
29
Chuyên đề 2
QUY HOẠCH XÂY DỰNG TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
KHU VỰC ĐỒNG BẰNG
I. THỰC TRẠNG QUY HOẠCH XÂY DỰNG TRÊN ĐỊA BÀN XÃ
1- Những kết quả đạt được
Trong những năm gần đây, phát triển nông nghiệp, nông thôn luôn giành
được sự quan tâm to lớn của Đảng và Nhà nước, nhiều chủ trương chính sách đã
được ban hành và tổ chức thực hiện hiệu quả và đạt được nhiều thành tự đáng kể:
Tại khu vực đồng bằng sản xuất nông nghiệp đã chuyển mạnh sang cơ cấu
sản xuất hiệu quả hơn và đạt tốc độ tăng trưởng khá cao; an ninh lương thực được
bảo đảm. Tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, phát triển ngành nghề tăng tạo điều kiện
tăng thu nhập, xãa đói, giảm nghèo, tạo việc làm cho nông dân. Sản xuất tiểu thủ
công nghiệp phát triển khá mạnh, số hộ chuyển sang công nghiệp, dịch vụ tăng.
Quy hoạch nông thôn mới là bố trí, sắp xếp các khu chức năng, sản xuất,
dịch vụ; hạ tầng kinh tế- xã hội- môi trường trên địa bàn, theo tiêu chuẩn nông thôn
mới, gắn với đặc thù, tiềm năng, lợi thế của từng địa phương; được mọi người dân
của xã trong mỗi làng, mỗi gia đình ý thức đầy đủ, sâu sắc và quyết tâm thực hiện.
Sau gần hai năm thực hiện Chương trình thí điểm, vấn đề xây dựng nông
thôn mới cần tiếp tục giải quyết rất nhiều vấn đề lớn, trong đó có công tác quy
họach và các nguồn tài chính.
Đến trước khi Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X ban
hành Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5-8-2008 “Về Nông nghiệp, nông dân, nông
thôn”, còng là sau 22 năm đổi mới, nông nghiệp, nông thôn nước ta đã có những

30
thay đổi lớn lao, đời sống nông dân đã được cải thiện vượt bậc. Tuy nhiên, so với
các nước phát triển trong khu vực, đối chiếu với mục tiêu công nghiệp hóa – hiện
đại hóa đất nước thì nông nghiệp, nông thôn nước ta vẫn còn hết sức lạc hậu và có
rất nhiều yếu kém. Chúng ta đều dễ dàng nhận thấy: Nông thôn phát triển thiếu quy
hoạch và cơ bản vẫn là tự phát; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội tuy có những biến
đổi tích cực về điện, đường, trường, trạm song vẫn lạc hậu; mức sống vật chất, văn
hoá, y tế, giáo dục của cư dân nông thôn được cải thiện một bước nhưng còn ở mức
thấp và đặc biệt ngày càng doãng cách xa so với đô thị; cảnh quan, sinh thái nông
thôn truyền thống với cây đa, bến nước, sân đình, không khí trong lành... đã bị biến
dạng ngày càng xấu, mức độ ô nhiễm ngày càng nhanh và nghiêm trọng; chất
lượng hệ thống chính trị ở cơ sở (xã, thôn, bản, ấp…), nhất là năng lực quản lý điều
hành của cán bộ rất yếu kém. Những hạn chế đó đang cản trở con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn nói riêng, công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước nói chung.
Nghị quyết 26/TQ-TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã đề
ra chủ trương Xây dựng nông thôn mới vừa phát triển kinh tế xã hội, nâng cao đời
sống của nhân dân nói chung, phát triển nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống
vật chất và tinh thần của cư dân sống ở nông thôn nói riêng, đồng thời nhằm khắc
phục những mặt yếu kém trên.
Nghị quyết đã xác định rõ mục tiêu: “Xây dựng nông thôn mới có kết cấu hạ
tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp
lý, gắn nông nghiệp với phát triển nhanh công nghiệp, dịch vụ, đô thị theo quy
hoạch; xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hoá dân tộc; dân trí được nâng
cao, môi trường sinh thái được bảo vệ; hệ thống chính trị ở nông thôn dưới sự lãnh
đạo của Đảng được tăng cường”. Về mục tiêu cụ thể, đến 2015: 20% số xã đạt
chuẩn nông thôn mới và đến 2020: 50% số xã đạt chuẩn nông thôn mới (theo 19
tiêu chí được Thủ tướng Chính phủ cụ thể hóa tại Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày
16/4/2009) trên tổng số 9.121 xã hiện nay; 100% số xã có quy hoạch nông thôn
mới được duyệt; 100% cán bộ cơ sở được đào tạo, tập huấn về kiến thức xây dựng
nông thôn mới; thu nhập bình quân của cư dân nông thôn bằng 2,5 lần so với hiện
nay; tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 3%.

31
Nội dung chính của Chương trình Xây dựng nông thôn mới được xác định là:
(1) Quy hoạch xây dựng nông thôn mới; (2) Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội; (3)
Chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập; (4) Giảm nghèo và an
sinh xã hội; (5) Đổi mới và phát triển các hình thức tổ chức sản xuất có hiệu quả ở
nông thôn; (6) Phát triển giáo dục - đào tạo ở nông thôn; (7) Phát triển y tế, chăm
sóc sức khỏe cư dân nông thôn; (8) Xây dựng đời sống văn hóa, thông tin và truyền
thông nông thôn; (9) Cấp nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; (10) Nâng
cao chất lượng tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể chính trị - xã hội trên địa bàn;
(11) Giữ vững an ninh, trật tự xã hội nông thôn.
Để thực hiện 11 nội dung mà Chương trình mục tiêu Quốc gia về Xây dựng
nông thôn mới, Chính phủ quyết định 7 giải pháp chủ yếu. Trong khuôn khổ bài
viết này chúng tôi chỉ tập trung vào hai vấn đề là quy hoạch và huy động các nguồn
tài chính cho việc xây dựng nông thôn mới cả trước mắt và lâu dài.
Công tác quy hoạch trong thời gian qua còng đã đối mặt với những khó
khăn, vướng mắc, trước hết đó là tiến độ. Kế hoạch đề ra là “đến cuối 2011 cơ bản
xong công tác quy hoạch, trong đó có 30% xã xong quy hoạch chi tiết” nhưng tới
nay chưa thực hiện được với nhiều lý do: một là, một số tiêu chuẩn ngành chưa phù
hợp hoặc chưa có hướng dẫn. Việc làm thí điểm đang được tiến hành, nhưng việc
tổ chức rút kinh nghiệm rút ra những nhận thức, bài học đối với công tác quy hoạch
rất chậm (đến 28-10-2011, Thông tư liên tịch về quy hoạch thay thế các hướng dẫn
riêng của 3 bộ: Xây dựng, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Tài nguyên và
Môi trường mới được ban hành). Hai là, đội ngũ cán bộ làm công tác tư vấn xây
dựng nông thôn mới còn rất thiếu. Trình độ cán bộ xã còn hạn chế, nhất là trình độ
quy hoạch (vốn họ chưa được đào tạo một cách bài bản về công tác này), chưa có
kinh nghiệm trong việc xây dựng quy hoạch nông thôn. Do vậy, họ chưa thể đáp
ứng được những đòi hỏi hết sức khoa học của công tác lập quy hoạch nông thôn
mới. Sự tham gia của người dân và ban quản lý cấp xã chưa được huy động cao
nhất, thậm chí người dân chưa được vào cuộc với nhiều lý do. Do vậy, chất lượng
quy hoạch nhìn chung chưa đáp ứng được yêu cầu và chậm so với tiến độ. Ba là,
định mức cụ thể cho công tác quy hoạch chậm được các cơ quan chức năng ban
hành, kinh phí thực hiện công tác quy hoạch còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu

32
thực tiễn theo vùng, nhất là đối với các vùng miền núi, Tây nguyên và Tây Nam Bộ
do địa bàn rộng. Trong chỉ đạo thực hiện quy hoạch nông thôn mới, hầu hết các địa
phương đều chia đều, bình quân kinh phí thực hiện nên còng làm ảnh hưởng đến
chất lượng của công tác quy hoạch.
Thực tế làm điểm công tác xây dựng nông thôn mới, tới nay càng thấy sự cần
thiết của công tác quy hoạch. Xây dựng nông thôn mới trước hết phải bắt đầu từ
công tác quy hoạch và đòi hỏi nó có chất lượng và kiểm soát việc thực hiện, điều
chỉnh quy hoạch cho ngày một hợp lý hơn. Đó là tiền đề cho cả chương trình dài
hơi sau này.
Công tác quy hoạch có vai trò vô cùng quan trọng và phải được đi trước một
bước. Từ quy hoạch tổng thể, phân khu chức năng đến quy hoạch chi tiết trong xây
dựng nông thôn mới trước hết phải tôn trọng hạt nhân hợp lý trong quá trình tích
luỹ nhiều đời quy hoạch làng quê Việt Nam và hạn chế tối đa gây xáo trộn, tốn kém
gây tâm lý không tốt, không thiết thực khi làm quy hoạch, hoặc gây ảo tưởng trong
dân. Vấn đề quan trọng của công tác quy hoạch xây dựng nông thôn mới là phải
xuất phát từ điều kiện Việt Nam với những đặc điểm tự nhiên, đặc điểm lịch sử,
đặc điểm văn hóa truyền thống và nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong xu
thế hội nhập quốc tế hiện nay và tương lai.
Hai là, quy hoạch xây dựng nông thôn mới nhất thiết phải được tính đến một
cách tổng thể từ trên xuống, để quy hoạch của mỗi làng xã phải nằm trong chỉnh
thể toàn quốc, khu vực, địa phương trong mối liên hệ với kinh tế, xã hội, môi
trường, sinh thái, khí hậu, thổ nhưỡng, quốc phòng... từ cấu trúc kiến trúc, cấu trúc
dân cư, cấu trúc hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, hạ tầng xã hội...
Ba là, công tác quy hoạch để xây dựng nông thôn mới phải vừa đa dạng, vừa
với tầm nhìn xa, bền vững trong xu thế phát triển chung của đất nước, của nhân loại
và thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của cộng đồng cư dân nông thôn trong thời đại
hội nhập quốc tế.
Bốn là, công tác quy hoạch phải được tính toán một cách khoa học, căn cơ,
nhất thiết không được ồ ạt, rập khuôn, máy móc theo mô hình đô thị. Trên cơ sở

33
xây dựng quy hoạch thí điểm đối với từng loại hình nông thôn ở từng khu vực, từng
vùng miền mà rút kinh nghiệm để điều chỉnh cho ngày một hợp lý hơn rồi mới
nhân rộng.
Năm là, công tác quy hoạch trước hết là sự nỗ lực tổ chức của các cấp chính
quyền, của các chuyên gia có chuyên môn cao, nhưng nhất thiết phải được tiến
hành dân chủ để phát huy vai trò của người dân. Công tác quy hoạch có ảnh hưởng
rất lớn tới dân sinh nên người dân phải được biết, nắm chắc, hiểu rõ thông tin về
quy hoạch. Họ phải là người tham gia xây dựng, phản biện thì quy hoạch mới thỏa
mãn nhu cầu của chính họ. Người dân tham gia, cụ thể hóa ý tưởng và hướng phát
triển nông thôn theo quy hoạch mà ở đó có đầu tư công của nhà nước, có điều kiện
để dân làm, dân canh tác, dân sản xuất, dân trồng trọt, dân sinh sống, dân hưởng lợi
thì quy hoạch đó mới khả thi.
Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn vùng đồng bằng được tăng cường,
điện, đường, trường, trạm… nhất là thủy lợi, giao thông đã được đầu tư xây dựng
tại nhiều nơi, góp phần thúc đẩy sản xuất, từng bước thay đổi bộ mặt nông thôn: tỷ
lệ phần trăm xã có trường học được kiên cố hóa, đạt chuẩn quốc gia về y tế, cư
dân nông thôn có nước sinh hoạt vệ sinh, có điện thoại cố định đã tăng lên rất nhiều
so với thời gian trước.
Đời sống vật chất, tinh thần của cư dân nông thôn ngày càng được cải
thiện:thể hiện qua sự chuyển biến rõ nét của cơ cấu kinh tế nông thôn; xãa đói giảm
nghèo đạt kết quả tốt; thu nhập bình quân đầu người đã tăng lên đáng kể so với thời
gian trước. Công tác chăm sóc sức khỏe có nhiều tiến bộ, nhiều bệnh dịch nguy
hiểm được phát hiện và khống chế kịp thời. Công tác phổ cập giáo dục được đẩy
mạnh, có những chính sách hỗ trợ thích hợp. Hoạt động văn hóa, thể thao được
quan tâm và phát triển hơn;
Hệ thống chính trị ở nông thôn được tăng cường, dân chủ cơ sở được phát
huy. Đến nay, hầu hết các thôn, bản có tổ chức đảng, tỷ lệ cán bộ, công chức xã
được đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ và quản lý đã tăng cao (56 %). Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam cùng với các đoàn thể quần chúng đã tích cực trong giải quyết
nhiều vấn đề ở nông thôn. Việc thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ngày càng đi vào

