
115
PHÁT TRIỂN HỆ SINH THÁI SỐ
CHO GIÁO DỤC MỞ VÀ ĐÀO TẠO TỪ XA TRỰC TUYẾN Ở
VIỆT NAM:
KHUNG TIẾP CẬN DỰA TRÊN PHƯƠNG PHÁP TIẾP CẬN
TOÀN DIỆN
ThS. Nguyễn Minh Đỗi
Trường Đại học Mở TP. HCM
Tóm tắt:
Cùng với quá trình số hoá mạnh mẽ hoạt động giáo dục và đào tạo trong cuộc
cách mạng 4.0, E-learning đã và đang phát triển với tốc độ nhanh chóng trong các loại
hình giáo dục, đào tạo khác nhau với sự mở rộng tham gia của nhiều bên liên quan. Tuy
nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề trong quá trình áp dụng và phát triển các phương thức e-
learning cho giáo dục mở và đào tào tạo từ xa ở Việt Nam cần được xác định và đánh giá
một cách đầy đủ. Một trong những vấn đề chính là sự phức tạp trong việc xác định các
thành phần của hệ thống và các mối quan hệ giữa các thành phần này với nhau để có thể
ứng dụng phương thức học trực tuyến thành công. Tham luận này nhằm mục đích xây
dựng một khung phân tích để phát triển hệ sinh thái số cho giáo dục mở và đào tạo từ xa.
Dựa vào lý thuyết hệ sinh thái, tác giả tập trung phân tích ba nhóm thành phần gồm các
đơn vị “sinh học”, các đơn vị “phi sinh học” và môi trường của hệ sinh thái. Khung
phân tích này sẽ đóng góp cho việc hướng dẫn các nghiên cứu, hoạch định chiến lược,
chính sách và định hướng phát triển cho E-learning ở cả cấp độ vĩ mô và vi mô.
Từ khoá: E-learning, giáo dục mở, MOOC, đào tạo từ xa, khung e-Learning
1. Giới thiệu
Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ 4.0, phương thức học tập, đào
tạo dựa trên công nghệ thông tin (E-learning) không chỉ đã và đang được ứng dụng mạnh
mẽ trong loại hình giáo dục học trực tiếp truyền thống (face-to-face teaching), mà còn
đặc biệt thích ứng với loại hình giáo dục mở (open education) và từ xa (long distance
learning). Trong hai thập kỷ qua, chúng ta chứng kiến sự xuất hiện nhiều phương thức
đào tạo mới, đã giúp cho triết lý về xã hội học tập và học tập suốt đời trở nên cụ thể cũng
như gần gũi hơn bao giờ hết khi mà việc học có thể thực hiện ở bất kỳ nơi đâu và bất kỳ
ai cũng có cơ hội được học tập thông qua Internet (García-Peñalvo & José, 2008; Bonk &
ctg, 2015).
Quá trình toàn cầu hóa, quốc tế hóa, hội nhập và cạnh tranh quốc tế trong bối cảnh
cách mạng 4.0 cũng đã và đang mở ra những cơ hội mới cho giáo dục Việt Nam. Với tỉ lệ
ngân sách và chi tiêu của người dân là dành cho giáo dục rất lớn, và có hơn 67% người
dân sử dụng Internet (WB, 2005; VNNIC, 2017) là những thông số cho thấy tiềm năng to
lớn trong việc phát triển E-learning về mặt giáo dục công lập lẫn các nhà đầu tư tư nhân ở
một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng thị trường giáo dục trực tuyến lớn nhất
với 46%, vượt qua Thái Lan, Malaysia, Trung Quốc ( dkins, 2014). Tuy nhiên, chúng ta
đồng thời phải đối mặt với nhiều thách thức từ một hệ thống giáo dục thiếu tính mở và

116
hạn chế về nguồn lực dẫn đến chất lượng giáo dục đào tạo trực tuyến chưa đạt yêu cầu
với yêu cầu thực tiễn.
Mục tiêu của tham luận này nhằm phân tích xu hướng trong việc ứng dụng các
phương thức học trực tuyến mới trong loại hình giáo dục mở và từ xa và chỉ ra các vấn đề
mà Việt Nam phải đối mặt trong quá trình này. Từ đó, tham luận đề xuất một khung phân
tích toàn diện cho việc phát triển, đánh giá và xây dựng chiến lược cho phương thức học
tập, đào tạo dựa trên công nghệ thông tin (E-learning) trong giáo dục đại học và đào tạo
trực tuyến mở dành cho đại chúng (M Cs).
2. Xu hướng phát triển của E-learning trong giáo dục mở và đào tạo từ xa
Giáo dục luôn là vấn đề trọng tâm trong sự phát triển của xã hội loài người. Đa
dạng hoá các loại hình giáo dục được đánh dấu từ sự xuất hiện của loại hình đào tạo từ xa
từ thế kỷ thứ 18 bằng hình thức thư tín vào năm 1728 khi Giáo sư Caleb Philipps lần đầu
tiên đã đưa ra tài liệu và hướng dẫn học tập trên một trang quảng cáo của tờ Boston
Gazette (Lorenzo García retio, 2001). Tuy nhiên, các bằng chứng khác cũng cho rằng
một khóa học tương ứng như vậy cũng được tổ chức ở nh vào năm 1840 khi Isaac
Pitman bắt đầu một khóa học ngắn hạn. Như vậy, từ những giai đoạn đầu, các việc giảng
dạy từ xa bằng thư tín đã xuất hiện tại Hoa ỳ và các nước châu Âu khác. Vào những
năm 1960, khi Đại học Mở ở nh được thành lập ( retio, 2001 trích dẫn bởi lcalá). và
chuyển các tài liệu in đã được chuyển sang audiotapes, băng video, và truyền tải chúng
đến người học thông qua đài phát thanh, truyền hình phát sóng, điện thoại. Từ những năm
1980, sự xuất hiện của viễn thông hiện đại đã mở ra bối cảnh mới cho giáo dục từ xa. Đó
chính là thời đại sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào học trực tuyến với lớp
học ảo, giảng dạy ảo, mô hình học linh hoạt theo xu hướng tương tác hai chiều. Đặc biệt
trong bối cảnh sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và truyền thông cũng
như nhu cầu của giáo dục ngày càng tăng, E-Learning đã trở thành chủ đề nóng trong giai
đoạn từ những năm 1990 cho đến nay.
Sự phát triển của E-Learning
E-Learning được hiểu và định nghĩa theo nhiều góc độ khác nhau tuỳ vào góc độ,
mục tiêu và đối tượng tiếp cận. Dưới góc độ phương pháp học tập, theo báo cáo E-
Content (2004), E-Learning “là một thuật ngữ bao quát mô tả bất kỳ kiểu học tập nào phụ
thuộc hoặc tăng cường bằng giao tiếp điện tử sử dụng công nghệ thông tin và truyền
thông mới nhất (ICT)”. Nó cũng được định nghĩa là “thuật ngữ chung bao gồm một loạt
các ứng dụng và quy trình dựa trên công nghệ ICT, bao gồm học tập dựa trên máy tính,
học trên web, lớp học ảo, cộng tác kỹ thuật số và kết nối mạng” (Hambrecht, 2000;
Kaplan-Leiserso’s online glossary), hoặc E-Learning là cách thức học mới qua mạng
Internet, qua đó học viên có thể học mọi lúc, mọi nơi, học theo sở thích và học suốt đời
(EDUSOFT LTD.). Dưới góc độ kỹ thuật, có một số tiếp cận đơn giản cho rằng E-
learning là việc dạy và học được số hoá (Rosenberg, 200; Govindasamy, 2002; Garrison
& nderson, 2003). Dưới góc độ người học, eEurope cho rằng E-Learning là quá trình
người học sử dụng các công nghệ đa phương tiện hiện đại và Internet, nhằm cải thiện
chất lượng học tập bằng cách truy cập vào các nguồn lực và dịch vụ, cộng tác và trao đổi
từ xa. Dưới góc độ nhà cung cấp dịch vụ, hối Thịnh Vượng Chung (The
Commonwealth) năm 1998 đã mô tả E-Learning là việc các cơ sở giáo dục ứng dụng

117
công nghệ thông tin và truyền thông (ICT) vào các chức năng chính của mình như quản
lý, phát triển và phân phối tài liệu, học phí và cung cấp dịch vụ học viên chẳng hạn như
tư vấn, đánh giá học tập trước và lập kế hoạch chương trình. Dưới góc độ mục tiêu, “việc
sử dụng công nghệ để tạo ra và đưa các dữ liệu có giá trị, thông tin, học tập và kiến thức
với mục đích nâng cao hoạt động của tổ chức và phát triển khả năng cá nhân” (Lance
Dublin).
Quá trình phát triển chính của E-learning luôn gắn với sự phát triển của công nghệ
thông tin và truyền thông. hi công nghệ Web 2.0 ra đời và phát triển, các hệ thống E-
learning cũng đi theo xu hướng với việc thêm các tính năng như diễn đàn (forum), chat,
hay các hệ thống quản lý học viên (LMS – Learning Management System). Theo đó, nội
dung và cách phân phối các nguồn tài nguyên học tập cũng dần trở nên đa dạng hơn
thông qua các platform như YouTube, Facebook, iTunes, và webcast của các trường giúp
tăng cường tính khả dung cho những video bài giảng được ghi lại từ các lớp học truyền
thống cho đến các nguồn tài nguyên cho phép người dùng tải về.
Thực tiễn cho thấy phương thức đào tạo và học tập trực tuyến có nhiều lợi ích như
khả năng truy cập nội dung học tập từ một nơi ở xa và có thể phân phối cho nhiều nơi
khác nhau cùng một thời điểm bằng nhiều công cụ và nền tảng khác nhau. Nội dung và
phương pháp đào tạo có thể được thiết kế phù hợp với từng tình huống và từng cá nhân
cụ thể. Một nội dung học tập được tạo ra có thể được sử dụng ở nhiều ứng dụng khác
nhau và có thể sử dụng lại khi công nghệ thay đổi (nếu phát triển mang tính kế thừa). Bên
cạnh đó, phương thức này còn giúp tăng hiệu quả học tập rõ rệt trong khi giảm thời gian
và chi phí (Wayne Hodgins, 2000). Những lợi ích này là rất phù hợp và cung cấp những
tiềm năng rất lớn cho loại hình giáo dục mở và đào tạo từ xa thông qua phương thức trực
tuyến.
Đào tạo trực tuyến mở dành cho đại chúng (MOOC)
Hình 1. Tiến trình phát triển của MOOCs trong giáo dục mở và đào tạo từ xa

118
Nguồn: Li Yuan và Stephen Powell, 2015
Trải qua hơn một thập kỷ, E-learning đã dần trở nên phổ biến trong cung cấp các
khóa học trực tuyến cho một lượng khán giả nhỏ và hạn chế. Dựa trên các nền tảng E-
learning đã có, những mô hình mới bắt đầu xuất hiện. Năm 2011, Đại học Stanford cung
cấp ba khóa học miễn phí cho công chúng với khóa học về trí tuệ nhân tạo, mỗi lần đăng
ký thu hút khoảng 100.000 học viên trở lên. Sự ra mắt của ba khóa học này, được giảng
dạy bởi ndrew Ng, Peter Norvig, Sebastian Thrun và Jennifer Widom, được cho là đã
đánh dấu sự khởi đầu của M C (Massive pen nline Course) như một xu hướng mới
trong đào tạo từ xa. Sau đó, mô hình này bùng nổ thành một trào lưu từ năm 2012 khi mà
các platform lớn như Udacity, Coursera, ed hay FutureLearn được giới thiệu. Các tính
năng như quản lý tiến độ khóa học, đánh giá hay quản lý việc cấp chứng chỉ cũng được
phát triển tốt hơn để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng cao của người học. Hiện tại, một số
khoá học trên các platform này đã cho phép đổi ra tín chỉ tương đương với các khoá học
truyền thống ở một số trường Đại học.
Chia sẻ các giá trị của đào tạo từ xa, các khóa học M Cs được triển khai và cung
cấp qua Internet được kỳ vọng sẽ mở ra một cuộc cách mạng mới cho giáo dục mở và
đào tạo từ xa. Một trong những yếu tố tạo nên sự khác biệt của M Cs so với các khóa
đào tạo từ xa truyền thống là số lượng người đăng kí có thể lên đến hàng ngàn người học
và thường không giới hạn hay ràng buộc về điều kiện tham dự cũng như phí đăng kí. Bên
cạnh việc cung cấp kiến thức đến cho học viên, cac platform này thường có điểm chung
là tranh thủ sự hỗ trợ và hợp tác từ các trường đại học cũng như giới học thuật, nhiều hoạt
động hợp tác từ các platform này với các đối tác từ các trường Đại học cho đến các công
ty, tổ chức lớn. Sự hợp tác này nhằm tối ưu hoá mô hình M Cs thông qua việc tiếp cận
nhiều sinh viên hơn cũng như cắt giảm chi phí đào tạo. Việc áp dụng mô hình này cũng

119
cho thấy với chi phí đào tạo dựa trên M Cs thấp hơn đáng kể so với các chương trình
đào tạo từ xa truyền thống.
Bảng 1. So sánh phương thức đào tạo từ xa trực tuyến và MOOCs
Đào tạo trực tuyến
MOOCs
Chi phí
Học phí theo tính chỉ tương tự
phương pháp học trực tiếp trên
lớp
Một số platform miễn phí (đến
thời điểm hiện tại)
Chứng chỉ
Tín chỉ cho chương trình đào
tạo cử nhân (có thể hoặc không
công nhận là một phần của
chương trình học
Giấy chứng nhận hoàn thành
khoá học
Tỉ lệ hoàn thành
Tương tự với tỉ lệ của phương
pháp học trực tiếp trên lớp
Rất thấp
Quy mô khoá học
Nhỏ - khoảng 20 người
Lớn (từ 100 - hơn 100,000
người)
Người cung cấp
Các trường đại học (phi lợi
nhuận hoặc vì lợi nhuận)
Nhà cung cấp tư như Coursera,
Udacity, ect.)
Tương tác với
người hướng dẫn
Tương tác qua các cuộc thảo
luận, giờ làm việc, email, hội
thảo trên web, phản hồi bài tập
Rất ít tương tác với người
hướng dẫn
Tương tác với các
sinh viên khác
Đa dạng (nhóm làm việc, thảo
luận, đồng đánh giá)
Đa đạng (đồng đánh giá, thảo
luận và mạng xã hội)
Đánh giá điểm
Tiêu chuẩn điểm số
Giấy chứng nhận hoàn thành
Thời gian khoá
học
Học kỳ hoặc quý như phương
pháp học trực tiếp trên lớp
Linh động (từ 3 đến 6 tuần)
Nguồn: tác giả tổng hợp dựa trên các nghiên cứu của Jansen và ctg (2015); Bonk và ctg
(2015).
Ứng dụng E-learning cho loại hình giáo dục mở và từ xa sẽ dừng lại ở MOOCs?
Hầu hết các platform lớn về M Cs như Coursera, Udacity và ed , sau thành
công bước đầu, họ điều phát triển tầm nhìn và chiến lược ở các giai đoạn tiếp theo để có
thể mở rộng và học tập kết hợp (blended learning) giữa các hoạt động trực tuyến và việc
giảng dạy truyền thống trong khuôn khổ các trường. Tuỳ vào những đặc trưng quốc gia,
nhiều nước cũng đã vận dung tinh thần và cơ chế hoạt động của M C vào điều kiện cụ
thể của nước mình. Sau khi đưa platform M C vào sử dụng, Trung Quốc đã có chiến
lược phát triển xa hơn cho mô hình này với phương thức “tích hợp và cải tiến” để sử
dụng công nghệ mới khắc phục những khuyết điểm của M C trong hoạt động gắn lý
thuyết và thực hành (Liu & hang, 2018). Hiện nay, đã bắt đầu có những sáng kiến về
những mô hình mới như việc chuyển từ M Cs sang M ITs (Massive daptive
Interactive Text). Những điều này cho thấy rằng mô hình M Cs vẫn đang không ngừng
hoàn thiện và phát triển nhằm phù hợp với các điều kiện cụ thể.
Tuy nhiên, mô hình M C cũng bắt đầu cho thấy những bất cập của nó. Mặt dù
nhiều tổ chức vẫn cho rằng M C là một cách rẻ tiền để làm giáo dục ở quy mô lớn.
Tuy nhiên, nếu các khoá học không đạt được quy mô như mong muốn, thì chi phí đầu tư
và duy trì hệ thống này là đáng kể. Theo thống kê năm 2013, chỉ có 10% số người đăng