
Nửa thếkỉgiới thiệu những
tưtưởng mĩhọc và lí luận văn
học nước ngoài ởViệt Nam
ừnăm 1954 trởvềtrước, trong hệthống văn nghệcủa nước ta, lý
luận văn học trên thực tếchưa phải là một bộphậnđộc lập. Có sáng tác
nhưmột bộphậnđộc lập, có phê bình nhưmột bộphậnđộc lập, có công
chúng đọc văn học viết nhưmột bộphậnđộc lập, song lý luận văn học như
một bộphậnđộc lập thì chưa có. Nói đến lí luận (chí ít là nhưcách chúng ta
hiểu hiện nay) là nói đến một nhãn quan hệthống, đến lối tưduy bằng các
khái niệm, các phạm trù và được thểhiện bằng một thứsiêu ngôn ngữ
riêng- ngôn ngữsuy lí cốgắng tẩy bỏnhững "tạp chất" có tính cảm xúc,
cảm giác, kinh nghiệm chủquan. Trong văn học truyền thống của ta, những

nhân tốlí thuyết văn học chỉmớiởdạng manh nha, hoặc là những "mảnh
vỡ" lí luậnđược mang tới từmột nền văn hóa khổng lồ, toàn vẹn và tựtại -
văn hoá Trung Hoa (trong văn học trung đại), lẫn vào phê bình văn học.
Đầu thếkỷXX, trên báo Nam Phong có một sốbài viết của Phạm Quỳnh về
các thểloại văn học: Bàn vềtiểu thuyết, Khảo vềdiễn kịch, Thơlà gì?...,
Hải Triều nhà phê bình văn nghệ, nhà tuyên truyền cách mạng, trong một
sốbài viết của mình vào cuối những năm 30 đôi lúc có giới thiệu một số
luậnđiểm mácxit vềvăn nghệ.Đáng kểhơn cảlà vào năm 1944 xuất hiện
cuốn sách Văn học khái luận củaĐặng Thai Mai giới thiệu sơgiản một số
phạm trù lý luận văn học. Dù ít ỏi và lẻtẻ, song đó là những tiềnđề đầu tiên
cho việc hình thành bộmôn lý luận văn học sau này. Còn giờ đây, lý luận
văn họcđã thành một bộmôn được giảng dạyở Đại học, một chuyên
ngành trong sốcác chuyên ngành của khoa học xã hội - nhân văn, đã có
một loạiấn phẩm báo chí, sách vởchuyên vềlý luận với siêu ngôn ngữ đặc
thù, có cảmột Hộiđồng lý luận Trung ương. Điềuđó đủ thấy cảtrong ý
thức lẫn trên thực tế, lý luận văn học không chỉ đã thành một bộphậnđộc
lập mà còn được xã hội và Nhà nướcđặc biệt quan tâm. Đây là kết quảcủa
sựphát triển trong suốt nửa thếkỉ, qua mấy chặng khác nhau với nỗlực
của nhiều học giảvà dịch giả. Hệthống lý luận văn học của ta được hình
thành từba nguồn: đường lối văn hoá văn nghệcủaĐảng và Nhà nước
qua các văn kiệnđòi hỏiđược thực thi, những đúc rút từcác sáng tác văn
học của các nhà văn trong nước cũng nhưnước ngoài và rất quan trọng,
thậm trí quan trọng nhất là từsựtiếp thu các thành tựu mĩhọc và lý luận
văn học thếgiới trong đó việc dịch thuật, giới thiệu các công trình lý luận
nghiên cứu của các học giảnước ngoài có ý nghĩa trực tiếp. Bài viết này
của chúng tôi chủyếu xem xét mạch nguồn thứba này tức là sựgiới thiệu
và tiếp nhận các tưtưởng lý luận văn học nước ngoài ởViệt Nam trong
nửa thếkỷqua.
Năm 1955 xuất hiện một cuốn sách rất quan trọng trong lịch sửtruyền
bá lý luận văn nghệmácxit ởnước ta, đó là cuốn Bàn vềvăn học
nghệthuật(1) của Mao Trạch Đông, do Nam Mộc dịch, Nhà xuất bảnVăn

nghệ ấn hành. Nó được coi là quan trọng vì những tưtưởng trong đó có
ảnh hưởng lớnđến việc chỉ đạođường lối văn nghệvà xây dựng lý luận
văn học nghệthuậtởnước ta. Cuốn sách tập hợp hai bài diễn văn của Mao
Trạch Đông đọc tại Hội nghịvăn nghệDiên An tháng 5 năm 1942: bài khai
mạc và bài bếmạc hội nghị. Thực ra thì ngay từnăm 1949 hai bài này đã
được giới thiệu song chắc là chỉlưu hành trong một phạm vi hẹp do hoàn
cảnh cách mạng nước ta lúc đó. Trong hai bài đó, bài diễn văn bếmạc
quan trọng hơn bởi vì ở đây nêu lên một loạt vấnđề cơbản của văn nghệ
được quy chuẩn theo tinh thần của một nền văn học và nghệthuật mới, văn
học và nghệthuật mácxit : chức năng của văn nghệ, vấnđề phận sựcủa
nhà văn (Chẳng hạn "quan hệgiữa công tác và sáng tác"), vấnđề văn nghệ
và chính trị(Đó là: "thống nhất giữa chính trịcách mạng và nghệthuật thật
cao..., nhưng hiện nay vấnđề quan trọng hơn vẫn là vềmặt chính trị"), nội
dung và hình thức, vấnđề "cải tạo tưtưởng" (tiểu tưsản). Cần chú ý rằng,
bài diễn văn này ra đời trong hoàn cảnh kháng chiến, tại khu căn cứ địa
cách mạng Diên An, do vậy lẽdĩnhiên là nó đápứng những yêu cầu của
thực tiễn cách mạng Trung Quốc khi ấy. Mô hình lí luận văn nghệtrong đó
cũng có thểhữu ích đối với hoạtđộng văn hóa văn nghệkháng chiến của
Việt Nam, song chắc là sẽbất cập khi dùng nó để hướng đạo và đánh giá
văn học thời bình. Tiếc rằng trong thực tế điềuđó đã xảy ra, thậm chí người
ta còn định lấyđó làm tiêu chí phổquát cho nền "văn học toàn thếgiới
tương lai”. Cuốn sách có vịtrí quan trọng còn vì nó mở đầu cho loại "sách
kinh điển" của chủnghĩa Mác - Lênin vềvăn học nghệthuậtởnước ta. Từ
sau năm 1960, loại "sách kinh điển" này thường xuyên được dịch và biên
soạn lại từcác bộtrước tác của Mác, Ăngghen, Lênin, chẳng hạn như:
Marx, Engels, Lénine và văn học nghệthuật của J. Fréville, một tác giả
người Pháp (1962), C. Mác, Ph. Ăngghen, V. Lênin: Vềvăn học và nghệ
thuật (1977)... Trong sốnhững tưtưởng của các nhà triết học mácxit này thì
luậnđiểm và cách diễn giải vềtính giai cấp và tính Đảng của văn học nghệ
thuật (bài Tổchức củaĐảng và văn họcĐảng - V. Lênin), vềtính hiện thực
củavăn học (bài Thưgửi Hác-cơ-nét-xơcủa Ph. Ăngghen, nhận xét của V.
Lênin vềL. Tolstoi...) có ảnh hưởng lớn hơn cả đến giới lý luận phê bình
văn học.

Cần nói rõ ở đây rằng từquãng năm 1955 đến cuối những năm 80
của thếkỉXX, việc giới thiệu, dịch thuật những công trình lý luận văn học và
nghệthuật theo quan điểm mácxit được tiến hành thường xuyên ởmiền
Bắc. Sốlượng những công trình (các chuyên luận và tiểu luận) thuộc loại
nhưvậy mặc dù không phảiđã thậtđồ sộsong rõ ràng chiếm vịthếáp đảo
hoàn toàn. Cũng có những công trình lý luận văn nghệtheo thếgiới quan
khác được giới thiệu và dịch song chủyếuđể phê phán, hoặc chỉ"lưu hành
nội bộ" dưới dạng bảnđánh máy, chẳng hạn nhưcông trình Mĩhọc của F.
Hegel do Phan Ngọc dịch thường xuyên được chuyền tay nhau đọc trong
giớiđại học hay các nhà nghiên cứuởcác Viện. Mấy cuốn lý luận "phi
mácxit" được dịch trọn vẹn và gây được dưluận nhưThi học của Arixtốt,
Tâm lý học nghệthuật của L. Vygotski, thì cuốnđầu thuộc vềthời cổ đại xa
xưa, cuốn sau đã được thừa nhận và đánh giá cao ởLiên Xô và tác giảcủa
nó cũng đã mất. Cũng không phải mọi xu hướng lý luận văn nghệmácxit
trên thếgiớiđềuđược giới thiệu. Trào lưu lý luận văn nghệmácxit vốn có
nhiều chi lưu, nhiều phương án khác nhau ởcác nước khác nhau. Việc giới
thiệu dịch thuật thực ra chủyếu chỉgồm các công trình đã được kiểmđịnh
qua giới học thuật chính thống của Liên Xô và phần nào của Trung Quốc.
Các tác phẩm lý luận theo thếgiới quan mácxit của G. Lukács. (Hunggari),
L. Goldmann (Pháp), W. Benjamin (Đức), C. Caudwell (Anh), các nhà
nghiên cứu văn học của ta hầu nhưcòn ít nghe nói đến (trừsựphê phán
đối với G. Lukács) chứnói chi đến việc dịch thuật. Lý do cũng dễhiểu: đó là
những tác phẩm "xét lại" cần bịphê phán chứkhông phải cầnđược quảng
bá. Có thểnói rằng, việc giới thiệu lý luận văn nghệmácxit của thếgiới khá
phiến diện và đã làm tổn hạiđến một trào lưu lý thuyết vềvăn học nghệ
thuật chứađựng nhiều chân lý và sáng tạo.
Vậyđó là loại sách lý luận vềvăn học nghệthuật thứnhấtđược giới
thiệuởnước ta, chính xác hơn là ởmiền Bắc giai đoạn này: sách của các
nhà "kinh điển" của chủnghĩa Mác và lãnh tụCách mạng.

Loại thứhai là sách bàn vềkinh nghiệm sáng tác của các nhà văn
nước ngoài, chủyếu là của các nước xã hội chủnghĩa. Thực ra thì đây
không phải là sách lý luận văn nghệ, tuy nhiên bởi vì các nhà văn khi bàn
vềviệc viết lách thường đồng thời trình bày quan điểm của mình vềthểloại,
về đối tượng và phương pháp sáng tác, do vậy các nhà nghiên cứu lý luận
của ta trong buổiđầu xây dựng nền lý luận văn nghệdân tộc cũng thường
dựa vào đó để định hướng và lấy dữliệu cho việc xác lập hệthống của
mình. Trong thực tếchúng đã có một ý nghĩa nhấtđịnh. ởthập kỷ60 thấy
khá nhiều cuốn sách loại này. Có thểkểmột vài cuốn trong số đó như: Nói
vềviết tiểu thuyết của ba tác giảTrung Quốc: Ngô Cường, NguỵKim Chi và
Mao Thuẫn (1960), Kinh nghiệm viết kịch cũng của các tác giảTrung Quốc
là Đỗ ấn, Tôn Vu, Lão Xá (1960), Viết ký sựcủa B.Polevoi, (1961), Công
việc củanhà văn của I. Erenbua (1966)(2). Những cuốn kinh nghiệm viết
vănđó có lẽtrước hết nhắmđến các nhà văn, ở đầu thập kỷ60 này đang
chuẩn bịhành trang cho những chuyếnđi thực tếxuống cơsởvới mong
muốn sáng tạo nên nền văn học mới theo tinh thần: phản ánh cái "hiện
thực xã hội chủnghĩa" đang được xây dựng trên miền Bắc lúc đó. Nói về
việc viết văn cũng phải kể đến hai tập sách Kinh nghiệm viết văn của A.
Xâytlin do Hoài Lam và Hoài Li dịch được ra mắt vào các năm 1967, 1968.
Có ảnh hưởng nhấtđến các nhà lý luận của ta trong loại sách này phải kể
đến tập tiểu luận của nhà văn Xô Viết M. Gorki Bàn vềvăn học, bản dịch
được xuất bản lầnđầu năm 1965, sau đó Nhà xuất bản Văn học cho tái bản
(bổsung thành hai tập) năm 1970. Các luậnđiểm vềlập trường giai cấp
của nhà văn (như"Nhà văn là tiếng nói, là tai mắt của giai cấp"), vềchủ
nghĩa hiện thực và chủnghĩa lãng mạn (chủnghĩa lãng mạn tiêu cực và
chủnghĩa lãng mạn tích cực), về điển hình hoá của văn học hiện thực chủ
nghĩa, vềvai trò của vốn sống và tưởng tượng của nhà văn trong sáng tạo
được trình bày trong các tiểu luận Tôi đã học viết nhưthếnào, Bàn vềhiện
thực, Các ông đứng vềphía ai, hỡi các bậc thầy văn hoá?, Văn học Xô
Viết(3) luôn là những điểm tựa cho các nhà lý luậncủa ta khi luận giải về
văn học nghệthuật, nhất là "văn học nghệthuật xã hội chủnghĩa". Những
tưtưởng vềnghệthuật của M. Gorki được các nhà lý luận phê bình của ta
coi trọng gần ngang bằng với tưtưởng vềnghệthuật của Mác, Ăngghen,