ALỜI NÓI ĐẦU
Thời gian qua cùng với sự hình thành và phát triển của các loại hình
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Doanh nghiệp vừa và nhỏ đã
phát triển một cách mạnh mẽ, đóng góp một vai trò quan trọng vào sự phát
triển chung của nền kinh tế nước ta. Tuy nhiên hiện nay chúng ta chưa có
một chính sách đồng bộ nhằm tạo điều kiện cho loại hình doanh nghiệp này
phát triển.
Đứng trước yêu cầu trên Nhà nước cần phải đưa ra một hệ thống chính
sách nhằm khuyến khích, tạo điều kiên phát triển loại hình doanh nghiệp
này. Về cơ bản, loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam hiên nay
chủ yếu thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, vì vậy với đề tài "
Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trướng ở Việt
Nam" chủ yếu tập trung vào nghiên cứu thực trạng, giải pháp nhằm phát
triển khu vực doanh nghiệp này. Với mục đích nghiên cứu trên đề tài được
chia thành ba phần.
Phần I : Tổng quan về doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Phần này nghiên cứu một cách khái quát loại hình doanh nghiệp vừa
và nhỏ.
Phần II : Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam.
Đây là phần chính của đề tài, với phấn này sẻ nêu lên những điếu kiện
để phát triển các doang nghiệp vừa và nhỏ đồng thời nêu lên thực trạng
phát triển loại hình doanh nghiệp này thời gian qua ở nước ta từ đó đưa ra
những kiến nghị về mặt quản lý cùng như những kiến nghị về mặt tổ chức
điều hành từ phìa các doanh nghiệp.
Phần III : Kinh nghiệm phát triển và quản lý doanh nghiệp vừa
và nhỏ của một số nước trên thế giới.
Với phần này sẻ nêu lên một số kinh nghiệp của các nước trên thế
giời, từ các nước phát triển đến các nước đang phát triển từ đó rút ra những
bài học ứng dụng vào Việt Nam.
PHẦN I
TỔNG QUAN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA NHỎ
I: Khái niệm doanh vừa và nhỏ
Ở Việt Nam hiện nay, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là vấn
đề được Nhà nước quan tâm đặc biệt. Vì sự thành đạt của một quốc gia phụ
thuộc rất nhiều vào sự phát triển của các doanh nghiệp. Mà trong giai đoạn
đầu phát triển kinh tế thị trường thì doanh nhiệp quy mô vừa và nhỏ có ý
nghĩa vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, cho tới nay vẫn chưa có một định
nghĩa chung, hoàn chỉnh về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Để xác định chính
xác loại hình doanh nghiệp này người ta thường căn cứ vào hai tiêu chí.
Nhóm các tiêu chí định tính bao gồm: chuyên môn hoá thấp, số đầu
mối quản lý ít, không phức tạp. Nhóm yếu tố này phản ánh đúng bản chất
vấn đề nhưng thường khó xác định bởi vậy mà nó mang tính tham khảo,
kiểm chứng, ít được sử dụng trong thực tế.
Nhóm tiêu chí định lượng: Có thể bao gồm số lao đông định biên, giá
trị tài sản, vốn kinh doanh, doanh thu, lợi nhuận, nhóm tiêu chí này mỗi
nước sử dụng hoàn toàn không giống nhau, có thể căn cứ vào cả lao động,
vốn, doanh thu cũng có thể chỉ căn cứ vào số lao động hoặc vốn kinh
doanh.
Hãy xem xét khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ của một số nước
trên thế giới để tham khảo.
Hàn Quốc: Là một nước công nghiệp trẻ, đạt được nhiều thành công
chính là nhờ sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hàn Quốc đã có những
đạo luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó xác định rõ những
tiêu chuẩn để được công nhận là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Những tiêu
chuẩn đó còn phụ thuộc vào lĩnh vực hoạt động cụ thể như sau.
Trong lĩnh vực chế tạo, khai thác, xây dựng: doanh nghiệp có dưới
300 lao động thường xuyên và tổng vốn đầu tư dưới 600.000 USD được coi
là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số này doanh nghiệp nào có dưới 20 lao
động được coi là doanh nghiệp nhỏ.
Trong lĩnh vực thương mại: doanh nghiệp có dưới 20 lao động thường
xuyên và doanh thu dưới 500.000 USD/năm (nếu là bán lẻ) và dưới
250.000 USD/ năm (nếu là bán buôn) được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong số này doanh nghiệp nào có dưới 5 lao động thưòng xuyên được coi là doanh nghiệp nhỏ1(các tiêu thức này được xác định từ những năm 70,
đến nay tiêu thức về lao động đã thay đổi từ 2 đến 3 lần và vốn đã tăng
hàng chục lần).
Nhật Bản: là một nước đã tạo nên huyền thoại “thần kỳ” trong phát
triển kinh tế vào những năm của thập kỷ 50 đến thập kỷ 70. Từ những năm
60, Nhật Bản có đạo luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ, trong đó xác
định doanh nghiệp vừa và nhỏ như sau:
Đối với doanh nghiệp sản xuất: doanh nghiệp có dưới 300 lao động và
một khoản tư bản hoá (vốn đầu tư) dưới 100 triệu Yên (tương đương với 1.
000. 000 USD) được coi là doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong số này, doanh
nghiệp nào có dưới 20 lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ.
Đối với doanh nghiệp bán buôn: doanh nghiệp có dưới 100 lao động
hoặc có một khoản tư bản hoá dưới 30 triệu Yên (tương đương 100.000
USD) được coi là doanh nghiệp nhỏ.
Đối với doanh nghiệp bán lẻ và dịch vụ: doanh nghiệp có dưới 50 lao
động hoặc một khoản tư bản hoá dưới 10 triệu yên (tương đương 100. 000
USD) được coi là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ. Trong số này,
doanh nghiệp nào có dưới 5 lao động được coi là doanh nghiệp nhỏ (những
1 Thông tin phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, 1/1997, tr 2.
tiêu thức này nay được xác định từ những năm 60, hiên nay vốn đã tăng lên hàng chục lần)2.
Trong khái niệm về doanh nghiệp vừa và nhỏ, Nhật Bản chỉ quan tâm
đến hai tiêu thức là vốn và lao động. Đối với tiêu thức lao động của loại
hình doanh nghiệp nhỏ, Nhật Bản quan niệm gần giống với Hàn Quốc, rất
thấp so với khu vực châu á. Phải chăng các nước có tiềm lực kinh tế mạnh,
nguồn nhân lực có hạn, họ quan tâm đến tiêu thức vốn đầu tư nhiều hơn.
Thái Lan: là một trong những nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh,
họ quan niệm doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 200 lao động, doanh nghiệp nhỏ có dưới 50 lao động 3. Như vậy Thái Lan chỉ quan tâm đến tiêu thức
lao động và cũng không tính đến tính chất đặc thù của nghành kinh tế (tiêu
thức này gần giống với Việt Nam).
Các nước khác như Phi-lip-pin lại lấy tiêu thức chủ yếu là lao động và
giá trị tài sản cố định; In-đô-nê-xi-a lấy tiêu thức vốn bình quân cho một
lao động; Trung quốc lại lấy tiêu thức sản lượng đầu tư. Mỹ lấy tiêu thức
lao động, trị số hàng hoá bán ra (doanh thu tiêu thụ) đối với doanh nghiệp
bán buôn, dịch vụ, đối với doanh nghiệp sản xuất thì có tính đến yếu tố
ngành sản xuất.
ở nước ta, trước đây do chưa có tiêu chí chung thống nhất xác định
DNV & N nên một số cơ quan nhà nước, tổ chức hổ trợ DNV & N đã đưa
ra tiêu thức riêng để xác định DNV & N phục vụ công tác của mình. Theo
Công văn số 681/CP-KNT nêu trên, các doanh nghiệp có vốn điều lệ DNV
& Nưới 5 tỷ đồng và số lao động trung bình hàng năm dưới 200 ngưòi là
các DNV & N.
Tuy nhiên, các tiêu chí xác định trong cộng văn 681/CP-KTN chỉ là
quy ước hành chính để xây dựng cơ chế chính sách hổ trợ DNV & N , là cơ
2 Industrial Policy of Japan. p 534. (Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam)-tr 12 3 Thông tin phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ, 1/1997, tr3
sở để các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính thức của nhà nước thực thi
chính sách đối với khu vực DNV & N. Việc các tổ chức phi chính phủ, các
tổ chức tài chính không có chức năng thực thi các các chính sách Nhà nước
đối với DNV & N áp dụng các tiêu chí khác nhau là được, vì các cơ quan
đó có mục tiêu, đối tượng hổ trợ khác nhau. Việc đưa ra các tiêu thức xác
định DNV & N mới chỉ có tính ước lệ, bản thân các tiêu chí đó chưa đủ xác
định thế nào là khu vưc DNV & N ở Việt Nam, bởi vì có rất nhiếu các quan
điểm khác nhau về việc các đối tượng, các chủ thể kinh doanh được coi là
thuộc về hoặc không thuộc về khu vực DNV & N. Vì vậy, nhiều ý kiến cho
rằng cần quy định rõ DNV & N ở Việt Nam là cơ sở sản xuất có đăng ký,
không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn và/ hoặc lao động
thoả mãn qui định của Chính phủ đối với từng ngành nghề tương ứng với
từng thời kỳ phát triển của nền kinh tế.
Một số tiêu chí xác định DN vừa và nhỏ đã được áp dụng ở Việt Nam
Vốn
Doanh thu
Lao động
Cơ quan, tổ chức đưa ra tiêu chí
Dưới 500 ngưòi
dưới 20 tỷ đồng/tháng
Ngân Hàng công Thương Việt Nam
Vốn cố định dưới 10 tỷ đồng, vốn lưu động dưới 8 tỷ đồng
dưới 100 người
Liên Bộ Lao Động & Tài chính
Vốn pháp định dưới 1 tỷ đồng
dưới 1 tỷ đồng/năm
Dự án VIE/US/95 (Hỗ trợ DNV & N ở Viêt Nam của UNIDU)
+ Doanh nghiệp nhỏ
dưới 30 người
+doanh nghiệp vừa
Vốn đăng ký dưới 0,1 triệu USD
Từ 30 dến 500 người
Vốn đăng ký dưới 0,4 triệu USD
Quỹ hỗ trợ DNV & N (Chương trình Việt
Vốn điều lệ từ 50.000 đến 300.000
Từ 10 đến 500 người
Nam- EU)
Nguồn: Bộ kế hoạch & Đầu Tư
II. Sự cần thiết khách quan phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
1. Lợi thế và bất lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ
1.1 Những lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
- Chúng gắn liền với công nghệ trung gian, là cầu nối giữa công nghệ
truyền thống và công nghệ hiên đại.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tính năng động, linh hoạt, tự do, sánh
tạo trong kinh doanh.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ dể dàng và nhanh chóng đổi mới thiết
bị công nghệ, thích ứng với cuộc cách mạng khoa học-công nghệ hiện đại.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ cần vốn đầu tư ban đầu ít, hiệu quả cao,
thu hồi vốn nhanh.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tỷ suất đầu tư trên lao động thấp nhiều
so với doanh nghiệp lớn, vì vậy nó có hiệu suất tạo việc làm cao.
- Hệ thống tổ chức sản xuất và quản lý ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ
gọn nhẹ, linh hoạt, công tác điều hành mang tính trực tiếp.
- Quan hệ giữa người lao động và người quản lý (quan hệ chủ- thợ)
trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ khá chặt chẻ.
- Sự đình trệ, thua lỗ, phá sản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ có ảnh
hưởng rất ít hoặc không gây khủng hoảng kinh tế- xã hội, đồng thời ít chịu
ảnh hưởng của các cuộc khủng hoảng dây chuyền.
1.2 Những bất lợi của doanh nghiệp vừa và nhỏ:
Bên cạnh những lợi thế kể trên doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có
những bất lợi so với doanh nghiệp có quy mô lớn.
- Thông thường các doanh nghiêp vừa và nhỏ thường có nguồn tài
chính hạn chế.
Cơ sở vật chất kỹ thuật, trình độ thiết bị công nghệ yếu kém, lạc
hậu. Khả năng đổi mới công nghệ hay áp dụng những tiến bộ khoa học- kỹ
thuật vào sản xuất là hạn chế.
- Khả năng tiếp cận thông tin và tiếp thị của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ bị hạn chế rất nhiều.
- Trình độ quản lý ở các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn bị hạn chế.
- Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có năng suất lao động và sức cạnh
tranh kinh tế thấp hơn nhiều so với doanh nghiệp lớn.
2. Vai trò và tác động kinh tế-xã hội của DNV & N
Mặc dù có những thế bất lợi nhất định nhưng doang nghiệp vừa và
nhỏ với những tính chất, đặc điểm và lợi thế của nó, nên các doanh nghiệp
này có vị trí và vai trò tác động kinh tế-xã hội rất lớn.
Thứ nhất, các DNV & N có vị trí rất quan trọng ở chỗ, chúng chiếm
đa số về mặt số lượng trong tổng số các cơ sở sản xuất kinh doanh và ngày
càng gia tăng mạnh. ở hầu hết các nước doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm
khoảng trên dưới 90 % tổng số các doanh nghiệp. Tốc độ gia tăng các
doanh nghiệp vừa và nhỏ nhanh hơn các doanh nghiệp lớn. Hiện nay, chưa
có số liệu thống kê về doanh nghiệp vừa và nhỏ một cách chính thức,
nhưng hầu hết các nhà nghiên cứu đều cho rằng các doanh nghiệp vừa và
nhỏ Việt Nam cũng chiếm khoảng 80-90% tổng số các doanh nghiệp.
Thứ hai, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò quan trọng trong sự
tăng trưởng của nền kinh tế. chúng đóng góp phần quan trọng vào sự gia
tăng thu nhập quốc dân của các nước trên thế giới, bình quân chiếm khoảng
50% GDP ở mỗi nước, Theo đánh giá của Viện Nghiên cứu quản lý TW, thì hiện nay doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếp khoảng 24% GDP.4
Thứ ba, tác động lớn nhất của doanh nghiệp vừa và nhỏ là giải quyết
một số lượng lớn chổ làm việc cho dân cư, làm tăng thu nhập cho người lao
động, góp phần xoá đói giảm nghèo. Xét theo luận điểm tạo công ăn việc
làm cho người lao động, thì khu vực này vượt trội hẳn so với khu vực khác,
góp phần giải quyết nhiều vấn đề xã hội bức xúc, ở hầu hết các nước doanh
nghiệp vừa và nhỏ tạo việc làm cho khoảng từ 50- 80% lao động trong các
nghành công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt trong nhiều thời kỳ các doanh
nghiệp lớn sa thải công nhân thì khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ lại thu
hút thêm nhiều lao động hoặc có tốc độ thu hút lao động mới cao hơn khu
vực doanh nghiệp lớn. ở Việt Nam cũng theo đánh giá của Viện Nghiên
cứu quản lý Kinh tế TW, thì số lao động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
trong lĩnh vực phi nông nghiệp có khoảng 7,8 triệu người, chiếm tới 72,9%
tổng số lao động phi nông nghiệp và chiếm khoảng 22,5% lực lượng lao động của cả nước.5
Thứ tư, các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần làm năng động nền
kinh tế trong cơ chế thị trường, do lợi thế quy mô vừa và nhỏ là năng động,
linh hoạt, sáng tạo trong kinh doanh, cùng với hình thức tổ chức kinh
doanh có sự kết hợp chuyên môn hoá và đa dạng hoá mềm dẻo, hoà nhịp
được với những đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.
Thứ năm, khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút được khá nhiều
vốn ở trong dân. Do tính chất nhỏ lẻ, dễ phân tán đi sâu vào dân cư và yêu
cầu về số lượng vốn ban đầu không nhiều, cho nên các doanh nghiệp vừa
4 Báo cáo: Hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô, cải cách thủ tục hành chính phát triển DNVVN ở Việt Nam- Trong khuôn khổ dự ánUNIDO-MPI-US/VIE/95/004, tr 5 5 Báo cáo: Hoàn thiện chính sách kinh tế vĩ mô, cải cách thủ tục hành chính phát triển DNVVN ở Việt Nam- Trong khuôn khổ dự ánUNIDO-MPI-US/VIE/95/004, tr 6
và nhỏ cố tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ, nhàn rỗi
trong các tầng lớp dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh, chúng tạo lập
dần tập quán đầu tư vào sản xuất kinh doanh và hình thành các khu vực để
thực hiện có kết quả vấn đề huy động vốn của dân cư theo luật khuyến
khích đầu tư trong nước.
Thứ sáu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò to lớn đối với quá
trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt đối với khu vực nông thôn đã
thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, làm cho công nghiệp
phát triển mạnh, đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại- dịch vụ phát
triển. Sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng góp phần làm tăng tỷ
trọng công nghiệp, dịch vụ và làm thu hẹp dần tỷ trọng khu vực nông
nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn góp
phần đa dạng hoá cơ cấu công nghiệp.
Thứ bảy, các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần vào đô thị hoá phi
tập trung và thực hiện phương châm “ly nông bất ly hương”. Sự phát triển
của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn sẻ thu hút những người lao
động thiếu hoặc chưa có việc làm và có thể thu hút lượng lớn lao động thời
vụ trong các kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất-kinh doanh, rút dần lao
động làm nông nghiệp sang làm công nghiệp hoặc dịch vụ, nhưng vẫn sống
tại quê hương bản quán,không phải di chuyển đi xa, thực hiên phương
châm “ly nông bất ly hương”. Đồng hành với nó là hình thành những khu
vực khá tập trung các cơ sở công nghiêp và dịch vụ ngay tại nông thôn, tiến
dần lên hình thành nhứng thị tứ, thị trấn, là hình thành các đô thị nhỏ đan
xen giữa những làng quê, là quá trình đô thị hoá phi tập trung.
Thứ tám, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi ươm mầm các tài năng
kinh doanh, là nơi đào tạo các nhà doanh nghiệp. Kinh doanh quy mô nhỏ
sẽ là nơi đào tạo, rèn luyện các nhà doanh nghiệp làm quen với môi trường
kinh doanh. Bắt đầu từ kinh doanh quy mô nhỏ và thông qua điều hành
quản lý kinh doanh quy mô vừa và nhỏ, một số nhà doanh nghiệp sẽ trưởng
thành nên những nhà doanh nghiệp lớn tài ba, biết đưa doanh nghiệp của
mình nhanh chóng phát triển. Các tài năng kinh doanh sẻ được ươm mầm
từ đây.
3. Tính tất yếu khách quan của sự xuất hiện, tồn tại và phát triển
của các DNV & N.
Lịch sử ra đời và phát triển nền sản xuất hàng hoá gắn liền với sự hình
thành và phát triển các doanh nghiệp. Giai đoạn tiền sử ( C. Mác gọi là
hàng hoá giản đơn) không có sự phân biệt giữa giới chủ và người thợ.
Người sản xuất hàng hoá vừa là người chủ sở hữu tư liệu sản xuất, vừa là
người lao động trực tiếp, vừa là người điều khiển (quản lý) công việc của
mình (của gia đình mình), vừa là người trực tiếp mang sản phẩm của mình
trao đổi trên thị trường. Đó là loại doanh nghiệp cá thể, doanh nghiệp gia
đình, doanh nghiệp cực nhỏ. Trong thời kỳ hiện đại, thông thường đại đa số
những người khi mới trưởng thành để đi làm việc được, đều muốn thử sức
mình trong nghề kinh doanh. Với một số vốn trong tay ít ỏi, với một trình
độ nhất định, lĩnh hội được trong các trường chuyên nghiệp, bắt đầu khởi
nghiệp, phần lớn họ đều thành lập doanh nghiệp nhỏ chỉ của riêng mình, tự
sản xuất, tự kinh doanh.
Trong sản xuất- kinh doanh có một số người đã gặp vận may và đặc
biệt là nhờ sự tài ba của mình, biết chớp thời cơ, có sáng kiến cải tiến kỹ
thuật, khéo điều hành và tổ chức sắp xếp công việc, cần cù,chịu khó, tiết
kiệm...đã thành đạt, ngày càng giàu lên, tích luỹ được nhiều của cải, tiền
vốn, thường xuyên mở rộng quy mô sản xuất-kinh doanh, đến một lúc nào
đó, lực lượng lao động của gia đình không đảm đương hết công việc, cần
phải thuê thêm người làm và họ trở thành ông chủ. Ngược lại , một bộ phận
nguời sản xuất hàng hoá nhỏ khác, hoặc do không gặp vận may trong sản
xuất-kinh doanh và đời sống, hoặc do kém cỏi không biết chớp thời cơ,
không có sáng kiến cải tiến kỹ thuật, không biết tính toán quản lý và điều
hành doanh nghiệp... đã dẫn đến thua lỗ triền miên, buộc phải bán tư liệu
sản xuất, đi làm thuê cho người khác. Những giai đoạn đầu, các ông chủ và
những người thợ cùng lao động trực tiếp với nhau và những người làm thuê
thường là bà con họ hàng của ông chủ sau đó thì mở rộng dần ra. Các học
giả thường xếp loại này vào phạm trù DNV & N.
Trong quá trình sản xuất- kinh doanh, một số người thành đạt đã phát
triển doanh nghiệp của mình, bằng cách mở rộng sản xuất kinh doanh, và
như vậy nhu cầu về vốn sẻ đòi hỏi nhiều hơn. Nhu cầu về vốn ngày càng
tăng, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất- kinh doanh đã thôi thúc các nhà
doanh nghiệp, hoặc một số người cùng nhau góp vốn thành lập xí nghiệp
sản xuất-kinh doanh, hoặc phát hành cổ phiếu thành lập công ty cổ phần.
bằng cách liên kết ngang, dọc hoặc hổn hợp, nhiều tập đoàn kinh tế, nhiều
doanh nghiệp lớn hình thành và phát triển.
Nền kinh tế một quốc gia là tổng hợp các doanh nghiệp lớn, bé tạo
thành. Phần đông các doanh nghiệp lớn trưởng thành, phát triển từ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy luật đi từ nhỏ đến lớn là con đường tất yếu
của sự phát triển bền vững mang tính phổ biến của đại đa số các doanh
nghiệp trong nền kinh tế thị trường . Đồng thời, sự tồn tại đan xen và kết
hợp các loại quy mô doanh nghiệp làm cho nền kinh tế của mỗi nước khắc
phục được tính đơn điệu, xơ cứng, tạo nên sự đa dạng, phong phú, linh
hoạt, vừa đáp ứng những nhu cầu phát triển đi lên lẫn những biến đổi
nhanh chóng của thi trường trong điều kiện của cuộc cách mạng khoa học-
công nghệ hiện đại, đảm bảo tính hiệu quả chung của nền kinh tế.
Để phát triển đất nước không thể không có các doanh nghiệp lớn với
tiềm lực kinh tế, kỹ thuật hiện đại nhằm tạo ra khả năng cạnh tranh trên thị
trường quốc tế. Ngoài việc xây dựng các doanh nghiệp lớn thật cần thiết,
chúng ta phải tích cực tập trung hình thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
tạo điều kiện cho nó sớm vươn lên thành nhữnh doanh nghiệp lớn. Đây
thực sự là việc cần phải làm trong giai đoạn phát triển hiện nay.
PHẦN II
PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ
TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Ở VIỆT NAM
I: Những điều kiện kinh tế- xã hội đảm bảo phát triển doanh nghiệp
vừa và nhỏ ở việt nam hiện nay
1. Về thị trường
Đối với hoạt động sản xuất-kinh doanh của mỗi doanh nghiệp thì điều
kiện tồn tại và phát triển đầu tiên là thị trường. Thị trường là yếu tố mang
tính tổng hợp nhất, là nhân tố quan trọng hàng đầu tạo nên môi trường kinh
doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. Trong đó, điều kiện về thị trường
tiêu thụ sản phẩm, thị trường đầu ra là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự
thành bại, sự tồn tại, phát triển thịnh vượng hay thua lỗ, phá sản của các
doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Khó khăn lớn nhất của nước ta
hiện nay chính là thị trường tiêu thụ sản phẩm.
Theo nghĩa đầy đủ, Thị trường phải bao hàm cả thị trường các yếu tố
đầu vào. Đó là thị trường cung ứng nguyên vật liệu, thiết bị, công nghệ, thị
trường vốn, thị trường sức lao động, thậm chí còn bao hàm cả thị trường
bất động sản. Hiện nay, tuy không phải là khó khăn quan trọng nhất,
nhưng các doanh nghiệp vừa và nhỏ nước ta đang gặp khó khăn đối với thị
trường các yếu tố đầu vào, cản trở không ít tới quá trình phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Khắc phục vấn đề này cũng là những đòi hỏi cấp
thiết để tạo điều kiện cho sự phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước
ta.
2. Về vốn tài chính
Mọi hoạt động sản xuất kinh doanh đều cần vốn tài chính. Qua sự vận
động của vốn có thể xác định được trạng thái hoạt động của doanh nghiệp.
điều kiện về vốn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hiện nay rất
hạn hẹp và gặp khó khăn rất lớn. Sự thiếu vốn của chúng đang diễn ra trên
bình diện khá rộng. Bởi vì, quy mô vốn tự có của nó đều rất nhỏ, hạn hẹp,
không đủ tài trợ cho các hoạt động sản xuất-kinh doanh có hiệu quả, đặc
biệt đối với những doanh nghiệp muốn mở rộng, phát triển quy mô và đổi
mới nâng cấp, phát triển công nghệ. Mặt khác, thị trường vốn dài hạn, thị
trường chứng khoán, về cơ bản nước ta chưa có. Và nếu có thì khả năng
tham gia thị trường chứng khoán của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất
hạn chế, hiếm hoi. Đồng thời, khả năng và điều kiện tiếp cận các nguồn
vốn trên thị trường tín dụng đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ là rất hạn
chế và gặp khó khăn lớn, là do: không đủ tài sản thế chấp; mức lãi suất khá
cao so với lợi nhuận thu được, khối lượng cho vay ít, thời hạn cho vay quá
ngắn, thủ tục rườm rà phiền hà; hình thức và thể chế tín dụng, nhất là khu
vực nông thôn, còn nghèo nàn, đơn điệụ và hiệu lực pháp lý không cao.
Những khó khăn đó rất cần được giải quyết để tạo điều kiện cho sự tồn tại
và phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
3. Về thiết bị - công nghệ
“Bộ ba vốn-thị trường-công nghệ” luôn là vấn đề cốt lõi của mỗi
doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều kiện thiết bị
công nghệ sẻ tác động trực tiếp tới năng suất, chất lượng sản phẩm, giúp
cho doanh nghiệp nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Trong những năm đổi mới vừa qua do sức ép của thị trường và cơ chế
quản lý kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã có những đổi mới công
nghệ nhất định. Đó là việc dùng điện vào sản xuất và gắn liền với nó là
thực hiện nửa cơ khí, cơ khí hoá từng phần hoặc toàn bộ quá trình sản
xuất. Song nhìn chung thiết bị công nghệ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ
hiện nay còn lạc hậu, trình độ thấp, hiệu quả chưa cao, đang gặp khó khăn
đối với việc nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Hơn nữa, điều kiện
về vốn tài chính và các điều kiện khác không cho phép các doanh nghiệp
vừa và nhỏ tài trợ để đổi mới công nghệ, áp dụng một cách mạnh mẽ các
loại công nghệ tiên tiến, hiện đại.
4. Về nhà xưởng, mặt bằng SX-KD và các kết cấu hạ tầng khác
Điều kiện mặt bằng cho sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp
vừa và nhỏ nhìn chung rất chật hẹp và gặp nhiều khó khăn trong việc tạo
lập và mở rộng mặt bằng, do cơ chế chính sách chưa thích hợp và khả năng
về tài chính của các doanh nghiệp. Đa số các doanh nghiệp phải thuê mựợn
lại mặt bằng của các doanh nghiệp nhà nước, hoặc phải dùng nhà ở làm nơi
sản xuất, kinh doanh, giao dịch, giới thiệu, bán hàng. Hệ thống điện, nước
cung cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như không đảm bảo. Hệ
thống xử lý nước thải của các doanh nghiệp vừa và nhỏ hầu như không có,
gây tác hại rất lớn tới môi trường sống.
Các điều kiện về kho bãi, đường xá trong và ngoài doanh nghiệp, nhất
là hệ thống giao thông công cộng phục vụ cho sản xuất-kinh doanh, giao
lưu hàng hoá của các doanh nghiệp trong cả nước nói chung, ở khu vực
nông thôn nói riêng (khu vực mà các doanh nghiệp vừa và nhỏ dang và có
địa bàn hoạt động chiếm ưu thế) đang rất hạn chế về mật độ và độ rộng của
lòng đường, thấp kém về chất lượng cầu cống, nền và mặt đường, cùng như
thiếu thốn về bến bãi. chúng ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh
của các doanh nghiệp nói chung, các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng.
5. Về kiến thức và năng lực quản lý kinh doanh của các chủ doanh
nghiệp
Sự hoạt động sản xuất-kinh doanh trên thương trường với sức cạnh
tranh khốc liệt đầy cam go, đòi hỏi các chủ doanh nghiệp phải có trình độ
kiến thức cao, năng lực quản lý giỏi, mới có thể thành đạt trong quản lý
kinh doanh, đưa doanh nghiệp của mình ngày càng phát triển. Mỗi chủ
doanh nghiệp phải biết thu thập, tổng hợp, phân tích, đánh giá các loại
thông tin kinh tế, kỹ thuật, biết đề ra những chiến lược đúng đắn và đưa ra
những quyết định sáng suốt, kịp thời. Đồng thời, chủ doanh nghiệp phải
biết quản lý, giám sát, điều hành công việc của những người lao động một
cách hợp lý, có hiệu quả, biết đánh giá, động viên, khuyến khích, thưởng
phạt và trả công chính xác, tương xứng với những đóng góp của họ vào kết
quả chung của xí nghiệp.
Nhìn lại đội ngũ các chủ doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện nay
cho thấy, họ có nhiều bất cập với đòi hỏi của kinh doanh trong thương
trường hiện đại. Đại đa số họ chỉ có trình độ kiến thức phổ thông cấp II
(45-50%), một số không nhiều có trình đồ văn hoá phổ thông trung học,
cao đẳng và đại học (30-40%). Còn một bộ phận đáng kể có trình độ tiểu
học (10-15%). Chỉ có rất ít các chủ doanh nghiệp được đào tạo kiến thức
quản lý chính quy, một số ít (20-30%) được tập trung đào tạo ngắn hạn
(dưới 6 tháng), còn lại đại đa số chỉ quản lý doanh nghiệp mình bằng kinh
nghiệm. Đây là một điểm yếu rất lớn và là một khó khăn quan trọng đối với
các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần có sự giúp đỡ từ phía nhà nước và các tổ chức phi chính phủ.6
6. Về trí thức và trình độ tay nghề của lực lượng lao động
Trình độ tri thức và tay nghề của ngừơi lao động làm việc trong các
doanh nghiệp cũng rất quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của chúng
. Những người có trí thức, tay nghề sẻ sử dụng tốt các loại thiết bị công
nghệ cao, phức tap, tiếp thu áp dụng tốt các loại thiết bị công nghệ tiên tiến
hiện đại, làm ra những sản phẩm đẹp, có chất lượng, với năng suất và hiệu
quả cao.
Đội ngũ lao động hiện có trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ, phân
nhiều có trình độ văn hoá cấp II (40-50%) số có trình độ văn hoá phổ thông
trung học cũng chiếm một tỷ trọng khá ( 20-30%) và số có trình độ tiểu học
và chưa biết chữ còn chiếm một tỷ trọng khá lớn (25-30%). Song, về trình
độ tay nghề, kỹ thuật của những người lao động trong các doanh nghiệp
vừa và nhỏ hiện rất thấp, đặc biệt ở khu vực nông thôn. Số lao động có tính
6 Tham khảo: Nhgiên cứu kinh tế - số 248- tháng 1/1999
chất phổ thông, có trình độ tay nghề giản đơn, chưa được đào tạo, bình
quân chiếm khoảng (60-70%). ở một số vùng nông thôn số được đào tạo
nghề chính quy chỉ chiếm khoảng 10%. Đó cũng là một trong những khó
khăn đối với việc phát triển mạnh mẻ các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện nay.7
7. Về khả năng tiềp cận thông tin và hệ thống thông tin
Hệ thống thông tin và khả năng tiếp cận thông tin, nhất là những thông
tin về thị trường, giá cả, công nghệ, sản phẩm là hết sức quan trọng đối với
hoạt động sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp. Hệ thống thông tin ở
nước ta hiện nay mặc dù so với trước đã được phổ biến khá rộng rải, các
phương tiện thông tin tương đối phong phú và hiện đại, phương pháp thu
thập và cung cấp thông tin có nhiều tiến bộ.v.v..., song nhìn chung, tính
chất nhanh nhạy, kịp thời, chính xác và đầy đủ, hoàn thiên của hệ thống
thông tin chưa đáp ứng được những yêu cầu của sản xuất-kinh doanh trong
điều kiên thị trường và cuộc cách mạnh khoa hoc-công nghệ hiện đại.
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có bộ phận chuyên trách về thu
thập và xử lý thông tin. Nguồn vốn tài chính có hạn, chúng không đủ kinh
phí để mua sắm các thiết bị phục vụ công tác thông tin nhanh chóng, kịp
thời nói riêng và chi phí cho hoạt động tiếp cận, thu thập, xử lý thông tin
nói chung. Trình độ tri thức và năng lực thu thập, xử lý thông tin của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ còn rất hạn chế. Cho nên, khả năng tiếp cận thông
tin của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta hiện rất hạn chế và gặp
nhiều khó khăn, rất cần sự giúp đỡ để cải thiện tình hình.
8. Về hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước
Hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước tác động tới toàn bộ
mọi mặt trong đời sống xã hội, trong đó có sự hình thành và phát triển của
các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Chúng hoặc là tạo điều kiện thuận lợi, hoặc
7 Tham khảo: Nhgiên cứu kinh tế - số 248- tháng 1/1999
là gây khó khăn cản trở đối với sự ra đời, hoạt động và phát triển của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trong những năm đổi mới, hệ thống chính sách
và pháp luật liên quan đến khu vực ngoài quốc doanh (trong đó các doanh
nghiệp vừa và nhỏ là chủ yếu) đã được hình thành và đổi mới từng bước
với những kết quả tích cưc. Chúng đã tạo điều kiện khuyến khích, thúc đẩy
sự hình thành và phát triển khá mạnh mẽ đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Đặc biệt đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Tuy nhiên, hệ thống chính sách và pháp luật hiện hành vẫn còn thiếu
đồng bộ, nhất quán và kém hoàn thiện. Chúng vẫn chưa tạo ra môi trường
hoạt đông thông thoáng và bình đẳng cho mọi loại hình doanh nghiêp, chưa
khuyến khích các doanh nghiệp hoạt đông sản xuất-kinh doanh có hiệu quả
và tuân theo pháp luật, đặc biệt là các chính sách đất đai, thuế khoá, tín
dụng và xuất nhập khẩu ... Điều đó đòi hỏi phải có sự đổi mới, hoàn thiện
hơn nữa hệ thống chính sách và pháp luật của Nhà nước để tạo điều kiện
thúc đẩy mạnh mẽ sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ.
9. Về hệ thống tổ chức quản lý kiểm soát của Nhà nước và các thiết
chế cộng đồng xã hội nông thôn
Hệ thống tổ chức quản lý, kiểm soát của Nhà nước từ trung ương đến
các cấp tỉnh, huyện, xã với nhiều ban ngành cồng kềnh và thực tế hoạt động
không có sự phối hợp chặt chẻ, phân công trách nhiệm rõ ràng, đã làm
giảm hiệu lực quản lý của bộ máy. Các hoạt động của đội kiểm tra liên
ngành, quản lý thị trường, công an, thuế vụ ... không có sự thống nhất,
chồng chéo, dẩm đạp lên nhau, nhiều khi còn đổ lỗi và có những hành động
triệt tiêu hiệu quả công tác quản lý lẫn nhau. Một mặt, nó gây khó khăn cho
các hoạt động sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp, vì thường xuyên
phải tiếp đoàn thanh tra, quản lý, kiểm soát của chính quyền các cấp, không
còn thời gian cho các chủ doanh nghiệp lao tâm vào tìm các quyết sách
kinh doanh. Mặt khác, nó lại thả lỏng nhiều lĩnh vực nhiều hoạt động sản
xuất-kinh doanh. Vì vậy, cần thiết phải có sự kiện toàn, sắp xếp, đổi mới hệ
thống và phương pháp quản lý, kiểm soát trên tinh thần hỗ trợ các doanh
nghiệp vừa và nhỏ phát triển là chính.
Sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở khu vực
nông thôn còn chịu sự tác động cửa những quan hệ, thiết chế xã hội nông
thôn với những thông số cơ bản là gia đình, dòng họ và làng, thôn. ở Việt
Nam, gia đình thật sự là đơn vị sản xuất-kinh doanh rất cơ bản trong lịnh
sử, hiện tại và tương lai. Kết cấu dòng họ đã và đang góp phần ổn định xã
hội , thực hiện tín chấp, tương trợ giúp nhau vốn để làm kinh tế, mở doanh
nghiệp và xoá đói giảm nghèo. Làng Việt truyền thống là tổ chức cộng
đồng tự quản, tự điều chỉnh bằng hương ước, bằng luật tục, bằng dư luận,
bằng luân lý và đao đức, có tác dụng tới sự hình thành và phát triển các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thôn cùng kênh thông tin, chuyển giao công
nghệ, không gian tìm việc làm và tạo dựng doanh nghiệp.
Tuy nhiên, bản chất truyền thống của những thiết chế xã hội nông
thôn đó cũng có những nhược điểm làm cản trở rất lớn tới sự hình thành và
phát triển của các doanh nghiệp trong điều kiện của nền kinh tế thị trường
và cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiên đại. Đó là tính chất hẹp hòi,
đố kỵ, bản kỵ và khép kín ngay trong từng gia đình giòng họ và làng thôn.
chính đó là những tác nhân chủ yếu làm giam hãm xã hội nông thôn Việt
Nam trong lịch sử cho đến ngày nay chưa vượt qua được vòng cương toả
của sự đói nghèo và lạc hậu. Mặc dù hiện nay, mức độ và phạm vi của
những tính chất tiêu cực đó không còn sâu nặng như trước và đã được giải
toả rất nhiều, song sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp vừa và
nhỏ trong điều kiện hiện đại đòi hỏi phải khắc phục và giải toả hoàn toàn
những tính chất tiêu cực nói trên.
II. SỰ PHÁT TRIỂN CỦA DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Ở VIỆT
NAM
Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vừa và nhỏ, có
những giai đoạn phát triển, nhưng mức độ có khác nhau trong từng thời kỳ
nhất định.
Theo tôi có thể chia làm hai thời kỳ chính để nghiên cứu về loại hình
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thời kỳ thứ nhất là những năm 1986 trở về trước
và thời kỳ sau năm 1986. ở thời kỳ thứ nhất loại hình doanh nghiệp vừa và
nhỏ nhìn chung chưa phát triển mạnh, chủ yếu tồn tại và phát triển ở hai
loại hình doanh nghiệp là HTX và DNNN, còn mang nặng tính chất hoạt
động của thời kỳ kế hoạch hoá, tập trung quan liêu bao cấp. ở thời kỳ thứ
hai, nhìn chung do chính sách cởi mở hơn về kinh tế của Đảng và Nhà
nước, do sự thúc ép cấp bách về vấn đề giải quyết việc làm cho người lao
động: Tăng trưởng lao động tự nhiên hàng năm dư thừa lao động ở khu vực
hành chính sự nghiệp, DNNN trải qua giai đoạn cũng cố sắp xếp lại, sự trở
về của hàng vạn lao động từ Liên Xô (cũ) và Đông Âu, hồi hương của
những người di tản... Do đó doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu thuộc thành
phần kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ về số lượng, ở các nghành, lĩnh
vực kinh tế và các vùng lãnh thổ, đóng góp rất quan trọng và việc thu hút
nguồn lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động và là động lực tăng
trưởng nền kinh tế (xem bảng 2).
Bảng 2: Thu hút lao đông vầ tỷ trọng khu vực tư nhân trong GDP
1995 1996 1997 1998 1999 2000
1. Tổng số l0ao động 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00 100,00
làm việc trong khu vực
nhà nước
11,28 10,12 9,36 9,05 8,70 8,66 - Trong khu vực
nhà nước
88,72 89,88 90,64 90,95 91,30 91,34 - Trong khu vực
tư nhân
2. Tỷ trọng của khu vực 32,50 33,30 36,02 39,20 40,20 57,80
quốc doanh trong GDP
(%)
3. Tỷ trọng khu vực tư 67,50 66,70 63,80 60,80 59,80 57,80
nhân trong GDP (%)
Nguồn: Tổng cục Thống Kê
Theo số liệu ở bảng 2, cho thấy khu vực kinh tế tư nhân mà chủ yếu là
loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút một lực lượng lao động với tỷ
trọng lớn ( bình quân 90% ), năm sau cao hơn năm trước. Nhưng thực tế tỷ
trọng GDP của khu vực nhà nước lại tăng cao hơn khu vực tư nhân. Mặc dù
số lượng doanh nghiệp nhà nước giảm mạnh từ trên 12.000 doanh nghiệp
năm 1995 (trong đó 86% là doanh nghiệp vừa và nhỏ) xuống còn gần 6.000
doanh nghiệp (giảm 50% tính đến tháng 6 năm 1996).
Theo số liệu thống kê năm 1996 doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta
gồm gần 18.000 doanh nghiệp, chính thức đăng ký hoạt động với các hình
thức và thuộc nhiều thành phần kinh tế: doanh nghiệp nhà nước, công ty
trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, xí nghiệp liên doanh và còn có
khoảng trên 500.000 cở sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp nhỏ khác.
Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thời kỳ này có mức vốn và lao động bình
quân cao gấp hai lần thời kỳ trước năm 1986, lực lượng lao động trẻ có
trình độ văn hoá, kỹ thuật tương đối đồng đều, cao hơn trước, tạo ra nhiều
sản phẩm hàng hoá phong phú về chủng loại, mẫu mã chất lượng tốt, có
một số sản phẩm đã cạnh tranh được với hàng ngoại nhập lậu và đáp ứng
nhu cầu tiêu dùng trong nước là các mặt hàng: nhựa gia dụng, xà bông, hoá
mỹ phẩm, giầy da, may mặc... Xu hước phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ
tiếp tục tăng nhanh về số lượng có thể lên tới 20.000 doanh nghiệp và gần
800.000 cở sở sản xuất nhỏ khác vào năm 2000 với quy mô về vốn và lao
động dự báo tăng gấp 3 lần giai đoạn trước năm 1986 và thông thường có
tới 70% doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ.
ở các nước phát triển và đang phát triên trên thế giới , sự quan tâm hổ
trợ để tạo đà cho doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển là vấn đề hết sức quan
trọng của nhà nước, được thể hiện bằng các đạo luật, chính sách và biên
pháp cụ thể...
Chúng ta phấn đấu trong chiến lược năm 2000-2010 đạt một số chỉ
tiêu sau:
- Tỷ trong trong GDP cả nước chiểm khoảng từ 24% lên 25% vào năm
2000 và 28% vào năm 2010.
- Tỷ trọng lao động cả nước từ 25% lên 26% vào năm2000 và 29% vào
năm 2010.
- Doanh nghiệp vừa và nhỏ công nghiệp trong giá trị sản xuất toàn ngành chiếm 31-32% vào năm 2000 và 34% vào năm 2010.8
III. Những giải pháp nhằm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở
việt nam
1. Những giải pháp quản lý
Trên cơ sở kinh nghiệm nước ngoài và thực tế những khó khăn, yếu
kém của doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường ở nước ta,
có thể nêu lên một số vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của doanh
nghiệp vừa và nhỏ: khó khăn về vốn, chi phí vận chuyển cao, công nghệ kỹ
thuật thấp, nhu cầu đào tạo chưa được đánh giá đúng, khó khăn về nguồn
nguyên liệu đầu vào, hạn chế về cơ sở hạ tầng và mặt bằng sản xuất kinh
doanh...
Để giúp các doang nghiệp vừa và nhỏ vươn lên khắc phục khó khăn
phấn đấu giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm và khả năng cạnh
tranh trên thị trường, thì cần phải có sự hỗ trợ, theo hướng hoàn thiện, đổi
mới chính sách quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, tôi nêu
lên một số giải pháp quản lý để phát triển loại hình doanh nghiệp vừa và
nhỏ như sau:
1.1 Thiết lập hệ thống luật pháp và tổ chức quản lỳ DNV&N
Nhà nước tạo hành lang pháp lý cho doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt
động bằng cách nghiên cứu ban hành các bộ luật và các văn bản pháp quy
để bổ sung, hoàn chỉnh môi trường pháp luật về kinh doanh: Luật thương
mại, Luật ngân hàng, Luật kiểm toán, Luật về doanh nghiệp vừa và nhỏ...
Chính phủ thống nhất quản lý, kiểm tra, giám sát, hổ trợ và cấp giấy
phép cho doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động thông qua một cơ quan quản
lý với một tổ chức bộ máy, có thể gọi là cục quản lý hỗ trợ DNV & N
thuộc Bộ Kế họach & Đầu tư, theo thủ tục “một cửa” về mặt quản lý hành
chính nhà nước.
Quy định các thủ tục hành chính theo hướng cải tiến, giảm bớt phiền
hà cho các chủ đầu tư thành lập các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo tôi một
doanh nghiệp chỉ cần bốn loại giấy tờ: đơn xin thành lập doanh nghiệp,
điều lệ hoạt động, giấy chứng nhận vốn, hợp đồng thuê mướn mặt bằng
(hoặc quyền sử dụng mặt bằng) là đủ điều kiện để các cơ quan có thẩm
quyền cho phép thành lập doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Mô hính quản lý DNV&N
bộ kh&đt
cục
qlht dnv&n
8 Tham khảoTạp chí: Kinh tề & Dự báo- số 9 năm - 1998 Tác giả Đổ Văn Hải
Chi cục khu vực Phòng tại Tỉnh-tp
( Thuộc sở kh &
đt)
hiệp hồi các
dnv&n
(tổ chức hỗ trợ
dnv&n
1.2 Chính sách tài chính tín dụng
Khó khăn phổ biến đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các nước là
thiếu vốn đầu tư ban đầu.Vì vậy để khuyến khích tích tụ vốn nhanh ,cần
phải áp dụng chính sách giảm thuế với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Việc ưu
đãi, có thể tiến hành trong 5 năm đối với các sắc thuế. Ngoài ra nếu doanh
nghiệp chi phí cho nghiên cứu và triển khai thử nghiệm sản phẩm mới .
Đào tạo nghiệp vụ và tay nghề thì được khấu trừ trước khi tính thuế cả
năm. Nên có chính sách thuế ưu đãi theo quy mô doanh nghiệp và theo một
số nghành mà nhà nước khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát
triển đồng thời cần phải thống nhất các ưu đãi về thuế, không phân biệt
loại hình doanh nghiệp.
Hiện nay tỷ lệ vốn tín dụng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỷ
lệ rất thấp, vì vậy nên có quy định về việc các ngân hàng phải tăng tỷ lệ cho
các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay trong tổng dư tín dụng. Thông thường
các doanh nghiệp vừa và nhỏ không có khả năng thế chấp để vay vốn, do
đó cần thành lập một quỹ bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Quỹ này sẽ bảo lãnh cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với phần vốn
vay còn thiếu thế chấp tại các ngân hàng. Nguồn của quỹ này có thể lấy từ
nguồn đóng góp của các ngân hàng, tổ chức tín dụng, các doanh nghiệp và
hiệp hội. Các quỹ này này bảo lãnh không chỉ phục vụ lợi ích của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ mà còn tạo điều kiện để các ngân hàng, các tổ
chức tín dụng hoạt động tốt hơn trong lĩnh vực cung cấp tài chính vì họ
được chia sẽ rủi ro. Sự tồn tại của hệ thống tài chính phi chính thức làm cho
chi phí giao dịch tín dụng và rủi ro cao. Vì vậy hệ thống ngân hàng và các
tổ chức tài chính trung gian cần được phát triển mạnh hơn để các doanh
nghiệp vừa và nhỏ dựa vào đó phát triển thay vì phải dựa vào khu vực tài
chính phi chính thức như hiện nay.
1.3 Chính sách thị trường và cạnh tranh
Nhà nước cần có những biện pháp thị trường cho doanh nghiệp vừa
và nhỏ thông qua một chính sách chung dành cho doanh nghiệp vừa và
nhỏ, không phân biệt thành phần kinh tế. Chính sách này trước hết phải bảo
đảm sự cạnh tranh bình đẳng, không có hiện tượng độc quyền, hỗ trợ các
doanh nghiệp vừa và nhỏ trước doanh nghiệp lớn. Trong vấn đề thị trường
và cạnh tranh, sự hỗ trợ của Nhà nước có thể tiến hành thông qua một số
biện pháp sau:
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia
vào dự án xây dựng cở sở hạ tầng bằng nguồn vốn ngân sách trong khi
trung ương thường là chủ đầu tư trong các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng cở
lớn mà doanh nghiệp vừa và nhỏ rất ít có khả năng tham gia thực hiện thì
các dự án quy mô nhỏ hơn thường do chính quyền các cấp ở điạ phương
làm chủ đầu tư lại có thể thích hợp với năng lực tài chính, kinh tế và quản
lý của một hoặc một số doanh nghiệp vừa và nhỏ tập hợp lại. Việc giao
thầu cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm nhiệm những công trình công
cộng là chính sách hỗ trợ rất lớn của nhà nước đối với doanh nghiệp vừa và
nhỏ. Ngay cả trong các lĩnh vực chi tiêu công cộng khác của chính quyền
các cấp, doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có thể đóng vai trò cung ứng quan
trọng.
- Cần có chính sách khuyến khích mối quan hệ giữa doanh nghiệp lớn
với doanh nghiệp vừa và nhỏ để doanh nghiệp lớn có thể hỗ trợ cho doanh
nghiệp vừa và nhỏ thông qua việc ký kết các hợp đồng cung ứng nguyên
vật liệu, bán thành phẩm, gia công chi tiết, bộ phận, phân phối sản phẩm.
Tăng cường mối quan hệ giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và
nhỏ vừ có tác dụng bảo đảm thị trường, công ăn việc lầm ổn định cho cả
chủ doanh nghiệp và người lao động, vừa tạo điều kiện thuận lợi để chuyển
giao công nghệ, kỹ năng quản lý từ doanh nghiệp lớn sang doang nghiệp
vừa và nhỏ.
- Chống buôn lậu, chống hàng giả, trốn thuế, gian lận thương mại
cũng đang là vấn đề bức xúc ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất- kinh
doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bởi vì các doanh nghiệp vừa và
nhỏ có tiềm lực kinh tế thấp sản phẩm hành hoá sản xuất ra thường có sức
cạnh tranh kém trên thị trường. Điều này cho thấy Chính Phủ và các cơ
quan ban ngành có liên quan phải tổ chức phối hợp thật tốt để giẩi quyết
các vấn đề nêu trên.
1. 4 Chính sách xuất nhập khẩu
Các hàng rào đang tồn tại trong lĩnh vực xuất khẩu, thủ tục cấp phép,
yêu cầu về vốn lưu động, sự hạn chế việc đa dạng hoá các hoạt động xuất
khẩu cần được tháo gỡ, vì nó làm cho người sản xuất ra hàng hoá xuất khẩu
không tiếp cận trực tiếp được với khách hàng, mà thường phải qua trung
gian. Do đó, người sản xuất trong nước thiếu thông tin, khó nắm bắt thị
hiếu của người nước ngoài để cải tiến và kịp thời nâng cao chất lượng sản
phẩm để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Ngoài ra, các biện pháp hỗ trợ
xuất khẩu khác như cấp tín dụng làm hàng xuất khẩu, mở rộng việc bảo
lãnh và các dịch vụ bảo hiểm xuất khẩu, cho phép các hiệp hội xuất khẩu
hoạt động...cần được áp dụng đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ.
1.5 Chính sách về đầu tư & công nghệ
Để khuyến khích đầu tư, Nhà nước cần phải xây dựng cơ sở hậ tầng:
đường điện, hệ thống cấp thoát nước, khuyến khích những ngành nghề cần
phát triển thông qua giá thuê đất, trợ cấp, trợ giá... Đặc biệt đối với nước
ta Nhà nước cần có chính sách ưu đãi nhằm tạo điều kiện cho các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chế biến nông, lâm, thuỷ sản, những doanh
nghiệp này thường là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Cần phải kết hợp chặt chẽ giữa đổi mới công nghệ và đổi mới thị
trường. Nhà nước phải có một số chính sách rõ ràng như: Cho phép khấu
hao nhanh, thậm chí phải khuyến khích khấu hao nhanh; Tăng thời gia
được xét miễn, giảm thuế cho các dự án đổi mới công nghệ; mở rộng các
hình thức kinh doanh tài chính mới như thuê mua, vay mua nhằm giải
quyết việc thiếu vốn tín dụng trung, dài hạn cho các doanh nghiệp vừa và
nhỏ đổi mới công nghệ.
1.6 Chính sách đào tạo nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực của các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn rất hạn chế về
chuyên môn kỹ thuật và quản lý. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải bỏ chi
phí để đào tạo nguồn nhân lực cho mình, nhưng nhiều người sau khi được
đào tạo lại bỏ sang nơi khác làm gây thiệt hại cho doanh nghiệp. Vì vậy,
Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ. Cụ thể là đào tạo tay nghề cho người lao động,
khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp dưới nhiều hình thức khác nhau
như thành lập các trung tâm dạy nghề nhằm đào tạo nguồn lao động cung
cấp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ , đồng thời xúc tiến các hình thức đào
tạo như giáo dục từ xa, tại chức nhằm bồi dưỡng kiến thức cho các chủ
doanh nghiệp.
Trên đây là những giải pháp cuả Nhà nước nhằm tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển, nhưng để các doanh nghiệp này phát
triển một cách có hiệụ quả thì công tác tổ chức điều hành trong các doanh
nghiệp vừa và nhỏ cũng giữ một vai trò hết sức quan trọng.
2. Tổ chức điều hành các dnv&n
1.Một trong những vấn đề quan trọng mang tính sống còn của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ là xác định thị trường và chọn lựa vị trí kinh
doanh. Thị trường là những khách hàng có sức mua và nhu cầu chưa được
thoả mãn, do đó đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thị trường được hiểu
là điều tra phát hiện những khách hàng có sức mua và có nhu cầu về những
sản phẩm hay dịch vụ muốn được cung cấp. Do đặc thù của mình, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thường tập trung khai thác những khoảng trống
thị trường, những thị trường và mặt hàng mới, những “ ngách” thị trường
mà các doanh nghiệp lớn không ít chú ý hoặc không đảm nhận nổi, bên
cạnh đó nó còn tham gia nhận thầu cung ứng những dịch vụ cho các doanh
nghiệp lớn. Đối với doanh nghiệp nhỏ thì chiến lược thị trường thường có
ba loại chiến lược phân khúc như sau.
Chiến lược không phân khúc: là loại chiến lược coi khách hàng đều
có lợi ích giống nhau về một loại sản phẩm hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp
cung cấp.
Chiến lược đa phân khúc: là loại chiến lược dựa vào sự khác biệt của
khách hàng mà chia ra nhiều phân khúc khác nhau mỗi phân khúc cố một
cách tiếp cận riêng.
Chiến lược một phân khúc: là loại chiến lược chỉ tập trung vào một
phân khúc thị trường mà doanh nghiệp có ưu thế nhất, có khả năng thu lợi
nhiều nhất.
Trong ba loại phân chia trên thì loại thứ ba phù hợp với doanh nghiệp
vừa và nhỏ, nhất là trong giai đoạn đầu các doanh nghiệp mới thâm nhập
thị trường, vì các doanh nghiệp có khả năng thâm nhập sâu vào trong thị
trường đó mà không phải tốn nhiều nguồn lực, đồng thời có thể tăng sức
mạnh cạnh tranh và bảo đảm lợi nhuận. Từ sự phân khúc thị trường này
doanh nghiệp có thể phát triển các chiến lược sản phẩm của mình. Trong
việc xây dựng chiến lược sản phẩm, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cần tận
dụng chiến lược sản phẩm tương tự với thị trường hiện có hoặc thị trường
mới. Cần tránh loại chiến lược sản phẩm mới hoàn toàn không có liên hệ
trực tiếp với hệ thống sản phẩm hiện có thị trường hiện có, vì loại thị
trường này cần có nguồn lực lớn cũng như một hệ thống kênh tiêu thụ
mạnh mà điều kiện các doanh nghiệp nhỏ không đáp ứng được.
2. Khi tạo dựng một doanh nhgiệp, ngoài việc xác định sản phẩm,
khách hàng, cần có sự lựa chọn chính xác địa điểm kinh doanh.điều này
ảnh hưởng trực tiếp đến những chi phí và sự thuận tiện trong kinh doanh, vì
thế chọn lựa điểm kinh doanh là một yếu tố sống còn đói với doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Thông thường khi tạo dựng doanh nghiệp, phần lớn các nhà
kinh doanh thường chọn địa điểm ở nơi mình sinh sống hay ở quê hươnh
của mình, vì có những mối quan hệ xã hội, bạn bè sự quen thuộc lối sống,
phong tục tập quán...Điều này là đúng, nhưng trong một số trường hợp
không phải lúc nào sự lựa chọ này cũng mang lại hiệu quả, lúc này nhà
kinh doanh cần phải có tầm nhìn rộng hơnvà sẵn sàng lựa chọn địa điểm
kinh doanh ở những nơi khác khi có điều kiện thuận tiện. vì là các doanh
nghiệp có qui mô nhỏ nên sự ảnh hưởng của môi trường tới hoạt đông là rất
mạnh, các nhà kinh doanh cần phải phân tích và nắm rỏ các môi trường đặc
thù như các chính sách, luật lệ của địa phương, tâm lý và thói quen tiêu
dùng của khách hàng, số lượng và cường độ của đối thủ cạnh tranh. tất cả
các yếu tố phải được cân nhắc kỹ theo quan điểm hiệu quả tối đa cho doanh
nghiệp trên cơ sở thoả mãn tối đa nhu cầu của khách hàng. Ngoài các yếu
tố của môi trường tổng quát cũng cần được quan tâm như cơ sở hạ tầng,
tình trạng giao thông, cung cấp nguyên liệu. Khi chọn địa điểm kinh doanh
các nhà doanh nghiệp cần phải cân nhắc các yếu tố cơ bản sau:
-Gần thị trường: điều này làm giảm chi phí vận chuyển và bảo đảm
khả năng linh hoạt đối với các đòi hỏi của thị trường. Đối với các doanh
nghiệp cần có nhữnh chi phí vận chuyển và bảo quản lớn thì yếu tố này trở
thành một yếu tố tiên quyết, không giải quyết được vấn đề này thì doanh
nghiệp có khả năng tao ra và tập trung được sức mạnh cạnh tranh trong thị
trường.
-Đầy đủ nhân lực: doanh nghiệp phải nằm ở nơi có nhiều lao động,
khả năng cung cấp nhân lực dể dàng, có những đò hỏi về luật lệ lao động
hợp lý không khắt khe, có khả năng lựa chọn công nhân có tay nghề với chi
phí đào tạo và tuyển dụng nhân công thấp.
- Có sẵn nguồn nguyên liệu: yếu tố này là cần thiết, nhất là các doanh
nghiệp cần có nguồn nguyên liệu thường xuyên hay những nguyên liệu
nặng nề, cồng kềnh khó chuyên chở.
- Phải bảo đảm các yếu tố về an ninh, trật tự, các điều kiện của cơ sở,
hạ tầng như điện nước, giao thông vận tải.
Khi chọn địa điểm cho các doanh nghiệp cần phải nghiên cứu các cơ
hội kinh doanh, nhất là đối vớ doanh nghiệp hoạt động trong ngành hàng có
sự cạnh tranh mạnh mẽ và có nhiều đối thủ kinh doanh, vì trong ngàng
hàng cạnh tranh mạnh mẽ nếu cơ hội kinh doanh không hấp dẫn thì lợi
nhuận trong kinh doanh có thể sẻ không bù đáp được các chi phí lớn bỏ ra.
Tuỳ theo tính chất hoạt động của doanh nghiệp, mà lựa chọn các địa điểm
sản suất hay kinh doanh cho phù hợp. Cần phải chú ý rằng đối với các
doanh nghiệp vừa và nhỏ thì các cơ sở hoạt động không nên quá to lớn và
sang trọng vì nó sẽ chi phí khá lớn, nhưng cũng không nên coi thường hình
thức bên ngoài mà để các cơ sở quá nghèo nàn, chật hẹp ảnh hưởng đến uy
tín và vị trí của doanh nghiệp.
3.Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sử dụng nhiều loại cơ cấu tổ
chức, tuy nhiên các doanh nghiệp loại này thường thích hợp với loại hình
colư cấu đơn giản như cơ cấu tổ chức trực tuyến, cơ cấu tổ chức năng hay
mô hình phi cơ cấu. Thông thường các doanh nghiệp vừa và nhỏ số lượng
nhân viên ít và các nhân viên này phải đảm nhận công việc theo kiểu đa
năng. Phần lớn các nhà kinh doanh trong doanh nghiệp vừa và nhỏ đảm
nhân luôn cả vị trí của nhà quản trị, họ sẻ phải thường xuyên điều hành và
chỉ huy nhân viên của mình thực hiện các công việc, bên cạnh đó họ còn
phải đảm nhận vai trò của danh nhân nhằm tìm kiếm các cơ hội kinh doanh.
Đôi khi trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể áp dụng cơ cấu phi chính
thức, lúc này mối quan hệ của các nhân viên có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu
quả hoạt động.
4.Việc quản trị nhân sự trong doanh nghiệp vừa và nhỏ có một vị trí
quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của nó. Các nhân viên trong
doanh nghiệp vừa và nhỏ phải là người năng động, có khả năng hoạt động
độc lập và có năng lực. Việc tuyển chọn nhân viên phải dựa trên nhu cầu
công việc và đòi hỏi về trình độ của các công việc đó, cần chú trọng đến sự
trung thành và tinh thần vượt khó. Phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ
đều gặp khó khăn trong việc do việc vốn ít công việc đượcc chuyên môn
hoá sâu, do đó nhà kinh doanh khi tuyển lựa nhân viên cần chú ý đến khả
năng phát triển trong tương lai và sự thích ứng của nhân viên trong điều
kiện mới. trong vấn đề nhân sự các nhà kinh doanh cần tạo ra các mối liên
hệ tình cảm, hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động, đây là yếu tố cơ
bản tạo sự thống nhất đoàn kết gắn bó trong nội bộ doanh nghiệp. Cần phải
nhấn mạnh đên vấn đề đối xử công bằng giữa nhà quản trị và các nhân viên
của mình.
5. Kiểm soát chặt chẽ các khoản chi có thể làm gia tăng chi phí trong
các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường là chi phí do hệ thống tiêu thụ và hệ
thống bán hàng, chi phí tiếp khách. Do vậy phải có chi phí rỏ ràng và kiểm
soát được các chi phí đó.
6. Khi điều hành các doanh nghiệp vừa và nhỏ các chủ doanh nghiệp
thương vấp phải các trở ngại ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các
doanh nghiệp, đó là:
- Các nhà kinh doanh thương bị cuốn vào công việc kinh doanh mà
quên đi vai trò quản trị của mình, hay do bị cuốn vào các công việc sự vụ
hàng ngày mà không đủ thời gian thực hiện các các chức năng quản trị của
mình, dẫn tới khó có những quyết định quản lý có hiệu quả và kịp thời
- Các nhà kinh doanh thường đưa ra những quyết định trực giác, ít
chú ý đến những phương pháp định lượng và phân tích số liệu.
- Cách thức quản trị trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường mang
tính trực giác, kinh nghiệp nên dẫn tới tính bảo thủ, ngăn chặn sự phát triển
trong doanh nghiệp .
Để hạn chế những vấn đề trên theo tôi các nhà kinh doanh cần phải
được đào tạo về kiến thức kinh doanh và kiến thức quản trị. Thực tế cho
thấy một trong những nguyên nhân thất bại của các doanh nghiệp trong đó
có nguyên nhân han chế về kiến thức của các nhả kinh doanh.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, qua nghiên cứu tôi thấy rằng sự
thành công của loại hình doanh nghiệp này phụ thuộc vào một số yếu tố
sau:
- Có mục tiêu rõ ràng và hợp lý.
- Chọn lựa và xây dựng được cơ cấu có hiệu quả
- Có một chế độ trách nhiệm rõ ràng cho các thành viên trong tổ
chức.
- Có sự mềm dẻo trong điều hành nhưng phải thống nhất chỉ huy và
thống nhất điều khiển.
- Có sự kiểm soàt chặt chẽ những chi phí .
- Có sự ổn định trong kinh doanh.
Kết luận
Doanh nghiệp vừa và nhỏ thời gia qua đã có sự chuyển hướng tích
cực đó là điều dễ nhận ra, tuy vây cùng với những khó khăn chung mà nền
kinh tế nước ta đang phải gánh chịu, các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng
đang phải đối đầu với những khó khăn đó. Đó là sự thiếu vốn, công nghệ
lạc hậu, thiếu thị trường, thông tin thị trường, trình độ quản lý, trình độ
người lao động còn thấp...đã cản trở không ít tới sự phát triển.
Như vây, để giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Nhà
nước mà cơ quan hành pháp cao nhất là Chính Phủ phải nhanh chóng xây
dựng một khung hỗ trợ giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khắc phục
phần nào những khó khăn trên, từ đó tạo điều kiên cho nó phát triển đóng
góp vào sự phát triển chung của nền kinh tế.
Cuối cúng tôi xin cam đoan công trình nghiên cứu trên đây là do chính
tôi làm trên cơ sở nghiên cứu thực tế và than khảo các tài liệu như đã nêu.