
278
PHƯƠNG ÁN ĐỔI MỚI DẠY HỌC VÀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ HỌC
PHẦN TRONG THỜI ĐẠI 4.0
Lê Đức Ngọc
Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội
TÓM TẮT
Trong thời đại 4.0, hoạt động đào tạo đại học phải thay đổi toàn diện. Bài
viết này tập trung trình bày nhận thức của tác giả về tác động của cuộc Cách
mạng công nghệ 4.0, về chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu thời đại 4.0
và đề xuất phương án đổi mới dạy học và kiểm tra đánh giá học phần trong thời
đại 4.0 để có được chất lượng nguồn nhân lực đạt yêu cầu.
Từ khóa: đổi mới dạy học; kiểm tra đánh giá; thời đại 4.0; giáo dục và
đào tạo
1. Đặt vấn đề
Thời đại 4.0 gồm 2 nghĩa: Cách mạng công nghiệp 4.0 (cốt lõi là Công
nghệ thông tin và truyền thông - ICT) và giáo dục 4.0 (cốt lõi là chuyển từ chủ
yếu giáo dục Kiến thức, Kỹ năng và Thái độ sang tập trung giáo dục Phẩm chất
và Năng lực).
Cách mạng Công nghệ thông tin và truyền thông có 3 tác động chính đến
giáo dục đại học:
- Thông tin (tri thức - kiến thức, kỹ năng, phẩm chất) bùng nổ làm cho
khối lượng chương trình giảng dạy quá lớn, không thể đáp ứng, đòi hỏi Chương
trình giáo dục phải thay đổi theo hướng liên ngành hay xuyên ngành và Dạy học
phải thay đổi theo hướng dạy cách học.
- Người học có thể tự thu thập thông tin (tri thức) từ nhiều nguồn khác
nhau không chỉ từ nhà trường (do cá nhân hóa việc học), điều đó làm cho hoạt
động dạy và học phải thay đổi từ người giảng viên thành người hướng dẫn học
và nghiên cứu, còn người học phải là công dân ICT để tự học, tự chiểm lĩnh tri
thức cho mình.
- Thời đại 4.0 (ICT) năng lực nghề nghiệp thay đổi liên tục buộc nguồn
nhân lực phải liên tục thay đổi, phát triển phẩm chất và năng lực để đáp ứng.
Giáo dục đại học phải là giáo dục mở (tuyển sinh mở, tổ chức đào tạo mở và
công nhận trình độ học vấn mở…) mới có được nguồn nhân lực mở đáp ứng thời
đại cá nhân hóa việc học.

279
2. Chất lượng nguồn nhân lực thời đại 4.0
Chất lượng nguồn nhân lực thời đại 4.0, đối với nước ta, tác giả cho rằng
cần giáo dục và rèn luyện trong đào tạo đại học các Phẩm chất và Năng lực chính
sau đây:
- Về phẩm chất: đầu vào của đào tạo đại học là những người tốt nghiệp
giáo dục phổ thông, đó là những người trong suốt 12 năm học phổ thông đã được
giáo dục và rèn luyện 5 Phẩm chất gốc (fo): 1 - Yêu nước, 2 - Nhân ái, 3 - Chăm
chỉ, 4 - Trung thực và 5 - Trách nhiệm. Vậy mỗi ngành đào tạo đại học phải góp
phần nâng cao các phẩm chất này trong hành nghề của mình, tối thiểu phải theo
chuẩn đầu ra của khung trinh độ quốc gia đã ban hành.
- Về năng lực: Tác giả cho rằng có 3 loại năng lực sau đây cần được học
tập và rèn luyện ở đại học, đó là:
+ Hai năng lực gốc (fo) là: 1) Trí tuệ thông minh gồm Năng lực nhận
thức (Năng lực tiếp thu tri thức gồm: nhớ, hiểu, áp dụng, phân tích, đánh giá và
sáng tạo) và Năng lực tư duy (Năng lực vận dụng và phát triển tri thức gồm: Tư
duy logic, trừu tượng, hệ thống, phê phán và sáng tạo). 2) Trí tuệ cảm xúc là khả
năng nhận biết và giám sát cảm xúc của mình và những người khác; phân biệt
giữa họ và sử dụng những thông tin này để dẫn dắt suy nghĩ và hành động của
mình cho hợp lý.
+ Ba năng lực nền tảng (f1) của thời đại 4.0: 1) Năng lực thu thập thông
tin (qua công nghệ và học hỏi), 2) Năng lực xử lý thông tin (qua định tính và định
lượng), 3) Năng lực vận dụng thông tin (để ra quyết định hay giải quyết vấn đề).
+ Các năng lực chuyên môn, nghiệp vụ cho một nghề cụ thể (f2).
3. Đổi mới dạy học học phần thời 4.0
3.1. Triết lý dạy học
Theo GS. TS. Vũ Văn Tảo, chuyên gia giáo dục, đã đưa ra mô hình 4 triết
lý dạy học như Hình 1.
Hình 1. Triết lý về phương pháp dạy và học

280
Với sơ đồ này, nhìn từ các bậc học ở Việt Nam, có thể thấy triết lý I chủ
yếu dùng cho giáo dục phổ thông, triết lý II chủ yếu cho đào tạo cử nhân, triết
lý III cho đào tạo thạc sĩ và triết lý IV cho đào tạo tiến sĩ. Trong thời đại 4.0,
nhờ ICT, có sự chuyển dịch: giáo dục phổ thông đã bắt đầu dùng triết lý II, đào
tạo đại học bắt đầu dùng triết lý III và đào tạo thạc sĩ dùng cả triết lý IV.
3.2. Bản chất dạy học
Khi xuất hiện thang nhận thức - thang tiếp thu tri thức (bậc thấp gồm:
nhớ, hiểu, áp dụng; bậc cao gồm: phân tích, đánh giá và sáng tạo của Bloom
2001) thì toàn bộ hệ thống giáo dục từ mẫu giáo, tiểu học đến giáo dục đại học
đều lấy thang này làm mục tiêu giáo dục. Rồi do sự phát triển của Tâm lý - Giáo
dục hình thành thang tư duy - thang vận dụng tri thức (Bậc thấp gồm tư duy
logic, trừu tượng; bậc cao gồm: tư duy hệ thống, phê phán và sáng tạo) thì toàn
bộ hệ thống giáo dục cũng đều bổ sung và nâng cao mục tiêu giáo dục qua thang
tư duy này. Đó là hai năng lực gốc của mọi năng lực. Vì vậy, có thể nói bản chất
giáo dục là rèn luyện năng lực nhận thức và năng lực tư duy cho người học.
Thời đại 4.0, vì bùng nổ tri thức, dạy không xuể, không thể chỉ tập trung
dạy kiến thức, kỹ năng và thái độ cụ thể được mà phải dạy cách học - tức là dạy
nhận thức và dạy tư duy bậc cao để người học có năng lực chủ động Chiếm lĩnh
tri thức/Kiến tạo tri thức suốt đời. Khi đó kiến thức, kỹ năng hay thái độ cụ thể
nào đó liên tục phát triển chỉ là công cụ để học tập và rèn luyện nhận thức và tư
duy.
3.3. Quy trình dạy học tích cực
Khái niệm dạy và học tích cực theo tác giả có thể được định nghĩa là
“Hoạt động dạy học của người thầy và Hoạt động học tập của người học phải
được phối hợp với nhau một cách chặt chẽ, sao cho có thể tự chiếm lĩnh/kiến tạo
tri thức, vận dụng được tri thức và sáng tạo tri thức khi chuyển thông tin thành
tri thức của mình”. Từ đó có thể xây dựng một mô hình hay quy trinh hoạt động
dạy và học tích cực như Hình 2.

281
Hình 2. Quy trình hoạt động dạy học tích cực
Quy trình hoạt động dạy học tích cực trên cho thấy đây là quy trình dạy
cách học. Đầu tiên, giảng viên giao nhiệm vụ (đọc hiểu, làm bài tập, tiểu luận
hay đồ án…) yêu cầu người học phải chủ động chiếm lĩnh hay kiến tạo tri thức
thông qua thực hiện nhiệm vụ (lớp học đảo ngược, Flipped classroom); bước tiếp
giảng viên đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ của sinh viên qua kiểm tra đánh
giá kết quả thực hiện nhiệm vụ (kiểm tra đánh giá như một hoạt động học tập -
Assessment as learning); sau đó giảng viên nhận xét, bình luận, tư vấn qua nhận
thức và tư duy từ kết quả thực hiện nhiệm vụ của sinh viên. Cuối cùng, do có
nhiều thông tin qua trao đổi kết quả thực hiện nhiệm vụ, giảng viên cần tổng kết
để sinh viên ghi nhận được những thông tin chuẩn xác. Quy trình hoạt động dạy
và học này còn thể hiện sinh viên là trung tâm hoạt động học tập (hoạt động
nhận thức và tư duy), giáo viên chỉ là ngươi hướng dẫn hoạt động nhận thức và
tư duy cho người học.
4. Đổi mới kiểm tra đánh giá học phần thời 4.0
4.1. Thành phần và trọng số kết quả kiểm tra đánh giá học phần
Thành phần và trọng số của kiểm tra đánh giá học phần gồm:
- Điểm kiểm tra giữa kỳ gồm các ý kiến phát biểu hỏi hay trả lời phản ánh
năng lực tự chiếm lĩnh/kiến tạo tri thức của mỗi người học chiếm 60% trọng số.
- Điểm kiểm tra cuối kỳ thông qua một bài kiểm tra viết hay một bài trắc
nghiệm vấn đáp chiếm 40% trọng số của điểm học phần.

282
4.2. Triển khai dạy học tích cực học phần
Bước 1) Soạn slides ở dạng tóm tắt chi tiết bài giảng nhằm người học
không cần phải ghi chép, mà tập trung đọc hiểu và có thể trao đổi hay học lại khi
cần thiết.
Bước 2) Chia sẻ slides bài giảng đến người học của lớp học với gợi ý
người học tự in slides bài giảng để đọc hiểu các slide đó trước khi lên lớp (trực
diện hay online) và ghi chú chỗ cần hỏi hoặc trao đổi và để ghi chú bổ sung khi
nghe giảng hay thảo luận ở lớp để hiểu sâu hơn.
Bước 3) Lên lớp (trực diện hay online) hướng dẫn đọc hiểu qua trao đổi
nhận thức và tư duy đối với từng slide giảng viên yêu cầu (tức là giảng viên chọn
lọc slides để hỏi). Đầu tiên yêu cầu người học hỏi chỗ chưa rõ hay cho nhận xét.
Sau đó yêu cầu người học trình bầy nhận thức và tư duy của mình và thảo luận
về slide đó. Cuối cùng giảng viên nhận xét, tư vấn về nhận thức và tư duy về
slide đó cho lớp.
Bước 4) Giảng viên cho điểm từng sinh viên hỏi, trả lời hay tham gia thảo
luận. (nếu hỏi cho 1 điểm (theo thang điểm 4 hay điểm chữ ABCD), nếu trả lời
hay thảo luận tùy theo đúng sai cho từ 2 đến 4 điểm, để lấy đó làm các điểm giữa
kỳ).
4.3. Kiểm tra đánh giá học phần cuối kỳ
- Nếu thi viết cho về nhà làm (trong thời hạn xác định theo số slide của 1
đề), có thể lập từ 5 đến 10 đề thi tùy theo sĩ số lớp, bằng cách chọn 5 đến 10 slide
trong số các slide bài giảng để lập 1 đề thi. Câu hỏi thi chung cho các đề là: “Hãy
viết 2 câu trắc nghiệm khách quan 4 lựa chọn có 1 đáp án cho mỗi slide sau đây:
(ghi số của 5 hay 10 slide)”.
Đề thi viết loại này nhằm đánh giá ngẫu nhiên mức độ nắm vững tri thức
của các slide bài giảng người học đã học. Như vậy khi chấm 10 hay 20 câu trắc
nghiệm của 1 đề cho mỗi thí sinh, mỗi câu làm đúng cho 1 điểm, rồi quy về thang
điểm 4 để cho điểm cuối kỳ của học phần.
-Nếu thi vấn đáp tại buổi thi (trực diện hay online), hãy chọn 10 câu trắc
nghiệm trong ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm khách quan của học phần để lập 10
đến 20 đề trắc nghiệm tùy sĩ số lớp. Từng thí sinh được cấp ngẫu nhiên 1 đề trong
số các đề đã lập, người học được làm trong 8 đến 10 phút rồi nộp bài. Tiếp theo
giảng viên chỉ cần chọn 3 câu/10 câu trắc nghiệm của bài làm để hỏi “Vì sao lại
chọn phương án này?” để người học trả lời. Sau đó căn cứ vào 10 câu trắc nghiệm
thí sinh làm và trả lời đúng hay sai để cho điểm và qui về thang điểm 4 của bài
thi vấn đáp cuối kỳ.

