53
GIẢI PHÁT PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG
LÀNG MƯNG, TRÀ GIANG, HUYN BẮC TRÀ MY,
TỈNH QUẢNG NAM
Huỳnh Thanh Siêng1
Tóm tắt: Làng của đồng bào người Mường (làng Mường), thôn 3, xã Trà Giang,
huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam nhiều tiềm năng phát triển du lịch cộng đồng
(gồm những giá trị tài nguyên du lịch tự nhiên nhân văn). Tin hành khảo sát thực địa,
thu thập tài liệu, nghiên cứu những điểm mạnh và hạn ch trong phát triển du lịch cộng
đồng làng Mường, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp hợp lí như xây dựng hạ tầng, cơ sở
vật chất kĩ thuật, phát triển sản phẩm du lịch… có tính thực tin và khoa học, góp phần
phát triển du lịch cộng đồng nơi đây.
Từ khóa: Du lịch cộng đồng, làng Mường, huyện Bắc Trà My, du khách, tài
nguyên du lịch.
1. Mở đầu
Làng Mường, huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam sở hữu tài nguyên du lịch
nhiên và nhân văn giá trị. Tài nguyên du lịch tự nhiên đồi, núi, thác nước, sông
suối... Tài nguyên du lịch nhân văn có nhà sàn, vườn cây lát hoa, đồng ruộng, ẩm thực,
nghề thủ công truyền thống, lễ hội... Tuy nhiên, hiện nay khai thác, phát triển du lịch cộng
đồng của làng chưa tương xứng với tiềm năng, du lịch chỉ mang tính tự phát ở một vài
hộ gia đình có lợi thế địa lí thuận lợi như nhà gần sông, suối,… làng chưa được đầu
chưa có quy hoạch chi tiết. Để du lịch cộng đồng của làng Mường phát triển tương xứng
với tiềm năng, đòi hỏi phải có hoạt động nghiên cứu cụ thể, khoa học, đánh giá đúng thế
mạnh và hạn chế, từ đó xây dựng hệ được thống giải pháp hợp lí, thực tiễn.
2. Nội dung
2.1. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử dụng nhiều phương pháp khác nhau:
- Phương pháp khảo sát thực tế, thực địa, quan sát các tài nguyên du lịch như sông,
suối, nhà sàn, nương rẫy... trong làng giúp có thông tin và hình ảnh chính xác, thực tiễn
về địa phương, từ đó xác định được lợi thế và hạn chế của tài nguyên, đưa ra giải pháp
phù hợp.
- Phương pháp phỏng vấn dân cư, du khách chính quyền địa phương (trưởng
thôn, cán bộ du lịch xã, huyện…) giúp tác giả có thông tin về nhu cầu, những khó khăn,
đề xuất của người dân trong quá trình làm du lịch cộng đồng (hỗ trợ vốn, đào tạo nguồn
1. Thạc sĩ, Trường Đại học Quảng Nam
GIẢI PHÁT PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG LÀNG MƯỜNG...
54
nhân lực, định hướng sản phầm…); nhu cầu đánh giá dịch vụ du lịch cộng đồng của
du khách; chủ trương, chính sách của địa phương đối với phát triển du lịch làng Mường.
- Phương pháp thu thập và xử lí tài liệu giúp tác giả có thông tin cơ bản về du lịch
cộng đồng, điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của làng Mường, biết được định hướng,
nguồn lực đầu tư cho du lịch cộng đồng của làng, từ đó đó xây dựng giải pháp quy hoạch,
phát triển hạ tầng, cơ sở vật chất kĩ thuật, sản phẩm du lịch...
- Phương pháp dự báo giúp xác định xu hướng nguồn khách thị hiếu của du
khách trong tương lai (về thị trường khách, số lượng khách, xu hướng lựa chọn sản phẩm
du lịch yêu thích…) từ đó lựa chọn tài nguyên, xác định không gian quy hoạch, xây dựng
sản phẩm du lịch hợp lí nhất.
2.2. Du lịch cộng đồng
2.2.1. Khái niệm
Du lịch cộng đồng là loại hình du lịch được phát triển trên sở các giá trị văn hóa
của cộng đồng, do cộng đồng dân cư quản lí, tổ chức khai thác và hưởng lợi [1].
Du lịch cộng đồng thường dựa trên sự mong muốn của du khách tìm hiểu thêm về
cuộc sống hàng ngày của các dân tộc có bản sắc vắn hóa đặc sắc.
2.2.2. Các hình thức du lịch cộng đồng
Du lịch cộng đồng gồm nhiều hình thức như: Du lịch sinh thái, du lịch văn hóa, du
lịch nông nghiệp, du lịch bản địa, du lịch làng…[10]. Hầu hết các hình thức này đều gắn
với hoạt động du lịch ở vùng nông thôn, nơi có các cộng đồng dân cư sinh sống lâu đời.
2.2.3. Đặc điểm của khách du lịch cộng đồng
Tôn trọng các giá trị tự nhiên, lịch sử, văn hóa và các điểm tham quan, thích chỗ ở
quy mô nhỏ của người dân địa phương. Tìm kiếm những khía cạnh chân thực của cuộc
sống: Đặc sản địa phương, thiết kế mộc mạc tự nhiên, các yếu tố mang đậm tính truyền
thống đại phương, quan tâm đến các tác động của du lịch đối với môi trường và giá trị
bền vững. Tìm kiếm sự tương tác với con người, lối sống và các nền văn hóa riêng khác
nhau của chính họ, có học vấn và thu nhập tương đối cao…
2.3. Khái quát về làng Mường
Làng Mường (làng của người Mường) phân bố trên địa phận thôn 3, Trà Giang,
huyện Bắc Trà My, tỉnh Quảng Nam. Làng cách trung tâm huyện Bắc Trà My khoảng
5km về phía Đông Bắc. Khoảng những năm 1986 - 1987, do điều kiện khó khăn, những
người Mường đầu tiên từ xã Miền Đồi, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình di cư vào Quảng
Nam và lựa chọn vùng đất dưới chân núi Hòn Bà huyện Bắc Trà My để sinh sống, lập
nghiệp [2]. Vùng đất mới này có điều kiện khí hậu, thổ nhưỡng thuận lợi, người Mường
đã tiến hành khai hoang, mở lối đi, dựng nhà để ở. Từ đó thêm nhiều hộ gia đình di cư
vào đây sinh sống và hình thành nên cộng đồng người Mường tại địa phương.
HUỲNH THANH SIÊNG
55
Tổng diện tích đất tự nhiên làng Mường 450ha (2022), trong đó 90% diện tích
đất nông nghiệp và đất lâm nghiệp. Trên địa bàn xã TGiang có 15 dân tộc đồng bào
khác nhau sinh sống. Dân số đồng bào Mường năm 2022 có 570 người (120 hộ gia đình),
sinh sống tập trung chủ yếu ở thôn 3 xã Trà Giang (Nguồn: Phòng Văn hóa - Thông tin
huyện Bắc TMy). Người Mường hiện nay vẫn giữ được bản sắc văn hóa riêng của
cộng đồng, hầu hết các gia đình sinh sống trong làng có điều kiện kinh tế đều làm nhà
sàn truyền thống để ở.
Khu vực quy hoạch phát triển du lịch cộng đồng làng Mường có phong cảnh
đẹp, nhiều sông, suối hoang sơ, trong lành. Không gian làng quê yên bình, điểm nhấn
về tiềm năng du lịch cộng đồng của làng là những ngôi nhà sàn đặc trưng của người
Mường, cùng với ẩm thực độc đáo, lễ hội hấp dẫn. Không gian quy hoạch thực hiện
làm du lịch cộng đồng của làng Mường hiện nay khoảng 20ha. Ngày 30/6/2023, Sở
Văn hóa, Thể thao Du lịch tỉnh Quảng Nam đã ban hành Quyết định số 268/QĐ-
SVHTTDL công nhận làng Mường là điểm du lịch [9].
2.4. Tiềm năng du lịch cộng đồng của làng Mường
2.4.1. Tiềm năng du lịch tự nhiên
* Địa hình: Làng Mường phân bố trong khu vực địa hình đồi núi. Người dân sinh
sống ven các con sông, suối, các đồng ruộng nhỏ giữa các thung lũng núi đồi. Có giá trị
du lịch nhất núi Hòn Bà cao gần 1.500m so với mực nước biển [9], quanh năm bao
phủ trong mây trắng. Ngoài ra còn thác Năm Tầng nằm ở phía Nam ngọn núi Hòn
Bà [6], ngay đầu nguồn làng Mường, dòng nước đổ xuống từ đỉnh núi Hòn Bà trở thành
điểm check-in lí thú cho những du khách thích khám phá, tận hưởng vẻ đẹp hoang sơ,
kỳ thú của thiên nhiên. Địa hình đồi núi là lợi thế để phát triển sản phẩm du lịch trekking
(leo núi).
* Khí hậu: Làng Mường nằm trên địa bàn huyện Bắc Trà My có khí hậu nhiệt đới
ẩm gió mùa, mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8, mùa mưa từ tháng 9 đến tháng 1 năm sau.
Thời điểm du lịch ở làng Mường thuận lợi nhất vào mùa khô. Trong điều kiện vùng quê
rừng núi có môi trường trong lành, bình yên, là điểm du lịch cho du khách nghỉ ngơi, thư
giản, tận hưởng khí hậu mát mẻ của vùng bán sơn cước.
* Thủy văn: Làng Mường có các sông, suối chảy qua. Sông Trường là dòng sông
nhỏ, phụ lưu của sông Thu Bồn chảy qua địa phận làng Mường có cảnh quan khá đẹp. Hai
bên bờ sông là các bãi bồi phủ lớp cỏ xanh, nương mía. Suối Ông Thực chạy dọc trong
không gian làng Mường, dòng suối trong xanh, hoang sơ là điểm nhấn đối với sản phẩm
du lịch trải nghiệm tự nhiên của làng. Vào mùa hè, cuối tuần, lượng khách từ các vùng
lân cận đến tắm suối khá đông. Một số hộ gia đình sống dọc theo dòng suối xây dựng các
chòi, sạp tre thoáng mát tạo điểm vui chơi, sinh hoạt lí thú cho du khách.
GIẢI PHÁT PHÁT TRIỂN DU LỊCH CỘNG ĐỒNG LÀNG MƯỜNG...
56
* Sinh vật: Cộng đồng người Mường đem theo loài cây lát hoa có giá trị cao
trồng trên những cánh rừng TGiang. Cây lát hoa đem lại nguồn lợi kinh tế cao giúp
người Mường ổn định cuộc sống. Hiện nay, nhà ít nhất cũng có vài ngàn cây lát hoa, nhà
nhiều lên đến hàng chục ngàn cây [4]. Những vườn cây lát hoa là điểm check in mới lạ
thu hút du khách. Sông, suối của chảy qua làng nhiều loại (cá niên, chình, cá
chiên, cá men…), cua, ếch, nhái, ốc… Cá niên là đặc sản nổi tiếng của làng các huyện
miền núi phía Tây Quảng Nam.
2.4.2. Tiềm năng du lịch nhân văn
* Kiến trúc nhà ở và văn hóa của người Mường:
Làng Mường hiện có 40 nhà sàn, đây chính là bản sắc văn hóa, là hồn cốt quê xứ
của người Mường. Nhà sàn là điểm nhấn lớn nhất trong quy hoạch phát triển du lịch cộng
đồng, là kiến trúc nhà ở độc đáo, riêng biệc giữa vùng rừng núi Bắc Trà My so với nhà
của nhiều cộng đồng dân tộc địa phương. Nhà sàn thuận lợi để phát triển thành homestay
phục vụ lưu trú cho du khách. Mô hình lưu trú nhà sàn hiện nay phát triển rất thành công
ở Mai Châu (Hòa Bình), Mộc Châu (Sơn La)…
Người Mường đến định cư, sinh sống giữa không gian văn hóa Quảng Nam vẫn
giữ gìn và phát huy nhiều nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc mình. Cộng đồng
vẫn giữ nếp sinh hoạt nhà sàn, trồng cây lát hoa trong vườn nhà, giữ gìn nghề đan lát và
làm rượu cần truyền thống. Trong các dịp lễ, hội của làng hoặc Tết Bác Hồ (02/9), người
Mường thường tổ chức múa cồng chiêng chơi các trò chơi dân gian như múa sạp, ném
còn, đánh mãng… tạo nên không khí sôi nổi, vui tươi nơi núi rừng Bắc Trà My.
* Ẩm thực: Ẩm thực của người Mường phong phú và đa dạng như xôi ba màu, gà
nấu măng chua, ếch đá nướng, rau luộc đậm hương vị núi rừng. Ngoài ra còn có món thịt
heo nướng chấm muối hạt dỗi, gà nướng, canh xương sắn, thịt quấn lá bưởi, canh chua
lá sắn… thơm ngon, hấp dẫn.
* Hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp:
Cộng đồng người Mường sinh sống chủ yếu bằng nghề trồng lúa, mía, trồng rừng,
chăn nuôi gia cầm, gia súc… Các điểm sản xuất nông nghiệp như nương rẫy, ruộng bậc
thang, đồng mía tím… tạo nên cảnh quan thơ mộng, có thể xây dựng thành các sản phẩm
du lịch nông nghiệp trải ngiệm, tìm hiểu văn hóa canh tác của cộng đồng vùng cao.
Hình 1. Sông Trường, suối Ông Thực, vườn cây lát hoa (Nguồn: Tác giả)
HUỲNH THANH SIÊNG
57
* Các công trình xây dựng: Kiến trúc nổi bậc về công trình xây dựng thu hút du
khách trên địa phận làng Mường cầu treo bắt qua sông Trường. Cầu treo trong làng
không chỉ mang chức năng duy nhất hạ tầng đi lại của người dân, nơi đây đang dần trở
thành điểm check-in lí tưởng cho du khách trên hành trình khám phá du lịch cộng đồng
tại làng.
2.5. Những hạn chế đối với sự phát triển du lịch cộng đồng của làng Mường
Hạn chế lớn nhất đối với việc phát triển du lịch cộng đồng làng Mường là hạ tầng
giao thông chưa phát triển, người dân và du khách đi lại trên các con đường bê tông chật
hẹp và đường đất tự phát. Chiều rộng các đường bê tông từ 2.5m - 3.0m. Độ phủ đường
bê tông chưa đến 70%, làng chưa có bãi đỗ xe ô tô du lịch...[8]
Cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ du lịch cộng đồng chưa được đầu tư, làng chưa có
nhà đón tiếp, nhà vệ sinh công cộng, thiếu hệ thống nhà hàng, chưa có cơ sở lưu trú...
Sản phẩm du lịch cộng đồng còn đơn điệu. Khách du lịch đến làng chủ yếu thăm
quan nhà sàn, tắm suối và trải nghiệm ẩm thực địa phương. Chưa các dịch vụ khác
phục vụ du khách như hàng lưu niệm, biểu diễn nghệ thuật truyển thống, khu vui chơi
giải trí, không gian tổ chức sự kiện...
Nguồn nhân lực phụ vụ du lịch cộng đồng còn thiếu yếu. Không có nhân lực
được đào tạo từ các cơ sở giáo dục du lịch chuyên nghiệp. Khách đến làng chủ yếu được
người dân các hộ kinh doanh chòi, sàn khu vực tắm suối phục vụ.
Làng chưa ban quản lí, chưa thu hút được vốn đầu của các doanh nghiệp,
chưa có chế chính sách kích thích người dân chủ động tham gia hoạt động du lịch,
chưa nguồn vốn đầu tư đủ mạnh để nâng cao chất lượng hạ tầng, sở vật chất thuật
và các yêu cầu cơ bản khác để phục vụ phát triển du lịch cộng đồng.
2.6. Đề xuất giải pháp phát triển du lịch cộng đồng làng Mường
2.6.1. Giải pháp về quy hoạch không gian du lịch
Du lịch cộng đồng tại làng Mường hiện nay phân bố trong một không gian hẹp.
Chưa có quy hoạch cụ thể để khai thác tối đa các giá trị tài nguyên hiện có trong làng và
vùng phụ cận. Điều này dẫn đến hạn chế về không gian trải nghiệm cho du khách. Hiện
tại làng chưa được quy hoạch xây dựng chi tiết. Việc quy hoạch không gian phát triển du
Hình 2. Nhà sàn, cầu treo, ruộng nương (Nguồn: Tác giả)