intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Phân tích đặc điểm, bản chất tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Đặng Văn Phúc | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:9

106
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nội dung trình bày các câu hỏi phân tích đặc điểm, bản chất tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh. Để hiểu rõ hơn, mời các bạn tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Phân tích đặc điểm, bản chất tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

  1. Đề 3  Câu 2:  Đồng chí hãy trình bày bản chất, đặc điểm Tư  tưởng đạo   đức Hồ Chí Minh. Ý nghĩa của vấn đề đó đối với bản thân đồng chí.  Hồ Chí Minh – “Vị anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất”   không những được nhân dân Việt Nam kính trọng và tin yêu, mà còn được cả  thế  giới biết tới như “một nhà chiến lược thiên tài, một mẫu mực tuyệt vời  về  chí khí đấu tranh kiên cường, về  tinh thần nhân đạo, yêu mến nhân dân   thắm thiết, về đạo đức vô song, tác phong khiêm tốn, giản dị”.  Tư tưởng Hồ  Chí Minh không những là tài sản tinh thần vô cùng quý  báu của dân tộc Việt Nam, mà còn là một giá trị  văn hóa lớn được nhân dân  thế  giới suy tôn, ca ngợi. Một trong những di sản quý báu mà Người để  lại  cho Đảng và nhân dân ta là tư  tưởng về  đạo đức cách mạng. Tư  tưởng Hồ  Chí Minh về  đạo đức cách mạng chứa đựng nhân sinh quan hết sức sâu sắc  trong việc xác lập nhân cách, lý tưởng và chuẩn mực lối sống của người  chiến sĩ cách mạng. Theo Hồ  Chí Minh, đạo đức cách mạng là đạo lý làm  người   và   nhờ   đó,   con   người   mới   thực   sự   làm   người   theo   đúng   nghĩa   là  NGƯỜI. Vì thế, tư tưởng đạo đức của Hồ Chí Minh mang đậm tính nhân văn   sâu sắc; là sự kết hợp chặt chẽ giữa truyền thống và hiện đại, vừa “tiên tiến”   vừa “đậm đà bản sắc dân tộc”; là sự thống nhất hữu cơ giữa tính thực tiễn và  tính khoa học. 1. Bản chất của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức cách mạng,  là đạo đức của người cách mạng trong thời kỳ giải phóng dân tộc đi lên xây  dựng chủ  nghĩa xã hội  ở  Việt Nam, lấy ý thức phục vụ  nhân dân, chăm lo,   quan tâm, hy sinh cho người khác… Nói ngắn gọn đó là đạo đức “vì dân”, “vì   mọi người” làm trung tâm. Trên thực tế, Hồ Chí Minh đã làm một cuộc cách  mạng sâu sắc trong lĩnh vực đạo đức ở Việt Nam. Người đã đưa các nội dung   mới vào các khái niệm, mệnh đề  đạo đức cũ, chính Người đã khẳng định:  “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời. Đạo đức   mới như  người hai chân đứng vững được dưới đất đầu ngẩng lên trời. Bọn  phong kiến ngày xưa nêu ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không bao giờ làm  mà lại bắt nhân dân ta phải tuân theo để phục vụ quyền lợi cho chúng. Ngày  nay ta đề ra cần, kiệm, liêm, chính cho cán bộ thực hiện làm gương cho nhân  dân theo để  lợi cho nước cho dân”. Cũng trung, hiếu nhưng xưa là trung với   vua, hiếu với cha mẹ. nay là trung với nước, với Đảng, hiếu với dân. Đạo đức cách mạng đối lập với đạo đức tư  sản. Đạo đức tư  sản là   kiểu đạo đức được xây dựng trên cơ sở của chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh  đã vạch trần tội ác của giai cấp tư sản “chúng cướp của chung do xã hội sản  xuất ra làm của riêng…, để chúng ngồi mát ăn bát vàng, nhưng miệng chúng   luôn luôn huênh hoang những từ  đạo đức, tự  do, bác ái, dân chủ”. Nhận rõ   bản chất đạo đức của giai cấp tư sản là chủ nghĩa cá nhân. Hồ Chí Minh luôn 
  2. nêu cao chủ nghĩa tập thể của giai cấp công nhân và kiên quyết tìm cách ngăn   chặn mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, không muốn nó nảy nở, phát triển  và tồn tại trong  ý nghĩ và hành động hàng ngày của cán bộ, nhân dân ta.  Người kêu gọi mọi người Việt Nam hãy thực hiện công việc quét sạch chủ  nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng một cách thường xuyên, hàng  ngày. Người quan niệm rằng, “… đạo đức cách mạng của người đảng viên là  bất kỳ  khó khăn đến mức nào cũng kiên quyết làm đúng chính sách và nghị   quyết của Đảng, làm gương mẫu cho quần chúng”, “… là vô luận trong hoàn  cảnh nào, người đảng viên cũng phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết”, “là  hòa mình với quần chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng,  lắng nghe  ý kiến của quần chúng.  Đạo  đức cách mạng trở  thành yếu tố  không thể thiếu ở con người mới xã hội chủ nghĩa. Nó là vốn sống, là tài sản   quý báu, là cái gốc trong cuộc sống của con người. Bởi, “Cũng như  sông thì  có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không   có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì  dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho   dân tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát, mà tự mình không   có đạo đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hóa, xấu xa thì còn làm nổi việc  gì?”. Quan điểm về  đạo đức cách mạng của Hồ  Chí Minh khác hẳn về  chất  so với mọi quan điểm về  đạo đức trong các xã hội cũ. Người luận chứng  rằng, đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất, chân chổng lên trời. Đạo   đức mới như  người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngẩng lên trời;   rằng, bọn phong kiến ngày xưa đưa ra cần, kiệm, liêm, chính nhưng không  bao giờ thực hiện, mà bắt nhân dân phải tuân theo để phụng sự quyền lợi của   chúng. Ngày nay, chúng ta đề ra và thực hiện cần, kiệm, liêm, chính là nhằm   làm cho ích nước, lợi dân. Đạo đức của con người không phải mang tính chất  “tiên thiên” như Nho gia quan niệm, cũng không phải là cái gì đó có tính “nhất   thành bất biến”, mà nó được hình thành do hoàn cảnh giáo dục, do sự   rèn  luyện, phấn đấu và tu sửa bản thân của mỗi người. Từ quan niệm cho rằng,   “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn  luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố”, Hồ Chí Minh đòi hỏi mọi   người phải thường xuyên được giáo dục và tự giáo dục về mặt đạo đức. 2.   Đặc điểm của tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức là có tính thực tế,  tính toàn diện và tính thống nhất. ­ Tính thực tế trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh biểu hiện ở chỗ nó   hình thành không phải do sự suy lý tư biện mà do chính sự tổng kết thực tiễn   đạo đức xã hội Việt Nam, đạo đức của con người Việt Nam, nhất là tổng kết  kinh nghiệm rèn luyện tu dưỡng đạo đức của chính bản thân Hồ Chí Minh mà  nâng lên tầm lý luận, và qua sự  làm gương và nêu gương, qua các gương   người tốt, việc tốt hàng ngày mà đúc kết thành luân lý, thành chuẩn mực điều   chỉnh hành vi của người Việt Nam trong hoạt động sống.
  3. Trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ  nước, ông cha ta luôn coi   trọng đạo đức, hình thành nên các chuẩn mực giá trị  đạo đức tốt đẹp trong   quan hệ gia đình, cộng đồng và xã hội, phù hợp với yêu cầu tồn tại, phát triển   của dân tộc. Đó là truyền thống yêu quê hương đất nước; gắn bó với thiên   nhiên, với cộng đồng; đoàn kết, thuỷ chung nhân ái, quý trọng nghĩa tình; yêu   lao dộng; dũng cảm, kiên cường, hiếu học, sáng tạo... Tư  tưởng đạo đức Hồ  Chí Minh bắt nguồn từ  truyền thống đạo đức  của dân tộc Việt Nam, được Người kế thừa và phát triển, kết hợp với những   tinh hoa văn hoá, đạo đức của nhân loại, cả phương Đông và phương Tây, mà  Người đã tiếp thu được trong quá trình hoạt động cách mạng đầy gian lao,   thử thách và vô cùng phong phú của mình. Tư tưởng đạo đức đó kết hợp với  đạo đức tiên tiến nhất của thời đại là đạo đức cộng sản trong Hồ Chí Minh,   từ đó Người đã xây dựng nên những giá trị  đạo đức mới, đó là đạo đức cách  mạng. Trong quá trình đấu tranh giành và bảo vệ nền độc lập, thống nhất của  Tổ  quốc, xây dựng và bảo vệ  đất nước, đạo đức mới ­ đạo đức cách mạng   Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng và động lực tinh thần, là nguồn sức mạnh  to lớn để Đảng và nhân dân ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giành độc lập,   tự  do, thống nhất cho Tổ  quốc, xây dựng đất nước theo mục tiêu: dân giàu,  nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh Tư  tưởng đạo đức Hồ  Chí Minh là sự  kết hợp đạo đức truyền thống  của  dân  tộc  với  tinh  hoa   đạo   đức  của  nhân  loại,  giữa   phương   Đông  với  phương Tây, được hình thành và phát triển từ  yêu cầu của sự  nghiệp giải  phóng dân tộc Việt Nam. Phải nhận thức rằng, Hồ Chí Minh đánh giá cao đạo đức truyền thống  dân tộc, đó là những đức tính sống có tình có nghĩa, có thủy có chung, có nhân  có đức, có trước có sau, biết trung, biết hiếu. Hồ Chí Minh nhấn mạnh những yếu tố  tích cực  của đạo đức Nho giáo  như: dân là gốc của nước; dân vi quý, xã tắc thứ  chi, quân vi khinh. Người   nhắc đến những mệnh đề  “nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm, tứ hải giai huynh đệ”   và đề  cao thuyết “đại đồng” của Nho giáo. Người cho rằng, “đạo đức của   Khổng tử là hoàn hảo”; “người An Nam chúng ta hãy tự hoàn thiện mình, về  mặt tinh thần bằng cách đọc các tác phẩm của Khổng Tử, và về  mặt cách  mạng thì cần đọc các tác phẩm của Lênin” (1) . Theo Người, Khổng giáo là  một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng xử. Khổng tử có ưu  điểm là tu dưỡng đạo đức cá nhân. Vì vậy, tuy Khổng tử là phong kiến, song   những điều hay trong đó thì ta nên học lấy. Mặt khác, Người chỉ ra nhiều  tiêu cực  như Khổng giáo căn bản là sự  bình yên trong xã hội, không bao giờ thay đổi. Học thuyết đạo đức Nho giáo 
  4. nhằm phụng sự quyền lợi cho giai cấp phong kiến, đi ngược lại lẽ  tiến hoá  của lịch sử và lợi ích của nhân dân. Rõ ràng là giữa Hồ Chí Minh và đạo đức   Nho giáo có nhiều khác biệt. Nhận thức đúng đắn vấn đề  này để  thấy rằng,  Người nhấn mạnh tác dụng to lớn của đạo đức cách mạng, tiếp thu, trân  trọng mặt tích cực, phê phán mặt tiêu cực của đạo đức Nho giáo. Ánh sáng cách mạng của chủ nghĩa Mác­Lênin thực sự đem đến cho Hồ  Chí Minh một cuộc cách mạng trong quan niệm đạo đức. Người nâng cao đạo  đức   truyền   thống   của   dân   tộc,   chắt   lọc   tinh   hoa   đạo   đức   phương   Đông,  phương Tây để xây dựng một nền đạo đức mới Việt Nam, tạo ra sức mạnh   tinh thần to lớn, kết hợp với sức mạnh vật chất đưa dân tộc Việt Nam đi tới   những thắng lợi vẻ vang. ­ Tính toàn diện trong tư tưởng đạo đức Hồ  Chí Minh thể  hiện  ở  chỗ  vấn đề  đạo đức được Hồ  Chí Minh đề  cập cho mọi đối tượng (sĩ, nông,   công, thương, chính khách, tu hành… nam, nữ. ấu, phụ), cho mọi lĩnh vực (lao  động, sản xuất, học tập, công tác. chiến đấu…), mọi phạm vi (từ  gia đình  đến xã hội, từ  giai cấp đến dân tộc, từ  quốc gia đến quốc tế…). Không chỉ  bàn đến đề cập đến mà Hồ Chí Minh còn nêu các tiêu chí, tiêu chuẩn đạo đức  để mỗi đối tượng rèn luyện tu dưỡng theo, như ở điều Bác Hồ dạy thiếu nhi;   6 lời dạy công an nhân dân. . Vấn đề  đạo đức được Hồ  Chí Minh xem xét một cách  toàn diện  đối  với mọi giai cấp và tầng lớp nhân dân lao động, đặc biệt là cán bộ, đảng viên.   Người yêu cầu rèn luyện đạo đức trong các môi trường gia đình, công sở, xã   hội. Tấm gương và tư  tưởng đạo đức Hồ  Chí Minh có giá trị  to lớn, lâu dài   trong phạm vi dân tộc và quốc tế. Người đề  cập đạo đức trong nhiều mối  quan hệ khác nhau, nhưng chủ yếu là các mối quan hệ với mình, với người và  với việc ­ Tính thống nhất trong vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh bàn nhiều,  nói nhiều. Đó là thống nhất giữa đức với tài, giữa hồng với chuyên, thống   nhất giữa hành vi đạo đức với ý thức đạo đức. thống nhất giữa đạo đức với   pháp luật, giữa đạo đức với chính trị, đạo đức đời thường với đạo đức cách  mạng,… nhất là sự  thống nhất trong văn hóa đạo đức, trong từng nội dung   khái niệm, chuẩn mực đạo đức, trong quan hệ cần, kiệm, liêm, chính với chí  công vô tư… quan hệ thống nhất giữa vai trò làm người lãnh đạo của cán bộ,   đảng viên với trách nhiệm công bộc, phục vụ nhân dân của họ. Đặc biệt quan  trọng là “nói phải làm” và tấm gương sáng của Hồ  Chí Minh nói đi đôi với  làm, nhiều khi trong quan hệ  đạo đức Hồ  Chí Minh làm nhiều hơn những   điều đã nói, luôn làm gương và nêu gương cho mọi người xung quanh. Ở  Hồ  Chí Minh có sự  thống nhất hoà quyện  giữa chính trị, đạo đức,  văn hoá, nhân văn: một nền chính trị rất đạo đức, rất văn hoá và đạo đức, văn  hoá lại rất chính trị. Tư  tưởng Hồ  Chí Minh trước hết là tư  tưởng chính trị,  định hướng chính trị  nhưng dễ  dàng tìm thấy một đạo đức trong sáng, một 
  5. chủ  nghĩa nhân văn hoàn thiện, một nền văn hoá của tương lai. Vấn đề  này   nằm trong vấn đề  kia, gắn bó với nhau, nâng lên, gộp lại thành chất “người”   hay trình độ “người” như cách nói của Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp. Tư  tưởng đạo đức “nước lấy dân làm gốc” lại nhằm phục vụ  cho sự  nghiệp   chính trị  vì nước, vì dân. Hoặc “trung với nước, hiếu với dân” là một tư  tưởng chính trị  đồng thời cũng là một phẩm chất cơ  bản của tư  tưởng đạo  đức. Sự  thống nhất trong tư  tưởng đạo đức Hồ  Chí Minh còn là sự  thống   nhất giữa tư tưởng và hành động, nói đi đôi với làm; giữa đức và tài; giữa đạo  đức cách mạng và đạo đức đời thường. 3. Thực trạng đạo đức của cán bộ, đảng viên và xã hội ta hiện nay Trong   sự   nghiệp   cách   mạng   giải   phóng   dân   tộc   cũng   như   trong   sự  nghiệp xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nói tới đạo đức  là xét trên ba mối quan hệ chủ yếu: với mình, với người, với việc. Biểu hiện  cụ thể của ba mối quan hệ đó là sự hy sinh phấn đấu để thực hiện lý tưởng,   mục tiêu, chấp hành kỷ  luật và đường lối chính sách của Đảng. Thực hành  đạo đức cách mạng là hoà mình với quần chúng thành một khối, tin tưởng  quần chúng, hiểu quần chúng, thực hành đại đoàn kết toàn dân. Đó chính là  lòng nhân của người cách mạng. Đạo đức cách mạng là phải đánh thắng và  tiêu diệt chủ nghĩa cá nhân, thực hành cần kiệm liêm chính... Xét trên những lĩnh vực then chốt nhất của đạo đức, xã hội ta đã có  những chuyển biến quan trọng. Trong sự nghiệp đổi mới, cán bộ, đảng viên  nhân dân ta đã sáng suốt, kế thừa và phát huy trí tuệ của dân tộc và thời đại,   tiêu biểu là chủ  nghĩa Mác­Lênin, tư  tưởng Hồ  Chí Minh để  vận dụng một  cách phù hợp vào điều kiện của đất nước. Đây là nhân tố hàng đầu bảo đảm  cho đời sống tinh thần ­ đạo đức của xã hội phát triển đúng hướng. Ý thức  phấn dấu cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tinh thần trách nhiệm của  cán bộ, đảng viên được nâng lên một bước. Nhiều nét mới trong giá trị  văn   hoá và chuẩn mực đạo đức từng bước được hình thành và ăn sâu vào tâm lý  quốc dân. Tính năng động và tính tích cực công dân được phát huy, sở trường   và năng lực cá nhân được khuyến khích. Không khí dân chủ trong xã hội tăng  lên. Thế  hệ  trẻ tiếp thu nhanh những kiến thức mới, trung thành, dũng cảm,   khiêm tốn, có ý chí vươn lên lập thân, lập nghiệp, xây dựng và bảo vệ  Tổ  quốc. Đạo lý của dân tộc sống có tình có nghĩa, bầu ơi thương lấy bí cùng, lá  lành đùm lá rách... được tiếp tục nhân rộng. Những việc làm thiết thực hướng  về cội nguồn, về cách mạng và kháng chiến, tưởng nhớ các anh hùng dân tộc,  quý trọng các danh nhân văn hoá, đền ơn đáp nghĩa những người có công, giúp   đỡ đồng bào hoạn nạn... trở thành phong trào quần chúng. Bên cạnh những thành tựu, nổi lên những mặt yếu kém về  nhận thức,  tư  tưởng, chính trị  dẫn tới phai nhạt lý tưởng và sa sút về  lối sống, phẩm   chất đạo đức. Hai vấn đề này gắn bó với nhau. trong thời gian gần đây sự suy thoái nghiêm trọng về đạo đức, lối sống  ở  một bộ phận không nhỏ  cán bộ, đảng viên, trong đó có cả  cán bộ  có chức 
  6. có quyền, cán bộ  trung, cao cấp. Nạn tham nhũng, dùng tiền của Nhà nước,   tiêu xài phung phí, ăn chơi sa đoạ  chưa dược ngăn chặn có hiệu quả. Hiện   tượng quan liêu, cửa quyền, sách nhiễu nhân dân, kèn cựa địa vị, cục bộ  địa   phương, bè phái, mất đoàn kết khá phổ  biến. Riêng tham nhũng thì ch ng ứ   minh bao nhiêu cũng không đủ, càng nói càng thấy đau xót. Ph i khả ng  ẳ định   rằng, bệnh đã nặng, cho nên phải chữa tận gốc, chữa một cách cơ bản. Về  nguyên nhân, bên cạnh những nguyên nhân khách quan như  sự  phá   hoại của kẻ địch, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, những tiêu  cực của cơ chế thị trường, nước ta còn nghèo th ì phải nhấn mạnh tới những  nguyên nhân chủ quan. Đảng ta chưa lường hết những tác động tiêu cực của   cơ chế thị trường, thiếu những biện pháp hữu hiệu cảx  ây v à ch ng ố tr ên   lĩnh vực đạo đức. Việc xử lý những phần tử thoái hoá biến chất trong Đảng  và bộ máy Nhà nước chưa nghiêm. Tinh thần tự phê bình và phê bình sa sút ở  nhiều cấp bộ  Đảng. Trong lãnh đạo và quản lý có những biểu hiện buông  lỏng, né tránh, hữu khuynh. .. 4. Học tập, rèn luyện theo tấm gương và tư  tương đạo đức Hồ  Chí   Minh Trước hết cán bộ, đảng viên, nhân dân phải nhận thức, quán triệt đầy  đủ  và rèn luyện đạo đức theo những nguyên tắc đã được Hồ  Chí Minh nêu   lên. Rèn luyện trong thực tiễn, nêu gương đạo đức, ng ườ ố c t i t t vi ệ ,t ố   x ây  đi liền với ch ng ố,  t  phự ê bình và phê bình tạo ra phong trào thi đua  rèn luyện đạo đức mới là những biện pháp tốt để  xây dựng đạo đức trong   tình hình hiện nay. Không thể  chỉ  giản đơn đòi hỏi xây dựng đạo đức xã hội chủ  nghĩa.  Nhưng rõ ràng chủ  nghĩa xã hội muốn thành công cần có đạo đức. Khi đất   nước bước vào thời kỳ  đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, việc học  tập và thực hành theo tấm gương và tư  tưởng đạo đức Hồ  Chí Minh trở  nên  cần thiết hơn bao giờ  hết. Văn kiện Đại hội IX của Đảng chỉ  rõ: Mở  rộng  trong Đảng và trong nhân dân phong trào học tập và làm theo tư  tưởng đạo  đức Hồ  Chí Minh. Mỗi cấp  ủy, mỗi chi bộ có kế  hoạch định kỳ  kiểm điểm   việc thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nâng cao đạo đức cách   mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Quán triệt tư  tưởng đạo đức Hồ  Chí Minh trong sự  nghiệp đổi mới,   trước hết phải thấm nhuần tư tưởng của Ng ười về vai trò và các phẩm chất   đạo đức. Điều quan trọng nhất là mỗi cán bộ, đảng viên phải gương mẫu   trong sinh hoạt và công tác, không ngừng nâng cao bản lĩnh, trí tuệ, nói đi đôi   với làm, chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh, Điều lệ, Nghị quyết của Đảng,  pháp luật của Nhà nước. Kiên quyết khắc phục sự  suy thoái đạo đức cũng  như những tiêu cực trong xã hội theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, là một   quá trình tạo ra những chuẩn giá trị  đạo đức mới phù hợp với tiến trình phát  triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
  7. Liên hệ bản thân: Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ  Chí Minh trong giai đoạn  hiện nay, Bản thân cần làm tốt các mặt sau đây: Một là, thực hiện “trung với nước, hiếu với dân”, trung thành vô   hạn với mục tiêu lý tưởng của Đảng, của dân tộc, tham gia tích cực vào   việc đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, vì mục tiêu dân giàu nước   mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Suốt đời hy sinh phấn đấu vì nước, vì dân tộc, Chủ  tịch Hồ  Chí Minh  chỉ  có một mong muốn, mong muốn tột bậc là đất nước ta được hoàn toàn  độc lập, dân ta được hưởng tự do, “đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai  cũng được học hành”.  Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh cần: ­ Trung thành vô hạn với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ  Tổ quốc, bảo  vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, nền văn hoá, bảo vệ Đảng, chế độ  và sự nghiệp đổi mới, bảo vệ lợi ích của đất nước, dân tộc. ­ Luôn luôn quan tâm đến lợi ích của nhân dân, tôn trọng dân, hết lòng,  hết sức phục vụ nhân dân, giải quyết kịp thời những yêu cầu, kiến nghị  của   dân, biết tập hợp nhân dân, phát huy sức mạnh của dân, tổ  chức, động viên  cho nhân dân phấn đấu thoát khỏi đói nghèo, “làm giàu cho mình, cho đất  nước”. ­ Có ý chí vươn lên, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội   công bằng, dân chủ, văn minh”, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng nước kém  phát triển, phấn  đấu đến năm 2020 nước ta cơ  bản trở  thành nước công   nghiệp theo hướng hiện đại.        ­ Có ý thức giữ gìn đoàn kết dân tộc, đoàn kết trong Đảng, trong nhân  dân; kiên quyết đấu tranh không khoan nhượng trước mọi mưu đồ chia rẽ dân   tộc, chia rẽ  khối đại đoàn kết toàn dân, chia rẽ  Đảng với nhân dân của các   thế lực thù địch, cơ hội.        ­ Có tinh thần trách nhiệm cao đối với công việc, có lương tâm nghề  nghiệp trong sáng; ham học hỏi, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. ­ Giải quyết đúng đắn mối quan hệ cá nhân ­ gia đình ­ tập thể ­ xã hội;  quan hệ giữa nghĩa vụ và quyền lợi theo lời dạy của Bác: “Việc gì có lợi  cho  dân thì làm. Việc gì có hại cho dân thì phải tránh”10. Hai là, thực hiện đúng lời dạy: ''Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô   tư”, nêu cao phẩm giá con người Việt Nam trong thời kỳ mới. ­ Tích cực lao động, học tập, công tác với tinh thần lao động sáng tạo  có năng suất, chất lượng, hiệu quả  cao; sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn   của Nhà nước, của tập thể, của chính mình một cách có hiệu quả. ­ Quý trọng công sức lao động và tài sản của tập thể, của nhân dân;  không xa hoa, lãng phí, không phô trương, hình thức.
  8. ­ Kiên quyết chống chủ  nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, không để  cho lợi ích cá nhân chi phối. Chống thói chạy theo danh vọng, địa vị, giành  giật lợi ích các mình, lạm dụng quyền hạn, chức vụ để chiếm đoạt của công;  cục bộ địa phương, thu vén cho gia đình, cá nhân. ­    Thẳng thắn, trung thực, bảo vệ  chân lý, bảo vệ   đường lối quan  điểm của Đảng, bảo vệ  người tốt; chân thành, khiêm tốn; không chạy theo  chủ nghĩa thành tích, bao che, giấu giếm khuyết điểm… ­    Kiên quyết chống bệnh lười biếng, chạy theo lối sống hưởng thụ,   vị kỷ, nói không đi đôi với làm, nói nhiều, làm ít, làm dối, làm ẩu. Có thái độ  rõ ràng, lên án và quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, loại trừ  mọi  biểu hiện vô liêm, bất chính ra khỏi đời sống xã hội. Ba là nâng cao ý thức dân chủ  và kỷ  luật, gắn bó với nhân dân, vì   nhân dân phục vụ ­    Đặt mình trong tổ  chức, trong tập thể, phải tôn trọng nguyên tắc,  pháp luật, kỷ cương. ­    Gần dân, học dân, có trách nhiệm với dân, khắc phục cho được thói  vô cảm, lãnh đạm, thờ ơ trước khó khăn, thắc mắc, những đau khổ của nhân  dân. ­    Coi  trọng tự  phê bình và phê bình, “phải nghiêm khắc với chính   mình”.  Phê   bình  có   mục  đích   trong   sáng,   có   lý,  có   tình.  Khắc   phục   bệnh  chuộng hình thức, thích nghe lời khen (thậm chí  xu nịnh), tâng bốc nhau,   không dám nói thẳng, nói thật... để giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, đồng thời, cần  phê phán những biểu hiện xuất phát từ  những động cơ  cá nhân, vụ  lợi mà  “đấu đá”; nhân danh phê bình để đả kích, lôi kéo, chia rẽ, làm rối nội bộ. Bốn là phát huy chủ  nghĩa yêu nước gắn chặt với chủ  nghĩa quốc   tế trong sáng, đoàn kết, hữu nghị giữa các dân tộc, chủ động, tích cực hội   nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá   với tinh thần Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng   đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế  và khu vực,  phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển. ­ Tôn trọng độc lập, chủ  quyền của các nước khác, mở  rộng hợp tác  cùng có lợi, cùng nhau phấn đấu vì hoà bình, phát triển, hợp tác, chống chiến   tranh, đói nghèo, bất công, cường quyền, áp đặt trong quan hệ  quốc tế. Với  những vấn đề  của quá khứ, lịch sử  cần xoá bỏ  mặc cảm, hận thù, nhìn về  tương lai, xây dựng tình hữu nghị giữa các dân tộc. ­ Chủ  động và tích cực hội nhập kinh tế  quốc tế, kết hợp sức mạnh   dân tộc với sức mạnh thời đại, nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài  để  đẩy mạnh sự  nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu   đến năm 2020 nước ta cơ  bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện   đại.
  9. ­  Nâng cao tinh thần độc lập tự  chủ, tự  lực, tự  cường, tự hào, tự  tôn   dân tộc; đấu tranh chống biểu hiện của dân tộc hẹp hòi, tự  ti; đồng thời phê  phán tư chủ nghĩa tư tưởng ngoại lai, vong bản, vọng ngoại,  ảo t ưởng tr ước   chủ nghĩa tư bản. Sự nghiệp cách mạng của chúng ta, cuộc sống của nhân dân ta đang đòi  hỏi phải kiên quyết làm trong sạch Đảng và làm lành mạnh đời sống đạo đức  xã hội. LÀM được hai hiệm vụ  trên cũng chính là thực hiện trung thành với  những khát vọng và di huấn đạo đức của Chủ tịch hồ Chí Minh đã để lại cho  Đảng ta, dân tộc ta. Trở về và thấu hiểu sâu hơn nữa cội nguồn Hồ Chí Minh,  tư  tưởng đạo đức Hồ  Chí Minh sẽ  giúp chúng ta vững tâm, kiên định đi tới  trong cuộc đấu tranh vì một nền đạo đức Việt Nam ngang với tầm vóc của  dân tộc và thời đại, thấm sâu những tư  tưởng lớn của Người về  đạo đức   mới, đạo đức cách mạng.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1