
Quản lý chặt chẽ yếu tố kỳ hạn của tài sản, công nợ
Trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, hệ thống tài chính Việt
Nam đã có những bước phát triển rất quan trọng theo hướng hội
nhập với thông lệ và chuẩn mực quốc tế được chấp nhận chung.
Đây là định hướng phát triển đúng đắn để Hệ thống tài chính Việt
Nam phát triển ổn định, bền vững, tạo điều kiện cần cho phát triển
kinh tế nước ta.
Tuy nhiên, hiện nay trên thị trường tài chính chúng ta nhận thấy có
một số sản phẩm tài chính "không chuẩn" hoặc, không theo thông
lệ quốc tế và hàm chứa những yếu tố rủi ro tài chính nguy hiểm
cho chính tổ chức tài chính phát hành những sản phẩm này, đồng
thời còn là nguyên nhân tạo nên những yếu tố không ổn định cho
hệ thống tài chính ngân hàng.
Phân loại và trình bày tài sản và công nợ
Theo chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS) số 1 và theo chuẩn mực kế
toán Việt Nam (VAS) số 21 về "Trình bày báo cáo tài chính", một
doanh nghiệp khi lập Bảng cân đối kế toán cũng phải phân loại và
trình bày tài sản ngắn hạn và tài sản dài hạn, công nợ ngắn hạn và
công nợ dài hạn ở những khoản mục riêng biệt.

Ý nghĩa kinh tế của việc phân loại tài sản ngắn
hạn và dài hạn là ở nội dung: Khối tài sản ngắn
hạn cho thấy khả năng tạo luồng tiền trong ngắn
hạn hay khả năng thanh toán trong ngắn hạn
của doanh nghiệp, và phân biệt về tài sản được
dùng như vốn lưu động; Khối tài sản dài hạn cho thấy năng lực sản
xuất, khả năng tạo thu nhập và luồng tiền dài hạn của doanh
nghiệp, và tài sản dùng trong các hoạt động dài hạn. Trong quản trị
tài chính doanh nghiệp, việc phân loại ngắn hạn hoặc dài hạn của
tài sản và công nợ là hết sức cần thiết, liên quan tới vấn đề quản trị
rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất và các loại rủi ro khác gắn liền
với tài sản và công nợ.
Đối với ngân hàng và tổ chức tài chính tương tự là các doanh
nghiệp kinh doanh ở lĩnh vực đặc thù - kinh doanh tiền tệ, thường
không có chu kỳ hoạt động kinh doanh một cách rõ ràng; Do tài
sản và công nợ chủ yếu là các công cụ tài chính, có thể được thu
hồi hoặc thanh toán trong vòng 12 tháng nên tài sản và công nợ
không trình bày theo ngắn hạn và dài hạn, nhưng được trình bày
theo bản chất khoản mục, và theo mức độ thanh khoản. Đồng thời,
để quản lý và kiểm soát chặt chẽ mức độ rủi ro thanh khoản, rủi ro
lãi suất của đơn vị ngân hàng, theo IAS số 30 hoặc theo VAS số
22, trong thuyết minh báo cáo tài chính, đơn vị ngân hàng cần phải

trình bày bảng phân tích tài sản, công nợ theo ngày đáo hạn trên
hợp đồng. Ngày đáo hạn có thể là:
- Thời gian còn lại cho đến ngày thanh toán. Đây là cơ sở tốt nhất
cho việc đánh giá khả năng thanh khoản của đơn vị ngân hàng;
- Thời gian ban đầu cho đến ngày thanh toán. Đây là cơ sở đánh
giá nguồn vốn và chiến lược kinh doanh;
- Thời gian còn lại cho đến ngày thay đổi lãi suất gần nhất trong
tương lai. Đây là cơ sở để đo lường mức độ rủi ro lãi suất của đơn
vị ngân hàng.
Sử dụng các công cụ và chỉ tiêu để quản lý an toàn hoạt động
ngân hàng
Hệ thống ngân hàng phát triển ổn định, lành mạnh, bền vững là
điều kiện cần thiết cho phát triển nền kinh tế quốc dân. Trong khi
đó, đặc thù hoạt động ngân hàng, vấn đề rủi ro thanh khoản, rủi ro
lãi suất, rủi ro tỷ giá... lại là vấn đề phổ biến, rất nhạy cảm, dễ lan
truyền. Theo đó, để quản lý an toàn hoạt động ngân hàng, hạn chế
mức độ rủi ro thanh khoản, rủi ro giá cả thị trường của mỗi đơn vị
ngân hàng cũng như cho cả hệ thống, các cơ quan giám sát ngân
hàng sử dụng các công cụ khác nhau và đưa ra các chỉ tiêu khác
nhau để buộc các ngân hàng phải tuân thủ. Sau đây là 4 loại chỉ
tiêu phổ biến thường được áp dụng đồng thời:

- Quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc tính trên tiền gửi. Tỷ lệ dự trữ
bắt buộc là công cụ của chính sách tiền tệ nhằm mục tiêu điều tiết
tăng giảm lượng tiền cung ứng cho lưu thông, đồng thời còn có tác
dụng trong việc đảm bảo khả năng thanh toán nhất định cho
TCTD. Trong cùng một thời kỳ cụ thể, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng
được phân định mức độ cao, thấp khác nhau tùy thuộc loại tiền gửi
là không kỳ hạn hoặc có kỳ hạn;
- Quy định tỷ lệ về khả năng chi trả. Tại Quyết định số
457/2005/QĐ-NHNN và Quyết định số 03/2007/QĐ-NHNN của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành "Quy định về
các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng" đã
quy định:
Tổ chức tín dụng phải thường xuyên đảm bảo tỷ lệ về khả năng chi
trả đối với từng loại đồng tiền, vàng như sau:
+ Tỷ lệ tối thiểu 25% giữa giá trị các tài sản "Có" có thể thanh toán
ngay và các tài sản "Nợ" sẽ đến hạn thanh toán trong thời gian 1
tháng tiếp theo.
+ Tỷ lệ tối thiểu bằng 1 giữa tổng tài sản "Có" có thể thanh toán
ngay trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo và tổng tài sản Nợ
phải thanh toán trong khoảng thời gian 7 ngày tiếp theo.
- Quy định tỷ lệ về vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung và
dài hạn;

- Quy định tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hay vốn tự có tối thiểu phải
có để sẵn sàng bù đắp rủi ro trong điều kiện hoạt động kinh doanh
bình thường. Theo Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN và Quyết
định số 03/2007/QĐ- NHNN thì: "Tổ chức tín dụng, trừ chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, phải duy trì tỷ lệ tối thiểu 8% giữa vốn tự
có so với tổng tài sản "Có" rủi ro". Ủy ban Basel về giám sát ngân
hàng (BIS) đã đưa ra khung quy định Basel II về đảm bảo an toàn
hoạt động ngân hàng với 3 trụ cột là: Vốn tối thiểu; Quy định về
quy trình, đánh giá, giám sát; và Nguyên tắc minh bạch, tăng
cường công bố thông tin.
Như vậy, đo lường chính xác và chủ động hạn chế mức độ rủi ro
thanh khoản và các mức độ rủi ro thị trường như rủi ro lãi suất
hoặc rủi ro tỷ giá… là vấn đề rất quan trọng trong quản lý Nhà
nước đối với hoạt động ngân hàng cũng như trong quản trị kinh
doanh của từng ngân hàng. Nhưng một vấn đề liên quan trực tiếp
đến đo lường đúng mức độ rủi ro thanh khoản và mức độ rủi ro giá
cả thị trường (rủi ro lãi suất/ rủi ro tỷ giá/... ) mà đơn vị ngân hàng
phải chịu, đó là xác định đúng ngày đáo hạn được thanh toán hay
phải thanh toán của tài sản và công nợ hoặc yếu tố kỳ hạn của tài
sản và công nợ cần được quy định rõ ràng và tuân thủ nghiêm túc.
Nếu yếu tố "ngày đến hạn" hoặc "ngày phải thanh toán" của đa số
tài sản, công nợ không xác định rõ ràng, không được tuân thủ

