N xấu và lợi nhuận: Khi đồng xu rơi…
Đã có ngân hàng lỗ, thậm chí l ln. trường hợp ch chm dương dăm tỷ.
thành viên quy mô vốn “khủng nhưng lợi nhuận lại teo tóp. Nhìn chung, hầu hết
đều giảm lãi…
góc nhìn xã hội, quan điểm cho rằng, kinh tế khó khăn, nhiều doanh nghiệp
phá sản và đóng cửa, ngân hàng lãi ít đương nhiên, mà l cũng có th xem
bình thường, mà nhiều m qua h đã lãi rồi.
góc nhìn của nhà quản lý, ngân hàng giảm lãi hoặc l lại có th gây lo ngại.
các ngân hàng thương mại cầnmột mức lãi nhất định để gi an toàn hoạt động.
Do đây là các doanh nghiệp đặc thù, lãi quá thấp hoặc l có th làm suy yếu kh
năng chống đỡ rủi ro, mà nếu đổ v xẩy ra có th lây lan h thống và tác động tiêu
cực đến nền kinh tế…
ngân hàng cn có mức lãi nhất định để có nguồn trích lập d phòng, nhất khi n
xấu tăng cao, nếu không có lãi và n xấu ăn vào vốnđáng ngại. Mặt khác, áp
lực lợi nhuận cũng d dẫn tới động che đậy n xấu để hạn chế chi phí trích lập
d phòng; nguy càng khó lường định.
h áp trần lãi suất huy động đồng thời áp sàn lãi suất cho vay. Điều này hàm ý
rằng, các ngân hàng cầnmột chênh lệch nht định, đảm bảo có lãi để d phòng
nguồn x lý n xấu, rủi ro.
Hay c th tại Việt Nam, trong quý 3 vừa qua, có ngân hàng thương mại đã buộc
phải giảm rất mạnh lương thưởng cho nhân viên để cải thiện mức lãi. Có l áp lực
ch tiêu lợi nhun là một phần, phần nữa là cần cải thiện nguồn để đối phó với n
xấu tăng lên.
Nhìn chung, những năm qua, hầu hết các nhà băng đều có lãi (“khủng” hay không
là vấn đề khác).
Thông thường, các nhà băng để dành 5% nguồn lợi nhun cho qu d tr tăng
vốn điều lệ. Thế nhưng, cũngmột khoản khá lớn c 2 - 2,8% đều đặn chia cho
cấu lãnh đạo quản trị, điều hành. Trong môi trường rủi ro gia tăng, n xấu dâng
lên và hiệu qu kinh doanh kém đi, nên chăng cần cân đối lại cấu hai t trọng
này?
Hay một hướng khác, góp ý cho d thảo thay đổi quy định v phân loại n
trích lập d phòng trước đây, một s ngân hàng nước ngoài đề ngh nên quy định
các t l trích lập hiện nay là tối thiểu, gi s n nhóm 2 hiện yêu cầu trích lập 5%
nhưng ngân hàng có th ch động trích nhiều hơn với 10%, 20%...
góc độ tích cực, nếu thực hiện nghiêm túc và thực s ch động như đề ngh đó,
các ngân hàng s t giảm lãi để xbài toán n xấu tốt hơn. N xấu theo đó
thêm nguồn đối ứng để chính các ngân hàng t xch không phải đặt ra như
một vấn đề chung cho c nền kinh tế hiện nay.
x lý n xấu là trách nhiệm của nhiều quan, trong đó có c Quốc hội và Chính
phủ. Cũng như tr lời VnEconomy mới đây v kh năng x lý n xấu t nay đến
cuối năm, ông nói rằng cá nhân mình không th tr lời vì tùy thuộc vào nhiều yếu
t chung, nhiều nút thắt chung ch không theo mong muốn ch quan của Ngân
hàng Nhà nước.
Yếu t chung, trách nhiệm chung, bởi theo Ngân hàng Nhà nước, n xấu hiện nay
không phải ch do hiện ti, ch do các ngân hàng tạo ra. đã tích t nhiều năm,
gắn với những tác động bất li bên trong và bên ngoài, nhất là với một truyền
thống ưa và dựa quá nhiều vào đòn by tài chính của các doanh nghiệp.
Đồng xu ch kêu khi b rơi ch không phải lúc đút vào túi. Một thập k vừa qua
kinh tế Việt Nam phát trin với đòn bẩy s bùng n của tín dụng, rộng cửa hội
nhập. Nhưng khi nước rút, n xấu nổi lên thành vấn đề nhức nhối. Trên góc độ
nào đó, đây cũngth xem là s tr giá cho một giai đoạn tăng trưởng nóng, khi
sức đề kháng của mt nền kinh tế mới nổi còn hạn chế, mà rộng cửa hội nhập
không phải mọi ngọn gió thổi vào đều lành