NGHIÊN CỨU CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI QUYẾT ĐỊNH ĐU TƯ CỦA CÁC
HỘ KINH DOANH CÁ THỂ PHI NÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Hoàng Thị Thu Hà*1
TÓM TT: Hộ kinh doanh cá thể nói chung và các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp trên địa bàn thành
phố nói riêng đang là một trong những chủ thể sản xuất kinh doanh quan trọng của nền kinh tế Việt Nam,
đồng thời là lực lượng nòng cốt cho việc thực hiện thành công mục tiêu 1 triệu doanh nghiệp năm 2020 của
Chính phủ. Tuy nhiên, trong nhiều năm qua, các hộ kinh doanh mặc dù phát triển mạnh mẽ về số lượng,
đóng góp vào việc nâng cao thu nhập của người dân, cải thiện mức sống xã hội song sự quan tâm hỗ trợ
của nhà nước cũng như các nghiên cứu học thuật về hoạt động đầu tư phát triển của các hộ chưa thực sự
tương xứng với tiềm năng phát triển. Nghiên cứu dưới đây sẽ tập trung phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới
quyết định đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội. Trên cơ sở
đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động đầu tư của các hộ kinh doanh này, nâng cao vai
trò của các hộ đối với sự phát triển kinh tế xã hội của thành phố Hà Nội nói riêng và của cả nước nói chung.
Từ khóa: Hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp, quyết định đầu tư, nhân tố ảnh hưởng
1. GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU
1.1. Tính cấp thiết của nghiên cứu
Nghiên cứu được thực hiện nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn và lý luận, bao gồm:
Xuất phát từ vai trò của các hộ kinh doanh thể, đặc biệt các hộ kinh doanh các thể phi nông
nghiệp đối với nền kinh tế.
Hộ kinh doanh cá thể là đặc điểm điển hình của nền kinh tế Việt Nam và có lịch sử phát triển lâu hơn
bất kỳ loại hình doanh nghiệp chính thức nào (Truong Duc Trong, Tran Ban Thien, Pham Kim Dung, 2013).
Trong những năm qua, khu vực kinh tế cá thể có đóng góp cao nhất trong GDP (32,3%), cao hơn khu vực
kinh tế Nhà nước (32,2%) cao hơn hẳn khu vực kinh tế vốn đầu nước ngoài (19,5%) (Phạm Văn
Hồng, 2016). Các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp có vai trò rất quan trọng đối với sự tăng trưởng và
phát triển kinh tế quốc gia, thể hiện qua việc: (i) cung cấp hàng triệu việc làm cho người lao động, đặc biệt
những người có thu nhập thấp ở khu vực thành thị; (ii) cho phép tạo ra nhiều chủng loại sản phẩm, dịch vụ
mọi nơi, mọi lúc, đáp ứng nhu cầu của xã hội làm vệ tinh cho các doanh nghiệp; (iii) là kênh phân phối
và lưu thông hàng hóa quan trọng, giúp cân đối thương mại và phát triển kinh tế địa phương; (iv) phát huy
những ngành nghề truyền thống cho xuất khẩu nhờ những bí quyết sản xuất truyền thống được tích luỹ từ
nhiều thế hệ; (v) có khả năng tiếp cận và đổi mới công nghệ nhanh chóng, dễ dàng vượt qua những trở ngại
của thị trường thể tiếp cận với các thị trường lớn hơn; (vi) thúc đẩy cạnh tranh thông qua các sáng
kiến đổi mới cải thiện hiệu quả hoạt động được thực hiện các hộ khả năng cạnh tranh tốt trên thị
trường (Samuel G, 2004) …
* Đại học Kinh tế quốc dân.
887
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
Mặc vai trò quan trọng như vậy, song không giống như các doanh nghiệp nhà nước hay các
doanh nghiệp tư nhân, các hộ kinh doanh cá thể hiện chưa được hưởng bất kỳ biện pháp hay chính sách hỗ
trợ cụ thể nào của Chính phủ khi thực hiện các hoạt động đầu phát triển. Chính vậy, luồng tiền nhàn
rỗi của khu vực kinh tế này thường được đẩy vào kênh đầu tư ít rủi ro hơn như gửi tiết kiệm, chứng khoán,
bất động sản hay mua vàng… Điều này đã làm giảm những tác động tích cực của nguồn vốn này cho mục
tiêu tăng trưởng và phát triển kinh tế đất nước.
Xuất phát từ xu hướng phát triển của các hộ kinh doanh cá thể trong giai đoạn tới
Nghị quyết số 19/NQ-CP ngày 28/4/2016 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu tiếp tục cải thiện môi
trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm 2016- 2017, định hướng đến năm 2020,
Nghị quyết 35-2016/NQ-CP ngày 16/5/2016 về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp đến năm 2020 của Chính
phủ đã đặt mục tiêu đến năm 2020 cả nước ít nhất 1 triệu doanh nghiệp hoạt động. Một trong những
giải pháp quan trọng nhằm hoàn thành mục tiêu trên chính là tạo điều kiện, hỗ trợ và khuyến khích hộ kinh
doanh thể đầu mở rộng sản xuất để chuyển đổi đăng hoạt động theo Luật Doanh nghiệp. Hiện
các hộ kinh doanh thể còn e ngại cũng như còn gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động
đầu phát triển nhằm hướng tới mục tiêu sản xuất kinh doanh trên quy lớn hơn, chuyên nghiệp hơn,
đặc biệt các hộ kinh doanh thể phi nông nghiệp khu vực thành thị. Nếu nắm bắt được những nhân
tố ảnh hưởng tới các quyết định đầu kinh doanh của các hộ này sẽ giúp khơi thông những khó khăn
của họ và thúc đẩy xu hướng phát triển của các hộ kinh doanh cá thể này theo định hướng của Chính phủ.
Xuất phát từ sự phát triển mạnh mẽ về số lượng của các hộ kinh doanh thể phi nông nghiệp trên
địa bàn thành phố Hà Nội
Với nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng hội chủ nghĩa, mọi thành phần kinh tế đều
được Đảng và Nhà nước khuyến khích phát triển đã tạo điều kiện cho hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp
phát triển mạnh mẽ trên địa bàn thành phố. Với số lượng các sở kinh tế thể phi nông nghiệp trên địa
bàn thành phố tăng nhanh chóng, từ trên 300 000 sở năm 2010 lên đến trên 370 000 sở năm 2017
(trung bình mỗi năm tăng thêm khoảng 10 000 sở), đồng thời thu hút trên 600 000 lao động mỗi năm
(giai đoạn 2010- 2017). Đóng góp của các hộ kinh doanh này vào cơ cấu tổng sản phẩm trên địa bàn thành
phố cũng tăng từ 14,8% năm 2010 lên tới trên 16,3% năm 2015. Đặc biệt những năm gần đây, các hộ kinh
doanh cá thể này đóng góp trên 40% trong tổng mức bán lẻ hàng hóa của thành phố (Cục thống kê Hà Nội,
2017). Với số lượng đông đảo, loại hình sản xuất kinh doanh phong phú, các hộ kinh doanh thể đã
đang khẳng định vai trò cũng như những đóng góp hiệu quả vào sự phát triển kinh tế- hội của thủ đô.
Tuy nhiên, các hộ kinh doanh cá thể này hiện đang gặp nhiều khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động
đầu tư phát triển. Trong đó, có rất nhiều nhân tố có ảnh hưởng lớn tới các quyết định đầu tư của họ như: khả
năng tiếp cận các nguồn vốn vay, mặt bằng sản xuất, trình độ quản lý, chính sách hỗ trợ, ….
Chính vậy, nghiên cứu phân tích, lượng hóa ảnh hưởng của các nhân tố này tới việc ra các quyết
định đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp trên địa bàn thành phố. Từ đó tìm ra những nhân
tố then chốt, làm đòn bẩy cho việc khuyến nghị một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của khu vực
kinh tế năng động này.
1.2 Mô hình nghiên cứu:
Cách tiếp cận nghiên cứu được xem xét dựa trên cách tiếp cận của một số nhà kinh tế khi nghiên cứu
về ảnh hưởng của các nhân tố đến quyết định đầu tư của các nhà đầu doanh nghiệp. Cụ thể là cách tiếp
cận của Chin Shan Lu Ching Chiao Yang (2007) về ảnh hưởng của môi trường đầu đến ý định đầu
888 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA
tư của các doanh nghiệp trong khu vực logistic quốc tế tại Đài Loan, bao gồm 4 nhóm yếu tố chính: Chính
trị, Hạ tầng, Chi phí, Thị Trường; của Seife Ayele (2006) về ảnh hưởng của chính sách khuyến khích đầu
đến hoạt động khởi nghiệp của các doanh nghiệp vừa nhỏ tại Ethiopia; của David J. Storey, Kevin
Keasay, Robert Watson và Pooran Wynaczic (2016) khi nghiên cứu các nhân tố: hỗ trợ tài chính trực tiếp
gián tiếp của chính phủ, cải cách thủ tục hành chính, hỗ trợ giáo dục đào tạo… tác động tới hoạt động đầu
tư sản xuất kinh doanh của các công ty kinh doanh nhỏ tại Anh. Đồng thời cũng kế thừa nghiên cứu của của
Jose. I. Galan cộng sự (2007) về ảnh hưởng của 5 nhóm yếu tố: Chi phí, Thị trường, Hạ tầng, Chính trị
văn hóa hội đến quyết định đầu của các doanh nghiệp tại Tây Ban Nha, trong đó nhấn mạnh đến
nhân tố văn hóa xã hội, thể hiện ở thái độ của người dân và chính phủ đổi với quyết định đầu tư của doanh
nghiệp. Trên sở đó, nhóm nhân tố (biến độc lập được kỳ vọng ảnh hưởng tới quyết định đầu của
các hộ kinh doanh cá thể bao gồm: Nhân tố về các điều kiện sản xuất kinh doanh, nhân tố thị trường, nhân
tố chính sách, Nhân tố văn hóa x hội. Biến phụ thuộc quyết định đầu của các hộ kinh doanh thể
bao gồm 3 giá trị: tăng quy mô vốn đầu tư, giữ nguyên quy mô vốn đầu tư và giảm quy mô vốn đầu tư. Tất
cả các nhân tố trên đều được kỳ vọng có tác động thuận chiều đến quyết định đầu tư của các hộ trên địa bàn
thành phố Hà Nội. Cụ thể:
- Nhân tố về các điều kiện sản xuất kinh doanh bao gồm các biến quan sát: khả năng tiếp cận vốn vay
dễ dàng, khả năng thuê hoặc mở rộng mặt bằng kinh doanh, chi phí cho các dịch vụ hạ tầng hợp lý, khả năng
hộ thuê được lao động với giá thấp, khả năng hộ tiếp cận được với công nghệ hiện đại. Đối với các hộ kinh
doanh thể, các yếu tố này các yếu tố đầu vào bản, phục vụ trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh
doanh của hộ, ảnh hưởng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Nhân tố thị trường bao gồm các biến quan sát về giá bán sản phẩm của hộ được thị trường chấp nhận,
khả năng hộ cạnh tranh tốt với các đối thủ cạnh tranh hiện đại khả năng mở rộng thị trường của các hộ.
Các hộ kinh doanh trong quá trình thực hiện đầu kinh doanh đều phải tương tác với khách hàng các
đối thủ cạnh tranh, do vậy các yếu tố này sẽ ảnh hưởng tới việc cân nhắc quyết định đầu tư của hộ.
- Nhân tố chính sách bao gồm các biến quan sát về hệ thống Luật pháp, thủ tục hành chính, chi phí
hành chính, các ưu đãi và định hướng đầu tư của chính phủ dành cho hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh
của hộ. Theo Piotr Bialowolski và Dorota Weziak Bialowolski (2013) khi phân tích quá trình ra quyết định
đầu của các nhà đầu doanh nghiệp dưới góc độ quy ngành nghề hoạt động đã cho thấy yếu tố
pháp (hệ thống luật pháp, thủ tục hành chính…) tầm quan trọng như nhau cho tất cả các công ty bất
kể quy mô của các doanh nghiệp này. Điều này đặt ra câu hỏi liệu kết quả nghiên cứu này có trùng khớp khi
nghiên cứu các hộ kinh doanh cá thể hay không?
- Nhân tố văn hóa xã hội bao gồm 2 biến quan sát là thái độ của người dân trên địa bàn và thái độ của
chính quyền địa phương trong việc ủng hộ coi trọng sự phát triển của các hộ kinh doanh thể tại địa
phương. Đối với các hộ kinh doanh thể phi nông nghiệp, xuất phát từ các hộ gia đình, các nhân nhỏ
lẻ nên việc có được sự động viên, hỗ trợ từ chính quyền, hàng xóm có ý nghĩa động viên to lớn đối với họ.
1.3 Phương pháp nghiên cứu
Với việc sử dụng phương pháp phân tích nhân tố khám phá, theo Hair cộng sự (2006), tỷ số
quan sát/ biến quan sát là 5/1, tức là 1 biến quan sát cần có số lượng quan sát là 5. Do đó với 15 biến quan
sát trong nghiên cứu cần thực hiện với cỡ mẫu tối thiểu là 75 quan sát. Tuy nhiên, do số lượng các hộ kinh
doanh cá thể phi nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội khá lớn, để đảm bảo tính đại diện, nghiên cứu
này đã thực hiện trên 150 quan sát theo phương thức chọn mẫu ngẫu nhiên. Đối tượng khảo sát các hộ
889
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
kinh doanh thể phi nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội (phụ lục 1). Thông tin khảo sát gồm các
thông tin chung về hộ cá thể và các nhóm nhân tố ảnh hưởng quyết định đầu tư sản xuất kinh doanh của hộ.
Bảng 1: Đặc điểm của các hộ kinh doanh cá thể trong mẫu khảo sát
Tiêu chí Nhỏ nhất Lớn nhất Trung bình Độ lệch chun
Tuổi của chủ hộ 18 67 39.65 10.64
Số năm bán hàng (năm) 0.3 29 6.86 5.51
Số lao động trong hộ(người) 1 10 3.21 2.02
Trình độ học vấn của chủ hộ Cấp 1 trở xuống Cao đẳng trở lên
Diện tích kinh doanh (m2) 7 200 40.02 28.71
Chi phí đầu tư bình quân tháng
(triệu đồng) 0 1500 89.78 197.82
Thuế/tháng (triệu đồng) 0 5 0.86 0.92
Lợi nhuân/tháng 2 200 26.79 31.88
Tổng số quan sát 150
(Nguồn: Xử lý từ bộ số liệu điều tra hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp tại thành phố Hà Nội)
1.4 Phương pháp phân tích
Phương pháp phân tích sử dụng trong nghiên cứu bao gồm phương pháp thống kê mô tả để khái quát
đặc điểm các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn thành phố Hà Nội, khái quát tình hình sản xuất kinh doanh
của các hộ cá thể trên địa bàn thành phố Hà Nội giai đoạn 2011-2017. Bên cạnh đó áp dụng kĩ thuật thống
tả, phân tích nhân tố khám phá (EFA) hồi quy Logistic để phân tích các nhân tố ảnh hưởng tới
quyết định đầu tư của các hộ kinh doanh cá thể, hỗ trợ bằng phần mềm SPSS 20.0
2. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
2.1 Khái quát tình hình đầu tư sản xuất kinh doanh của các hộ kinh doanh cá thể trên địa bàn thành phố Hà Nội
Nằm trong vùng Đồng bằng sông Hồng với mật độ các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp lớn nhất
cả nước (Viện nghiên cứu kinh tế quản kinh tế trung ương, 2017), thành phố Nội hiện số lượng
các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp tương đối lớn. Hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các hộ
kinh doanh này trên địa bàn thủ đô diễn ra cùng sôi động. Ngoài việc tạo ra thêm hàng ngàn việc làm
mỗi năm, hộ kinh doanh thể phi nông nghiệp một trong các động lực thúc đẩy tinh thần đầu kinh
doanh và phát triển kinh tế thị trường, đóng góp tích cực vào sự tăng trưởng và phát triển của thủ đô, đồng
thời còn giải quyết nhiều vấn đề mang tính xã hội.
Về ngành nghề đầu kinh doanh, với số lượng các hộ kinh doanh thể phi nông nghiệp tăng dần
qua các năm, các hộ kinh doanh trên địa bàn thành phố tập trung đầu kinh doanh trong ngành dịch vụ
thương mại (khoảng trên 70%), chỉ có trên dưới 25% số hộ hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp. Bên cạnh
đó, tỷ trọng các hộ kinh doanh trong lĩnh vực công nghiệp xây dựng có xu hướng giảm. Xu hướng này xét
trên quy mô cả nước (không chỉ riêng ở Hà Nội) là do các hộ công nghiệp- xây dựng đang chuyển dần sang
hình thức Doanh nghiệp. Điều này có thể thấy rõ qua mức tăng về số lượng doanh nghiệp công nghiệp và
xây dựng đăng ký mới trong cả nước lần lượt là 28% 21,1% trong những năm gần đây (Viện nghiên cứu
kinh tế quản lý kinh tế trung ương, 2017).
Các hộ kinh doanh thể ngành thương mại dịch vụ trên địa bàn thành phố tập trung chủ yếu vào lĩnh
890 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA
vực bán buôn, bán lẻ, sửa chữa ô tô, xe máy xe động (chiếm trên 60% năm 2017), dịch vụ
lưu trú và ăn uống (chiếm 15%), vận tải kho bãi (6%)….Một số ngành dịch vụ khác hiện còn chưa hấp dẫn
đầu kinh doanh của các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp khác như tài chính, ngân hàng và bảo hiểm,
hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ, giáo dục đào tạo… (Cục thống kê Hà Nội, 2017)
Hình 1: Cơ cấu ngành sản xuất kinh doanh của hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp trên địa bàn thành
phố Hà Nội giai đoạn 2010 - 2017
Đơn vị: %
(Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 2017)
Về quy nguồn vốn đầu kinh doanh, các hộ kinh doanh thể trên địa bàn thành phố quy
vốn đầu tư tương đối đa dạng. Tuy nhiên, quy mô vốn còn rất nhỏ. Trong quá trình tiến hành điều tra phỏng
vấn, quy mô đầu tư mới tại các hộ dao động từ một vài triệu đồng đến lớn nhất là 1,5 tỷ đồng/ tháng. Quy
mô vốn này chủ yếu được huy động từ tiền vốn tự có của các hộ, lợi nhuận kinh doanh giữ lại của kỳ trước
hoặc vay của chính người thân trong gia đình. Tỷ lệ vốn vay ngoài của các hộ kinh doanh thể còn rất
thấp, các hộ được phỏng vấn đều bày tỏ tâm lý thận trọng đối với việc tiếp cận vốn vay ngân hàng do nhiều
nguyên nhân như: ngại phát sinh nợ, sợ rủi ro đặc biệt khó khăn trong việc chứng minh tài sản bảo
lãnh thế chấp cũng như lập phương án đầu tư kinh doanh theo yêu cầu của các tổ chức tín dụng để vay vốn.
Về quy mô tài sản cố định, tài sản cố định của các hộ cũng không quá lớn, dao động trên dưới 116 triệu
đồng/ hộ kinh doanh, thể hiện trong bảng dưới đây:
Bảng 2: Giá trị tài sản cố định của các hộ kinh doanh cá thể phi nông nghiệp trên địa bàn thành phố Hà
Nội giai đoạn 2010 - 2017
Đơn vị: Triệu đồng
2010 2011 2015 2016 2017
Giá trị tài sản cố định 47001315 30038187 42195895 44923871 44118618
Số hộ cá thể phi NN 303859 329413 351105 361214 378489
Giá trị tài sản cố định trung
bình/hộ 154.68 91.19 120.18 124.37 116.57
(Nguồn: Niên giám thống kê Hà Nội 2017)