Một số vấn Đề trong quản lý, sử dụng bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn và
rừng tràm
Đỗ Đình Sâm
Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
Rừng ngập mặn ven biển và rừng tràm là một trong những hệ sinh thái độc đáo
của vùng đất ngập nước. Vai trò và ý nghĩa kinh tế - môi trường - xã hội của rừng
ngập mặn và rừng tràm đã được khẳng định trong nghiên cứu và trong thực tiễn
không những ở nước ta mà còn ở nhiều nước trên thế giới, đặc biệt nơi có rừng
ngập mặn. ở nước ta, các nghiên cứu, dự án trong và ngoài nước đã đang thực
hiện ở vùng rừng ngập mặn và rừng tràm khá đa dạng và phong phú từ xây dựng
chiến lược quản lý, bảo vệ hệ sinh thái rừng, qui hoạch tổng thể đến tiến hành các
thực nghiệm trên hiện trường. Những cuộc hội thảo quốc tế và trong nước trong
thời gian gần đây cũng đã đề cập tới nhiều khía cạnh liên quan ti rừng ngập mặn
và rừng tràm như đặc điểm hệ sinh thái, các mô hình lâm ngư kết hợp, vấn đề lâm
nghiệp xã hội và các chính sách liên quan, giáo dục tuyên truyền và phcập. Gần
đây nhất, đầu tháng 11 năm 1999 Hội thảo khoa học "Quản lý và sử dụng bền
vững tài nguyên môi trường đất ngập nước cửa sông, ven biển " do Trung tâm
nghiên cứu tài nguyên môi trường (Trường Đại học quốc gia Hà Nội) và Tổ chức
hành động phục hồi rừng ngập mặn (ACTMANG) Nhật Bản đã được tổ chức ở Hà
Nội.
Hướng tới khôi phục và sdụng bền vững hệ sinh thái rừng ngập mặn và rừng
tràm chúng ta hãy khái quát nhìn lại và xem xét những vấn đề chủ yếu đặt ra,
thành tựu đạt được và bài học kinh nghiệm, những khó khăn và trngại cần khắc
phục. Chúng tôi cố gắng xem xét những nội dung cần đặc biệt trong hoàn cảnh
hiện tại và tương lai.
I.Có thể khôi phục lại hệ sinh thái rừng ngập mặn và rừng tràm khi rừng bị phá
hoại
1. Như chúng ta đều biết rừng ngập mặn và rng tràm phân bố tập trung và có
năng suất sinh học cao ở vùng Nam Bthuộc đồng bằng sông Cửu Long. Huỷ diệt
nhiều vùng rừng ngập mặn trên một diện rộng trước hết phải kể tới trong thời kỳ
chiến tranh khi Mỹ sử dụng chất độc màu da cam, đặc biệt vào nhữngm 1966 -
1970. Những diện tích rộng lớn hàng nghìn ha rừng ngập mặn Cần Giờ, Kiến
Vàng (huyện Ngọc Hiển, Cà Mau) hoặc rừng tràm khu vực Tràm Chim ( Đồng
Tháp Mười )… đã bhuỷ diệt hoàn toàn. Tuy nhiên, bằng việc gây trồng lại rừng,
thúc đẩy tái sinh tự nhiên, hàng nghìn ha rừng ngập mặn huyện Cần Giờ đã được
khôi phục trở thành vùng rừng phòng hộ lớn của thành phHồ Chí Minh, một khu
du lịch sinh thái hấp dẫn và hướng tới xây dựng khu bảo tồn thiên nhiên rừng ngập
mặn Cần Giờ, rừng ngập mặn ở Kiến Vàng (Cà mau) cũng được gây trồng lại,
phát triển tốt và nhìn ngoại mạo khó mà phân biệt đó là những diện tích rừng
trồng. Hệ sinh thái rừng tràm tràm chim Đồng Tháp Mười cũng được khôi phục
nhanh sau hoà bình lập lại (1986) với sự xuất hiện của loài Sếu đầu đỏ với rừng
tràm nhiều cỡ tuổi, với các loại cỏ nặng, có mồm- nguồn thức ăn cho sếu và tr
thành khu bảo tồn thiên nhiên Quốc gia Tràm Chim (1994) rồi chuyển thành VQG
Tràm Chim (1998).
Sau khi đất nước thống nhất (1975), nhiều diện tích rừng ngập mặn, rừng tràm b
phá để sản xuất nông nghiệp cũng đã được gây trồng lại, đặc biệt đối với rừng
tràm áp dụng biện pháp Nông Lâm Ngư kết hợp có hiệu quả như ở Lâm trường
Sông Trẹm (Cà Mau ).
Nghiên cứu theo dõi gần đây của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (Nguyễn
Bội Quỳnh, 1999 ) cho thấy sự phát triển tốt của rừng mắm trắng tự nhiên có xu
hướng lấn át cả rừng đước trồng trên vùng đất bãi bồi phía Tây tỉnh Cà Mau sau
khi đã giải toả các vuông tôm do dân xâm chiếm và bao ví vào những năm 1994 -
1995. Nhận xét này cũng thấy rõ khi chúng tôi khảo sát ở một số tỉnh như Kiên
Giang, Sóc Trăng, Trà Vinh… Ngoài loài mắm trắng tiên phong trên đất bãi bồi
non ven biển thì vùng nước lợ, giữa cửa sông và biển ở Trà Vinh đã xuất hiện
những dải rộng lớn bần chua tự nhiên hoặc tái sinh chồi sau khai thác.
Từ kết quả trong thực tiễn có thể thấy rằng: Việc gây trồng, khôi phục lại hệ sinh
thái rừng ngập mặn, rừng tràm trên những diện tích rừng bị phá hoại mà môi
trường đất và nước không bị biến đổi mạnh là hoàn toàn thực hiện được. Môi
trường đất và nước đã tạo điều kiện thuận lợi đã tạo điều kiện thuận lợi khôi phục
lại rừng và hsinh thái. Vấn đề đặt ra không phải ở khía cạnh kỹ thuật mà chủ yếu
khâu tổ chức thực hiện và qun lý bảo vệ rừng được tốt. Có thể nói không có
một hệ sinh thái rừng nhiệt đới nào lại dễ dàng khôi phục lại hoàn toàn khi bphá
huỷ như hệ sinh thái rừng ngập nước này.
2. Giai đoạn 2 của sự thay đổi mạnh mẽ diện tích rừng ngập mặn hầu hết các
tỉnh Nam Bộ là việc phá rừng ngập mặn để nuôi tôm trên một diện rộng, đặc biệt
vào những năm 1993 - 1995 làm cho nhiều rừng ngập mặn bị thu hẹp lại và tạo
nên tình trạng "da báo", xen kẽ không có qui luật giữa các mảnh rừng và vuông
tôm. Do hình thành các vuông tôm nên xuất hiện nhiều bờ liếp cao trên mực thuỷ
triều chiếm một diện tích đáng kể trong khu rừng ngập mặn. Cùng với sự tồn đọng
thức ăn nuôi tôm, bùn ở đáy ao, sự kém lưu thông của nước triều đã làm cho
môi trường đất và nước có nhiều biến đổi, xu hướng ô nhiễm môi trường đất và
nước gia tăng. Rất tiếc cho tới nay chúng ta chưa có đủ tư liệu đánh giá sự biến
đổi, ô nhiễm này trên diện rộng. Một vài nghiên cứu sơ bộ trên diện hẹp tại một số
vuông tôm hay kênh rạch đã xác nhận một số yếu tố ô nhiễm môi trường xuất hiện
như độ pH trong nước giảm, nồng độ NH4
+ tăng, lượng DO giảm, lượng BOD
tăng,… Gần đây, hiện tượng sục bùn và hút bùn trong các đầm nuôi tôm chuyển
vào các kênh rạch cũng tạo nên tình trạng ô nhiễm nhất định môi trường nước và
cũng chưa có nghiên cứu nào được thực hiện. Tất cả sự biến đổi đó dẫn tới sự khôi
phục rừng trong các vùng rừng ngập mặn đã có những thay đổi nhất định:
- Các loài cây có thể gây trồng trên b liếp cao sẽ không phải là các loài cây rừng
ngập mặn mà là các loài khác như kết quả nghiên cứu, khảo sát bước đầu của
Trung tâm rừng ngập mặn Cà Mau khuyến cáo. Các nhóm cây trồng bao gồm: Cây
gỗ (keo lá tràm, keo tai tượng, so đũa, me, muồng đen,… ), các loài cây ăn trái (
sapo, ổi, táo, chuối, dứa, dừa,… ) và rau củ (dưa hấu, bí đỏ, bắp, khoai sọ…).
- Sinh trưởng rừng ngập mặn trồng ở ngoài đồng nuôi tôm và trong một số đầm
nuôi tôm bỏ hoang chắc sẽ bị ảnh hưởng theo chiều bất lợi. Những nghiên cứu này
hiện còn rất ít, loại trừ gần đây có nghiên cứu đề cập đến tăng trưởng, sinh khối
của rừng trồng Trang (Kandelia candel) trong các đầm nuôi tôm bỏ hoang ở Cần
Giờ, thành phố Hồ Chí Minh.
- Có thể nhận thấy rằng cho tới nay, các nghiên cứu về những biến đổi môi trường
đất và nước vùng rừng ngập mặn, mức ngập triều trong điều kiện phá rừng tràn lan
để nuôi tôm cũng như ảnh hưởng các yếu tố môi trường thay đổi tới sinh trưởng
rừng trồng ngập mặn ngoài và trong vuông tôm bhoang còn là một khoảng trống
lớn. Chỉ dựa trên các cơ sở nghiên cứu nhất định chúng ta mới thể đề xuất và
thực nghiệm các biện pháp phù hp nhằm khôi phục rừng ngập mặn trong điều
kiện môi trường thay đổi đạt kết quả khả quan. Phải chăng đó là những nội dung
quan trọng chúng ta cần quan tâm nghiên cứu trong thời gian tới.
II. Kinh doanh tổng hợp rừng ngập mặn và rừng tràm - những vấn đề thực tiễn đặt
ra.
Trong hoàn cảnh Việt Nam có thể khẳng định kinh doanh tổng hợp rừng ngập
mặn, rừng tràm đặc biệt áp dụng các mô hình nông - lâm - ngư kết hợp là phù hợp,
nhất là đối với vùng đồng bằng sông Cửu Long, nơi có tỷ lệ hộ nghèo khá cao.
1. Đối với vùng rừng ngập mặn các mô hình lâm ngư kết hợp giữa rừng và nuôi
tôm theo kinh nghim nhiều nước là rừng 70-75%, vuông tôm 25-30% có thể đảm
bảo sử dụng bền vững tài nguyên và môi trường rừng ngập mặn. Tuy nhiên, do lợi
ích trước mắt thời gian qua đã xảy ra hiện tượng phá tràn lan và với tỷ lệ cao rừng
ngập mặn để nuôi tôm, để lại hậu quả về sinh thái và môi trường khá lớn, dẫn tới
thất bại trong nhiều mô hình lâm ngư kết hợp, nảy sinh ra một số vấn đề chủ yếu
cần quan tâm:
+ Tỷ lệ rừng/ tôm là bao nhiêu thì phù hợp? Chúng ta cũng đã tiến hành một số
nghiên cứu nhất định để rút ra những kết luận cần thiết, nhưng do rừng bị phá hoại
mạnh trong thời gian qua nên các nghiên cứu không còn tiếp tục được. Tuy nhiên,
với câu hỏi này trong điều kiện hiện nay chúng ta cần áp dụng các tỷ lệ rừng/ tôm
tối thiểu đã nêu trên.
+ Việc quy hoạch tổng thể lại các mô hình lâm ngư kết hợp là hết sức quan trọng
để có kế hoạch lâu dài khôi phục lại hệ sinh thái rừng ngập mặn. Những điều tra
tổng thể, đánh giá lại rừng, vuông tôm, liếp cao trong vùng rừng ngập mặn cần
phải được tiến hành làm cơ sở qui hoạch lại. Trong qui hoạch, chúng ta cần chú ý
tới những kết quả đánh giá đất đai và phân chia các lập địa vùng rừng ngập mặn
đặc biệt của Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam và Trung tâm nghiên cứu rừng
ngập Cà Mau liên quan tới việc xây dựng các mô hình lâm - ngư kết hợp khác
nhau như rừng - tôm hoặc tôm - rừng hoặc kinh doanh rừng kết hợp nuôi tôm vv…
+ Những biện pháp kỹ thuật khôi phục lại rừng kết hợp kinh doanh thuỷ sản, đặc
biệt trong điều kiện biến đổi môi trường đất và nước cần phải dựa trên những cơ
sở khoa học nhất định và cần có những nghiên cứu, thực nghiệm có kết hợp chặt
chẽ giữa một số ngành khoa học khác nhau như Lâm nghiệp, Thuỷ lợi, Thuỷ sản
v.v… Tổng kết kinh nghiệm của dân, phổ cập và thông tin đầy đủ tới người dân là
một khâu khá then chốt. Những thất bại trong các mô hình lâm ngư kết hợp vừa
qua đã chỉ ra các khâu rất then chốt phải thực hiện như chọn giống tôm, biện pháp