VĂN MẪU LỚP 11
PHÂN TÍCH BÀI THƠ BÀI CA NGẤT NGƯỞNG CỦA NGUYỄN
CÔNG TRỨ
BÀI MẪU SỐ 1:
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1859) là một ông quan lớn văn võ toàn tài dưới triều
Nguyễn. Nhắc đến ông người ta nhớ đến công lao khai khẩn đất hoang, lấn biển, lập nên
hai xã Kim Sơn (Ninh Bình) và Tiền Hải (Thái Bình). Người ta cũng không quên một nhà
thơ với những vần thơ đầy khẩu khí của một bậc chính nhân quân tử về chí nam nhi
phụng sự đất nước, về cái tôi ngất ngưởng của một con người hiểu rõ về mình, về xã hội
mà mình đang sống. Nếu như Chí anh hùng tràn đầy khí phách của người tuổi trẻ, thì Bài
ca ngất ngưởng, được viết lúc ông đã thành danh, là bài thơ tổng kết về cuộc đời và
khẳng định cái tôi (bản ngã) của cụ Thượng Trứ.
Để làm rõ được cái tôi ngất ngưởng của mình, nhà thơ đã chọn thể hát nói bằng
chữ Nôm – một thể thơ tài tử của dân tộc tương đối tự do, viết ra không phải để đọc mà
để ngâm nga, hát xướng. Người thể hiện có thể theo đà cảm xúc mà luyến láy cho phù
hợp. Bài thơ vì vậy mà đầy âm sắc, nhạc điệu.
Nếu tính cả nhan đề, bài thơ có đến năm lần dùng từ “ngất ngưởng”, được đặt ở
cuối mỗi đoạn như nốt nhấn của bài ca. Đây là cái dáng vẻ của một tinh thần ngạo nghễ,
tự coi mình, hơn người, trên thiên hạ. Đây cũng là tư thế chung của toàn bài.
Mở bài ta bắt gặp sự khác đời trong cách tự giới thiệu về mình:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự.
Câu thơ chữ Hán tạm dịch là: Phàm những việc trong trời đất này không có việc gì
không phải là phận sự của ta – Tiếp theo tác giả dùng một loạt từ Hán – Việt cùng thủ
pháp liệt kê, kể cụ thể những chức tước danh phận của mình: Khi Thủ khoa, khi Tham
tán, khi Tổng đốc Đông…/ Lúc bình Tây, cờ đại tướng/ Có khi về Phủ doãn Thừa
Thiên… Nhịp thơ trầm bổng nhấn nhá của lối ca trù nghe thật êm đềm nhẹ nhàng như
mặt sông mùa xuân. Một sự khẳng định tài năng kiệt xuất của mình thật khéo mà cũng
thật kiêu ngạo khác đời. Nguyễn Công Trứ dám nói thẳng không hề né tránh. Ngay cả
cách đưa biệt hiệu “ông Hi Văn” vào bài cũng chẳng giống ai. Hi Văn – chữ Hán có
nghĩa là nhà văn hiếm. Tự gọi mình một cách trang trọng là ông và nhận mình như vậy
thì chỉ có ông. Nguvễn Công Trứ đã phá vỡ tính phi ngã của thi pháp trung đại, không
chịu ép mình vào cái ta chung của cộng đồng, xã hội. (Ở câu cuối ta thấy ông còn tự tách
mình ra, đối lập mình với cả tầng lớp phong kiến). Tất nhiên ông có cái thế của một bậc
đại nhân quân tử để viết như vậy. Nhưng nói được như ông ở thơ văn trung đại không
nhiều. Nếu có chăng, trước đó có Nguyễn Trãi với một tình yêu lãng mạn ở Cây chuối,
Phạm Thái đau đớn xót xa đến tuyệt vọng trước cái chết của người yêu trong Văn tế
Trương Quỳnh Như. Gần nhất có cách xưng danh khắng định mình của Hồ Xuân Hương
(Này của Xuân Hương mới quệt rồi – Mời trầu), hay Nguyễn Du (Thiên hạ ai người khóc
Tố Như – Độc Tiểu Thanh kí). Các nhà văn ấy vẫn còn nhún nhường, khép nép hoặc còn
bóng gió, chung chung.
Cái ngất ngưởng còn ở lối sống, cách sống khác đời. Nguyễn Công Trứ là người
biết sống. Khi trai trẻ, hoạt động hăng hái hết mình theo quan niệm nhập thế hành đạo
tích cực của nho gia, Trở về già thì sống nhàn hạ hưởng lạc. Một trong những thú vui của
ông là nghe hát ả đào (còn gọi là ca trù). Người ta lên xe xuống ngựa xênh xang thì cụ
Thượng Trứ ngao du sơn thủy, thưởng lãm chùa chiền cùng các cô đầu bằng xe bò. Mà là
bò cái vàng với cái mo cau che sau đuôi. Cụ giải thích: Để che miệng thế gian:
Điển viên dạo chiếc xe bò cái
Sẵn chiếc mo che miệng thế gian
Sự ngông ngạo này chính ông đã nhận xét: Bụt cũng nực cười… Nguyễn Công
Trứ đã vượt ra khỏi lẽ sống được tầm thường ở đời:
Được mất dương dương người tái thượng
Khen che phơi phới ngọn đông phong
Khi cơ, khi tửu, khi cắc khi tùng
Không phật, không tiên, không vướng tục
Như trên đã nói, Nguyễn Công Trứ tự tách mình ra khỏi cái trật tự xã hội nhố
nhăng, ô uế, bẩn thỉu, nhiều kẻ vỗ ngực là quân tử nhưng thực chất chỉ là hạng cây vông:
Tuổi tác càng già càng xốp xáp/ Ruột gan không có, có gai chông (Vịnh cây vông).
Ngông ngạo nhưng ở hai bài này Nguyễn Công Trứ không rơi vào tình thế bi quan
bế tắc hay phá phách bất cần đời như một số nhà văn lãng mạn sau này. Mục đích sống
của ông rất rõ ràng: Phò vua giúp nước:
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Hay như có lần đối lại ý của một nhà sư ông hóm hỉnh nêu:
Hay tám vạn nghìn tư mặc kệ
Không quân thần phụ tử đếch nên người.
Nói khác đi, sự ngất ngưởng của ông ta là để nhằm lật tung cái trật tự xã hội phong
kiến đương thời tưởng như yên ả bằng phẳng nhưng thực chất thối nát, mục ruỗng đến
cùng cực. Ông không muốn mình bị “đồng hóa” cùng hội cùng thuyền với lũ tham quan
vô lại.
Vì vậy tiếng cười tự trào của Nguyễn Khuyến có ngạo nghễ nhưng không ngoa
ngôn, lộng ngữ, vừa cụ thể lại vừa có tính biểu tượng, vừa có chút trào phúng lại vừa
mang tính triết lý, thể hiện quan niệm sống của nhà thơ.
Thơ văn Nguyễn Công Trứ vốn phóng khoáng ngang tàng như bản chất con người
ông. Bài ca ngất ngưởng là một trong những bài thơ hay được nhiều người nhắc đến với
sự tán thưởng thích thú. Một phần bởi bài thơ giàu tính nhạc, nhưng phần lớn bởi bản lĩnh
vững vàng cứng cỏi của con người tài năng xuất chúng này. Nguyễn Công Trứ đã thổi
một luồng sinh khí mới lạ cho văn chương đương đại, đưa yếu tố cá nhân, cái tôi cần
được giãi bày vào trực tiếp trong văn chương. Đó cũng là một trong những bước đệm
quan trọng để văn học Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ XX có những bước chuyến mình
vượt bậc, bước qua cái ta, giải phóng yếu tố cá nhân, cho văn chương Việt Nam tiến kịp
nền thơ ca nói riêng và văn học nghệ thuật hiện đại thế giới nói chung.
BÀI MẪU SỐ 2:
Từ xa xưa đến nay, thơ trước hết là tấm gương phản chiếu tâm hồn và tình cảm
của chính nhà thơ. Không những thế, qua thơ người đọc còn thấy rất rõ cốt cách và phong
độ của mỗi thi nhân. Ai đó đã nói: Văn là người. Điều đó thật đúng với những nhà văn,
nhà thơ lớn. Ở họ văn với người là một, con người trong văn chương và con người ngoài
đời tuy không hẳn đồng nhất, nhưng rất thống nhất. Nguyễn Công Trứ thuộc những nhà
văn như thế. Cho nên, qua Bài ca ngất ngưởng ta có thể hình dung rất rõ chân dung một
Nguyễn Công Trứ tự họa.
Bao trùm lên toàn bộ bài ca là hình tượng một con người “ngất ngưởng”. Nhưng
đó không phải là cái ngất ngưởng của một người gàn dở, tự hợm mình và hợm đời, mà lài
cái ngất ngưởng của một con người đầy tự tin và đầy tự tin và đầy bản lĩnh. Con người ấy
ý thức rất rõ về tài năng và phẩm giá của chính mình. Cái ngất ngưởng của Nguyễn Công
Trứ không phải là kiểu sống ngất ngưởng thông thường mà là một lối sống độc đáo, một
vẻ đẹp ngang tàng, phóng túng của một tâm hồn lớn, một nhân cách lớn.
Chẳng thế mà ngay từ câu đầu của bài ca, Nguyễn Công Trứ đã coi: mọi việc
trong trời đất chẳng có việc nào không phải nhận sự của ông “Vũ trụ nội mạc phi phận
sự”. Câu thơ toàn là âm Hán, vang lên trang trọng, thiêng liêng, biểu lộ một thái độ đầy
tự tin, kiêu hãnh và một ý thức rất sâu sắc về trách nhiệm của chính mình. Không phải
ngẫu nhiên mà khi đọc thơ văn Nguyễn Công Trứ chúng ta thấy rất nhiều lần ông nhắc
tói “Chí nam nhi”, “Chí làm trai”, “Chí tang bồng”, “Phận sự làm trai”, “Nợ nam nhi”,
“Nợ tang bồng”… Phải chăng đó chính là lẽ sống nhập thế tích cực của một nhà nho chân
chính. Trong bài thơ này thái độ tự tin, kiêu hãnh ấy lại được thể hiện bằng một giọng
diệu “ngất ngưởng”, “ngang tàng”. Cứ xem cách xưng hô ở câu thơ thứ hai, Nguyễn
Công Trứ tự gọi mình là “Ông Hi Văn”, tự giới thiệu chính mình là người có tài lớn và
coi việc ra làm quan như “đã vào lồng”, ta cũng đủ thấy rõ thái độ người viết vừa như
trang nghiêm lại vừa như “u mua”, hài hước.
Thái độ ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ không phải chỉ lúc làm quan đương
chức “Khi Thủ khoa, khi Tham tá, khii Tổng đốc Đông”. Hoặc: “Lúc Bình Tây, cờ Đại
tướng; có khi về Phủ doãn Thừa Thiên” mà sau khi về hưu, không làm quan nữa, thái độ
ấy càng thêm đậm nét, tính cách “ngất ngưởng” càng thêm ổn định. Phải chăng khi đã
thoát ra khỏi chốn quan trường, khi đã “tháo cũi, sổ lồng”, không chịu một sự ràng buộc
nào nên ông càng trở nên “ngất ngưởng”. Ông ngất ngưởng trong cung cách sống. Một
cách sống có vẻ khác người, ngược đời: Người đời thường cưỡi ngựa, Nguyễn Công Trứ
cưỡi bò, đeo nhạc ngựa và thung dung trong tư thế:
“Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gói tiên theo đủng đỉnh một đôi dì
Bụt cũng bật cười ông ngất ngưởng”
Không chỉ mình cung cách sống, thái độ ngất ngưởng của ông còn thể hiện rất rõ
trong quan niệm được mất và sự lạc quan, bình thản trước cuộc đời:
“Được mất dương dương người Tái thượng
Khen chề phơi phới ngọn đông phong”.
Cũng giống như chuyện ông già biên ải mất ngựa (Tái ông thất mã), Nguyễn Công
Trứ quan niệm được mất là lẽ thường tình; ở đời may rủi hay sướng khổ đều như nhau, vì
thế không có gì phải vội vàng hốt hoảng. Cũng như khen chê là chuyện bình thường, có
gì mà phải bi quan sầu muộn, hãy phơi phới như ngọn đông phong; hãy “quảng gánh lo
đi mà vui sống” (Lâm Ngữ Đường).
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vương tục”.
Trong xã hội phong kiến, một xã hội đầy những khuôn mẫu, lễ nghi và nhiều luật
lệ hết sức chặt chẽ, hà khắc, quan niệm và cách sống ngất ngưởng, “ngông nghênh” kiểu
Nguyễn Công Trứ như trên quả là một sự thách thức, một sự “chòng ghẹo” cuộc đời.
Thực ra thái độ và cách sống ấy của ông được bắt nguồn từ một bản lĩnh và một ý thức
muốn khẳng định cái cá nhân độc đáo của mình. Dường như ông muốn chống lại sự vùi
dập và bóp nghẹt cái tôi cá nhân của xã hội phong kiến thời bấy giờ. Mặt khác, quan
niệm và cách sống ấy cũng bắt nguồn từ sự tự ý thức rất rõ về tài năng và phẩm giá của
chính bản thân mình. Chẳng thế mà ông tự ví mình với bao danh tướng từ đời Hán đến
đời Tống của Trung Hoa: “Chẳng Thái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú”. Chẳng thế mà
ông đau đáu một tấm lòng trước sau thủy chung như nhất: “Nghĩa vua tôi cho trọn vẹn sơ
chung”. Câu thơ rưng rưng một niềm cảm động và vang lên như một lời thề son sắt. Sinh
ra và lớn lên vào buổi giao thời cuối Lê đầu Nguyễn, ông đỗ đạt và làm quan vào thời kỳ
mà nhà Nguyễn mới thống nhất đất nước, chấm dứt nội chiến, củng cố quân quyền và
phục hưng nho học. Hoàn cảnh lịch sử ấy là cơ sở tinh thần cho cả một tầng lớp nho sĩ
đang hăm hở bước vào một triều đại mới với một lẽ sống mới, cố gắng vươn lên trong
một vận hội mới để khẳng định mình. Chính Nguyễn Công Trứ từng tự nhủ:
“Đã sinh ra ở trong trời đất
Phải có danh gì với núi sông”
Ông tâm niệm và đã làm được hơn thế. Tên tuổi của ông đã được non sông ghi
nhận. Hình bóng và phong cách của Nguyễn Công Trứ vẫn còn in đậm trong mỗi trang
thơ của chính ông.
Kết thúc bài ca, Nguyễn Công Trứ viết: “Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”.
Câu thơ buông lấp lửng: vừa như hỏi vừa như khẳng định; vừa như tự hào, ngợi ca, vừa
tự giễu mình một cách thấm thìa; vừa như là lời tự bạch của ông, lại vừa như một nhận
xét bình giá của người đời… Đúng như câu thơ và cả bài thơ cũng “ngất ngưởng” như
ông vậy. Cái vẻ đẹp ngất ngưởng từ bài ca và cuộc đời Nguyễn Công Trứ đã trở thành
một cách sống, một mẫu hình in đậm trong hàng loạt nhà nho tài tử sau này. Ta như còn
gặp lại hình bóng và cốt cách ấy của ông ở một Tú Xương, một Tản Đà – Nguyễn Khắc
Hiếu và phần nào ở nhà văn Nguyễn Tuân ngày nay.
BÀI MẪU SỐ 3:
Nguyễn Công Trứ, cái tên thật sự quen thuộc và gần gũi mà từ xưa đến nay vẫn
được bao người dân Việt Nam nhắc đến như một sự biết ơn trân trọng về công lao khai
phá ra hai vùng đất trù phú: Tiền Hải (Thái Bình) và Kim Sơn
(Ninh Bình). Song không vì thế mà ta có thể quên đi một Nguyễn Công Trứ, nghệ
sĩ tài hoa, một nhân cách đã khẳng định được cái bản ngã của chính mình, để từ đó định
hình nên một tính cách, một bản lĩnh trong cuộc sống và sáng tạo nghệ thuật. Bài ca ngất
ngưởng của Nguyễn Cõng Trứ sẽ cho ta thấy rõ cái bản lĩnh riêng không thể trộn lẫn ấy
của ông.
Theo Từ điển Tiếng Việt, ngất ngưởng được hiểu là ở thế không vững lắc lư,
nghiêng ngả như chực ngã. Tuy nhiên hai chữ ngất ngưởng trong bài thơ này của Nguyễn
Công Trứ cần được hiểu theo một cách khác, ở đây ngất ngưởng cần hiểu gắn với một
cách sống, một thái độ sống. Có như vậy ta mới có thể hiểu được về con người Nguyễn
Công Trứ - một con người có lối sống khác người, bất chấp mọi thế lực ở đời, một lối
sống được khắng định bằng chính tài năng và bản ngã.
Toàn bộ bài thơ không chỉ là sự cắt nghĩa lí giải về cái sự ngất ngưởng của chính
mình, mà nó còn được xem như là một lời tự thuật về cuộc đời, là niềm tự hào về tài
năng, công danh, đồng thời cho ta thấy một phong cách lối sống tài tử phóng khoáng của
Nguyễn Công Trứ.
Mở đầu bài thơ là lời khẳng định về quan niệm sống của một đấng làm trai:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự.
(Mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta).
Câu thơ vang lên chắc nịch, khẳng định một cách mạnh mẽ và tự hào về quan
niệm làm trai của Nguyễn Công Trứ. Đây là một quan niệm cho thấy Nguyễn Công Trứ
luôn luôn ý thức được về bản thân mình, đồng thời luôn xác định được vị trí của mình
trong cuộc đời. Điều này có được từ một kẻ sĩ có tài năng. Tuyên ngôn này của Nguyễn
Công Trứ đã được khẳng định như một chân lí và trở đi trở lại như một mệnh đề quen
thuộc trong thơ ông.
Vũ trụ giai ngô phận sự
(Những việc trong vũ trụ đều thuộc phận sự của ta - Nợ tang bồng).
Hay trong bài Gánh trung hiếu, Nguyễn Công trứ cũng đã khẳng định:
Vũ trụ chức phận nộ
(Việc trong vũ trụ là chức phận của ta)
Nói như vặy để ta khẳng định rằng Nguvền Công Trứ luôn luôn xác định cho mình
một quan niệm sống tích cực, đồng thời càng cho thấy rõ sự tự ý thức về bản thân của
chính tác giả.
Chính vì luôn luôn có ý thức về vị trí của chính mình trong trời đất mà Nguyễn
Công Trứ không ngại ngùng khẳng định tài năng về chí làm trai, tác giả lần lượt chứng
minh cho người đọc thấy được tài năng và bản ngã của chính mình:
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Nguyễn Công Trứ đã tự xưng danh, đồng thời khẳng định tài bộ (tài năng lớn,
nhiều mặt) của mình. Và trên thực tế với những thực danh: Thủ khoa, tham tán, Tổng đốc
Đông đã chứng minh cho tài năng lớn của Nguyễn Công Trứ. Câu thơ được ngắt nhịp
ngắn đều, chậm rãi cùng với việc sử dụng điệp từ khi tạo nên một lối nói khẳng định đầy
sự tự hào.
Tuy nhiên hiện lên trong bài thơ không chỉ là một Nguyễn Công Trứ tài năng, mà
còn là một Nguyễn Công Trứ có tài kinh bang tế thế:
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Như vậy đến đây chúng ta có đầy đủ cơ sở để khẳng định một con người có tài
năng thực sự và luôn luôn ý thức được về tài năng của chính bản thân mình. Đây cũng
chính là sự khẳng định bản ngã của Nguyễn Công Trứ, là một phần trong phẩm chất mà
ông tự hào gọi là tay ngất ngưởng. Để từ đó ta có thể hiểu ngất ngưởng theo một nghĩa
tích cực, trong đó có sự khẳng định bản ngã của chính mình.
Một Nguyễn Công Trứ có tài, có thực danh như vậy, ấy mà khi trờ về đời thường
lại là một tay ngạo nghễ giễu đời:
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Cho nên ông không ngại ngùng bày tỏ một cách sống thật khác người, khác đời:
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đinh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Là một nhà nho, từng là một danh tướng, từng xông pha trận mạc ấy vậy mà lại
sống cuộc sống bình dị nên dạng từ bi. Tuy nhiên cái lối sống ấy của Nguyễn Công Trứ
lại chẳng bình thường một chút nào: đi vãng cảnh chùa mà: gót tiên theo đủng đỉnh một
đôi dì phải chăng ông đang bất chấp cuộc sống, đang giễu cợt sự đời, có lẽ hiểu biết như
vậy còn phiến diện. Bởi sinh thời Nguyễn Công Trứ là một người biết chơi theo quan
niệm sống hết mình và chơi cũng hết mình. Trong trần hoàn mấy mặt làng chơi... Biết
mùi chơi chưa dễ mấy người hay ông từng tuyên bố Nếu không chơi thiệt ấy ai bù... Vậy
cũng có thể hiểu đây là một lối sống phóng túng, không chịu gò bó. Câu thơ được
Nguyễn Công Trứ miêu tả bằng nụ cười hóm hỉnh, nhiều tự hào của tác giả, phải chăng là
cười cho sự khen chê cùa thiên hạ, có lẽ là cả hai điều đó, bởi một điều thật đơn giản.
Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Với Nguyễn Công Trứ một khi đã thoát khỏi vòng danh lợi thì những chuyện được
mất, khen chê ở đời xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông thổi qua mà thôi. Điều này chỉ
có được khi người ta có bản lĩnh tự tin về tài năng của mình. Đó cũng chính là cái ngất
ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong đó chứa đựng hạt nhân của phong cách sống phóng
túng, hiếm thấy của ông. Chính vì vậy mà ông có được cuộc sống thanh cao vui vẻ:
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Câu thơ được ngắt nhịp hai, kết hợp với lối diễn đạt trùng điệp tạo cho câu thơ
chậm rãi, qua đó lột tả được phong thái ung dung yêu đời, thanh cao của nhà nho Nguyễn
Công Trứ.
Thái độ sống như vậy của ông có được từ con người luôn tự tin vào bản thân
mình, luôn ý thức được bản ngã của chính mình.
Sự phô bày bản ngã được bộc lộ rõ nét một cách cực độ ở khổ thơ cuối:
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo xơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Nguyễn Công Trứ đã tự khẳng định mình là con người trung thần, làm tròn đạo
vua tôi, điều này góp phần khẳng định thêm quan niệm về chí làm trai của tác giả ở đầu
bài thơ. Bằng lối so sánh với những bậc anh hùng như Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật... của
đời Hán, Tống bên Trung Quốc. Tác giả đã khẳng định tài năng và công lao của mình
một cách đĩnh đạc hào hùng. Cùng có thể xem đó là những lời nói đầy tự hào về bản thân
của chính tác giả. Để từ đó Nguyễn Công Trứ ngạo nghễ tuyên bố:
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Như vậy đến đây hẳn chúng ta đã hiểu cái ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ. Đó
chẳng phải là cái gì khác mà chính là thái độ, cách sống của một nhà nho tài tử. Nguyễn
Công Trứ có được điều đó xuất phát từ tài năng, thực danh, từ sự làm tròn bổn phận. Vậy
cái ngất ngưởng của ông không phải tiêu cực mà sự khẳng định bản ngã của mình, là bản
lĩnh dám sống ở đời, và một phong cách sống tài hoa tài tử.
Cùng với những bài thơ khác như Đi thi tự vịnh, Chí làm trai, Nợ tang bồng, Gánh
trung hiếu... Bài thơ Bài ca ngất ngưởng đã một lần nữa vẽ rõ nét chân dung của nhà thơ.
Đây chính là phong cách sống, phong cách nghệ thuật của con người và của thơ Nguyễn
Công Trứ.
BÀI MẪU SỐ 4:
Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) xuất thân dòng dõi Nho gia, quê ở làng Uy Viễn,
huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Nhìn vào cuộc đời Nguyễn Công Trứ, chúng ta sẽ thấy
rõ hai nét thấm nhuần đến tận chân tơ kẽ tóc đạo trung hiếu quân thần và ý thức rất rõ vể
tài đức của mình. Điều đáng quý là ông đem hết tài đức cống hiến cho nước, cho dân trên
nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, từ văn hoá đến kinh tế, quân sự và đã làm nên sự nghiệp,
danh tiếng để đời. Chí hướng, nhiệt huyết ấy đương thời ít người sánh kịp. Tuy nhiên,
con đường làm quan của Nguyễn Công Trứ không bằng phẳng mà thăng giáng thất
thường, bởi cá tính mạnh mẽ và phong cách ngất ngưởng của ông vượt khỏi khuôn khổ
chật hẹp của lễ giáo phong kiến.
Bất ngờ thú vị là ông quan lớn có tài kinh bảng tế thế như vậy mà lại có thêm tài
văn chương, tâm hồn nghệ sĩ và cốt cách tài tử phong lưu, biết sống và dám sống. Sau khi
cống hiến hết mình cho dân cho nước và công việc đã hoàn thành tốt đẹp thì Nguyễn
Công Trứ thường tự thưởng bằng những thú chơi thanh nhã: Nợ tang bồng trang trắng vỗ
tay reo… Thảnh thơi thơ túi rượu bầu, hoặc thả hồn mơ màng theo tiếng địch, tiếng đàn
du dương, trầm bổng.
Có thể coi Bài ca ngất ngưởng là bản tự thuật ngắn gọn có ý nghĩa tổng kết cuộc
đời và tính cách của Uy Viễn tướng công. Nguyễn Công Trứ đã phô trương thái độ ngang
tàng, một lối sống chân thật, dám khẳng định bản lĩnh cá nhân vượt ra ngoài khuôn khổ
Nho giáo. Cảm xúc phóng túng được tác giả gửi vào thể ca trù có hình thức tương đối tự
do, vừa là thơ vừa là ca, là nhạc:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự,
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nôn dạng từ bì.
Gót tiên theo đừng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông Ị
Tình thần của bài thơ toát lên thái độ ngất ngưởng. Thái độ ấy không chi thể hiện
ở tựa đề mà còn ở bốn lần tác giả nhắc lại tính từ ngất ngưởng như một sự trùng lặp cố ý,
tạo thành điệp khúc đúng vào chỗ đúc kết ý trên và mở ra ý dưới.
Theo Từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học (2003), từ ngất ngưởng đồng
nghĩa với từ ngất nghểu, được dùng để chi người ở tư thế trên cao không vững vàng, lắc
lư nghiêng ngả như chực ngã. Trong Bài ca ngất ngưởng, Nguyễn Công Trứ không dừng
từ ngất ngưởng theo nghĩa này mà lồng vào đó một thái độ, một quan niệm sống khác
người. Tất nhiên, muốn ngất ngưởng được như ông phải có bản lĩnh cứng cội, có lòng tin
tuyệt đối vào bản thân và biết coi rẻ sự được mất, khen chê của thế gian theo thói thường.
Những chức vụ Nguyễn Công Trứ đã trải qua và cung cách hành xử mà ông đã thể hiện
dù khi tại chức hay khi đã về hưu được kể tới trong bài thơ này đều cho thấy ông quả là
một tay ngất ngưởng hiếm có. Hơn thế, ngay cách kể về sự ngất ngưởng cũng góp phần
tô đậm tính cách ngất ngưởng của ông.
Phong thái ngất ngưởng khác người ấy của Nguyễn Công Trứ vốn có từ trước, kể
cả trong thời gian làm quan, hằng ngày ra vào nơi triều chính, nhưng nó bộc phát mạnh
mẽ và không cần giấu giếm từ sau khi Đô môn giải tổ chi niên (trả lại ấn tín, vua cho nghĩ
hưu, trở về cuộc sống đời thường). Bởi vì thái độ ngất ngưởng như thế không được phép
diễn ra trước mắt các ông vua chuyện chế của triều đình nhà Nguyễn.
Mở đầu bài thơ, tác giả viết: Vũ trụ nội,mạc phi phận sự, có nghĩa ỉà mọi việc
trong vũ trụ, chẳng có việc nào mà không phải là phận sự của ta. Cách nói phủ định để
khẳng định ấy đề cao tâm thế của một nhà Nho chân chính.
Tác giả đặt mình ngang tầm vũ trụ nhưng rồi lại làm ra vẻ khiêm tốn tự nhận: Ông
Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Làm quan, ông coi là đã vào lồng, tức là vào khuôn phép nghiêm ngặt, tù túng của
Tam cương, Ngũ thường. Mà như thế ỉà mất tự do, là trái với tài đội trời đạp đất của ông.
Biết vậy nhưng ông vẫn tham gia triều chính vì đó là phương tiện để ông thể hiện tài
năng và hoài bão của minh.
Gách xưng hô trong bài thơ có nét độc đáo. Mới đọc qua ta sẽ tưởng rằng tác giả
không phải là Nguyễn Công Trứ vì các đại từ thuộc ngôi thứ ba (ông, tay) được dùng
thay cho đại từ ngôi thứ nhất (tôi, ta). Qua đó, nhà thd chứng tỏ rằng mình là một giá trị
hỉển nhiên giữa đời, không thể phủ nhận.
Nguyễn Công Trứ vừa mới để cao vai trò bản thân trong Vũ trụ ở câu thứ nhất thì
ngay câu thứ hai đã tự trách mình là đem cái tài bộ ấy nhốt vào lổng: Tuy thế, ông không
giấu sự khoan khoái, tự hào khi nhắc tới những mốc son của đời mình, dù mỗi sự kiện chĩ
được nhắc bằng vài chữ như dửng dưng, không có gì là quan trọng:
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông…
Lúc binh Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Nếu theo đúng lời ông kể trong bài thơ thì ông không chỉ làm quan mà còn làm
quan to, không bị giáng chức như trong cuộc đời thực mà còn luôn luôn thăng tiến. Năm
1819, ông đỗ Giải nguyên kì thi Hương; năm 1833 làm Tham tán quân vụ; năm 1835 làm
Tổng đốc hai tỉnh Hải Dương và Quảng Yên; năm 1841 thăng Tham tán đại thần chỉ huy
quân sự ở vùng Tây Nam Bộ; năm 1848 chính thức làm Phủ doãn Thừa Thiên. Con
đường công danh thênh thênh rộng mở cho đến khi ông được vua cho phép giải tổ chi
niên.
Nhắc đến những sự kiện lớn lao hiển hách trong đời mình mà giọng kể của ông
nghe như bỡn cợt, đùa chơi. Đỗ Thủ khoa (đỗ đầu cử nhân khoa thi Hương trường Nghệ
An), làm Tham tán quân sự…, những chức vụ ấy nổi sơ qua cũng được, nhưng làm đến
Tổng đốc Hải An (Hải Dương và Quảng Yên), một chức quan to đứng đầu mấy tĩnh, hay
lĩnh chức đại tướng bình Tây (xứ Tây Nam nước ta) mà chỉ gọi cộc lốc là khi Tổng đốc
Đông và bình Tây cờ đại tướng thì quả thật Nguyễn Công Trứ không coi những chức
tước ấy là điều vẻ vang đối với mình. Tất cả chỉ là phận sự của đấng nam nhi đứng trong
vũ trụ, đốn tay mình thì làm, cái cốt yếu là đã làm thì phải hết lồng hết sức. Nguyễn Công
Trứ từng nói một câu nổi tiếng: Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng
không coi là nhục. Câu tổng kết sự nghiệp: Gồm thao lược đả nên tay ngất ngưởng khẳng
định đối với công danh, dù là Tổng đốc, dù là đại tướng, ông cũng coi nhẹ tênh, chẳng có
gì quan trọng.
Đó là biểu hiện thứ nhất của thái độ ngất ngưởng.
Tiếp theo là một hành động ngất ngưởng xưa nay chưa từng có: Thường thường,
các bậc quan lại giàu sang đi đâu thì cưỡi ngựa, còn Nguyễn Công Trứ lại cưỡi bò vàng
và còn cho bò vàng đeo đạc ngựa:
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Người đời bảo ông ngông nghênh, lập dị. Có kẻ lại cho là ông cao ngạo đặt mình
lên trên dư luận. Xét ra có thể còn hơn thế: ông cho bò vàng đeo đạc ngựa cũng là một
cách chơi ngông. Hơn nữa, hành động ấy xảy ra ngay sau khi ông về hưu. Vừa nêu rõ
thời điểm: Đô môn giải tổ chi niên (giải tổ có nghĩa là cởi dây đeo ấn), thì lại cho ngay bò
vàng mình cưỡi đeo đạc ngựa để nó cũng ngất ngưởng như mình. Nếu ai suy diễn điều
này thì chắc không khỏi cho rằng hành vi của Nguyễn Công Trứ là xấc xược, phạm
thượng. Đó là biểu hiện thứ hai của thái độ ngất ngưởng.
Biểu hiện thứ ba là Nguyễn Công Trứ ngất ngưởng cả với Bụt:
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Lên thăm chùa ở trên núi mây phủ trắng phau, ông tự cười nhạo mình là Tay kiếm
cung mà nên dạng từ bi. Kì thực đó chi là cái dạng thôi (vẻ bên ngoài), bởi theo hầu ông
còn có một đoàn gót sen “tiên nữ” đủng đỉnh một đồi dì là các cô ả đào. Không những
chẳng nên dạng từ bi chút nào mà còn bất kính nữa. Tuy vậy, ông vẫn rất tự nhiên, khiến
Bụt chẳng nỡ chau mày quở trách mà còn nực cười độ lượng trước ông quan thượng già
tính khí khác người.
Đến chùa, ông không lễ Phật mà bày tiệc hát ca, có cả ả đào, đàn địch, trống phách
hẳn hoi. Ông say mê thưởng thức một bữa tiệc rộn rã đàn ca và cảm thấy mình đã trút
sạch tục lụy của cõi đời, tâm hồn lâng lâng bay bổng trên chín tầng mây, phơi phới luồng
ấm mát của gió xuân:
Dược mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Cá tính thượng thư bốc lên hết cỡ trong roi chầu tài hoa của Nguyễn Công Trứ.
Bây giờ thì mọi sự đời: cái được, cái mất, tiếng khen, tiếng chê… ông đều coi là cỏ rác.
Hồn ông lâng lâng trên cõi gió mây trong lành, cao khiết. Lời thơ vút lên hào hứng: Được
mất/dương dương /người thái thượng, Khen chê /phơi phới / ngọn đông phong.
Tâm hồn Nguyễn Công Trứ bay bổng trên cao, trong âm điệu rộn rã của giọng ca,
tiếng đàn tiếng trống. Câu thơ: Khi ca / khi tửu / khi cắc / khi tùng ngoài ý nghĩa liệt kê
còn thêm sắc thái biểu cảm rõ nét, diễn tả tài tình tư thế ngả nghiêng thoải mái của Uy
Viễn tướng công trong cuộc chơi tưởng chừng bất tận. Dù cuộc vui bày ra ngay nơi cửa
Phật và có cả một đôi dì tham dự nhưng Nguyễn Công Trứ vẫn cảm thấy mình trong
sạch, thanh cao: Không Phật t không Tiên / không vướng tục.
Đây là đoạn mà ý thơ rõ nhất và cũng là đoạn hay nhất của bài thơ. Nếu như hai
câu trước trải dài, nhịp điệu thênh thênh, thanh thoát như tấm lòng không còn vướng chút
bụi trần thì hai câu sau là nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng, rồi dồn
lên, dồn lên rối rít và chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc đục {tục). Chấm dứt câu thơ
mà cũng là nện mạnh dùi xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khẳng định cái tài
tình, cái khoáng đạt của tâm hồn mình, khí phách mình.
Nguyễn Công Trứ ngông nghênh tự đặt mình ngang hàng với những nhân vật lỗi
lạc ngày xưa (Trái Tuân thời Hán và ba ngưội thời Tống: Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật –
những danh tướng có sự nghiệp hiển hách). Kết cấu câu: Chẳng Trái, Nhạc cũng vào
phường Hàn, Phú thể hiện rõ ràng thái độ đó. Riêng mấy câu thơ ấy cũng đủ bộc lộ cốt
cách và tâm tính cao ngạo của Uy Viễn tướng công, giúp người đọc hiểu được phần nào
thái độ ngất ngưởng và Bài ca ngât ngưởng của ông.
Kết thúc bài thơ phóng khoáng, bay bổng này, Nguyễn Công Trứ không quên
nhắc tại điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung, mặc dù câu đó chĩ được đặt giữa một
câu tự đánh giá rất cao về bản thân và một câu như muốn thách thức với cả triều đình nhà
Nguyễn:
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Điều đáng nói là tuy tôn trọng ý thích bản thân nhưng Nguyễn Công Trứ không sa
vào thái độ hư vô chủ nghĩa. Trước sau ông vẫn là một nhà Nho coi trọng tư tưởng hành
đạo, có tinh thần nhập thế tích cực và luôn tâm niệm: Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ
chung, ông sống và làm việc hết mình, đồng thời biết thưởng thức, nếm trải những thú
vui ở trên đời. Mọi hành động của Nguyễn Công Trứ đều toát ra tinh thần tự do, phóng
khoáng.
Thái độ ngất ngưởng bất cần mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm điệu hoàn
toàn thích hợp: câu ngắn, câu dài tùy ý, vần liền từng cặp xen lẫn thanh bằng, thanh trắc
đều đặn, niêm luật tự đo, đối không bắt buộc. Âm điệu được chi phối bởi trạng thái tâm
hồn nhà thơ : lúc cười cợt, lúc tự hào, sảng khoái. Cách nói nôm na kiểu khẩu ngữ đã
đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp sinh động lạ thường.
Giọng điệu Bài ca ngất ngưởng thể hiện nét độc đáo trong tính cách tác giả: tự
hào gần như tự phụ, thậm chí ồn ào. Có hai điều Nguyễn Công Trứ không hề che giấu là
công tích lớn lao mà ông coi như chuyện thường tình, còn thú chơi ngông thì lại đề cao
tột bực.
BÀI MẪU SỐ 5:
Nguyễn Công Trứ xuất thân trong một dòng dõi Nho giáo. Ông làm quan dưới
triều Nguyễn. Là người văn võ song toàn, có đạo hiếu quân thần, một con người ý thức rõ
về tài đức của mình. ông là người có công khai khẩn đất hoang, lấn biển, lập nên hai xã
Kim Sơn – Ninh Bình và Tiền Hải – Thái Bình. Điều đáng quý ở là ông đem hết tài đức
cống hiến cho nước, cho dân trên nhiều lĩnh vực hoạt động xã hội, từ văn hoá đến kinh tế,
quân sự và đã làm nên sự nghiệp, danh tiếng để đời. Chí hướng, nhiệt huyết ấy đương
thời ít người sánh kịp. Tuy nhiên, con đường làm quan của Nguyễn Công Trứ không
bằng phẳng mà thăng giáng thất thường, bởi cá tính mạnh mẽ và phong cách ngất ngưởng
của ông vượt khỏi khuôn khổ chật hẹp của lễ giáo phong kiến. Sau khi cống hiến hết
mình cho dân cho nước và công việc đã hoàn thành tốt đẹp thì Nguyễn Công Trứ thường
tự thưởng bằng những thú chơi thanh nhã: Nợ tang bồng trang trắng vỗ tay reo… Thảnh
thơi thơ túi rượu bầu, hoặc thả hồn mơ màng theo tiếng địch, tiếng đàn du dương, trầm
bổng. Người đời nhớ đné thơ ông với những vần thơ đầy khẩu khí của một bậc chính
nhân quân tử về chí nam nhi phụng sự đất nước, về cái tôi ngất ngưởng của một con
người hiểu rõ về mình, về xã hội mà mình đang sống. Nếu như Chí anh hùng tràn đầy khí
phách của người tuổi trẻ, thì Bài ca ngất ngưởng, được viết lúc ông đã thành danh, là bài
thơ tổng kết về cuộc đời và khẳng định cái tôi của cụ Thượng Trứ.
Bài ca ngất ngưởnglà bản tự thuật ngắn gọn có ý nghĩa tổng kết cuộc đời và tính
cách của Uy Viễn tướng công. Nguyễn Công Trứ đã phô trương thái độ ngang tàng, một
lối sống chân thật, dám khẳng định bản lĩnh cá nhân vượt ra ngoài khuôn khổ Nho giáo.
Cảm xúc phóng túng được tác giả gửi vào thể ca trù có hình thức tương đối tự do, vừa là
thơ vừa là ca, là nhạc:
Vũ trụ nội mạc phi phận sự.
(Mọi việc trong vũ trụ chẳng có việc nào không là phận sự của ta).
Câu thơ vang lên chắc nịch, khẳng định một cách mạnh mẽ và tự hào về quan
niệm làm trai của Nguyễn Công Trứ. Đây là một quan niệm cho thấy Nguyễn Công Trứ
luôn luôn ý thức được về bản thân mình, đồng thời luôn xác định được vị trí của mình
trong cuộc đời. Điều này có được từ một kẻ sĩ có tài năng. Tuyên ngôn này của Nguyễn
Công Trứ đã được khẳng định như một chân lí và trở đi trở lại như một mệnh đề quen
thuộc trong thơ ông.
Luôn ý thức được về vị trí của chính mình trong trời đất mà Nguyễn Công Trứ
không ngại ngùng khẳng định tài năng về chí làm trai, tác giả lần lượt chứng minh cho
người đọc thấy được tài năng và bản ngã của chính mình:
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Cách xưng hô trong bài thơ có nét độc đáo. Mới đọc qua người đọc sẽ nhầm tưởng
tác giả đang nói đến một người khác chứ không phải nói chính mình bởi ông sử dụng các
đại từ thuộc ngôi số ba. Cái nghệ thuật ấy của ông càng chứng tỏ được ông là người có
giá trị đó là điều hiển nhiên không thể phủ nhận. Nguyễn Công Trứ vừa đề cao vai trò
của bản thân ở những câu thơ đầu thì đến dòng thơ này ông tự trách mình đem cái tài bộ
ấy nhốt vào lồng. Bởi theo ông thì làm quan tức là đã vào lồng, là vào cái khuân phép tù
túng của Tam cương. Tuy là vậy nhưng ông vẫn không giấu sự khoan khoái, tự hào khi
nhắc tới những mốc son của đời mình, dù mỗi sự kiện chĩ được nhắc bằng vài chữ như
dửng dưng, không có gì là quan trọng. cuộc đời làm quan của ông hiển đạt vô cùng tất
thẩy đều là những quan to. Tuy ở ngoài đời thực thì ông có bị giáng chức xuống làm một
anh lính quèn. Tuy nhiên ông từng có một câu nói vô cùng nổi tiếng đó là : “Làm tổng
đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không coi là nhục”. vì thế cho nên dù làm ở
cấp nào đi chăng nữa đối với ông đều không quan trọng miễn sao ông được thỏa sức giúp
nước nhà.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đây là biểu hiện thứ nhất về thái độ ngất ngưởng của ông. Là sự khẳng định bản
ngã của Nguyễn Công Trứ, là một phần trong phẩm chất mà ông tự hào gọi là tay ngất
ngưởng. Để từ đó ta có thể hiểu ngất ngưởng theo một nghĩa tích cực, trong đó có sự
khẳng định bản ngã của chính mình. Ông không ngại ngùng bày tỏ cách sống khác người
khác đời của mình:
Đô môn giải tổ chi niên
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Người đời bảo ông ngông nghênh, lập dị. Có kẻ lại cho là ông cao ngạo đặt mình
lên trên dư luận. Xét ra có thể còn hơn thế: ông cho bò vàng đeo đạc ngựa cũng là một
cách chơi ngông. Hơn nữa, hành động ấy xảy ra ngay sau khi ông về hưu. Điều này
không tránh khỏi cái cách hiểu ông xấc xược, phạm thượng. Đây chính là biểu hiện ngất
ngưởng thứ hai của ông.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đinh một đôi dì
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Từng là một danh tướng xông pha trận mạc ấy vậy mà lại sống cuộc sống bình dị
nên dạng từ bi. Tuy nhiên cái lối sống ấy của Nguyễn Công Trứ lại chẳng bình thường
một chút nào. Lên thăm chùa ở trên núi mây phủ trắng phau, ông tự cười nhạo mình là
Tay kiếm cung, kì thực đó chỉ là cái vẻ bề ngoài, Không những chẳng nên dạng từ bi chút
nào mà còn bất kính nữa. Tuy vậy, ông vẫn rất tự nhiên, khiến Bụt chẳng nỡ chau mày
quở trách mà còn nực cười độ lượng trước ông quan thượng già tính khí khác người.
Đến chùa, ông không lễ Phật mà bày tiệc hát ca, có cả ả đào, đàn địch, trống phách
hẳn hoi. Ông say mê thưởng thức một bữa tiệc rộn rã đàn ca và cảm thấy mình đã trút
sạch tục lụy của cõi đời, tâm hồn lâng lâng bay bổng trên chín tầng mây, phơi phới luồng
ấm mát của gió xuân. Vậy cũng có thể hiểu đây là một lối sống phóng túng, không chịu
gò bó. Câu thơ được Nguyễn Công Trứ miêu tả bằng nụ cười hóm hỉnh, nhiều tự hào của
tác giả, phải chăng là cười cho sự khen chê cùa thiên hạ, có lẽ là cả hai điều đó, bởi một
điều thật đơn giản.
Được mất dương dương người thái thượng
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Với ông một khi đã thoát khỏi chốn khỏi trốn quan trường, thoát khỏi cái vòng
danh lợi thì chuyện được mất, khen chê ở đời ông xin bỏ ngoài tai, như ngọn gió đông
thổi qua mà thôi. Ông luôn khẳng định được sự tự tin về tài năng của mình. đó cũng là cái
ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong phong cách sống phóng túng hiếm thấy của
ông. Vì lẽ đó mà cuộc sống của ông luôn thanh cao, tự tại và vui vẻ.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Dù cuộc vui bày ra ngay nơi cửa Phật và có cả một đôi dì tham dự nhưng Nguyễn
Công Trứ vẫn cảm thấy mình trong sạch, thanh cao. Mấy ai được sống là chình mình còn
Nguyễn Công Trứ thì làm được điều đó. từ đây ông đắm mình trong thú vui tuổi già đó
là ca trù không vướng tục. Câu thơ với lối diễn đạt trùng điệp tạo sự chậm dãi và đã lột tả
được phong thái ung dung yêu đời, thanh cao của nhà nho Nguyễn Công Trứ.
Đây là đoạn mà ý thơ rõ nhất và cũng là đoạn hay nhất của bài thơ. Nếu như hai
câu trước trải dài, nhịp điệu thênh thênh, thanh thoát như tấm lòng không còn vướng chút
bụi trần thì hai câu sau là nhịp ca, nhịp trống, nhịp phách, nhịp rượu chúc mừng, rồi dồn
lên, dồn lên rối rít và chấm dứt ở một chữ mang thanh trắc đục. Chấm dứt câu thơ mà
cũng là nện mạnh dùi xuống mặt trống để tự thưởng, tự hào, tự khẳng định cái tài tình,
cái khoáng đạt của tâm hồn mình, khí phách mình.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo xơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Kêt thúc bài thơ ông không quên nhắc tới công lao mà mình đã đạt được trước khi
về hưu. Đó là nghĩa vua tôi cũng đã tròn đạo. Ông ca lên điệp khúc ngất ngưởng của
mình, ông sống và làm việc tận tụy hết mình nhưng đồng thời cũng có những thú vui
khác người. bài thơ phóng khoáng, bay bổng này, Nguyễn Công Trứ không quên nhắc tại
điệp khúc nhàm chán của đạo sơ chung, mặc dù câu đó chĩ được đặt giữa một câu tự đánh
giá rất cao về bản thân và một câu như muốn thách thức với cả triều đình nhà Nguyễn.
Điều đáng nói là tuy tôn trọng ý thích bản thân nhưng Nguyễn Công Trứ không sa vào
thái độ hư vô chủ nghĩa. Trước sau ông vẫn là một nhà Nho coi trọng tư tưởng hành đạo,
có tinh thần nhập thế tích cực và luôn tâm niệm: Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, ông
sống và làm việc hết mình, đồng thời biết thưởng thức, nếm trải những thú vui ở trên đời.
Mọi hành động của Nguyễn Công Trứ đều toát ra tinh thần tự do, phóng khoáng.
Thái độ ngất ngưởng bất cần mọi sự đã tìm được ở thể ca trù một âm điệu hoàn
toàn thích hợp: câu ngắn, câu dài tùy ý, vần liền từng cặp xen lẫn thanh bằng, thanh trắc
đều đặn, niêm luật tự đo, đối không bắt buộc. Âm điệu được chi phối bởi trạng thái tâm
hồn nhà thơ : lúc cười cợt, lúc tự hào, sảng khoái. Cách nói nôm na kiểu khẩu ngữ đã
đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp sinh động lạ thường.
Cùng với những bài thơ khác như Đi thi tự vịnh, Chí làm trai, Nợ tang bồng, Gánh
trung hiếu… Bài thơ Bài ca ngất ngưởng đã một lần nữa vẽ rõ nét chân dung của nhà thơ.
Đây chính là phong cách sống, phong cách nghệ thuật của con người và của thơ Nguyễn
Công Trứ.
BÀI MẪU SỐ 6:
Ngay lúc chưa có danh phận gì, Nguyễn Công Trứ đã từng tự hứa với mình : "Đã
mang tiếng ở trong trời đất - Phải có danh gì với núi sông" (Đi thi tự vịnh). Chưa có rồi
sẽ có, chỉ cần quyết tâm và nhất là cần tài năng, mà hai cái đó, Nguyễn Công Trứ thấy
mình có đủ. Được hậu thuẫn bởi những thành công trong sự nghiệp, cùng với thời gian,
niềm tự tin trong ông ngày càng được củng cố. Ống đã ngất ngưởng và thấy mình có
quyền ngất ngưởng - ngất ngưởng trong đời và cả trong thơ, ngất ngưởng từ lúc bạch diện
thư sinh, lúc hoạn hải ba đào cho tới tận lúc đã ra ngoài vòng cương toả. Đối với ông,
ngất ngưởng là một giá trị, một cách khẳng định giá trị.
Thật tự nhiên khi ông có hẳn một bài thơ nói về sự ngất ngưởng, đặt ngất ngưởng
lên bình diện ý thức, nghĩa là kể về nó, luận về nó một cách trực diện - ta đang nói về bài
thơ hát nói vào hàng xuất sắc nhất của Nguyễn Công Trứ : Bài ca ngất ngưởng ! Cho đến
nay, trong đời sống, từ ngất ngưởng đã được dùng, được hiểu theo các nghĩa chính :
1. Thế ngồi, thế tồn tại ở vị trí chênh vênh trên cao, lắc lư dễ ngã, dễ đổ.
2. Một cách sống, thái độ sống, một kiểu ứng xử có phần khác biệt, thậm chí thách
thức với các chuẩn mực thông thường vốn được người đời chấp nhân. Ở bài thơ của
Nguyễn Công Trứ, từ ngất ngưởng đã được dùng chủ yếu với nghĩa thứ hai, tức là nghĩa
chỉ định một phạm trù thuộc tinh thần. Qua bốn lần xuất hiện ở những cảu then chốt (câu
cuối của mỗi khổ) và ở vị trí then chốt của câu (từ cuối cùng - trừ câu thứ 19, do mô hình
vần của thể loại không cho phép), từ ngất ngưởng đã đảm nhiệm vai trò chính trong việc
làm nổi bật chủ đề của tác phẩm. Nhân vật trữ tình trong bài thơ gần như trùng khít với
tác giả. Hoàn toàn có thể xem đây là một bài thơ tự vịnh bởi suốt cả tác phẩm, nhà thơ
nói trực tiếp về mình, từ sự nghiệp có thể gọi là hiển hách đến cách sống chẳng giống ai
và thái độ tự tôn, tự tại rất mực (thơ tự vịnh yêu cầu tác giả phải cho người ta thấy được
một cách khái quát đặc điểm của bản thân người viết, khác với các loại thơ trữ tình khác
chỉ quan tâm bộc lộ cảm xúc, suy nghĩ của tác giả vé một vấn đề, đối tượng nào đó, còn
việc "vẽ" mình chỉ là hệ quả gián tiếp của tất cả những điều trên). Nhưng cách tự vịnh
của Nguyễn Công Trứ cũng độc đáo khác người. Tác giả đã dùng nhiều từ, cụm từ khác
nhau để gọi mình : ông, ông Hi Văn tài hộ, ông ngất ngưởng, tay ngất ngưởng (cũng có
thể kể thêm cụm từ phường Hàn, Phú).
Mới đọc qua, người đọc dễ tưởng có một ai đó đang nói về Nguyễn Công Trứ, bởi
những ông, những tay đã được dùng như các đại từ thuộc ngôi thứ ba. Ở đây nhà thơ đã
khách quan hoá bản thân, tách mình ra khói mình để xem xét mà không sợ "cái mình" ấy
bị "nhỏ" đi. Phải là một kẻ rất tự tin mới làm nổi điêu này. Nhà thơ ý thức rất rõ rằng
mình là một giá trị hiến nhiên giữa đời, không thể phủ nhận. Ông ngông nghênh đặt mình
ngang hàng với những nhân vật lỗi lạc ngày xưa. Kết cấu câu chẳng... cũng ("Chẳng Trái,
Nhạc cũng phường Hàn, Phú") thể hiện một thái độ tự đánh giá cao rất dứt khoát. Ta
tưởng như nghe ông nói : Cái tay Nguyễn Công Trứ ấy, cũng được đấy chứ nhỉ ! Bài ca
ngất ngưởng thuộc loại bài thơ hát nói đôi khổ gồm 19 câu. Đi vào khổ đầu tiên, ta đã
thấy hiện lên một con người ngang trời dọc đất : Vũ trụ nội mạc phi phận sự, Ong Hi Văn
tài bộ đã vào lồng. Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông, Gồm thao lược đã
nên tay ngất ngưởng. Câu thơ chữ Hán mở đầu toát lên giọng điệu trang trọng, rắn rỏi,
khẳng định mạnh mẽ lí tưởng nam nhi mà tác giả tự nguyện hướng theo : trong vòng trời
đất, không việc gì không phải là việc của mình. Dĩ nhiên, đây là lí tường chung của
những người được đào luyện trong môi trường Nho học và Nguyễn Công Trứ không có
phát triển gì thêm. Nhắc lại nó, chẳng qua nhà thơ muốn tái hiện trạng thái tràn trề nhiệt
huyết của mình buổi quyết định bước vào lồng. Âm vang trong câu thứ hai là một lời hứa
hẹn, một thách thức, với mình và với đời, rằng : Hãy chờ đó mà xem !
Về hai chữ vào lồng, có người cho rằng nó thấm vị chua chát, thể hiện sự ý thức
về tình trạng trói buộc, tù túng của chốn quan trường. Nhưng theo mạch thơ, lồng ở đây
trước hết là lồng phận sự. Đã nói đến phận sự là nói đến cái luật của nó mà người ta
không được phép quên. Đã chơi thì phải chấp nhận luật chơi - chấp nhận để vượt qua, và
cũng để thể hiện được cái tài, cái giỏi của mình. Thêm nữa, cứ cho lồng là sự trói buộc,
thì điều nhà thơ muốn nói ở đây hàm chứa niềm kiêu hãnh : dù vào lồng, ta vẫn cứ nên
tay ngất ngưởng, vẫn khẳng định được mình như thường, đâu phải hạng xoàng xĩnh vào
luồn ra cúi ! Nguyễn Công Trứ quả có "kiêu” khi tự nhận mình là người tài ba, tài trí (tủi
hộ) và tinh thông võ nghệ (gồm thao lược). Nhưng ông đã "kiêu" một cách hoàn toàn có
căn cứ. Trong nửa đầu khổ thứ hai, ông tiếp tục điểm qua những mốc đáng nhớ trên hoạn
lệ của mình : Lúc bình Tủy cờ đại tướng, Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên... Thủ khoa,
Tham tán, Tổng đốc, đại tướng, Phủ doãn, cái gì ông làm được cũng thuộc loại "nhất
bảng" ! Điệp từ khi (cùng với nó là từ lúc) đã tạo được nhịp điệu dồn dập cho các câu thơ,
biến cả đoạn thơ thành cuốn phim quay nhanh, điểm lại công nghiệp phong phú của con
người đã sống một cuộc đời thật đáng sống. Bên cạnh đó, nó cũng thể hiện thái độ hào
hứng của tác giả khi "tính sổ" cuộc đời, thấy mình có thể "vỗ tay reo" khi nợ tang bồng
đã được thanh toán sòng phẳng. Hoàn toàn có thể hiểu được tại sao khi rời bỏ kinh thành
về quê, ông lại ngông đến thế: Đô môn giải tổ chi niên, Đạc ngựa bò vàng đeo ngất
ngưởng. Chắc hẳn khi kể lại những việc đã xảy ra trong cái ngày đáng nhớ ấy, Nguyễn
Công Trứ vẫn còn lấy làm thú vị hết sức. Ông quả là người biết thưởng thức chính những
việc làm trái khoáy nhiều phần khinh bạc của mình. Khinh bạc ở đây là khinh bạc với
đời, với những kẻ không đủ gan dứt bỏ chốn quan trường. Dù sao đối với ông, tất cả cũng
chỉ là một cuộc chơi. Ông quý trọng những gì mình đã làm được, nhưng quý trọng không
có nghĩa là chỉ biết khư khư ôm lấy chúng. Cái ông có đâu chỉ chừng ấy, dù đối với bao
người, "chừng ấy" cũng đã vô cùng đáng kể rồi. Với từ ngất ngưởng ờ câu cuối khổ hai,
ta hình dung thật rõ dáng ngồi ngất nghểu, khật khưỡng của tác giả trôn lưng con bò cái
vàng được "trang sức" bằng đạc ngựa - một dáng ngồi đầy vẻ trêu ngươi, khiêu khích,
như muốn giỡn mặt với "cả và" thiên hạ, trước hết là với hàng ngũ đông đúc những quan
to, quan bé trong triều. Bỏ lại sau lưng một thời vùng vẫy hào hùng, về nơi cố thổ, nhà
thơ để tâm trí hút vào màu mây trắng trên đỉnh non cao : Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiểm cung mà nên dạng từ bi. Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì, Bụt cũng nực cười
ông ngất ngưởng.
Những tưởng khổ thơ đưa người đọc tới miền tâm sự riêng tư, trầm lắng và những
cảm nhận hư vô về cuộc đời. Thực ra cũng có một phần, bởi màu mây trắng vốn tồn tại
trong văn học như một biểu tượng của cuộc sống ẩn dật thanh cao. Người ta nghĩ nhiều
về nó khi muốn hoặc khi đã trút sạch làu làu những ham muốn trần tục. Nhưng trường
hợp Nguyễn Công Trứ thì có khác. Điều ông muốn kể vẫn là sự biểu hiện của cái tôi
ngông ngạo vốn có ở "môi trường" mới, không phải trong cái lồng phận sự. Kể ra cũng
có lắm chuyện thú vị. Nhà thơ đã khôi hài nói về kiểu nhập vai nửa vời, không triệt để
một cách cố ý của mình. Chà chà, tay kiếm cung mà bây giờ cũng nên dạng từ bi cơ đấy !
Anh ta đã thực sự trở thành kẻ ăn chay rồi hay sao ? Không phải ! Hãy xem cái cách anh
đi vãn cảnh chùa thì biết... Đến nước ấy thì Bụt cũng phải chào thua.
Không kể văn học dân gian, có lẽ đây là lần đầu tiên trong văn học viết, ta biết tới
một ông Bụt bình dàn đến vậy. Nguyễn Công Trứ quả có đủ tài, dủ cái hóm hỉnh để khiến
Bụt nếu không đồng loã với mình thì cũng phái bỏ qua cho mình bằng một cái cười xoà.
Đối với Nguyễn Công Trứ, tháo được dây đeo ấn trả lại nhà vua (giải tổ) là một điểu kiện
cần thiết để những con người khác trong ông được dịp cất tiếng nói. Ông rõ ràng rất biết
sống cho mình : Được mất dương dương người thái thượng, Khen chê phơi phới ngọn
đông phong. Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng, Không Phật, không Tiên, không vướng
tục. Sống, với Nguyễn Công Trứ là biết coi trọng cái hiện thế, hiện tại, biết thưởng thức,
nếm trải những thú vui có trong đời như thú ngoạn cảnh thiên nhiên, chùa chiền, thú hát
cô đầu, thú uống rượu và đặc biệt là ái tình. Đã là một tay tài tử, làm sao có thể thờ ơ với
tất cả những cái đó ? Mọi sự được mất hãy nên phóng tâm coi nhẹ, đừng "bặm môi bặm
miệng" quan trọng hoá vấn đề. "Khen chê phơi phới ngọn đông phong" trước hết là một
sự phớt lờ, bỏ qua những lời đàm tiếu, nhưng sau đó là cảm giác lâng lâng nhẹ nhõm của
một kẻ tự do, biết sống vượt lên những tiêu chuẩn đạo đức lỗi thời, gò bó và khắc khổ.
Nguyễn Công Trứ tự nhận mình là "Không Phật, không Tiên, không vướng tục".
Khỏi phải nói đến cái tục là cái mà người có học, người đường hoàng không ai
muốn, nhưng được như Phật, như Tiên thì tốt chứ, lẽ nào lại không màng ? Thực ra điều
này có liên quan tới sự lựa chọn riêng tư, không nhất thiết phải đi đôi với thái độ dị ứng
các giá trị khác tồn tại trong đời. Nguyễn Công Trứ thấy mình không giống Phật, Tiên thì
ông nói thế (Phật, Tiên gì mà đi chơi chùa lại dẫn cả đoàn con hát lên theo) và ông cũng
lấy làm hài lòng vì điều đó. Phật, Tiên là những mẫu hình của một thế giới khác, thế giới
siêu nhiên. Họ không biết thưởng thức những lạc thú của cuộc đời. Còn ta, ta là người
sống giữa cuộc đời, dại gì mà chối bỏ những niềm vui đời đem lại ! Giống Phật, giống
Tiên mà chẳng giống mình thì phỏng có nghĩa lí gì ? Tuy nhiên, ta cũng không tục, ta đã
dấn mình vào cuộc chơi với một ý thức văn hoá, với bản lĩnh của người tin vào tài năng
và phẩm cách của mình, ứng xử với đời bằng một tinh thần tự do. Ta khác với những kẻ
để mình bị khống chế bởi bản năng vật dục, không biết "chơi" với phong độ tài tử, tài hoa
và với một thị hiếu thẩm mĩ tinh vi, sành sỏi. Có khá nhiều từ láy ngoài từ ngất ngưởng
xuất hiện trong hai khổ thơ 3, 4 : phau phau, đủng đỉnh, dương dương, phơi phới. Rõ là
đoạn thơ chú trọng vào việc miêu tả cảm giác, trạng thái tinh thần của tác giả khi đã thoát
khỏi vòng cương toả, khác với đoạn trước nghiêng về kể khái quát những công tích đạt
được. Từ kìa cũng gắn liền với sự miêu tả, như muốn bày ra trước độc giả một cảnh
tượng thật thích chí.
Nói chung, cả đoạn thơ thấm một ý vị hài hước rất hấp dẫn, cho thấy nhà thơ khá
bằng lòng với mình, có tự giễu cợt mình cũng là giễu cợt trên tinh thần tự tin rất mực.
Điệp từ khi được dùng kèm với những tiếng trắc, tiếng bằng luân phiên trong câu "Khi
ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng" ngoài nghĩa liệt kê vốn có gắn liền với ý niệm về thời gian
còn thêm sắc thái biểu cảm rõ nét, diễn tả được cái ngả nghiêng thoải mái của nhà thơ
trong những cuộc chơi bất tận. Thái độ sống, phong cách sống của Nguyễn Công Trứ lúc
đã ra ngoài vòng cương toả có những biểu hiện rất riêng. Nhưng không thể nghĩ rằng ông
đã hoàn toàn khác mình trước đó. Thực chất vẫn chỉ có một Nguyễn Công Trứ, rất nhất
quán, chí có điều, khi làm một hưu quan, ông có nhiều điểu kiện hơn để thể hiện sự
phóng túng và tư tướng hành lạc (sống vui, vui sống) của bản thân. Ông hoàn toàn không
tự mâu thuẫn khi gộp chung con người hành đạo và con người hành lạc vào một, trong lời
tổng kết cuộc đời đầy minh bạch và đượm vẻ hài lòng ở khổ cuối : Chẳng Trái, Nhạc
cũng vào phường Hàn, Phú, Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung, Trong triều ai ngất
ngưởng như ông ! Sự phóng túng dù được thể hiện ở mức độ cao vẫn không dẫn nhà thơ
tới thái dộ hư vô chủ nghĩa. Trước sau ông vẫn là một nhà nho có tinh thần nhập thế và
luôn tâm niệm "Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung". Câu thơ vừa trích không phải đã
được viết ra để rào đón, dè chừng, theo như cách hiểu của một số người. Đối với Nguyễn
Công Trứ, hành đạo thì cần hiệu quả và hành lạc thì cần "say sưa", tất cả đêu có ý nghĩa.
Hành đạo và hành lạc không thể bị đặt vào trong một tương quan loại trừ. Nhìn chung,
Bài ca ngất ngưởng đã khảng định lí tưởng sống hài hoà giữa cái vì đời và cái vì mình.
Bao trùm cả bài thơ là âm điệu khẳng định. Ta không thấy bợn lên ở đây một chút ân hận
hay động thái tự vấn nào. Nguyễn Công Trứ đã thể hiện dược tài năng của bản thân khi
thực hiện lí tưởng trung quân ái quốc, hành đạo cứu đời. Ông đã giữ được bản tính hào
mại, phóng túng cả khi vào lồng phận sự và dấn thân trong chốn quan trường. Ông, khác
với nhiều người, đã dứt bỏ chức vị với bao nhiêu cám dỗ một cách nhẹ nhàng, không
vướng bận. Ông đã nhập vào các cuộc chơi một cách thoải mái, với tư cách của một kẻ
đam mê, dám hết mình. Ông có thể nói mà không thấy ngượng, với mình và với đời :
"Trong triều ai ngất ngưởng như ông". Với một con người, khó nhất là cái tự tri. Nguyễn
Công Trứ là một kẻ tự tri. Sự thoả mãn của ông được bảo đảm bằng cả một cuộc đời
phong phú, bằng sự tự tri. Nó không gây "chối", ngược lại, tạo dược lòng kính trọng ở
người đời, ở độc giả. Nói về sự hấp dẫn của ngôn từ thơ ở Bài ca ngất ngưởng, có lẽ
không thể bỏ qua việc nhà thơ vận dụng lối nói đậm tính khẩu ngữ. Khi tự xưng thì dùng
các đại từ như ông, tay. Khi biểu lộ hồn thơ lai láng thì "Kìa núi nọ phau phau mây
trắng". Khi buộc phải so sánh thì "Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú",... Rồi
bao nhiêu từ ngữ mang tính chất nôm na, thông tục đã được "điều động" một cách linh
hoạt. Đó là vào lồng, tay kiếm cung, một đôi dì, nực cười, phường,...
Quả tính chất khẩu ngữ của ngôn từ đã đem lại cho bài thơ một vẻ đẹp sống động
và gần gũi, phù hợp hoàn toàn với cốt cách con người tác giả, cũng phù hợp với âm
hưởng đối thoại mà ông muốn có (không phải đối thoại trực tiếp mà là đối thoại ngầm với
những cách sống, kiểu sống khác - tầm thường và hèn kém). Nhờ nó, ta tiếp nhận bài thơ
như tiếp nhận một lời nói, giọng nói trực tiếp. Độc giả hoàn toàn có thể tưởng tượng thấy
đi kèm với các câu thơ là ánh mắt giễu cợt, là nụ cười hóm hỉnh hài hước, là dáng vẻ lúc
lắc nghênh ngang của một kẻ ung dung bước giữa đường đời. Thể thơ hát nói là "thể thơ
của con người cá nhân và tự do". Số tiếng không cố định trong câu thơ và số câu không
hạn định chặt chẽ trong bài thơ (nhất là với bài thơ hát nói dôi khổ) đã cho phép tác giả
phô diễn một cách khoái hoạt nguồn cảm hứng dồi dào của mình. Không chỉ thế, sự
chuyển đổi vần bằng, vần trắc luân phiên trong các câu, các khổ ; sự biến hoá da dạng
trong nhịp ngắt ; sự cho phép pha trộn ngôn từ nửa Nôm nửa Hán ; sự xuất hiện của nhiều
từ láy, nhiều điệp từ,... đã đưa lại ấn tượng người làm thơ không gặp phải bất cứ một sự
gò bó nào, muốn kể, muốn tả, muốn nghiêm túc, muốn giỡn đùa đều được. Điều quan
trọng là anh có tận dụng được tính phóng khoáng và dân chủ đó của thể loại để diễn tả
tâm tình, suy nghĩ của mình hay không. Có thể nói, với thể thơ hát nói, Nguyễn Công Trứ
đã hoàn toàn được là mình. Thể thơ hát nói đã cho văn học Việt Nam một Nguyễn Công
Trứ như ta đã biết và ngược lại chính Nguyễn Công Trứ đem lại được cho thể thơ hát nói
một vị trí vinh dự trong bảng thể loại văn học của dân tộc.
BÀI MẪU SỐ 7:
Một con người có đạo hiếu quân thần, một con người ý thức rõ về tài đức của
mình. Đối với ông mà nói “ khen chê phơi phới ngọn đông phong” ông vẫn cứ “ ngất
ngưởng” với cá tính của mình. Nói đến đấy có lẽ ai cũng biết đó chính là Nguyễn Công
Trứ. Một con người đa tài và có cá tính đặc biệt mà ngày đó hiếm ai sánh kịp. Trong số
những sáng tác của ông thì bài thơ bài ca ngất ngưởng thể hiện rõ tài năng cũng như cá
tính đặc biệt ấy.
Bài ca ngất ngưởng giống như một lời tự thuật của Nguyễn Công Trứ về cuộc đời,
tài năng, tính cách của ông. Đó là một tài năng lớn cũng là một tính cách lớn vượt qua
khuôn khổ của thời trung đại cũng như nho giáo. Ông sinh ra trên mảnh đất Nghệ An,
cùng thời với ông cũng có rất nhiều người tài giỏi tuy nhiên người ta lại nhớ đến ông.
Phải chăng do tính cách khá đặc biệt của ông- một sự ngất ngưởng và lối sống chân thật
ấy đã làm người ta nhớ đến ông nhiều hơn?.
Tác giả mở đầu bằng năm câu thơ để thuật lại cuộc đời làm quan của mình. Cuộc
đời đó có vinh hoa hiển lạc nhưng cũng có lúc vất vả khốn cùng:
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi thủ khoa, khi Tham tán, Khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây cờ đại tướng
Có khi về phủ doãn Thừa Thiên”
Chỉ với năm câu thơ tác giả đã giới thiệu cho chúng ta vè phần đời làm quan của
ông. Trước tiên ta tìm hiểu khái niệm của từ “ ngất ngưởng”, ngất ngưởng là từ dồng
nghĩa với ngất nghểu có thể hiểu là một người luôn ở tư thê cao không vững vàng, chông
chênh, lắc lư như trực ngã. Nguyễn Công Trứ dùng tính từ này để nói về mình phải chăng
là cả một ẩn ý?.
Trước hết là câu thơ đầu tiên thể hiện rõ quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ.
Cùng với bản tuyên ngôn về chí làm trai “ chí làm trai nam bắc đông tây- cho phỉ sức vẫy
vùng trong bốn bể” thì câu thơ đầu trong bài này cũng là một bản tuyên ngôn về quan
niệm sống trong vũ trụ của ông.
“ Vũ trụ nội mạc phi phận sự”
Tác giả muốn gửi gắm một quan niệm sống của mình. Đó là trong vũ trụ này
không có việc gì không phải là phận sự của ta. Dường như ta thấy Nguyễn Công Trứ
đang đề cao tâm thế của một nhà nho nhân chính. Nó nói lên sự ý thức tầm quan trọng cá
nhân của ông và sự nhiệt huyết trong cuộc đời của ông.
Sau đó ông tóm tắt về cuộc đời làm quan của mình:
“Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”
Đối với ông mà nói làm quan như “ vào lồng”, câu thơ ấy có nghĩa là tác giả coi
việc làm quan giống như bị nhốt trong lòng. Bởi vì với tính cách ngông nghênh cùng ý
chí ngút trời “ vẫy vùng trong trời đất” những đạo lí Tam cương ngũ thường trở thành
khuôn phép gò bó tính cách của ông. Nguyễn Công Trứ tự xưng là ông, đó là một cách
xưng hô đọc đáo. Dẫu biết làm quan là bó buộc mất tự do nhưng ông vẫn làm vì nhờ đó
ông thể hiện được tài năng cũng như hoài bão của mình. Qua đó Nguyễn Công Trứ thể
hiện mình như một giá trị hiển nhiên giữa đời mà không thể phủ nhận được.
Sau đó là một loạt chức quan được kể ra như “ thủ khoa”, “tham tán”, “ tổng đốc
đông” ,” bình tây đại tướng” khi lại “ Phủ doàn thừa thiên”. Có thể nói cuộc đời làm quan
của ông hiển đạt vô cùng tất thẩy đều là những quan to. Tuy nhiên ở ngoài đời thực thì
ông có bị giáng chức xuống làm một anh lính quèn. Tuy nhiên ông từng có một câu nói
vô cùng nổi tiếng đó là : “Làm tổng đốc tôi không lấy làm vinh, làm lính tôi cũng không
coi là nhục”. vì thế cho nên dù làm ở cấp nào đi chăng nữa đối với ông đều không quan
trọng miễn sao ông được thỏa sức giúp nước nhà.
Cuộc đời làm quan khép lại và mở ra buổi nghỉ quan về hưu của Nguyễn Công
Trứ. Đúng là một con người khác lạ đến buổi dứt áo quan về quê cũng thật khác bình
thường:
“Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nôn dạng từ bì.
Gót tiên theo đừng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”
Chia tay chốn quan trường nhà thơ về với quê hương thật đúng là “ ngất ngưởng”.
Người ta về quan tiệc tùng linh đình về trong võng lọng kiệu đẹp, hay cùng lắm là con
ngựa gầy nhưng Nguyễn Công trứ thì lại khác. Về quê chẳng tiệc chia tay, chẳng ngời
đưa tiễn, chẳng vọng lọng kiệu ngựa mà chỉ một mình với con bò vàng đủng đỉnh. Bò mà
đeo đạc ngựa thật sự chỉ có Nguyễn Công Trứ mói có mà thôi!.
Về quê nhà thơ tự do vui thú với cảnh quê hương và ca trù. Ông lên thăm chùa mà
tự cười nhạo mình từ bi nhưng thật ra đằng sau lại có hai cô ả đào theo sau. Như thế là
thất kinh nhưng bụt không tức giận mà phải bật cười vì tích cách của vị quan già ngông
nghênh ấy.
Những câu thơ còn lại đều nói về cuộc đời và vui thú của ông khi về hưu:
“Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Cuộc đời của ông từ đây nhàn hại với những thú vui tao nhã. Đối với ông khen chê
không là chuyện ông đáng để tâm tới ông cứ sống theo cách cảu mình. Cuộc đời này còn
gì vui hơn hạnh phúc hơn khi được sống đúng là chính mình. Mấy ai được sống là chình
mình còn Nguyễn Công Trứ thì làm được điều đó. từ đây ông đắm mình trongthus vui
tuổi già đó là ca trù không vướng tục. Từ “khi” được điệp đi điệp lại nhiều lần thể hiện sự
lặp lại của những thú vui ấy. Ca trù, rượu nóng ông say sưa trong hơi men và điệu cắc
điệu tùng. Đúng là một cuộc sống đầy âm nhạc. Ông cứ sống như thế chẳng theo tiên
theo phật cứ sống theo cách của chính ông mà thôi. Đây là đoạn thơ hay nhất trong bài
nếu như hai câu trước trải dài để thể hiện sự thanh thản khi về hưu thì hai câu sau lại đầy
ắp tiếng nhạc.
Nguyễn Công Trứ tự đặt mình ngang hàng với những các nhân vật nổi tiếng ngày
xưa:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung.
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Trái Tuân thời Hán và ba ngưội thời Tống: Nhạc Phi, Hàn Kì, Phú Bật – những
danh tướng có sự nghiệp hiển hách. Kêt thúc bài thơ ông không quên nhắc tới công lao
mà mình đã đạt được trước khi về hưu. Đó là nghĩa vua tôi cũng đã tròn đạo. Ông ca lên
điệp khúc ngất ngưởng của mình, ông sống và làm việc tận tụy hết mình nhưng đồng thời
cũng có những thú vui khác người. Thú vui ấy chỉ có Nguyễn Công Trứ mói có , ông
ngất ngưởng như vậy đấy.
Như vậy có thể thấy Nguyễn Công Trứ quả là một con người độc đáo ông tự ý
thức được tài năng cũng như vị trí của mình. Ông sống mà không cần quan tâm đến
người ta nói gì về mình. Và quả thật bài ca ngất ngưởng đã truyền tải hết sự ngất ngưởng
của nhà thơ. Bài thơ không chỉ ngất ngưởng ở nội dung mà cả giọng điệu cũng góp phần
làm nên bài thơ này.
BÀI MẪU SỐ 8:
"Bài ca ngất ngưởng” được Nguyễn Công Trứ sáng tác sau 1848 là năm ông cáo
quan về hưu. Bài thơ có giá trị tổng kết cuộc đời của Nguyễn Công Trứ, cả trí tuệ, tài
năng, cả cốt cách, cá tính và triết lí. Khúc ca trác tuyệt viết bằng thể Hát nói này là tài hoa
và khí phách của “Ông Hi Văn”.
“Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên.
Đô môn giải tổ chi niên.
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng.
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng.
Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Khác với những bài hát nói khác, Nguyễn Công Trứ không mở đầu bằng hai câu
chữ Hán mà bằng một câu Hán: “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” và một câu Việt: “Ông Hi
Văn tài bộ đã vào lồng”. Câu thơ chữ Hán có nghĩa là trong vũ trụ này không có việc gì
là không phải phận sự của ta. Đây là quan niệm thiêng liêng của nhà Nho mà Nguyễn
Công Trứ đã nhận thức sâu sắc và hạnh động nhất quán từ trẻ cho đến già. Vì nhiễm quan
điểm chính thống đó mà “Ông Hi Văn tài bộ đã vào *****g”. Câu thơ hay tuyệt! Nội lực
phải dữ dội lắm mới có cái điệu tự hào như vậy. Tưởng chừng như Nguyễn Công Trứ
cười một “ông Hi Văn” nào đó, không ngờ “ông Hi Văn” chính lại là Nguyễn Công Trứ!
Con người suốt đời say mê công danh nhưng lại coi cái vòng công danh ấy là một cái
“lồng”. Tại sao lại có thái độ khinh bạc ấy? Cũng dễ hiểu, Nguyễn Công Trứ là người có
tài đã đem hết tài năng, trí tuệ giúp đời, cứu nước, cứu dân. Nhưng xã hội phong kiến mà
ông cúc cung tận tụy lại quá bé nhỏ, thảm hại, ông Hi Văn luôn luôn cảm thấy bị ràng
buộc, mất tự do, khác chi một con chim trong lồng!
Thành ra những hành động chọc trời khuấy nước, tài thao lược của vị đại tướng để
trả “nợ tang bồng” cũng chẳng qua là hành vi bay nhảy của con chim trong "lồng".
“Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”.
Kể như thế cũng đã oanh liệt! Văn võ song toàn ở đỉnh cao. Ấy là tác giả chưa kể
đến những công trạng khác mà ông đã sáng tạo và đóng góp cho dân cho nước. Nhưng
như thế thì Nguyễn Công Trứ có gì khác với giới quan trường vào luồn ra cúi bấy giờ?
Đây, “ông Hi Văn” đây rồi!
“Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng”
“Ngất ngưởng” ngay trong những hoạt động chính thống! “Ngất ngưởng” ngay
trên đỉnh cao danh vọng! Thật là hiếm thấy. Đấy không phải là bộ dạng, hành vi bên
ngoài mà ngất ngưởng đã trở thành bản chất của Nguyễn Công Trứ. Là thái độ sống, cũng
là cốt cách, là cá tính của “ông Hi Văn”. Làm quan cho một triều đại suy tàn của chế độ
pk, giữa đám quan lại, mua bán tước, bên cạnh những “tiến sĩ giấy” oái oăm thay lại cùng
trong một lồng”, nên Nguyễn Công Trứ “ngất ngưởng” cao ngạo là phải. Xét về mặt nhân
cách thì thái độ “ngất ngưởng” là “công trạng” lớn nhất của Nguyễn Công Trứ. Thái độ
“ngất ngưởng” xuyên suốt của cuộc đời. Nguyễn Công Trứ, nhưng xét đến cùng thì “ngất
ngưởng” giữa triều, “ngất ngưởng” trên đỉnh cao danh vọng là thái độ đáng kính nhất của
“ông Hi Văn”.
Ngông đã trở thành cốt tủy của Nguyễn Công Trứ. Trong tiểu triều “ngất ngưởng”,
cáo quan về “ngất ngưởng”:
“Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng
Kìa núi nọ phau phau mây trắng
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng…”
Năm cởi áo mũ, cáo quan về hưu, không thèm cưỡi ngựa mà cưỡi bò vàng có đeo
lục lạc, “ông Hi Văn” thật là “ngất ngưởng”. Chưa hết, ông còn cột mo cau sau đuôi bò,
nói với thiên hạ là để che miệng thế gian. Rồi bỗng xuất hiện dãy núi quen thuộc của quê
nhà: “Kìa núi nọ phau phau mây trắng”. Núi Đại Nại trên quê hương của thi nhân đẹp
một cách hư ảo.
Người anh hùng chọc trời khuấy nước nay trở về lân la nơi cõi Phật. “Tay kiếm
cung” ấy chỉ có làm đổ đình đổ chùa chứ sao “mà nên dạng từ bi”!
“Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì”
Vào chùa mà dắt theo cả ả đào thì chỉ có Nguyễn Công Trứ, hay nói đúng hơn chỉ
có Nguyễn Công Trứ là thành thật. Sự thành thật đã làm cho câu thơ trở nên xôn xao, có
lẽ còn ở tài hoa nữa. Từ “đủng đỉnh” hay quá, đây là nhịp đi của các nàng ả đào vào chùa,
cái nhịp “đủng đỉnh” của tiếng chuông mõ tịch diệt, chứ không phải là nhịp “tùng”, “cắc”
dưới “xóm”. Nhưng không phải “đủng đỉnh” chốc lát trước sân chùa mà ả đào thành ni
cô. Thì cũng như Nguyễn Công Trứ vào cửa từ bi mà đâu có diệt được lòng ham muốn.
“Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”
Trong một xã hội mà cá nhân bị thủ tiêu, cá tính bị vo tròn, Nguyễn Công Trứ lại
lồ lộ ra một cá nhân, hồn nhiên một cá tính. Với tinh thần nhân văn “ngất ngưởng”, nhà
thơ Nguyễn Công Trứ đã đi trước thời đại hàng thế kỉ!
Theo dõi bài ca từ đầu, ta thấy đã diễn ra ba giai điệu “ngất ngưởng”. “Gồm thao
lược đã nên ngất ngưởng” là “ông Hi Văn” “ngất ngưởng” ở trong “lồng”. Đây là giai
điệu kỳ tuyệt, thể hiện khí phách của Nguyễn Công Trứ. Nói một cách khác đây là chiến
thắng oanh liệt của sự tự diệt (khi lên đỉnh cao danh vọng người ta không còn là mình
nữa). “Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng” là giai điệu Nguyễn Công Trứ cáo quan về
hưu “ngất ngưởng”. “Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng” là giai điệu tự hào của
Nguyễn Công Trứ muốn “ngất ngưởng” thoát tục.
Và đây là giai điệu cuối có giá trị tổng kết cuộc đời của một nhà nho trung nghĩa
mà không đánh mất mình:
“Được mất dương dương người tái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú.
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”
Đối với Nguyễn Công Trứ, “được mất dương dương người tái thượng”. Tác giả
dùng điển tích “Tái ông thất mã”. Được chưa chắc là may, mất chưa hẳn là rùi. Trong
cuộc sống bon chen đó, “được mất” một chút là người ta có thể làm thịt nhau, mà Nguyễn
Công Trứ lại có thái độ bất biến trước sự được mất thì phải nói “ông Hi Văn” có bản lĩnh
cao cường. Lại còn “khen chê” nữa, “khen chê phơi phới ngọn đông phong”. Khen thì vui
“phơi phới” đã đành, chứ sao chê mà cũng “phơi phới ngọn đông phong” nghĩa là cũng
vui như ngọn gió xuân? Là vì cái gọi là chuẩn mực chính thống không trùng khít với
chuẩn mực của nhà thơ. Thì mới oai phong đại tướng “Nguyễn Công Trứ đó đã bị cách
tuột xuống làm lính thú, có hề chi, vẫn “phơi phới ngọn đông phong”. Có thể mất chức
đại tướng nhưng miễn còn Nguyễn Công Trứ! Những âm thanh này mới làm bận lòng
con người yêu đời, ham sống đó:
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng.
Không Phật, không tiên, không vướng tục”
Các giác quan của nhà thơ mở về phía cuộc sống tự do, về phía cái đẹp, về phía
hưởng lạc. Thơ, rượu, ca trù, hát ả đào mới là đam mê của Nguyễn Công Trứ. Câu thơ
nhịp 2/2 réo rắt thật hay (khi ca/ khi tửu/ khi cắc/ khi tùng) làm sôi động cả khúc ca. Tác
giả cũng không quên đánh giá lại công trạng của “ông Hi Văn” với triều đại mà ông
phụng sự:
“Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”
Nguyễn Công Trứ tự liệt vào hàng danh tướng, công thần đời Hán, đời Tống của
Trung Quốc như Trái (Trái Tuân), Nhạc (Nhạc Phi), Hàn (Hàn Kì), Phú (Phú Bật). Ông
tự hào như vậy là chính đáng, vì lý tưởng anh hùng của ông cũng không ngoài lí tưởng
trung quân ái quốc của đạo Nho và ông đã sống thủy chung trọn đạo vua tôi.
Kể ra tìm một bậc danh sĩ văn võ song toàn như Nguyễn Công Trứ trong thời đại
nào cũng hiếm, nhưng không phải là không có. Chứ còn “ông ngất ngưởng” thì tìm đâu
ra?
“Trong triều ai ngất ngưởng như ông?”
Đây cũng là giai điệu cuối cùng của “Bài ca ngất ngưởng”. Tác giả đã chọn giai
điệu “ngất ngưởng” đích đáng để kết thúc bài ca. “Ngất ngưởng” ngay trong triều, “ngất
ngưởng” trên đỉnh núi cao danh vọng, đó là nhân cách, là khí phách của Nguyễn Công
Trứ.
Nếu được chọn một tác phẩm tiêu biểu cho toàn bộ trước tác của Nguyễn Công
Trứ thì đó là “Bài ca ngất ngưởng”. Con người, tài năng, khí phách, tinh hoa của Nguyễn
Công Trứ thể hiện sinh động trong tác phẩm trác tuyệt này. Thể hát nói đã thành thơ, thơ
hay, vừa triết lí, vừa trữ tình, vừa trào lộng. Có một Nguyễn Công Trứ ngoài “lồng” cười
một “ông Hi Văn” trong “lồng”, có một Nguyễn Công Trứ ngoại đạo cười một “ông Hi
Văn” trong chung. Bốn giai điệu “ngất ngưởng” đã ghi lại cả cuộc đời hoạt động phong
phú của một danh sĩ tài tình, trung nghĩa mà không đánh mất mình. Trong một xã hội mà
cá nhân không được coi trọng, cá tính bị thủ tiêu thì thái độ “ngất ngưởng” của Nguyễn
Công Trứ chẳng những là khí phách của ông mà còn là một giá trị nhân văn vượt thời đại.
BÀI MẪU SỐ 9:
Nguyễn Công Trứ (1778- 1858) tên tục là Củng, tự Tồn Chất, hiệu Ngộ Trai, biệt
hiệu Hy Văn, người làng Uy Viễn (nay là xóm Lam Thủy, xã Xuân Giang, huyện Nghi
Xuân, tỉnh Hà Tĩnh). Nguyễn Công Trứ là nhân vật “công thành”, “thân thoái” khá muộn
trong lịch sử danh nhân Việt Nam. Ngoài bốn mươi tuổi mới đỗ đạt và làm quan, và lần
thứ hai ở tuổi “thất thập” ông xin cáo quan về hưu mới được nhà vua chấp nhận. Có thể
hình dung cuộc đời của ông Hy Văn là là đầy ắp những trang đời về sự kiện: giữ chức
hành tẩu ở Quốc sử quán, giữ các chức tri huyện Đường Hào ở Hải Dương, Tư nghiệp
quốc tử giám, Tham tán quân vụ, Thị lang Bộ hình, Hữu tham tri bộ hình, Dinh điền sứ,
Bố chánh sứ Hải Dương, Tham tri Bộ binh, Tổng Đốc Hải An, Tuần phủ tỉnh An Giang,
làm lính thú ở biên thùy, làm chủ sự Bộ hình, quyền Án sát Quảng Ngãi, làm ở Phủ thừa
phủ Thừa Thiên v.v.v…và đến năm 1847 ông được thăng làm Phủ Doãn. Năm 1848, ông
cáo quan về hưu.Từ thủa “bạch diện thư sinh” cho đến “thượng quan”, “trí sĩ” gắn liền
hàng loạt chuỗi sự kiện mang nhiều biến cố trong cuộc đời ông Hy Văn mà chính Nguyễn
Công Trứ đã dệt nên mẫu hình tay ngất ngưởng.
Trong sự nghiệp thơ văn của mình, Nguyễn Công Trứ dành cho mảng thơ “Tự
thuật ” một vị trí quan trọng: thuật về chuyện đi thi, chuyện làm quan, chuyện thăng,
giáng chức, chuyện cầm-kì-thi-tửu, chuyện “trong phận sự ” và chuyện “ngoài vòng
cương tỏa” v.v.v…Ở cương vị và hoàn cảnh nào, vẫn lừng lững một Hy Văn “tài bộ” và
một “tay ngất ngưởng” Nguyễn Công Trứ.
Trong Tiếng Việt, ngất ngưởng là từ dùng để chỉ, hiểu theo các nghĩa sau : Thứ
nhất, ngất ngưởng để chỉ một tư thế tồn tại ở vị trí chênh vênh trên cao, lắc lư, dễ ngã, dễ
đổ. Thứ hai, nghĩa của từ ngất ngưởng còn để biểu thị một cách sống, lối sống, thái độ
sống, thậm chí khinh bạc, thách thức với các chuẩn mực thông thường.
Từ ngất ngưởng nếu hiểu, dùng ở nghĩa thứ nhất thì nét nghĩa từ vựng lại nhằm
khắc họa một tư thế, hoạt động còn hiểu theo nghĩa thứ hai lại là sự biểu thị một tích
cách, quan niệm sống (tuy nhiên giữa tư thế, hoạt động và tính cách một con người nhiều
khi lại đồ chiếu lên nhau, khó lòng tách bạch, cái này là sự biểu hiện cái kia và ngược lại
). Ở Hy Văn, từ ngất ngưởng với đích dùng nghĩa thứ hai. Ngất ngưởng trong quan niệm
của con người là những điều khác với lẽ đời, khác với chuẩn mực sống của thời đại.Ông
Hy Văn là người ngất ngưởng – khác đời, nhưng với Nguyễn Công Trứ, những trang đời
của Hy Văn còn khẳng định ông là một tay ngất ngưởng- hơn đời. Cái khác đời của ông
được minh chứng bằng những trang đời ngất ngưởng: khi “ vinh hoa, phú quý” lúc thì
“trảm giam hậu”, lúc “thăng”, lúc “giáng” cũng có khi cái “khác đời” đang chênh vênh,
chực ngã thì cái “hơn đời” lại nâng đỡ Hy Văn. Ông Hy Văn hành đạo cũng giống như
nghệ sĩ xiếc trên sợi dây thăng bằng, có lúc lắc lư, chao đảo tưởng chừng như chực đổ
trong rạp xiếc quan trường nhưng bằng tài năng của người nghệ sĩ và lớn hơn là bản lĩnh
hơn đời, Nguyễn Công Trứ luôn trụ vững và để lại nhiều ấn tượng sâu đậm cho đời trong
những khắc thời gian nghiêng ngả. Chỗ đứng ấy không những không làm ông “lắc lư, dễ
đổ, dễ ngã” mà trái lại, nó trở thành điểm tựa, điểm nhấn cho mẫu hình ông Hy Văn càng
thêm vững chãi và còn cao hơn chuẩn mực thông thường. Với Hy Văn, “thăng” có cái
vinh của “thăng”, “giáng” có cái quang của “giáng”, “hành đạo” có cái nghĩa của con
người xã hội , “hành lạc” có cái lí của con người cá nhân. Vì vậy, với ông cái gì cũng là
“phận sự” : “Vũ trụ nội mạc phi phận sự” (trong trời đất, không có cái gì là không liên
quan đến ta) và hành đạo hay hành lạc đều mang cốt cách của con người ngất ngưởng.
Một trong những lời tuyên ngôn về quan niệm và lí tưởng sống – bản tổng kết về
cuộc đời của ông chính là Bài ca ngất ngưởng. Bài thơ được sáng tác khi ông cáo quan về
quê. Cáo quan về hưu là lúc ông thoát ra “vòng cương tỏa” và dịp để ông bước vào “thế
giới tự do”, khép lại chặng đường của con người phận vị để mở ra hành trình cho con
người cá nhân, giã từ vị trí một “Thượng quan” để tận hưởng thời gian của một “Trí sĩ ”.
Bao trùm lên bài thơ là giọng điệu khẳng định, thách thức của nhân vật trữ tình trong tâm
thế ngất ngưởng: ngất ngưởng trong tư thế của một thượng quan, ngất ngưởng khi làm
một trí sĩ cưỡi bò vàng, ngất ngưởng lúc đến thăm cửa phật và ngất ngưởng khi làm xong
“đạo sơ – chung”. Tay ngất ngưởng ấy càng trở nên sinh động và thành thực hơn khi
được cộng hưởng bởi hình thức thể loại hát nói-một điệu thức của ca trù “thể thơ của con
người cá nhân và tự do” [1], “một thể thơ thông dụng trong ca trù thể hiện một con người
tài tử thoát khỏi vòng cương tỏa, thoát sáo, thoát tụy lục, danh lợi, nắm lấy phút vui hiện
tại” [2]. Ở bài thơ này, yếu tố nhạc và thơ xoắn xuýt vào nhau, chất thơ và chất văn xuôi
có dịp tự tình trong nhịp phách réo rắt, cắc, tùng mà người cầm chầu là Tướng công Uy
viễn. Như được dịp cởi bỏ cái chật chội của khuôn phép nhà Nho hành đạo, lồ lộ hiện ra
một nhà Nho tài tử dập dìu trong tiếng nhạc, cung đàn:
“Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên không vướng tục.”
Qủa thật, “trong nghệ thuật chơi này, không có sự phân biệt quá rõ giữa người hát
và người nghe, tất cả cảm thấy đều là nghệ sĩ. Tất cả cảm thấy mình đang sống trong một
không gian khác, tạm thời siêu thoát khỏi không gian xã hội chật hẹp câu thúc, gò bó đầy
lễ nghi phiền toái, giả tạo.”[3]. Lời tuyên ngôn, bản tổng kết về cuộc đời của Nguyễn
Công Trứ là hành trình ngất ngưởng từ những trang đời của Hy Văn.Với Nguyễn Công
Trứ, cái gọi là chuẩn mực của cuộc sống đương thời không trùng khít với quan niệm sống
và cao hơn nữa là lí tưởng của ông, nên suốt một đời Hy Văn đành làm một con người
“lệch chuẩn”. Nói cách khác, ở ông là sự tồn tại kiểu con người “khổng lồ” về tư tưởng
mà chiếc áo chuẩn mực cũn cỡn của xã hội bấy giờ không che nổi người lực sĩ tính cách
Nguyễn Công Trứ. Ngất ngưởng – khác đời nhưng không phải là cách sống của kiểu
người lập dị, ngổ ngáo, ngạo ngược mà ngất ngưởng ở Hy Văn là ngất ngưởng của một
con người có tài và nhân cách sống cao đẹp. Vẻ đẹp của một nhà Nho dám sống “vì đời”
và “vì mình”, luôn “ tận hiến” và biết “ tận hưởng”, một lí tưởng sống đứng cao hơn cách
sống của thói đời. Như một sở nguyện, Nguyễn Công Trứ đến với thơ văn là đến với
cuộc đời thứ hai của mình để thỏa mãn “Chí nam nhi ” và hát lên “Bài ca ngất ngưởng”
về con người, “khác biệt với dòng tư tưởng Phải có danh gì với núi sông, Nguyễn Công
Trứ còn bộc lộ cả những tiếng nói trữ tình, đa tình và đa tài. Nguyễn Công Trứ quả đã tạo
lập và hoàn thiện mẫu hình ông ngất ngưởng”. [4]. Vì thế, qua những trang đời của mình,
ông càng khẳng định và thủy chung với quan niệm, lí tưởng sống mà bản thân hướng tới.
Mặt khác, Hy Văn còn ngang nhiên thách thức với đời :
“Chẳng Trái, Nhạc, cũng vào phường Hàn, Phú
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung,
Trong triều ai ngất ngưởng như ông !”
Hy Văn ngất ngưởng với đời không chỉ vì ông là người khác đời và hơn đời ở
chức danh, phận vị cao, thấp, nếm trải cảnh thăng, giáng thất thường và cách vượt lên
thói đời để :
“ Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.”
Mà với Hy Văn, ngất ngưởng còn là sự thủy chung trong lối hành xử của kẻ sĩ
“hoàn danh”, “vẹn đạo”- “Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung”. Thói đời khác ông và
ông đứng trên thói đời – sự tỏa sáng trong phương châm xử thế của một nhà Nho nhân
cách. Cho nên, ông là người dám sống tận cực và chấp nhận cách sống hết mình “vì đời”
và “vì mình”. Cội rễ ngất ngưởng ở Hy Văn là sự thức tỉnh con người cá nhân trong mọi
phận vị “dường như ông đã tạo được cho mình một sự thoải mái tận độ trong mọi trạng
thái tâm lí, tinh thần và vươn đến cái tự do có thể. Con người cá nhân và nhu cầu trần thế
có thể có trong văn học Việt Nam trung đại đến Nguyễn Công Trứ là một bước phát triển
đột xuất. Thơ văn của ông là sự khẳng định con người cá nhân trên mọi phương diện của
lí tưởng kẻ sĩ và lí tưởng nhân sinh” [5]. Trong quan niệm của Hy Văn thì không có gì
thuộc về con người mà lại xa lạ đối với con người. Vì vậy, cuộc đời của Hy Văn là hành
trình của con người ngất ngưởng đi tìm những giá trị về lí tưởng của kẻ sĩ và lí tưởng
nhân sinh. Trên con đường đi tìm lí tưởng ấy, “con người hành đạo” và “con người hành
lạc” được thức tỉnh triệt để về ý thức cá nhân. Chính vì thế, ở chốn quan trường hay khi
là một hưu quan thì với Hy Văn vẫn là một con người nhất quán – thống nhất trong các
thế cực.
Nguyễn Công Trứ là hiện tượng “Tiền-hậu bất kiến”, một nhà văn độc đáo trong
văn học dân tộc Việt Nam, một danh nhân đặc sử, một sự tích tụ giá trị văn hóa nhân loại
và kết tinh của một trào lưu nhân đạo mới mẻ trong văn học trung đại. Điều đó cũng
không ngoại trừ “quá trình diễn tiến tư tưởng của Nguyễn Công Trứ từ quan niệm chí
nam nhi đến triết lí hành lạc là quá trình sụp đổ hoàn toàn của lí tưởng xã hội ở nhà thơ
này.”[6]. Nếu thế, Hy Văn là người xác lập ra một lí tưởng mới – lí tưởng nhân sinh ? Và
như vậy, ngất ngưởng là tuyên ngôn sống, thái độ sống và lí tưởng sống của con người,
một định ngữ cho nhân sinh mà cả cuộc đời Nguyễn Công đã “phổ” vào cây đàn độc điệu
để hát lên “Bài ca ngất ngưởng” vì con người. Và mẫu hình “tay ngất ngưởng” được dệt
từ trang đời của Hy Văn, và nó chính là hình mẫu cho Nguyễn Công Trứ và con người
trần thế hướng đến. Một hình mẫu con người xã hội và con người cá nhân, một mẫu hình
mà chủ nghĩa nhân văn từng vươn tới. Về điểm này, Nguyễn Công Trứ vượt xa thời đại
ông và gần gũi hơn với thời đại chúng ta
BÀI MẪU SỐ 10:
Khi đã nghỉ hưu ở quê nhà. Nguyễn Công Trứ viết Bài ca ngất ngưởng thể hiện
phong cách sống của ông. Đây là triết lí sống trong suốt cuộc đời, khi còn là một thư
sinh, khi xuất chính hay lúc đã về hưu của ông. “Ngất ngưởng” là từ tượng hình có giá trị
biểu đạt, diễn tả ở một vị trí cao chênh vênh, không ổn định liên hệ vào con người là một
lối sống khác người: ngông nghênh, thách thức với mọi người, vượt thế tục bình thường!
Mở đầu là câu thơ chữ Hán thể hiện lí tưởng nhà Nho: Phận sự của kẻ sĩ là phải
coi việc gánh vác trong vũ trụ là bổn phận của mình.
Nhà thơ tự xưng minh là ông – ông Hi Văn – đã lần lượt làm các việc: thi đỗ Thủ
khoa, khi làm Tham Tán Quân vụ Bộ hình, khi làm Tổng Đốc An Hải, lúc làm Đại
Tướng Bình Tây, lúc làm Phu Doãn Thừa Thiên, nhưng ông không ở lâu chức vụ nào vì
luôn luôn bị giáng chức.
Sự nghiệp như thế thật không hổ thẹn với chí lớn kẻ làm trai: Mặc dầu trên đường
công danh có những lúc thăng trầm, nhưng cuối cùng ông cũng được ở phẩm tước khá
cao dù cái xã hội ấy ông gọi là cái “lồng” .
Cuộc đời lập nghiệp công danh kéo dài từ năm 1820 đến năm 1848, ông đã tự
chứng tỏ cái tài song toàn về văn võ một cách hiển hách lừng danh, đến nỗi ông không
che giấu khi tự thuật về mình: Một tay ngất ngưởng trên hoạn lộ:
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng!
Sau khi làm xong phận sự, ông không ngần ngại cởi trả áo mão triều đình cáo lão
về hưu.
Quãng đời sau cùng của đời Nguyễn Công Trứ là quãng đời không màng danh lợi,
hoàn toàn hưởng nhàn theo sở thích cá nhân. Với một tâm hồn tự do và một cuộc sống
độc lập, ông đã tha hồ ngất ngưởng cưỡi bò vàng đeo nhạc ngựa tiêu dao đây đó khi chùa,
khi núi, lại đèo theo đủng đỉnh một đôi dì. Cách hưởng nhàn hành lạc của ông ở đây thật
đến quá quắt, mà có lẽ khôi hài lập dị của một trang nam tử có một thị hiếu riêng, đến
nỗi:
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!
Lối hưởng lạc này có một sinh khí và một tính chái riêng đó là lối hưởng lạc nhập
tục theo chiều phóng khoáng cá nhân, không giống một ai, không Tiên không Phật cũng
không tục, nhưng vẫn trọn nghĩa vua tôi:
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng Không Phật, không Tiên, không vướng tục
Hường nhàn hành lạc chỉ là thời lò sau cùng của ông khi làm xong phận sự. Ông
muốn mọi người hiểu rằng cuộc đời là trung nghĩa. Biết bao lần lên bổng xuống trầm trên
hoạn lộ, vì ganh ghét, vì vu cáo, thế mà vẫn giữ vững đức trung quân, ái quốc không hề
có một ý tưởng bất mãn.
Bởi vậy khi về hưu vui thú tuổi già, ông sống với một cõi lòng yên vui bình thản,
trên không lỗi với vua, dưới không mất lòng dân chúng. Cho nên khi Tiền Hải, Kim Sơn,
lúc chống gậy đến chọn triều đình nghị quốc quân đại sự. Năm Tự Đức thứ 12, ông nghe
tin liên quân Pháp, Tây Ban Nha tấn công cửa bể Đà Nẵng, không quản ngại thân già,
ông chống gậy đến chốn triều đình dâng sớ lên vua xin cầm quân chống giặc. Nhưng vua
không cho vì thấy ông đã quá già nua tuổi tác.
Tự xét hiểu mình như thế, nên ông kiêu hãnh ghi nhận về mình:
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!
Phải chăng đó là lối sống mang cái “chí khí” “ngất ngưởng”. Chẳng những ông
không hề sợ ai chê cười mà còn đầy lòng tự hào về cái "đạo sống ngất ngưởng” đó. Tóm
tắt lại có bốn cái "ngất, ngưởng” nổi bật trong đời ông:
– Gồm thao lược đã liên tay ngất ngưởng!
– Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng!'
– Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng!
– Trong triều ai ngất ngưởng như ông!