Operon Lac và điều hoà

dương tính

Khi trong môi trường vừa có đường

lactôzơ vừa có đường glucôzơ, thì

opêron Lac cũng không thể hoạt động

được vì tế bào ưu tiên sử dụng đường

glucôzơ trước theo kiểu ' hết nạc mới'

vạc đến xương" vì việc phân giải

glucôzơ ít tốn kém năng lượng hơn.

Vậy làm thế nào tế bào thực hiện

được điều này ?

Khi tế bào phân giải đường glucôzơ

thì chính sản phẩm của quá trình dị

hoá đường này ức chế opêron Lac

làm cho nó không thể hoạt động được.

Sản phẩm của quá trình phân giải

đường glucôzơ tác động trực tiếp làm

thay đổi nồng độ chất AMP vòng (viết

tắt theo tiếng Anh là cAMP). Khi nồng

độ glucôzơ trong tế bào tăng thì nồng

độ AMP trong tế bào giảm và ngược

lại, khi glucôzơ trong tế, bào bị phân

giải thì nồng độ CAMP trong tế bào lại

cao. Nồng độ CAMP cao trong tế bào

là cần thiết để hoạt hoá opêron Lac.

cAMP giúp hoạt hoá opêron Lac bằng

cách nó liên kết với một chất được gọi

là prôtêin hoạt hoá sản phẩm dị hoá

(CAP) làm cho cấu hình của CAP

được biến đổi và do đó có thể liên kết

được với promoter. Phức hợp cAMP-

CAP liên kết với một vùng đặc hiệu

trên phía đầu promoter của opêron

Lac và nhờ đó làm tăng ái lực của

enzim ARN pôlimeraza với promoter

(liên kết với promoter thường xuyên

hơn) và quá trình phiên mã được tăng

cường. Vì vậy, CAP chính là một loại

chất hoạt hoá gen (hoạt hoá phiên

mã).

Khi nồng độ gluôzơ trong môi trường

tăng lên thì nồng độ cAMP trong tế

bào iảm đi và khi không có cAMP lên

kết với CAP thì nó không thể liên kết

được với promoter của opêron Lac và

ơpêron này không thể phiên mã được

hoặc phiên mã rất ít, Như vây có thể

nói ơpêron Lac vừa chịu sự điều hoà

âm tính vừa chịu sự điều hoà dương

tính. Opêron Lac chỉ có thể hoạt động

khi prôtêin ức chế bị bất hoạt không có

khả năng liên kết được với operator

tuy nhiên điều này là chưa đủ vì nếu

không có CAP liên kết với promoter thì

tốc độ phiên mã xảy ra rất thấp.

Tốc độ phiên mã chỉ được tăng cường

tới mức cần thiết khi prôtêin hoạt hoá

liên kết được với promoter. Ta có thể

ví prôtêin ức chế khi bị bất hoạt giống

như ta bật nút (on/off) chiếc đài radio

còn prôtêin hoạt hoá khi liên kết với

promoter giống như khi ta vặn tăng nút

âm thanh choài (nút volume)