 2011 - 2020 v.v…Căn cứ vào những quyết định, đề án của Huyện,

các phòng ban chức năng đã tổ chức đào tạo được 10 loại hình nghề ngắn hạn bao

gồm 5 nghề nông nghiệp và 5 nghề phi nông nghiệp với sự tham gia của 1950 lao

động. Tỷ lệ lao đông nông thôn làm đúng với nghề được đào tạo đạt 80,1% (Trích

nguồn từ báo cáo tình hình thực hiện Đ số 1956/ Đ-TTg của Thủ tướng CP về

đào tạo nghề cho LĐ nông thôn tr n địa bàn huyện Thanh Oai năm 2014).[26,trg.4]

Đối với cấp cơ sở mà cụ thể là thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương, tình hình

giải quyết lao động việc làm cũng có những chuyển biến đáng kể. Qua trao đổi trực

tiếp với cán bộ thị trấn và xã, tôi được biết, chính quyền 2 nơi luôn xây dựng những

chương trình đào tạo nghề hàng năm về cả lĩnh vực nông nghiệp lẫn phi nông

nghiệp cho người dân địa phương trong đó, tỷ lệ thanh niên trong nhóm tuổi từ 16

đến 30 tuổi luôn chiếm trên 50% tổng số học viên các lớp học nghề này. Chủ trương

chung của chính quyền các địa bàn nghiên cứu vẫn là chuyển dịch cơ cấu kinh tế

theo hướng ưu tiên phát triển thương mại dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông nghiệp.

Tuy nhiên, không vì thế mà địa phương loại bỏ những lớp đào tạo nghề nông nghiệp

như hướng dẫn cách trồng và chế biến nấm; kỹ thuật trồng rau an toàn; kỹ thuật

trồng cây cảnh v.v..Tỷ lệ thanh niên theo học những lớp học về nông nghiệp chiếm

20% tổng số học viên, đa phần là nữ thanh niên theo học.

Bên cạnh công tác đào tạo nghề thì hoạt động giới thiệu việc làm cũng được

chính quyền và các đoàn thể chú ý. Đối với xã Cao Dương thì hàng năm đơn vị này

tổ chức một buổi họp để thanh niên trong độ tuổi lao động gặp gỡ những cơ sở sản

xuất trên địa bàn mình sinh sống. Qua đó, giữa thanh niên và chủ các cơ sở có điều

kiện hiểu rõ nhau hơn, nắm bắt nhu cầu và nguyện vọng của nhau để dần tiến tới

việc ký hợp đồng lao động.

Thông thường, những buổi tiếp xúc này do chính quyền chủ trì, các đoàn thể

như Hội phụ nữ, Đoàn Thanh ni n, Hội Nông dân tập hợp Đoàn vi n, Hội viên của

mình đến tham dự, gặp gỡ với chủ các cơ sở sản xuất kinh doanh tại xã. Xã mình

chưa có doanh nghiệp lớn lắm, chủ yếu là quy mô vừa và nhỏ thôi (nam, 45, ĐH,

65

cán bộ chính quyền).

Còn tại thị trấn Kim Bài, địa phương luôn chủ động tuyên truyền để người

dân đến tham gia những sàn giao dịch việc làm do huyện tổ chức. Những thanh niên

học xong lớp 12 cũng được địa phương giới thiệu đến các cơ sở sản xuất kinh doanh

đóng trên địa bàn để tham gia tuyển dụng.

Một số người đang gặp khó khăn trong tìm việc khi đến sàn giao dịch cũng

được tư vấn tư việc làm và có được công việc vừa ý. Thu nhập thì chúng tôi cũng

không rõ được vì họ trực tiếp trao đổi, thương lượng với các doanh nghiệp.

(nam, 45, ĐH, cán bộ chính quyền).

Theo thông tin từ phía cán bộ thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương, thì 83%

học viên tham gia các lớp đào tạo nghề có được việc làm tại chỗ. Số còn lại phải

sang các vùng lân cận để kiếm việc làm. Riêng về thu nhập thì chính quyền địa

phương không thể nắm rõ vì những người lao động không thuộc hệ thống cơ quan

Nhà nước sẽ chủ động thương lượng với chủ doanh nghiệp để có được mức lương

phù hợp với năng lực cũng như hàng loạt các chế độ đãi ngộ khác.

Nếu như cán bộ chính quyền tỏ ra khá lạc quan đối với vấn đề việc làm của

địa phương thì về phía thanh niên địa phương - đối tượng chính trong nghiên cứu

của tôi lại có những ý kiến khác so khi đánh giá về quá trình tìm việc làm hiện nay:

Bảng 3.17: Đánh giá về quá trình tìm việc thanh niên

Mức độ

N

%

Rất khó

129

64,5

Khó

22

11,0

Bình thường

44

22,0

Dễ

4

2,0

Rất dễ

1

0,5

Tổng

200

100

(Nguồn: khảo sát của đề tài)

Qua kết quả xử lý bảng hỏi trên cho thấy, có đến 64,5% trong tổng số thanh

niên được hỏi cho biết tìm kiếm việc làm là rất khó; 11% trả lời là khó; 22% trả lời

66

là bình thường; chỉ có 2,5% tỷ lệ thanh niên cho thấy tìm việc là dễ và rất dễ.

Khi thi vào trường cũng hoang mang không biết mình có đỗ không. Tỷ lệ thi

vào rất đông. Trường mầm non tư thực thì thu nhập cao hơn nhưng trường công thì

ổn định, lâu dài hơn. Để vào được thì mối quan hệ xã hội là điều không thể thiếu

được. Đó là thực tế xã hội thôi mình mới làm nên chuyện được. (nữ, 27, CĐ, giáo

viên trường mầm non).

Giải thích rõ hơn về việc tại sao địa phương đã có nhiều chính sách ưu việt

nhằm hỗ trợ thanh niên trong quá trình học nghề và tìm việc song phần lớn thanh

niên lại cho rằng đây là một quá trình khó khăn và vất vả. Một thanh niên cho biết.

Thực ra làm việc lặt vặt thì không khó, tìm đâu cũng được song để có được

công việc với mức thu nhập ổn định với các chế độ đãi ngộ như bảo hiểm xã hội,

bảo hiểm y tế, các khoản phụ cấp, khen thưởng thì mới là khó. Nhiều bạn mất hàng

tháng, thậm chí là hàng năm để có được công việc như thế ( nam, 24, CĐ)

Đánh giá về những khóa đào tạo do địa phương tổ chức mà 129 thanh niên

trong khảo sát của tôi đã từng tham gia thì chỉ có 10% cho biết họ thấy chúng thực

sự hiệu quả, 36% cho biết tương đối hiệu quả. Còn lại đều cho biết, chúng chỉ ở

mức độ bình thường hoặc không hiệu quả cho lắm.

Từ những thông tin và số liệu có được qua khảo sát bằng bảng hỏi và phỏng

vấn sâu thanh niên tại địa phương đã cho thấy, chính quyền và các ban ngành đoàn

thể đã có rất nhiều quan tâm đến công tác tư vấn, đào tạo và giới thiệu nghề cho

thanh niên. Điều này thể hiện qua rất nhiều quyết định, chương trình phối hợp liên

ngành của chính quyền và các đoàn thể. Tuy nhiên, để các chương trình, hoạt động

này thực sự hiệu quả và thiết thực thì nên có những điều chỉnh trong đó lấy thanh

niên là trọng tâm, đối tượng đích thay vì triển khai theo hướng đại trà như hiện nay.

3.5. Các giá trị truyền thống của địa phương

Khi đề cập đến các phong tục tập quán tại địa phương, người ta thường liên

tưởng đến yếu tố văn hóa, tinh thần chứ ít ai nghĩ rằng, nó cũng là một trong các

yếu tố có ảnh hưởng quan trọng đến việc làm của thanh niên.

Kể từ tháng 8 năm 2008, Hà Nội chính thức được mở rộng. Bên cạnh sự tăng

lên đáng kể về diện tích và dân số, Thủ đô còn có rất nhiều làng nghề, phố nghề với

những nét văn hóa phong phú, đa dạng.

67

Riêng trên địa bàn huyện Thanh Oai, trong thời gian vừa qua, đã có 76 làng

được công nhận là làng văn hóa và 51 làng được công nhận là làng nghề. Đây chính

là những điển hình tiêu biểu trong việc gìn giữ những giá trị tốt đẹp của nhiều nghề

truyền thống có lịch sử phát triển hàng trăm năm qua.

Những nghề truyền thống như nghề khâu nón, làm mộc được khuyến khích

phát triển; nghề làm lồng chim cảnh bằng nguyên liệu gỗ nay phát triển thành nghề

làm lồng chim bằng kim loại cho phù hợp với xu hướng của xã hội hiện đại. Những

giá trị truyền thống được hun đúc từ nhiều thế hệ vẫn được duy trì và phát huy cho

đến tận ngày nay như tinh thần đoàn kết, tương thân, tương ái giữa các thành viên

trong gia đình, dòng tộc nhằm giúp đỡ nhau tiến bộ trong công việc.

Nghề làm lồng chim này có từ lâu rồi, tôi học nghề này từ ông bà, cha mẹ

mình. Tuy nhi n trước đây là làm lồng chim bằng gỗ, xử lý bằng tay là chủ yếu.

Ngày nay, tôi chuyển sang làm lồng chim bằng kim loại. Bà chị ở gần nhà cũng

làm. Chị em hỗ trợ cho nhau, lúc nào làm không kịp thì bên nọ hỗ trợ b n kia để

đáp ứng hàng cho khách. Người làm trong xưởng của tôi chủ yếu là người làng,

giúp họ có công việc thấy cũng vui. (nam, 29 tuổi, THPT)

Bên canh đó thì quan điểm “Buôn có bạn, bán có phường” của cha ông từ xa

xưa cũng vẫn được thanh niên địa phương áp dụng trong hoạt động sản xuất và kinh

doanh hiện nay tại địa phương. Một số nhóm sản xuất quy mô nhỏ do các chị em

phụ nữ lập ra trong thời gian gần đây như: nhóm may gia công, nhóm khâu nón,

nhóm trồng và chế biến nấm đã góp phần giúp cho họ có thêm thu nhập, trang trải

cuộc sống thường ngày. Định kỳ hàng quý, hàng năm, các nhóm sản xuất - kinh

doanh tại địa phương dưới sự hỗ trợ của các đoàn thể như Hội phụ nữ, Đoàn Thanh

niên còn tổ chức những buổi tham quan, học tập chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau.

Những phiên chợ quê họp theo ngày chẵn theo lịch âm không chỉ là nơi trao

đổi, giao thương các sản phẩm của địa phương mà còn là điểm sinh hoạt, giao lưu văn

hóa của người dân trong vùng. Khi đến đây, người dân có điều kiện bày bán các sản

phẩm do mình tự tay chăn nuôi, trồng trọt được hoặc giới thiệu những sản vật của các

vùng miền khác tới dân bản địa. Mặc dù đã tồn tại từ hàng trăm năm và trải qua rất

nhiều biến thiên của lịch sử song những phiên chợ quê tại huyện Thanh Oai chưa bao

giờ kém đi phần sôi động. Người dân địa phương trong đó có cả thanh niên vẫn háo

68

hức mỗi khi đến họp chợ vào những ngày cố định.

Em vẫn mang hàng may của mình lên chợ bán, cũng kiếm được thêm chút ít,

gọi là có tiền mua th m đồng quà tấm bánh cho con cái trong nhà. Gặp gỡ mọi người

trong chợ cũng vui lắm, biết thêm nhiều chuyện, vừa tìm thêm nhiều khách hàng,

nhiều mối làm ăn (nữ, 26, thợ may)

Qua đó có thể thấy rằng mặc dù xã hội ngày càng phát triển nhưng những giá

trị truyền thống giữa các thành viên trong cộng đồng làng xã vẫn được lưu truyền

thông qua những nhóm sản xuất nhỏ lẻ, những phiên chợ quê.

Do vậy, khi nghiên cứu về việc làm nói chung và việc làm của thanh niên nói

riêng tại khu vực nông thôn thì không thể bỏ qua sự ảnh hưởng của những giá trị

truyền thống vốn đã ăn sâu bám rễ trong cách nghĩ, cách làm của người dân từ bao

đời nay.

3.6. Các yếu tố nhân khẩu

Các yếu tố nhân khẩu trong nghiên cứu của tôi có ảnh hưởng rất lớn và rất

quan trọng đến việc làm của thanh niên địa phương bao gồm: tuổi, giới tính, trình

độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật.

Tuổi

Khi đi sâu vào nghiên cứu đến vấn đề việc làm của thanh niên thị trấn Kim

Bài và xã Cao Dương - huyện Thanh Oai thì yếu tố độ tuổi có tác động rất lớn. Để

có được một công việc ổn định, lâu dài thì thanh niên phải có kiến thức, có năng

lực, có kinh nghiệm cũng như kỹ năng làm việc, thời gian làm việc lâu dài gắn bó

với công việc đó với niềm yêu thích và sự khám phá học hỏi. Ngược lại, nếu thiếu

đi những điểm này thì sẽ rất khó đối với họ để có được việc làm hoặc nếu có thì

công việc đó cũng không ổn định và thu nhập cũng không cao, dễ dẫn tới tâm lý

chán nản, hoang mang và muốn bỏ việc.

Ở góc độ tuổi tác, nghiên cứu của tôi tập trung vào thanh niên ở nhóm tuổi từ

16 đến 30 tuổi. Qua tiến hành khảo sát cho thấy, thanh niên càng nhiều tuổi thì

những suy nghĩ cũng như kinh nghiệm trong công việc càng chín chắn và trưởng

thành hơn. Họ xác định được rõ đường đi nước bước trong sự nghiệp của mình và

dần ổn định công ăn việc làm. Ngược lại đối với thanh niên trẻ hơn, đặc biệt là ở

nhóm vừa học xong thì thường có sự thay đổi công việc hay gọi là “nhảy việc”.

69

Thời gian đảm nhận mỗi công việc thường ngắn hơn. Tâm lý thường dao động,

không ổn định. Trong suy nghĩ vẫn có kiểu “đứng núi này trông núi nọ”. Họ luôn

muốn “bay nhảy” để có sự va chạm, cọ xát với cuộc sống. Họ liên tục tìm kiếm

nhiều nguồn thông tin khác nhau để có được chỗ làm mới có thu nhập cao hơn và

nhiều chế độ đãi ngộ tốt hơn để làm việc. Họ không coi “nhảy việc” là một sự khó

khăn mà nhìn nhận đấy là sự thử sức, trải nghiệm với những lĩnh vực mới.

Bảng 3.18: Tình trạng việc làm của thanh niên phân theo nhóm tuổi

Nhóm tuổi của thanh niên Việc làm của thanh niên Tổng 16 - địa phương theo nhóm tuổi 21 - 25 26 - 30 20

11 30 90 131 N Đang có việc

làm ổn định 8,0 23,0 68,7 100 %

11 16 5 32 Đã đi làm nhưng hiện N

nay nghỉ việc, làm một

số việc thời vụ, đang tìm 34,4 50,0 15,6 100 %

việc mới

25 9 3 37 Chưa có việc làm cụ thể, N

ở nhà giúp gia đình kinh 67,56 24,3 8,1 100 %

doanh

47 55 98 200 N Tổng 23,5 27,5 49,0 100 %

(Nguồn: khảo sát của đề tài)

Kết quả khảo sát cho thấy những người đang có làm ổn định chủ yếu nằm ở

độ tuổi từ 26 đến 30 tuổi (chiếm 68,7%), cao hơn rất nhiều so với nhóm thanh niên

có độ tuổi từ 16 đến 20 tuổi (chiếm 8%) và từ 21 đến 25 tuổi (chiếm 23%). Đối với

nhóm thanh niên đã từng đi làm, bây giờ nghỉ việc ở nhà và làm một số công việc

thời vụ. Họ đang trong quá trình tìm kiếm công việc mới thì phân bổ đều ở cả 3

nhóm tuổi với tỷ lệ như sau: từ 16 đến 20 tuổi (chiếm 34,4%), từ 21 đến 25 tuổi

(chiếm 50%), từ 26 đến 30 tuổi (chiếm 15,6%). Đối với nhóm thanh niên chưa có

70

việc làm cụ thể, phụ giúp gia đình làm nông nghiệp hoặc kinh doanh buôn bán thì

nhóm thanh niên từ 16 đến 20 tuổi chiếm 67,56%; từ 21 đến 25 tuổi chiếm 24,3%

và từ 26 đến 30 tuổi chiếm 8,1%.

Trong quá trình nghiên cứu, tôi cũng thấy rằng, các nhóm thanh niên trẻ hơn

từ 16 đến 20 tuổi và từ 21 đến 25 tuổi thì hay rơi vào tình trạng là: Đã đi làm nhưng

hiện nay nghỉ việc, làm một số việc thời vụ, đang tìm việc mới; Chưa có việc làm

cụ thể, ở nhà giúp gia đình kinh doanh. Qua tìm hiểu thì nguyên nhân chủ yếu là

thanh niên trong độ tuổi này cảm thấy công việc hiện tại không phù hợp bắt nguồn

từ các yếu tố như: thu nhập thấp, cơ quan làm việc không có nhiều chính sách ưu

đãi với người lao động, thời gian làm việc gò bò, công việc không phù hợp với

chuyên môn nghiệp vụ v.v.. nên đã nghỉ việc để đi tìm công việc khác nhưng chưa

hiện tại vẫn chưa tìm được công việc nào phù hợp. Do vậy, họ làm những công việc

có tính chất thời vụ mà họ có khả năng như nhận sửa máy tính, sửa điện thoại di

động, bán hàng qua mạng v.v… để đảm bảo có nguồn thu nhập hàng ngày.

Tiếp tục nghiên cứu về ảnh hưởng của yếu tố tuổi tác đến việc làm của thanh

niên địa phương, tôi nhận thấy rằng nhóm thanh niên ở nhóm tuổi từ 26 đến 30 tuổi

có công việc ổn định hơn. Ngược lại nhóm thanh niên trẻ hơn, từ 16 đến 20 và từ 21

đến 25 tuổi vẫn luôn coi công việc hiện tại là tạm thời có tính chất thời vụ nên họ

cũng mong muốn thay đổi công việc nhiều hơn và số lần thay đổi việc trong nhóm

tuổi này là từ 2 đến 3 lần đổi việc. Trong khi đó thì nhóm thanh niên lớn tuổi nhất

thì đã xác định công việc hiện tại là ổn định, lâu dài, nhất là đối với nhóm đã lập gia

đình mà lại là phụ nữ thì lại càng thể hiện quyết tâm làm việc để kiếm tiền không

chỉ để nuôi sống bản thân mà còn gia đình mình nữa. Họ hài lòng với công việc

hiện tại và chỉ mong muốn vững tay nghề hơn để có nhiều sản phẩm mang ra tiêu

thụ trên thị trường.

Vì chị em phụ nữ ở nông thôn không có điều kiện học lên cao nữa thì chọn

nghề may vì vừa nhẹ nhàng, phù hợp với khả năng, lại có điều kiện gần gũi để chăm

sóc gia đình. Nghề may cũng đa dạng sản phẩm, không may quần thì may áo, sửa

chữa quần áo cũ v.v….Thu nhập trung bình là 4 triệu/tháng, cũng có tháng cao hơn

71

nhưng bình quân là như vậy. Với khoản thu nhập này nếu ở nông thôn đối với phụ

nữ ở nhà có điều kiện chăm con thì như thế là tạm đủ lại chủ động trong công việc.

(nữ, 26, THPT, thợ may)

Như vậy có thể thấy rằng, mỗi nhóm tuổi khác nhau lại có những suy nghĩ

khác nhau về công việc cũng như sự gắn bó với nó. Đây cũng là một trong những

yếu tố tác động không nhỏ đến quá trình tìm việc và làm việc của thanh niên huyện

Thanh Oai.

Giới tính

Trong những năm vừa qua, ở khu vực ngoại thành Hà Nội xuất hiện ngày

càng nhiều các khu công nghiệp với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh các

mặt hàng phục vụ cho thị trường trong nước và quốc tế. Ngoài ra, tại hầu hết các xã

ngoại thành Hà Nội, nhiều doanh nghiệp với quy mô vừa và nhỏ được thành lập.

Điều đó cũng đồng nghĩa với việc một lượng lớn thanh niên sẽ được tuyển dụng vào

làm việc. Tuy nhiên lại nảy sinh một vấn đề nữa có liên quan đến mối quan hệ giữa

giới tính và việc làm của thanh niên. Đây cũng được coi là một trong những yếu tố

có ảnh hưởng lớn nhất.

Bảng 3.19: Thực trạng việc làm của nam và nữ (%)

Thực trạng Tổng Nam % Nữ %

Đang có việc làm ổn định 131 41,0 31,0

Đã đi làm nhưng hiện nay nghỉ việc, làm một 32 35,0 29,0 số việc thời vụ, đang tìm việc mới

Chưa có việc làm cụ thể, ở nhà giúp gia đình 37 24,0 40,0 kinh doanh

Tổng 200 100 100

( Nguồn: Khảo sát của đề tài)

Qua bảng số liệu trên đây cho thấy số lao động đang có việc làm ổn định là

nam thanh niên chiếm tỷ lệ cao hơn nhiều so với nữ thanh niên, 41% so với 31%.

Trong khi đó, tỷ lệ nữ thanh niên chưa có việc làm cụ thể lại cao hơn so với tỷ lệ

72

nam thanh niên là 40% so với 24%.

Về ngành nghề thì qua nghiên cứu cũng cho thấy có sự khác biệt đáng kể

giữa nam và nữ khi lựa chọn công việc cho bản thân. Trong tổng số 200 thanh niên

tham gia vào nghiên cứu của tôi trong đó có 104 nam thanh niên và 96 nữ thanh

niên. Nam đảm nhận các ngành nghề về kỹ thuật hoặc các công việc di chuyển

nhiều như: sửa chữa máy móc, làm cơ khí, thợ mộc, vận tải( chiếm 84%). Trong

khi đó nữ thường đảm nhận những công việc có tính chất ổn định như: nhân viên

văn phòng, thợ may, y tá, giáo viên, kinh doanh hàng gia dụng (chiếm 76,5%). Nếu

nữ giới có đảm nhận các công việc liên quan đến kỹ thuật thì chủ các cơ sở tuyển

dụng cũng bố trí họ ở những khâu đơn giản hơn, đòi hỏi sự tỉ mỉ và kỹ lưỡng hơn.

Cơ sở chú trọng nam hơn vì công việc này đòi hỏi sức khỏe nhiều hơn. Công

việc liên tục phải tiếp xúc với máy móc, dầu mỡ nên nam giới làm việc thì thuận tiện

hơn là nữ giới. Nữ thì rụt rè hơn khi tiếp xúc với máy móc. Tuy nhiên trong từng

quá trình thì có những khâu nữ lại đảm nhận tốt hơn. Ví dụ như khâu đan từng

miếng kim loại vào nhau thì đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo thì nữ làm tốt hơn và cẩn thận

hơn. (nam, 29, THCN, chủ cơ sở sản xuất).

Điều này cũng đồng nghĩa với việc thu nhập của nữ cũng sẽ bị thấp hơn so

với nam giới. Ngoài ra, kể cả khi có công việc chính thì nữ vẫn tranh thủ làm một số

công việc phụ vào buổi tối hoặc lúc rỗi rãi như khâu nón, trồng hoa cây cảnh để có

thêm thu nhập phụ giúp gia đình.

Em làm giáo vụ tại trường tiểu học, tối hoặc hè đến rảnh rỗi em khâu nón

đem ra chợ bán. (nữ, 28, ĐH, giáo vụ trường tiểu học)

Thực ra nguyên nhân nữ thanh niên chọn những công việc có tính chất ổn

định, bắt nguồn từ việc giáo dục trong gia đình là con gái nên làm công việc nhẹ

nhàng để có thời gian chăm sóc vun vén gia đình và con cái. Bận rộn với công việc

đến mấy thì xong việc là về với gia đình của mình. Còn việc kiếm tiền, va chạm với

ngoài xã hội là thuộc về nam giới. Nếu nữ có làm thêm thì cũng nên chọn loại hình

công việc phù hợp với bản thân như: trồng trọt, chăn nuôi, kinh doanh v.v…

Một điểm cần chú ý đến nữa trong quá trình tôi nghiên cứu, tìm hiểu về thực

trạng việc làm của thanh niên chính là những yếu tố nào gắn kết họ làm việc lâu dài.

73

Ở đây cũng có sự khác biệt giữa nam và nữ thanh niên. Nếu như nam thanh niên

cho rằng thu nhập tốt là yếu tố cực kỳ quan trọng để họ gắn bó với công việc chiếm

tỷ lệ 75,5% thì nữ là 55%. Có 65,5% nữ thanh niên cho rằng thời gian làm việc linh

hoạt mới là điểm quan trọng cần phải tính đến khi tìm việc. Tỷ lệ này ở nam thanh

niên là 37%. Như vậy ta có thể thấy rằng, nam thường quan tâm nhiều đến thu nhập

rồi mới đến thời gian làm việc nhưng nữ lại quan tâm nhiều thời gian hơn là thu

nhập. Đối với nữ thì thu nhập chỉ cần đảm bảo vừa đủ là mãn nguyện còn với nam

thì càng cao càng tốt. Các yếu tố khác như môi trường làm việc, địa điểm làm việc

v.v… không có sự khác biệt nhiều giữa tỷ lệ nam và nữ.

Bên cạnh đó cũng thấy rằng nam giới chỉ cần đảm nhiệm một công việc là họ

có thể có được thu nhập. Nữ giới thì khác, bên cạnh công việc chính họ vẫn phải có

một nghề tay trái để tăng thêm vào khoản thu nhập hàng tháng. Tất nhiên là những

công việc này cũng phù hợp với khả năng của họ. Trong 8,5% thanh niên làm nghề

hỗn hợp, tỷ lệ nữ là 6,5% gấp hơn 3 lần so với nam là 2%.

Như vậy, xét ở góc độ giới tính, cũng có thể thấy là có sự khác biệt giữa nam

và nữ trong quá trình tìm việc, yếu tố gắn kết với công việc cũng như tiêu chí tuyển

dụng của chủ sử dụng lao động. Sự khác biệt này có nhiều nguyên nhân song chủ

yếu vẫn bắt nguồn từ quan niệm cho rằng nam thường đóng vai trò trụ cột trong gia

đình nên chịu trách nhiệm chính đi kiếm tiền. Họ cần có sức khỏe, sự liều lĩnh và

phải di chuyển, va chạm để đảm đương những công việc nặng nhọc. Trong khi đó,

nữ với bản tính dịu dàng, chịu thương, chịu khó, sẽ quán xuyến việc nuôi dạy con

cái, phụng dưỡng cha mẹ nên không nhất thiết phải đi làm xa. Người phụ nữ luôn

cần phải biết sắp xếp mọi việc sao cho trong ấm ngoài êm nên thu nhập có thể bằng

thì tốt còn nếu không thường là thấp hơn so với nam giới ngay cả khi họ kiêm

nhiệm trên vai nhiều công việc.

Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật

Trong công cuộc đổi mới, CNH - HĐH đất nước, Đảng và Nhà nước ta đánh

giá rất cao vai trò của thanh niên. Chính vì vậy, Đảng và Nhà nước đã luôn quan

tâm chăm lo xây dựng và phát huy sức mạnh của các thế hệ thanh niên tham gia vào

sự nghiệp phát triển kinh tế, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để làm được những điều

74

đó thì cái căn bản nhất mà một thanh niên cần phải học tập để có trình độ nhất định.

Chỉ bằng con đường học tập thì thanh niên mới có kiến thức, có trình độ chuyên

môn kỹ thuật để làm chủ được công việc, áp dụng các công nghệ hiện đại vào phát

triển kinh tế, nuôi sống bản thân, gia đình và xã hội.

Phần lớn những thanh niên có trình độ học vấn cao tại địa phương đều kiếm

được những công việc ổn định. Họ thường vào làm cho các doanh nghiệp vừa và

nhỏ tại địa phương. Ngoài ra họ có thể tự tạo việc làm bằng hoạt động sản xuất và

kinh doanh với sự hỗ trợ vốn ban đầu từ phía gia đình và các đoàn thể. Một số khác

vào làm việc cho các cơ quan Nhà nước. Đa phần thanh niên tốt nghiệp từ các

trường Đại học, Cao Đẳng hoặc ít nhất là THPT. Bên cạnh đó có những thanh niên

có trình độ nhất định đã từng có việc làm nhưng hiện nay nghỉ việc để tìm việc mới.

Trong thời gian này, họ làm một số công việc thời vụ như bán hàng qua mạng, tiếp

thị v.v.. hoặc phụ giúp gia đình các công việc đồng áng, chăn nuôi. Những thanh

niên có trình độ học vấn thấp hơn thì đang làm một số công việc lao động phổ thông

tại địa phương như thu gom và xử lý phế liệu, lái xe tải, xe khách v.v… Như vậy,

trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật là yếu tố ảnh hưởng rất lớn tới tình trạng

việc làm của thanh niên tại địa bàn huyện Thanh Oai. Tuy nhiên, cũng cần phải nói

rằng trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật lại không phải là yếu tố quyết định

đến thu nhập trung bình của thanh niên ở địa bàn nghiên cứu. Để có thu nhập tốt

còn liên quan vào kỹ năng, kinh nghiệm cũng như sự nhạy bén, năng động trong

cách làm việc của mỗi thanh niên mà điều này còn phụ thuộc vào tố chất của từng

thanh niên. Có những thanh niên có thể làm tốt trong lĩnh vực nông nghiệp song khi

chuyển sang lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ thì lại không thể phát huy được ưu

điểm. Tương tự, có những thanh niên làm việc trong cơ quan Nhà nước lại phát huy

tốt hơn năng lực so với lúc làm việc trong các doanh nghiệp ngoài Nhà nước.

3.7. Những thuận lợi v khó khăn đối với giải quyết việc làm của thanh

niên tại địa bàn nghiên cứu

Thuận lợi

Chính quyền từ cấp huyện đến các địa bàn nghiên cứu đều quan tâm và có

nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của giải quyết việc làm cho thanh niên, coi đó

75

là yếu tố rất quan trọng góp phần quyết định vào sự thành công của sự nghiệp CNH

- HĐH khu vực nông thôn. Các chủ trương, chính sách của chính quyền các cấp về

việc làm của thanh niên ngày càng được hoàn thiện, bổ sung cho phù hợp với lợi ích

của thanh niên và yêu cầu của thị trường lao động.

Hệ thống đào tạo nghề, tư vấn nghề được phát triển rộng khắp, đa dạng ở

nhiều loại hình như: công lập, bán công, dân lập v.v…và nhiều mức độ như: sơ cấp,

THCN v.v…giúp cho thanh niên địa phương có nhiều điều kiện lựa chọn. Tỷ lệ

thanh niên địa phương được qua đào tạo là khá cao so với mặt bằng chung của khu

vực ngoại thành Hà Nội trong bối cảnh Hà Nội cũng là nơi có tỷ lệ lao động được

đào tạo cao nhất cả nước.

Vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên tại địa phương trong việc hỗ trợ giải

quyết việc làm ngày càng rõ rệt. Đoàn Thanh niên không chỉ dừng lại ở việc hô hào,

vận động chung chung thanh niên hăng say lao động sản xuất mà tổ chức Đoàn đã

có các hoạt động hỗ trợ, đồng hành với thanh niên trong học tập, nâng cao trình độ,

tư vấn, hỗ trợ thanh niên về nghề nghiệp và việc làm cụ thể như: tổ chức các lớp tập

huấn, diễn đàn chia sẻ kinh nghiệm, tập huấn nâng cao kỹ năng tư vấn hướng

nghiệp và giải quyết việc làm, tổ chức ngày hội việc làm, tổ chức các hội thi tay

nghề....

Thanh niên tại các địa bàn nghiên cứu ngày càng nhanh nhạy hơn trong việc

nắm bắt, cập nhật thông tin về chính sách lao động việc làm. Trên cơ sở đó, lựa

chọn những ngành nghề phù hợp với bản thân và xã hội.

Một số thanh niên phát huy tính năng động, sáng tạo bằng việc huy động các

nguồn lực để tự tạo việc làm cho bản thân, từ đó lập nên những cơ sở sản xuất thu

hút nhiều lao động địa phương vào làm việc.

Số lượng việc làm cho thanh niên ngày một tăng thông qua các sàn giao dịch,

hội chợ việc làm do Thành phố, huyện tổ chức hàng năm.

Gia đình của nhiều thanh niên cũng đã nhận thức đúng đắn hơn về việc

hướng nghiệp, học nghề nên tích cực ủng hộ cho thanh niên theo học nghề.

Quan điểm “giỏi một nghề, biết một số nghề” cũng đang được nhiều thanh

niên địa phương vận dụng cho phù hợp với tình hình thực tiễn, thể hiện tính năng

76

động, nhạy bén của tuổi trẻ.

Bên cạnh đó, các địa phương trên địa bàn huyện còn thực hiện nghiêm túc và

có hiệu quả chương trình dân số kế hoạch hóa gia đình. Nếu như năm 2006, quy mô

một gia đình nông thôn tại huyện là 4,11 nhân khẩu/hộ thì đến nay là 3,87 nhân

khẩu/hộ. Quy mô lao động bình quân một hộ ổn định là 2,35 người/hộ vào năm

2006 thì nay là 2,44 người/hộ. Từ đó có thể thấy rằng dân số địa phương đang dần

trẻ hóa, số người sống phụ thuộc trong một gia đình ít hơn số lao động của hộ. Từ

đó thu nhập của từng cá nhân và mỗi hộ gia đình từng bước được cải thiện, đời sống

vật chất và tinh thần dần được nâng cao.

Khó khăn

Việc làm mà nhất là việc làm của thanh niên nông thôn là một chủ đề không

mới song không dễ dàng để giải quyết trong một thời gian ngắn. Thanh niên luôn

được coi là lực lượng lao động trẻ, khỏe, năng động và sáng tạo song đây cũng là

nhóm có nhiều biến đổi trong suy nghĩ và hành động, rất khó để có thể nắm bắt và

đoán định. Trong độ tuổi từ 16 đến 30 tuổi, thanh niên thường có thể thay đổi nhiều

công việc chứ không chỉ làm một công việc trong một thời gian dài vì họ còn có

tâm lý bay nhảy, muốn được thử sức ở nhiều lĩnh vực. Trong một xã hội năng động

và phát triển như hiện nay, thanh niên có rất nhiều cơ hội song cũng đối mặt với

không ít khó khăn và thách thức. Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về việc làm

của thanh niên, tôi xin được đưa ra một vài khó khăn chính như sau:

Huyện Thanh Oai nói riêng và khu vực ngoại thành Hà Nội nói chung vẫn

mang những nét đặc trưng như các khu vực nông thôn trong cả nước. Mặc dù trong

thời gian vừa qua, bức tranh toàn cảnh đời sống kinh tế - xã hội của huyện và thị

trấn Kim Bài cũng như xã Cao Dương đã có nhiều thay đổi do chương trình mục

tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới đem lại. Tuy nhiên, người dân mà nhất là

thanh niên vẫn bị ảnh hưởng bởi những thói quen lạc hậu trong cuộc sống của một

xã hội nông nghiệp từ bao đời nay và họ đem cả những ảnh hưởng tiêu cực này vào

trong thực tế công việc khiến cho năng suất lao động bị giảm sút .

Xu thế hội nhập và mở cửa, nhận thức của con người có bước tiến đáng

kế, nhu cầu tiêu dùng sản phẩm phải có chất lượng. Một nền kinh tế mà ở đó

77

không có những lao động có chuyên môn kỹ thuật cao, không có sự đào tạo bài bản

và kinh nghiệm, kỹ năng thực tiễn thì không thể cho ra những sản phẩm có chất

lượng tốt. Nhà tuyển dụng chỉ lựa chọn những nhân lực có thể phát huy năng lực

trong một môi trường năng động, đem lại hiệu quả cao trong công việc. Còn những

nhân lực có trình độ cũng như năng lực hạn chế có thể sớm bị đào thải. Trong bối

cảnh khu vực ngoại thành Hà Nội hiện nay, mặc dù trình độ học vấn và trình độ

chuyên môn, kỹ thuật của thanh niên là khá cao so với mặt bằng chung của cả nước.

Song phải thừa nhận thực tế là thanh niên ngoại thành vẫn chưa được đào tạo một

cách chuyên sâu, bài bản, chưa được đào tạo đến nơi đến chốn. Họ chưa có những

kỹ năng cần thiết trong quá trình tìm việc và làm việc dẫn tới khó mà thích nghi với

môi trường làm việc đầy áp lực và đòi hỏi cao từ phía các nhà tuyển dụng.

Hệ thống thông tin của thị trường lao động còn yếu kém và hạn chế; khả

năng bao quát, thu thập và cung ứng thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu của các

đối tác trên thị trường lao động đặc biệt là chủ sử dụng lao động và người lao động.

Năm 2016, đào tạo nghề không còn nằm trong chương trình mục tiêu quốc

gia nữa nên kinh phí cho hoạt động này sẽ giảm, càng tạo ra khó khăn hơn trong

công tác đào tạo nghề cho thanh niên tại địa phương nói riêng và khu vực ngoại

thành nói chung. Số lượng các dự án đào tạo nghề từ phía các tổ chức quốc tế đang

giảm dần trên địa bàn Hà Nội khiến cho các địa phương đang phải tìm mọi cách để

huy động các nguồn lực khác.

Chương trình tư vấn nghề còn nhiều hạn chế trong cập nhật kiến thức

mới, công nghệ mới. Các chương trình thực tập, rèn luyện kỹ năng thực hành cho

thanh niên chưa được đổi mới nhanh và hiện đại hoá phù hợp với xu thế đào tạo của

các nước có hệ thống đào tạo hiện đại trong khu vực.

Đào tạo nghề ngắn hạn còn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số lao động được đào

tạo nghề hàng năm của nông thôn ngoại thành Hà Nội nói chung cũng như tại các địa

bàn nghiên cứu nói riêng. Trong khi đó, một xã hội hiện đại lại đang mong muốn

người lao động phải có một sự đào tạo bài bản và chuyên nghiệp hơn so với trước.

Đào tạo nghề mới tập trung vào đào tạo chuyên môn, kỹ thuật, chưa chú

trọng đến đào tạo kỹ năng mềm trong công việc cho thanh niên.

78

Phần lớn thanh niên lao động nói chung chưa chú trọng nhiều đến kỹ năng

mềm trong công việc. Họ chỉ tập trung vào kỹ năng cứng. Đây cũng là một nguyên

nhân khiến cho họ gặp nhiều khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm, tự tạo việc làm

hoặc phát huy khả năng trong quá trình làm việc.

Từ phía bản thân người lao động là những thanh niên chưa tự nhận thức phấn

đấu vươn lên, tu dưỡng, rèn luyện về chuyên môn, thường hay bằng lòng với những

gì mình đã có. Họ làm việc dựa chủ yếu vào truyền thống, kinh nghiệm từ gia đình,

dòng tộc và bản thân. Nhiều khi tư duy, suy nghĩ chậm đổi mới, ít có sự thay đổi để

tạo ra cái mới, cái độc đáo, cái đột phá. Thậm chí một số thanh niên còn lười biếng,

chây lỳ, thụ động trong cả suy nghĩ cũng như hành động. Họ vẫn có tâm lý phó mặc

cho số phận, thậm chí có tư tưởng dựa dẫm, ỷ lại vào các mối quan hệ của gia đình,

79

dòng tộc để có được công việc.

KẾT LUẬN

Hà Nội là đô thị đặc biệt nằm trung tâm khu vực đồng bằng sông Hồng, điều

kiện tự nhiên khá đa đạng, mật độ dân số đông và trình độ dân trí cao, cơ cấu kinh

tế phong phú, đời sống người dân nhất là khu vực ngoại thành đã có nhiều chuyển

biến tích cực trong những năm gần đây. Để phát triển mạnh kinh tế - xã hội của địa

phương nói chung và khu vực ngoại thành nói riêng, tạo điều kiện đẩy mạnh sự

nghiệp CNH - HĐH thì vấn đề rất quan trọng là tạo việc làm và nâng cao thu nhập

cho người lao động đặc biệt là lao động trẻ.

Luận văn Thực trạng việc m của thanh niên khu vực ngoại th nh H

Nội hiện nay ua nghi n cứu trường hợp thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương,

huyện Thanh Oai - Hà Nội) với mục đích tìm hiểu vấn đề việc làm của thanh niên

tại địa bàn nghiên cứu nói riêng và ở khu vực ngoại thành nói chung. Tổng số thanh

niên đã khảo sát và được đưa vào phân tích trong luận văn là 200 (trong đó có 104

nam thanh niên và 96 nữ thanh niên). Sau khi phân tích kết quả xử lý bảng hỏi, tôi

xin đưa ra một số kết luận về thực trạng việc làm của thanh niên tại địa bàn nghiên

cứu như sau:

Sự chuyển đổi trong cơ cấu nghề biểu hiện khá rõ khi thanh niên làm việc

trong các ngành dịch vụ là cao nhất tiếp đến là nhóm làm việc trong lĩnh vực công

nghiệp. Thanh niên làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp đang giảm dần. Ngoài ra,

có xuất hiện một nhóm thanh niên đang làm nghề hỗn hợp để đảm bảo thu nhập.

Nguyên nhân là do Đảng bộ, chính quyền địa phương chủ trương đẩy mạnh chuyển

dịch cơ cấu kinh tế trong những năm vừa qua và những năm sắp tới. Cùng với đó là

quá trình đô thị hóa diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ ở địa phương dẫn tới việc

hình thành nhiều khu công nghiệp, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, sự giao thương

ngày một thuận tiện giữa khu vực nội thành và ngoại thành. Trình độ dân trí được

nâng cao cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản khiến cho thanh niên ngày

càng có sự hiểu biết và lựa chọn được con đường lập thân, lập nghiệp cho bản thân.

Nhận thức về lao động, việc làm, con đường hướng nghiệp, lập thân, lập

80

nghiệp của thanh niên địa phương cũng có sự khác biệt giữa các nhóm tuổi của

thanh niên. Tuổi càng lớn, thanh niên càng có sự chín chắn, trưởng thành trong suy

nghĩ và hành động.

Về thu nhập, thanh niên tại địa phương có mức thu nhập trên mức trung bình

của toàn huyện. Tuy nhiên phần lớn thanh niên mong muốn có thêm việc làm để

tăng thu nhập nuôi sống bản thân và gia đình. Có thêm thu nhập cũng là cách để họ

đầu tư vào việc học tập nâng cao trình độ, tăng cường hoạt động lao động sản xuất.

Các yếu tố như: tình hình kinh tế - xã hội, gia đình, nhà trường, giá trị truyền

thống, nhân khẩu v.v... đều có ảnh hưởng đến quyết định lựa chọn việc làm của

thanh niên. Tuy nhiên gia đình vẫn là yếu tố có ảnh hưởng lớn nhất, tiếp đến là yếu

tố bản thân như giới tính, năng lực, trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Các yếu tố khác

như thiết chế giáo dục, tình hình phát triển kinh tế - xã hội địa phương v.v… cũng

có ảnh hưởng đến quyết định chọn nghề nhưng ở vị trí thấp hơn.

Trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật của thanh niên tại địa bàn nghiên cứu

là khá cao so với mặt bằng chung tại huyện nói riêng và khu vực ngoại thành Hà

Nội nói chung. Tuy nhiên, tình trạng thiếu việc làm trong nhóm thanh niên vẫn diễn

ra khá phổ biến tại địa bàn nghiên cứu và cũng là thực trạng chung tại khu vực

ngoại thành Hà Nội hiện nay.

Thanh niên địa phương ngày càng có ý thức học tập nâng cao trình độ học

vấn và chuyên môn nghiệp vụ để tránh bị tụt hậu trong thị trường lao động đầy tính

cạnh tranh khắc nghiệt như hiện nay. Tuy nhiên, một đặc điểm chung dễ nhận thấy

là thanh niên mới chỉ tập trung vào kỹ năng cứng mà ít chú trọng đến những kỹ

năng mềm vốn được coi là chất xúc tác giúp họ thuận lợi hơn trong quá trình tìm

kiếm việc làm cũng như tạo việc làm.

Ở góc độ lao động, việc làm, thanh niên có nhiều nguyện vọng song tựu

chung lại có 3 điểm lớn là: nhu cầu về thông tin; nhu cầu về tư vấn hướng nghiệp;

nhu cầu về nâng cao chuyên môn nghiệp vụ.

Mặc dù là một địa phương đang đẩy mạnh chương trình xây dựng nông thôn

mới và chịu ảnh hưởng rất lớn từ quá trình đô thị hóa song người dân địa phương

vẫn lưu giữ được những nét đẹp trong cách sống, cách làm việc, thể hiện tình yêu

81

thương giữa các thành viên trong gia đình, tinh thần cố kết cộng đồng, tình làng

nghĩa xóm như: buôn có bạn, bán có phường; lá lành đùm lá rách v.v.. Đây là

những điểm rất đáng quý, đáng trân trọng cần được phát huy trong một xã hội hiện

đại.

Chính quyền và các ban ngành đoàn thể tại địa phương đã có nhiều quan tâm

đến công tác đào tạo nghề, tư vấn nghề và giới thiệu việc làm cho lực lượng lao

động trẻ. Tuy nhiên, công tác này chưa tập trung nhiều về chất lượng đào tạo nghề,

đầu ra, tính đa dạng của ngành nghề cũng như dự báo xu hướng nghề trong tương

lai. Do vậy, công tác này vẫn chỉ bó hẹp trong các kế hoạch, chương trình đã được

xây dựng sẵn, thiếu đi tính linh hoạt và chủ động, khiến cho công tác đào tạo nghề,

giới thiệu việc làm chưa có tính lan tỏa trong cộng đồng. Một bộ phận thanh niên và

cả người dân địa phương đánh giá không cao về những chương trình xúc tiến lao

82

động việc làm.

KHUYẾN NGHỊ CÁC GIẢI PHÁP

Việc làm và giải quyết việc làm là một trong những chính sách quan trọng

đối với mỗi quốc gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển có lực lượng lao

động lớn như Việt Nam. Việc làm của người lao động trong sự phát triển của thị

trường lao động là tiền đề quan trọng để sử dụng có hiệu quả nguồn lao động, góp

phần tích cực vào việc hình thành thể chế kinh tế thị trường, đồng thời tận dụng lợi

thế để phát triển, tiến kịp các nước trong khu vực và thế giới.

Qua quá trình nghiên cứu và tìm hiểu về thực trạng việc làm của thanh niên tại

2 địa bàn thuộc huyện Thanh Oai là thị trấn Kim Bài và xã Cao Dương, tôi xin được

đưa ra một số khuyến nghị các giải pháp cơ bản đối với vấn đề việc làm của thanh

niên khu vực ngoại thành Hà Nội nói chung và các địa bàn nghiên cứu nói riêng.

Các giải pháp cho việc làm của từng nhóm thanh niên tại địa bàn nghiên cứu:

Nhóm thanh niên làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp:

Mặc dù tỷ lệ thanh niên làm nông nghiệp tại địa phương trong thời gian vừa

qua không cao, thậm chí là có xu hướng giảm dần nhưng đây vẫn là một bộ phận

quan trọng cấu thành trong cơ cấu nghề của địa phương. Theo tôi, đối với lĩnh vực

này, cần có các giải pháp sau:

+ Tuyên truyền, khuyến khích thanh niên tích cực áp dụng công nghệ mới,

kỹ thuật mới trong sản xuất nông nghiệp để đem lại năng suất cao; hướng dẫn, vận

động thanh niên địa phương tích cực sản xuất nông nghiệp theo hướng thực hành

nông nghiệp tốt - GAP;

+ Chính quyền địa phương cần làm tốt hơn công tác hỗ trợ thanh niên nông

dân trong việc tiêu thụ các sản phẩm nông sản cũng như tăng cường công tác dự báo

trước những biến động của thị trường hàng hóa hiện nay từ đó thanh niên sẽ có định

hướng rõ ràng hơn khi tham gia vào hoạt động nông nghiệp;

+ Các đoàn thể như Hội nông dân, Hội phụ nữ, Đoàn Thanh niên cần xem

xét hỗ trợ cho thanh niên vay vốn ưu đãi để phát triển kinh tế nông nghiệp.

Nhóm thanh niên làm việc trong lĩnh vực công nghiệp:

Nhóm thanh niên làm việc trong lĩnh vực công nghiệp, chiếm tỷ lệ 24,5% và

83

đang có xu hướng tăng lên trong thời gian tới. Nhóm này rất đa dạng về trình độ

học vấn, chuyên môn kỹ thuật và độ tuổi. Do vậy, giải pháp việc làm đối với nhóm

này cũng cần có sự linh hoạt và liên kết nhiều hướng:

+ Có chính sách hỗ trợ đào tạo, phổ cập nghề (đào tạo, dạy nghề ngắn hạn,

trung hạn và dài hạn, linh hoạt về thời gian, hình thức tổ chức, nội dung đào tạo sát

yêu cầu của thị trường);

+ Phổ cập đào tạo nghề và kiến thức quản lý kinh doanh cho lao động thanh

niên ngoại thành thông qua các chương trình đào tạo “khởi sự doanh nghiệp”;

+ Tăng cường đào tạo kỹ năng mềm cho thanh niên;

+ Lựa chọn những thanh niên ưu tú, tiêu biểu để đào tạo chuyên sâu những

ngành nghề mà địa phương có tiềm năng phát triển;

+ Địa phương cần làm tốt hơn nữa công tác dự báo xu hướng nghề nghiệp,

những ngành nghề nào có điều kiện phát triển và phát triển như thế nào là phù hợp.

Nhóm thanh niên làm việc trong lĩnh vực dịch vụ:

Thanh niên làm việc trong lĩnh vực dịch vụ chiếm tỷ lệ cao nhất (44,5%) và

sẽ tiếp tục tăng dần trong thời gian tới. Nhóm thanh niên trong lĩnh vực này cũng rất

đa dạng về trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật và có sự tham gia khá đồng đều

của cả nam và nữ giới. Lĩnh vực dịch vụ bao gồm cả lực lượng lao động làm việc

trong hệ thống cơ quan Nhà nước và ngoài Nhà nước. Do vậy, theo tôi, giải pháp

việc làm với nhóm này cũng cần phải xét trên nhiều khía cạnh và phương diện:

+ Có chính sách tuyển dụng đặc biệt đối với thanh niên ưu tú, tài năng vào

làm một số lĩnh vực quản lý của nhà nước, hoạt động sự nghiệp khu vực nhà nước

(chế độ hợp đồng, thời gian thử việc, các vấn đề khác có liên quan đến thủ tục hành

chính, hộ khẩu..);

+ Khuyến khích việc liên kết với các trường đào tạo để phát hiện nhân tài

ngay trong quá trình đào tạo ở các trường để sau khi học xong được sử dụng đúng

người, đúng việc;

+ Có các chế độ đãi ngộ tương xứng với khả năng đóng góp của lực lượng

thanh niên làm việc trong nhà nước;

+ Cần nâng cao nhận thức để cán bộ chính quyền giảm bớt tư tưởng cục bộ

84

địa phương trong việc tuyển dụng, đề bạt lực lượng lao động trẻ; Không nên có sự

phân biệt đối xử giữa những người làm việc cho nhà nước và không làm cho nhà

nước;

+ Khuyến khích thanh niên không ngừng học tập, rèn luyện nâng cao trình

độ, kiến thức chuyên môn và những kiến thức bổ trợ như tin học, ngoại ngữ v.v.. để

đáp ứng với yêu cầu ngày càng cao của công việc trong một xã hội hiện đại, phát

triển không ngừng;

+ Có chính sách tôn vinh lao động trẻ tài năng dưới nhiều hình thức (khen

thưởng vật chất, tinh thần), khuyến khích người sử dụng lao động mạnh dạn đề bạt

họ vào những cương vị chủ chốt trong tổ chức;

+ Ưu tiên phát triển các dự án vay vốn đối với doanh nhiệp nhỏ và vừa;

+ Phổ cập đào tạo nghề và kiến thức quản lý kinh doanh cho lao động thanh

niên ngoại thành thông qua các chương trình đào tạo “khởi sự doanh nghiệp”;

+ Nghiên cứu, phát triển thêm những nghề mới, hợp pháp, có tính ứng dụng

cao để thanh niên địa phương cân nhắc, lựa chọn;

+ Tăng cường đào tạo kỹ năng mềm cho thanh niên;

+ Lựa chọn những thanh niên ưu tú, tiêu biểu để đào tạo chuyên sâu những

ngành nghề mà địa phương có tiềm năng phát triển;

+ Khuyến khích, vận động những thanh niên ưu tú, tiêu biểu tự tạo việc làm

ngay tại địa bàn mình sinh sống;

+ Thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp trong lực lượng thanh niên tại địa phương.

Nhóm thanh niên thất nghiệp:

Phần lớn thanh niên thất nghiệp, mất việc làm tại khu vực ngoại thành Hà

Nội nói chung là không nhiều, tập trung chủ yếu tại khu vực nội thành. Tuy nhiên,

không vì thế mà không dành sự quan tâm đến nhóm đối tượng này. Trên thực tế,

thanh niên ngoại thành thất nghiệp là do khả năng cạnh tranh và thích nghi trên thị

trường lao động của họ còn yếu kém nên gặp nhiều khó khăn trong quá trình tìm

việc và tự tạo việc làm. Do vậy, theo tôi, đối với nhóm này cần có một số giải pháp

như sau:

+ Tạo điều kiện thuận lợi cho thanh niên ngoại thành thất nghiệp, mất việc

85

làm tiếp cận được các nguồn vốn vay giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo để tự

tạo việc làm;

+ Tăng cường thông tin, giới thiệu việc làm, hội chợ việc làm... để thanh

niên ngoại thành thất nghiệp có cơ hội tiếp cận giao dịch tìm việc làm;

+ Cần nâng cao vai trò của các trung tâm giới thiệu việc làm trong các hoạt động

kết nối việc làm, giáo dục và đào tạo, xúc tiến kinh doanh và các dịch vụ có liên quan;

+ Tổ chức Đoàn Thanh niên tại địa phương nên đi sâu tìm việc tâm tư,

nguyện vọng của các bạn trẻ; phát huy vai trò là chiếc cầu nối giữa thanh niên với

chính quyền và các doanh nghiệp tại địa phương; Thiết lập mô hình câu lạc bộ theo

từng ngành nghề cho các bạn trẻ có cùng sở thích;

+ Đoàn Thanh niên địa phương cần triển khai sâu rộng và mạnh mẽ chương

trình thanh niên khởi nghiệp giai đoạn 2016 -2012 đến các cấp cơ sở Đoàn;

Nhóm thanh niên thiếu việc làm:

Tình trạng thiếu việc làm diễn ra phổ biến tại khu vực ngoại thành Hà Nội

nói riêng cũng như nông thôn nước ta nói riêng. Do vậy, tôi xin đưa ra một số giải

pháp như sau:

+ Chính quyền và các đoàn thể cần nâng cao nhận thức, thúc đẩy tinh thần

khởi nghiệp trong thanh niên;

+ Cần có những nghiên cứu để hướng tới việc mở những lớp đào tạo kỹ năng

mềm trong công việc cho lực lượng thanh niên địa phương;

+ Khuyến khích thanh niên tự tạo việc làm cho mình ngay tại quê hương;

+ Tăng cường vai trò của các tổ chức đoàn thể tại địa phương trong việc thay

đổi định hướng giá trị nghề nghiệp của thanh niên ở cấp phổ thông; Đa dạng hóa

hình thức tuyên truyền về thông tin lao động việc làm đến thanh niên trong trường

học và ngoài cộng đồng;

+ Công tác tư vấn nghề cũng cần theo hướng “giỏi một nghề, biết một số

nghề”, hướng tới việc làm bền vững cho thanh niên.

+ Gia đình cũng có vai trò quan trọng trong việc định hướng, giúp đỡ con em

mình trong quá trình làm việc nên những thành viên lớn tuổi trong gia đình cũng

86

cần được chính quyền và đoàn thể hỗ trợ kiến thức về lao động và việc làm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Văn Bảy (2015), Giải quyết việc làm cho lao động nông thôn, Tạp

chí Quốc phòng toàn dân (số 4), tr.12-13.

2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Báo cáo điều tra Lao động - Việc làm năm

2014,

3. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bản tin thị trường lao động quý

II/2015, Viện Khoa học Lao động và xã hội.

4. Công đoàn Công thương ViệtNam, TPP, việc làm, đời sống người lao động

(2015), Nhà xuất bản Hồng Đức, Hà Nội.

5. Cục Thống kê TP.Hà Nội (2014), Báo cáo dân số và lao động năm 2014.

6. Cục Thống kê TP.Hà Nội (2015), Niên giám Thống kê Hà Nội năm 2014.

7. Nguyễn Hữu Dũng (2006), Nghiên cứu thực trạng thu nhâp, đời sống và việc

làm của người dân bị thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu đô

thị, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, nhu cầu cộng đồng và lợi ích

quốc gia, Viện Khoa học Lao động và Xã hội.

8. Đảng bộ xã Cao Dương (2015), Báo cáo kết quả nghị quyết đại hội Đảng bộ

xã Cao Dương lần thứ XXI, phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 2015 -2020,

xã Cao Dương, Huyện Thanh Oai, Hà Nội.

9. Đảng bộ thị trấn Kim Bài (2015), Báo cáo kết quả nghị quyết đại hội Đảng

bộ thị trấn Kim Bài lần thứ IV, phương hướng nhiệm vụ nhiệm kỳ 2015 -

2020, thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai, Hà Nội.

10. Nguyễn Đức Hoàn (2011), Việc làm của thanh ni n lao động tự do từ nông

thôn ra Hà Nội ( Nghiên cứu tại quận Đống Đa, Hà Nội).

11. Hội đồng nhân dân xã Cao Dương (2015), Báo cáo kỳ họp thứ XII Hội đồng

nhân dân xã Cao Dương - Huyện Thanh Oai nhiệm kỳ 2011 - 2016, xã Cao

Dương, Huyện Thanh Oai, Hà Nội.

12. Huyện Đoàn Thanh Oai (2014), Báo cáo kết quả công tác Đoàn và phong

trào thanh thiếu nhi huyện Thanh Oai năm 2014; phương hướng nhiệm vụ

87

năm 2015, Thanh Oai, Hà Nội.

13. Vũ Thị Mai (2007), Vấn đề việc làm cho người lao động bị ảnh hưởng trong

quá trình đô thị hóa Hà Nội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

14. Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 25/7/2008 của BCH Trung ương Đảng về

tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thanh niên thời kỳ đẩy

mạnh CNH - HĐH.

15. Kim Oanh, Tạo việc làm cho thanh niên nông thôn, Báo Nhân dân ra ngày

31/10/2015.

16. Phòng Lao động - Thương binh & Xã hội Huyện Thanh Oai (2014), Báo cáo

kết quả thực hiện chính sách pháp luật tạo việc làm gắn với đảm bảo an

sinh xã hội trên địa bàn huyện Thanh Oai giai đoạn 2009 - 2013, Thanh Oai,

Hà Nội.

17. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2014), Luật Lao động nước

Cộng hòa XHCN Việt Nam.

18. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2013), Hiến pháp 2013.

19. Quốc hội nước Cộng hòa XHCN Việt Nam (2005), Luật Thanh niên.

20. Quyết định số 46/2015/QĐ-TTg của thủ tướng Chính phủ, quy định hỗ trợ

đào tạo nghề trình độ sơ cấp dưới 3 tháng.

21. Tổng cục dạy nghề (2004), Định hướng nghề nghiệp và việc làm, Nhà xuất

bản Lao động - Xã hội.

22. Tổ chức Lao động quốc tế (2006), Tài liệu hướng dẫn Tăng cường triển vọng

việc làm cho nam và nữ thanh ni n của Tổ chức Lao động quốc tế ILO).

23. Từ điển xã hội học Oxford (2012), Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.

24. Triệu Thị Trinh (2014), Vấn đề lao động việc làm của thanh niên nông thôn

hiện nay. Thực trạng và giải pháp. Cổng thông tin điện tử Bộ LĐ-TB & XH.

25. Đồng Văn Tuấn (2011) Giải pháp giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho

người lao động ở khu vực nông thôn tỉnh Thái Nguyên.

26. Ủy ban nhân dân Huyện Thanh Oai (2014), Báo cáo tình hình thực hiện

quyết định số 1956/ Đ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về đào tạo nghề cho

lao động nông thôn tr n địa bàn huyện Thanh Oai năm 2014.

88

27. Uỷ ban nhân dân Huyện Thanh Oai (2016), Báo cáo tổng kết năm 2015.

PHỤ LỤC

Bảng phỏng vấn sâu số 1

Người được phỏng vấn: nữ 26 tuổi

Nghề nghiệp: công nhân may mặc

Trình độ: THPT.

Hôn nhân: đã kết hôn, có 2 con.

Xã: Cao Dương, huyện Thanh Oai.

Hỏi: Công việc của chị là gì?

Đáp: Tôi làm công nhân may mặc và làm quanh năm, hết hàng mùa hè

lại làm đến hàng mùa đông. Tôi làm với mấy chị em trong gia đình nữa

Hỏi: Trước khi làm nghề này, chị có được đào tạo về nghề may mặc

không

Đáp: Trước khi đến với nghề, tôi có học nghề may mặc trong vài

tháng. Đối với những chị em nào chưa được biết về nghề thì sẽ được công ty

bao tiêu sản phẩm hỗ trợ đào tạo tay nghề.

Trước khi lập gia đình, tôi có thời gian làm nghề may mặc rồi. Hiện

nay khi lập gia đình, tôi vẫn tiếp tục làm nghề này nhưng khác ở chỗ là nhận

hàng về trực tiếp làm tại nhà để vừa làm vừa trông con nhỏ.

Tuy nhiên, cũng có quy định về thời gian phải trả hàng, tất nhiên là

người nọ hỗ trợ người kia trong từng khâu làm sản phẩm. Nếu người nào

vững nghề thì có thể làm nguyên một sản phẩm, còn người nào chưa có kinh

nghiệm thì làm một phần của sản phẩm.

Mấy chị em đều là người nhà, chị dâu, em chồng, em con cô dì chú bác

cùng nhận hàng về làm và sau đó trả hàng cho công ty bao tiêu sản phẩm.

Hỏi: Thu nhập hàng tháng từ hoạt động may mặc như thế nào

Đáp: Nó cũng còn tùy ví dụ vào giữa mùa hè thì hàng hè bán rất chạy,

tuy nhiên đến cuối vụ thì hàng lại có xu hướng chững lại. Hàng mùa đông

89

cũng vậy, giữa mùa hàng rất chạy, cuối vụ hàng chậm hơn. Do vậy cũng ảnh

hưởng đến thu nhập của chị em trong nhóm sản xuất may mặc.

Hỏi: Hiện nay, khi làm nghề này nhóm may mặc có gặp khó khăn gì

không ạ

Đáp: Thực ra khó khăn lớn nhất là tìm mối tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay

có một công ty chuyên bao tiêu sản phẩm may mặc cho nhóm nhưng ngay

trong làng này cũng có nhiều nhóm may mặc tương tự như nhóm này.

Hỏi: Bên cạnh công việc may mặc, chị có tham gia làm công việc gì

khác nữa không

Đáp: Thực ra công việc may sản phẩm cũng chiếm khá nhiều thời gian

rồi nên rảnh thì làm thêm ruộng chứ không còn thời gian đi chợ buôn bán nữa.

Hỏi: Tại sao chị lại chọn nghề may để lập nghiệp

Đáp: Vì chị em phụ nữ ở nông thôn không có điều kiện học lên cao nữa

thì chọn nghề may vì vừa nhẹ nhàng, phù hợp với khả năng, lại có điều kiện

gần gũi để chăm sóc gia đình. Nghề may cũng đa dạng sản phẩm, không may

quần thì may áo, sửa chữa quần áo cũ v.v….Học may cũng không mất thời

gian lâu lắm nên tôi chọn nghề may mặc.

Hỏi: Thu nhập hàng tháng của chị như thế nào

Đáp: Thu nhập trung bình là 4 triệu/tháng, cũng có tháng cao hơn

nhưng bình quân là như vậy. Với khoản thu nhập này nếu ở nông thôn đối với

phụ nữ ở nhà có điều kiện chăm con thì như thế là tạm đủ lại chủ động trong

công việc.

Hỏi: Trong tương lai, chị có kế hoạch gì không

Đáp: Vẫn túc tắc với công việc này thôi. Có người gợi ý mở cửa hàng

tại nhà nhưng thực sự là khó vỉ đòi hỏi tay nghề phải cao hơn nữa, lại cần có

vốn. Hiện nay, mở cửa hàng may mặc cũng đối mặt với nhiều rủi ro vì số

lượng cửa hàng may đo tại địa phương cũng không phải là ít, phải tính toán

rất kỹ mới có thể làm được. Nếu còn trẻ thêm vài tuổi nữa thì chắc là còn

90

muốn đi làm xa nhưng lập gia đình rồi có con nên làm việc gì cũng khó hơn

so với trước. Chồng làm đi làm xa, sáng đi tối về nên chăm con là tôi phải

chịu trách nhiệm chính.

Hiện nay, tôi có tham gia vào hoạt động Hội phụ nữ địa phương, chủ

yếu Hội tuyên truyền về kiến thức chăm sóc con cái, thực hiện KHHGĐ. Tôi

có 2 con một gái lớn hơn 2 tuổi và một con trai nhỏ vài tháng tuổi.

Xin cám ơn chị

91

Bảng phỏng vấn sâu số 2

Người được phỏng vấn: nam 24 tuổi

Nghề nghiệp: kinh doanh buôn bán

Địa điểm: Thị trấn Kim Bài – Huyện Thanh Oai.

Trình độ: Cao đẳng xây dựng

Hỏi: Tại sao bạn lại quyết định chọn mô hình kinh doanh này để khởi

nghiệp

Đáp: Em chọn mô hình kinh doanh quán cà phê này vì ở địa bàn này

chưa có mô hình nào như thế này. Em kinh doanh cà phê kết hợp với nước

giải khát. Cà phê của em là theo kiểu di động, khách không những uống tại

chỗ mà có thế mang về. Em có máy để xay cà phê tại chỗ và bán cho khách

hàng.

Em mở hàng ngày từ 7h giờ sáng đến 11 giờ đêm. Ngày thường thì túc

tắc còn cuối tuần thì đông hơn. Em mở quán này được khoảng 1 tháng rồi.

Mặc dù là thị trấn song nếu so với thành phố thì khách ở đây chưa phải là

nhiều. Đối tượng hướng tới của quán em là mọi thành phần trong xã hội tuy

nhiên đông nhất vẫn là lứa tuổi thanh niên và một số bác trung niên.

Hỏi: Cửa hàng của mình có kế hoạch gỉ đề quảng bá rộng rãi hoạt

động của quán tới đông đảo người dân?

Đáp:Quán này mới mở được khoảng 1 tháng nên cũng chưa có nhiều

người biết đến lắm, chủ yếu vẫn là khách quen, thông qua một số bạn bè giới

thiệu để đến quán. Trước mắt, cửa hàng sẽ có kế hoạch quảng cáo mạnh mẽ

trên mạng internet, lập hẳn trang facebook riêng về cửa hàng cập nhật các

hình ảnh, các đồ ăn thức uống của cửa hàng để thu hút khách hàng đến với

quán nhiều hơn nữa. Tuy nhiên, hiện nay quán mới chỉ có 2 người làm mà

quán lại mới nên cũng còn rất nhiều việc tính toán, suy nghĩ để hoạt động có

hiệu quả hơn.

Đáp: Mình phải đầu tư như thế nào cho việc thành lập quán

92

Hỏi: Việc đầu tư ban đầu bao gồm bàn ghế, vật dụng trang trí cho quán

các loại cốc chén v.v. Tuy nhiên, đầu tư lớn nhất chính là máy móc phục vụ

cho hoạt động xay và chế biến các loại đồ uống từ ca phê theo yêu cầu của

khách hàng. Các loại máy chuyên dụng như vậy đầu tư ban đầu từ 80 đến 100

triệu. Ở Hà Nội thì những quán thế này khá phổ biến và đầu tư ban đầu như

vậy là bình thường. Tuy nhiên ở khu vực này thì đầu tư như vậy là khá lớn và

cũng phải mất một thời gian tương đối để thu hồi lại vốn liếng.

Hỏi: Trước khi mở quán kiểu này, các bạn có tham gia vào chuong

trình đào tạo nào không

Đáp: Chúng em có đi tìm hiểu qua sách vở, internet, tham gia một khóa

học ngắn hạn như học cách pha chế đồ uống, làm đồ ăn nhanh v.v. Em cũng

có thời gian đi làm thuê cho người ta, học hỏi kinh nghiệm kinh doanh mặt

hàng này. Trên cơ sở đó mới quyết định mở quán tại đây. Bạn bè đồng trang

lứa với em hiện nay phần lớn là đều đi làm cả rồi nhưng cũng toàn làm ngoài

thôi, ít đứa vào nhà nước lắm. Em trong thời gian đi học ở Hà Nội cũng có

tham gia bán hàng quần áo trong một thời gian dài. Bán hàng ở mặt phố, bán

online, thuê cửa hàng riêng để bán nhưng hiện nay mặt hàng quần áo đã bão

hòa nên không thu được lợi nhuận lắm. Em thì xác định là mình làm công

việc gì gần nhà, không phải đi lại vất vả, mất thời gian là được. Sinh cơ lập

nghiệp tại quê hương có gia đình ủng hộ vẫn tốt hơn.

Hỏi: Những kiến thức học trong trường có giúp ích gì cho bạn trong

việc lập nghiệp không

Đáp: Thực ra những kiến thức trong trường là hữu ích nhưng chỉ là một

phần nhỏ thôi. Cái quan trọng là trong đầu mình phải có ý tưởng như thế nào.

Em học xây dựng ra thì những kiến thức về thiết kế, sắp đặt cũng giúp ích

mình trong việc bài trí quán sao cho ấn tượng, biết tận dụng những nguyên

liệu phù hợp. Còn công việc kinh doanh thì phải dần dần phụ thuộc vào nhiều

yếu tố khác nữa. Nhiều cái thuộc về tố chất của bản thân, mình phải say sưa,

93

theo đuổi mơ ước đến cùng thì mới có thể giành được thành công như mong

muốnn được. Kinh doanh thì mình phải học ngoài thôi, tích lũy kinh nghiệm

dần dần qua năm tháng chứ kiến thức ở trường không thể bao quát hết được.

Hỏi: Bạn đánh giá về công việc của những người đồng trang lứa với

mình tại địa phương hiện nay

Đáp: Nhìn chung, những người tầm tuổi như em sinh sống và làm việc

tại địa phương có công việc khá đầy đủ. Những người làm cho cơ quan Nhà

nước và làm cho các doanh nghiệp lớn, lâu năm thì công việc ổn định, đảm

bảo thu nhập. Tuy nhiên, vẫn còn một số ít có việc làm chưa ổn định lắm, vẫn

còn bấp bênh lắm. Những bạn học cấp 2 với em thì khá là thành đạt vì họ ra

thành phố sinh sống. Những bạn cấp 3 thì lâu rồi em không gặp nên không

nắm rõ nhưng theo em chỉ khoảng 1/3 trong số họ là ổn định công việc và

cuộc sống. Có những bạn học xong lớp 12, có điều kiện học cao hơn thì sau

này khi tốt nghiệp ra trường chưa chắc kiếm được việc làm đúng nghề mình

được học, vì miếng cơm manh áo mà có khi làm công việc khác. Những bạn

không có điều kiện học cao hơn thì ở nhà theo nghề truyền thống của gia đình

vì Thanh Oai vốn là đất có nhiều nghề phụ bên cạnh hoạt động trồng trọt và

chăn nuôi.

Những bạn thanh niên tầm tuổi em hoặc hơn em trong thị trấn cũng có

tham gia làm nông nghiệp song số lượng không đáng kể, rất ít.

Hỏi: Gia đình mình có tham gia vào hoạt động nông nghiệp không

Đáp: Gia đình em thì chỉ có ông bà thôi chứ bố mẹ em thì không làm

nông nghiệp nữa mặc dù họ cũng biết làm nhưng không coi nông nghiệp là

nguồn thu nhập chính nữa. Ngay cả bọn em cũng vậy thôi, hồi nhỏ người lớn

cũng hướng dẫn cho cách làm ruộng, chăn nuôi song cũng chỉ là phụ giúp gia

đình thôi chứ còn hiện tại bọn em cũng chả làm gì liên quan đến nông nghiệp

nữa. Bố mẹ em làm kinh doanh buôn bán là chủ yếu.

94

Hỏi: Trong tương lại, bạn có muốn mở rộng hoạt động kinh doanh tại

địa phương không

Đáp: Bọn em còn trẻ nên cũng có nhiều ý tưởng và kế hoạch lắm. Tuy

nhiên cũng phải căn cứ vào điều kiện thực tế nữa, nhu cầu của thị trường như

thế nào. Trên cơ sở đó, mới tính đến các bước tiếp theo. Thực ra thị trấn Kim

Bài nếu so với một số địa bàn khác trong huyện như phố Vác, phố Bình Đà

thì còn chưa phát triển mạnh bằng. Em nghĩ rằng kinh doanh nói chung và

kinh doanh quán cà phê như bọn em hiện nay cũng cần phải có phong cách

riêng thì mới lâu bền được. Thực ra bọn em cũng đang dần định hình cho

mình một hướng kinh doanh. Quán em gồm nhiều hạng mục. Tầng 1 là có vẻ

yên tĩnh hơn, mang tính chất riêng tư dành cho những người trung niên. Còn

tầng 2 dành cho đối tượng thanh thiếu niên có vẻ sôi động hơn, trang trí sắc

màu hơn. Các hoạt động hội họp, hát karaoke có thể diễn ra ở đây. Kế hoach

cũng là muốn mượn thêm một số bạn trẻ làm thêm nhưng phải chờ một thời

gian nữa.

Hỏi: Khi quyết định thi vào đại học, có ai định hướng cho không

Đáp:Em hồi nhỏ đã mong muốn học ngành kỹ thuật và cảm thấy phù

hợp với lĩnh vực này nên quyết tâm thi vào trường xây dựng, còn gia đình

mong muốn nghề khác.

Hỏi: Khi mở quán này, gia đình có hỗ trợ gì không

Đáp: Gia đình ủng hộ thôi, động viên khuyến khích, hỗ trợ một ít vốn

Thực ra em ở địa phương lâu rồi nhưng chưa bao giờ được biết tới các

chương trình tư vấn, giới thiệu việc làm và đào tạo nghề từ chính quyền địa

phương. Em nghĩ rằng địa phương chắc chắn là có song có thể bọn em không

biết được thôi. Hồi trước em cũng có tham gia vào một số hoạt động của

Đoàn Thanh niên nhưng hiện nay thì không tham gia nữa vì tập trung vào

công việc mà nói thật, cộng đồng nhân dân trong thị trấn không có sự đoàn

kết như người dân trong làng lắm nên có khi nhiều hoạt động cộng đồng em

95

cũng chả hay biết gì cả. Từ trước đến nay, những thông tin về lao động, việc

làm em nắm bắt chủ yếu qua internet, đài bào và gia đình hay bạn bè thôi.

Em nghĩ rằng mình không phù hợp lắm nếu làm việc cho nhà nước mặc

dù em cũng có thể xin vào làm việc cho Nhà nước. Em thích công việc kinh

doanh hơn và xác định mình sẽ theo nghề kinh doanh mặc dù em học ngành

xây dựng. Em có kinh nghiệm trong hoạt động kinh doanh từ khi còn là sinh

viên. Mặc dù mình có thể kinh doanh các mặt hàng khác nhau song về cơ bản

hoạt động kinh doanh đều có những nguyên tắc chung mà mình cần phải nắm

chắc và vận dụng mới đem lại hiệu quả.

Hồi cấp 2, cấp 3 và học Cao Đằng, em đều được tham gia những buổi

tư vấn, hướng nghiệp và học nghề tại trường. Các thầy cô giáo và những

chuyên giao lao động việc làm cũng có chia sẻ những kiến thức, kỹ năng và

định hướng. Tuy nhiên, để theo được những định hướng đó không phải dễ

dàng vì nó hơi trừu tượng mà thời điểm đó chúng em còn trẻ để có thể tiếp

thu được những kiến thức đó. Hồi học cấp 2 và 3, học nghề thường là nghề

điện, có cả nghề nấu ăn, may mặc thu hút không những nữ sinh mà cả nam

sinh.

Xin cám ơn

96

Bảng phỏng vấn sâu số 3:

Người được phỏng vấn: nữ 27 tuổi

Nghề nghiệp: giáo viên mầm non.

Trình độ: Cao đẳng.

Hôn nhân: đã kết hôn

Hỏi: Tại sao chị quyết định thi vào ngành mầm non và theo nghề này.

Đáp: Em sinh ra và lớn lên tại nông thôn nên em thấy công việc này là

phù hợp, em cũng yêu thích trẻ con và sức khỏe mình cũng có hạn nên quyết

định nghề này. Hơn nữa, địa phương cũng có nhu cầu tuyển dụng đội ngũ

giáo viên mầm non.

Hỏi: Tại sao không dạy cấp hoặc cấp 2

Đáp: Vì đơn giản em yêu trẻ con.

Hỏi: Gia đình có định hướng gì khi bạn theo học nghề này

Đáp: Em cũng cân nhắc một số trường và gia đình cũng nói rằng xem

khả năng mình đến đâu thì lựa chọn vì đây là quyết định quan trọng, theo

mình đến cả cuộc đời. Em cũng có thời gian suy nghĩ và cân nhắc. Cuối cùng

em lựa chọn nghề giáo viên mầm non.

Hỏi: Trong trường bạn học những môn học gì

Đáp: Bên cạnh những môn chung giống như hầu hết các trường khác

như chính trị, kinh tế, quân sự, em học những môn chuyên ngành như kỹ năng

làm việc với trẻ, múa hát

Hỏi: Những người cùng thế hệ với bạn thì có việc làm không

Đáp: Những người học cùng với em các cấp đều có việc làm tất nhiên

là mỗi người một hoàn cảnh, có người có việc làm tốt, thu nhập cao, có người

có việc làm chỉ gọi là tạm đủ thôi. Chúng em cũng không hay gặp nhau lăm,

chỉ thỉnh thoảng lên facebook, hoặc nói chuyện qua điện thoại thì mới biết

thông tin của nhau. Em thì bận từ sáng đến tối nên cũng không gặp trực tiếp

bạn bè mình được.

97

Hỏi: Công việc hàng ngày của bạn như thế nào

Đáp: Em đến trường lúc 7h sáng, em sẽ dọn dẹp vệ sinh lớp học, các cô

giáo sẽ ngồi trao đổi nghiệp vụ. Đến 8h, các cô giáo bắt đầu đón cháu, trao

đổi với phụ huynh về tình hình của cháu ( sức khỏe, tâm lý). Tiến hành điểm

danh sỹ số lớp học. Đến 9h, giáo viên thực hiện một số hoạt động cho các

cháu như sinh hoạt ngoài trời, hoạt động góc. Sau đó tiến hành vệ sinh cho

trẻ, tổ chức ăn trưa cho trẻ và cho trẻ ngủ trưa. Buổi chiều, các hoạt động diễn

ra tương tự cho đến 5h chiều. Khi phụ huynh đến đón trẻ, giáo viên sẽ trao đổi

với phụ huynh về tình hình của trẻ. Khi trả trẻ về hết, giáo viên sẽ tiến hành

dọn dẹp lớp học. Gần 6h, giáo viên đóng lớp học ra về

Hỏi: Bạn hiện nay là làm giáo viên hợp đồng với nhà trường

Đáp: Vâng đúng ạ, em thi viên chức để giảng dạy tại trường. Em thấy

kỳ thi này rất là khó vì tỷ lệ cạnh tranh cao. Em phải thi các môn chuyên

ngành như trắc nghiệm về xử lý các tình huống khi dạy trẻ, cách soạn giáo án

dạy trẻ.

Hỏi: Điều gì khiến bạn hài lòng nhất với công việc hiện tại.

Đáp: Em thấy trẻ rất đáng yêu, hồn nhiên và ngây thơ lắm. Điều này là

động lực khiến em yêu nghề hơn. Nhiều khi gặp khó khăn trong cuộc sống

nhưng khi nhìn thấy trẻ là quên hết mọi thứ, càng thấy yêu đời hơn, vui hơn.

Tất nhiên là thỉnh thoảng cũng mệt mỏi vì giáo viên thì ít mà trẻ thì đông

nên cũng áp lực và căng thẳng. Ngoài ra theo quy định thì 5h chiều là trả trẻ

song có khi 6h bố mẹ mới đến đón trẻ vì họ phải đi làm xa hoặc bận công việc

chăn nuôi, đồng áng. Nhiều phụ huynh trình độ nhận thức cũng hạn chế nên

mặc dù giáo viên tư vấn về chế độ dinh dưỡng cũng như cách chăm sóc sức

khỏe cho trẻ rất nhiều song họ vẫn không để tâm nhiều lắm. Quan niệm trăm

sự nhờ cô vẫn ăn sâu bám rễ trong tư tưởng của họ không dễ gì thay đổi được

trong một thời gian ngắn.

Hỏi: Thu nhập từ nghề dạy học thì như thế nào.

98

Đáp: Em ăn lương theo quy định của nhà nước, hệ số là 1,86 tương

đương mức lương là 2,6 triệu/tháng và hưởng thêm 0,35% tiền đứng lớp dạy

học. Ngoài ra nhà trường cũng hỗ trợ thêm các giáo viên tiền ăn trưa hàng

ngày. Tổng cộng là được gần 4 triệu/tháng cho giáo viên như em. Đấy là đối

với em trình độ cao đẳng là đạt trên chuẩn ở cấp mầm mon.

Hỏi: Với khoản thu nhập như vậy có đủ để đảm bảo cuộc sống không

Đáp: Thực sự là không đủ đâu ạ. Ngoài ra em cũng có con nhỏ,

nhiều khi cũng không có thời gian chăm con nhỏ nữa. Em dạy một lớp, con

em học một lớp khác nên có khi con em phải nhờ ông bà đến đón về trước

còn em bận trông các cháu khác.

Hỏi: Nhà trương có chính sách gì nhằm đảm bảo đời sống cho giáo

viên không

Đáp: Nhà trường hiện nay cũng có nhiều hình thức khen thưởng như

giáo viên đạt danh hiệu thi đua tiên tiến được khen thưởng. Ngoài ra lễ, tết

cũng có thưởng thêm chút ít thôi ạ.

Hỏi: Mối quan hệ giữa giáo viên và phụ huynh thì như thế nào

Đáp: Nếu so với thành phố thì phụ huynh cũng không quan tâm nhiều

đến giáo viên đâu ạ. Bản thân đời sống họ còn gặp nhiều khó khăn lắm. Họ

đưa con đi học là tốt lắm rồi. Trước đây vận động trẻ đến trường khó hơn.

Hiện nay, cũng đã đỡ hơn nhiều do công tác truyền thông tốt hơn trước.

Hiện tại em cùng 3 giáo viên khác phụ trách một lớp có 39 trẻ.

Trong quá trình học tại trường, em cũng được thực tập tai một số

trường ở một số quận huyện trên địa bàn Hà Nội nên không cảm thấy bỡ ngỡ

khi dạy mầm non.

Còn tại trường em đang giảng dạy hiện nay thì cứ vào đầu năm học

mới, nhà trường có cử giáo viên đi học nghiệp vụ do phòng giáo dục tổ chức.

Mỗi lớp kéo dài khoảng 1 tuần có khi hơn. Bọn em cứ thay phiên nhau đi học.

Mỗi năm nội dung tập huấn có một nội dung khác nhau. Đi học nghiệp

99

vụ về cơ bản giống như kiến thức học tại trường cao đẳng tuy nhiên cũng có

điểm mới hơn đó là phương pháp khuyến khích trẻ vận động nhiều hơn. Giáo

viên động viên trẻ thay vì gò bó, ép buộc trẻ học và vận động.

Hỏi: Để có được công việc hiện tại, bạn có gặp khó khăn gì không

Đáp: Em học xong cao đẳng sau đó lập gia đình và sinh con nên khi bắt

đầu công việc giáo viên mầm non cảm thấy cũng khó khăn lăm. Khi thi cũng

hoang mang không biết mình có đỗ không. Tỷ lệ thi vào rất đông. Trường

mầm non tư thực thì thu nhập cao hơn nhưng trường công thì ổn định, lâu dài

hơn. Bên cạnh chuyên môn vững thì mối quan hệ xã hội là điều không thể

thiếu được. Đó là thực tế xã hội thôi mình mới làm nên chuyện được.

Hỏi: Bên cạnh chuyên môn, phòng giáo dục có những khóa đào tạo

khác nào

Đáp: Phòng giáo dục có đào tạo tin học cho giáo viên. Ngoài ra nhà

trường cũng thuê thầy cho giáo viên dạy tin học. Bản thân em cũng biết sử

dụng máy tính, máy chiếu để cho trẻ có cơ hội được trải nghiệm những kiến

thức do giáo viên truyền thụ bằng hình ảnh và âm thanh minh họa.

Hỏi: Bạn có bao giờ tham gia ngày chương trình tư vấn, giới thiệu việc

làm tại địa phương chưa

Đáp: Em có nghe nói song chưa có thời gia tham gia vì làm việc suốt.

Phần lớn thông tin lao động việc làm, em đều biết qua internet thôi ạ. Còn vài

năm trước đây, thời bọn em còn nhỏ thì địa phương lại chưa có những chương

trình như vậy.

Hồi bọn em còn học phổ thông thì nhà trường cũng có mở lớp học nghề

và định hướng nghề cho học sinh cấp 2 và 3.

Hỏi: Bạn có định gắn bó với công việc hiện tại lâu dài không

Đáp: Nói thật là em rất yêu trẻ con và yêu nghề dạy học nhưng nhiều

khi nghĩ đến thu nhập của bản thân cũng thấy suy nghĩ. Dù sao thì cần phải

đảm bảo cuộc sống bản thân và gia đình thì mới có thể trụ lại với nghề được.

100

Em nghĩ rằng về lâu về dài thì em vẫn gắn bó với nghề dạy học song em sẽ

chuyển ra các trường tư vì ở đó cũng có chế độ bảo hiểm và nhiều chế độ đãi

ngộ khác. Giáo viên mầm non thì không thể dạy thêm như giáo viên các cấp

khác được nên không có thu nhập thêm được. Hiện nay, em cũng có cửa hàng

bán hàng tranh thuê để có thêm thu nhập. Bán hàng thì cũng túc tắc thôi, thỉnh

thoảng về Hà Nội nhập hàng.

Em làm công việc bán hàng tranh thuê này từ hồi sinh viên nên em

có nhiều mối khách hàng không chỉ ở địa phương mà còn ở các tỉnh, thành

khác nữa. Nhà em cũng có ruộng nhưng bây giờ không làm nữa để cho người

ta cấy ruộng thuê thôi. Đấy là em thì thế ngoài ra giáo viên cùng trường em

thì họ có thể về nhà làm thêm nghề nón mới đảm bảo thu nhập được. Vì ở

trường em, có giáo viên đông con nên mức lương hiện tại là không đủ nên họ

phải làm thêm tại nhà thôi.

Cám ơn bạn

101

Bảng phỏng vấn sâu số 4

Người được phỏng vấn: nam 29 tuổi

Nghề nghiệp: chủ doanh nghiệp

Trình độ: THPT.

Xã: Cao Dương, huyện Thanh Oai.

Hỏi: Xuất phát từ đâu mà anh quyết định chọn nghề này để lập nghiệp

Đáp: Xu hướng nuôi chim cảnh đã không còn được ưa chuộng như

trước đây nữa nên việc làm chuồng chim cảnh không còn được thuận lợi nữa.

Do vậy, tôi quyết định chọn nghề làm chuồng nuôi như thế này để vừa người

ta vừa có thể nuôi chim công nghiệp để làm cảnh vừa có thể bán kiếm lời.

Trước đây hàng trong miền nam hay đưa ra ngoài bắc nhưng không đủ đáp

ứng nhu cầu lại tốn thời gian vận chuyển, do vậy, một số đại lý ở Hà Nội đã

đặt hàng tôi làm mặt hàng này, qua vài lần làm thử tôi quyết định làm mặt

hàng này để cung cấp cho thị trường

Đến nay, tôi gắn bó với việc làm mặt hàng này được 6 năm, trước đây

tôi chủ yếu làm lồng chim cảnh.

Tôi chọn nghề này có ảnh hưởng của 2 phía. Thứ nhất địa phương cũng

là một làng nghề truyền thống, thứ hai là do mình học xong THPT, không có

điều kiện học lên cao hơn nữa nên quyết định chọn nghề này. Được cái là cả

gia đình đều ủng hộ, thậm chí là hướng dẫn tay nghề, sau này lấy vợ, gia đình

bên vợ cũng ủng hộ nên quyết tâm làm cho đến ngày nay.

Hỏi: Lúc đầu khởi nghiệp, anh có gặp khó khăn gì không

Đáp: Thực ra lúc đầu cũng thuận lợi vì mình nắm bắt nhu cầu thị

trường nên làm ra đến đâu, tiêu thụ đến đó, Mình làm ăn cẩn thận nên nhiều

đơn đặt hàng đến tay hơn.

Ngày trước còn đắt hàng hơn bây giờ, hàng làm đến đâu, xuất đến đó,

còn bây giờ cũng vẫn tốt nhưng phải cạnh tranh nhiều hơn

Hỏi: Số lượng công nhân tại xưởng so với trước đây có khác không

102

Đáp: Ngày trước chỉ có 8 người làm việc tại xưởng bây giờ hiện tại là

32 người. Tất cả làm việc quanh năm mới đảm bảo xuất hàng. Phần lớn đều là

lao động tại địa phương, không có người vùng khác. Vì làm sản phẩm lồng

nuôi gia cầm này là làm theo quy trình khép kín, có phân công chức năng

nhiệm vụ từng người ở từng khâu nên giờ giấc khá là gò bó. Do vậy người ở

xa khó mà bám trụ được với nghề.

Hỏi: Độ tuổi trung bình của người lao động trong xưởng sản xuất

Đáp: Phần lớn là trẻ tuổi, những người có kinh nghiệm, lớn tuổi lớn

làm những quy trình khó, những người trẻ tầm mới học xong thì làm những

quy trình đơn giản. Có người vẫn đi học lớp 12 cũng tham gia vào xưởng sản

xuất.

Hỏi: Tiêu chí vào làm việc cho xưởng

Đáp: Thực ra làm việc tại xưởng là lao động phổ thông nên tiêu chí

cũng không quá khắt khe. Vào làm thử mấy ngày nếu cảm thấy phù hợp thì

bám trụ lại. Tất nhiên là cũng có một số yêu cầu cơ bản như là có sức khỏe,

có sự kiên trì, tỉ mỉ

Hỏi: Thu nhập hàng tháng là bao nhiêu

Đáp: Trung bình là 6 triệu/người/tháng. Có người lên tới 10 triệu/tháng.

Nếu làm nón thì chỉ từ 40 -50k/ngày.

Người lao động cũng ham việc, nhà gần nên cũng làm việc liên tục.

Sáng làm từ 7h đến 11h30, chiều từ 2h đên 7h30, tùy thuộc theo từng đơn

hàng

Hỏi: Khi tuyển dụng, nam và nữ, đối tượng nào được chú trọng nhiều

hơn

Đáp: Cơ sở chú trọng nam hơn vì công việc này đòi hỏi sức khỏe nhiều

hơn. Công việc liên tục phải tiếp xúc với máy móc, dầu mỡ nên nam giới làm

việc thì thuận tiện hơn là nữ giới. Nữ thì rụt rè hơn khi tiếp xúc với máy móc.

Tuy nhiên trong từng quá trình thì có những khâu nữ lại đảm nhận tốt hơn. Ví

103

dụ như khâu đan từng miếng kim loại vào nhau thì đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo

thì nữ làm tốt hơn và cẩn thận hơn. Để ra được sản phẩm thì thông thường

phải có khoảng 3 người. Mỗi sản phẩm mất khoảng thời gian là 5 phút để ra

thành phẩm và trung bình một ngày cho ra lò khoảng 600 sản phẩm lồng kim

loại. Thị trường xuất hàng chủ yếu là khu vực miền bắc và tiến tới một số tỉnh

miền Trung như Nghệ An, Hà Tĩnh và sang Lào.

Trong tháng sau thì sẽ mở tiếp một cơ sở sản xuất như vậy tại địa

phương và chắc chắn sẽ tuyển thêm lao động tại địa phương. Người lao động

tại xưởng đều học xong lớp 12, một số bạn trẻ hơn thì đang đi học, tranh thủ

giờ nghỉ, ngày nghỉ đi làm phụ giúp gia đình.

Phần lớn người lao động khi vào làm trong xưởng là mình phải cầm tay

chỉ việc chứ họ cũng không được đào tạo nghề bài bản trước khi làm, làm

nhiều thành quen việc, mỗi người được phân làm một quy trình

Diện tích tổng thể là 800m2 nhưng chỉ có khoảng 400m2 diện tích phục

vụ cho hoạt động sản xuất.

Hỏi: Gia đình có hỗ trợ gì cho anh trong công việc

Đáp: Gia đình bao gồm bố mẹ, vợ cũng hỗ trợ cho tôi trong quá trình

xuất hàng, tiếp thị sản phẩm. Tuy nhiên, tôi vẫn là người chịu trách nhiệm

chính

Đối với chất lượng sản phẩm thì phụ thuộc vào mục đích sử dụng của

người dùng. Nếu như nuôi chim cảnh với số lượng ít mà chủ nuôi thường

xuyên vệ sinh dọn dẹp thì thời gian sử dụng có thể từ 3 năm đến 5 năm. Tuy

nhiên nuôi với số lượng lớn thì thời gian có thể giảm đi. Cái này còn tùy

thuộc.

Trong khu vực này, thì cơ sở nhà tôi là có quy mô lớn nhất, ngoài ra bà

chị tôi cũng có cơ sở với mặt hàng tương tự nhưng quy mô nhỏ hơn với số

lượng lao động ít hơn.

104

Nếu so với làm lồng chim, chuồng chim bằng gỗ hay tre trúc thì làm

lồng kim loại rẻ hơn, thời gian nhanh hơn trung bình từ 100 đến 180k/sản

phẩm. Đối tượng đa dạng hơn.

Hỏi: Đoàn Thanh niên có hỗ trợ gì cho cơ sở sản xuất không

Đáp: Đoàn thanh niên cho cơ sở vay vốn để đầu tư sản xuất với lãi suất

thấp, tổ chức cho anh em trong xưởng đi tham quan, học tập kinh nghiệm các

mô hình tương tự ở các địa phương khác.

Hỏi: Định hướng phát triển của cơ sở trong tương lai

Đáp: Trong tương lai, cơ sở dự kiến đa dạng các sản phẩm làm từ kim

loại như giỏ xe, giỏ hoa quả, giỏ quà, các loại rổ rá. Cơ sở cũng có kế hoạch

phát triển đưa ra sản phẩm ra một số nước lân cận như Lào, Campuchia vì

hiện nay cũng đã có đối tác bên đó rồi.

Người lao động tại cơ sở trước đây cũng làm nông nghiệp như trồng

trọt và chăn nuôi nhưng khi làm ở đây thì không còn thời gian làm những

công việc như vậy nữa, đành để lại cho người nhà làm thay.

Xin cám ơn bạn

105

Bảng phỏng vấn sâu số 5

Người được phỏng vấn: nữ 24 tuổi

Nghề nghiệp: cán bộ văn xã UBND Thị trấn Kim Bài

Trình độ: Đại học USSH - Đại học Quốc gia HN

Hỏi: Tại sao bạn lại về làm việc tại UBND Thị trấn Kim Bài

Đáp: Có mấy nguyên nhân sau đây: em học lớp công chức nguồn của

thành phố, ngoài ra có đăng ký chỉ tiêu về các xã, phường, thị trấn. Chức danh

chuyên môn của em là văn hóa xã hội thì nó phù hợp với ngành công tác xã

hội mà em đã theo học. Làm việc tại UBND Thị trấn Kim Bài thì cũng gần

với nơi em sinh sống, đi lại thuận tiện.

Hỏi: Trước khi làm việc tại UBND Thị trấn Kim Bài, bạn có được tập

huấn về lĩnh vực mình đang thực hiện không

Đáp: Có, em được tham dự 2 khóa tập huấn về lĩnh vực thương

binh, lao động và xã hội và văn hóa. Mỗi khóa kéo dài trong thời gian là 01

tháng.

Hỏi: Có nhiều bạn cùng học với bạn có công việc giống như bạn không

Đáp: Có, bạn em đều làm việc tại UBND xã, thị trấn, làm cán bộ văn

phòng huyện ủy, UBND huyện, cán bộ tuyên giáo huyện ủy

Hỏi: Qua quá trình làm việc tại địa phương, bạn có nhận thấy vấn

đề lao động việc làm cho thanh niên có phải là vấn đề lớn tại địa bàn không

Đáp: Theo quan điểm bản thân, thanh niên tại địa phương đều có việc

làm dù ít hay nhiều. Đối với những bạn có trình độ học cao hơn như tốt

nghiệp các trường Cao đẳng, đại học thì các bạn có thể kiếm được việc làm dù

đó là công việc đúng với chuyên môn hay là trái ngành học. Còn đối với

những bạn vì một lý do nào đó mà không thể học lên cao được thì thường

chọn những công việc như phụ xe, lái xe, làm mộc v.v…Có người làm chăn

nuôi, trồng trọt. Có người vào làm việc cho các công việc của các doanh

nghiệp, cơ sở sản xuất tại địa phương, thu nhập cũng tạm đủ sống.

106

Gia đình em cũng có nghề truyền thống là nghề làm nón nhưng chỉ mẹ

em biết làm chứ em thì không biết. Anh trai em cũng không theo nghề nông

nghiệp như các thế hệ trước làm mà chọn công việc kinh doanh, buôn bán.

Xin cám ơn bạn

107

Bảng phỏng vấn sâu số 6

Người được phỏng vấn: Phó Chủ tịch UBND xã

Giới tính: Nam

Tuổi: 40

Địa điểm: văn phòng UBND xã

Đáp: Xã hàng năm có mở các lớp dạy nghề cho người dân nói chung

và thanh niên nói riêng theo kế hoạch. Những lớp đào tạo nghề do cấp trên

đưa ra như làm mây tre đan, điện, tiện, thủ công mỹ nghệ thì thời gian tổ chức

hơi ngắn khó mà đáp ứng nhu cầu đào tạo cũng như kiến thức cung cấp cho

học viên. Còn nghề mộc lại được tham gia học nhiều. Toàn xã có khoảng 30

thợ mộc mà phần lớn là thanh niên theo học và hành nghề nhiều. Còn nghề

may thì nữ chiếm đa số. Các chị em thường theo học may công nghiệp sau đó

về mở cửa hàng tại nhà hoặc may thuê cho các công ty ở thành phố. Các công

ty đặt hàng, chị em làm rồi giao hàng lại cho họ. Các sản phẩm là may đồng

phục, chăn ga gối đệm.

Hàng năm, xã tổ chức các lớp tập huấn về chuyển giao khoa học kỹ

thuật chăn nuôi và trồng trọt cho người dân trong xã. Chúng tôi mời các giảng

viên từ thành phố và huyện về giảng dạy. Tuy nhiên đối tượng của lớp học

này là trung niên từ 35 tuổi trở lên.

Hiện nay tỷ lệ thanh niên tỏa đi làm việc nhiều. Họ sáng đi chiều về

và làm nhiều nghề đa dạng như khoan cắt bê tông, phụ xe, lái xe và những

công việc phổ thông khác. Theo ước tính, toàn xã có khoảng 100 thanh niên

đi nơi khác làm việc. Mỗi ngày họ kiếm được từ 150 – 200 nghìn/ngày trong

khi đó nếu làm ruộng có khi vất vả mấy tháng trời mới có thu nhập. Tuy

nhiên, thanh niên đi như thế chủ yếu làm nam còn nữ thì làm những công việc

ở nhà như làm nón, may mặc, buôn bán nhỏ v.v…

Hỏi: Định hướng nghề của xã trong thời gian tới nhất là cơ cấu ngành

nghề

108

Đáp: Xã tập trung phát triển mạnh du lịch – thương mại và dịch vụ, trên

địa bàn xã có các tuyến đường quốc lộ bao bọc lấy xã, rất thuận lợi cho người

dân tiến hành hoạt động kinh doanh, buôn bán. Xã có điểm du lịch sinh thái

gồm tổ hợp nhà hàng, khách sạn, hồ bơi, hồ câu cá, vườn cây. Hiện nay điểm

này chưa hoạt động nhưng chính quyền xã đang kế hoạch quảng bá điểm này

để thu hút người dân địa phương và du khách. Ngoài ra xã còn có chợ Cao -

đây là một chợ phiên rất điển hình của đồng bằng Bắc bộ với rất nhiều mặt

hàng được bày bán. Chính vì vậy, định hướng thời gian tới thì cơ cấu ngành

nghề thương mại du lịch, dịch vụ sẽ chiếm khoảng 50%, còn nông nghiệp sẽ

giảm dần dưới 20%.

Trên địa bàn xã có nhiều xưởng sản xuất gò hàn, may mặc, in ấn do tư

nhân mở ra, trong xã không có nhà máy hay xí nghiệp nào lớn cả.

Dân số toàn xã hiện nay là 10 nghìn người. Thanh niên chiếm 30% tỷ lệ

dân số toàn xã.

Về vấn đề xuất khẩu lao động, trong xã không có người dân đi mặc dù

huyện có những chương trình giới thiệu xuất khẩu lao động song người dân

không có nhu cầu đi.

Hiện nay toàn xã có 7 thôn và mỗi địa bàn có những đặc điểm riêng về

kinh tế và xã hội. Thôn Mục xá chủ yếu làm cho các cơ quan công quyền,

thôn Thị Nguyên chủ yêu đi buôn đường dài ở Sơn La, Lai Châu, thôn Áng

Phao có nghề mộc truyền thống và thợ mộc làm cho các đình chùa, miếu mạo

và một phận nhỏ đi buôn bán phế liệu và buôn đường dài. Làng Cao Xá tập

trung nhiều thanh niên lao động phổ thông, sáng đi tối về. Một số địa bàn

khác thì làm nghề kinh doanh buôn bán ( 180 hộ) và toàn là người địa phương

ra làm ăn.

Hỏi: Xin ông cho biết tỷ lệ thất nghiệp tại xã

Đáp: Rất khó xác định thế nào là thất nghiệp. Thực ra bây giờ ở nông

thôn, người dân mà đặc biệt là thanh niên rất ít khi ngồi chơi dài cả ngày, cả

109

tháng. Nếu không làm ruộng thì họ đi kinh doanh buôn bán hoặc làm các nghề

khác như bán phế liệu, chạy xe ôm. Có người làm vài tháng sau đó lại nghỉ

ngơi vài tuần rồi lại tiếp tục đi làm nên gọi là làm việc không ổn định thì đúng

hơn chứ không thể nói là là thất nghiệp được. Chính quyền xã cũng có định

hướng, giới thiệu về những nhóm nghề cho người dân địa phương. Trên cơ sở

đó, họ nếu thấy phù hợp có xin đăng ky theo học, học xong có thể nhận chứng

chỉ. Hàng năm, thành phố và huyện đều có những chương trình tư vấn, giới

thiệu và đào tạo nghề đưa về xã. Ngoài cũng có cả những khảo sát về cung

cầu lao động trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch việc làm lao động. Hầu hết các

lớp đào tạo nghề đều là miễn phí. Năm ngoái chúng tôi mở 7 lớp đào tạo

nghề. Mỗi lớp thường có trung bình khoảng 35 học viên. Thông qua các đoàn

thể như Hội phụ nữ, đoàn thanh niên, thông tin đến người dân toàn xã. Phụ nữ

thường theo học nghề nấu ăn, may mặc, mây tre đan, nam giới thường theo

học nghề điện dân dụng, điện tử, tin học

Hỏi: Theo ông, tiêu chí lựa chọn theo học nghề là như thế nào?

Đáp: Chúng tôi cũng không quá khắt khe với việc lựa chọn, chủ yếu là

người địa phương nhưng chỉ được theo học 1 lớp nghề, không được học nhiều

lớp nghề cùng một lúc.

Thực ra chính quyền xã cũng không bắt buộc người học phải cam kết gì

cả. Trên thực tế, người nào nhanh nhạy thì học xong có thê áp dụng ngay vào

thực tế công việc. Còn những người khả năng hạn chế thì khó khăn hơn trong

việc vận dụng vào thực tế công việc, khó khăn hơn khi xin việc.

Hỏi: Chính quyền xã có kết nối người dân địa phương với một số cơ sở

sản xuất tại xã.

Những cơ sở này thường tuyển dụng người của địa phương thông qua

các đoàn thể như Hội phụ nữ, đoàn thanh niên và họ cũng có tiêu chí rõ ràng

cho quá trình tuyển lựa. Ngoài ra, các cơ sở sản xuất có thê lấy thêm người

trong gia đình vào làm việc.

110

Thu nhập bình quân là 29 triệu/người/năm, thuộc hàng cao trong

huyện.

Hỏi: Xã tập trung vào ngành thương mại dịch vụ, sau đó đến nông

nghiệp, thanh ni n tham gia vào lĩnh vực nào là đông nhất.

Đáp: Thanh niên tham gia vào lĩnh vực thương mại và dịch vụ là đông

nhất. Tỷ lệ thanh niên làm nông nghiệp càng giảm so với trước đây. Tin học

là lĩnh vực được thanh niên mong muốn theo học nhất để có thể giúp cho

công việc của mình được thuận lợi hơn

Đoàn thanh niên xã và các thôn cũng thường xuyên tổ chức các lớp đào

tạo về tin học giúp cho thanh niên trong xã tiếp cận dần với công nghệ thông

tin

Xin cám ơn ông

111

Khung cảnh tại xã Cao Dương, huyện Thanh Oai, Hà Nội

Trao đổi với lãnh đạo xã Cao Dương, huyện Thanh Oai

112

Thảo luận với cán bộ chính quyền thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai

Gặp gỡ với thanh niên kinh doanh tại thị trấn Kim Bài, huyện Thanh Oai.

113

Gặp gỡ thanh niên kinh doanh tại xã Cao Dương, huyện Thanh Oai.

Phụ nữ và thanh niên khâu nón truyền thống tại

xã Cao Dương, huyện Thanh Oai

114

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

KHOA XÃ HỘI HỌC

PHIẾU TRƢNG CẦU Ý KIẾN

Mã số…………

Chào anh/chị

Chúng tôi muốn tìm hiểu về “ Thực trạng việc làm của thanh niên khu vực ngoại thành Hà Nội”, xin anh/chị giúp đỡ bằng cách cho biết một số thông tin dưới đây. Nếu anh/chị chọn phương án trả lời nào, xin hãy đánh dấu (x) v o ô vuông tƣơng ứng. Những câu hỏi còn để ngỏ, xin anh/chị ghi cụ thể câu trả ời của mình.

Mọi ý kiến của anh/chị sẽ được giữ kín và chỉ phục vụ cho mục đích nghiên cứu này, anh/chị không cần ghi tên mình vào phiếu. Ý kiến của anh/chị sẽ là những đóng góp quan trọng cho đề tài nghiên cứu của chúng tôi nói riêng và góp phần không nhỏ trong việc tìm hiểu về thực trạng việc làm của thanh niên khu vực ngoại thành Hà Nội hiện nay. Chúng tôi cũng hy vọng rằng những thông tin từ nghiên cứu sẽ góp phần cải thiện chính sách việc làm cho thanh thiếu niên ngoại thành.

A. THỰC TRẠNG VIỆC LÀM CỦA THANH NIÊN ĐỊA PHƢƠNG HIỆN NAY

1. Anh/chị vui lòng cho biết ý kiến của mình về tình trạng việc làm hiện nay tại địa

bàn mình sinh sống ? a. Thiếu việc làm b. Thất nghiệp c. Đủ việc làm d. Khác…………………………………………………………………………… …………………………………………………………………………………

2. Anh/chị vui lòng cho biết, anh/chị đã từng đi làm chưa?

a. Đang đi làm b. Đã đi làm nhưng hiện nay nghỉ việc

115

( chuyển luôn sang câu 10)

c. Chưa bao giờ đi làm d. Khác đề nghị ghi rõ)…………………………………………………….. ……………………………………………………………………………..

3. Anh/chị vui lòng cho biết, anh/chị đã và đang làm việc trong lĩnh vực gì ? có thể chọn nhiều phương án)

a. Làm nông nghiệp b. Làm kinh doanh, buôn bán c. Làm công nhân d. Làm công chức, viên chức e. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………….

4. Anh/chị đã làm công việc này trong bao lâu? a. Dưới 1 năm b. 1 năm - Dưới 5 năm c. 5 năm - dưới 10 năm d. Trên 10 năm e. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………….

5. Yếu tố nào khiến anh/chị hài lòng nhất khi làm việc ? có thể chọn nhiều phương

án)

a. Thu nhập tốt b. Thời gian làm việc linh hoạt c. Quan hệ đồng nghiệp tốt d. Công việc phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ e. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………….

6. Anh chị) đã bao giờ muốn thay đổi công việc của mình chưa? a. Có b. Chưa c. Không biết

( chuyển sang câu 8)

( chuyển sang câu 8)

116

d. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………….

7. Tr n thực tế, anh chị) đã thay đổi bao lần công việc của mình? a. 1 lần b. 2 lần c. Trên 3 lần d. Chưa lần nào e. Không nhớ nữa f. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………….

8. Thu nhập trung bình/tháng của anh chị) được bao nhi u? a. Dưới 2 triệu đồng/tháng b. 2,1 triệu đồng – 3 triệu đồng/tháng c. 3,1 triệu đồng – 4 triệu đồng/tháng d. 4,1 triệu đồng – 5 triệu đồng/tháng e. Trên 5 triệu đồng/tháng f. Không biết rõ lắm g. Không có thu nhập g. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. 9. Với mức thu nhập như vậy, anh/chị thấy có đảm bảo cho cuộc sống của mình

không ?

a. Có b. Không c. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………….

10. Anh/chị nhận thấy có khó khăn trong việc tìm việc hiện nay không? a. Rất khó b. Bình thường c. Dễ d. Rất dễ e. Không biết f. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………….

117

11. Nếu gặp khó khăn, theo anh/chị, đó là những khó khăn gì? có thể lựa chọn nhiều phương án cùng lúc)

a. Trình độ học vấn b. Chuyên môn, nghiệp vụ c. Sức khỏe d. Mối quan hệ xã hội e. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………….

12. Trước khi làm việc, anh/chị có được đào tạo về chuy n môn, nghiệp vụ phù hợp

với công việc?

( chuyển sang câu 15)

a. Có b. Không c. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………….

13. Nếu có, anh/chị thấy các lớp đào tạo như thế nào? a. Rất hiệu quả b. Tương đối hiệu quả c. Bình thường d. Không hiệu quả e. Không biết f. Khác( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………….

14. Anh/chị cho biết, thời gian các lớp đào tạo này thường kéo dài trong bao lâu? a. Vài ngày b. Vài tuần c. Vài tháng d. Trên một năm g. Khác( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………….

15. Nếu chưa từng tham gia, xin anh/chị cho biết lý do có thể chọn nhiều phương

án)

a. Không biết thông tin về khóa đào tạo 118

b. Không có thời gian tham gia c. Thời gian khóa học không phù hợp d. Nội dung khóa học không phù hợp e. Địa điểm tổ chức quá xa f. Phải đóng kinh phí g. Do hạn chế về số lượng người tham gia h. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. 16. Trong quá trình tìm việc, những yếu tố nào sau đây ảnh hưởng đến quyết định

của anh/chị?

a. Định hướng gia đình b. Định hướng của nhà trường, bạn bè c. Trình độ học vấn, chuyên môn của bản thân d. Mối quan hệ xã hội e. Khác ( đề nghị ghi rõ)………………………………………………………….. 17. Trong quá trình tìm việc, anh/chị có nhận được sự hỗ trợ nào dưới đây? có

thể chọn nhiều phương án)

a. Gia đình b. Nhà trường, bạn bè c. Chính quyền, các đoàn thể địa phương d. Khác (ghi rõ)……………………………………………………………….. 18. Ở địa phương,có chương trình tư vấn, giới thiệu việc làm cho thanh ni n không?

(chuyển sang câu 21)

a. Có b. Không c. Không biết

19. Nếu có,Anh/chị có tham gia vào chương trình tư vấn, giới thiệu việc làm được

tổ chức tại địa phương?

(chuyển sang câu 21)

a. Có b. Chưa bao giờ c. Không nhớ rõ d. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………… 20. Nếu có, Anh/chị đánh giá như thế nào về những buổi tư vấn, giới thiệu việc làm

tại địa phương?

a. Tốt b. Tương đối tốt

119

c. Bình thường d. Không tốt e. Không nhớ f. Khác ( đề nghị ghi rõ)……………………………………………………… 21. Anh/chị có mong muốn tham gia vào những buổi tư vấn, giới thiệu việc làm tại

địa phương?

a. Có b. Không c. Không biết d. Khác ( đề nghị ghi rõ)……………………………………………………………..

22.Theo anh/chị, yếu tố nào là quan trọng nhất để có được việc làm ? có thể lựa

chọn nhiều phương án)

a. Trình độ, chuyên môn kỹ thuật b. Kinh nghiệm, kỹ năng c. Sức khỏe d. Mối quan hệ xã hội

e. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………..…………………………………

23.Theo anh/chị, nam hay nữ, ai dễ dàng hơn khi đi tìm việc làm?

a. Nam b. Nữ c. Không biết

d. Khác ( đề nghị ghi rõ)……………………………………………………………………………………………..

24. Theo anh chị), yếu tố nào khiến người lao động gắn bó với công việc lâu dài

? có thể có thể chọn nhiều phương án)

a. Thu nhập tốt b. Thời gian làm việc linh hoạt

120

c. Quan hệ đồng nghiệp tốt d. Công việc phù hợp với chuyên môn, nghiệp vụ e. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………….. …………………………………………………………………………………….

B. NHU CẦU VIỆC LÀM CỦA THANH NIÊN ĐỊA PHƢƠNG

1.Anh/chị mong muốn gì ở công việc đang làm? nếu chưa có việc, chuyển sang câu 2)

a. Thu nhập tốt hơn

b. Thời gian làm việc linh hoạt hơn

c. Quan hệ đồng nghiệp tốt hơn

d. Có nhiều việc hơn để làm

e. Có mối quan hệ rộng hơn

f. Công việc nhàn hạ, dễ làm hơn

e. Khác (đề nghị ghi rõ)………………………………………………………………………………………………………………

2. Nếu chưa có việc, anh chị hy vọng sẽ làm trong lĩnh vực gì? có thể chọn nhiều phương

án)

a. Trồng trọt

b. Chăn nuôi

c. Kinh doanh, buôn bán

c. Công chức, viên chức

d. Khác (đề nghị ghi rõ)………………………………………………………………………………………..

3. Anh chị mong muốn có kiến thức, kỹ năng gì trong công việc? có thể lựa chọn

nhiều phương án)

a. Chuyên môn, kỹ thuật

121

b. Ngoại ngữ

c. Tin học

d. Luật pháp, chính sách

e. Khác (đề nghị ghi rõ) ………………………………………………………………………………………..

4. Anh chị mong muốn biết đến thông tin về lao động việc làm từ đâu? có thể

chọn nhiều phương án)

a. Chính quyền địa phương b. Các tổ chức đoàn thể c. Các trung tâm giới thiệu việc làm d. Gia đình, người quen e. Đài báo f. Khác ( ghi rõ)………………………………………………………………………………………………..

5.Theo anh/chị, các lớp đào tạo nghề n n kéo dài trong thời gian bao lâu?

a. Dưới 01 tháng b. 1 tháng đến 3 tháng c. 4 tháng đến 6 tháng d. 7 tháng đến 12 tháng e. Khác ( đề nghị ghi rõ)…………………………………………………..…………………………………

6. Anh/chị mong muốn loại hình hỗ trợ việc làm nào? có thể chọn nhiều

phương án)

a. Tư vấn việc làm

b. Đào tạo nghề c. Giới thiệu việc làm d. Không biết e. Không loại hình nào cả f. Khác ( đề nghị ghi rõ)………………………………………….………………………………………………….

122

Nữ

C. THÔNG TIN CƠ BẢN CỦA NGƢỜI ĐƢỢC TRẢ LỜI 1. Giới tính: Nam 2. Tuổi: 3. Trình độ học vấn:

a. Tốt nghiệp tiểu học b. Tốt nghiệp Trung học cơ sở c. Tốt nghiệp Trung học phổ thông d. Khác (đề nghị ghi rõ)…………………………………………………………………………….

4. Trình độ đào tạo nghề nghiệp cao nhất của anh chị) hiện nay là gì

a. Chưa qua đào tạo b. Sơ cấp c. Trung cấp d. Cao đẳng e. Đại học f. Sau đại học g. Khác ( ghi rõ)………………………………………………………………………………………….

5. Tình trạng hôn nhân a. Chưa kết hôn b. Đã kết hôn c. Ly hôn d. Ly thân e. Góa f. Khác (ghi rõ)……………………………………………………………………………………

Xin chân thành cám ơn anh/chị

123