BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phan Thị Kiều Thúy Liễu

QUAN HỆ LIÊN XÔ – HOA KỲ

VÀ NGUỒN GỐC CHIẾN TRANH LẠNH

Ở CHÂU ÂU (1945- 1950)

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Phan Thị Kiều Thúy Liễu

QUAN HỆ LIÊN XÔ – HOA KỲ

VÀ NGUỒN GỐC CHIẾN TRANH LẠNH

Ở CHÂU ÂU (1945- 1950)

Chuyên ngành : Lịch Sử Thế Giới

Mã số

: 60 22 03 11

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. LÊ PHỤNG HOÀNG

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

1

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cảm đoan đây là kết quả công trình nghiên cứu của bản thân Tôi dưới sự

hướng dẫn của TS. Lê Phụng Hoàng. Các tài liệu được trích dẫn trong Luận văn đều có

nguồn gốc rõ ràng.

Tác giả Phan Thị Kiều Thúy Liễu

1

LỜI CẢM ƠN

Trải qua quá trình học tập và nghiên cứu, đến nay Tôi đã hoàn thành xong Luận văn.

Để có thể hoàn thành Luận văn, đó không chỉ là sự nổ lực và cố gắng của riêng bản thân

Tôi, mà đó còn là sự giúp đỡ, động viên, hỗ trợ của nhiều cá nhân, tập thể, gia đình và bạn

bè.

Tôi xin trân trọng cảm ơn TS. Lê Phụng Hoàng đã tận tình hướng dẫn, hỗ trợ, giải

đáp thắc mắc cũng như chia sẻ cho Tôi nhiều tài liệu quan trọng, hết sức cần thiết phục vụ

cho việc nghiên cứu đề tài.

Tôi chân thành cảm ơn cán bộ, công nhân viên của Phòng Sau Đại Học Trường Đại

Học Sư Phạm TP-HCM đã giúp đỡ, tạo điều kiện để Tôi hoàn thành Luận văn.

Tôi chân thành cảm ơn gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên Tôi rất nhiều về

mặt tinh thần, những lúc Tôi khó khăn và nản lòng nhất.

Xin chân thành cảm ơn!

Học Viên

Phan Thị Kiều Thúy Liễu

2

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ 1

LỜI CẢM ƠN .............................................................................................................. 2

MỤC LỤC .................................................................................................................... 3

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ......................................................................... 5

MỞ ĐẦU ....................................................................................................................... 6

1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................................. 6

2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................................... 7

3. Lịch sử đề tài .................................................................................................................. 8

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................................. 11

5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 12

6. Đóng góp của luận văn ................................................................................................ 12

CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH THẾ GIỚI SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI .............................................................................................................................. 13

1.1. So sánh lực lượng quốc tế có sự thay đổi ................................................................ 13

1.2. Sự tan rã của khối đồng minh chống phát xít ........................................................ 17

1.3. Sự ra đời hệ thống xã hội chủ nghĩa ........................................................................ 17

1.4. Cách mạng khoa học kĩ thuật bùng nổ ................................................................... 19

CHƯƠNG 2: NGUỒN GỐC CHIẾN TRANH LẠNH (1): SỰ TAN RÃ QUAN HỆ ĐỒNG MINH LIÊN XÔ – HOA KỲ (1945 - 1947) ......................................... 24

2.1. Nguồn gốc Chiến tranh lạnh thông qua mối quan hệ Liên Xô- Hoa Kỳ ở châu Âu trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai ............................................................ 24

2.1.1. Quan hệ Liên Xô – Hoa Kỳ trước Chiến tranh thế giới thứ hai ........................... 24

2.1.2. Quan hệ đồng minh Liên Xô – Hoa Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai ( 1942- 1945) ............................................................................................................................... 26

2.2. Nguồn gốc Chiến tranh lạnh thông qua mối quan hệ Liên Xô – Hoa Kỳ ở Châu Âu (1945-1947) ................................................................................................................. 38

2.2.1. Sự mở rộng quyền lực của Liên Xô ở châu Âu .................................................... 38

2.2.2. Khởi xướng Chiến lược ngăn chặn của Hoa Kỳ .................................................. 41

2.2.3. Quan hệ tan vỡ Liên Xô – Hoa Kỳ 1947 .............................................................. 45

CHƯƠNG 3: NGUỒN GỐC CHIẾN TRANH LẠNH (2): SỰ HÌNH THÀNH HAI HỆ THỐNG ĐỐI ĐẦU XHCN VÀ TBCN (1948-1950)................................ 57

3.1. Tình hình châu Âu những năm 1948-1950 ............................................................. 57

3.2. Cầu không vận Berlin và quá trình thành lập hai nhà nước Đức ........................ 58

3.2.1. Cầu không vận Berlin ........................................................................................... 58

3

3.2.2. Quá trình thành lập hai nhà nước Đức ................................................................. 61

3.3. Nổ lực cân bằng quyền lực của Liên Xô ở Châu Âu .............................................. 62

3.3.1. Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) ........................................................................ 62

3.3.2. Liên Xô phát triển bom nguyên tử ....................................................................... 63

3.4. Hoa Kỳ tăng cường tìm kiếm liên minh quân sự ................................................... 66

3.4.1. Sự thành lập khối quân sự NATO ........................................................................ 66

3.4.2.Văn kiện NSC-68 .................................................................................................. 68

KẾT LUẬN ................................................................................................................ 70

TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 72

PHỤ LỤC ................................................................................................................... 76

4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

XHCN Socialist

Xã hội chủ nghĩa

TBCN Capitalist

Tư bản chủ nghĩa

COMECON Council of Mutual Economic Assistance

Hội đồng tương trợ kinh tế

CWIHP Cold War International History Project

Dự án quốc tế lịch sử Chiến tranh lạnh.

UEO Western European Union

Liên hiệp Tây Âu

NSC-68 National Security Council 68

Hội đồng An ninh quốc gia 68

NATO North Atlantic Treaty Organization

Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương

5

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình thế giới có nhiều biến động và phức tạp.

Một trật tự thế giới mới được thiết lập thường được gọi là trật tự hai cực Yalta, thế giới bị

chi phối, luôn trong tình trạng căng thẳng bởi hai siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ. Và mối

quan hệ giữa Liên Xô và Hoa Kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai được phản ánh thông qua

cuộc Chiến tranh lạnh.

Quan hệ giữa hai siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ không phải bắt đầu rạn nứt sau Chiến

tranh thế giới thứ hai mà thực ra từ sau Cách Mạng tháng Mười Nga năm 1917. Một loạt

các sự kiện trước Chiến tranh thế giới thứ hai làm cho quan hệ giữa hai siêu cường ngày

càng căng thẳng. Đó là cuộc đối đầu giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, giữa một bên là Chủ nghĩa xã

hội và một bên là Chủ nghĩa tư bản nảy sinh ngay từ sau Cách mạng tháng Mười Nga năm

1917 thành công với sự ra đời của nước Nga Xô viết. Mặc dù vậy, nhà nước xã hội chủ

nghĩa đầu tiên vẫn đứng vững, tồn tại và ngày càng hùng mạnh. Thêm vào đó, các sự kiện

trong và sau chiến tranh làm trầm trọng thêm căng thăng giữa hai cường quốc. Xuất phát từ

sự khác nhau về ý thức hệ dẫn đến sự ngờ vực và thiếu tin cậy lẫn nhau của chính phủ hai

cường quốc ngay cả khi là đồng minh của nhau.Trong đó Hiệp ước Xô - Đức trong hai năm

đầu của cuộc chiến đã dẫn đến cuộc xâm lược tiếp theo của phát xít, cảm nhận về sự chậm

trễ trong việc mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu. Bất đồng trong các Hội nghị tổ chức thời hậu

chiến. Hậu quả của sự ngờ vực là cả hai đã có những hành động riêng rẽ, chống đối lẫn

nhau. Liên Xô tạo ra một khối Đông Âu các nước được xem là vệ tinh của Liên Xô. Hoa Kỳ

tìm liên minh phương Tây bằng hành động hỗ trợ việc xây dựng lại ngành công nghiệp cho

Đức với Kế hoạch Marshall và Điểm 4. Chiến tranh lạnh là kết quả tất yếu của các cuộc

chiến tranh giành và mở rộng phạm vi thế lực giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, mà thường được gọi

là hai cực trong trật tự thế giới hai cực được xác định từ Hội nghị Yalta.

Học thuyết Truman được xem là xuất phát điểm cho cuộc Chiến tranh lạnh giữa Hoa

Kỳ và Liên Xô. Chứng tỏ mâu thuẩn giữa Liên Xô và Hoa Kỳ là không thể điều hòa và

Chiến tranh lạnh xảy ra là tất yếu.

Đối với nhiều người trên thế giới, Chiến tranh lạnh chi phối mọi khía cạnh của quan

hệ quốc tế nửa cuối thế kỉ XX. Cả hai cường quốc đã nhiều lần đưa thế giới đến bờ vực

Chiến tranh hạt nhân. Hàng nghìn tỷ USD đã được mỗi bên sử dụng để cố gắng chứng minh

6

ưu thế kinh tế, quân sự và chính trị. Chính vì thế, mà Chiến tranh lạnh luôn được xem là vấn

đề lớn và trở thành đề tài cho nhiều nhà nghiên cứu ngay cả khi chiến tranh vẫn còn tiếp

diễn. Đặc biệt sau khi Liên Xô công bố tài liệu lưu trữ, thì các nhà nghiên cứu lại có dịp

tranh luận về Chiến tranh lạnh, xoay quanh chủ đề nguồn gốc của chiến tranh. Bởi trước khi

Liên Xô công bố tài liệu lưu trữ, thì các nhà nghiên cứu phần lớn cho rằng cuộc chiến tranh

này xuất phát từ phía Hoa Kỳ với tham vọng “bá chủ thế giới”. Điều đó là quan trọng và hết

sức cần thiết trong thời đại ngày nay khi bước vào thời kỳ hòa bình, phát triển và hội nhập

quốc tế, việc giao lưu hợp tác giữa các nước ngày càng phát triển thì nhu cầu nghiên cứu

cũng như tìm hiểu về lịch sử quan hệ quốc tế ngày càng được quan tâm và nâng cao.

Vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà nghiên cứu chính là nguồn gốc của cuộc Chiến

tranh lạnh. Trong đó, nguồn gốc của Chiến tranh lạnh được coi là nằm trực tiếp nhất trong

mối quan hệ giữa Liên Xô và Hoa Kỳ trong khoảng thời gian trong và sau Chiến tranh thế

giới thứ hai 1945-1950 xuất phát từ sự ngờ vực lẫn nhau và bất đồng tại các hội nghị thời

hậu chiến xoay quanh vấn đề Đức và tổ chức lại thế giới sau chiến tranh. Cả hai đều không

tìm thấy tiếng nói chung trong các hội nghị tổ chức trong và sau chiến tranh. Cường quốc

nào chịu trách nhiệm ? Cường quốc nào tích cực nhất sau chiến tranh thế giới thứ hai ?

Chiến tranh xảy ra là tất yếu ? Qua đó làm rõ nguồn gốc của Chiến tranh lạnh thông qua mối

quan hệ giữa hai siêu cường trong những năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, đặc biệt

ở châu Âu. Từ đó cung cấp thêm cứ liệu cho lĩnh vực quan hệ quốc tế, nhất là vấn đề liên

quan đến hai cường quốc Liên Xô và Hoa Kỳ. Đồng thời làm phong phú thêm nguồn tài liệu

nghiên cứu về nguồn gốc Chiến tranh lạnh. Ngoài ra làm tài liệu tham khảo hữu ích cho

những đối tượng cần tìm hiểu nghiên cứu hai cường quốc, cũng như nguồn gốc của Chiến

tranh lạnh.

Đó là lí do tôi chọn đề tài “QUAN HỆ LIÊN XÔ – HOA KỲ VÀ NGUỒN GỐC CHIẾN

TRANH LẠNH Ở CHÂU ÂU (1945- 1950)” nhằm có cái nhìn khách quan hơn về nguồn gốc

Chiến tranh lạnh.

2. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu “QUAN HỆ LIÊN XÔ – HOA KỲ VÀ NGUỒN GỐC CHIẾN TRANH LẠNH

Ở CHÂU ÂU (1945- 1950)” được thực hiện với hai mục đích chính :

- Góp phần làm rõ nguồn gốc của Chiến tranh lạnh thông qua mối quan hệ giữa hai

siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ trong những năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

7

- Phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế ở châu Âu nói chung và quan hệ

hai siêu cường quốc Liên Xô và Hoa Kỳ nói riêng.

3. Lịch sử đề tài

Trong nước

Cho đến nay, ở Việt Nam vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu về nguồn gốc của

Chiến tranh lạnh một cách toàn diện và chuyên sâu. Điều đó cũng dễ hiểu bởi vì hầu hết các

nhà nghiên cứu chỉ được tiếp cận tài liệu từ phía Hoa Kỳ, còn về phía Liên Xô không có

hoặc rất ít. Cho đến khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Liên Xô cho công bố tài liệu, nhưng công

việc này không lâu sau đó bị đình chỉ với lí do ảnh hưởng đến an ninh của Liên Xô. Chính

vì vậy việc nghiên cứu nguồn gốc của Chiến tranh lạnh cũng gặp phải những mặt hạn chế và

thiếu sót.

Tuy vậy, cũng đã có những công trình nghiên cứu đề cập đến quan hệ quốc tế sau

Chiến tranh thế giới thứ hai nói chung, đặc biệt hai cường quốc Liên Xô và Hoa Kỳ nói

riêng.

Trước tiên, phải kể đến đó hai quyển sách “Lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại (1945-

2000) do Trần Nam Tiến (chủ biên) và “Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1945 đến nay (Tập 1)

của Lê Vinh Quốc (chủ biên) và Lê Phụng Hoàng. Trong quyển “Lịch sử quan hệ quốc tế

hiện đại (1945-2000) do Trần Nam Tiến (chủ biên) tác giả tập trung nghiên cứu lịch sử

quan hệ quốc tế (1945-2000). Đặc biệt tác giả có đề cập đến những cơ sở cho sự hình thành

trật tự thế giới hai cực sau chiến tranh thông qua các hội nghị tổ chức thời hậu chiến. Trong

đó do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu, dẫn đến sự thay đổi quan hệ hai cường quốc từ đồng

minh thời chiến chuyển sang đối đầu, hình thành cục diện Chiến tranh lạnh. Cả chương hai

tác giả nghiên cứu về Chiến tranh lạnh và sự đối đầu hai cực Xô - Hoa Kỳ. Đồng thời chỉ ra

điểm khởi đầu chiến tranh xuất phát từ bài diễn văn của Winston Churchill (Anh). Khác

những nhà nghiên cứu trước cho rằng Học thuyết Truman phát động Chiến tranh lạnh.

Trong quyển “Lịch sử quan hệ quốc tế từ 1945 đến nay (Tập 1) của Lê Vinh Quốc

(chủ biên) và Lê Phụng Hoàng. Tác giả đề cập đến quan hệ quốc tế từ 1945 đến nay chịu

ảnh hưởng của hai cực Xô –Hoa Kỳ, đồng thời chương hai tác giả đề cập đến tình hình khu

vực châu Âu trong Chiến tranh lạnh, nổi bật là vấn đề Đức. Cung cấp thêm nhiều tài liệu

cần thiết cho việc nghiên cứu nguồn gốc chiến tranh, đặc biệt là thông qua mối quan hệ hai

cường quốc từ đồng minh chuyển sang đối đầu dựa trên những sự kiện cơ bản trực tiếp ảnh

8

hưởng hai cường quốc.Từ đó giúp nhà nghiên cứu có cái nhìn khách quan hơn về nguồn gốc

của Chiến tranh lạnh.

Liên quan đến nội dung quan hệ Xô- Hoa Kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai phải kể

đến quyển sách “Đông Tây Nam Bắc : Những diễn biến chính trong quan hệ quốc tế từ năm

1945”, quyển sách do cán bộ của Học viện Ngoại giao dịch. Trong đó tác giả đề cập đến

toàn bộ cuộc Chiến tranh lạnh từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc, phân tích tình hình thế

giới sau Chiến tranh thế giới thứ hai dẫn dến thế giới hai cực. Đồng thời nêu rõ chính sách

đối ngoại của Liên Xô và Hoa Kỳ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, dẫn đến hai cường quốc

có những động thái chống đối nhau, chạy đua vũ trang. Từ đó có thể nhận định trách nhiệm

chiến tranh là thuộc về cường quốc nào ? Cường quốc nào tích cực nhất sau chiến tranh ?

Nước ngoài

Ở Hoa Kỳ, ngay từ khi Chiến tranh lạnh còn đang tiếp diễn, thậm chí mới bắt đầu vài

năm, thì các sử gia phương Tây đã bắt tay ngay vào việc nghiên cứu Chiến tranh lạnh, đặc

biệt là nguồn gốc chiến tranh. Ngay sau khi Liên Xô công bố tài liệu thì vấn đề nghiên cứu,

xem xét lại nguồn gốc chiến tranh trở nên cấp bách và cần thiết, một lần nữa các sử gia

phương Tây có dịp tranh luận.

Tại Mĩ đã xuất hiện ba trường phái khi nghiên cứu về nguồn gốc của Chiến tranh

lạnh: phái chính thống, phái xét lại, phái hậu xét lại, và còn nhiều tác phẩm và công trình

viết về nguồn gốc chiến tranh lạnh.

Như với bất kỳ cuộc xung đột, những người đã nghiên cứu chiến tranh đã cố gắng

xác định nguồn gốc của cuộc chiến tranh mà hậu quả đặt thế giới bên bờ vực của chiến tranh

hạt nhân nhiều lần. Trong những năm 1950 và dưới ảnh hưởng nặng chính trị bảo thủ, các

nhà sử học phương Tây đặt trách nhiệm cho cuộc xung đột thẳng vào Liên Xô. Đến đầu

những năm 1960, các nhà sử học phát triển đối chọi với việc giải thích bảo thủ bằng cách

đặt đổ lỗi cho chiến tranh lạnh sau Thế chiến II là do Hoa Kỳ. Những năm 1970 bắt đầu

tranh luận về nguồn gốc của Chiến tranh Lạnh bắt đầu với một sự hiểu lầm và nghi ngờ giữa

Hoa Kỳ và Liên Xô. Cho đến khi mở tài liệu lưu trữ của Liên Xô sau khi kết thúc Chiến

tranh Lạnh, các sử gia phương Tây đã tập trung vào chính sách mở rộng từ Liên Xô là

nguyên nhân của chiến tranh Lạnh.

Tiêu biểu phải kể đến là Giáo sư John Lewis Gaddis, tác giả đã có đến 6 quyển sách

viết về Chiến tranh lạnh. Quyển sách đầu tiên là “Hoa Kỳ và nguồn gốc của Chiến tranh

Lạnh, 1941-1947” cuốn sách bước ngoặt của ông. Trong đó, cho rằng lỗi của Chiến tranh

9

lạnh là do cả Hoa Kỳ và Liên Xô,. Trong cuốn sách, Gaddis lập luận Hoa Kỳ và Liên Xô

mong muốn hòa bình ở châu Âu. Sử dụng nguồn phương Tây, Giáo sư Gaddis viết rằng

chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ sau thất bại của Đức Quốc xã nhằm để giữ cho liên minh

lớn thời chiến tranh, giúp đảm bảo hòa bình sẽ là vĩnh cửu. Tuy nhiên, các sáng kiến của

Hoa Kỳ sẽ cần sự hợp tác của Liên Xô, trong đó có những ý tưởng riêng của mình cho thế

giới sau chiến tranh. Theo Gaddis, Liên Xô cảm thấy họ cần một vùng đệm từ phương Tây,

là nguồn gốc vấn đề của họ kể từ năm 1914, để đảm bảo lợi ích của họ. Theo tác giả, cuộc

xung đột giữa hai quốc gia không thể tránh khỏi. Các nhà lãnh đạo của cả hai siêu cường

muốn tìm hòa bình, nhưng trong khi làm điều đó lại hành động ngược lại.

Nhưng khi Liên Xô công bố tài liệu, Ngay cả John Lewis Gaddis đã bị buộc phải

đánh giá lại quan điểm của mình về nguồn gốc của Chiến tranh Lạnh. Kể từ khi nguồn tài

liệu mới đã được công bố, Gaddis không còn thấy Chiến tranh Lạnh là một số phận không

thể tránh khỏi của lịch sử. Thay vào đó, Gaddis đặt đổ lỗi toàn bộ cuộc chiến tranh lạnh trên

Joseph Stalin. Cụ thể trong quyển sách “We Now Know : Rethinking History Cold War”

Giáo sư nêu rõ mục đích là nhằm xem xét trách nhiệm thuộc về ai ? Chiến tranh có phải là

tất yếu ? Trong đó tác giả đề cập đến những vấn đề có tính quyết định đến quan hệ hai

cường quốc : vấn đề Đức, vũ khí hạt nhân. Qua đó, tác giả đặt trách nhiệm chiến tranh là do

Joseph Stalin. Gaddis viết : “Tôi nghĩ rằng ở đây lịch sử mới đã đưa chúng ta trở lại với câu

trả lời cũ : chỉ cần Stalin lãnh đạo Liên Xô thì một cuộc chiến tranh là không thể tránh khỏi.

Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, các kho lưu trữ của Liên Xô cũ đã được mở ra.

Điều này cho phép giải thích nguồn gốc của Chiến tranh Lạnh mới phải xem xét, sự hiểu

biết về những gì Liên Xô đã suy nghĩ và lập kế hoạch trong khởi đầu của Chiến tranh Lạnh.

Nghiên cứu mới đã được thực hiện liên quan đến cuộc xung đột ý thức hệ giữa hai siêu

cường, vai trò của Stalin, và xây dựng đế chế sau chiến tranh của cả hai bên đang được

nghiên cứu đáng kể. Tiêu biểu là Martin P. Lefler cho rằng các tài liệu lưu trữ của Liên Xô

có xu hướng ủng hộ ý tưởng mở rộng quyền lực là những lý do dẫn đến cuộc chiến tranh

lạnh. Lefler cho rằng Liên Xô và Hoa Kỳ cạnh tranh để tạo ra các khu vực ảnh hưởng mà họ

tin rằng quan trọng đối với an ninh quốc gia và lợi ích kinh tế của họ. Thật không may, hai

cường quốc này, theo Lefler, đối đầu bên cạnh nhau trên lục địa châu Âu, dẫn đến căng

thẳng dọc theo các nước giáp biên giới, có thể dễ dàng nhìn thấy trong những cuộc xung đột

trong thành phố Berlin.

Liên quan đến nguồn gốc Chiến tranh lạnh phải kể đến công trình nghiên cứu của

John D Clare với đề tài “Origins Of The Cold War 1945-1949”. Trong đó tác giả phân tích

10

những sự kiện quan trọng đưa đến quan hệ Liên Xô- Hoa Kỳ từ đồng minh chuyển sang đối

đầu trong Chiến tranh lạnh. Tác giả cho rằng nguồn gốc chiến tranh xuất phát từ quả bom

nguyên tử ném xuống Hiroshima.John D Clare nhận định “quả bom ném xuống Nhật Bản

nhằm kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai nhưng nó cũng báo hiệu cuộc chiến tranh mới”.

Ngoài ra tại Hoa Kỳ đã xây dựng một chương trình nghiên cứu về Chiến tranh lạnh

có tên là Cold War International History Project (địa chỉ web : www.CWIHP.org). Cho thấy

đây là vấn đề rất được quan tâm. Dự án lịch sử quốc tế Chiến tranh lạnh (CWIHP) được

thành lập tại Trung tâm Woodrow Wilson cho các học giả quốc tế ở Washington vào năm

1991. Dự án nhằm hỗ trợ phát hành đầy đủ, kịp thời các tài liệu lịch sử của chính phủ trên

tất cả các vấn đề của Chiến tranh lạnh, và đẩy nhanh lồng ghép các nguồn tài liệu mới và

quan điểm các sử gia về Chiến tranh lạnh đã được viết trong vài thập kỷ qua, chủ yếu là của

các học giả phương Tây dựa trên các nguồn lưu trữ từ phương Tây. Đồng thời vượt qua rào

cản ngôn ngữ, địa lý và chuyên môn trong khu vực để tạo ra các liên kết mới giữa các học

giả quan tâm đến lịch sử Chiến tranh lạnh. Một chương trình học bổng dành cho các sử gia

trẻ từ các nước thuộc khối Cộng sản tiến hành nghiên cứu lịch sử Chiến tranh lạnh ở Hoa

Kỳ và các cuộc họp, hội nghị, hội thảo. CWIHP nhận được tài trợ từ Quỹ Hàn Quốc

(Seoul), Henry L. Luce Foundation (New York), Quỹ MacArthur (Chicago), Andrew

Mellon (New York), và các nhà tài trợ khác.

Như vậy, vấn đề nguồn gốc của Chiến tranh lạnh ở nước ta được nghiên cứu rất ít,

chủ yếu được ghép vào lịch sử quan hệ quốc tế cả giai đoạn nói chung. Nhưng ở phương

Tây ( Hoa Kỳ) đề tài nguồn gốc của Chiến tranh lạnh được đem ra tranh luận sôi nổi. Việc

nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra nguồn gốc của Chiến tranh lạnh, cung cấp thêm tài liệu cho

việc nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế ở châu Âu nói chung và quan hệ hai siêu cường

quốc Liên Xô và Hoa Kỳ nói riêng.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu :

+ Đề tài tập trung xoay quanh nguồn gốc chiến tranh lạnh thông qua mối quan hệ Liên

Xô và Hoa Kỳ những năm sau Chiến tranh thế giới thứ hai.

+ Trong đó tập trung chủ yếu quan hệ hai cường quốc trên lĩnh vực đối ngoại.

Phạm vi nghiên cứu : -

+ Không gian : ở khu vực châu Âu.

+ Thời gian : 1945-1950.

11

+ Tài liệu : Trong giới hạn khả năng cho phép, đề tài chỉ được tiếp cận các tài liệu chủ

yếu tiếng Việt và tiếng Anh.

+ Quan hệ Liên Xô – Hoa Kỳ bị phá vỡ sau chiến tranh được biểu hiện qua nhiều vấn

đề, sự kiện. Do đó đề tài chỉ tìm hiểu trong giới hạn các sự kiện quan trọng, căn bản nhất.

5. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình thực hiện đề tài, tôi đã dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa

Mac – Lênin và sử dụng những phương pháp nghiên cứu đặc trưng của ngành học. Trong

đó những phương pháp cần thiết là phương pháp lịch sử, phương pháp logic và phương

pháp đặc trưng của lịch sử quan hệ quốc tế để làm sáng tỏ nguồn gốc Chiến tranh lạnh thông

qua mối quan hệ hai cường quốc Liên Xô – Hoa Kỳ đặt trong mối quan hệ quốc tế.

6. Đóng góp của luận văn

- Góp phần làm rõ nguồn gốc của Chiến tranh lạnh thông qua mối quan hệ giữa hai

siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ trong những năm đầu sau Chiến tranh thế giới

thứ hai.

- Phục vụ cho việc nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế ở châu Âu nói chung và

quan hệ hai siêu cường quốc Liên Xô và Hoa Kỳ nói riêng.

Cấu trúc của luận văn

Ngoài phần Mở Đầu, Kết Luận, Tài Liệu Tham Khảo, Phụ Lục thì Luận văn gồm

ba chương :

Chương 1. BỐI CẢNH THẾ GIỚI SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ HAI

Chương 2. NGUỒN GỐC CHIẾN TRANH LẠNH (1): SỰ TAN RÃ QUAN HỆ

ĐỒNG MINH LIÊN XÔ – HOA KỲ (1945-1947)

Chương 3. NGUỒN GỐC CHIẾN TRANH LẠNH (2): SỰ HÌNH THÀNH HAI

HỆ THỐNG ĐỐI ĐẦU XHCN VÀ TBCN

(1948-1950)

12

CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH THẾ GIỚI SAU CHIẾN TRANH THẾ

GIỚI THỨ HAI

1.1. So sánh lực lượng quốc tế có sự thay đổi

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, so sánh lực lượng giữa các quốc gia đã

có sự thay đổi mang tính căn bản. Chiến tranh thế giới thứ hai đánh dấu sự trỗi dậy của chủ

nghĩa phát xít bành trướng, xâm lược thuộc địa đòi chia lại thế giới, vốn đã phân chia trước

đó, có lợi cho các nước tư bản Anh, Pháp. Trong đó Đức với tham vọng “ xây dựng đại

Đức” nghĩa là lãnh thổ Đức bao gồm những nơi có cư dân Đức sinh sống ở châu Âu. Nhưng

sau chiến tranh với sự thất bại hoàn toàn của chủ nghĩa phát xít, c ác nước phát xít hùng

mạnh trước kia là Đức, Italia, Nhật Bản đã bị đánh bại hoàn toàn và suy yếu. Trong đó, Anh

và Pháp tuy là nước thắng trận nhưng cũng đã bị chiến tranh tàn phá hết sức nặng nề, trên

thực tế đã bị tụt xuống so với các nước. Ngược lại Hoa Kỳ và Liên Xô, đóng vai trò quan

trọng trong việc tiêu diệt phát xít nhanh chóng trở thành hai siêu cường quốc trên thế giới

mà sự phát triển vượt bậc của hai siêu cường không một nước nào có thể so sánh được.

Đó là, sự vươn lên mạnh mẽ của Hoa Kỳ và Liên Xô sau chiến tranh, thế giới bị chi

phối bởi hai siêu cường và luôn trong tình trạng căng thẳng, đi đến đối đầu nhau giữa một

bên là chủ nghĩa tư bản, một bên là chủ nghĩ xã hội. Sự thay đổi căn bản đó đã cho thấy thế

giới đang phân thành hai cực : Hoa Kỳ - Liên Xô, nghĩa là cán cân quyền lực mới chỉ còn

lại hai nước Hoa Kỳ -Liên Xô.

Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều tham gia vào Chiến tranh thế giới thứ hai, đứng về khối

đồng minh chống phát xít. Trong đó, Liên Xô, Hoa Kỳ và Anh là ba nước đóng vai trò quan

trọng tiêu diệt phát xít. Nhưng ở đây, Hoa Kỳ và Liên Xô lại vươn lên mạnh mẽ sau chiến

tranh. Đặc biệt, về phía Liên Xô là nước gánh chịu hậu quả nặng nề nhất sau khi chiến tranh

kết thúc nhưng lại có thể khôi phục được kinh tế và phát triển ngang với Hoa Kỳ. Trong khi

đó Anh và Pháp kinh tế giảm sút và ngày càng lệ thuộc vào Hoa Kỳ thông qua kế hoạch

Marshall đề ra năm 1947.

Trước tiên về phía Hoa Kỳ, trước chiến tranh Hoa Kỳ là nước phát triển nhất trên thế

giới. Trong Chiến tranh thế giới thứ hai, với chính sách ngoại giao khôn khéo, giữ thái độ

trung lập không can thiệp vào các hoạt động bên ngoài nước, Hoa Kỳ đã giàu lên nhờ vào

buôn bán vũ khí cho các nước tham chiến. Nhưng mãi đến khi Nhật Bản đụng chạm quyền

lợi của Hoa Kỳ tại Trân Châu cảng năm 1941, thì lúc này Hoa Kỳ quyết định tham gia

13

chiến tranh đứng về khối đồng minh chống phát xít. Hoa Kỳ tham gia muộn mãi sau hai

năm khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Do đó sau chiến tranh Hoa Kỳ nhanh chóng

giàu lên, phát triển vượt bậc nhờ những cơ hội vàng mà chiến tranh đem lại :

Thứ nhất, Hoa Kỳ buôn bán vũ khí giai đoạn đầu cho các nước tham chiến khi chiến

tranh mới bắt đầu, nhờ đó mà Hoa Kỳ thu về lợi nhuận đáng kể.

Thứ hai, Hoa Kỳ tham gia chiến tranh muộn đứng về khối đồng minh chống phát xít.

Cùng với Liên Xô và Anh đã giành thắng lợi trước phát xít. Nhờ đó, Hoa Kỳ được hưởng

lợi từ thành quả chiến tranh.

Thứ ba, so với các nước tham chiến thì Hoa Kỳ chưa hề bị chiến tranh phá hoại, nhờ

đó sức mạnh quân sự, thực lực kinh tế và ảnh hưởng chính trị của Hoa Kỳ đã được tăng

lên nhanh chóng trong thời kỳ chiến tranh và sau chiến tranh trở thành một nước mạnh nhất

thế giới. Hoa Kỳ trở thành một nước khổng lồ về quân sự và sức mạnh quân sự thuộc loại

hàng đầu thế giới với việc độc quyền vũ khí hạt nhân năm 1945. Trước chiến tranh, tổng số

quân vũ trang của Hoa Kỳ chỉ khoảng 335.000 người, dự đoán ngân sách quốc phòng

không quá 1 tỷ USD. Nhưng đến năm 1945, đêm trước khi kết thúc chiến tranh châu Âu,

tổng số quân của Mỹ đã có hơn 12 triệu, dự toán ngân sách quốc phòng vượt quá 80 tỷ

USD. Nhờ vào sự phát triển mạnh mẽ dẫn đầu thế giới tư bản, Hoa Kỳ nhanh chóng gây ảnh

hưởng lôi kéo các nước Tây Âu về phía mình thông qua kế hoạch Marshall và Điểm 4 nhằm

giúp các nước khôi phục kinh tế sau chiến tranh. Và sau đó tập hợp lực lượng quân sự

khổng lồ, thành lập tổ chức quân sự Nato.

Về phía Liên Xô, chiến tranh không đem lại những cơ hội vàng cho Liên Xô như Hoa

Kỳ, nhưng Liên Xô nhanh chóng khôi phục kinh tế và phát triển ngang với Hoa Kỳ. Năm

1949 với việc chế tạo thành công bom nguyên tử, Liên Xô đã phá thế độc quyền vũ khí hạt

nhân của Hoa Kỳ. Đặc biệt, Liên Xô là nước bị tàn phá nặng nề nhất trong chiến tranh về

người và của. Cụ thể nhân dân Liên Xô đã phải gánh chịu những hy sinh và tổn thất hết sức

to lớn : trên 27 triệu người chết, 1710 thành phố và hơn 70.000 làng mạc bị thiêu huỷ,

32.000 xí nghiệp bị tàn phá. Tổng số thiệt hại vật chất ước tính 2600 tỉ rúp, so với thiệt hại

từng nước thì gấp 4 lần nước Đức, 5 lần nước Ba Lan, 10 lần nước Nhật, 42 lần nước Pháp,

70 lần nước Anh, 88 lần nước Hoa Kỳ. Thực lực kinh tế của Liên Xô còn tụt hậu xa xo với

Hoa Kỳ, sức mạnh quân sự cũng không lớn mạnh như Hoa Kỳ. S a u chiến tranh, Liên Xô

phải tự mình bắt đầu xây dựng lại đất nước từ đống gạch vụn đổ nát mà không có sự giúp đỡ

của bất kì đồng minh nào. Vậy tại sao Liên Xô lại có thể vực dậy khôi phục nền kinh tế và

14

phát triển đứng thứ hai thế giới sau Hoa Kỳ ? Đó là do Liên Xô có những lợi thế riêng của

mình :

Thứ nhất, chính phủ Xô viết không đợi đến khi chiến tranh kết thúc mới khởi sự

cuộc tái thiết đất nước. Một phần đáng kể những thiệt hại trong sản xuất công được bù đắp

ngay trong lúc chiến tranh đang tiếp diễn hoặc nhờ kế hoạch tháo dỡ các phương tiện sản

xuất của các nhà máy và chuyển sang miền Đông (Ural, Kazakhstan, Kuznetz…) hoặc nhờ

sự giúp đỡ về vật chất và phương tiện kĩ thuật của Hoa Kì qua chương trình Lend-Lease.

Thứ hai, Liên Xô dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng và nhà nước, đứng đầu là Stalin.

Chính sách cai trị sắt đá và những sai lầm của Stalin đã được ngụy trang bởi thắng lợi vẻ

vang mà ông đã lãnh đạo nhân dân Liên Xô giành được trong cuộc đối đầu với phát xít

trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Nhân dân Liên Xô với niềm phấn khởi tự hào của một

dân tộc chiến thắng trong chiến tranh đã khẩn trương bắt tay vào công cuộc hàn gắn vết

thương chiến tranh, xây dựng lại đất nước. Kế hoạch 5 năm lần thứ 4 (1946-1950) do Xô

viết tối cao thông qua ngày 18-3-1946 đề ra hai nhiệm vụ : đến năm 1950 phục hồi tất cả

những vùng bị tàn phá, tăng sản xuất công nghiệp và tiềm năng quân sự đến mức đủ sức

cạnh tranh với bất kì cường quốc nào. Và nhiệm vụ đó đã được hoàn thành vượt thời hạn

trong vòng 4 năm 3 tháng.

Thứ ba, Liên Xô giàu tài nguyên thiên nhiên.

Thứ tư, mặc dù bị tổn thất nặng nề nhưng bù lại Liên Xô được mở rộng về lãnh thổ.

Cụ thể “Liên xô đã giành lại phần lớn các lãnh thổ tách khỏi nước Nga trong thời kì nội

chiến (1918 – 1920), miền Đông Ba Lan trở về với hai nước cộng hòa xô viết Ukraina và

Belorussia thuộc Liên xô, ba nước vùng Baltic là Latvia và Estonia đã trở thành nước Cộng

hòa xô viết. Các vùng Bessabaria và Bắc Bukovina tách khỏi Rumania trở thành nước cộng

hòa xô viết Moldavia. Eo đất Karelia của Phần Lan trở thành nước Cộng hòa xô viết

Karelia. Vùng Ruthenia của Tiệp khắc được Hitler giao cho Hungary, nay thuộc nước cộng

hòa xô viết Ukraina của Liên Xô. Sau khi Đức đầu hàng, Liên xô đã giành được miền Bắc

Đông Phổ để thành lập tỉnh Kaliningrad thuộc nước Cộng hòa xô viết Liên Bang Nga. Sau

khi tham chiến chống Nhật, Liên xô đã giành được những đất đai của đế quốc Nga bị Nhật

chiếm trong chiến tranh Nga – Nhật ( 1904-1905) : miền Nam đảo Sakhalin và quần đảo

Kurile, giành lại quyền kiểm soát và sử dụng các hải cảng Lữ Thuận, Đại Liên và đường sắt Trường Xuân ở Mãn châu (Trung Quốc). Kết quả Liên Xô đã mở rộng thêm 682.000 km2,

tăng thêm khoảng 23 triệu dân so với 27 triệu người chết trong chiến tranh”. Như vậy sau

15

chiến tranh lãnh thổ Liên xô mở rộng nhiều, phạm vi ảnh hưởng cũng như sức mạnh Liên

xô ở Đông Âu được củng cố vững chắc thông qua công cụ đối ngoại là Hồng quân Liên Xô.

Ngoài ra, sự cống hiến kiệt xuất của Liên Xô trong cuộc chiến tranh chống phát xít đã

giành được uy tín rất cao của nhân dân toàn thế giới, địa vị và uy tín của Liên Xô lên đến tột

đỉnh trên trường quốc tế. Trước chiến tranh Liên Xô chỉ quan hệ với 25 nước, sau chiến

tranh lên đến 51 nước. Đó là động lực để Liên Xô khôi phục và phát triển đất nước sau

chiến tranh. Tóm lại, sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Liên Xô đã trở thành một trung tâm

sức mạnh khác trên thế giới có thể so sánh với Hoa Kỳ. Liên Xô cũng tìm cách ảnh hưởng

quyền lực ở Đông Âu, thành lập Cục Thông Tin cộng sản sau đó là thành lập khối Warsava

đối đầu với khối quân sự Nato của Hoa Kỳ.

Như vậy, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc đã làm thay đổi căn bản quan hệ giữa

hai nước vốn dĩ trước chiến tranh đã đối đầu nhau. Thế giới bị chi phối bởi hai siêu cường

Hoa Kỳ và Liên Xô. Là hai cường quốc mạnh nhất trên thế giới, Liên Xô – Hoa Kỳ trực tiếp

đối đầu trên phạm vi thế giới. Đó là kết quả của so sánh lực lượng quốc tế “hai cực hóa”.

Tình trạng này đã tạo điều kiện cho xung đột đối kháng giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, đã chuyển

từ quan hệ đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai sang quan hệ đối đầu sau chiến

tranh. Bởi vì, từ góc độ lịch sử trong hệ thống quốc tế “hai cực hóa” thì hai cường quốc

sống hòa bình với nhau là hết sức khó khăn, sẽ nảy sinh mâu thuẫn giữa hai bên, bên nào

cũng muốn mình là bá chủ, coi cái được của đối phương là cái mất của mình. Từ đó dẫn đến

sự nghi ngờ, thù địch, đấu tranh lẫn nhau ngày càng gay gắt. Chính vì thế mà có thể nói rằng

nếu không có sự nghi ngờ giữa lãnh đạo hai nước, nếu không có sự tranh giành ảnh hưởng ở

khu vực châu Âu sau chiến tranh thì không thể có cuộc chiến tranh lạnh giữa Liên Xô – Hoa

Kỳ hay đối đầu Đông – Tây.

Như giáo sư Gaddis đã nói : “Nếu như mọi người thường nói, Chiến tranh thế giới thứ

II tạo ra một khoảng trống quyền lực ở châu Âu, thì rõ ràng Chiến tranh thế giới thứ nhất

đã để lại một khoảng trống về tính hợp pháp” [14, 16]. Đó là lý do hai siêu cường không

gây ra Chiến tranh thế giới thứ ba vì cả hai đều biết rõ rằng hậu quả để lại là nặng nề cho cả

hai phía.

Cuối cùng là hệ thống quốc tế sau chiến tranh chứa đầy những hỗn loạn, luôn trong

tình trạng căng thẳng và đối đầu nhau. Tình hình chính trị của nhiều quốc gia không ổn

định. Không ít Đảng cộng sản của các nước và thế lực cánh tả khác ở Tây Âu trong chiến

tranh chống phát xít đã kiên trì lãnh đạo nhân dân trong nước kháng chiến nên đã giành

16

được sự ủng hộ của quần chúng, ảnh hưởng của của nó sau chiến tranh không ngừng

lớn mạnh và còn có khả năng giành được chính quyền, còn các thế lực bảo thủ do Anh, Hoa

Kỳ ủng hộ lại hết sức thù địch với lực lượng cánh tả đã ra sức khống chế chính quyển ở đó.

Tóm lại, môi trường quốc tế sau chiến tranh, đặc biệt là cục diện so sánh lực lượng quốc tế

“hai cực” đã tạo điều kiện cho xung đột và đối kháng Liên Xô – Hoa Kỳ, từ đồng minh thời

chiến chuyển sang cuộc đối đầu Chiến tranh lạnh.

1.2. Sự tan rã của khối đồng minh chống phát xít

Nó lí giải giai đoạn đầu các nước lớn không liên minh chống phát xít mãi đến năm

1942 khi chủ nghĩa phát xít đã làm chủ gần nửa thế giới, thì bắt đầu liên minh nhau. Có lẽ

những người đứng đầu chính phủ ba nước lớn đã nhận ra sự nguy hiểm của chủ nghĩa phát

xít .Như vậy sự thành lập khối đồng minh thời chiến là tất yếu, cần thiết vì nguy cơ phát xít

đe dọa cả thế giới. Nhưng cũng dễ hiểu rằng đó chỉ là sự liên minh tạm thời trong thời

chiến.

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc dẫn đến tình hình thế giới có nhiều thay đổi đáng

kể. Đó là so sánh lực lương quốc tế có sự thay đổi, sự vươn lên mạnh mẽ của hai quốc gia

Liên Xô và Hoa Kỳ, đại diện cho hai chế độ đối lập nhau. Tuy nhiên sau chiến tranh nền

chính trị có thể nói là hòa bình đã thay thế nền chính trị thời chiến với sự thất bại hoàn toàn

của chủ nghĩa phát xít Đức, Italia, Nhật Bản, kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai kéo dài

suốt mấy năm. Sự nghiệp chung chống nguy cơ phát xít đã trở thành chất keo kết dính để

duy trì đồng minh trong thời chiến của các nước lớn. Nhưng cùng với sự kết thúc của chiến

tranh thế giới thứ hai nên chất keo kết dính đó dần dần mất đi.Các nước lớn không có lí do

gì để gắn kết nhau trong một liên minh quốc tế. Hơn nữa, cùng với sự thất bại của phe Trục

đã làm cho hai cường quốc Hoa Kỳ và Liên Xô mất đi một nhân tố bản ràng buộc nhau

trong liên minh. Nó cũng báo hiệu sự tan rã của đồng minh thời chiến sang thế đối đầu sau

Chiến tranh thế giới thứ hai là tất yếu. Những sự kiện sau chiến tranh đã đánh dấu sự kết

thúc của liên minh thời chiến. Biểu hiện thông qua các hội nghị được tổ chức thời hậu chiến

và sự mở rộng quyền lực Đông Âu, cùng những nghi ngờ, thiếu lòng tin của lãnh đạo chính

phủ hai nước. Chính vì thế, về khách quan thì hòa bình sau chiến tranh thế giới đã tạo điều

kiện cho căng thẳng xung đột khác nổi lên giữa các nước lớn với nhau, vốn dĩ mâu thuẩn

này đã tồn tại trước đó, sự đối đầu giữa xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, tạo nên nguy

cơ một cuộc đối đầu sắp tới.

1.3. Sự ra đời hệ thống xã hội chủ nghĩa

17

Cách mạng tháng Mười Nga đánh dấu sự ra đời của một nước chủ nghĩa xã hội đầu

tiên trên thế giới, đối đầu với chủ nghĩa tư bản, dẫn đến cục diện chính trị có nhiều thay đổi,

tư bản chủ nghĩa không còn là hệ thống duy nhất trên toàn thế giới. Nga Xô viết ra đời trong

bối cảnh đầy khó khăn :

Thứ nhất, sau cách mạng chính quyền Xô viết phải tự lực khôi phục và phát triển đất

nước do hậu quả chiến tranh và nội chiến trong nước tàn phá nặng còn phải chống thù trong

giặc ngoài, đặc biệt sự chống phá của liên quân 14 nước đế quốc trong đó có quân đội Hoa

Kỳ nhằm bóp nghẹt chính quyền còn non trẻ này.

Thứ hai, trong quá trình khôi phục đất nước và tiến hành công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hội, Liên Xô còn đối phó với chính sách bao vây, cấm vận, cô lập chính trị của các

nước đế quốc.

Trong bối cảnh đó, để giải quyết khó khăn, Nga đã tự lực xây dựng đất nước, và củng

cố lực lượng để đủ sức đối phó với các nước đế quốc thông qua việc thành lập Liên bang

cộng hòa xã hội chủ nghĩa xô viết ( viết tắt là Liên Xô) gồm bốn nước : Nga, Ucraina,

Belarut, Ngoại capcado. Theo tinh thần của Lê nin, các nước bình đẳng, không phân biệt.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Chủ nghĩa xã hội đã phát triển thành hệ thống đủ khả

năng đối đầu với Tư bản chủ nghĩa. Giai đoạn này, Liên Xô đóng vai trò quan trọng việc

lãnh đạo hệ thống xã hội chủ nghĩa, đứng đầu chính phủ là Stalin. Dưới sự lãnh đạo của

Stalin, hệ thống xã hội chủ nghĩa đã không còn đúng theo tư tưởng của Lenin ban đầu. Nó

được sử dụng như là công cụ để bảo vệ an ninh quốc gia và tăng cường sức mạnh cho Liên

Xô để đủ sức đối đầu với các nước phương Tây đứng đầu là Hoa Kỳ.

Cho dù là nhằm mục đích nào chăng nữa thì sau Chiến tranh thế giới thứ hai, hệ thống

xã hội chủ nghĩa đã phát triển nhanh chóng. Hàng loạt các quốc gia gần kề Liên Xô đã được

giải phóng và sát nhập vào lãnh thổ Liên Xô. Một trong những bằng chứng rõ nét nhất là

Chủ nghĩa xã hội từ phạm vi một nước (Liên Xô trước trước Chiến tranh thế giới thứ hai)

trở thành một hệ thống thế giới với hơn 10 quốc gia trải rộng từ châu Âu qua châu Á tới khu

vực Mỹ latinh. Trong thập niên 50, 60 của thế kỷ XX, với sự tăng trưởng nhanh chóng về

mọi mặt, hệ thống xã hội chủ nghĩa (XHCN) đã trở thành một lực lượng chính trị, quân sự,

kinh tế hùng hậu, và là một nhân tố tác động có ảnh hưởng mạnh mẽ tới chiều hướng phát

triển của tình hình thế giới. Hệ thống XHCN đã trở thành chỗ dựa tin cậy đối với cuộc đấu

tranh giải phóng dân tộc vì độc lập dân tộc, hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Một thực tế

18

là, trong các kế hoạch của mình, Hoa Kỳ và Chủ nghĩa tư bản không thể không tính đến

nhân tố Liên Xô và hệ thống XHCN thế giới.

1.4. Cách mạng khoa học kĩ thuật bùng nổ

Lịch sử hình thành và phát triển của TBCN chưa bao giờ tách rời, độc lập với những

tiến bộ về khoa học kỹ thuật của con người. Những cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật đã

trở thành điểm tựa, làm đòn bẩy cho sự phát triển của lực lượng sản xuất TBCN đưa Chủ

nghĩa tư bản tiến dần lên những nấc thang cao hơn, với những hình thức hoàn thiện hơn,

thích ứng với những điều kiện sản xuất và xã hội do chính những cuộc Cách mạng khoa học

kỹ thuật đem lại.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, với sự vươn lên mạnh mẽ của hai siêu cường Liên Xô

và Hoa Kỳ. Cùng với yếu tố chủ quan bên trong mỗi nước còn do yếu tố khách quan tác

động đến đó là cuộc Cách mạng khoa học kĩ thuật lần thứ ba hay còn gọi là cuộc Cách mạng

khoa học công nghệ. Nó đã đánh dấu sự phát triển vượt bậc của Chủ nghĩa tư bản. Như

C.Mac đã nói : “Chủ nghĩa tư bản ra đời chưa đầy thế kỉ đã tạo ra một khối lượng sản phẩm

gấp hàng nghìn năm trước cộng lại”. Nhưng đó chỉ là khi Chủ nghĩa tư bản mới ra đời.

Cuộc cách mạng này cách cuộc cách mạng trước khoảng nửa thế kỷ, cho thấy rõ ràng

tốc độ của sự tiến bộ khoa học- kỹ thuật đã tăng lên rất nhanh. Cuộc cách mạng khoa học

công nghệ thế kỷ XX diễn ra do nhiều nguyên nhân khác nhau:

Thứ nhất, do tác dụng và ảnh hưởng của Chiến tranh thế giới hai. Cụ thể, để

giành thắng lợi trong chiến tranh, các nước đế quốc đã dồn nhiều tâm sức vào nghiên cứu

khoa học- kỹ thuật quân sự. Các bên tham chiến cạnh tranh nhau khốc liệt trong việc phát

minh và sử dụng các vũ khí và trang thiết bị mới như ra-đa, tên lửa, máy bay chiến thuật,

bom nguyên tử…Việc phát minh và sử dụng vũ khí và trang thiết bị mới tuy không quyết

định thắng bại cuối cùng, song thực sự nó có ảnh hưởng quan trọng đến cuộc chiến.

Thứ hai, là do cuộc chạy đua vũ trang giữa các siêu cường sau Chiến tranh thế giới

hai. Cụ thể là sau Thế chiến II, diễn ra sự đối đầu giữa Liên Xô – Hoa Kỳ, cũng như giữa

hai cực Đông- Tây được gọi là Chiến tranh lạnh. Cả hai bên đều ráo riết đầu tư cho việc

tăng cường tiềm lực quân sự quốc phòng. Theo đó, một lần nữa người ta lại chi rất nhiều

tiền vào việc nghiên cứu khoa học quân sự. Khoa học kỹ thuật quân sự lại trở thành ngành

đi đầu trong việc phát triển toàn diện khoa học- công nghệ, thúc đẩy nền kinh tế quốc dân

phát triển nhanh chóng.

Thứ ba, do Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước tạo ra những điều kiện tương đối có

19

lợi cho sự phát triển của khoa học công nghệ. Việc nghiên cứu khoa học công nghệ đã ngày

càng được xã hội hóa. Trong đó, nhiều công trình nghiên cứu đã vượt ra ngoài khả năng

gánh vác của các nhà tư bản, thậm chí là tập đoàn tư bản cá biệt. Điều đó đòi hỏi phải có sự

hợp tác và phối hợp mạnh mẽ. Trong tình hình đó, nếu tách rời sự giúp đỡ về mọi mặt của

nhà nước, thì việc tiến hành và phát triển nghiên cứu khoa học công nghệ là điều khó thực

hiện. Và một đều, sự phát triển cao độ của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, ở mức độ

rất lớn đã đáp ứng được những đòi hỏi về mặt này của sự phát triển khoa học công nghệ

hiện đại.

Thứ tư, do sự cạnh tranh độc quyền ác liệt góp phần thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ

thuật. Từ đòi hỏi của yếu tố cạnh tranh vốn khốc liệt hơn trong thời kỳ Chủ nghĩa tư bản độc

quyền nhà nước, buộc các nhà tư bản độc quyền không ngừng nghiên cứu kỹ thuật công

nghệ mới, sử dụng công nghệ kỹ thuật mới để tạo ra các sản phẩm mới, nâng cao chất lượng

sản phẩm và năng lực cạnh tranh.

Thứ năm, do chính bản thân khoa học công nghệ đã trở thành sức sản xuất xã hội có

một cơ chế tương đối hoàn chỉnh. Trong đó đời sống của người lao động được nâng cao, đã

tạo ra một thị trường rộng lớn sử dụng các sản phẩm có hàm lượng khoa học công nghệ cao.

Mặt khác, trình độ của cư dân được nâng cao, số người có trình độ cao ngày càng đông đảo.

Điều này không những tạo ra thị trường cho những sản phẩm khoa học công nghệ mà còn

cung cấp sức lao động có chất lượng cao và cần thiết cho tiến bộ khoa học công nghệ.

Mũi đột phá của cuộc Cách mạng khoa học công nghệ này là sự nhanh chóng và

không ngừng tạo ra, hình thành, phát triển những công nghệ mới, đẩy mạnh quá trình tự

động hóa. Các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học,

công nghệ vũ trụ, công nghệ hạt nhân… ngày càng được khẳng định là những lĩnh vực mũi

nhọn. Sau đây là những lĩnh vực kỹ thuật, công nghệ được xem là mũi nhọn trong cuộc

Cách mạng khoa học công nghệ được tiến hành từ sau Thế chiến II đến nay chủ yếu là lĩnh

vực kỹ thuật điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ vũ trụ, hải dương…:

Đầu tiên, trong lĩnh vực kỹ thuật điện tử :

Kỹ thuật điện tử là ngành hạt nhân có tính quyết định của cuộc cách mạng khoa học

công nghệ, đồng thời là ngành có tốc độ phát triển nhanh nhất, được ứng dụng rộng rãi nhất

trong số các ngành khoa học công nghệ mới nổi lên. Trong đó, thành tựu nổi bật nhất của kỹ

thuật điện tử là việc phát minh và áp dụng máy vi tính điện tử. Từ khi chiếc máy vi tính điện

tử đầu tiên trên thế giới ra đời vào giữa thập kỷ 40 của thế kỷ XX đến nay, máy vi tính đã

20

trải qua nhiều thế hệ, không ngừng được cải tiến, với tính năng ngày càng phong phú, tốc độ

xử lý ngày càng cao, hình thức ngày càng nhỏ gọn, và đã trở thành một phương tiện giao

tiếp hữu hiệu, gần như không thể thiếu được trong cuộc sống hiện đại.

Thứ hai, trong lĩnh vực công nghệ thông tin :

Nếu nói kỹ thuật điện tử là cơ sở của kỹ thuật thông tin, thì kỹ thuật thông tin là bộ

phận mấu chốt của công nghệ tin học ngày nay. Thông tin trở thành hệ thống thần kinh của

xã hội hiện đại. Không có sự phát triển của công nghệ thông tin sẽ không thể có sự truyền

bá và sử dụng hàng vạn hàng triệu thông tin trong xã hội hiện đại, cũng sẽ không thể có xã

hội tin học. Do sự phát triển và kết hợp của công nghệ vi điện tử và các ngành khoa học

công nghệ mới khác (như công nghệ vi sóng, công nghệ cáp quang, công nghệ vệ tinh…)

các biện pháp thông tin hiện đại đã ngày càng phổ biến. Các công nghệ thông tin mới đã

làm cho việc truyền thông tin không những có dung lượng lớn, chất lượng tốt, diện phủ

rộng, nhanh chóng linh hoạt, an toàn đáng tin cậy, với rất nhiều hình thức và chức năng mới

(như máy fax, điện thoại di động, truyền hình kỹ thuật số, truyền hình vệ tinh…), mà còn

không ngừng được đổi mới với tốc độ rất nhanh. Cho đến ngày nay, cuộc cách mạng về

thông tin đã và đang là đòn bẩy cho nhiều ngành công nghiệp mới phát triển.

Thứ ba, trong lĩnh vực công nghệ vật liệu mới :

Sự xuất hiện của các vật liệu mới không những làm giảm bớt sự phụ thuộc của con

người vào tài nguyên thiên nhiên, mà còn làm cho sự nghiên cứu chế tạo và phát triển các

loại sản phẩm có trình độ khoa học kỹ thuật cao trở thành hiện thực. Trong đó, các loại vật

liệu cho thông tin, vật liệu tổng hợp và nguyên liệu năng lượng mới… là phát triển nhanh và

có triển vọng nhất. Vật liệu dùng cho thông tin chủ yếu bao gồm vật liệu bán dẫn, ghi chép

thông tin, vật liệu truyền cảm, vật liệu quang dẫn… Trong vật liệu bán dẫn, việc sử dụng

silic vào việc chế tạo được xem là bước đột phá quan trọng nhất. Với việc sử dụng silic làm

nguyên liệu bán dẫn, đã làm cho các loại máy điện tử giảm được độ lớn đến hàng trăm lần.

Sau silic, ngày nay người ta đang sử dụng gali thạch hóa tín như một chất bán dẫn của tương

lai, được ứng dụng rộng rãi trong việc sản xuất các loại máy móc công nghệ cao, như máy

vi tính, điện thoại di động, thông tin vi sóng, pin mặt trời… Bên cạnh đó, công nghệ chế tạo

các loại vật liệu mới có những tính năng siêu dẫn, siêu nhẹ, siêu bền… cũng đạt được những

bước tiến đáng kể, ngày càng được ứng dụng nhiều trong cuộc sống.

Thứ tư, trong lĩnh vực công nghệ vũ trụ:

Công nghệ vũ trụ bao gồm việc nghiên cứu và chế tạo các thiết bị máy móc cho việc

21

khám phá vũ trụ của con người, như chế tạo vệ tinh nhân tạo, phi thuyền chở người, phóng

tên lửa…, cũng như việc sử dụng các lĩnh vực nghiên cứu khoa học phục vụ việc bay vào vũ

trụ như khí tượng, tài nguyên, khoa học về đời sống. Về mặt thông tin, truyền dẫn, việc sử

dụng kỹ thuật không gian cũng ngày càng rộng rãi, đạt được nhiều thành tựu. Ngày nay,

người ta còn đang nghiên cứu để chế tạo ra những sản phẩm công nghệ cao trên vũ trụ mà

những điều kiện trên mặt đất không thể chế tạo được, rồi cả dự án phát điện không gian, tạo

ra nguồn năng lượng thuần khiết và vô tận.

Thứ năm. Trong lĩnh vực công nghệ hải dương :

Trái đất của chúng ta với ¾ diện tích là đại dương. Đây là một kho tài nguyên vô tận

và còn nhiều điều bí ẩn, chưa được khai phá. Chính vì vậy, cùng với sự tiến bộ của khoa học

kỹ thuật, con người đã dần coi trọng việc khai thác và lợi dụng biển. Theo đó, nhiều loại

máy móc, phương tiện đã được nghiên cứu, chế tạo để phục vụ cho việc nghiên cứu cũng

như khai thác đại dương (tàu ngầm, rôbốt, công nghệ khoan dầu trên biển, máy định vị…)

Cuộc Cách mạng khoa học và công nghệ đã tác động tích cực, mạnh mẽ đến toàn bộ

mọi mặt trong đời sống các nước trên thế giới, đặc biệt là hai nước Liên Xô và Hoa Kỳ.

Cuộc cách mạng đạt được những thành tựu quan trọng trong các lĩnh vực như : công nghệ

thông tin, công nghệ vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ vũ trụ, công nghệ hạt

nhân …..Nhưng thành tựu đóng vai trò quan trọng trong việc tạo điều kiện cho sự đối đầu

Liên Xô- Hoa Kỳ, cho hoạt động chạy đua vũ trang của hai nước sau chiến tranh là trên lĩnh

vực công nghệ thông tin, công nghệ vũ trụ, hạt nhân. Ngay cả trong chiến tranh hai nước đã

đạt được những thành tựu đáng kể, trước tiên phải kể đến Hoa Kỳ với dự án Mahattan chế

tạo bom nguyên tử năm 1942. Liên Xô cũng chế tạo bom nguyên tử năm 1949, phá thế độc

quyền vũ khí hạt nhân của Hoa Kỳ. Một số chính trị gia nhận định rằng bom nguyên tử sẽ

làm thay đổi chính trị quốc tế. Kết quả là, Tổng thống Truman ra lệnh cho các nhà khoa học

Hoa Kỳ phát triển một vũ khí mạnh mẽ hơn: quả bom hydro. Đến giữa những năm 1950, cả

hai nước đã phát triển và thử nghiệm vũ khí mới này, đánh dấu sự khởi đầu của một cuộc

đối đầu Chiến tranh lạnh. Như vậy Cách mạng khoa học công nghệ đã tạo điều cho hai

cường quốc đối đầu nhau. Chiến tranh nóng sẽ giết chết nhân loại. Vì vậy cả Hoa Kỳ và

Liên Xô không tuyên bố chiến tranh mà luôn trong tình trạng căng thẳng, đối đầu nhau,

cùng chạy đua vũ trang. Chiến tranh nóng khó có thể xảy ra vì sau Chiến tranh thế giới thứ

hai hòa bình quốc tế là cần thiết chi phối chính sách ngoại giao của các nước lớn. Bởi hậu

quả của Chiến tranh thế giới thứ hai vẫn chưa khắc phục, không bất kì nước nào muốn gây

22

ra chiến tranh bởi vì hậu quả để lại là nặng nề cho cả hai bên. Nếu chiến tranh xảy ra thì đó

sẽ được xem là cuộc Chiến tranh hạt nhân hủy diệt cả nhân loại. Đó cũng là lý do hai siêu

cường chỉ dừng lại ở Chiến tranh lạnh.

Tiểu kết chương 1

Chiến tranh thế giới thứ hai đã góp phần làm cục diện thế giới thay đổi rất nhiều,

quan trọng nhất trong số này là sự trỗi dậy của hai cường quốc Liên Xô và Hoa Kỳ. Hoa Kỳ

nhìn thấy sự tồn tại của Liên Xô như là thách thức đối với cán cân quyền lực ở châu Âu và

đe dọa an ninh Hoa Kỳ. Liên Xô nhìn thấy sự lớn mạnh của Hoa Kỳ như là mối đe dọa tiềm

tàng đến an ninh đất nước. Nhưng xét cho cùng sau chiến tranh ưu thế vẫn nghiêng về phía

Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là nước ít chịu tổn thất, lại độc quyền sức mạnh bom nguyên tử. Trong khi

đó, Liên Xô chịu tổn thất nặng nề nhất trong chiến tranh và lo sợ trước cuộc tấn công từ

phía Tây.

Do Liên Xô và Hoa Kỳ không thể tìm thấy tiếng nói chung trong một loạt các vấn đề

phát sinh thời hậu chiến, chủ yếu ở châu Âu. Những mối ngờ vực lẫn nhau đã có trước và

trong chiến tranh sống lại và tác động rất tiêu cực đến quan hệ giữa hai nước, đẩy quan hệ

hợp tác trong thời chiến đến chỗ đổ vỡ. Thêm vào đó là tác động của cuộc Cách mạng khoa

học kĩ thuật.

23

CHƯƠNG 2: NGUỒN GỐC CHIẾN TRANH LẠNH (1): SỰ TAN RÃ

QUAN HỆ ĐỒNG MINH LIÊN XÔ – HOA KỲ (1945 - 1947)

2.1. Nguồn gốc Chiến tranh lạnh thông qua mối quan hệ Liên Xô- Hoa Kỳ ở

châu Âu trước và trong Chiến tranh thế giới thứ hai

2.1.1. Quan hệ Liên Xô – Hoa Kỳ trước Chiến tranh thế giới thứ hai

Quan hệ Liên Xô- Hoa Kỳ trước Chiến tranh thế giới thứ hai có thể nói đó là quan hệ

đối đầu giữa Chế độ xã hội và Chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhưng thật sự nó chỉ bắt đầu kể từ

sau Cách mạng tháng Mười Nga thành công năm 1917. Trước đó giữa hai nước đã có những

bước đi đầu tiên trong việc thiết lập quan hệ dựa trên hoạt động thương mại và du lịch.

Trong quyển sách của Giáo sư Gaddis “We Now Know : Rethinking The History Cold War”

đã đề cập đến những quan hệ đầu tiên giữa Nga và Hoa Kỳ bắt đầu từ giữa thế kỉ XIX. Cả

hai bãi bỏ chế độ nô lệ gần như cùng một lúc, ở Nga nông nô được giải phóng năm 1861 và

ở Hoa Kỳ chế độ nô lệ được bãi bỏ năm 1863 mặc dù trong hoàn cảnh khác nhau. Và lúc

bấy giờ, thế kỉ XIX đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của Anh, Anh được mệnh danh là “ mặt

trời không bao giờ lặn ở nước Anh. Có thể nói lúc bấy giờ, Anh đã trở thành bá chủ thế giới.

Do đó cả Nga và Hoa Kỳ đều có sự thông cảm nhau. Sự thông cảm ấy thể hiện trong việc

Hoa Kỳ đứng về phía Nga trong cuộc chiến tranh Crimean và Nga nghiêng về phía bắc

trong cuộc nội chiến ở Hoa Kỳ. Và cả hai hợp tác trong việc giải quyết các tranh chấp ở Bắc

Thái Bình Dương, đặc biệt trong việc bán đảo Alaska cho Hoa Kỳ năm 1867. Như vậy, thế

kỉ XIX hai nước có quan hệ tương đối tốt đẹp, có những biểu hiện xích lại gần nhau.

Bước sang cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX quan hệ hai nước có chiều hướng đi xuống,

do lúc này cả hai nước đều phát triển và mong muốn tìm cách mở rộng ảnh hưởng ra bên

ngoài. Nhưng cả Nga và Hoa Kỳ đều muốn mở rộng ảnh hưởng ở khu vực Đông Bắc Á vào

thời điểm mà Trung Quốc từng là một đế chế hùng mạnh cổ xưa dường như trên bờ vực sụp

đổ. Nơi mà các cường quốc châu Âu cũng có những lợi ích quan trọng ở khu vực này. Cuộc

chiến tranh Nga – Nhật 1904 – 1905 đánh dấu sự thất bại của Nga khi tổng thống Roosevelt

đã công khai liên kết với kẻ thù cũ là Anh để cùng hỗ trợ Nhật trong cuộc chiến nhằm giảm

bớt ảnh hưởng của Nga ở vùng Đông Bắc Á. Sự kiện đó cũng đánh dấu mối quan hệ Nga –

Hoa Kỳ bắt đầu rạn nứt.

Trong Chiến tranh thế giới thứ nhất Hoa Kỳ, Anh và Nga đã trở thành đồng minh

trong vài tháng từ tháng 4 năm 1917 cho đến khi những người Bonsevich lên nắm quyền

24

vào tháng Mười một, khi chiến tranh thế giới bước vào giai đoạn cuối. Quan hệ hai nước

càng đi xuống khi năm 1917 Cách mạng tháng Mười Nga thành công. Nguồn gốc cuộc

chiến tranh lạnh đã hình thành từ đây, những ngày cuối thế chiến thứ nhất khi quân đội Hoa

Kỳ đã gửi vào Nga để hỗ trợ cho lực lượng Bạch Nga chống lại Bonsevich. Sau khi cách

mạng thành công Hoa Kỳ đã không công nhận chính phủ của Lenin và những người cộng

sản là hợp pháp. Các nước phương Tây xem nhà nước Xô viết như là mối đe dọa lớn đối với

an ninh thế giới và lợi ích quốc gia của họ. Do đó, sau Cách mạng tháng Mười thành công,

ngay lập tức liên quân 14 phương Tây trong đó có quân đội Hoa Kỳ đã tràn vào Nga với âm

mưu bóp nghẹt chính quyền còn non trẻ nhưng không thành công. Bằng sức mạnh quân sự

các nước phương Tây không thể tiêu diệt chính quyền Xô viết, ngay lập tức Hoa Kỳ và các

nước đồng minh chuyển sang chính sách bao vây, cấm vận kinh tế, cô lập về chính trị cho

đến những năm 30 của thế kỉ XIX. Trong hoàn cảnh khó khăn từ bên ngoài lẫn bên trong

nước, Liên Xô đã tự lực xây dựng, khôi phục đất nước và tiến hành công cuộc xây dựng chủ

nghĩa xã hội với những thành tựu to lớn, đưa Liên Xô từ một nước nông nghiệp trở thành

một nước công nghiệp.

Sự kiện đánh dấu sự chuyển biến tích cực trong quan hệ Hoa Kỳ và Liên Xô đó là năm

1933, Hoa Kỳ công nhận nhà nước Liên Xô và bắt đầu thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên

Xô. Nguyên nhân cả hai đều nhận thấy mối đe dọa nguy hiểm đến từ chủ nghĩa phát xít Đức

sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933. Sự tồn tại của chủ nghĩa phát xít Đức,

Iatalia, Nhật Bản ít nhiều ảnh hưởng không nhỏ đến hòa bình thế giới, đặc biệt đó là lợi ích

của các nước lớn. Tổng thống Roosevelt coi Đức quốc xã là mối nguy hiểm chính đối với an

ninh của Hoa Kỳ và châu Âu. Liên Xô coi chủ nghĩa phát xít là kẻ thù nguy hiểm nhất nên

chủ trương liên kết các nước tiêu diệt chủ nghĩa phát xít. Do cùng chung kẻ thù là chủ nghĩa

phát xít nên trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945) hai nước đã xích lại gần nhau,

cùng liên kết nhau trong khối đồng minh chống phát xít. Chủ nghĩa phát xít là chất keo kết

nối hai nước liên kết nhau trong thời chiến. Chính vì vậy, trong Chiến tranh thế giới thứ hai

quan hệ hai nước chuyển từ quan hệ đối đầu sang quan hệ đồng minh trong thời chiến.

Quan hệ Liên Xô- Hoa Kỳ trước chiến tranh thế giới thứ hai có những biểu hiện căng

thẳng, xung đột dẫn đến đối đầu nhau, giữa một bên là Chủ nghĩa xã hội và một bên là Chủ

nghĩa tư bản. Mâu thuẩn đó được hình thành từ những ngày cuối cùng của Chiến tranh thế

giới thứ nhất. Sự xung đột Liên Xô- Hoa Kỳ không trở thành mối đe dọa đối với an ninh và

hòa bình thế giới lúc bấy giờ. Sự kiện 1917- 1918 tạo ra một cơ sở mang tính biểu tượng

25

cho cuộc xung đột giữa Chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản. Cuộc xung đột này tạo ra nền

tảng cho cuộc đối đầu Xô- Mỹ sau Chiến tranh thế giới thứ hai được gọi là Chiến tranh lạnh

kéo dài phần tư thế kỉ. Và đây cũng chính là sự kiện đầu tiên làm cho mối quan hệ Liên Xô

– Hoa Kỳ trở thành mối quan tâm hàng đầu của các nhà lãnh đạo hai quốc gia.

2.1.2. Quan hệ đồng minh Liên Xô – Hoa Kỳ trong chiến tranh thế giới thứ hai (

1942-1945)

2.1.2.1. Sự thành lập đồng minh Liên Xô- Hoa Kỳ thời chiến

Chiến tranh thế giới thứ hai bắt đầu năm 1939 nhưng mãi đến ngày 01 tháng 01 năm

1942 khối đồng minh chống phát xít được thành lập gồm 26 quốc gia tại Oasinhton thông

qua Tuyên ngôn Liên Hiệp Quốc nhằm xác định nhiệm vụ cấp bách là tiêu diệt phát xít.

Về mặt thời gian, thể hiện sự chậm trễ của các nước trong việc thành lập mặt trận

chống phát xít, đặc biệt đó là ba cường quốc lớn Liên Xô, Anh và Hoa Kỳ xuất phát từ

những lợi ích riêng của mỗi nước và trên hết là sự thiếu tin cậy lẫn nhau. Hậu quả càng

dung túng cho hành động xâm lược và bành trướng lãnh thổ của chủ nghĩa phát xít ngày

càng lớn mạnh. Nhưng đó chỉ là giai đoạn đầu của chiến tranh, khi Chủ nghĩa phát xít còn

chưa quá mạnh và Hoa Kỳ cùng đồng minh phương Tây chưa nhận ra sự nguy hiểm và sức

mạnh tiềm tàng của phát xít. Cho đến khi Chủ nghĩa phát xít đã xâm chiếm toàn châu Âu

(trừ Anh) mùa hè năm 1940 chuyển sang tấn công Liên Xô tháng 6 năm 1941. Lúc này cả

ba cường quốc đã thay đổi suy nghĩ, thái độ và đi đến thành lập đồng minh chống phát xít.

Trước khi thành lập khối đồng minh chống phát xít, đã có liên minh tay đôi thành lập

đó là liên minh Anh – Hoa Kỳ chủ yếu cung cấp, trao đổi vũ khí. Sau khi chiến tranh bùng

nổ hai tháng tức tháng 11 năm 1939 theo kiến nghị của Roosevelt Hoa Kỳ đã sửa Luật trung

lập thành phương thức “tự mua và tự vận chuyển” để xuất vũ khí sang Anh và Pháp. Từ đó

vũ khí Hoa Kỳ bán rất nhiều cho Anh và Pháp phục vụ chiến tranh. Nhờ đó Hoa Kỳ thu

nhiều lợi nhuận từ việc buôn bán vũ khí và lợi dụng Anh, Pháp để ngăn chặn sự mở rộng

của phát xít.

Nhưng sau khi Pháp đầu hàng, Anh đã bất mãn và không hài lòng với chính sách của

Hoa Kỳ. Ngày 08 tháng 12, Thủ tướng Anh Churchill viết một bức thư dài cho Tổng thống

Roosevelt, trong đó Churchill nói “ Để mua vũ khí, nước Anh đã phải bán đến cái quần cuối

cùng. Nước Anh không thể giúp đỡ ai được nữa và cũng chẳng tốt gì cho nước Mỹ” [28].

Như vậy thể hiện rõ Anh muốn Hoa Kỳ tham chiến chống phát xít. Trước tình hình đó Hoa

Kỳ đã thông qua Luật thuê mượn (tức là Luật tăng cường phòng hộ nước Hoa Kỳ) yêu cầu

26

lấy quyền Tổng thống vay hoặc chuyển nhượng quân nhu với các nước có quan hệ quốc

phòng với Hoa Kỳ và được thi hành tháng 03 năm 1941. Cho thấy Hoa Kỳ đã dần thay đổi

chính sách từ buôn bán tìm lợi nhuận chuyển sang cung cấp viện trợ cho Anh, Pháp trước

nguy cơ phát xít. Tổng thống Hoa Kỳ đã viện trợ vũ khí, đạn dược cho Anh và trở thành liên

minh Anh – Hoa Kỳ. Như vậy một liên minh tay đôi đã được hình thành sau khi Đức chiếm

hầu hết châu Âu.

Sau khi chiếm hầu hết châu Âu Đức chuyển sang tấn công Liên Xô tháng 06 năm

1941. Sự mở rộng xâm lược của phát xít Đức đã uy hiếp sự an toàn của Anh, Hoa Kỳ và

Liên Xô cùng các nước trên thế giới. Từ đó cả ba cường quốc đã thay đổi thái độ, thông qua

các bài phát biểu, cuộc hội đàm và dần đi đến liên kết nhau chống phát xít. Trước tiên là

Churchill, tối ngày 22-06, Churchill phát biểu trên đài phát thanh, ông nói rằng quyết không

thay đổi quan niệm chống cộng mà 25 năm trước ông đã viết nhưng ông cũng xác định rằng

: “ Sự nguy hiểm của Liên Xô (trước bọn phát xít Đức) hiện nay cũng vẫn là sự nguy hiểm

của chúng ta. Chúng ta sắp phải viện trợ những gì có thể cho nước Liên Xô” [28]. Đánh

dấu sự cần thiết thành lập khối đồng minh chống phát xít. Ngoài ra các nước trên thế giới

cũng lên tiếng ủng hộ cuộc chiến tranh vệ quốc của Liên Xô. Tại các nước Anh và Hoa Kỳ

nhân dân đã biểu tình thị uy trên các đường phố, hô vang các khẩu hiệu “đoàn kết nhất trí”

với Liên Xô, yêu cầu các nước chống phát xít liên hiệp lại cùng nhau chống phát xít. Ngày

23 tháng 06, ngày sau khi Đức xâm lược Liên Xô, Mao Trạch Đông thay mặt Đảng Cộng

sản Trung Quốc đề ra trong tác phẩm “ Về mặt trận thống nhất quốc tế chống phát xít”

nhiệm vụ trước mắt của người cộng sản trên toàn thế giới là động viên nhân dân các nước

thành lập tổ chức “Mặt trận quốc tế thống nhất” nhằm đấu tranh bảo vệ Liên Xô, bảo vệ

Trung Quốc, bảo vệ tự do và độc lập cho tất cả dân tộc. Hoa Kỳ cũng thay đổi thái độ. Cuối

tháng 7, Roosevselt cử Hopkin đã hội đàm với Stalin. Hopkin nói : “Tổng thống cho rằng

Hitler là kẻ thù chung của nhân loại, do đó tôi sẵn sàng viện trợ cho Liên Xô đánh

Đức”[28]. Stalin phấn khởi nói : “Quan điểm của chúng ta là nhất trí”. Cuộc hội đàm đánh

dấu bước đầu thành lập đồng minh Hoa Kỳ- Liên Xô chống phát xít.

Ngày 01 tháng 01 năm 1942 đại biểu các nước Trung Quốc, Liên Xô, Anh và đại biểu

26 quốc gia tại Oasinhton đã ký Tuyên ngôn các quốc gia Liên hợp qui định những nước ký

kết được bảo đảm hợp tác đánh bại các nước phe Trục phát xít, không được đình chiến và

giảng hòa riêng biệt với nước thù địch. Sự ký kết bản Tuyên ngôn này đã tuyên cáo thành

lập khối đồng minh chống phát xít.

27

Như vậy, việc thành lập đồng minh chống phát xít đã nói lên rằng hành động xâm lược

của phát xít là nguy hiểm, uy hiếp sự an toàn của các nước trên thế giới, là hành động không

chấp nhận được, cần phải ngăn chặn. Có lẽ nhờ phát xít Đức và phát xít Nhật mà Anh đã có

được hai đồng minh khổng lồ là Liên Xô và Hoa Kỳ. Việc Liên Xô tham chiến cũng làm

thay đổi tính chất của cuộc chiến tranh.

2.1.2.2. Sự nghi ngờ lẫn nhau giữa chính phủ hai nước

Một khi an ninh và lợi ích quốc gia bị đe dọa thì bất kì hành động của đối phương đều

được xem là bất lợi cho phía còn lại. Do đó chính sách ngoại giao của một quốc gia được

vạch ra dựa vào nhiều yếu tố trong đó yếu tố bên ngoài cũng không kém phần quan trọng.

Liên Xô và Hoa Kỳ đại diện cho sự khác biệt giữa hệ thống XHCN và TBCN. Đương nhiên

giữa hai quốc gia này không tránh khỏi tư tưởng thù địch và nghi ngờ lẫn nhau. Và chính sự

nghi ngờ, thiếu lòng tin giữa chính phủ hai nước đã dẫn đến những hành động cũng như

phương thức xử lí ngoại giao có phần đối đầu nhau dẫn đến hình thành hai cực sau chiến

tranh thế giới thứ hai.

Sự nghi ngờ, thiếu lòng tin giữa hai cường quốc không phải trong chiến tranh thế giới

thứ hai mới xuất hiện, mà cội nguồn của nó xuất phát từ trong thế chiến thứ nhất. Trong thế

chiến thứ nhất, Hoa Kỳ, Anh và Nga đã từng là đồng minh trong vài tháng từ tháng 4 năm

1917 cho đến khi những người Bonsevich nắm quyền ở Nga vào tháng mười một. Và sau đó

Nga kí hiệp ước Brest-Litovsk, rời khỏi đồng minh phương Tây, rút khỏi chiến tranh thế

giới thứ nhất. Nước Nga đã tự cô lập mình trong quan hệ với các nước. Điều đó đã đóng góp

cho sự thiếu tin cậy của Hoa Kỳ đối với Liên xô. Sau đó cuộc đổ bộ của quân đội Hoa Kỳ

cùng với liên quân 13 nước ở Nga năm 1918 nhằm bóp nghẹt chính quyền Xô Viết non trẻ.

Đó là mối lo ngại, mất lòng tin của Liên xô đối với Hoa Kỳ và nó kéo dài cho đến sau chiến

tranh thế giới thứ hai, trở thành nỗi ám ảnh của những người lãnh đạo, chính phủ Liên Xô

luôn lo lắng trước sự tấn công từ phương Tây có thể xảy ra bất kì lúc nào. Đó là lí do sau

chiến tranh thế giới thứ hai, Stalin quan tâm đến việc xây dựng sức mạnh và an ninh quốc

gia. Đó là biểu hiện đầu tiên cho sự nghi ngờ thiếu tin cậy hai nước trước chiến tranh thế

giới thứ hai.

Nghi ngờ càng tăng trong chiến tranh thế giới thứ hai và hậu chiến khi khoảng trống

quyền lực hình thành ở châu Âu dẫn đến những hành động đối dầu nhau tranh giành ảnh

hưởng ở châu Âu. Việc ký hiệp ước Muynich giữa các nước phương Tây với Đức năm

1938, đó được đánh giá đỉnh cao của chính sách nhượng bộ phát xít của phương Tây nhằm

28

đẩy chiến tranh về phía Liên Xô. Trong khi đó Hoa Kỳ lại giữ chính sách trung lập không

can thiệp những hoạt động ngoài châu Mỹ tạo điều kiện cho chủ nghĩa phát xít tự do hành

động gây chiến tranh. Hành động đó góp phần tăng cường sự nghi ngờ của Liên Xô đối với

Hoa Kỳ và phương Tây nhằm đánh bại Liên Xô.

Đáp lại sự nghi ngờ đó, Liên Xô đã kí với Đức hiệp ước Xô- Đức không xâm phạm lẫn

nhau năm 1939 và thỏa thuận bí mật để phân chia Ba Lan và Đông Âu giữa hai quốc gia.

Cũng trong giai này Liên Xô và Đức đã kí một hiệp định thương mại trao đổi thiết bị,

nguyên vật liệu, cung cấp dầu, cao su, mangan và trao đổi vũ khí, thiết bị sản xuất và công

nghệ. Lúc này Liên Xô cũng đã sáp nhập các nước Baltic, Estonia và Latvia. Việc Liên xô

kí với Đức hiệp ước không xâm phạm lẫn nhau đã không tránh khỏi sự nghi ngờ của

phương Tây. Vì sau khi kí Hiệp ước Đức đã quay sang xâm lược Ba Lan và châu Âu chỉ trừ

Anh. Đức đã vi phạm những điều cam kết tại Muynich. Hành động của Đức càng củng cố

sự thiếu lòng tin giữa Liên Xô và các đồng minh phương Tây của Hoa Kỳ.

Một số sử gia xem xét Hiệp ước không xâm phạm năm 1939 là kết quả của sự thất bại

chính sách đối ngoại của các nổ lực để thu hút Liên Xô cho phía đồng minh chống lại phát

xít Đức. Hiệp ước này được xem như phản ứng của Stalin trước nhượng bộ của Anh, Pháp

để xoa dịu Hitler. Stalin biết rằng ông không thể tin tưởng Hitler nhưng cũng không tin

tưởng vào đồng minh và nghĩ rằng ông có thể tranh thủ thời gian để xây dựng đất nước, vừa

đối phó với sự xâm lược của phát xít Đức và đẩy chiến tranh sang châu Âu. Đức đã vi phạm

Hiệp ước Muynich kí với Anh, Pháp thì đối với Liên Xô chỉ còn là thời gian, khi Đức tấn

công vào Liên Xô năm 1941.

Khi đó phát xít trở thành mối đe dọa nguy hiểm nhất mà các nước lớn trên thế giới

phải đặc biệt quan tâm. Đó chính là lí do năm 1942 các nước Liên Xô, Hoa Kỳ, Anh, Pháp

trở thành đồng minh chống phát xít. Nhưng đây chỉ là đồng minh tạm thời trong thời chiến.

Do đó dù là đồng minh nhưng giữa Liên xô và các đồng minh phương Tây của Hoa Kỳ luôn

tồn tại sự nghi ngờ, thiếu tin cậy.

Trong chiến tranh cả hai không đồng ý về chiến lược quân sự, đặc biệt là Stalin nghi

ngờ rằng Anh và Hoa Kỳ đã cố tình trì hoãn việc mở mặt trận thứ hai tiêu diệt phát xít Đức.

Kết quả Hồng quân Liên Xô bị thiệt hại nặng nề, 20 triệu người chết. Stalin đã yêu cầu các

nước mở mặt trận thứ hai kể từ những tháng đầu của cuộc chiến mà phải đợi đến tháng 06

năm 1944 mặt trận thứ hai mới được hình thành. Nghĩa là một năm trước khi chiến tranh kết

thúc. Ngay sau khi cuộc chiến bắt đầu vào năm 1941, Liên Xô đã chịu đựng gánh nặng của

29

hành động quân sự, cố gắng chống lại một cuộc xâm lược lớn của Đức. Mặc dù Tổng thống

Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt (1882-1945) hứa hẹn viện trợ kinh tế đáng kể cho Liên Xô,

nhưng cung cấp các vật tư tương đối ít. Trong chiến tranh Hoa Kỳ đã vận chuyển lượng lớn

vật chất cho Liên Xô, hỗ trợ Hồng quân đánh bại quân Đức. Nhưng ngay sau quân Đức đầu

hàng, Hoa Kỳ đã ngừng vận chuyển vật chất chiến tranh từ Hoa Kỳ sang Liên Xô. Điều đó

làm cho một số chính trị gia tại Moscow cảm thấy khó chịu, và cho thấy Hoa Kỳ không có ý

định để hỗ trợ Liên Xô. Quan trọng hơn, Roosevelt đảm bảo Stalin vào năm 1942 rằng quân

đội Hoa Kỳ sẽ làm giảm bớt một số áp lực quân sự cho Liên Xô bằng cách thành lập một

mặt trận thứ hai ở Tây Âu. Tuy nhiên, các vấn đề hậu cần và sản xuất bị hoãn lại, một cuộc

xâm lược đồng minh trong nhiều năm. Khi các lực lượng đồng minh cuối cùng đã hạ cánh

trên bờ biển của châu Âu vào ngày 06 tháng 6 năm 1944, Roosevelt đã không giữ lời hứa

của mình với Stalin. Đây là biểu hiện rõ nhất cho sự thiếu tin cậy và nghi ngờ của Liên Xô

đối với Hoa Kỳ. Liên Xô tin rằng, Hoa Kỳ và Anh cố tình trì hoãn mở mặt trận thứ hai

chống lại Đức nhằm can thiệp phút cuối để dự phần giải quyết hòa bình sau chiến tranh và

thống trị châu Âu. Điều này được nhà sử học John Lewis Gaddis nhìn nhận. Tổn thất của

Liên Xô vượt xa đồng minh và Stalin tin rằng việc giải quyết sau chiến tranh nên phản ánh

điều đó. Theo Gaddis, mục tiêu sau chiến tranh của Stalin là an ninh, bồi thường thiệt hại và

cuối cùng thành lập sự thống trị châu Âu. Mục tiêu của Hoa Kỳ bao gồm an ninh trong các

hình thức thỏa thuận an ninh tập thể để tránh cuộc chiến tranh trong tương lai và phục hồi

sức sống kinh tế Tây Âu. Sự chậm trễ này góp phần đáng kể làm tan vỡ quan hệ Liên Xô-

Hoa Kỳ sau Thế chiến II .

Tất cả những nghi ngờ trên cũng phần nào phản ánh được quan hệ căng thẳng, thiếu

tin cậy giữa hai cường quốc, đặc biệt trong quan hệ ngoại giao, trong việc đối phó với kẻ thù

chung là phát xít Đức. Sự nghi ngờ của lãnh đạo chính phủ hai nước dẫn đến những tính

toán trong chính sách đối ngoại nhằm mục đích duy trì an ninh và lợi ích quốc gia, làm suy

yếu đi đến tiêu diệt chế độ xã hội của đối phương. Hậu quả của sự nghi ngờ trong khối đồng

minh thời chiến đã dẫn đến chủ nghĩa phát xít tự do bành trướng và gây chiến tranh xâm

lược. Tại sao có quá nhiều nghi ngờ lẫn nhau giữa chính phủ của hai nước ? Điều đó cũng

dễ hiểu, bởi vì Stalin là một người quá đa nghi, ngay cả những người từng làm việc bên

cạnh ông.

30

2.1.2.3. Bất đồng giữa hai cường quốc tại Hội nghị Yalta và Potsdam

Trong lúc Chiến tranh thế giới thứ hai vẫn đang tiếp diễn, những người đứng đầu

chính phủ ba cường quốc trong đồng minh chống phát xít là Liên Xô, Hoa Kỳ và Anh đã

nhiều lần gặp gỡ nhau nhằm phối hợp chống lại phát xít, vừa để bàn luận kế hoạch tổ chức

lại thế giới sau chiến tranh. Trong những lần gặp gỡ đó, có thể nói hai cuộc gặp gỡ quan

trọng nhất là tại Hội nghị Yalta và Potsdam. Thông qua hai cuộc gặp gỡ này, các vấn đề thời

hậu chiến được đem ra bàn luận và đi đến nhiều thỏa thuận quan trọng. Nhưng trong đó

cũng nổi lên những bất đồng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Nó báo hiệu sự đổ vỡ quan hệ đồng

minh Liên Xô và Hoa Kỳ sau chiến tranh.

Hội nghị Yalta

Hội nghị Yalta được diễn ra khi cả ba cường quốc điều thấy rõ ràng rằng Đức sẽ bị

tiêu diệt trong cuộc chiến tranh ở châu Âu và đối phó với Nhật ở mặt trận Thái Bình Dương.

Cả ba cường quốc gặp nhau tại Yalta nhằm bàn luận, giải quyết những gì sẽ xảy ra đối với

châu Âu sau khi chủ nghĩa phát xít Đức đã bị tiêu diệt. Một khi khoảng trống quyền lực

được hình thành ở châu Âu.

Trong bối cảnh đó, cuộc gặp thượng đỉnh tam cường đã diễn ra từ ngày 4 đến ngày 11

tháng 2 năm 1945 với sự tham gia những người đứng đầu chính phủ ba nước là chủ tịch hội

đồng dân ủy Liên xô Iosif Stalin, tổng thống Hoa Kỳ Franklin Roosevelt và thủ tướng Anh

Winston Churchill. Trong cuộc gặp gỡ này, ba cường quốc đã cùng đưa ra và bàn luận

những vấn đề quan trọng :

Thứ nhất, vấn đề chiếm đóng Đức và xét xử tội phạm chiến tranh.

Thứ hai, vấn đề biên giới phía tây Ba Lan và bầu cử tự do ở Ba Lan.

Thứ ba, vấn đề tổ chức lại thế giới sau chiến tranh.

Thứ tư, vấn đề bồi thường sau chiến tranh.

Thứ năm, vấn đề phối hợp nhằm tiêu diệt phát xít Nhật ở mặt trận Thái Bình Dương.

Thứ sáu, tuyên ngôn giải phóng châu Âu.

Rõ ràng rằng có quá nhiều vấn đề cần được đưa ra để bàn luận tại cuộc gặp gỡ này. Và

các vấn đề được bàn luận đều liên quan đến an ninh và lợi ích quốc gia của mỗi cường quốc

thắng trận mà hội nghị tại Ianta đã diễn ra trong bầu không khí căng thẳng và sự tranh giành

quyết liệt. Giữa ba cường quốc đã có những bất đồng trong việc giải quyết vấn đề, đặc biệt

trong hai vấn đề :

31

Vấn đề Ba Lan : là vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất. Thứ nhất, tranh luận về lực lượng

sẽ nắm quyền chính phủ được thành lập ở Ba Lan. Các nước phương Tây ủng hộ Chính phủ

Ba Lan đang lưu vong ở Luân Đôn trở về nắm quyền trong khi Hồng quân Liên Xô giải

phóng Ba Lan. Thứ hai, Stalin muốn kéo dài lãnh thổ Liên Xô vào đông Ba Lan, phía Tây

Ba Lan sẽ kéo dài sang lãnh thổ Đức nhưng Churchill và Roosevelt đều không đồng ý. Bởi

vì Churchill biết rằng mục đích của Stalin là mở rộng sức mạnh ở Ba Lan và Đông Đức.

Stalin muốn thiết lập chế độ cộng sản ở Ba Lan nhưng cả Churchill và Roosevelt đều không

đồng ý. Ba Lan giáp phía Tây của Liên Xô, được xem là cửa ngõ đi vào Liên Xô. Phía tây

Liên Xô lại là vùng hoang mạc, đồi núi không thể che chắn được, không thể chống lại cuộc

tấn công từ phía Tây của các nước phương Tây. Do đó Stalin muốn biến Ba Lan thành rào

chắn bảo vệ phía Tây Liên Xô. Nhưng Hoa Kỳ và Anh không đồng ý, cho rằng cần tôn

trọng sự dân chủ và tự do. Yêu cầu cần phải có một cuộc bầu cử tự do càng sớm càng tốt ở

Ba Lan.

Vấn đề bồi thường chiến tranh : mục tiêu của cả hai bên cho vấn đề Đức bồi thường

chiến tranh khác nhau - Stalin muốn Đức bị hủy hoại bởi bồi thường chiến tranh và Stalin

muốn được bồi thường nhiều hơn bởi thiệt hại nặng nề do Đức tấn công. Anh và Hoa Kỳ

muốn có một Đức dân chủ và chủ nghĩa tư bản là một đối tác thương mại thế giới, đủ mạnh

để ngăn chặn sự lây lan của cộng sản về phía tây. Do đó nảy sinh bất đồng trong bồi thường

chiến tranh, cuộc xung đột bị hoãn lại bằng cách đồng ý thiết lập một ủy ban để xem xét vấn

đề.

Tại Hội nghị Yalta, mặc dù có bất đồng giữa lãnh đạo ba cường quốc nhưng các thỏa

thuận đàm phán đã cho thấy sự ủng hộ nhiều quyền lợi giành cho Stalin. Điều này được lí

giải bởi vì Roosevelt muốn Liên Xô giúp đỡ, tham chiến chống Nhật ở Thái Bình Dương, và

đã được chuẩn bị sẵn sàng để đồng ý với hầu như bất cứ điều gì miễn là Stalin đã đồng ý để

đi đến chiến tranh với Nhật Bản. Để lôi kéo Liên Xô tham chiến chống Nhật, Roosevelt đã

đồng ý với các điều kiện mà Stalin đưa ra :

Thứ nhất, hiện trạng bên ngoài Mông Cổ ( Cộng hòa nhân dân Mông Cổ) được bảo

quản.

Thứ hai, Quyền trước đây của Nga bị vi phạm bởi cuộc tấn công nguy hiểm của Nhật

Bản trong năm 1904 sẽ được khôi phục, tức :

+ Phần phía nam của Sakhalin cũng như các đảo liền kề với nó sẽ được trả lại cho Liên

Xô.

32

+ Thương cảng Đại Liên được quốc tế hóa, lợi ích ưu việt của Liên Xô ở đây được

bảo vệ, và việc cho thuê cảng Lữ Thuận như một căn cứ hải quân của Liên Xô phục hồi.

+ Đường sắt Trung Quốc-Đông và Mãn Châu Đường sắt Nam, trong đó cung cấp

một lối thoát để Dairen, được phối hợp điều hành bởi việc thành lập một công ty chung của

Liên Xô-Trung Quốc, điều này được hiểu rằng lợi ích ưu việt của Liên Xô sẽ được bảo vệ

và rằng Trung Quốc sẽ giữ lại chủ quyền ở Mãn Châu.

Thứ ba, Quần đảo Kurile sẽ được bàn giao cho Liên Xô.

Vì vậy từ những điều kiện có lợi nêu trên, Stalin hứa Liên Xô sẽ tham gia cuộc chiến ở

Thái Bình Dương, trở lại cho các khu vực chiếm đóng ở Bắc Triều Tiên và Mãn Châu. Liên

Xô cũng đồng ý gia nhập tổ chức Liên Hiệp Quốc. Như vậy, vì lợi ích chung có liên quan

trực tiếp tới nền hòa bình, an ninh và trật tự thế giới mới sau chiến tranh nên cuối cùng lãnh

đạo chính phủ ba cường quốc tham gia hội nghị cũng đã đạt được sự đồng thuận trên một số

vấn đề : Vấn đề Đức, Vấn đề Ba Lan, Vấn đề tham chiến chống Nhật.

Cũng tại Hội nghị thượng đỉnh tại Yalta, ba cường quốc đã cùng nhau phân chia khu

vực ảnh hưởng ở châu Âu và châu Á sau chiến tranh. Cụ thể :

Ở châu Âu: Quân đội Liên Xô chiếm đóng và kiểm soát Đông Đức và Đông Béclin.

Quân đội Hoa Kỳ, Anh và Pháp chiếm đóng và kiểm soát Tây Đức, Tây Béclin, Italia và

một số nước Tây Âu khác. Vùng Đông Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô; vùng Tây

Âu thuộc phạm vi ảnh hưởng của Hoa Kỳ, trong đó Áo và Phần Lan trở thành những nước

trung lập.

Ở châu Á: Do việc Liên Xô chấp nhận tham chiến chống Nhật, Hoa Kỳ và Anh đã

chấp nhận những yêu cầu của Liên Xô: duy trì nguyên trạng của CHND Mông Cổ; trả lại

cho Liên Xô miền Nam đảo Xakhalin và quần đảo Curin bị Nhật chiếm từ sau chiến tranh

Nga - Nhật (1904-1905); quân đội Hoa Kỳ chiếm đóng Nhật Bản; trả lại cho Trung Quốc

quần đảo Bành Hồ và Mãn Châu bị Nhật chiếm từ sau năm 1895; quân đội Liên Xô và Hoa

Kỳ rút khỏi Trung Quốc; Trung Quốc tiến tới thành lập một chính phủ liên hiệp có sự tham

gia của Đảng Cộng sản Trung Quốc; Hoa Kỳ có quyền lợi ở Trung Quốc; Triều Tiên sẽ trở

thành một nước độc lập, nhưng trước mắt quân đội Liên Xô và Hoa Kỳ chia nhau kiểm soát

Bắc và Nam vĩ tuyến 38; các vùng lãnh thổ còn lại của châu Á (Đông Nam Á, Nam Á và

Tây Á) vẫn thuộc phạm vi truyền thống của các nước phương Tây.

Có thể thấy, những kết quả đạt được giữa Liên Xô, Anh và Hoa Kỳ tại Yalta vào tháng

2 năm 1945 không chỉ thiết lập một sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa các nước thuộc phe Đồng

minh trong cuộc chiến tranh chống lại chủ nghĩa phát xít ở giai đoạn cuối cùng mà còn đặt

33

những cơ sở có tính chất nền tảng cho việc hình thành một trật tự thế giới mới sau chiến

tranh mà lịch sử gọi là Trật tự hai cực Yalta do Liên Xô và Hoa Kỳ đứng đầu mỗi cực với

các khu ảnh hưởng của mỗi nước.

Hội nghị Yalta được các chính khách phương Tây đánh giá là Hội nghị thành công

nhất của các cường quốc Đồng minh, mặc dù có một số bất đồng. Thủ tướng Anh Churchill

tỏ ra vô cùng phấn khởi khi nhớ lại sự kiện này:

“ Thay mặt Chính phủ tôi gửi đến bạn lòng biết ơn đối với tất cả các khách sạn và tình

bạn đến phái đoàn Anh tại Hội nghị Crimea …Không có cuộc họp nào trước đó đã cho thấy

như vậy, rõ ràng các kết quả có thể đạt được khi ba người đứng đầu chính phủ đáp ứng đầy

đủ các ý định để đối mặt với những khó khăn và giải quyết chúng…….Tôi đang giải quyết,

như tôi chắc chắn Tổng thống và bạn sẽ được giải quyết, rằng quan hệ hữu nghị và hợp tác

thành lập …”. [31]

Winston Churchill gửi 17 tháng 2 năm 1945, cảm ơn Stalin cho 'hiếu khách và tình

bạn' tại Hội nghị Yalta.

Hội nghị Potsdam

Ngay tại Hội nghị Yalta tháng 2 năm 1945, đã có dấu hiệu của bất đồng, của cuộc

xung đột. Cuộc chiến vẫn còn xảy ra, nhưng nó đã rõ ràng rằng Hitler sẽ bị đánh bại, do đó,

các đồng minh đã gặp nhau để quyết định làm thế nào họ sẽ tổ chức châu Âu sau chiến

tranh. Thật dễ dàng để đồng ý để mang lại chiến tranh Đức Quốc xã-tên tội phạm ra xét xử,

thừa nhận Nga vào Liên Hiệp Quốc, và phân chia Đức thành bốn khu, chiếm đóng Anh,

Pháp, Hoa Kỳ và Liên Xô.

Tuy nhiên, căng thẳng về hai điều: thứ nhất, chính phủ được thiết lập ở Đông Âu, đặc

biệt là Ba Lan (cuối cùng những đồng minh của bản Tuyên ngôn giải phóng châu Âu đồng ý

thiết lập các quốc gia dân chủ và tự quản, việc tổ chức các cuộc bầu cử tự do càng sớm càng

tốt, tự họ lựa chọn chế độ). Thứ hai xung đột bồi thường chiến tranh và đã bị hoãn lại bằng

cách đồng ý thiết lập một ủy ban để xem xét vấn đề.

Các bất đồng đó tiếp tục được đưa ra tranh luận tại Hội nghị Potsdam, đây là hội nghị

thứ hai được các nước đồng minh tổ chức. Hội nghị diễn ra từ ngày 17-07 đến ngày 02-08-

1945 tại Potsdam với sự tham dự của các vị đứng đầu nhà nước và chính phủ ba đại cường

quốc : Liên Xô ( Đại nguyên soái I.Stalin), Hoa Kỳ (Tổng thống Truman) và Anh (Thủ

tướng Churchill). Hội nghị triệu tập trong hoàn cảnh tình hình có nhiều thay đổi khác trước.

Khi cả ba gặp nhau tại Potsdam tháng 7 năm 1945, lúc này phát xít Đức đã bị đánh bại.

34

Ngoài ra Roosevelt người có thiện cảm với Stalin đã qua đời và kế nhiệm là Tổng thống

Truman, người đã tích cực chống Cộng, và Hoa Kỳ đã chế tạo thành công bom nguyên tử,

độc quyền vũ khí hạt nhân (khi Liên Xô chưa có) đồng nghĩa Truman không cần sự giúp đỡ

của Stalin tại Nhật Bản. Và Truman đã có thái độ cứng rắn đối với Stalin. Thủ tướng

Churchill đã nói : “ Bây giờ tôi biết những gì đã xảy ra với Truman ngày hôm qua. Tôi

không thể hiểu được nó. Khi đã đến cuộc họp sau khi đã đọc báo cáo này, ông là một người

đàn ông thay đổi”. Churchill, nói chuyện vào ngày 22 tháng 7 - về hành vi của Truman vào

ngày hôm đó (tức là ngày sau khi ông đã phát hiện ra về bom nguyên tử).

Như vậy, cán cân quyền lực đã nghiêng về phía Hoa Kỳ. Stalin đã ra lệnh cho các nhà

lãnh đạo không cộng sản ở Ba Lan bị bắt. Trong hoàn cảnh đó, tại hội nghị cả ba cường

quốc đã trao đổi các vấn đề quan trọng và không khí căng thẳng :

Thứ nhất, tương lai của Đức và vấn đề bồi thường chiến tranh

Thứ hai, vấn đề Ba Lan và biên giới phía Đông của Ba Lan

Thứ ba, về số phận của các nước Đồng minh hay chư hầu của Đức quốc xã.

Thứ tư, về kết thúc chiến tranh tại Nhật.

Tại Potsdam, những căng thẳng bên dưới Yalta về vấn đề Đông Âu và bồi thường

chiến tranh đã tiếp tục tranh luận, xảy ra bất đồng, xung đột giữa ba cường quốc Hoa Kỳ,

Anh và Liên Xô. Mặc dù vậy cả ba cường quốc đã thống nhất các Nghị định thư sau đây :

+ Thiết lập các khu vực chiếm đóng bốn nước tại Đức. Đảng Quốc Xã, chính phủ và

pháp luật đã bị phá hủy, loại bỏ các học thuyết phát xít và chủ nghĩa quân phiệt, làm cho

Đức có thể phát triển thành công các ý tưởng dân chủ.

+ Để đưa tội phạm Đức Quốc xã ra xét xử.

+ Công nhận Chính phủ lâm thời Thống nhất Quốc gia Ba Lan và tổ chức các cuộc

bầu cử tự do và tự do càng sớm càng tốt.

+ Liên Xô được phép bồi thường chiến tranh, và 10% của các thiết bị công nghiệp của

các khu vực phía tây.

Về vấn đề Nhật Bản : Ngày 27-07-1945 giữa lúc Hội nghị đang diễn ra, một bản

tuyên cáo mang chữ ký của tổng thống Hoa Kỳ H.Truman, thủ tướng Anh Clement và người

đứng đầu nhà nước Trung Hoa Tưởng Giới Thạch đã công bố với sự đồng ý của I.Stalin.

Tuyên cáo nhấn mạnh Nhật phải đầu hàng vô điều kiện, nếu không “sẽ bị hủy diệt nhanh

chóng và hoàn toàn”. Tuyên cáo nêu rõ chính sách của các nước Đồng minh đối với Nhật sẽ

là :

35

+ Vĩnh viễn loại trừ chủ nghĩa quân phiệt và xây dựng một chế độ mới, hòa bình, an

ninh và công lý.

+ Lãnh thổ Nhật sẽ chỉ còn lại 4 đảo lớn là Honshu, Hokkaido, Kyushu và Shikokai

và các đảo nhỏ kề bên.

+ Các tội phạm chiến tranh sẽ bị trừng phạt.

+ Các quyền tự do ngôn luận, tư tưởng, tôn giáo và những quyền cơ bản khác của

con người sẽ được tôn trọng.

+ Các nội dung của Tuyên bố Cairo phải được thực hiện.

+ Nhật phải bồi thường chiến tranh và giải tán nền công nghiệp chiến tranh.

+ Quân đội Nhật phải bị giải giáp hoàn toàn.

+ Lực lượng Đồng minh sẽ chiếm đóng Nhật cho đến khia những chính sách trên

được hoàn thành và cho đến lúc “ một chính phủ có xu hướng hòa bình và có trách nhiệm

được thành lập phù hợp với ý nguyện được tự do bày tỏ của nhân dân Nhật.

Tổng thống Truman trình bày thỏa thuận nêu ra trong nghị định thư như là một thỏa

hiệp, nhưng trong thực tế, các nước Đồng minh đã công khai không đồng ý về các vấn đề :

Thứ nhất, cách thức chi tiết làm thế nào để phân chia Đức.

Thứ hai, không đồng ý về bồi thường chiến tranh. Stalin muốn bồi thường từ Đức bởi

vì 20 triệu người đã bị chết trong chiến tranh nhưng Truman không đồng ý.

Thứ ba, Hoa Kỳ và Anh không đồng ý chính sách của Liên Xô ở Đông Âu, tạo

ra sự ảnh hưởng của Liên Xô đối với các nước Đông Âu..

Nghị định thư đã nhất trí tại Potsdam chỉ đơn thuần lặp lại các thỏa thuận tại Hội nghị

Yalta, ngoại trừ rằng Liên Xô được phép để bồi thường chiến tranh từ vùng Xô, và 10% của

các thiết bị công nghiệp của các khu vực phía tây.

Hai hội nghị được tổ chức thời hậu chiến đã góp phần làm cho quan hệ Liên Xô và

Hoa Kỳ ngày càng căng thẳng, bất đồng, không tìm thấy tiếng nói chung khi sự khác biệt

giữa ý thức hệ quá lớn. Nó báo hiệu sự tan vỡ quan hệ đồng minh thời chiến Liên Xô – Hoa

Kỳ chuyển sang đối đầu. Và hai hội nghị Yalta và Potsdam đã xác lập địa vị ưu thế của Liên

Xô- Hoa Kỳ, rằng sau khi chiến tranh kết thúc chỉ còn lại hai cường quốc tồn tại là Liên Xô

và Hoa Kỳ. Như vậy, góp phần tạo ra cục diện lưỡng cực sau chiến tranh thế giới thứ hai.

2.1.2.4. Hiroshima - phá vỡ quan hệ đồng minh Liên Xô và Hoa Kỳ

Trong Chiến tranh thế giới thứ hai (1939-1945), Hoa Kỳ và Liên Xô trở thành đồng

minh của nhau, cùng chống kẻ thù nguy hiểm nhất là phát xít Đức. Sau chiến tranh quan hệ

36

đồng minh thời chiến nhanh chóng chuyển sang quan hệ đối đầu, trở thành kẻ thù của nhau.

Điều này không có gì là bất ngờ, khi sự khác biệt về mọi mặt giữa hai cường quốc là khá rõ

ràng. Đặc biệt là sự đối lập nhau về ý thức hệ và an ninh, lợi ích quốc gia sau chiến tranh

của hai cường quốc là hoàn toàn trái ngược nhau. Không phải đợi đến khi Chiến tranh thế

giới thứ hai kết thúc, mà ngay khi chiến tranh vẫn còn đang tiếp diễn, thì sự nghi ngờ thiếu

tin cậy giữa chính phủ hai nước đã thể hiện khá rõ ràng. Một trong các nguyên nhân góp

phần phá vỡ quan hệ đồng minh hai nước sau chiến tranh bắt nguồn từ sự kiện Hiroshima ở

Nhật Bản.

Có lẽ người dân cả thế giới nói chung và người dân Nhật Bản nói riêng chẳng bao giờ

quên sự kiện ngày 6-8-1945 và 9-8-1945. Hoa Kỳ đã làm cả thế giới chấn động bằng việc

ném bom nguyên tử vào hai thành phố lớn của Nhật Bản là Hiroshima và Nagasaki khiến

hàng trăm ngàn dân thường thiệt mạng.

Sau khi hai quả bom được ném xuống, chứng tỏ nhiệm vụ hòa giải của Liên Xô đã

không thành và đồng minh muốn nhanh chóng kết thúc chiến tranh ở Nhật Bản. Thiên

Hoàng đã chấp nhận tiếp thu Tuyên ngôn Potsdam với lí do: “phía Nhật căn bản chưa

chuẩn bị xong “bản thổ quyết chiến”, nếu cứ mù quáng quyết chiến thì “tất sẽ dẫn đến sự

vong quốc diệt chủng của dân tộc”, Trẫm “vẫn còn muốn truyền lại cho con cháu đời sau

cái gọi là quốc gia Nhật Bản”.[5]

Các nhà nghiên cứu đã chỉ ra một số lí do thúc đẩy tổng thống Truman quyết định sử

dụng vũ khí giết người hàng loạt:

Thứ nhất, Truman muốn nhanh chóng kết thúc chiến tranh trước khi Liên Xô có thể

thực hiện điều đó.

Thứ hai, Việc ném bom để Nhật Bản hoảng sợ và nhanh chóng đầu hàng.

Thứ ba, dù không nói nhưng qua việc ném bom Truman muốn chứng tỏ sức mạnh của

Hoa Kỳ trước Stalin, muốn gây ấn tượng với Liên Xô và khẳng định ưu thế lãnh đạo thế

giới sau chiến tranh. Điều này không tránh khỏi sự nghi ngờ và đề phòng của Stalin, vốn dĩ

Stalin là người có tính đa nghi. Stalin không phải là không nhận thức được ẩn ý sâu xa của

việc Hoa Kỳ quyết định sử dụng hai quả bom nguyên tử.

Trước tiên, Stalin tỏ ra thái độ tức giận vì Truman đã không nói với ông ấy về bom

nguyên tử. Truman có đề cập với Stalin về bom nguyên tử vào ngày 24 tháng 7 nhưng

không đi thẳng vấn đề chỉ đề cập rằng “Hoa Kỳ đã có một vũ khí mới có sức công phá

khủng khiếp”. Thứ đến, Stalin nghi ngờ hành động ném bom của Mỹ xuống Hiroshima và

37

Nagasaki là nhầm vào Liên Xô hơn là Nhật Bản, Stalin nói với Molotov rằng : "Họ đang

giết chết Nhật Bản và đe dọa chúng ta" . Stalin đã lên kế hoạch cho các nhà khoa học Liên

Xô phát triển vũ khí hạt nhân của mình, rõ ràng bom nguyên tử đã kích động một cuộc chạy

đua vũ khí hạt nhân trong Chiến tranh lạnh. Sau đó, trong tháng 2 năm 1946, Stalin đã có

bài phát biểu nổi tiếng cáo buộc Mỹ sử dụng lợi thế hạt nhân của mình cho việc bảo vệ chủ

nghĩa đế quốc.

Bom thay đổi thái độ của Hoa Kỳ, việc Hoa Kỳ giữ độc quyền vũ khí hạt nhân, và vì

thế vai trò của Hoa Kỳ tại các Hội nghị thời hậu chiến trở nên vững chắc hơn. Tổng thống

Truman ném bom ở Hiroshima để nhanh chóng kết thúc chiến tranh tại Nhật Bản trước khi

Stalin có cơ hội để kết thúc chiến tranh ở Thái Bình Dương.

Như vậy bom nguyên tử đã làm cho quan hệ đồng minh Liên Xô- Hoa Kỳ trở nên

căng thẳng và bị phá vỡ ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Chiến tranh thế giới thứ hai kết

thúc, mâu thuẩn giữa Hoa Kỳ và đồng minh phương Tây với Liên Xô lại trở thành mâu

thuẩn cơ bản nhất. Bom nguyên tử là cú sút cuối cùng kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai

thì nó cũng báo hiệu một cuộc chiến tranh mới sẽ bắt đầu, nếu chiến tranh xảy ra thì đó là

cuộc chiến tranh hạt nhân, hủy diệt cả nhân loại. Do đó, hai siêu cường quốc chỉ dừng lại ở

cuộc chiến tranh được gọi là “Chiến tranh lạnh”.

2.2. Nguồn gốc Chiến tranh lạnh thông qua mối quan hệ Liên Xô – Hoa Kỳ ở

Châu Âu (1945-1947)

2.2.1. Sự mở rộng quyền lực của Liên Xô ở châu Âu

Sau chiến tranh thế giới thứ hai lãnh thổ của Liên Xô được mở rộng đáng kể. Trong đó

liên quan đến nghị định thư phân chia phạm vi ảnh hưởng Xô-Đức (23-08-1939), Liên Xô

đã giành lại được phần lớn lãnh thổ tách khỏi nước Nga thời kì nội chiến ( 1918 – 1920) và

sát nhập những lãnh thổ gần kề nhờ vai trò giải phóng của Hồng quân Liên Xô ở các nước

này. Nó lí giải tại sao, ở những nước gần kề Liên Xô lại tồn tại lực lượng Hồng quân đông

đảo. Có thể nói, đây là thời kì Liên Xô tiến hành xây dựng đế chế của mình. Đặc biệt là kế

hoạch xây dựng Đông Âu thành lá chắn bảo vệ Liên Xô từ phía Tây.

Nếu như sức mạnh của đế quốc Hoa Kỳ và Anh được tạo nên chủ yếu bằng sức mạnh

hàng hải dựa trên thương mại và thương mại thì Liên bang Nga lại là một quyền lực được

tạo dựng trên đất liền, mở rộng từ trung tâm trong một quá trình bồi tụ lãnh thổ. Do đó trong

suốt thế kỷ 19, cải thiện khả năng tiếp cận hàng hải của Nga là một mục tiêu lâu năm trong

38

chính sách đối ngoại của các Sa hoàng. Mặc dù Nga có kích thước rộng lớn, nhưng con

đường hàng ngàn dặm vươn ra bờ biển đã bị đóng kín hầu hết năm nay, hoặc đi ra các đại

dương phải thông qua eo biển kiểm soát bởi các cường quốc khác, đặc biệt là ở Biển Baltic

và Biển đen. Người Anh đã nhìn thấy điều đó kể từ Chiến tranh Crimean vào những năm

1850 để giảm ảnh hưởng của Nga tại các bờ biển của Ottoman Thổ Nhĩ Kỳ, người đàn ông

"bệnh hoạn của châu Âu." Với việc hoàn thành kênh đào Suez vào năm 1869, các khách

hàng tiềm năng của Nga thu giữ một phần của bờ biển Ottoman trên Địa Trung Hải, có khả

năng đe dọa đường thủy chiến lược, là mối quan tâm lớn đối với người Anh. Anh cũng sợ

hãi về lãnh thổ của Nga hoàng, mở rộng đế chế ở Trung Á đến Ấn Độ, gây ra một loạt các

cuộc xung đột giữa hai cường quốc ở Afghanistan, được gọi là The Great Game. Theo

Wisconsin, sự mở rộng nhằm bảo vệ an ninh biên giới của Nga hơn là chinh phục ảnh

hưởng của phương Tây. Anh lo ngại việc mở rộng của Nga, tuy nhiên, giảm xuống sau thất

bại tuyệt đẹp của Nga trong cuộc chiến tranh Nga-Nhật năm 1905.

Rõ ràng, suốt thế kỉ XIX các Nga hoàng đã nổ lực theo đuổi chính sách vươn ra biển,

nhưng đó là nhằm mục đích an ninh được thúc đẩy bởi biên giới dễ bị tổn thương của Nga.

Sang thế kỉ XX, Liên Xô lại kiên trì theo đuổi học thuyết “Vùng Đất Trung Tâm”

(Heartland) để ra sức mở rộng phạm vi ảnh hưởng tín ngưỡng ý thức hệ ở những khu vực

mà khả năng cho phép xây dựng và duy trì chế độ giống như mình. Đặc biệt, sau chiến tranh

một khoảng trống quyền lực đã được hình thành ở châu Âu. Cả Liên Xô và Hoa Kỳ đều

muốn lấp đầy khoảng trống quyền lực đó. Giống như Stalin nói với đoàn đại biểu của Đảng

Cộng sản Nam Tư vào tháng 4-1945:

“Chiến tranh lần này và trước kia là khác nhau: bất luận ai chiếm lĩnh đất đai thì đều

áp đặt chế độ của mình ở đó. Không thể làm khác hơn….”. Và chỉ lên bản đồ châu Âu với

Liên Xô và Đông Âu được tô màu đỏ, ông nói tiếp : “Chẳng đời nào họ chịu chấp nhận một

khoảng rộng lớn như vậy bị loại bỏ. Chẳng đời nào. Chẳng đời nào”.[3, 21]

Qua lời phát biểu, Stalin đã thể hiện tham vọng bành trướng lãnh thổ và mở rộng ảnh

hưởng trên phạm vi thế giới. Đồng nghĩa tranh giành ảnh hưởng đối với Hoa Kỳ và đồng

minh phương Tây.

Ngay trong chiến tranh, Stalin đã tính đến kế hoạch xây dựng Đông Âu thành lá chắn,

bảo vệ biên giới phía Tây của Liên Xô trước cuộc tấn công của bất kì cường quốc nào từ

phương Tây. Có lẽ, Stalin đã không quên sự kiện năm 1918 liên quân 14 nước kéo quân vào

lãnh thổ nhằm bóp nghẹt chính quyền Xô Viết và cuộc tấn công của phát xít Đức năm 1941.

39

Đặc biệt trong chiến tranh thế giới thứ hai, tất cả các nước Đông Âu bị Đức chiếm và trở

thành nơi xuất phát hoặc chư hầu của Đức và trở thành phụ trợ cho cuộc chiến của Đức vào

Liên Xô. Điều đó không tránh khỏi sự lo ngại của Stalin. Bắt đầu từ khoảng năm 1944,

Hồng quân Liên Xô đã tiến hành phản công trên quy mô lớn, giải phóng phần lớn lãnh thổ,

thu lại được những lãnh thổ đã bị mất trong thời kỳ đầu chiến tranh, và tiến mạnh ra ngoài

biên giới.Trong quá trình phát triển ra bên ngoài, Hồng quân Liên Xô đã giúp đỡ những

Đảng Cộng sản ở những nơi đó thành lập chính quyền ủng hộ lực lượng tiến bộ. Với vai trò

to lớn giải phóng các nước Đông Âu khỏi ách phát xít, sự hiện diện đông đảo Hồng quân

Liên Xô tại các nước này, rõ ràng rằng Stalin đã vạch sẵn chế độ mà Đông Âu phải chọn.

Kế hoạch của Liên Xô ở Đông Âu đã thành hiện thực, thời kỳ sau chiến tranh Hồng

quân Liên Xô đã giúp đỡ các nước Đông Âu như: Ba Lan, Tiệp Khắc, Rumani xây dựng

chính quyền dân chủ nhân dân, Đảng Cộng sản Nam Tư và Anbania trong quá trình lập

chính quyền cũng được Liên Xô giúp đỡ. Trong các chính phủ liên minh này, người của

Đảng Cộng sản luôn nắm giữ vị trí then chốt. Tính đến tháng 4/1947 những người Cộng sản

đã giành ưu thế quyền lực như ở Bulgaria, ở Hungary, Ba Lan, Albania, Nam Tư. Riêng ở

Tiệp Khắc, Đông Đức, Romania những người Cộng sản đang tiến nhanh đến chỗ nắm trọn

quyền lực. Đương nhiên sự giúp đỡ to lớn của Liên Xô đối với các nước Đông Âu, trên một

mức độ rất lớn là tính đến lợi ích dân tộc của bản thân, nhưng không thể loại trừ trong đó có

động cơ bành trướng, xây dựng đế chế, phạm vị quyền lực thông qua công cụ là Đảng Cộng

sản và Hồng quân Liên Xô đủ sức đối đầu với bất kì cường quốc nào trên thế giới. Kế hoạch

của Stalin đương nhiên vấp phải sự chống đối của Hoa Kỳ và phương Tây, vì vi phạm

“Tuyên ngôn giải phóng châu Âu” nhưng trên mức độ nào đó buộc chấp nhận, không thể từ

chối vì sự hiện diện đông đảo Hồng quân Liên Xô ở khu vực này. Và chính ở đây góp thêm

một bất đồng dẫn đến tan vỡ trong quan hệ đồng minh Liên Xô- Hoa Kỳ sau chiến tranh.

Không chỉ mở rộng quyền lực ở Đông Âu, Stalin còn mở rộng quyền lực và ảnh hưởng

ra bên ngoài châu Âu, cụ thể là Triều Tiên và Trung Quốc. Sự ra đời của nước Cộng hoà

dân chủ Nhân dân Triều Tiên, trên một mức độ rất lớn, đó chính là kết quả của sự mở rộng

đến bán đảo Triều Tiên của Hồng quân Liên Xô. Stalin trong thời chiến đã từng có quan hệ

trao đổi với Hoa Kỳ, coi Trung Quốc nằm trong phạm vi ảnh hưởng của Hoa Kỳ, hơn nữa

còn nghi ngờ và không tin tưởng những người của Đảng Cộng sản Trung Quốc. Nhưng

cùng với sự phát triển của tình hình Trung Quốc, thì Liên Xô lại dành một số sự giúp đỡ cho

Đảng Cộng sản Trung Quốc, như sau khi Hồng quân Liên Xô chiếm được vùng Đông Bắc

40

Trung Quốc, trên một mức độ nhất định đã ủng hộ Đảng Cộng sản ở Đông Bắc, và giao cho

quân đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc một số lượng lớn trang bị vũ khí, khiến cho quân

đội của Đảng Cộng sản Trung Quốc ở vùng Đông Bắc trở thành một đội quân có trang bị tốt

nhất trong các khu giải phóng cả nước. Đối với các Đảng Cộng sản Tây Âu, Liên Xô lại

không giành sự trợ giúp nào.

2.2.2. Khởi xướng Chiến lược ngăn chặn của Hoa Kỳ

Chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai và kéo dài trong

suốt thời kỳ Chiến tranh lạnh phần lớn chịu ảnh hưởng của hai cố vấn đó là một quan chức

Đại sứ quán Mỹ tại Moscow George F. Kennan và Luật sư, sĩ quan hải quân Clark Clifford.

Kennan và Clifford là hai cố vấn quan trọng, có sức chi phối và tầm ảnh hưởng mạnh mẽ

đến chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong suốt thời kì Chiến tranh lạnh. Hai ông đã có

những bài báo cáo quan trọng về giải thích động thái, phân tích hành vi của Liên Xô sau

Chiến tranh thế giới thứ hai và đưa ra khuyến nghị với Truman để đối phó với hành vi của

Liên Xô.

Trong đó, Kennan với báo cáo năm 1946 giải thích động thái chính sách đối ngoại của

Liên Xô sau chiến tranh mang tên “Long Telegram”, ông cũng chính là người khởi xướng

“Chính sách ngăn chặn” được thực hiện bởi Truman. Và người thứ hai là Clark Clifford với

báo cáo phân tích hành vi sau chiến tranh của Liên Xô và đưa ra khuyến nghị với Truman

để đối phó với hành vi của Liên Xô với tựa đề “Quan hệ Hoa Kỳ với Liên Xô”.

George F. Kennan (1904 – 2005) tốt nghiệp từ Đại học Princeton vào năm 1925 và sau

đó làm việc cho Bộ ngoại giao Hoa Kỳ như là một chuyên gia về Liên Xô. Ông đã dành

phần lớn thời gian của những năm 1930 gắn liền với Đại sứ quán Mỹ ở Moscow, nơi ông

trực tiếp chứng kiến hoạt động nội bộ của Liên Xô, bao gồm các chương trình thử nghiệm,

trong đó Stalin lên án hàng ngàn các đối thủ chính trị bị nghi ngờ cho đến chết. Kinh

nghiệm này thuyết phục Kennan rằng có ít hy vọng cho sự hợp tác lâu dài giữa Liên Xô và

phương Tây. Trong tháng 5 năm 1944, ông đã được bổ nhiệm làm phó giám đốc của sứ

quán Hoa Kỳ tại Moscow. So với Clark Clifford, Kennan là người cố vấn am hiểu về Liên

Xô. Ngày 22 tháng 2 năm 1946 ông đã gửi thông điệp đến Bộ trưởng ngoại giao trong đó

giải thích động thái chính sách đối ngoại của Liên Xô, cũng như đưa ra quan điểm của ông

về lý do Liên Xô hành xử như vậy. Thông điệp này nhanh chóng được đặt tên là “Long

Telegram”. Điện tín này được chứng minh là có ảnh hưởng lớn trong số rất nhiều các cố vấn

chính sách đối ngoại của Truman.

41

Ông giải thích động thái của Liên Xô sau chiến tranh. Thứ nhất nó không đại diện cho

quan điểm của nhân dân Nga. Thứ hai là chỉ ra rằng đường lối của Đảng Liên Xô không dựa

trên bất kỳ mục tiêu, phân tích tình hình bên ngoài biên giới Liên Xô mà nó phát sinh chủ

yếu từ nhu cầu cơ bản bên trong Liên Xô đã tồn tại trước chiến tranh. Đó là truyền thống và

bản năng bất an của Liên Xô. Ban đầu là bất an của một dân tộc nông nghiệp hòa bình cố

gắng để tiếp xúc với đồng bằng trong khu phố của các dân tộc du mục khốc liệt. Các khu

phố của “dân tộc du mục” được hiểu là các nước phương Tây, mà Liên Xô đã tiếp xúc với

nền kinh tế tiên tiến phương Tây, và sợ có thẩm quyền và mạnh hơn nên cảm có cảm giác

bất an. Thứ hai là bất an từ nhà lãnh đạo Liên Xô, vì nhà lãnh đạo Liên Xô đã cảm nhận

quyền lực của họ không thể so sánh với hệ thống chính trị của các nước phương Tây. Vì lí

do này, Liên Xô luôn sợ sự xâm nhập nước ngoài, sợ tiếp xúc trực tiếp giữa thế giới phương

Tây và Liên Xô. Vì vậy, Kennan cho rằng các nhà lãnh đạo Liên Xô được thúc đẩy bởi nhu

cầu của quá khứ và hiện tại. Nó biện minh cho sự gia tăng của quân đội và cảnh sát quyền

lực trong nước Liên Xô. Điều đó cũng đúng, Stalin luôn sợ sự tấn công từ phương Tây. Qua

đó Kennan cho rằng những hoạt động bên trong nước Liên Xô như tăng cường sức mạnh và

uy tín bằng cách phát triển công nghiệp quân sự, lực lượng vũ trang và mở rộng quyền lực

ra bên ngoài ..là nhằm gây ấn tượng bên ngoài, làm suy yếu tiềm năng chính trị và chiến

lược của các cường quốc phương Tây. Như vậy người Hoa Kỳ cũng như Kennan đã thể hiện

sự mất niềm tin đối với Stalin, rằng sẽ không có hòa bình giữa hai cường quốc và làm cho

quan hệ Hoa Kỳ- Liên Xô trở nên xấu đi. Như Kennan đã khẳng định về lâu dài không thể

sống chung hòa bình vĩnh viễn.

Xuất phát từ sự ngờ vực và mất niềm tin, Kennan đặt ra vấn đề đối phó với Liên Xô,

và xem đây là nhiệm vụ lớn nhất trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ phải đối mặt và

ông khẳng định : “Tôi tin rằng vấn đề là trong khả năng của chúng tôi để giải quyết… mà

không cần đến bất kỳ cuộc xung đột quân sự” [21, 28]. Phương pháp thực hiện chiến lược

đối phó là phải thấu hiểu, phải thực hiện bởi chính phủ, phải đáp ứng tình hình trong nước,

phải xây dựng hình ảnh tích cực cho các quốc gia khác và cuối cùng phải có lòng can đảm

và tự tin. Thấu hiểu theo Kennan đó là hiểu rõ bản chất của Liên Xô. Ông dự báo “Liên Xô

có thể sụp đổ từ bên trong” bởi thành công của hệ thống Xô Viết là hình thức của quyền lực

nội bộ.

Như vậy thông điệp của Kennan đã rất có ích cho Truman, hiểu rõ hơn động thái của

Liên Xô sau chiến tranh và động thái này không phải mới xuất hiện mà nó đã được xem như

42

truyền thống của Liên Xô từ trong quá khứ. Qua đó Kennan gửi thông điệp cho Tổng thống

Truman rằng :

“Người Nga được xác định để tiêu diệt các lối sống Hoa Kỳ và sẽ làm tất cả những gì

họ có thể để chống lại Hoa Kỳ. Đây là mối đe dọa lớn nhất Hoa Kỳ đã từng phải đối mặt.

Liên Xô có thể bị đánh bại. Liên Xô phải được dừng lại. Điều này có thể được thực hiện mà

không đi đến chiến tranh. Cách để làm điều đó là bằng cách giáo dục công chúng chống lại

chủ nghĩa cộng sản, và làm cho những người giàu có, hạnh phúc và tự do”.[21, 29]

Thông điệp đã thể hiện sự nguy hiểm của Chủ nghĩa Cộng sản, và không thể chung

sống hòa bình vĩnh viễn với Liên Xô, cần phải ngăn chặn, chi phối chính sách đối ngoại của

Hoa Kỳ sau này.

Một lần nữa những lập luận của Kennan thật sự tác động mạnh mẽ đến Tổng thống

Truman. Tháng 7 năm 1947 George F. Kennan viết một bài viết đăng trên tạp chí có uy tín

với tựa đề “Nguồn gốc hành động của Liên Xô”, dài 8000 từ ông đã sử dụng một cái tên giả

là “X”. Trong đó ông đã khẳng định lại thái độ của Hoa Kỳ trong quan hệ Hoa Kỳ- Liên Xô

là không thể thân thiện với Liên Xô, mà phải xem Liên Xô là một đối thủ, không thể chung

sống hòa bình :

“Rõ ràng rằng Hoa Kỳ không thể mong đợi trong tương lai gần để tận hưởng sự thân

mật chính trị với chế độ Xô Viết. Nó phải tiếp tục coi Liên Xô là một đối thủ, không phải là

một đối tác trong đấu trường chính trị…..không có đức tin trong khả năng chung sống hạnh

phúc lâu dài của thế giới xã hội chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa”. [21, 29]

Kennan cho rằng sau chiến tranh, Liên Xô đã bị suy yếu, chỉ cần đặt Liên Xô trước

một lực lượng mạnh thì trong thời gian dài Liên Xô sẽ tự tan rã và sẽ “ngăn chặn” được sự

“bành trướng” của Chủ nghĩa Cộng sản. Chính sách của Hoa Kỳ là phải cứng rắn và cảnh

giác trước khuynh hướng xâm lược của Liên Xô.

Đến đây quan hệ đồng minh Liên Xô- Hoa Kỳ thật sự phá vỡ. Kennan đã đề ra chiến

sách ngăn chặn, được thiết kế để đối đầu với Liên Xô bất di bất dịch chống lực lượng ở mọi

điểm, nơi có dấu hiệu xâm phạm lợi ích của một thế giới hòa bình và ổn định. Nó lí giải

những khu vực có sự hiện diện của Liên Xô nơi ấy tất nhiên sẽ có mặt của Hoa Kỳ. Sau này

khi chiến trạnh lạnh diễn ra hai cường quốc đã trực tiếp hoặc gián tiếp đối đầu ở một số

nước : Đức, Triều Tiên, Trung Quốc,….

Clark Clifford (1906-1998) là một Luật sư nổi tiếng ở St Louis, vừa là một sĩ quan Hải

quân Hoa Kỳ trong suốt thời gian Chiến tranh thế giới thứ hai. Trong vai trò này ông thường

43

xuyên cố vấn cho Tổng thống Truman, và cùng đến tham dự Hội nghị Potsdam trong tháng

7 năm 1945. Một trong những nhiệm vụ đầu tiên trong công việc này là chuẩn bị báo cáo

phân tích các hành vi sau chiến tranh của Liên Xô và đưa ra khuyến nghị cho Truman vào

ngày 24 tháng 9 năm 1946. Báo cáo này được nhận định là có ảnh hưởng mạnh mẽ đến

chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ trong suốt thời kì Chiến tranh lạnh. Trong báo cáo của

mình, Clifford đã nêu ra mục tiêu trong chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ đối với Liên bang

Xô viết là thuyết phục các nhà lãnh đạo Liên Xô tham gia vào hệ thống hợp tác thế giới và

khẳng định sẽ không có chiến tranh giữa hai cường quốc. Một nổ lực để cùng chung sống

hòa bình.

Tuy nhiên, theo Clifford các nhà lãnh đạo Liên Xô và Stalin đã không ứng xử các vấn

đề quốc tế như Hoa Kỳ mong đợi. Và Stalin tin rằng một cuộc chiến tranh với Hoa Kỳ và

các quốc gia tư bản là không thể tránh khỏi. Từ đó, Clifford phân tích hành vi của Liên Xô

sau chiến tranh là đang chuẩn bị cho cuộc xung đột không tránh khỏi, và Liên Xô đang cố

gắng phá hoại, làm suy yếu tiềm năng đối thủ bằng mọi phương tiện. Clifford đã chỉ ra hành

vi của Liên Xô đang gia tăng sức mạnh quân sự và phạm vi ảnh hưởng của Liên Xô ở các

khu vực lân cận và mở rộng khu vực châu Á. Qua đó ông cũng giải thích lí do Liên Xô mở

rộng phạm vi ảnh hưởng là do không có quốc gia nào sẵn sàng ngăn chặn Liên Xô. Ông đã

đưa ra khuyến nghị với Truman :

“ Nếu chúng ta không thể tranh thủ sự hợp tác của Liên Xô trong các giải pháp của

vấn đề thế giới, chúng tôi cần được chuẩn bị để tham gia với Anh và các nước phương Tây

khác trong một nổ lực để xây dựng một thế giới của riêng chúng tôi sẽ theo đuổi các mục

tiêu riêng của mình và sẽ nhận ra quỹ đạo Liên Xô như một thực thể riêng biệt, mà xung đột

không được định trước, chúng ta không thể theo đuổi mục tiêu chung” [45, 3]

Như vậy, Clifford đã chỉ ra Hoa Kỳ phải là nước đầu tiên hướng tới thế giới ổn định,

tìm cách ngăn chặn Liên Xô tiếp tục xâm lược. Đồng thời ông vạch ra biện pháp ngăn chặn

đó là kế hoạch hiện diện quân sự ở khu vực Tây Âu, Trung Đông, Trung Quốc và Nhật Bản,

nếu Liên Xô mua lại quyền kiểm soát ở các khu vực này, các lực lượng quân sự cần thiết để

giữ và tiếp tục ngăn chặn Liên Xô. Ngoài việc duy trì sức mạnh quân sự, ông còn khuyến

nghị Hoa Kỳ cần phải hỗ trợ tất cả các nước dân chủ trong bất kì cách đe dọa nào hoặc bị đe

dọa bởi Liên Xô, trong đó hỗ trợ quân sự là phương sách cuối cùng. Ông cũng khuyến nghị

“cần phải chuẩn bị thận trọng, tránh bất kỳ hành động đó sẽ là cái cớ để Liên Xô bắt đầu

44

một cuộc chiến tranh, chống lại mạnh mẽ và thành công bất kỳ nổ lực nào của Liên Xô để

mở rộng vào các khu vực quan trọng đối an ninh của Hoa Kỳ”. Bằng tất cả sức mạnh, và

biện pháp ngăn chặn, Clifford đã khẳng định ưu thế của Hoa Kỳ đối với Liên Xô : “Nó phải

được thực hiện rõ ràng với chính phủ Liên Xô rằng sức mạnh của chúng tôi sẽ là đủ để đẩy

lùi bất kỳ cuộc tấn công và đủ để đánh bại quyết định Liên Xô nếu một cuộc chiến tranh bắt

đầu”[45, 4]. Như vậy, báo cáo của Cliffrord đã tác động mạnh mẽ đến chính sách đối ngoại

của Hoa Kỳ, mà chủ yếu đối với Liên Xô, nó thể hiện Liên Xô đang tăng cường sức mạnh

quân sự và phạm vi ảnh hưởng. Và Hoa Kỳ phải đóng vai trò ngăn chặn Liên Xô, với hy

vọng sẽ thay đổi được Stalin và hợp tác với Hoa Kỳ công bằng, hợp lý khi Liên Xô nhận ra

Hoa Kỳ là quá mạnh để bị đánh bại.

Như vậy với những phân tích động thái của Liên Xô sau chiến tranh và những lập luận

cứng rắn, Kennan và Clark Clifford đã đưa ra những quan điểm và khuyến nghị quan trọng

cùng chính sách ngăn chặn Liên Xô. Cả hai cố vấn đều thể hiện sự mất niềm tin của Hoa Kỳ

về Liên Xô và đẩy quan hệ hai cường quốc xấu đi nhanh chóng. Trong báo cáo các cụm từ

“không thể chung sống hòa bình”, “phải coi là đối thủ”, “đủ sức đánh bại” được sử dụng

nhiều lần. Ở đây cần xem xét lại xuất phát điểm Chiến tranh lạnh, đó có phải là Học thuyết

Truman năm 1947 ? Hay xuất phát điểm từ năm 1946, từ những báo cáo của các cố vấn Hoa

Kỳ. “Chính sách ngăn chặn” được đề ra dựa trên quan điểm của các nhà chiến lược Hoa Kỳ,

tiêu biểu là G.Kennan. Chính sách ngăn chặn do G.Kennan khởi xướng nhanh chóng trở

thành nền tảng hoạch định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ cho suốt thập niên cuối thế kỉ

XX.

2.2.3. Quan hệ tan vỡ Liên Xô – Hoa Kỳ 1947

2.2.3.1. Bất đồng trong việc giải quyết vấn đề Đức

Trong lúc chiến tranh còn đang tiếp diễn, các cường quốc Hoa Kỳ, Liên Xô, Anh đã có

những cuộc gặp gỡ nhau nhằm giải quyết các vấn đề sau chiến tranh. Trong đó nổi bật là

vấn đề Đức, đây là vấn đề thường xuyên đem ra thảo luận tại các cuộc họp quan trọng. Đặc

biệt tại Yalta và Potsdam.

Trong đó việc thống nhất lại nước Đức sau Chiến tranh thế giới thứ hai là một đề tài

được tranh luận sôi nổi nhất trong các phiên họp quốc tế cấp cao giữa các cường quốc Anh,

Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô và các nước có liên quan đến vấn đề Đức. Quan điểm của Hoa Kỳ,

Anh, Pháp, luôn luôn đối lập với ý kiến mong muốn một nước Đức hoà bình, thống nhất của

Liên Xô. Hoa Kỳ, Anh, Pháp âm mưu khôi phục lại Chủ nghĩa phát xít và Chủ nghĩa phục

45

thù Đức, chia cắt Đức và đưa Tây Đức vào khối NATO.

Tại sao vấn đề Đức lại trở thành đề tài sôi nổi và làm cho cuộc họp giữa ba cường

quốc lúc nào cũng trong tình trạng căng thẳng và bất đồng ?

Có thể lí giải, Sở dĩ Đức trở thành một “điểm nóng” trong quan hệ thế giới sau Chiến

tranh thế giới thứ hai bởi nó chính là nơi châm ng̣òi cho cả hai cuộc Chiến tranh thế giới. Sự

nguy hiểm của phát xít Đức đã làm cho Hoa Kỳ, Anh và Liên Xô mặc dù có những mâu

thuẩn nhưng xích lại gần nhau trở thành đồng minh thời chiến. Phát xít Đức bị tiêu diệt, đó

là thắng lợi vẻ vang của ba cường quốc. Với vị trí hết sức quan trọng của Đức, thế giằng co

giữa Đông và Tây. Vấn đề phát sinh là phân chia thành quả đó như thế nào ? Nước nào

được bồi thường nhiều hơn ? Bồi thường dưới hình thức nào ? Vấn đề phân chia phạm vi

chiếm đóng ba cường quốc ở Đức như thế nào ? Về việc thống nhất xây dựng tương lai Đức

sau chiến tranh ra sao ? Đó là những vấn đề thảo luận giữa các nước luôn xảy ra bất đồng.

Và khó khăn trong việc tìm kiếm tiếng nói chung vì sự khác biệt ý thức hệ, mục tiêu, lợi ích

quốc gia, đại diện là Hoa Kỳ và Liên Xô.

Có thể thống kê vấn đề Đức được đưa ra thảo luận trước khi chiến tranh kết thúc tại

các hội đàm, hội nghị quan trọng như gặp gỡ giữa Roosevelt, tổng thống Hoa Kỳ và

Churchill, thủ tướng Anh vào tháng hai năm 1943 (Stalin đang tiến hành chiến tranh vệ

quốc chống phát xít đang diễn ra trong nước nên không đến dự); Hội nghị các ngoại trưởng

tại Moskva vào tháng 10/1943; Hội nghị thượng đỉnh các nguyên thủ gồm Stalin, Roosevelt

và Churchill tại Teheran vào cuối tháng 11 và tháng 12 năm 1943; Hội nghị Yalta vào tháng

2/1945 và Hội nghị Potsdam vào tháng 8/1945 đã bàn về kế hoạch đối với nước Đức trong

thời hậu chiến. Và sau chiến tranh vấn đề Đức lại tiếp tục đem ra thảo luận nhưng giữa các

nước ngày càng không tìm thấy tiếng nói chung tại các cuộc họp ngoại trưởng : Hội nghị

ngoại trưởng Ngũ cường ( Liên Xô, Hoa Kì, Anh, Pháp và Trung Quốc) họp tại London từ

ngày 11-09 đến ngày 2-10-1945, Hội nghị ngoại trưởng Tam cường ( Liên Xô, Hoa Kỳ,

Anh) họp tại Moskva từ ngày 6 đến ngày 26 -12-1945, Hội nghị ngoại trưởng Tứ cường (

Liên Xô, Hoa Kỳ, Anh, Pháp) họp tại Paris từ ngày đến ngày 12-7-1946, và Hội nghị ngoại

trưởng Tứ cường họp tại New York từ ngày 4-11 đến ngày 11-12-1946. Đặc biệt tại Hội

nghị ngoại trưởng Tứ cường (Liên Xô, Hoa Kỳ, anh, Pháp) ở Moskva từ ngày 10-3 đến

ngày 25-4-1947 nhằm tìm giải pháp cho vấn đề Đức, nhưng các cường quốc đã thể hiện lập

trường đối chọi nhau. Nổ lực cuối cùng các nước tại Hội nghị ngoại trưởng Tứ cường tổ

chức tại Paris từ ngày 23 tháng 05 đến ngày 20 tháng 06 năm 1949 cho vấn đề thống nhất

46

Đức đã chấm hết.

Tại Hội nghị Yalta các cường quốc đã đạt được một số thỏa thuận về phân chia khu

vực chiếm đóng Đức, đề ra mục tiêu, nguyên tắc, chính sách chiếm đóng nhưng cũng xuất

hiện bất đồng về việc bồi thường chiến tranh. Trong thời gian tiếp đó, Tổng thống Truman

nhậm chức ở Hoa Kỳ do có nhiều bất đồng về quan điểm chính trị, về tư tưởng, về quyền

lợi, giữa các nước Đồng minh đã nảy sinh các mâu thuẫn ngày càng gay gắt. Chính vì vậy,

vấn đề Đức tưởng chừng như đã được sắp xếp ổn thỏa, sau chiến tranh lại phải xem xét lại.

Và một lần nữa vấn đề Đức lại đưa ra thảo luận tại Hội nghị Potsdam.

Tại Hội nghị Potsdam, vấn đề Đức tiếp tục được đưa tranh luận về : bồi thường chiến

tranh và tương lai Đức, tiến tới xây dựng nước Đức thống nhất. Các cường quốc cũng khẳng

định lại mục tiêu và nguyên tắc chiếm đóng. Nghị định thư đã nhất trí tại Potsdam chỉ đơn

thuần lặp lại các thỏa thuận tại Hội nghị Yalta, ngoại trừ rằng Liên Xô được phép để bồi

thường chiến tranh từ vùng Xô, và 10% của các thiết bị công nghiệp của các khu vực phía

tây. Mặc dù vậy nhưng các nước đã công khai không đồng ý về bồi thường chiến tranh.

Hội nghị Yalta và Hội nghị Potsdam làm nền tảng để các cường quốc thực hiện việc

chiếm đóng Đức. Nhưng trong quá trình thực hiện việc chiếm đóng của mình, các nước đã

có chính sách chiếm đóng khác nhau nhưng dựa trên mục tiêu và nguyên tắc chiếm đóng đã

xác định tại Hội nghị Yalta và Potsdam.

Chính sách chiếm đóng của Liên Xô đối với Đức theo tinh thần “thẳng tay”. Ngược

lại, phía Hoa Kỳ và Anh có phần “nương nhẹ” với Đức. Còn Pháp, có phần khác so với Hoa

Kỳ và Anh, nhưng do yếu hơn nên không được Hoa Kỳ và Anh ủng hộ. Sự khác biệt trong

chính sách chiếm đóng, biểu hiện :

Về kinh tế, Liên Xô đã triệt tiêu mọi tàn dư của Chế độ quốc xã, cố xóa bỏ hẳn các ảnh

hưởng còn sót lại của Chủ nghĩa phát xít và đập tan mọi cơ sở của Chủ nghĩa quân phiệt.

Liên Xô đã tịch thu toàn bộ phương tiện sản xuất của bọn tội phạm chiến tranh, làm cho

Đức không thể phục hồi nền công nghiệp quân sự. Liên Xô đã tiến hành tháo dỡ các xí

nhiệp công nghiệp trong vùng chiếm đóng về nước. Liên Xô đã thực hiện đúng theo tinh

thần của các hội nghị Yalta và Potsdam. Ngươc lại, Hoa Kỳ, Anh và Pháp tạo điều kiện cho

giai cấp tư sản Đức tổ chức lại nền kinh tế nhằm khôi phục nhanh chóng sức sản xuất. Và

hạn chế tối đa tháo dỡ các xí nghiệp Đức cho mục đích bồi thường của các nước đồng minh

(trong đó có Liên Xô). Ngoài ra, Hoa Kỳ và Anh còn giảm bớt việc chuyển giao cho Liên

47

Xô các vùng chiếm đóng của mình. Hành động đó cho thấy Hoa Kỳ, Anh, Pháp đang giúp

Đức phục hồi kinh tế, nhằm lôi kéo Đức về phía mình.

Về chính trị, Liên Xô thẳng tay xóa sạch tất cả những gì còn sót lại của Đảng Quốc xã

và các tổ chức đoàn thể của đảng này, thành lập Đảng xã hội Thống nhất Đức, tuân thủ chế

độ chuyên chính vô sản. Còn phía Hoa Kỳ, Anh, Pháp tạo điều kiện phục hồi chế độ đa

đảng theo mô hình phương Tây trong vùng chiếm đóng của họ.

Sự khác nhau về chính sách chiếm đóng đã thể hiện sự đối lập giữa Liên Xô và các

nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp. Điều đó gây khó khăn cho bốn cường quốc trong việc thảo luận

vấn đề thống nhất nước Đức. Vấn đề thống nhất nước Đức được đưa ra thảo luận tại các

cuộc họp ngoại trưởng Tứ cường tại Paris và New York, nhưng đã xuất hiện bất đồng giữa

các cường quốc, trừ Hoa Kỳ và Anh. Hai nước đã kí hiệp định hợp nhất hai vùng chiếm

đóng của mình về kinh tế, vi phạm điều cam kết. Hành động này, làm cho quan hệ giữa Hoa

Kỳ với Liên Xô càng thêm rạn nứt. Cùng với một loạt các sự kiện xảy ra trong năm 1947 đã

đánh dấu quan hệ hai nước đến chỗ đoạn tuyệt. Vấn đề Đức càng trở nên bế tắc, tiếp sau đó

Hội nghị ngoại trưởng Tứ cường được tổ chức tại Moskva từ ngày 10- 3 đến ngày 25-4-

1947 nhằm tìm giải pháp cho vấn đề Đức, nhưng các cường quốc đã không tìm thấy tiếng

nói chung. Liên Xô muốn xây dựng nước Đức trong tương lai sẽ có chính phủ trung ương

mạnh, còn trước mắt các cơ quan hành chính trung ương sẽ được thành lập phụ trách các

lĩnh vực kinh tế. Về phía Hoa Kỳ, muốn Đức trong tương lai là một nhà nước Liên bang với

chính phủ trung ương mạnh, kiểm soát các lĩnh vực ngoại giao, hải quan, ngân hàng….Tầm

nhìn về tương lai Đức của hai cường quốc hoàn toàn khác nhau. Sự thất bại Hội nghị

Moskva đã cho thấy vấn đề Đức đi vào bế tắc, lập trường khác nhau,từ đây mỗi nước sẽ giải

quyết theo cách riêng của mình.

2.2.3.2. Học thuyết Truman

Ngay sau khi hội nghị Yalta kết thúc đã mở ra một triển vọng cho hòa bình sau chiến

tranh là có thể xảy ra, cùng chung sống hòa bình giữa các cường quốc. Theo như nhận định

của Thủ tướng Churchill.

Thế như trong quá trình thực hiện các thỏa thuận tại Yalta và Potsdam giữa các cường

quốc đã vấp phải những khó khăn dẫn đến quan hệ xấu đi, thiếu tin cậy lẫn nhau. Tổng thư

ký Byrnes đã phát biểu : “An ninh là mối quan tâm của mỗi quốc gia. Tuy nhiên các nổ lực

của một quốc gia để tăng cường an ninh của nó có thể đe dọa an ninh của quốc gia khác và

để cố gắng tăng cường an ninh của chính họ” [27]. Và trường hợp của Hoa Kỳ và Liên Xô

48

là điển hình, cả Liên Xô và Hoa Kỳ đều muốn tuân thủ mục tiêu chung hòa bình quốc tế sau

chiến tranh nhưng khi tiến hành lại hành động ngược lại.

Tổng thống Truman nói rằng : “Bom nguyên tử không làm thay đổi chính sách đối

ngoại cơ bản của Hoa Kỳ. Nó làm cho sự phát triển và áp dụng chính sách của chúng tôi

cấp bách hơn chúng ta có thể mơ ước 6 tháng trước”[21, 27]. Như vậy, sau chiến tranh Hoa

Kỳ cũng như tổng thống Truman theo đuổi mục tiêu hòa bình thế giới trong việc giải quyết

các vấn đề quốc tế. Nhưng việc Hoa Kỳ độc quyền vũ khí hạt nhân, tự bản thân nó đã phá

vỡ thế cân bằng quyền lực châu Âu, hòa bình thế giới khó giữ vững khi việc phát triển năng

lượng hạt nhân đang được tiến hành ở Liên Xô. Và Truman lại chủ trương không thảo luận

về quá trình sản xuất bom nguyên tử với các nước càng làm cho Stalin càng nghi ngờ.

Những bài báo cáo của G.Kennan và C.Clifford có tác động mạnh mẽ đến hoạch định

chính sách đối ngoại của Tổng thống Truman, đặc biệt ông là người không có thiện cảm với

Stalin.

Ngày 12 tháng 3 năm 1947, Tổng thống Truman phát biểu trước Quốc hội. Trong đó :

“Hoa Kỳ không cố gắng phá hủy Liên Xô nhưng muốn Liên Xô dừng việc phát triển mở

rộng quyền lực ở bất kì đâu”. Phát biểu này nhanh chóng được gọi là “Học thuyết Truman”.

Sự mở rộng quyền lực của Liên Xô mà Truman đang ám chỉ là ở Hy Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ.

Cũng trong phát biểu, Tổng thống Truman đã yêu cầu Quốc hội phê duyệt 400 triệu USD

viện trợ cho chính phủ Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ.

Từ đó Tổng thống Truman xác định chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ nhằm bảo vệ các

quốc gia từ sức ép bên ngoài :

“Đảm bảo phát triển hòa bình của các quốc gia, không có sự ép buộc…sẵn sàng giúp

đỡ những dân tộc tự do duy trì các tổ chức dân chủ và toàn vẹn quốc gia của họ chống lại

phong trào tìm cách áp đặt cho họ chế độ toàn trị….xâm lược trực tiếp hoặc gián tiếp, làm

suy yếu nền tảng hòa bình quốc tế và an ninh Hoa Kỳ….” [21, 51].

Và Tổng thống cũng đưa ra quan điểm : “Tôi tin rằng sự giúp đỡ chúng ta chủ yếu

thông qua viện trợ về kinh tế và tài chính cần thiết để ổn định kinh tế và chính trị bền vững”.

Hoa Kỳ đã nhận đảm nhiệm sứ mệnh lãnh đạo thế giới tự do, chống lại sự đe dọa của Chủ

nghĩa cộng sản, tác động đến quan hệ Liên Xô- Hoa Kỳ xấu đi nhanh chóng.

Vì thế học thuyết Truman đã bị Hunry Wallace phê phán : “Ngày 12 tháng 03 năm

1947 đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử Hoa Kỳ. Nó không phải là cuộc khủng hoảng ở

Hy Lạp mà chúng ta phải đối mặt đó là cuộc khủng hoảng của Hoa Kỳ”. Và ông dự đoán “

49

Chính sách của Truman sẽ lan truyền Chủ nghĩa Cộng sản ở châu Á và châu Âu, đây là

chính sách hoàn toàn vô ích”. Mặc dù vậy, Học thuyết Truman đã trở thành nền tảng hoạch

định chính sách đối ngoại Hoa Kỳ từ thời Tổng thống Truman cho đến đầu thập niên 1990.

“Chính sách của Truman” mà Wallace nhắc đến là chính sách viện trợ của Hoa Kỳ đối

với Hy Lap và Thổ Nhĩ Kỳ. Trong bài phát biểu, Truman đã thể hiện rõ chính sách của Hoa

Kỳ là duy trì hòa bình quốc tế bằng cách giúp đỡ các nước (nơi mà Liên Xô đang áp đặt Chế

độ Cộng sản) xây dựng chính phủ dân chủ dựa vào viện trợ của Hoa Kỳ. Truman cũng chỉ

ra những nước mà Liên Xô đã áp đặt thành công Chủ nghĩa Cộng sản như : Ba Lan,

Rumania, Bungari…từ đó ông yêu cầu Quốc hội Hoa Kỳ phê duyệt viện trợ 400 triệu USD

cho Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ, xuất phát từ tầm quan trọng của Hi Lạp, ảnh hưởng sâu sắc đối

với các quốc gia châu Âu. Do đó Truman lí giải Hoa Kỳ viện trợ là điều cần thiết để giữ gìn

trật tự ở Trung Đông trong lúc Anh đã giảm dần viện trợ cho Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ vì khó

khăn trong nước. Ông cũng lập luận rằng : “Trong chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ đã

đóng góp 341.000.000.000 cho chiến thắng. Đây là đầu tư cho thế giới tự do và hòa bình.

Sự hỗ trợ cho Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kỳ ít hơn một phần mười của đầu tư này” [37]. Đây được

xem là thử nghiệm đầu tiên của Truman nhằm ngăn chặn Cộng sản lây lan.

Như vậy, học thuyết Truman đã đẩy quan hệ Liên Xô- Hoa Kỳ đến chỗ đoạn tuyệt và

Học thuyết Truman được xem là phát động cuộc Chiến tranh lạnh giữa hai siêu cường kéo

dài phần tư thế kỉ.

2.2.3.3. Kế hoạch Marshall – Bước đầu hình thành liên minh phương Tây

của Hoa Kỳ

“Câu chuyện thần kỳ về Kế hoạch Marshall đã trở nên đầy sức thuyết phục như những

di sản lịch sử mà nó để lại. Năm 1955, nhà sử học nghiên cứu chính sách này đã ghi nhận

làm sao mà một “gợi ý” chỉ dài khoảng một đoạn của Ngoại trưởng George Marshall phát

biểu tại một lễ tốt nghiệp của Đại học Havard lại thúc đẩy sự ra đời một chương trình

“nhanh chóng phát triển thành một sự mạo hiểm mang tính quốc tế lớn và mạnh mẽ: khi

được hé lộ, nó đã trở thành vấn đề cho nhiều người”. 50 năm sau, tiếng tăm như vậy của kế

hoạch vẫn được người ta nói tới”.[10]

Đó là lời nhận xét của Phó Giáo sư lịch sử quốc tế David W. Ellwood thuộc Đại học

Bologna, Italia và là giảng viên chính tại Trung tâm Bologna thuộc Đại học Johns Hopkins.

Quả thật, không có sáng kiến nào khác của Hoa Kỳ trong giai đoạn sau năm 1945 tạo ra

nhiều sự quan tâm và nhận xét tích cực giữa các sử gia phương Tây. Chính vì những nỗ lực

50

của ông trong việc phục hồi châu Âu, Marshall đã giành được 1953 giải Nobel Hòa bình,

người lính chuyên nghiệp đầu tiên nhận được nó.

Có ba nguyên nhân dẫn tới việc hình thành một kế hoạch đặc biệt của Hoa Kỳ để giúp

đỡ Tây Âu năm 1947 :

Thứ nhất, là hậu quả để lại nặng nề của Chiến tranh thế giới thứ hai, đặt biệt là sau

mùa đông khắc nghiệt năm 1946-1947.

Thứ hai, là sự thất bại của Truman trong kế hoạch công khai giúp Hy Lạp và Thổ Nhĩ

Kỹ chống lại áp lực của Liên Xô.

Thứ ba, là những kinh nghiệm khó khăn mà Ngoại trưởng George Marshall trải qua

trong thời gian Hội nghị Ngoại trưởng tại Mát-xcơ-va về tương lai của nước Đức vào tháng

3 và tháng 4 năm 1947. Và xuất phát từ lời gợi ý của George Kennan khi Marshall sắp rời

Mát-xcơ-va : “Châu Âu là một mớ lộn xộn. Cần phải làm một điều gì đó. Nếu ông

(Marshall) không đưa ra sáng kiến, sẽ có những người khác làm vậy”[32]. Lời nhắc nhở của

Kennan đã là động lực tác động đến Marshall có sáng kiến hết sức táo bạo và hiệu quả.

Thành công của Marshall đã được Churchill gọi ông là “nhà tổ chức nên chiến thắng” và

những phẩm chất cá nhân của ông cũng như sự sắc sảo, chính trực, biết hy sinh đã làm cho

ông trở thành nhân vật có quyền lực nhất của thời đó.

Ngay sau khi Học thuyết Truman công bố, Tướng George Marshall đã đi sang châu

Âu. Ông đã bị sốc bởi những gì ông nhìn thấy. Châu Âu đã bị hủy hoại. Ông cho biết : “tất

cả các quốc gia ở châu Âu rất nghèo rằng đó là nguy biến cộng sản. Châu Âu là nơi sinh

sản của sự thù ghét” [21, 53]. Ông nói rằng nước Hoa Kỳ nên cung cấp 17 tỷ USD viện trợ

để khôi phục nền kinh tế châu Âu và ngăn chặn Cộng sản. Marshall đã công bố kế hoạch

của mình cho sinh viên tại Đại học Harvard vào ngày 05 tháng 6 năm 1947. Ông hứa rằng

Hoa Kỳ sẽ làm bất cứ điều gì nó có thể làm để hỗ trợ trong sự phục hồi kinh tế trên thế giới.

Sáng kiến này nhanh chóng trở thành kế hoạch trong nổ lực tìm kiếm liên minh phương Tây

và ngăn chặn sự lây lan Cộng sản đầu tiên của Hoa Kỳ thường được gọi là Kế hoạch

Marshall, theo tên Bộ trưởng ngoại giao Georse Marshall. Hay còn có tên gọi khác là

Chương trình Phục hồi châu Âu.

Thật ra sáng kiến này không phải thành quả riêng của Marshall mà đằng sau là sự hỗ

trợ đắc lực từ Kennan và đội ngũ nhân viên mới trong Bộ ngoại giao của ông, phụ trách lên

kế hoạch, chuẩn bị những tài liệu tổng thể mà dựa trên đó Kế hoạch Marshall đã được đề ra.

Kế hoạch Marshall được công bố thái độ của các nước phương Tây và Liên Xô phản

51

ứng như thế nào ?

Phản ứng của Anh, Pháp đối với bài phát biểu của Marshall nhanh chóng và tích cực.

Ngày 02 tháng 07năm 1947, ngoại trưởng các nước Anh, Pháp triệu tập ở Paris, hội nghị 16

nước tư bản châu Âu nhận viện trợ của Hoa Kỳ. Các đại biểu đã đưa ra con số là 28 tỷ đô la.

Truman yêu cầu Quốc hội 17 tỷ đôla và Quốc hội đã đồng ý viện trợ 13 tỷ đôla (sau khi các

mối lo ngại về sự sụp đổ của Tiệp Khắc tháng 3 năm 1948). Như vậy, các nước Tây Âu đã

tỏ thái độ ủng hộ và hưởng ứng tích cực, chỉ không đầy hai tuần, các nước đã họp bàn và

nhận viện trợ chính thức từ Hoa Kỳ, kế hoạch đã thành công bước đầu. Hoa Kỳ đã có được

liên minh kinh tế từ các nước Tây Âu. Tháng 4 năm 1948, Quốc hội Hoa Kỳ thông qua

“Đạo luật viện trợ nước ngoài” với những qui định : Các nước nhận viện trợ buộc phải ký

với Hoa Kỳ nhưng hiệp định tay đôi, phải thi hành “hết sức nhanh chóng” các chính sách

kinh tế, tài chính mà Hoa Kỳ yêu cầu, phải đảm bảo quyền lợi cho tư nhân Hoa Kỳ đầu tư

kinh doanh, phải cung cấp nguyên liệu chiến lược cho Hoa Kỳ. Ngoài ra đạo luật còn dùng

lời lẽ kín đáo buộc các nước nhận “viện trợ” phải thủ tiêu việc buôn bán với các nước xã hội

chủ nghĩa, hủy bỏ kế hoạch quốc hữu hóa và gạt các lực lượng tiến bộ ra ngoài chính phủ.

Kế hoach được thực hiện từ ngày 09 tháng 04 năm 1948 đến 31-12-1951 thì kết thúc. Kết

quả nền kinh tế của các nước nhận viện trợ được phục hồi nhanh chóng nhưng mặt khác nền

kinh tế và chính trị của các nước này bị phụ thuộc chặt chẽ vào Hoa Kỳ.

Phản ứng của Liên Xô đối với Kế hoạch Marshall đó là không tham gia và yêu cầu các

nước trong tầm ảnh hưởng cũng không tham gia. Xuất phát từ mục đích của Kế hoạch

Marshall, Stalin coi tầm nhìn của kế hoạch không phù hợp với kinh tế, chính trị của mình,

và mục tiêu chính sách đối ngoại. Stalin đã được mời nhưng nhìn thấy kế hoạch như là một

âm mưu của Hoa Kỳ để phá hoại Liên Xô, ông cấm các nước Cominform tham gia. Vào

tháng Sáu năm 1947, Liên Xô đã được mời đến Hội nghị tổ chức tại Paris, đại biểu đến từ

Pháp, Anh, và Liên Xô đã gặp nhau tại Paris để thảo luận về đề nghị của Marshall. Cuộc

triệu tập tại Paris đã trở nên nổi tiếng vì sự đến và ra đi nhanh chóng của một đoàn đại biểu

cấp cao Xô-viết do Ngoại trưởng Vyacheslav Molotov dẫn đầu. Đoàn đại biểu Liên Xô cho

rằng Hoa Kỳ và những đồng minh chủ chốt của họ đang tìm cách kiểm soát các nền kinh tế

châu Âu. Liên Xô xem kế hoạch Marshall của các nhà lãnh đạo phương Tây như là một lời

từ chối cho nổ lực ổn định sau chiến tranh, hành động Molotov đóng góp cho sự phát triển

của những căng thẳng Chiến tranh Lạnh. Trong đó Zhdanov đã nhắc lại quan điểm của GM

Malenkov, một chính trị gia của Liên Xô, nói vào năm 1947 về Kế hoạch Marshall “Các

băng đảng cầm quyền của đế quốc Mỹ đã đưa ra những con đường mở rộng, nô dịch của

52

các nước tư bản suy yếu. Nó đã ấp ủ kế hoạch chiến tranh mới chống lại Liên Xô. Bắt chước

Hitler, những kẻ xâm lược mới đang sử dụng bắt chẹt [30]. Như vậy, bằng phát biểu này đã

cho thấy quan hệ giữa hai cường quốc đã đi đến chỗ tan vỡ. Ngoài việc từ chối tham gia vào

Kế hoạch Marshall riêng của mình, Liên Xô còn ngăn cản các nước Đông Âu dưới sự kiểm

soát của nó từ chối tham gia.

Như vậy, Học thuyết Truman và Kế hoạch Marshall được đưa ra cùng năm 1947

chứng minh rằng Tây Âu đã không thể giải quyết vấn đề của họ, buộc Hoa Kỳ tăng cường

ảnh hưởng ở châu Âu. Sự ảnh hưởng của Hoa Kỳ ở Tây Âu rõ ràng rằng hai cường quốc

không thể cùng tồn tại hòa bình theo đúng như Churchill đã nhận xét sau những thỏa thuận

đạt được tại Hội nghị Yalta. Kế hoạch Marshall của Hoa Kỳ và phản ứng của Liên Xô đối

với Marshall là điều dễ hiểu vì trong khi hành động bảo vệ lợi ích, an ninh của mình thì nó

đã ảnh hưởng lợi ích, an ninh của quốc gia khác và tất yếu quốc gia ấy sẽ cũng có phản ứng

bảo vệ an ninh cho mình. Đánh dấu sự thất bại trong nổ lực tìm kiếm một nền hòa bình sau

chiến tranh, cùng chung sống hòa bình đã không thể tồn tại. Đánh dấu sự tan vỡ quan hệ

đồng minh trong chiến, quan hệ hai cường quốc đến chỗ đoạn tuyệt.

2.2.3.4 Chủ thuyết Zhanov và Cục thông tin Cộng sản

Phán ứng lại đối với “Học thuyết Truman” và “Kế hoạch Marshall”, Stalin xem hành

động đó như là một âm mưu tập hợp lực lượng Tây Âu dưới sự lãnh đạo của Hoa Kỳ và lôi

kéo Đông Âu ra khỏi ảnh hưởng của Liên Xô. Liên Xô cùng các nước XHCN và các Đảng

Cộng sản châu Âu đã xúc tiến thành lập Cơ quan thông tin cộng sản (COMINFORM) vào

tháng 10 – 1947. Đại diện của 9 Đảng Cộng sản (Liên Xô, Ba Lan, Nam Tư, Bungari,

Rumani, Hungari, Tiệp Khắc, Italia và Pháp) tham dự cuộc họp này tại Wacsava. Trưởng

đoàn Liên Xô là Zhdanov đã đọc bài phát biểu. Ông vạch rõ thế giới đã phân thành hai phe :

phe đế quốc – tư bản do Hoa Kỳ đứng đầu và phe chống đế quốc – tư bản do Liên Xô đứng

đầu. Bài phát biểu của Zhdanov được gọi là “Chủ thuyết Zhdanov” đối lập với “Học thuyết

Truman”.

Như vậy, Zhdanov đã phân định thế giới hình thành hai phe, xác định Liên Xô thuộc

phe chống đế quốc và phát xít. Chủ thuyết Zhdanov đánh dấu sự đối đầu của Liên Xô chống

lại Hoa Kỳ và đồng minh phương Tây. Thông qua hội nghị, Liên Xô đã xác định đồng minh

của mình là những nước chống đế quốc và đi theo con đường tiến bộ dân chủ như : Romani,

Hungary, Phần Lan, Inđônêxia, Việt Nam, Ấn Độ….Bằng việc đề ra “Chủ thuyết Zhdanov”

Liên Xô đã tập hợp lực lượng ủng hộ mình, trên thế giới đã hình thành một khối liên minh

53

đối đầu với Hoa Kỳ và phương Tây. Chủ thuyết Zhdanov trở thành nền tảng chính sách đối

ngoại của Liên Xô cho đến những năm 1980.

Bước đi đầu tiên của Liên Xô nhằm tập hợp lực lượng là việc thành lập cơ quan thông

tin Cộng sản có nhiệm vụ tổ chức thực hiện thông tin, trao đổi kinh nghiệm và phối hợp

hành động đấu tranh giữa các Đảng Cộng sản một cách tự nguyện. Để trao đổi thông tin, hội

nghị đã quyết định xuất bản tạp chí ở Bêôgrat bằng tiếng Pháp và tiếng Nga mang tên “Vì

một nền hòa bình vững chắc, vì nền dân chủ nhân dân”.Cục thông tin Cộng sản hay còn gọi

là Cominform được thành lập ngay tại Hội nghị ở Szklarska-Poreba (Ba Lan) ngày 5-10-

1947 với 9 nước tham gia. Đánh dấu sự liên kết chặt chẽ giữa Liên Xô và các nước đồng

minh.

Chủ thuyết Zhdanov và Cục thông tin Cộng sản ra đời đối đầu với Hoa Kỳ, đánh dấu

quan hệ Liên Xô – Hoa Kỳ đã đến chỗ đoạn tuyệt, chấm dứt quan hệ đồng minh thời chiến

chuyển sang quan hệ đối đầu, sự kình địch lẫn nhau giữa hai cường quốc đại diện hai phe :

phe tư bản chủ nghĩa và phe xã hội chủ nghĩa. Hình thành nên cục diện “Chiến tranh lạnh”

không nổ súng nhưng hai cường quốc luôn trong tình trạng chạy đua vũ trang sẵn sàng

chiến tranh.

Tiểu kết chương 2

Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc với sự thất bại hoàn toàn của Chủ nghĩa phát xít,

đồng nghĩa với việc Liên Xô và Hoa Kỳ đã hòa thành tốt vai trò đồng minh thời chiến.

Nhưng không có nghĩa hai siêu cường sẽ cùng tồn tại hòa bình sau chiến tranh. Bom nguyên

tử đóng vai trò kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai nhưng nó lại báo hiệu một cuộc chiến

tranh mới bắt đầu. Đến năm 1945 nó đã rõ ràng rằng họ có tầm nhìn mâu thuẩn nhau cho

những gì mà thế giới sau chiến tranh theo đuổi vì mục tiêu hòa bình. Bom nguyên tử làm

thay đổi thái độ của lãnh đạo hai cường và góp phần đẩy nhanh kế hoạch chế tạo vũ khí hạt

nhân của Liên Xô, tạo ra cục diện lưỡng cực.

Nguồn gốc Chiến tranh lạnh được xem là nằm trực tiếp trong mối quan hệ Liên Xô và

Hoa Kỳ trong những năm 1945-1947. Trước đó quan hệ giữa hai cường quốc chẳng bao giờ

là êm dịu. Sau chiến tranh quan hệ đồng minh bắt đầu tan vỡ chuyển sang quan hệ đối đầu.

Hitler đã bị tiêu diệt, một khoảng trống quyền lực đã hình thành ở châu Âu, mà cả hai siêu

cường đều có khả năng lấp đầy khoảng trống đó. Mục tiêu hòa bình quốc tế được các nước

theo đuổi sau chiến tranh thế giới thứ hai. Nhưng khi cố gắng lấp đầy khoảng trống đó

54

không tránh khỏi sự đụng chạm quyền lợi của nhau. Vấn đề lợi ích quốc gia và an ninh sau

chiến tranh là nguyên nhân dẫn đến sự bất đồng hai cường quốc trong các hội nghị tổ chức

trong và sau chiến tranh. Đặc biệt, vấn đề Đức trở thành vấn đề trung tâm trong các Hội

nghị Ngoại trưởng tổ chức sau chiến tranh. Trải qua nhiều hội nghị, bất chấp nổ lực của mỗi

bên nhưng vấn đề Đức đã đi vào bế tắc. Cho thấy Hoa Kỳ giữ độc quyền vũ khí hạt nhân

nhưng không dễ dàng trong việc giành ưu thế về cho mình. Vốn dĩ tình thế sau chiến tranh

đã buộc hai siêu cường phải kình địch nhau dọc biên giới các vùng chiếm đóng. Họ đại diện

cho hai lối sống khác nhau, chống đối nhau. Sau chiến tranh Stalin mở rộng quyền lực ở

Đông Âu. Hoa Kỳ cho rằng hành động đó vi phạm điều cam kết ở Hội nghị Yalta và

Potsdam. Ngay lập tức Hoa Kỳ đề ra chính sách “ngăn chặn sự lây lan của Cộng sản”. Học

thuyết Truman năm 1947 đã phát động chiến tranh, ngay sau đó Hoa Kỳ tìm kiếm liên minh

phương Tây thông qua kế hoạch Marshall. Đáp lại hành động của Hoa Kỳ, Liên Xô đề ra

Chủ thuyết Zhdanov và cũng tìm kiếm đồng minh thông qua thành lập Cục thông tin Cộng

sản.

Nhận thấy an ninh và lợi ích quốc gia bị đe dọa, cả hai đã tăng cường biện pháp nhằm

bảo vệ an ninh và lợi ích của nhau, tạo ra tình trạng không thể kiểm soát và chiến tranh là số

phận không thể tránh khỏi. Đó là lí do Hoa Kỳ bãi bỏ chính sách biệt lập và tăng cường ảnh

hưởng châu Âu. Nhưng thực tế sau chiến tranh Stalin chỉ mở rộng ảnh hưởng ở Đông Âu.

Trong khi đó Hoa Kỳ đã gây ảnh hưởng ở Tây Âu và sở hữu vũ khí hạt nhân.

Tổng thống Truman được coi là “một người mới” trong ngoại giao. Chính vì thế trong

chính sách đối ngoại, Truman hoàn toàn tin tưởng vào các cố vấn. Giới cầm quyền của Hoa

Kỳ coi Đảng Cộng sản của các nước là tay sai của Mátxcơva. Nghiêm trọng hơn là không ít

những cố vấn trong chính phủ Hoa Kỳ cho rằng Liên Xô có kế hoạch tấn công quân sự Tây

Âu, đe dọa an ninh chính trị của Hoa Kỳ, và Hoa Kỳ phải đóng vai trò ngăn chặn sự lây lan

của Cộng sản, tiêu biểu báo cáo của George Kennan.

Stalin luôn ngờ vực âm mưu xâm lược của Hoa Kỳ cùng đồng minh từ phía Tây. Đặc

biệt là sau khi Hoa Kỳ ném bom Nhật Bản, Stalin đã cho rằng hành động đó là nhằm vào

Liên Xô. Kế hoạch Marshall được Stalin nhìn nhận là tập hợp lực lượng để tiêu diệt Liên

Xô. Ngay lập tức Stalin đã có những chính sách nhằm bảo vệ an ninh quốc gia và xây dựng

sức mạnh nhằm chống lại Hoa Kỳ và phương Tây. Đến năm 1946, nhận thức của lãnh đạo

hai nước Liên Xô – Hoa Kỳ đối với đối phương đã hình thành một định thức, đều coi bên

kia là kẻ thù chủ yếu của mình. Mặt khác, phương thức xử lý ngoại giao và chiến lược của

55

những người lãnh đạo Liên Xô và Hoa Kỳ trên một góc độ nhất định đã làm tăng thêm quan

hệ căng thẳng giữa hai nước dẫn đến quan hệ đồng minh tan vỡ vào năm 1947.

56

CHƯƠNG 3: NGUỒN GỐC CHIẾN TRANH LẠNH (2): SỰ HÌNH

THÀNH HAI HỆ THỐNG ĐỐI ĐẦU XHCN VÀ TBCN (1948-1950)

3.1. Tình hình châu Âu những năm 1948-1950

Những năm đầu sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tình hình châu Âu có nhiều chuyển

biến phức tạp. Thứ nhất đó là châu Âu phải gánh chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, kinh

tế bị suy sụp nghiêm trọng. Thứ hai đó là khoảng trống quyền lực đã hình thành ở châu Âu,

sau khi phát xít Đức bị tiêu diệt. Châu Âu chứng kiến sự quay trở lại tranh giành ảnh hưởng

của hai siêu cường Liên Xô và Hoa Kỳ, hình thành cục diện Chiến tranh lạnh mà trung tâm

của cuộc chiến là ở châu Âu. Lợi dụng tình hình châu Âu vừa bước ra khỏi cuộc chiến, Liên

Xô và Hoa Kỳ nhảy vào châu Âu với mục đích giúp đỡ các nước khôi phục đất nước và gây

ảnh hưởng ở đây, tạo nên tình thế giằng co giữa Đông và Tây Âu.

Bước sang 1948 – 1950, tình hình châu Âu có nhiều thay đổi đáng kể, do tác động

của quan hệ đối đầu giữa hai cường quốc Liên Xô- Hoa Kỳ ở châu Âu. Đến năm 1948

không đơn thuần là sự đối đầu giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, mà đó là sự đối đầu giữa hệ thống

XHCN (Liên Xô) và hệ thống TBCN (Hoa Kỳ). Cả hai cường quốc đã lôi kéo các nước

châu Âu vào cuộc chiến tranh mới.

Với kế hoạch Marshall, Hoa Kỳ đã giúp các nước Tây Âu bước vào giai đoạn khôi

phục kinh tế nhưng ngày càng lệ thuộc vào Hoa Kỳ. Kinh tế Tây Âu đã có biểu hiện khôi

phục : sự gia tăng gần ¼ tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ từ năm 1947 đến 1949, chỉ số

sản xuất tổng thể đã tăng lên 115 vào năm 1949 so với 77 vào năm 1946 và 87 năm 1947.

Nông nghiệp cũng đã phục hồi và có những tiến bộ trong việc chống lạm phát. Ngoại

thương của các quốc gia được viện trợ đã bằng với mức trước chiến tranh. Đến cuối năm

1949, sự nhìn nhận của các quốc gia Tây Âu về kế hoạch Marshall đã có sự khác biệt. Các

quốc gia Tây Âu rất cần vốn viện trợ từ Marshall, nhưng đồng thời họ cũng cố gắng tránh lệ

thuộc lâu dài vào Hoa Kỳ và nhằm phục vụ cho mục đích của Hoa Kỳ. Kết quả Hoa Kỳ đã

lôi kéo các nước Tây Âu trở thành liên minh kinh tế đối phó với Liên Xô. Đồng thời liên kết

các nước Tây Âu vào tổ chức quân sự Nato.

Trong khi đó Đông Âu dưới sự giúp đỡ của Liên Xô đã thành lập chính quyền và

bước vào khôi phục đất nước bằng việc thành lập Hội đồng tượng trợ kinh tế. Kết quả hệ

thống xã hội chủ nghĩa phát triển mạnh mẽ khắp châu Âu và châu Á, đủ khả năng đối đầu

với Hoa Kỳ.

57

Tình hình châu Âu nổi lên vấn đề Đức vẫn đi vào bế tắc, Đức là trung tâm của cuộc

Chiến tranh lạnh ở châu Âu. Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều muốn lôi kéo sức mạnh từ Đức, kết

quả Đức bị phân thành hai nhà nước ngăn cách bởi bức tường Berlin. Sự chia cắt nước Đức

trong năm 1949 không những ảnh hưởng nước Đức mà còn ảnh hưởng đến toàn bộ châu Âu,

làm cho châu Âu luôn trong tình trạng căng thẳng, đối đầu, xung đột và chạy đua vũ trang

giữa hai cường quốc.

3.2. Cầu không vận Berlin và quá trình thành lập hai nhà nước Đức

3.2.1. Cầu không vận Berlin

Với vị trí quan trọng trong chiến lược của các siêu cường nên vấn đề Đức trở thành

vấn đề trung tâm ở châu Âu. Cả Liên Xô và Hoa Kỳ trong quá trình chiếm đóng đều muốn

có được sức mạnh của Đức. Đó là lí do hai siêu cường không tìm thấy tiếng nói chung tại

các Hội nghị Tứ cường tổ chức tại London và Moskva. Hội nghị Tứ cường tổ chức tại

London từ ngày 02-11 đến ngày 15 – 12 -1947 đã đánh dấu sự thất bại hoàn toàn trong việc

thống nhất nước Đức, cơ hội cuối cùng để giải quyết vấn đề Đức bị bỏ qua, khi chính phủ

hai siêu cường vẫn giữ vững lập trường, quan điểm về một nước Đức thống nhất. Bất đồng

giữa hai cường quốc đã làm cho vấn đề Đức đi vào bế tắc và mỗi nước hành động theo cách

riêng của mình, tạo nên tình trạng đối đầu.

Ngày 24-6-1948, Liên Xô thiết lập lệnh phong toả Berlin bằng cách chặn tất cả các

đường giao thông đường bộ, đường sắt nối liền Berlin khiến cho phần đất dưới sự kiểm soát

của Hoa Kỳ, Anh, Pháp bị cô lập với các nguồn tiếp tế. Cuộc phong toả Berlin đã dẫn đến

quyết định của ba nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp lập ra cầu hàng không Berlin có quy mô nhất

lúc bấy giờ để tiếp tế cho cư dân Tây Berlin. Điều này, thể hiện các cường quốc đã gặp phải

khó khăn trong quá trình thực hiện thỏa thuận tại Hội nghị Yalta và Potsdam xung quanh

vấn đề Đức. Đây được xem là cuộc khủng hoảng Berlin lần thứ nhất, và việc Hoa Kỳ, Anh,

Pháp thiết lập cầu không vận tiếp tế cho Berlin không đơn thuần là tiếp tế cho cư dân Tây

Berlin. Nó thể hiện bước đi tiếp theo của các nước phương Tây nhằm củng cố vững chắc

liên minh phương Tây, lôi kéo Tây Đức đối phó với Liên Xô.

Vậy tại sao Liên Xô tiến hành phong tỏa Berlin ?

Thứ nhất, Căng thẳng giữa Đông và Tây Berlin cùng với việc Hoa Kỳ, Anh, Pháp

không thực hiện những điều cam kết tại Hội nghị Potsdam, dung túng, nuôi dưỡng lực

lượng quân phiệt, phát xít, phục hồi dưới hình thức che đậy, những quyết định về việc Đức

58

bồi thường chiến tranh không được thực hiện…Ngược lại, Hoa Kỳ và Anh muốn hợp nhất

tạo ra ưu thế với phần còn lại của Liên Xô trong thành phố Berlin. Ngày 2 tháng 12 năm

1946 tại Oasinhton đã kí kết hiệp nghị về việc thống nhất kinh tế và hành chính hai khu vực

do Hoa Kỳ và Anh chiếm đóng. Hiệp nghị còn qui định việc phát triển tiềm lực kinh tế Đức

để mở rộng sản xuất, phục vụ chiến tranh và phục hồi chủ nghĩa quân phiệt Đức. Trong khi

Liên Xô muốn kiềm chế nước Đức.

Thứ hai, bắt đầu từ cuộc cải cách tiền tệ của Đức năm 1948. Do có quan điểm khác

nhau giữa Liên Xô và Hoa Kỳ, Anh, Pháp về việc điều hành một nước Đức thống nhất trong

tương lai. Ngày 7 tháng 3 năm 1948, Hội nghị London giữa 3 nước phương Tây đưa ra nghị

quyết hợp nhất ba vùng chiếm đóng phía Tây thành một chính quyền liên bang độc lập.

Sau đó tiến hành cải cách tiền tệ của Đức trong vùng cai quản của đồng minh Hoa Kỳ,

Anh, Pháp vào ngày 18 tháng 6 năm 1948, phần phía Tây Berlin và Tây Đức bắt đầu sử

dụng đồng Mark làm đơn vị tiền tệ chung. Và Liên Xô phản ứng bằng cách ngày 22 tháng 6

năm 1948, vùng nước Đức nằm trong vòng kiểm soát của Liên Xô cũng tổ chức cuộc cải

cách tiền tệ để ngăn chặn những đồng tiền Mark cũ từ phía Tây đang tràn sang Đông Đức và

Đông Berlin. Liên Xô tuyên bố toàn thể Berlin cũng chịu ảnh hưởng của sự cải tổ này. Đồng

Minh phản đối ngay lập tức bằng cách đưa đồng tiền Tây Đức vào Tây Berlin sử dụng.

Có thể nói sự kiện cải cách tiền tệ Đức 1948, mở màn cho cuộc phong tỏa Berlin. Tuy

nhiên cách thực hiện không đồng nhất của đồng minh trong vấn đề cải cách chỉ là một cái

cớ để Liên Xô có những biện pháp tiếp theo dẫn đến sự phong tỏa Berlin. Năm 1948, Stalin

muốn giành toàn bộ thành phố này cho Đông Đức nên đã ra lệnh phong tỏa tất cả đường bộ

từ phía Tây Đức đến Berlin. Mục tiêu của cuộc phong tỏa là buộc các cường quốc phương

Tây phải để cho khu vực Đông Đức do Liên Xô kiểm soát bắt đầu tiếp tế thực phẩm và

nhiên liệu cho Berlin, rồi từng bước đặt quyền kiểm soát thực sự của Liên Xô đối với thành

phố này.

Trong lá thư của Đại sứ Liên Xô tại Hoa Kỳ Alexander S. Payushkin gửi Ngoại trưởng

Hoa Kỳ đã giải thích hành động Liên Xô tiến hành phong tỏa Berlin vì chính phủ Hoa Kỳ,

Anh, Pháp đã vi phạm những thỏa thuận tại Potsdam về vấn đề Đức :

“Chính phủ Xô viết không thể đồng ý với tuyên bố này và cho rằng tình hình được tạo

ra ở Berlin là kết quả chính phủ Hoa Kỳ, Anh, Pháp đã vi phạm quyết định liên quan đến

Đức và Berlin, đặc biệt là tiền tệ…Bộ tư lệnh Liên Xô buộc áp dụng một số biện pháp cấp

bách để bảo vệ lợi ích của dân Đức và nền kinh tế do Liên Xô kiểm soát….” [44, 3]

59

Ngày 24-6-1948, Liên Xô thiết lập lệnh phong toả Berlin. Liên Xô đã ra lệnh ngưng

vận chuyển hành khách và hàng hóa trên đoạn đường sắt Helmstedt-Berlin duy nhất nối liền

Berlin với lý do " trở ngại kỹthuật", ngưng cung cấp điện từ các nhà máy điện chung quanh

cho Berlin vì "thiếu than", đồng thời tàu thủy cũng bị neo lại. Berlin như một ốc đảo với

hơn 2 triệu người giờ bị cô lập hoàn toàn, hầu như không còn bánh mì, thịt, sữa... là những

thứ căn bản để sống còn. Chỉ còn con đường duy nhất tiếp tế bằng đường hàng không.

Chính phủ các cường quốc phương Tây đã tính đến phản ứng của việc cải cách tiền tệ

trên nước Đức nhưng không nghĩ đến việc Liên Xô sẽ phong tỏa Berlin. Phương Tây đứng

trước hai lựa chọn: hoặc từ bỏ Tây Berlin hoặc ở lại Berlin. Và Hoa Kỳ cùng các nước

phương Tây đã chọn cách ở lại Berlin bằng “Cầu không vận”, thực hiện trong thời gian dài.

Ngay ngày 24-6-1948 một cầu hàng không được thiết lập do Hoa Kỳ đóng vai trò

nòng cốt được thiết lập mang bí danh là "Chiến dịch Carton Parteson". Ngay sau đó những

chiếc phi cơ đầu tiên bắt đầu đáp xuống mang theo sự sống đến Berlin. Bên cạnh các phi

công Anh, Hoa Kỳ còn có các phi công của các nước Úc, Canada và...Nam Phi. Không quân

Pháp không trực tiếp tham dự nhiều vì lúc đó nước Pháp đang bận rộn với cuộc chiến tranh

tại Đông Dương. Mỗi ngày có đến gần 900 chuyến bay chuyên chở lương thực, nhu yếu

phẩm. Ngoài thực phẩm như sữa bột, khoai tây khô và bột mì... chủ yếu là than để đốt sưởi

và xăng cho máy phát điện cũng như thuốc men và những thứ cần thiết khác…. cho gần 2

triệu dân ở khu vực Tây Berlin và cho đạo quân chiếm đóng của ba nước phương Tây tiêu

tốn hết 200 triệu USD trong vòng 11 tháng.

Cầu không vận Berlin đã được nhiều nước hưởng ứng và tham gia qua đó giành thắng

lợi, thể hiện sự liên minh của phương Tây và các nước nhằm lôi kéo Tây Đức chống Liên

Xô. Cuộc không vận kéo dài gần một năm cho đến khi Liên Xô từ bỏ ý định phong tỏa ngày

12 tháng 5 năm 1949. Vào thời điểm ấy, tương quan trên bộ quân đội phương Tây không đủ

sức so với quân Xô Viết có mặt tại chỗ nhưng Hoa Kỳ đang có trong tay vũ khí nguyên tử

nên cuối cùng hai bên phải thoả hiệp với nhau.

Cầu không vận Berlin cho thấy sức mạnh về ý chí của Hoa Kỳ và Đồng Minh cũng

như tinh thần chịu đựng của người dân Berlin đã góp phần chiến thắng. Kết quả của cầu

không vận không phải chỉ đơn thuần là tiếp tế khoai tây và than đốt. Nó còn ý nghĩa nhằm

mục đích tuyên truyền cho phương Tây chống lại Chủ nghĩa Cộng sản do Liên Xô đứng đầu

trong gian đoạn khởi đầu cuộc Chiến tranh lạnh. Qua đó nhằm tìm kiếm, củng cố liên minh

phương Tây và đối phó với Liên Xô. Đây được xem là cuộc khủng hoảng Beclin đầu tiên,

60

đối đầu giữa Liên Xô và Hoa Kỳ nhưng cả hai cường quốc đã tránh không xảy ra cuộc chiến

tranh bằng vũ lực.

3.2.2. Quá trình thành lập hai nhà nước Đức

Năm 1949 đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử nước Đức, với việc ra đời hai nhà nước :

CHLB Đức (4-1949) và CHDC Đức ( 5-1949). Hai nhà nước Đức thành lập chứng tỏ vấn đề

thống nhất Đức đã đi vào bế tắc, dẫn đến hành động riêng rẽ của hai siêu cường nhằm đối

đầu nhau.

Ngày 12 tháng 05 năm 1949 Liên Xô ra lệnh gỡ bỏ phong tỏ Berlin, với điều kiện là

Hội đồng Ngoại trưởng phải họp để tiếp tục xem xét vấn đề Đức, vốn dĩ trước đó đã bế tắc.

Như vậy triển vọng cho nước Đức thống nhất đã mở ra.

Ngay lập tức Hội nghị Tứ cường được tổ chức tại Paris từ ngày 23 tháng 05 đến ngày

20 tháng 06 năm 1949. Với sự tham dự của 4 Ngoại trưởng là DeanAcheson (Hoa Kỳ),

Vyshinski(Liên Xô), Robert Schuman (Pháp) và Bevin (Anh). Các Ngoại trưởng đã tranh

luận về những vấn đề cũ, chủ yếu là vấn đề thống nhất nước Đức. Trong đó Liên Xô và Hoa

Kỳ, Anh vẫn giữ nguyên lập trường. Phía Hoa Kỳ đề nghị đưa vùng Đông Đức tham gia vào

thiết chế nhà nước mà họ đang xúc tiến xây dựng ở Tây Đức. Riêng việc hợp nhất Berlin họ

đưa ra dự án tổ chức tuyển cử tự do ở cả 4 khu chiếm đóng để thành lập chính quyền chung

của thành phố. Đồng thời khôi phục Hội đồng Kiểm soát Đồng minh nhằm kiểm soát chính

quyền này. Những mong muốn này đương nhiên Liên Xô không chấp nhận. Trái lại, Liên

Xô muốn giữ nguyên hiện trạng nước Đức, xúc tiến soạn thảo và kí hòa ước với Đức. Điều

thay đổi là trước đây Pháp giữ lập trường riêng nhưng giờ đây Pháp cùng chung tiếng nói

với Hoa Kỳ và Anh.

Cả bốn cường quốc gặp nhau nhằm giải quyết vấn đề thống nhất Đức nhưng vẫn giữ

nguyên lập trường như cũ, kết thúc cuộc họp các cường quốc vẫn không đạt thỏa thuận nào

về vấn đề Đức. Như vậy nổ lực các cường quốc nhằm thống nhất Đức đã thất bại. Rõ ràng

mặc dù Hoa Kỳ nắm trong tay độc quyền vũ khí hạt nhân, nhưng cũng gặp khó khăn khi

giành lợi thế về cho mình, cho thấy bom nguyên tử cũng không làm thay thái độ cứng rắn

của Stalin.

Vấn đề Đức kéo dài, qua nhiều Hội nghị Ngoại trưởng được tổ chức ở Moskva,

London, Paris ngay sau chiến tranh kết thúc cho đến tháng 06 năm 1949. Nhưng các cường

quốc vẫn không tìm thấy tiếng nói chung, dù các nước đã nổ lực gặp nhau. Và từ sau Hội

nghị Tứ cường họp ở Paris mỗi bên quyết định hành động theo cách riêng của mình.

61

Ở Tây Đức, ngày 08 thàng 04 năm 1949 tại Washington, Hoa Kỳ, Anh và Pháp đã kí

hiệp định quan trọng trong đó qui định quyền hạn của chính phủ Đức tương lai, quyền tối

cao của ba cường quốc đối với chính phủ này, việc kiểm soát vùng Ruhr…Ngày 8 tháng 5

thông qua Hiến Pháp thành lập nước Cộng hòa Liên Bang Đức trên cơ sở sáp nhập lãnh thổ

ba vùng chiếm đóng của các nước phương Tây. Ngày 12 tháng 09 Giáo sư Theodore Heuss

( Đảng Tự do) được bầu làm Tổng thống CHLB Đức. Như vậy trong khi Hội nghị Tứ cường

vẫn diễn ra nhằm giải quyết vấn đề thống nhất Đức thì các nước phương Tây đã có những

hành động riêng rẽ chuẩn bị thành lập Cộng hòa Liên Bang Đức. Cho thấy Hoa Kỳ cùng

đồng minh không có ý định về tương lai nước Đức thống nhất.

Đáp lại hành động của các nước phương Tây, ngay lập tức trên vùng Đông Đức nước

Cộng hòa Dân chủ Đức được thành lập. Lãnh tụ Đảng Xã hội Thống nhất Đức Otto

Grotewohl được cử làm Thủ tướng.

Việc ra đời hai nhà nước Đức vốn dĩ đó không phải là nguyện vọng của người dân

Đức. Hay nói đúng hơn đó là tham vọng của hai siêu cường nhằm mục đích lôi kéo nước

Đức về phía mình. Hậu quả Đức bị chia cắt, biểu tượng Chiến tranh lạnh đã hình thành ở

châu Âu. Rõ ràng mặc dù Hoa Kỷ nắm trong tay độc quyền vũ khí hạt nhân, nhưng cũng

gặp khó khăn khi giành lợi thế về cho mình, cho thấy bom nguyên tử cũng không làm thay

thái độ cứng rắn của Stalin.

3.3. Nổ lực cân bằng quyền lực của Liên Xô ở Châu Âu

3.3.1. Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV)

Cùng với Cục thông tin Cộng sản, Liên Xô tiến tới thành lập Hội đồng tương trợ kinh

tế gồm Liên Xô và 5 nước Đông Âu nhằm tạo sự gắn kết giữa các nước.

Hội đồng Tương trợ Kinh tế được thành lập ngày 8-1-1949 được xem là phản ứng của

Stalin trước việc Hoa Kỳ đề ra kế hoạch Marshall. Stalin cho rằng người Hoa Kỳ và những

đồng minh chủ chốt của họ đang tìm cách kiểm soát các nền kinh tế châu Âu, kế hoạch đó

được xem là âm mưu của Hoa Kỳ nhằm phá hoại Liên Xô. Hoa Kỳ đã xây dựng Tây Âu

thành liên minh kinh tế vững chắc, và Liên Xô đang cố gắng xây dựng Đông Âu trở thành

chỗ dựa, liên minh vững chắc đối phó với Hoa Kỳ.

Hội đồng tương trợ kinh tế (hay còn gọi là COMECON) được thành lập với ý nghĩa

đó, là một tổ chức kinh tế được thành lập ngày 8-1-1949 tại Moskva với sự tham gia của 6

nước gồm : Liên Xô, Ba Lan, Tiệp Khắc, Hungary, Romani, Bulgaria. Albania gia nhập một

62

tháng sau đó (2-1949) và Đông Đức vào năm 1950.

Mục đích của COMECON là thực hiện hợp tác kinh tế XHCN có kế hoạch, thúc đẩy

sự tiến bộ khoa học kỹ thuật, phân công sản xuất giữa các nước thành viên, giảm dần mức

chênh lệch về trình độ phát triển giữa các nước thành viên…..trao đổi kinh nghiệm về

phương diện kinh tế, giúp đỡ lẫn nhau về kỹ thuật, nguyên liệu, thực phẩm, máy móc, thiết

bị….Như vậy, Hội đồng tương trợ kinh tế chỉ nằm trong giới hạn 5 nước Đông Âu. Được áp

dụng cho tất cả các hoạt động đa phương liên quan đến các thành viên của tổ chức, chứ

không phải bị hạn chế các chức năng trực tiếp của COMECON và các cơ quan của nó. Việc

áp dụng này đã được mở rộng bằng quan hệ song phương giữa các thành viên.

Trong thời gian ngắn hoạt động COMECON đã để lại một di sản là nguyên tắc Sofia,

được thông qua tại phiên họp tháng 8 năm 1949 tại Bulgaria. Nguyên tắc này hoàn toàn làm

suy yếu quyền sở hữu trí tuệ, làm cho công nghệ của mỗi nước có sẵn cho những nước khác

sử dụng với giá danh nghĩa đã ít hơn bao gồm chi phí tài liệu hướng dẫn. Đương nhiên, làm

lợi cho các nước COMECON ít phát triển công nghiệp, và đặc biệt là Liên Xô công nghệ tụt

hậu.

Như vậy, trên thế giới đã xuất hiện hai khối kinh tế đối lập nhau: khối kinh tế của các

nước XHCN (SEV) với thị trường riêng của nó và khối kinh tế TBCN.

3.3.2. Liên Xô phát triển bom nguyên tử

Năm 1949, Liên Xô thử nghiệm thành công bom nguyên tử, sức mạnh của quả bom

Liên Xô chế tạo tương đương với quả bom Hoa Kỳ ném tại Hiroshima. Như vậy Liên Xô đã

phá thế độc quyền bom nguyên tử của Hoa Kỳ. Việc Liên Xô chế tạo thành công bom

nguyên tử đã là một bất ngờ đối với Hoa Kỳ, góp phần tạo ra một thế giới hạt nhân lưỡng

cực trong và sau năm 1949.

Không phải đợi đến khi Chiến tranh thế giới thứ hai sắp kết thúc, các nước mới tiến

hành chế tạo vũ khí có sức mạnh hủy diệt. Kế hoạch chế tạo bom nguyên tử đã được hai

cường quốc biết đến trước khi Chiến tranh thế giới thứ hai xảy ra. Và ngay sau Chiến tranh

thế giới thứ hai kết thúc báo hiệu một cuộc chiến tranh mới sắp bắt đầu, cuộc Chiến tranh

lạnh đã gắn bó chặt chẽ với sự phát triển của quả bom nguyên tử và việc sử dụng nó như là

một răn đe quân sự, chạy đua vũ trang giữa hai siêu cường quốc.

Hoa Kỳ là nước thử nghiệm thành công bom nguyên tử đầu tiên nhưng Hoa Kỳ không

phải là nước đầu tiên khám phá ra sức mạnh hủy diệt của bom nguyên tử, việc phát hiện ra

loại vũ khí mới này lại xuất phát từ nước Đức phát xít vào năm 1938. Các nhà vật lý Đức đã

63

phát hiện ra rằng các nguyên tử uranium trải qua phân hạch khi bắn phá bởi neutron. Họ

nhận thấy rằng phân hạch này kích hoạt một phản ứng tự duy trì nguyên tử có thể giải

phóng một lượng năng lượng khổng lồ. Khám phá của họ có tiềm năng đáng kể cho sự phát

triển của một vũ khí mới mạnh mẽ. Do kết quả thu được đáng kể từ tham vọng bành trướng

đã chiếm hết thời gian để Đức bỏ qua cơ hội sở hữu vũ khí hủy diệt.

Năm 1939, một nhóm các nhà khoa học châu Âu lưu vong ở Hoa Kỳ đã xác minh khả

năng của một phản ứng hạt nhân dây chuyền. Lo sợ trước nguy cơ Đức sở hữu vũ khí hủy

diệt và để nhanh chóng kết thúc chiến tranh, Hoa Kỳ đã triển khai Dự án Manhattan, nghiên

cứu chế tạo bom nguyên tử với sự tham gia của Anh và Canada. Do phần lớn uranium chủ

yếu lấy từ Canada. Ngày 16 tháng 7 năm 1945, quả bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới

được thử nghiệm thành công trong sa mạc thuộc bang New Mexico. Quyết định của người

kế nhiệm Tổng thống Roosevelt Harry S. Truman (1884-1972) sử dụng bom nguyên tử

trong cuộc xung đột quân sự với Nhật Bản đã chứng minh sức mạnh hủy diệt của vũ khí hạt

nhân với thế giới.

Các cuộc tấn công hạt nhân vào Nhật Bản và bí mật xung quanh sự phát triển của quả

bom làm tăng thêm căng thẳng giữa Hoa Kỳ và Liên Xô. Cả Tổng thống Roosevelt cũng

như Truman đã không sẵn sàng chia sẻ thông tin về bom với Liên Xô. Kêu gọi các nhà khoa

học Hoa Kỳ thông báo cho Stalin rằng nghiên cứu mới đã được bỏ qua. Thay vào đó, Tổng

thống Truman đã tìm cách sử dụng độc quyền nguyên tử như là đòn bẩy trong cuộc xung

đột ngày càng tồi tệ.

Thật ra, các nhà khoa học Liên Xô đã học được Dự án Manhattan của Hoa Kỳ trong

Thế chiến II thông qua hoạt động tình báo. Chính vì thế, mà hoạt động tình báo được

Molotov đánh giá cao : “ Đó là một hoạt động tình báo hiệu quả được thực hiện bởi những

người gián điệp của chúng tôi…Họ hình như đã đanh cắp được thứ chúng tôi cần”[14,142].

Tuy nhiên dựa vào kế hoạch của Hoa Kỳ, Liên Xô đã tiến hành dự án nghiên cứu về vũ khí

hạt nhân của riêng mình. Họ đã sử dụng kế hoạch chi tiết mà các điệp viên Liên Xô đã cung

cấp cho họ. Trong số đó là nhà vật lý Klaus Fuchs sinh ra ở Đức (1911-1988) đặc biệt cung

cấp thông tin tình báo quan trọng. Ngay từ năm 1941, khi làm việc về chương trình hạt nhân

của Vương quốc Anh, Fuchs bắt đầu thông tin mật chuyển tiếp sang Liên Xô. Sau đó làm

việc trong Dự án Manhattan, ông đã cung cấp cho các nhà khoa học Liên Xô mọi khía cạnh

nghiên cứu của dự án.

Ngay sau đó các nhà lãnh đạo Liên Xô lên kế hoạch chế tạo bom nguyên tử, nhưng

64

nhanh chóng bị hoãn lại do cuộc tấn công của Đức Quốc xã vào tháng 06 năm 1941. Và do

đó cũng làm cho các nhà vật lý Liên Xô không thể chú tâm vào công việc mà vốn dĩ có thể

đem lại sức mạnh quân sự đáng kể.

Những nằm tiếp sau,công việc chế tạo bom nguyên tử trở nên khó khăn hơn đối với

các nhà vật lý Liên Xô. Có thể kể đến những khó khăn mà Liên Xô gặp phải khi tiến hành

công việc :

Thứ nhất, khi bắt đầu tiến hành chế tạo, Liên Xô đã gặp phải khó khăn mà Hoa Kỳ

trước đó đối mặt là sự thiếu hụt uranium. Sự thiếu hụt uranium đã kéo dài cho đến khi Hồng

quân Liên Xô đến Tiệp Khắc và Đông Đức. Nơi được xem là có nhiều uranium.

Thứ hai, sự hiểu biết về vũ khí mới còn hạn chế của các nhà khoa học Liên Xô. Ngay

cả Molotov người được giao nhiệm vụ đầu tiên nghiên cứu về hạt nhân cũng có rất ít sự

hiểu biết. Người tiếp sau là Beria, cũng thật sự chưa am hiểu hết những gì đang làm. Điều

đó thể hiện ở sự thiếu tin tưởng các báo cáo do tình báo cung cấp : “Nếu đây là những thông

tin sai lệch thì tôi sẽ nhét tất cả các anh xuống hầm.”[14,143]

Thứ ba, sau ngày 6-8-1945, công việc chế tạo bom nguyên tử của Liên Xô được thúc

đẩy nhanh chóng. Xuất phát từ nhận định của Stalin, quả bom đe dọa an ninh Liên Xô. Tuy

nhiên sau chiến tranh Liên Xô gánh chịu tổn thất nặng nề nhất, điều đó góp phần làm cho

công việc chế tạo bom không được tiến triển nhanh chóng

Vượt lên trên những khó khăn phải đối mặt, ngày 29 tháng 08 năm 1949 Liên Xô đã

thử nghiệm thành công bom nguyên tử. Trên cơ sở dựa trên dự án của Hoa Kỳ và Liên Xô

đã tiến hành dự án nghiên cứu về vũ khí hạt nhân của riêng mình. Việc Liên Xô chế tạo bom

nguyên tử, khi thấy rõ ràng là Hoa Kỳ đã có bom nguyên tử.

Cả Hoa Kỳ và Liên Xô đều có sự hiểu biết nhất định về kế hoạch chế tạo vũ khí hạt

nhân của nhau. Nhưng lãnh đạo hai siêu cường đã không thể dự đoán chính xác thời gian

hoàn thành công việc và sử dụng chúng của đối phương. Và chẳng ai biết họ sẽ làm gì và sử

dụng với mục đích nào khi sở hữu vũ khí hủy diệt.

Bom nguyên tử được sử dụng năm 1945, như các chính trị gia nhận định nó sẽ làm

thay đổi tình hình thế giới. Hitler đã bị tiêu diệt nhưng đã tạo điều kiện để hai cường quốc

cạnh tranh sức mạnh ở châu Âu. Sự tranh giành ảnh hưởng châu Âu, theo nghĩa nào đó đã

mang lợi ích cá nhân của lãnh đạo hai cường quốc dẫn đến những hành động chống đối

nhau. Việc Liên Xô chế tạo thành công bom nguyên tử, thể hiện rõ sự chống đối hai cường

quốc nhằm tăng cường quyền lực châu Âu, tạo điều kiện thi hành chính sách của họ.

65

3.4. Hoa Kỳ tăng cường tìm kiếm liên minh quân sự

3.4.1. Sự thành lập khối quân sự NATO

Việc đề ra kế hoạch Marshall 1947 nhằm phục hồi nền kinh tế Tây Âu, được xem là

bước đi đầu tiên của Hoa Kỳ trong việc tìm kiếm liên minh Tây Âu, Hoa Kỳ đã biến Tây Âu

thành chỗ dựa vững chắc đối đầu với Liên Xô. Bước đi thứ hai, đó là thành lập Khối quân

sự NATO năm 1949, qui mô khối này không giới hạn khu vực Tây Âu mà vươn ra khỏi Đại

Tây Dương. Mục đích của Hoa Kỳ tập hợp lực lượng phản cách mạng dưới sự chỉ huy của

Hoa Kỳ để chống lại Liên Xô, các nước XHCN và cao trào giải phóng dân tộc. Đây được

xem là công cụ bành trướng xâm lược của Hoa Kỳ và nhằm thực hiện chiến lược ngăn chặn

sự lây lan của Cộng sản.

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, nhân dân Tây Âu vừa phải gánh chịu hậu quả nặng nề

chưa khắc phục. Mùa đông năm 1946, lại gánh chịu thiên tai chưa từng có trong một trăm

năm trở lại. Nguyên liệu, nhiên liệu và vật dụng hằng ngày đều thiếu nghiêm trọng, nhà máy

đóng cửa, công nhân thất nghiệp, biểu tình. Tình hình chính trị ở Tây Âu không ổn định,

trong khi đó Đông Âu dưới sự giúp đỡ của Liên Xô lần lượt trở thành các nước XHXCN.

Chủ nghĩa Cộng sản đã phát triển ra khỏi Tây Âu, Hoa Kỳ ở bên bờ Đại Tây Dương cũng

hết sức lo ngại. Đó là lí do Hoa Kỳ có những hành động tìm kiếm liên minh thông qua kế

hoạch Marshall muốn xây dựng lực lượng quân sự mạnh ở Tây Âu và cao hơn nữa là xây

dựng liên minh quân sự vượt Đại Tây Dương.

Cơ hội đến khi Liên Xô tiến hành phong tỏa Berlin, ảnh hưởng đến vùng chiếm đóng

của Hoa Kỳ, Anh, Pháp ở Tây Berlin, cuộc khủng hoảng Berlin cho thấy khả năng của ứng

phó của Anh, Pháp là rất kém. Hoa Kỳ nắm vai trò lãnh đạo đối đầu Liên Xô ở Berlin. Cũng

thời gian này Stalin đã mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra nhiều khu vực, phong trào giải phóng

phát triển mạnh mẽ, hệ thống XHCN phát triển nhanh chóng. Để đối phó tình hình trên,

tháng 7 năm 1948, 5 nước UEO cùng với Hoa Kỳ và Canada xúc tiến kế hoạch thành lập

liên minh phòng thủ ở khu vực Bắc Đại Tây Dương.

Cuộc đàm phán giữa các nước được tiến hành tại Oasinhton kéo dài từ ngày 10-12-

1948 đến ngày 18-03-1949. Kết quả là Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương gồm 12 nước : Hoa

Kỳ, Anh, Pháp, Hà Lan, Bỉ, Lucxembua, Nauy, Bồ Dào Nha, Italia, Đan Mạch, Aixơlen và

Canada được kí kết ngày 4-4-1949 và có hiệu lực 4-8-1949, thời hạn hiệu lực 20 năm (có

thể gia hạn thêm). Ngày 12 tháng 4 năm 1949 Tổng Truman đã có bài phát biểu trước quốc

hội, thể hiện sự cần thiết Hoa Kỳ tham gia tổ chức Bắc Đại Tây Dương. Trong đó ông nêu

66

rõ mục đích thành lập tổ chức này là biểu hiện mong muốn của người dân Hoa Kỳ vì hòa

bình và an ninh, để tiếp tục sống và làm việc tự do. Các nước kí kết sẽ liên kết nhau chống

lại bất kì cuộc tấn công vũ trang. Mục đích thành lập NATO là để ngăn chặn sự phát triển

ảnh hưởng của Chủ nghĩa Cộng sản và Liên Xô lúc đó đang trên đà phát triển rất mạnh ở

châu Âu có thể gây phương hại đến an ninh của các nước thành viên.

Khối NATO hay Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương ra đời dựa trên cở sở hai hiệp

ước. Thứ nhất, Hiệp định phòng thủ Tây bán cầu. Thứ hai là Liên Hiệp Tây Âu (UEO).

Hiệp ước quy định: Trong trường hợp “có cuộc tiến công vũ trang” vào một hoặc một số

nước thành viên thì các nước khác phải nhanh chóng giúp đỡ, kể cả sử dụng lực lượng vũ

trang. Cơ quan quyền lực cao nhất là Hội đồng NATO, bên cạnh có Uỷ ban Kế hoạch phòng

thủ gồm các bộ trưởng quốc phòng phụ trách vạch kế hoạch và chính sách quân sự thống

nhất. Về quân sự, cơ quan quyền lực cao nhất là Uỷ ban Quân sự gồm Tổng tham mưu

trưởng các nước thành viên do Tổng Thư kí NATO đứng đầu. Ngoài lực lượng vũ trang

riêng của từng nước, Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương có lực lượng thống nhất dưới

sự chỉ huy của Bộ Tổng chỉ huy Liên minh khu vực. Trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây

Dương, Hoa Kỳ và các lực lượng vũ trang Hoa Kỳ đóng vai trò chủ đạoTừ ngày thành lập,

NATO luôn thực hiện chính sách đẩy mạnh chạy đua vũ trang chuẩn bị chiến tranh, đặc biệt

là việc tăng cường sức mạnh hạt nhân, tạo nên tình hình căng thẳng thường xuyên ở châu

Âu và trên thế giới.

Cho thấy, sự thành lập khối NATO nhằm mục đích liên minh quân sự chống lại Liên

Xô, bước tiến mới thực hiện kế hoạch thống trị thế giới của Hoa Kỳ. Điều này làm cho tình

hình thế giới thêm căng thẳng, bởi đây là liên minh quân sự lớn nhất, quan trọng nhất của

Hoa Kỳ và các đồng minh.

Sau đó ngày 26 tháng 7 năm 1949 Thượng nghị sĩ Robert A. Taft có bài phát biểu

phản đối việc Hoa Kỳ thành lập tổ chức này. Ông cho rằng việc thành lập tổ chức này sẽ

đưa nước Hoa Kỳ đến chiến tranh bất kì lúc nào trong thời gian Hiệp ước có hiệu lực, khi 12

nước bị tấn công vũ trang. Ông khẳng định liên minh này sẽ dẫn đến nguy cơ chiến tranh,

chứ không phải đạt được mục đích hòa bình. Ông đưa ra dự báo chiến tranh thứ ba sẽ xảy ra

và Hoa Kỳ sẽ bị thiệt hại nặng nề.

Việc thành lập NATO dẫn đến phản ứng của Liên Xô và các nước XHCN ở Đông Âu

thành lập Tổ chức Hiệp ước Wácsava để làm đối trọng. Sự kình địch và chạy đua vũ trang

của hai khối quân sự đối đầu này là cuộc đối đầu chính của Chiến tranh lạnh trong nửa cuối

67

thế kỷ XX.

3.4.2.Văn kiện NSC-68

Văn kiện NSC-68 được xem là một trong những văn kiện chính của Chiến tranh lạnh.

Nó thể hiện sự thay đổi trong chính sách đối ngoại và quốc phòng của Tổng thống Truman

trước những động thái của Liên Xô và tình hình Hoa Kỳ.

Văn kiện NSC-68 ra đời trong bối cảnh tình hình thế giới và Hoa Kỳ có nhiều chuyển

biến.

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, quan hệ đồng minh Liên Xô và Hoa Kỳ

nhanh chóng trở thành quan hệ đối đầu. Sự khác nhau ý thức hệ đã dẫn đến các nước có

những hành động chống đối nhau. Hoa Kỳ dùng sức mạnh của mình, độc quyền vũ khí hạt

nhân để thực hiện Chính sách ngăn chặn “sự lây lan của Cộng sản”. Trên thực tế, Chính

sách ngăn chặn đã thành công, làm cho Liên Xô không thể mở rộng ảnh hưởng thêm nữa, cố

thủ ở những khu vực chiếm đóng. Nhưng điều đó không làm cho Liên Xô suy yếu, mà Liên

Xô còn trở thành siêu cường đứng thứ hai thế giới, quan trọng là năm 1949 Liên Xô đã chế

tạo thành công bom nguyên tử. Sự vươn lên mạnh mẽ của Liên Xô cùng với việc Trung

Quốc bị mất đã buộc Tổng thống Truman xem xét lại chính sách đối ngoại của Hoa Kỳ.

Ngày 25 tháng 04 năm 1950 Ủy ban liên bộ Ngoại giao – Quốc phòng đã soạn thảo

một báo cáo, mà sau đó được Hội đồng An ninh quốc gia dưới quyền chủ tọa của Tổng

thống Truman thông qua được mang kí hiệu NSC-68.

Trong đó NSC-68 coi Liên Xô là mối đe dọa vĩnh viễn cho sự tồn tại của Hoa Kỳ,

Liên Xô phải bị kiềm chế hoặc bị tiêu diệt, nếu không Hoa Kỳ sẽ “không tiếp tục tồn tại như

là một xã hội tự do”. Phát xuất từ quan điểm này, văn kiện nhấn mạnh “Hoa Kỳ phải tiến

hành một cuộc chiến tranh thực sự với người Xô viết hay với những người làm thay họ ở bất

kì nơi nào trên thế giới”. Như vậy văn kiện này nhằm khẳng định chiến tranh hai cường

quốc là không tránh khỏi. Qua đó văn kiện cổ vũ Hoa Kỳ tăng cường quy mô lớn lực lượng

quân sự nhằm có thể đạt được cân bằng lực lượng với Liên Xô với kế hoạch táo bạo và quy

mô. Hoa Kỳ phải tái vũ trang chặn đứng sự bành trướng của Liên Xô. Và giữ vững vị thế

trung tâm.

Văn kiện đã thể hiện sự thay đổi trong chính sách đối ngoại và quốc phòng của Hoa

Kỳ, nó đẩy nhanh quá trình tái vũ trang của Hoa Kỳ nhằm cân bằng lực lượng với Liên Xô.

NSC-68 dự trù trích 20% tổng sản phẩm quốc dân (GDP) cho chi phí vũ trang, đưa ngân

sách quân sự từ 13,5 tỉ lên 48,2 tỉ USD.

68

Như vậy, vào năm 1950 khuôn khổ của Chiến tranh Lạnh là vững chắc, khiến cả hai

bên đã cố gắng tăng cường khả năng quân sự, đặc biệt là kho vũ khí hạt nhân của họ. Sự

khởi đầu của thập kỷ mới, Hoa Kỳ đã thu thập được 300 vũ khí hạt nhân. Kể từ khi Liên Xô

đã thử nghiệm thành công một quả bom nguyên tử, các nhà hoạch định chính sách Hoa Kỳ

cho rằng những ưu thế chiến lược của Hoa Kỳ có thể trong tình trạng nguy hiểm. Kết quả là,

Tổng thống Truman ra lệnh cho các nhà khoa học Hoa Kỳ phát triển một vũ khí mạnh mẽ

hơn: quả bom hydro. Đến giữa những năm 1950, cả hai nước đã phát triển và thử nghiệm vũ

khí mới này, đánh dấu sự khởi đầu mới của cuộc đối đầu Chiến tranh lạnh.

Tiểu kết Chương 3

Trong những năm (1948 – 1950) quan hệ đồng minh hai siêu cường đã thật sự đoạn

tuyệt, khi hai siêu cường không tìm thấy giải pháp chung cho vấn đề thống nhất Đức. Hai

nhà nước Đức ra đời thể hiện mỗi bên hành động theo cách riêng của mình. Nhưng cả hai đã

tránh đối đầu trực tiếp với nhau ngay trong thành phố Berlin. Bắt đầu từ đây cả hai siêu

cường liên tiếp có những hành động đáp trả, chống đối lẫn nhau. Bước sang năm 1949, cả

Hoa Kỳ và Liên Xô đều tăng cường tìm kiếm liên minh quân sự, kinh tế nhằm cân bằng

quyền lực châu Âu, đánh dấu bước khởi đầu của Chiến tranh lạnh.

69

KẾT LUẬN

1. Giữa thế kỉ XIX, đánh dấu hai nước Nga và Hoa Kỳ đã có những bước đi đầu tiên

trong việc thiết lập mối quan hệ, chủ yếu thông qua hoạt động thương mại và du lịch.

Nhưng mối quan hệ đó đã không tạo cơ sở nền tảng để hai nước có những bước tiến dài hơn

nữa trong việc thiết lập mối quan hệ sau này. Một loạt sự kiện đầu thế kỉ XX đã tạo ra sự

cách biệt quá lớn giữa hai nước, bắt đầu từ năm 1917. Đó không hẳn là sự cách biệt về mặt

địa lí, mà chủ yếu là sự cách biệt trong ý thức hệ. Sự khác nhau về ý thức hệ đã tạo ra

khoảng cách quá xa, hai nước dường như không thể xích lại gần nhau. Tuy nhiên trong

Chiến tranh thế giới thứ hai thực tế là Hoa Kỳ và Liên Xô đã hợp tác thành công trong việc

đánh bại trục phát xít Đức – Italia – Nhật Bản.

2. Sau chiến tranh, quan hệ hợp tác giữa hai nước không duy trì được lâu, bởi nhiều

nguyên nhân. Trong đó, phải kể đến là sự xung khắc về mặt ý thức hệ và mâu thuẩn về

quyền lợi ( vũ khí hạt nhân, an ninh quốc gia…).

Xô và Hoa Kỳ bắt đầu từ năm 1917. Đặc biệt nguồn gốc trực tiếp nằm trong mối

quan hệ Liên Xô và Hoa Kỳ trong những năm 1945-1947 làm trầm trọng thêm mâu

thuẩn hai cường quốc. Nguồn gốc trực tiếp đó là bất đồng giữa Hoa Kỳ, Anh với Liên Xô

3. Nguồn gốc của Chiến tranh lạnh được coi là nằm trong mối quan hệ giữa Liên

tại các hội nghị thời hậu chiến nổi lên là vấn đề Đức và Đông Âu. Mặc dù các nước đã đạt

được một số thỏa thuận quan trọng nhưng khi đi vào áp dụng lại gặp khó khăn, vi phạm

những điều đã cam kết. Điều đó càng làm tăng thêm sự nghi ngờ, thiếu tin cậy, mất lòng tin

lẫn nhau giữa lãnh đạo hai cường quốc. Đặc biệt là sự kiện Hiroshima, chứng minh không

còn nghi ngờ nữa mà đó là chắc chắn hai cường quốc không thể chung sống hòa bình trong

tương lai. Nó mở ra thời đại nguyên tử, mà hai lãnh đạo vì lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia

trái ngược nhau sẵn sàng có những hành động chống đối nhau, đặc biệt là ở châu Âu, tạo

nên tình trạng đối đầu nhau dọc biên giới của các vùng chiếm đóng.

4. Có thể nói Hoa Kỳ và Liên Xô là nguồn gốc gây ra Chiến tranh lạnh, bắt đầu sau khi

Tổng thống Truman nhậm chức tháng 4 năm 1945, người được xem là không thân thiện với

Stalin. Ngược lại Stalin luôn nhận định chiến tranh là không tránh khỏi. Nhận định đó chi

phối tất cả hành động ngoại giao của Liên Xô sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tạo nên cục

diện đối đầu cạnh nhau trên lục địa châu Âu, dẫn đến căng thẳng dọc theo các nước giáp

70

biên giới, điển hình là xung đột giữa hai cường quốc trong thành phố Berlin. Stalin đã góp

phần duy trì Chiến lạnh lạnh, làm cho nó ngày càng tiếp diễn và biến nó thành cuộc chiến

tranh không tránh khỏi.

5. Nhìn lại lịch sử quan hệ Liên Xô- Hoa Kỳ, cả hai cường quốc đã nhiều lần đối đầu

nhau vì lợi ích và an ninh quốc gia. Đặc biệt là đối đầu sau Chiến tranh thế giới thứ nhất,

nhưng hai nước đã tránh được cuộc chiến tranh vào thời điểm đó. Hoa Kỳ cũng như Liên

Xô đã quyết định rút khỏi hay giảm dần ảnh hưởng ở châu Âu. Với chính sách giảm dần ảnh

hưởng ở châu Âu thì quan hệ Liên Xô- Hoa Kỳ mặc dù có xung đột, căng thẳng nhưng nó

nằm trong phạm vi có thể kiểm soát được. Và đó là lí do không dẫn đến cuộc chiến tranh

đối đầu giữa XHCN và TBCN sau chiến tranh thế giới thứ nhất.

6. Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Hoa Kỳ và Liên Xô quay trở lại tăng cường ảnh

hưởng ở châu Âu và hai cường quốc đã đi đến Chiến tranh lạnh. Sau chiến tranh so sánh lực

lượng quốc tế có sự thay đổi, Chiến tranh thế giới thứ hai đánh dấu sự trỗi dậy của hai

cường quốc Liên Xô - Hoa Kỳ. Hoa Kỳ nhìn thấy sự tồn tại của Liên Xô như là thách thức

đối với cán cân quyền lực ở châu Âu và đe dọa an ninh Hoa Kỳ. Nhưng xét cho cùng sau

chiến tranh ưu thế vẫn nghiêng về phía Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là nước ít chịu tổn thất, lại độc

quyền sức mạnh bom nguyên tử. Trong khi đó, Liên Xô chịu tổn thất nặng nề nhất trong

chiến tranh và lo sợ trước cuộc tấn công từ phía Tây. Cả hai đều nhận thấy an ninh và lợi ích

quốc gia bị đe dọa. Dẫn đến tăng cường biện pháp nhằm bảo vệ an ninh và lợi ích của nhau,

tạo ra tình trạng không thể kiểm soát và chiến tranh là số phận không thể tránh khỏi. Đó là lí

do Hoa Kỳ bãi bỏ chính sách trung lập và tăng cường ảnh hưởng châu Âu.

71

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1. Học Viện Ngoại Giao (2009), Đông Tây Nam Bắc: Diễn biến chính trong quan hệ

Quốc tế từ 1945, Nxb, Hà Nội.

2. Lê Phụng Hoàng (2007), Lịch sử quan hệ Quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ hai

(Tập 1) 1945-1975, Tài liệu lưu hành nội bộ khoa Lịch Sử ĐHSP- HCM.

3. Lê Phụng Hoàng (2005), Lịch sử quan hệ Quốc tế ở châu Âu trong chiến tranh lạnh

(1949 –1991), Tài liệu lưu hành nội bộ khoa Lịch Sử ĐHSP- HCM.

4. Lê Phụng Hoàng (dịch), Báo cáo của Bí thư thứ nhất UBTU Đảng Cộng Sản Liên Xô

Nikita Khrushev tại Đại hội XX Đảng Cộng Sản Liên Xô ngày 25 – 02 -1956.

5. Nguyễn Hải Hoành (2012), Hồ Sơ Tư Liệu Về Phát Xít Nhật, nghiên cứu lịch sử.

6. Lê Vinh Quốc (Chủ biên), Lịch sử quan hệ Quốc tế từ 1945 đến nay (Tập 1), Nxb, TP-

HCM.

7. Nguyễn Xuân Sơn (1997), Trật tự thế giới thời kì Chiến tranh lạnh, Học viện chính trị

quốc gia.

8. Nguyễn Văn Hiến, Phạm Thành, Lê Xuân Tiềm (dịch) (1996), Sự đảo lộn của thế giới

địa chính trị thế kỉ XXI, Nxb, Chính trị quốc gia HN.

9. Trần Nam Tiến (Chủ biên) (2008), Lịch sử quan hệ quốc tế hiện đại (1945-2000), Nxb,

Giáo Dục.

10. Tạp chí điện tử của Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ (2006), Kế Hoạch Marshall : Một chiến

lược hiệu quả.

Tiếng Anh

11. Richard Crockatt (1996), The Fifty Years War. The Uinited States And The Soviet

Union In World Politics 1941-1991, Oxford University Press.

12. Michael Dobbs (2012), Six Months in 1945 : FDR, Stalin, Churchill and Truman from

world war to cold war, Inc, New York .

72

13. Fischer David (1997), History Of The International Atomic Energy Agency The First

Forty Years, The IAE in Austria, tr.15.

14. John Lewis Gaddis (1997), We Now Know: Rethinking Cold War History, Clarendon

press. Oxford.

15. Roberts, Geoffrey (2006), Stalin's Wars: From World War to Cold War, 1939–1953,

Yale University Press.

16. Holloway David ( 1994) Stalin and the Bomb : The Soviet Union and Atomic Enery

1939 – 1954, New Haven: Yale University Press.

17. Michael L.Dockrill and Michael F. Hopkins (2006), The Cold War 1945-1991,

Palgrave Macmillan Houndmills, New York.

18. Kenneth M. Jensen, Origins of the Cold War : The Novikov, Kennan and Roberts “

Long telegrams” of 1946 : With Three New Commentaries, United States Institute Of

Peace Press Washington, D.C.

19. Thomas J. Mccormick (1995), America's Half-Century: United States Foreign Policy

in the Cold War and After, The Johns Hopkins University Press.

20. Wilson D Miscamble (2007), From Roosevelt to Truman: Potsda, Hiroshima And The

Cold War, Cambridge, England and NewYork : Cambridge University.

21. Dr. John E.Moser (2013), The Origins of the Cold War, Ashland University.

22. Melvyn P. Leffler and David S. Painter,( 2005) “Introduction,” Origins of the Cold

War: An International History,” 2nd Ed., New York: Routledge.

23. David Reynolds (1994), The Origins of the Cold War in Europe, Yale University

Press.

24. Michael I.Schwartz (1996), The Russian-American Bomb : The Role Of Espionage In

The Soviet Atomic Bomb Project, Journal Of Undergraduate Sciences, tr.103-108.

25. William Taubman (1979), Stalin’s American policy : From Entente to Détente to Cold

War, Norton and Company, New York.

Website

26. Hiroshima and The Cold War.

73

http://www.johndclare.net/cold_war5.htm

27. Họp thứ hai của Hội đồng Bộ trưởng Ngoại giao Paris.

http://www.yale.edu/lawweb/avalon/decade20.htm.

28. Khối đồng minh chống phát xít

http://www.bachkhoatrithuc.vn/encyclopedia/4455-4455-633883603181718750/Giai-

doan-moi-cua-Dai-chien/Lien-minh-Anh--My-va-lien-minh-chong-phat-xit.htm

29. Scott Jones (2001), Western Historiography on the Origins of the Cold War.

http://www.CWIHP.org.

30. Truman Doctrine/ Marshall Plan

http://www.johndclare.net/cold_war8.htm

31. Yalta and Potsdam

http://www.johndclare.net/cold_war4.htm

32. http://www.yale.edu/lawweb/avalon/nato.htm.

33. http://www.trumanlibrary.org/whistlestop/study_collections/index.php?pagenumber=2

&documentid=1&documentdate=1949/04/12&studycollectionid=NATO&GROUPID.

34. http://www.teachingamericanhistory.org/library/index.asp?document=857.http://www.

teachingamericanhistory.org/neh/interactives/coldwareuropemap.

35. http://www.yale.edu/lawweb/avalon/wwii/yalta.htm.

36. http://www.yale.edu/lawweb/avalon/decade17.htm.

37. http://www.trumanlibrary.org/whistlestop/study_collections/coldwar/documents/index.

php?documentdate=1946/02/22&documentid=6-

6&studycollectionid=&pagenumber=1.

38. http://historymatters.gmu.edu/d/6906.

39. http://www.trumanlibrary.org/whistlestop/study_collections/coldwar/documents/index.

php?documentdate=1946/09/24&documentid=4-

1&studycollectionid=&pagenumber=1.

74

40. http://www.foreignaffairs.org/19470701faessay25403/x/the-sources-of-soviet-

conduct.html.

41. http://www.johndclare.net/cold_warA1.htm

42. http://teachingamericanhistory.org/pdf/seminars/2013/moser.pdf

43. http://www.anzasa.arts.usyd.edu.au/ahas/cworigins_documentlist.html

44. http://edsitement.neh.gov/sites/edsitement.neh.gov/files/worksheets/ColdWar03.pdf

45. http://edsitement.neh.gov/sites/edsitement.neh.gov/files/worksheets/ColdWar02.pdf

46. http://vi.wikipedia.org/wiki/Siêu_cường

47. http://www.johndclare.net/cold_war9.htm

48. http://www.johndclare.net/cold_war2.htm

49. http://www.johndclare.net/cold_war6.htm

75

PHỤ LỤC

DANH MỤC HÌNH ẢNH, BIỂU ĐỒ, LƯỢC ĐỒ

Hình 1.1 Kho dự trữ vũ khí hạt nhân của Liên xô và Hoa Kỳ, 1945-2005

(http://vi.wikipedia.org/wiki/Siêu_cường)

76

Hình 2.2 Tranh biếm họa ngày 11 tháng 8 năm 1945 của họa sĩ

truyện tranh Paul Carmack

(http://www.johndclare.net/cold_war2.htm)

77

Hình 2.4 Tranh biếm họa về sự mở rộng quyền lực ở châu Âu của Stalin

(http://www.johndclare.net/cold_war6.htm)

78

Hình 2.5 Tranh biếm họa Stalin cố gắng chặn quả bóng

có tên “Marshall” vào rổ

(http://www.johndclare.net/cold_war8.htm)

79

Hình 3.2 Tranh biếm họa Stalin cố gắng ngăn chặn

cầu không vận cho Tây Berlin

(http://www.johndclare.net/cold_war9.htm)

80