
Nhìn chung, công tác giải ngân trong những năm qua chưa tốt, nhiều dự án không
được Chính phủ Nhật Bản chấp thuận, tốc độ giải ngân nói chung vẫn còn chậm.
Cam kết vẫn chỉ là lời hứa. Sẽ rất lãng phí nguồn lực nếu chúng ta không biết cách
tận dụng những cam kết đó. Trong những năm tới, chúng ta cần nỗ lực hơn nữa để
nâng cao số vốn ODA được giải ngân.
*)Ngân hàng thế giới (WB)
Kể từ năm 1993 đến năm 1999, thông qua 7 Hội nghị của các nhà tài trợ, WB đã
cam kết cung cấp một lượng ODA trị giá 3.253 triệu USD cho Việt Nam. Tính đến
hết năm 1999, WB đã ký kết các Hiệp định vay với tổng số vốn là 2.366 triệu USD
theo các điều kiện tín dụng là lãi suất 0%, dịch vụ phí 0,75%/năm; thời hạn vay là
40 năm, trong đó có 10 năm ân hạn. Các dự án giải ngân bằng vốn vay của WB Sẽ
được thực hiện thông qua đấu thầu quốc tế. Ngoài ra, Việt Nam đã đàm phán 3 dự
án với tổng số vốn vay 245,5 triệu USD, hiện đang hoàn tất các thủ tục để ký kết.
Nguồn vốn đã ký vay này tập trung vào các dự án thuộc cơ sở hạ tầng kinh tế- xã
hội như giao thông (Quốc lộ 1, giao thông nông thôn, giao thông đường sông ở
Nam Bộ), truyền tải điện, tín dụng điều chỉnh cơ cấu (SAC), dịch vụ khuyến nông,
thủy lợi, lâm nghiệp, các dự án thuộc hạ tầng cơ sở xã hội như giáo dục, dân số, y
tế...
Ngân hàng thế giới dành 50% nguồn viện trợ của mình cho các dự án cơ sở hạ
tầng qui mô lớn, 23% cho tín dụng nông thôn và cơ sở hạ tầng qui mô nhỏ ở nông
thôn, 14% cho viện trợ trả nợ và 12% cho chương trình phát triển con người.
Phương thức phân bổ này được phản ánh trong các loại hình trợ giúp của Ngân
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

hàng thế giới: 2/3 nguồn vốn ODA của ngân hàng được giải ngân cho các dự án đầu
tư, phần còn lại cho các dự án giải ngân nhanh.
Tính đến cuối năm 1999, nếu chỉ tính riêng các dự án, mức giải ngân vốn ODA
của WB đạt được là 835 triệu USD, chiếm tỷ lệ 35,2% so với các Hiệp định đã ký
kết. Như vậy, trong ba nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam thì vốn ODA của WB có
tỷ lệ giải ngân cao hơn cả. Tỷ lệ giải ngân nói trên được coi là tương đối khả quan
trong khu vực, đặc biệt là với một nước tiếp nhận viện trợ như Việt Nam. Một số dự
án vốn vay của WB thực hiện là tốt như phục hồi ngành điện, giải ngân đạt 80% so
với kế hoạch đặt ra là 47%; Phát triển điện lực, giải ngân đạt 96% so với kế hoạch
là 89%. Tuy nhiên, những dự án thực hiện tốt như vậy không nhiều.
Một số dự án có tỷ lệ giải ngân thấp chủ yếu trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng xã hội như
Giáo dục tiểu học, Hỗ trợ Y tế quốc gia, Dân số và Sức khoẻ gia đình. Tình trạng
này đang được từng bước khắc phục, nhưng đến nay chưa có nhiều chuyển biến tích
cực.
*)Ngân hàng Phát triển Châu á (ADB)
Qua 7 Hội nghị các nhà tài trợ (1993-1999), ADB đã cam kết cung cấp cho Việt
Nam 2.131 triệu USD. Đến nay, Việt Nam đã ký với ADB 1.608 triệu USD với lãi
suất là 0%, dịch vụ phí là 1%/năm, thời hạn vay là 40 năm trong đó có 10 năm ân
hạn. Các dự án này được thực hiện qua đấu thầu quốc tế. Đến hết năm 1999, vốn
vay ADB đã giải ngân được 495 triệu USD, đạt 33,9% số vốn đã ký kết. Tỷ lệ giải
ngân vốn ODA cao hơn so với Nhật Bản. Tuy nhiên, vẫn còn ở mức thấp.
ADB vẫn tiếp tục giữ vị trí thứ ba về mức độ giải ngân ODA ở Việt Nam.
ADB tăng cường các hoạt động của mình trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng với hơn 50%
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

tổng vốn ODA. Phát triển nông thôn chiếm vị trí thứ hai trong các hoạt động của
ADB với các dự án tập trung vào tín dụng nông thôn và một dự án mới có qui mô
lớn về cải thiện cơ sở hạ tầng nông thôn.
1.4.4-Giải ngân ODA theo vùng kinh tế
Cho tới nay, tất cả các vùng trong nước đều được hưởng lợi từ nguồn vốn ODA đã
được giải ngân. Nhiều chương trình, lĩnh vực thuộc nguồn vốn này đã được trải đều
trên cả nước như: Chương trình y tế cơ sở, chương trình tiêm chủng mở rộng;
chương trình sinh đẻ có kế hoạch; chương trình phòng chống HIV; chương trình
đường giao thông nông thôn; chương trình cấp nước sạch cho các thành phố, thị xã
các tỉnh; chương trình trồng rừng các tỉnh ven biển; chương trình hạ tầng nông
thôn...
Bảng 4: Nguồn vốn ODA thuộc các vùng
Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ 2169,6 20 206,7
Vùng kinh tế trọng điểm Trung Bộ 599,3 5,5 139,2
Vùng kinh tế trọng điểm Nam Bộ 1070 10 124,5
Vùng Tây Nguyên 293,1 2,7 71,4
Vùng Đồng bằng Sông Cửu Long 1081,9 10 66,9
Vùng núi Bắc Bộ 478 4,4 47,4
(Nguồn: Bộ Kế hoạch và Đầu tư)
Thời gian qua, chênh lệch về lượng vốn ODA giữa các vùng ngày càng được cải
thiện (các địa phương đều có ODA). Sự đa dạng, phong phú về vốn ODA thực hiện
theo lĩnh vực, theo tính chất nguồn vốn trên các vùng trong những năm gần đây
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

tăng lên rõ rệt. Tuy vậy, sự chênh lệch về vốn ODA giữa các vùng còn khá lớn, sự
chênh lệch này được thể hiện trong bảng số liệu trên.
Như vậy, sự chênh lệch về thu hút và giải ngân ODA giữa các vùng là rất lớn.
Do đó, mục tiêu trước mắt và lâu dài của Chính phủ Việt Nam và các nhà tài trợ là
phải ưu tiên đầu tư nhiều hơn nữa cho các vùng còn gặp nhiều khó khăn theo hướng
tập trung vào hạ tầng cơ sở (điện, đường, thủy lợi, khuyến nông...) và hạ tầng xã hội
(y tế, giáo dục, văn hoá...). Cộng đồng các nhà tài trợ quốc tế cũng có sự nhất trí cao
về tập trung nguồn lực và tăng cường giải ngân cho chương trình xoá đói giảm
nghèo ở vùng sâu, vùng xa.
*Vùng núi Bắc Bộ:
Cho đến nay vẫn là khu vực nghèo nhất Việt Nam với 59% dân cư được coi là
nghèo đói. Trong những năm gần đây, nguồn vốn ODA đầu tư vào vùng đã tăng lên
đáng kể , tuy nhiên, vẫn còn thấp nhất so với các vùng khác trong cả nước. Trong
giai đoạn 1993-1999, tổng vốn ODA đầu tư vào vùng mới chỉ đạt 478 triệu USD,
với tỷ lệ trong tổng số ODA đã ký kết rất thấp là 4,4%. Nguồn vốn ODA này được
tập trung đầu tư mới toàn bộ hệ thống cấp nước sạch cho các tỉnh lỵ như: Hà Giang
(Pháp), Tuyên Quang (ADB), Cao Bằng (Pháp), Lạng Sơn (Pháp), Sơn La (Pháp),
Điện Biên Phủ- Lai Châu (Pháp), Việt Trì- Phú Thọ (Đức), Bắc Giang (úc), Lào Cai
(Pháp), Yên Bái (Pháp), Thái Nguyên (ADB), Bắc Cạn (Nhật Bản). Nâng cấp, cải
tạo các bệnh viện của tỉnh như: Yên Bái (Pháp), Phú Thọ (ý), Cao Bằng (Đan
Mạch), Chương trình y tế của WB cho các tỉnh Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn,
Chương trình y tế của Thụy Điển cho các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai.
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

Ngoài ra, phát triển nông nghiệp và nông thôn ở các tỉnh miền núi Bắc Bộ cũng
chiếm một khối lượng đáng kể nguồn vốn ODA vào vùng.
Như vậy, nguồn vốn ODA vào vùng đã được tập trung đều cho khắp các tỉnh và đáp
ứng được các lĩnh vực ưu tiên. Các chương trình, dự án đã đem lại những hiệu quả
nhất định. Song vùng núi phía Bắc là vùng kinh tế chậm phát triển, trình độ sản xuất
thấp, kết cấu hạ tầng yếu và thiếu, trình độ dân trí và mức sống dân cư còn rất thấp
so với các vùng khác trong cả nước. Vì vậy, bên cạnh các nguồn vốn đầu tư khác,
Chính phủ cần kêu gọi các nhà tài trợ quan tâm và dành ưu tiên cao nguồn vốn
ODA cho khu vực này. Đồng thời, cần áp dụng những biện pháp thúc đẩy giải ngân
nguồn vốn ODA.
*Vùng Tây Nguyên:
Hiện nay, Tây Nguyên là một trong ba khu vực nghèo nhất trong cả nước (Miền núi
phía Bắc, Tây Nguyên và Bắc Trung Bộ). Giai đoạn 1993- 1999, Tây Nguyên là
khu vực tiếp nhận ít nhất nguồn vốn ODA với giá trị các Hiệp định đã ký kết là 293
triệu USD, chỉ chiếm 2,7% trong tổng số. ODA bình quân đầu người cũng ở mức
rất thấp là 71,4%, chỉ đứng trên vùng núi Bắc Bộ. Thời gian qua, ODA đặc biệt gia
tăng trong lĩnh vực nước sạch và vệ sinh môi trường. Phát triển nông, lâm nghiệp và
nông thôn cũng nhận được một phần đáng kể ODA ở Tây Nguyên. Tây Nguyên là
vùng thường xuyên bị hạn hán, lũ lụt, do vậy để đảm bảo phát triển nông nghiệp cần
tập trung đầu tư vốn cho các công trình thủy lợi. Ytế, giáo dục- đào tạo, cải cách thể
chế cũng là những lĩnh vực được tiếp nhận vốn ODA, song chưa phải là lớn. Các
chương trình, dự án đã giải ngân thời gian qua, nhìn chung, đều đúng định hướng về
cơ cấu ngành, lĩnh vực ưu tiên thu hút viện trợ của Việt Nam. Trong 7 năm qua, hầu
Simpo PDF Merge and Split Unregistered Version - http://www.simpopdf.com

