Luận văn

Rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Chi nhánh Cần Thơ Thực trạng và giải pháp

MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU ....................................................................................................1

I. Sự cần thiết của đề tài: ..........................................................................1

II. Mục tiêu của đề tài:..............................................................................1

III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài: ....................................2

IV. Phương pháp nghiên cứu của đề tài: ..................................................2

V. Cấu trúc nội dung nghiên cứu của đề tài: ............................................2

VI. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu: .......................3

CHƯƠNG 1: RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ........................................................................1

I. Rủi ro trong hoạt động của các NHTM: ...............................................1

1. Khái niệm về rủi ro trong hoạt động ngân hàng: ......................1

2. Đặc điểm của rủi ro trong hoạt động ngân hàng: ......................1

2.1. Rủi ro có tính chất đa dạng và phức tạp:.....................1

2.2. Rủi ro có tính tất yếu:..................................................1

3. Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng: .............................1

II. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các NHTM:................................3

1. Khái niệm về rủi ro tín dụng: ....................................................3

2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng:....................................................4

2.1. Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp: ......4

2.2. Rủi ro tín dụng có tính tất yếu:....................................4

2.3. Rủi ro tín dụng có thể dự báo trước hoặc không thể

dự báo: ........................................................................5

3. Biểu hiện của rủi ro tín dụng:....................................................5

4. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng:..............................................6

4.1. Nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế và các

cơ quan quản lý Nhà Nước: ........................................6

4.1.1. Xuất phát từ hệ thống thông tin: ...................6

4.1.2. Xuất phát từ hệ thống văn bản luật: .............7

4.1.3. Xuất phát từ công tác kiểm tra, thanh tra:....7

4.1.4. Xuất phát từ các cơ quan ban ngành liên quan: ............................................................8

1

4.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía các NHTM: ...............9

4.2.1. Xuất phát từ cán bộ quản lý, cán bộ tín dụng: ............................................................9

4.2.2. Xuất phát từ chính sách, quy trình tín dụng và sự vận dụng chính sách, quy trình tín dụng chưa nghiêm túc:...............................10

4.2.3. Xuất phát từ công tác thẩm định:................11

4.2.4. Xuất phát từ tài sản bảo đảm:.....................13

4.2.5. Xuất phát từ thông tin tín dụng:..................15

4.2.6. Xuất phát từ hoạt động kiểm soát nội bộ:...15

4.3. Nguyên nhân từ phía khách hàng đi vay:..................16

4.3.1. Đối với khách hàng là doanh nghiệp:.........16

4.3.1. Đối với khách hàng là cá nhân:..................17

4.4. Nguyên nhân khác:....................................................17

5. Tác động của rủi ro tín dụng: ..................................................18

5.1. Tác động đối với hoạt động kinh doanh của các

NHTM:......................................................................19

5.2. Đối với nền kinh tế nói chung:..................................19

III. Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại:..................................................................................................20

1. Khái niệm và mục tiêu của công tác quản trị rủi ro tín dụng:.21

2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng: .21

2.1. Kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là loại hình kinh doanh đặc biệt, tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có rủi ro tín dụng:......................................................21

2.2. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM phụ

thuộc vào mức độ rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng: 22

2.3. Quản trị rủi ro tín dụng tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng của các NHTM:......................................................................22

3. Khung quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng: .....................22

3.1. Hoạch định chiến lược hoạt động tín dụng: ..............23

3.2. Xác định rủi ro hiện có và rủi ro tiềm tàng: ..............23

3.3. Xây dựng các chính sách và quy trình tín dụng:.......24

3.4. Giám sát và kiểm tra tín dụng: ..................................24

2

3.5 Cơ cấu tổ chức:...........................................................24

3.6. Trách nhiệm cá nhân đối với chất lượng cho vay: ....25

3.7. Hệ thống tính điểm tín dụng: ....................................25

4. Nguyên tắc của Basel về quản trị rủi ro tín dụng:...................25

4.1. Nguyên tắc 1: ............................................................25

4.2. Nguyên tắc 2: ............................................................25

4.3. Nguyên tắc 3: ............................................................26

4.4. Nguyên tắc 4: ............................................................26

4.5. Nguyên tắc 5: ............................................................26

4.6. Nguyên tắc 6: ............................................................27

4.7. Nguyên tắc 7: ............................................................27

4.8. Nguyên tắc 8: ............................................................27

4.9. Nguyên tắc 9: ............................................................27

5. Kinh nghiệm của các ngân hàng Thái Lan trong việc quản trị

rủi ro tín dụng: .......................................................................27 CHƯƠNG 2: ĐIỀU TRA KHẢO SÁT VÀ KẾT QUẢ................................29

I. Đề xuất bảng câu hỏi khảo sát: ...........................................................29

1. Mục tiêu đề xuất bảng câu hỏi khảo sát: .................................29

2. Một số hạn chế khi thực hiện việc khảo sát: ...........................29

II. Kết quả khảo sát thực tế:....................................................................30

1. Khảo sát nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng: ......................31

2. Khảo sát giải pháp giúp hạn chế rủi ro tín dụng: ....................32

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CN CẦN THƠ.........................................................................................................33

I. Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội và hoạt động ngân hàng của TP.Cần Thơ trong thời gian qua: ....................................................33

II. Tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ:.........36

III. Thực trạng công tác huy động và sử dụng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ trong thời gian qua: ...............37

1. Công tác nguồn vốn: ...............................................................37

2. Công tác sử dụng vốn:.............................................................38

2.1. Tình hình sử dụng vốn qua 03 năm:..........................38

2.2. Tình hình phân loại nợ và trích lập dự phòng để xử

3

lý rủi ro trong 03 năm, tổng hợp và xử lý nợ xấu:....40

IV. Phân tích các nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro tín dụng tại NNTVN–CNCT trong thời gian qua: .............................................43

1. Nguyên nhân khách quan: .......................................................43

1.1. Môi trường tự nhiên: .................................................43

1.2. Văn bản luật: .............................................................43

1.3. Thông tin tín dụng:....................................................44

2. Nguyên nhân chủ quan từ phía NHNTVN–CNCT:................45

2.1. Cán bộ tín dụng: ........................................................45

2.2. Thông tin tín dụng:....................................................46

2.3. Tài sản bảo dảm: .......................................................46

2.4. Chính sách tín dụng, quy trình tín dụng:...................48

2.5. Công tác thẩm định: ..................................................48

2.6. Nguyên nhân khác:....................................................50

3. Nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng vay vốn:..........50

3.1. Đối với khách hàng là doanh nghiệp: .......................50

3.2. Đối với khách hàng là cá nhân:.................................52

CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG ...............................................................................................................53

I. Nhóm giải pháp đối với Chính Phủ và các cơ quan ngang bộ (Ngân hàng Nhà Nước, Bộ Tài Chính, Bộ Tài Nguyên và Môi Trường,...): ......................................................................................53

1. Các vấn đề liên quan đến văn bản luật:...................................53

2. Các vấn đề liên quan đến thông tin tín dụng:..........................53

3. Các vấn đề liên quan đến tài sản bảo đảm: .............................55

II. Nhóm giải pháp đối với NHNTVN – CN Cần Thơ:..........................56

1. Các vấn đề liên quan đến cán bộ tín dụng:..............................56

1.1. Đối với bản thân cán bộ tín dụng: .............................56

1.2. Đối với ngân hàng:....................................................57

2. Các vấn đề liên quan đến thông tin tín dụng:..........................58

3. Các vấn đề liên quan đến tài sản bảo đảm: .............................59

4. Các vấn đề liên quan đến chính sách tín dụng, quy trình tín dụng: ......................................................................................59

4

5. Các vấn đề liên quan đến công tác thẩm định:........................63

LỜI MỞ ĐẦU ----------

I. Sự cần thiết của đề tài:

Thực tiễn hoạt động của các NHTMVN trong hơn 20 năm đổi mới vừa qua đã cho chúng ta thấy tình trạng khó khăn về tài chính của một ngân hàng thường phát sinh từ những khoản cấp tín dụng khó đòi, điển hình như: việc đổ vỡ hàng loạt quỹ tín dụng, NHTMCP của những năm 1989-1990, việc đặt một số NHTMCP vào tình trạng giám sát đặc biệt những năm 1999-2000, hay những vụ án lớn và việc tiến hành xử lý một khối lượng nợ tồn đọng khá lớn của các NHTMNN từ năm 2000 trở về trước đã chứng minh rất rõ điều này. Thêm vào đó, nhìn vào kết cấu tài sản của các NHTMVN chúng ta nhận thấy: tài sản sinh lời là các khoản cấp tín dụng luôn chiếm tỷ trọng khá lớn 60%-70% tài sản có, thậm chí có một số NHTM tỷ lệ này lên đến 80%.

Chính vì vậy, tín dụng luôn được đánh giá là một trong các loại nghiệp vụ ngân hàng phức tạp và có độ rủi ro cao, và vấn đề quản lý rủi ro tín dụng là vấn đề luôn được các NHTMVN quan tâm hàng đầu, nhất là hiện nay khi Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình hội nhập vào Tổ chức thương mại thế giới (WTO).

Với mục tiêu hướng tới xây dựng mô hình một NHTM đạt tiêu chuẩn quốc tế, hiện đại và vững mạnh, Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam nói chung và Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam – chi nhánh Cần Thơ nói riêng trong quá trình chuyển đổi của mình luôn quan tâm và đặt lên hàng đầu đối với vấn đề kiểm soát tốt các loại rủi ro, trong đó đặc biệt là rủi ro tín dụng.

Đó cũng là lý do Tác giả chọn đề tài “Rủi ro tín dụng tại Ngân hàng

Ngoại Thương Việt Nam Chi nhánh Cần Thơ - Thực trạng và giải pháp”.

II. Mục tiêu của đề tài:

Đề tài nghiên cứu muốn hướng đến các mục tiêu:

- Góp phần làm rõ hơn các lý luận về hoạt động tín dụng và rủi ro trong

hoạt động tín dụng.

- Phân tích thực trạng hoạt động tín dụng và các nguyên nhân dẫn đến rủi

1

ro tín dụng tại NHNTVN-CNCT.

- Trên cơ sở lý luận, phân tích thực trạng và nguyên nhân, đề tài nêu ra một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro cho hoạt động tín dụng tại NHNTVN-CNCT nói riêng và các NHTMVN nói chung.

III. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài:

Đối tượng nghiên cứu của đề tài: tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và các giải pháp góp phần hạn chế rủi ro tín dụng để có thể góp phần nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng tại NHNTVN-CNCT.

Phạm vi nghiên cứu: tác giả nghiên cứu giữa lý luận và thực tế nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng trong thời gian ba năm qua (2004-2006) tại NHNTVN-CNCT, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm để hạn chế rủi ro tín dụng.

IV. Phương pháp nghiên cứu của đề tài:

Cùng với việc nghiên cứu các lý luận thuộc chuyên ngành kinh tế, tài

chính, ngân hàng, đề tài nghiên cứu đã được thực hiện trên cơ sở:

- Thu thập, tổng hợp các số liệu thực tế về hoạt động tín dụng tại

NHNTVN-CNCT.

- Ghi nhận các ý kiến, nhận định của các cán bộ tín dụng thông qua các mẫu điều tra về nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và các giải pháp góp phần hạn chế rủi ro tín dụng.

- Trao đổi kinh nghiệm với các cán bộ tín dụng công tác tại NHNTVN-

CNCT, và các cán bộ công tác trong ngành tài chính, ngân hàng nói chung.

- Trên cơ sở lý luận, các số liệu thực tế tổng hợp được, kết quả các mẫu điều tra, và các ý kiến nhận định của các cán bộ tín dụng, tác giả sử dụng các phương pháp thống kê, đối chiếu, so sánh để phân tích, đánh giá thực trạng hoạt động tín dụng của NHNTVN-CNCT, tìm hiểu các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và đưa ra giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.

V. Cấu trúc nội dung nghiên cứu của đề tài:

Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài nghiên cứu được tác giả trình bày

2

gồm bốn chương:

- Chương 1: Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các NHTM.

- Chương 2: Điều tra khảo sát và các kết quả đạt được.

- Chương 3: Thực trạng về hoạt động quản lý rủi ro tín dụng tại NHNTVN-

CNCT.

- Chương 4: Giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại NHNTVN-CNCT.

VI. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu:

Đề tài nghiên cứu dựa trên thực trạng hoạt động tín dụng của hệ thống NHTM nói chung và NHNTVN-CNCT nói riêng. Tác giả phân tích thực trạng kết hợp với các nghiên cứu, lý luận, tư duy của nhiều nhà nghiên cứu, chuyên gia ngân hàng cũng như kinh nghiệm bản thân, đồng nghiệp trong quá trình tham gia hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng để đưa ra các ý kiến, nhận định, giải pháp, nhằm đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng.

3

Qua việc nghiên cứu các nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong hoạt động tín dụng và đề xuất giải pháp nhằm hạn chế rủi ro, tác giả mong muốn những suy nghĩ, đề xuất và những gì mình học hỏi được sẽ giúp ích cho công việc thực tế, từ đó góp phần nâng cao mức độ hiệu quả và an toàn trong hoạt động tín dụng nơi NHTM tác giả đang công tác, và xa hơn nữa, mong muốn đề tài nghiên cứu sẽ được áp dụng trong hoạt động của các NHTMVN.

CHƯƠNG 1: RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

I. Rủi ro trong hoạt động của các NHTM:

1. Khái niệm về rủi ro trong hoạt động ngân hàng:

Định nghĩa truyền thống: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là những biến cố không mong đợi xảy ra, gây mất mát, thiệt hại tài sản, thu nhập của ngân hàng trong quá trình hoạt động.

Định nghĩa hiện đại: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng là khả năng những sự kiện chưa chắc chắn trong tương lai sẽ làm cho chủ thể là các NHTM không thể đạt được những mục tiêu chiến lược và mục tiêu hoạt động, cũng như chi phí cơ hội của việc làm mất đi những cơ hội thị trường.

2. Đặc điểm của rủi ro trong hoạt động ngân hàng:

2.1. Rủi ro có tính chất đa dạng và phức tạp:

Đặc điểm này biểu hiện ở sự đa dạng và phức tạp của các nguyên nhân dẫn đến rủi ro, cũng như các hậu quả do rủi ro gây ra. Nhận thức và vận dụng đặc điểm này, khi thực hiện phòng ngừa và hạn chế rủi ro cần áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp, không chủ quan với bất cứ một dấu hiệu rủi ro nào. Bên cạnh đó, trong quá trình xử lý hậu quả rủi ro cần xuất phát từ nguyên nhân, bản chất và hậu quả của rủi ro để đưa ra biện pháp phù hợp.

2.2. Rủi ro có tính tất yếu:

Theo nhận định của các chuyên gia kinh tế, hoạt động kinh doanh ngân hàng thực chất là quản lý rủi ro ở mức độ phù hợp để đạt được mức lợi nhuận tương ứng. Trong từng nghiệp vụ ngân hàng có rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến rủi ro. Việc tiềm ẩn nguy cơ rủi ro đối với từng hoạt động ngân hàng là điều mang tính tất yếu.

3. Phân loại rủi ro trong hoạt động ngân hàng:

1

Do đặc thù ngân hàng là một tổ chức kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ ngân hàng theo Luật các TCTD nên tính chất hoạt động và rủi ro có những khác biệt so với các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh vực khác. Có

thể nói, hoạt động ngân hàng liên quan đến việc chấp nhận rủi ro chứ không phải né tránh rủi ro. Các NHTM cần đánh giá các cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro chấp nhận. Các NHTM sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro mà ngân hàng gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được, đồng thời nằm trong phạm vi, khả năng các nguồn lực tài chính và năng lực tín dụng của mình.

Hoạt động kinh doanh của các NHTM không chỉ bao gồm nghiệp vụ huy động vốn và cấp tín dụng mà còn rất nhiều lĩnh vực hoạt động khác như bảo lãnh, kinh doanh ngoại hối, chứng khoán, góp vốn liên doanh, dịch vụ thẻ... Chính vì vậy nên rủi ro trong hoạt động của các NHTM cũng rất đa dạng:

- Rủi ro tín dụng: là rủi ro về sự tổn thất tài chính, phát sinh từ việc khách hàng đi vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc việc khách hàng mất khả năng thanh toán. Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi vay có thể bị trì hoãn, thậm chí là không được hoàn trả, và hậu quả là sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự luân chuyển tiền tệ và sự bền vững của tính chất trung gian dễ bị tổn thương trong hoạt động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác như tài trợ thương mại, thấu chi, bao thanh toán…

- Rủi ro lãi suất: là rủi ro làm giảm lợi nhuận ròng khi lãi suất biến động theo chiều hướng bất lợi. Rủi ro lãi suất xảy ra khi có sự chênh lệch giữa kỳ hạn bình quân của các tài sản và các khoản nợ của ngân hàng trong điều kiện lãi suất thị trường thay đổi ngoài dự kiến của ngân hàng dẫn đến khả năng giảm thu nhập của ngân hàng so với dự tính.

- Rủi ro thanh khoản: là rủi ro phát sinh chủ yếu từ xu hướng của các NHTM là huy động ngắn hạn và cho vay dài hạn, hay nói cách khác là rủi ro khi các NHTM không đáp ứng được cho các khoản phải trả khi đến hạn thanh toán do tài sản của ngân hàng không có khả năng thanh khoản hay không thể huy động vốn. Trường hợp này thường xảy ra nếu như các khoản huy động về mặt kỹ thuật sẽ phải hoàn trả theo yêu cầu của người gửi tiền. Đặc biệt, như chúng ta đã thấy trong bất cứ một cuộc khủng hoảng nào thì người gửi tiền sẽ rút tiền của mình ra nhanh hơn việc người đi vay sẵn sàng trả nợ.

2

- Rủi ro ngoại hối: là rủi ro phát sinh khi có sự chênh lệch về kỳ hạn của các khoản ngoại hối mà các NHTM đang nắm giữ, và vì thế làm cho các NHTM có thể phải gánh chịu thua lỗ khi tỷ giá ngoại hối biến động.

- Rủi ro hoạt động: là rủi ro liên quan đến công nghệ, cơ sở hạ tầng, quy trình, con người trong quá trình hoạt động kinh doanh ngân hàng, hay nói cách khác rủi ro hoạt động bao gồm toàn bộ các rủi ro có thể phát sinh từ cách thức mà một NHTM điều hành các hoạt động của mình.

- Rủi ro luật pháp: là rủi ro ngân hàng có thể bị khởi kiện vì để xảy ra những sai sót hoặc sự cố trong quá trình hoạt động kinh doanh gây thiệt hại cho khách hàng và đối tác. Rủi ro luật pháp mà các NHTM phải đối mặt có thể tiềm ẩn trong nhiều lĩnh vực kinh doanh. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro luật pháp có thể là do con người hoặc do công nghệ máy móc. Thậm chí, NHTM có thể gặp phải rủi ro luật pháp ngay cả khi ngân hàng không phải là bên gây thiệt hại.

- Rủi ro chiến lược: là rủi ro phát sinh từ những thay đổi trong môi trường hoạt động của các NHTM trên phạm vi rộng hơn về mặt kinh doanh và tài chính. Rủi ro chiến lược cũng có thể phát sinh từ các hoạt động của bản thân các NHTM.

- Rủi ro uy tín: là rủi ro khi các NHTM bị dư luận đánh giá xấu, gây khó khăn nghiêm trọng cho hoạt động của ngân hàng trong việc tiếp cận nguồn vốn hoặc khách hàng rời bỏ ngân hàng.

- Rủi ro thị trường: là loại rủi ro tổn thất tài sản, xảy ra khi lãi suất, tỷ giá hay giá cả thị trường biến động theo chiều hướng xấu. Nói cách khác, rủi ro thị trường xảy ra khi có sự thay đổi của các điều kiện thị trường hay những biến động của thị trường.

II. Rủi ro tín dụng trong hoạt động của các NHTM:

1. Khái niệm về rủi ro tín dụng:

Có nhiều định nghĩa về rủi ro tín dụng:

3

- Rủi ro tín dụng: là rủi ro về sự tổn thất tài chính, phát sinh từ việc khách hàng đi vay không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các nghĩa vụ trả nợ đúng hạn theo cam kết hoặc việc khách hàng mất khả năng thanh toán. Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán bao gồm cả phần gốc và lãi vay có thể bị trì hoãn, thậm chí là không được hoàn trả, và hậu quả là sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự luân chuyển tiền tệ và sự bền vững của tính chất trung gian dễ bị tổn thương trong hoạt động của ngân hàng. Rủi ro tín dụng không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay, mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác như tài trợ thương mại, thấu chi, bao thanh toán…

- Rủi ro tín dụng: theo Điều 2 “Quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng” ban hành kèm theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN, rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết.

HÌNH 1: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM CẦN THỐNG NHẤT

Phải chấp nhận rủi ro. Không có rủi ro không có lợi nhuận.

(cid:214)

Khả năng vốn và tài chính của ngân hàng có hạn.

(cid:214)

Ngân hàng chỉ có thể chấp nhận một mức độ rủi ro nhất định.

(cid:214)

Rủi ro tín dụng thường là nguyên nhân chính dẫn đến sự đỗ vỡ của ngân hàng. Quản lý rủi ro tín dụng phải được xem là vấn đề sống còn.

Đòi hỏi trình độ chuyên môn cao của cán bộ tín dụng.

(cid:214)

Rủi ro tín dụng xảy ra do nguyên nhân khác nhau khó lường trước.

2. Đặc điểm của rủi ro tín dụng:

2.1. Rủi ro tín dụng có tính chất đa dạng và phức tạp:

Tính chất đa dạng và phức tạp của rủi ro tín dụng biểu hiện ở sự đa dạng và phức tạp của các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, cũng như các hậu quả do rủi ro tín dụng gây ra. Nhận thức và vận dụng đặc điểm này, khi thực hiện phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng cần áp dụng đồng bộ nhiều biện pháp, không chủ quan với bất cứ một dấu hiệu rủi ro nào. Bên cạnh đó, trong quá trình xử lý hậu quả rủi ro tín dụng cần xuất phát từ nguyên nhân, bản chất và hậu quả của rủi ro để đưa ra biện pháp phù hợp.

2.2. Rủi ro tín dụng có tính tất yếu:

4

Các chuyên gia kinh tế đều cho rằng hoạt động kinh doanh ngân hàng thực chất là quản lý rủi ro (chủ yếu là rủi ro tín dụng) ở mức độ phù hợp để đạt được mức lợi nhuận tương ứng. Do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn

đến rủi ro, đặc biệt do không thể có được thông tin cân xứng về việc sử dụng vốn vay cho hoạt động kinh doanh của khách hàng vay, nên bất cứ khoản cho vay nào cũng tiềm ẩn nguy cơ rủi ro đối với hoạt động tín dụng của các NHTM. Vì vậy trong quá trình cấp tín dụng cho khách hàng, các NHTM cần chủ động có các biện pháp thích hợp để xác định rủi ro, định lượng rủi ro, quản lý rủi ro và kiểm soát rủi ro.

2.3. Rủi ro tín dụng có thể dự báo trước hoặc không thể dự báo:

Các rủi ro có thể dự báo trước: danh mục cho vay hay đầu tư của một NHTM luôn luôn có một số khoản thất thoát tiềm tàng chưa được xác định. Tuy nhiên, nếu giả định rằng các đặc điểm chung của danh mục cho vay nhìn chung vẫn giống nhau trong một giai đoạn hợp lý thì các NHTM có thể dự báo các khoản thất thoát này với một mức độ tương đối chính xác bằng cách nghiên cứu các đặc điểm diễn biến của danh mục cho vay theo thời gian.

Các rủi ro không thể dự báo trước: có nhiều sự kiện nằm ngoài tầm kiểm soát của các NHTM, các cú sốc ngoại sinh do các điều kiện chưa phát sinh tại thời điểm ký kết một thỏa thuận kinh doanh,...là những nguyên nhân có thể dẫn đến rủi ro mà các NHTM không thể dự báo trước.

3. Biểu hiện của rủi ro tín dụng:

Vì rủi ro tín dụng là khả năng (xác suất) vỡ nợ của khách hàng nên:

- Những khách hàng phá sản, lừa đảo, chây ỳ trong việc trả nợ là biểu

hiện rõ nhất.

- Bên cạnh đó, các khoản nợ không trả được khi đến hạn ở các cấp độ

khác nhau cũng thể hiện các khả năng vỡ nợ khác nhau.

Từ thước đo rủi ro tín dụng cho thấy rủi ro ở độ rộng với những tầng nấc khác nhau. Vấn đề không phải là ở con số nợ xấu chiếm bao nhiêu % tổng dư nợ, mà nợ xấu được định lượng ở độ rộng hay hẹp. Dù áp dụng phương pháp nào, tính chính xác của kết quả phụ thuộc rất nhiều vào việc cán bộ tín dụng các cấp có thực sự nghiêm túc trong việc nhìn nhận rủi ro tín dụng và chính sách quản lý rủi ro có nhằm mục tiêu tạo nên tính minh bạch trong việc xác định rủi ro hay không.

5

Có nhiều tiêu chí phản ảnh rủi ro tín dụng của các NHTM như:

- Nợ xấu và tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, trên vốn chủ sở hữu, trên quỹ

dự phòng tổn thất.

- Nợ đáng nghi ngờ (có vấn đề): khả năng chuyển thành nợ xấu cao.

- Nợ không có tài sản bảo đảm.

Hiện tại, nếu áp dụng phân loại nợ theo các chuẩn mực kế toán quốc tế được thừa nhận (IAS) thì tình hình nợ quá hạn và nợ xấu của các NHTMVN nghiêm trọng hơn nhiều lần so với báo cáo của từng ngân hàng, vì:

- Nhiều khoản nợ các NHTM đang hạch toán ở tài khoản nợ trong hạn nhưng thực tế đã là nợ xấu vì khách hàng kinh doanh thua lỗ hoặc đã khó khăn trong việc trả nợ đầy đủ, đúng hạn.

- Không ít khoản vay trong danh mục tín dụng của các NHTM là nợ trong hạn song đã được ngân hàng gia hạn hoặc đảo nợ do người vay không đủ khả năng thanh toán.

Do phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro xử lý nợ xấu chưa nhất quán với thông lệ quốc tế nên hiện nay, việc đánh giá chất lượng tín dụng thực chất như thế nào là hết sức khó khăn, thậm chí không thể làm được. Đây là trở ngại rất lớn đối với các NHTMVN khi bước vào cạnh tranh và hội nhập với các ngân hàng có yếu tố nước ngoài. Chính vì vậy, việc đổi mới phương pháp đánh giá chất lượng tín dụng, áp dụng dần các chuẩn mực IAS trong phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro xử lý nợ xấu là vấn đề hết sức cấp thiết đối với hệ thống các NHTMVN.

4. Nguyên nhân của rủi ro tín dụng:

4.1. Nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế và các cơ quan

quản lý Nhà Nước:

4.1.1. Xuất phát từ hệ thống thông tin:

Thông tin tín dụng bao gồm thông tin lịch sử, thông tin hiện tại và xu hướng phát triển của khách hàng trong tương lai (gồm cả thông tin về tài chính và phi tài chính) và đặc biệt là các thông tin thống kê về các chỉ tiêu trung bình ngành phục vụ cho việc xếp loại khách hàng vay.

6

Hiện nay, các NHTM không chỉ quan tâm đến việc hỏi tin về xếp hạng doanh nghiệp nhằm đánh giá khách hàng có quan hệ tín dụng mà còn sử dụng

thông tin vào những mục đích khác như mở rộng đối tượng cho vay, thực hiện công tác marketing đến khách hàng truyền thống, khách hàng tiềm năng, và mở rộng thị phần trên thị trường. Tuy nhiên:

- Hệ thống thông tin của Việt Nam hiện nay còn khá nhiều bất cập, Việt Nam chưa có cơ chế công bố thông tin đầy đủ. Trong thời gian qua, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc NHNN hoạt động đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tín dụng nhưng chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp hoạt động một cách độc lập và hiệu quả.

- Vai trò nối kết các NHTM của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) còn

lỏng lẻo, chưa đạt được kết quả như mong muốn.

Đây chính là thách thức cho các NHTMVN trong việc mở rộng và kiểm soát hoạt động tín dụng. Nếu các NHTM cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin bất cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu.

4.1.2. Xuất phát từ hệ thống văn bản luật:

Về cơ bản, hoạt động tín dụng của các NHTM đã được Luật hóa trong các văn bản Luật và các văn bản pháp quy của Chính Phủ, NHNN. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, phân tích, đồng thời, đúc kết từ những trường hợp rủi ro trong thực tế hoạt động của các NHTM cho thấy vẫn còn những “lỗ hỏng” khá nguy hiểm, đó vừa là những nguyên nhân sâu xa, vừa là những nguyên nhân ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro tín dụng của các NHTM.

- Hoạt động tín dụng của các NHTM hiện nay chịu sự điều chỉnh, chi phối của khá nhiều luật, văn bản dưới luật chồng chéo, không rõ ràng, không hợp lý, thiếu tính chặt chẽ và chưa thật sự hoàn chỉnh .

- Chính Phủ thường xuyên ban hành mới các chính sách về thuế, về xuất nhập khẩu, hoặc các quy định về đất đai, nhà ở…Khi một chính sách bị thay đổi đột ngột sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh, ảnh hưởng đến kế hoạch, cũng như khả năng dự báo sức tiêu thụ trên thị trường của các doanh nghiệp. Việc định hướng chiến lược sản xuất, kinh doanh không phù hợp, không chính xác sẽ dẫn đến sản xuất cung vượt cầu, hàng hóa khó tiêu thụ, giá bán hạ, thua lỗ, khách hàng sẽ không đảm bảo nguồn tiền trả nợ cho các NHTM.

7

4.1.3. Xuất phát từ công tác kiểm tra, thanh tra:

Hiện nay, bên cạnh những cố gắng và kết quả đạt được, hoạt động thanh

tra, kiểm tra, giám sát của NHNN đối với các NHTM chưa thật sự có hiệu quả:

- Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra còn chưa nắm bắt kịp thời.

- Nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát còn lạc hậu, chậm được đổi mới, hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh, ít có khả năng ngăn chặn, phòng ngừa rủi ro và vi phạm.

4.1.4. Xuất phát từ các cơ quan ban ngành liên quan:

Hoạt động của các cơ quan ban ngành có liên quan đến hoạt động tín dụng

của các NHTM hiện nay có thể nói còn nhiều vấn đề cần bàn luận:

- Quản lý doanh nghiệp còn lỏng lẻo, cấp phép tràn lan.

- Công chứng tài sản thế chấp sai pháp luật.

- Cơ quan thi hành án thông đồng với người thi hành án, trung tâm bán

đấu giá tài sản thế chấp tiêu cực.

- Sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương: Trong những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính Phủ, NHNN và các cơ quan ban ngành có liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy luật và các văn bản hướng dẫn đều đã được ban hành song việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì lại hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc. Các cơ quan pháp luật lại chậm chạp trong quá trình thực thi chức năng của mình.

- Sự can thiệp không chính thức của các cơ quan công quyền trong việc cho vay, cản trở việc đánh giá khách hàng của các NHTM. Có thể phân tích ở hai khía cạnh đó là: các NHTM không thể từ chối cho vay nên việc thẩm định các khoản vay, đánh giá năng lực thật sự của khách hàng chỉ mang tính thủ tục; và do có sự can thiệp của các cấp chính quyền trong việc cấp tín dụng mà chủ yếu là các DNNN nên các NHTM có tâm lý ỷ lại, vì khi có rủi ro xảy ra thì nhà nước cũng có cơ chế xử lý. Tâm lý trên đã làm giảm chất lượng công tác thẩm định, khoản vay vì vậy mang nhiều rủi ro, làm tăng nợ xấu.

- Công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng - Bộ Tài chính (DATC) hoạt

8

động chưa hiệu quả.

4.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía các NHTM:

4.2.1. Xuất phát từ cán bộ quản lý, cán bộ tín dụng:

Đạo đức của cán bộ tín dụng là một trong những yếu tố quan trọng để giải quyết vấn đề hạn chế rủi ro tín dụng. Một cán bộ hạn chế về năng lực có thể được bồi dưỡng thêm để nâng cao trình độ, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi về mặt nghiệp vụ thì thật sự nguy hiểm khi được bố trí trong công tác tín dụng. Điều này có thể nhận thấy qua các vụ án kinh tế lớn trong thời gian vừa qua có liên quan đến hoạt động ngân hàng đều có sự tiếp tay của những cán bộ tín dụng cùng với khách hàng hoặc bản thân cán bộ tín dụng cố ý:

- Thực hiện trái với qui trình tín dụng.

- Trực tiếp thu nợ nhưng không nộp mà dùng cho mục đích cá nhân.

- Lập hồ sơ giả để vay tiền cá nhân, nhờ người vay hộ,…

- Tẩy xóa, sửa chữa chứng từ có giá để thế chấp vay tiền.

- Định giá TSBĐ không đúng giá trị thực do thông đồng với khách hàng.

Bên cạnh vấn đề đạo đức, năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ tín dụng hiện nay chưa đáp ứng nhu cầu công việc. Điều này có thể thấy trong thực tế qua việc bố trí công việc chưa phù hợp với trình độ chuyên môn, bản thân từng cán bộ chưa có ý thức tự nâng cao nghiệp vụ. Ngoài ra có thể nhận thấy rõ nét nhất là công tác phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng của các NHTM hiện nay không theo chuyên ngành kinh tế, từ đó dẫn đến việc:

- Cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa năng, không chuyên sâu vào một ngành nghề cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành. Khách hàng khi cung cấp các dự án, có nhiều thông số kỹ thuật máy móc chuyên ngành hoàn toàn xa lạ với cán bộ tín dụng. Thuê chuyên gia đánh giá đòi hỏi chi phí cao nên chủ yếu mà các ngân hàng thường làm trong những trường hợp này là tự tìm hiểu thông tin thông qua sách, báo, tạp chí chuyên ngành, qua mạng internet.

9

- Nếu cán bộ tín dụng không có kiến thức chuyên môn về chuyên ngành cần thẩm định sẽ đưa ra những đánh giá sai, gây bức xúc cho khách hàng hoặc ngược lại, khách hàng thông tin sai mà không biết, gây ra những quyết định sai lầm trong cho vay.

Ngoài ra, sự gắn bó, nổ lực với công việc của một bộ phận cán bộ tín dụng cũng chưa được phát huy do chính sách tuyển dụng, sử dụng, phân công, bố trí công việc và vấn đề đãi ngộ của các NHTM (đặc biệt là các NHTMNN) chưa đủ sức thu hút. Thực tế hiện nay cho thấy do tác động của quá trình cạnh tranh, rất nhiều cán bộ tín dụng giỏi, nhiều kinh nghiệm của các NHTMNN đã được các NHTMCP, các ngân hàng có vốn đầu tư nước ngoài tuyển dụng vào những vị trí quan trọng với nhiều đãi ngộ. Nguồn nhân lực của các NHTMNN đã mỏng do quá trình mở rộng mạng lưới, lại ngày càng bị hao hụt do chính sách tuyển dụng, sử dụng, phân công, bố trí công việc, và vấn đề đãi ngộ chưa thật sự thu hút.

4.2.2. Xuất phát từ chính sách, quy trình tín dụng và sự vận

dụng chính sách, quy trình tín dụng chưa nghiêm túc:

Nhân tố đầu tiên ảnh hưởng đặc biệt quan trọng đến chất lượng tín dụng của các NHTM đó là chính sách tín dụng. Tuy nhiên, chính sách tín dụng chỉ phát huy tác dụng khi được xây dựng trên cơ sở khách quan và sự nghiêm túc của việc ban hành và vận dụng. Thực tế, vẫn còn nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến chính sách tín dụng chưa thật sự hợp lý:

- Chính sách tín dụng của các NHTM hiện nay phần lớn đều chưa đạt tầm chiến lược, chưa theo nguyên tắc thị trường, thậm chí còn bị cuốn theo các hội chứng, phong trào, khẩu hiệu phát triển kinh tế và theo chủ nghĩa thành tích.

- Các NHTM hầu như chưa xây dựng được chính sách tín dụng khoa

học, phù hợp thể hiện được quan điểm và chiến lược riêng.

- Ngoài ra, các NHTM không có chiến lược phát triển rõ nét hay nói

cách khác chưa quản trị về danh mục cho vay theo lĩnh vực sở trường.

- Chính sách tín dụng với vấn đề lãi suất vẫn còn khá nhiều bất cập.

- Mô hình thích hợp cho việc lượng hóa mức độ rủi ro của khách hàng để từ đó xác định phần bù rủi ro và giới hạn tín dụng an toàn tối đa đối với một khách hàng cũng như để trích lập dự phòng rủi ro hầu như chưa được các NHTM đầu tư xây dựng.

Quy trình tín dụng thông thường được xác lập trên những quy định chung của pháp luật về ngân hàng và những đặc thù trong hoạt động của riêng mỗi ngân hàng. Thông thường, quy trình tín dụng được thống nhất qua các bước sau:

RA QUYẾT ĐỊNH VÀ KÝ HỢP ĐỒNG

THANH LÝ HỢP ĐỒNG VÀ XỬ LÝ TRANH CHẤP

THIẾT LẬP HỒ SƠ KHÁCH HÀNG VAY

THẨM ĐỊNH HỒ SƠ KHÁCH HÀNG VAY

GIẢI NGÂN VÀ THU NỢ

10

Quy trình tín dụng nếu không phát huy được tác dụng sẽ ảnh hưởng đến chất lượng quản lý rủi ro tín dụng. Trên thực tế, không phải quy trình tín dụng của các NHTM luôn đảm bảo tính hợp lý và chặt chẽ, biểu hiện như:

- Thông tin cần phải thực hiện trong các bước của quy trình không được quy định chi tiết và đầy đủ, cũng như mối quan hệ giữa các bước chưa được nhận thức đúng đắn.

- Trên thực tế, việc phân định rõ giữa khâu thẩm định và cho vay ở nhiều NHTM vẫn chưa thật sự tách biệt. Chỉ một vài ngân hàng đang tiến hành triển khai, áp dụng quy trình tín dụng mới với việc phân chia độc lập giữa ba chức năng: quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro và quản lý nợ. Tuy vậy, giữa mô hình phân chia cũ và mới, bên cạnh những ưu điểm vẫn tồn tại những hạn chế chưa thể khắc phục ảnh hưởng đến công tác quản lý rủi ro tín dụng.

- Do sức ép cạnh tranh trong việc mở rộng thị phần tín dụng, trong quá trình vận dụng không ít NHTM đã bỏ qua các bước của quy trình, hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, không chú ý đúng mức đến tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ, nguồn trả nợ của khách hàng vay nên nảy sinh nhiều sai phạm: về điều kiện vay vốn, về việc lập hồ sơ vay vốn, về việc kiểm tra, quản lý nợ vay, về cơ cấu lại thời hạn trả nợ (điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ gốc và lãi).

Việc nhận thức chưa đầy đủ và vận dụng chưa thật sự nghiêm túc của cán bộ tín dụng đối với các chính sách và quy trình tín dụng cũng ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của các NHTM vì nếu nhận thức đầy đủ, thực hiện nghiêm túc các quy định, nhất là thẩm tra chặt chẽ khả năng tài chính, hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh, các điều kiện về bảo đảm tiền vay của khách hàng rồi mới quyết định đầu tư thì khả năng thu hồi vốn là rất lớn. Ngược lại, nếu buông lỏng quản lý hoặc thẩm tra chưa đầy đủ đã quyết định đầu tư thì mức độ rủi ro sẽ gia tăng, thậm chí có khi mất vốn.

4.2.3. Xuất phát từ công tác thẩm định:

a. Đánh giá uy tín, năng lực quản trị, năng lực tài chính của khách hàng:

11

- Đánh giá uy tín của khách hàng là vấn đề thật sự khó khăn đối với các cán bộ thực hiện công tác thẩm định trong việc tiếp cận thông tin về khách hàng

khi nguồn thông tin và khả năng phát tín hiệu của khách hàng còn hạn chế. Hiện nay, công tác đánh giá uy tín của khách hàng chủ yếu dựa vào cảm tính và chủ quan của các cán bộ nghiệp vụ, như dựa vào các quan hệ trong quá khứ: khách hàng vay trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, còn đối với khách hàng mới quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng khi tiếp xúc với khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được. Trong khi đó đối tượng khách hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là khu vực kinh tế tư nhân thì còn quá non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có danh tiếng trên thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây dựng uy tín và thương hiệu chưa cao, các hiệp hội ngành thì chưa phát huy vai trò của mình, chưa hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp thành viên phát triển, nhất là việc giới thiệu các thành viên cho thị trường nên đã dẫn đến việc thu thập thông tin để đánh giá đối với khu vực kinh tế trên là rất khó khăn.

- Đánh giá năng lực của khách hàng:

* Về năng lực quản trị: nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của một doanh nghiệp và cũng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả đồng vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đánh giá nguồn nhân lực, nhất là bộ phận lãnh đạo của khách hàng hiện nay hoàn toàn chưa có cơ sở, chủ yếu là liệt kê bằng cấp và số năm công tác.

* Về năng lực tài chính: công việc đánh giá được thực hiện chủ yếu dựa vào việc phân tích số liệu trên các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. Hiện nay do Việt Nam chưa có quy định về minh bạch thông tin nên có thể nói độ tin cậy của các báo cáo tài chính chưa thật sự cao, nhất là đối với các DNTN. Các NHTM dù biết kiểm toán báo cáo tài chính là tốt nhưng cũng không dám đề nghị khách hàng thực hiện vì sợ mất khách hàng. Từ những số liệu chưa thực sự tin cậy nên việc phân tích báo cáo tài chính sẽ không phản ánh đúng thực chất năng lực tài chính của khách hàng.

b. Đánh giá hiệu quả phương án/dự án vay là khâu quan trọng, ảnh hưởng lớn nhất đến khả năng thu hồi vốn của các NHTM. Tuy nhiên do có nhiều nhân tố chủ quan và khách quan tác động nên đã dẫn đến chất lượng đánh giá phương án/dự án vay chưa thật sự hiệu quả:

12

- Khi nhận một dự án, cán bộ thẩm định sẽ phải tiến hành thẩm định các khía cạnh như yếu tố thị trường, kỹ thuật, công nghệ và cả các yếu tố kinh tế, xã hội của dự án. Tuy nhiên, việc thẩm định dự án trong một môi trường thiếu thông tin như của Việt Nam là một thách thức lớn đối với các cán bộ thẩm định.

Trên thị trường hiện nay, có rất ít doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường. Do đó, khi đánh giá thị trường đối với sản phẩm của dự án, cán bộ thẩm định chủ yếu phải dựa vào các nguồn thông tin không chính thức, thu thập qua báo chí, internet,…

- Thêm vào đó, trình độ xây dựng dự án/phương án sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn yếu.

- Ngoài ra, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của Nhà Nước thường xuyên thay đổi, không có tính minh bạch và không có tính dự báo cũng có thể gây ra nhiều rủi ro cho dự án, như: các chiến lược phát triển vùng, ngành; các quy định liên quan đến xuất nhập khẩu; các tiêu chuẩn về môi trường, …

- Một khó khăn khác trong công tác thẩm định dự án đó là xác định một

suất chiết khấu phù hợp mức độ rủi ro của dự án và doanh nghiệp vay vốn.

- Tiêu chuẩn thống nhất chung về mặt bằng đánh giá, cách xếp loại doanh nghiệp giữa các NHTM chưa có sự thống nhất, chưa được tiến hành thường xuyên, định kỳ, một số ngân hàng xem việc này chỉ mang tính hình thức.

Kết quả là việc đánh giá dự án không mang tính khả thi, nhất là trong điều

kiện trình độ cán bộ thẩm định còn chưa được chuyên sâu.

4.2.4. Xuất phát từ tài sản bảo đảm:

Quản trị danh mục TSBĐ là yêu cầu cần thiết trong công tác quản lý rủi ro tín dụng, và là mắc xích quan trọng trong quy trình cho vay thu hồi nợ, xử lý các khoản nợ có vấn đề. Tuy nhiên, việc giám sát, quản lý, đánh giá, phân loại, dự báo, cảnh báo về danh mục các TSBĐ mà một NHTM lựa chọn, xét ưu tiên nhận làm bảo đảm tiền vay chưa được làm thường xuyên, chưa có tính hệ thống mà chỉ dừng ở mức kiểm tra trên hồ sơ pháp lý, định kỳ đánh giá lại giá trị để điều chỉnh mức dư nợ cho vay hoặc yêu cầu khách hàng bổ sung.

13

Theo quy định của pháp luật, việc xác định giá trị TSBĐ tiền vay do các bên thỏa thuận, hoặc thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn xác định trên cơ sở giá thị trường tại thời điểm xác định, có tham khảo đến các loại giá như giá quy định của Nhà nước (nếu có), giá mua, giá trị còn lại trên sổ sách kế toán và các yếu tố khác về giá. Tuy nhiên, trên thực tế, trừ những động sản có giá trị lớn hàng tỷ đồng, các NHTM mới thuê tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn định giá, còn lại đa số việc định giá đều do các bên thỏa thuận, và như vậy cho thấy giá trị TSBĐ được định giá còn mang tính chủ quan và thiếu tính khoa học.

Ngoài ra, về phương pháp định giá đối với từng loại tài sản chưa được các NHTM sử dụng một cách thích hợp, dẫn đến việc: nếu định giá thấp, khách hàng không hài lòng, nhưng nếu định giá cao, NHTM sẽ khó đảm bảo khả năng thu hồi nợ vay và lãi vay trong trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán, khi đó buộc NHTM phải thanh lý tài sản thế chấp, cầm cố.

Kinh tế tăng trưởng cao trong vài năm trở lại đây cùng với giá bất động sản bị đẩy lên cao do đầu cơ và vượt xa giá trị thực đã làm nảy sinh tư tưởng lạm dụng vào TSBĐ. Sẽ rất rủi ro nếu cán bộ tín dụng quên rằng khoản vay cần phải được trả bằng chính dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền bán TSBĐ. TSBĐ chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến. Tâm lý dựa chủ yếu vào TSBĐ sẽ làm giảm chất lượng thẩm định khoản vay nên sẽ không đánh giá chính xác được hiệu quả và sự an toàn của khoản vay, dễ dẫn đến việc cho vay những dự án rủi ro, khách hàng không uy tín. Đây là thực trạng đáng lo ngại trong quan điểm cấp tín dụng hiện nay của các NHTM. Từ sự lựa chọn không chắc chắn khách hàng tốt để cung cấp tín dụng nên để giảm bớt rủi ro, các NHTM đã tính một phần rủi ro vào trong lãi vay ngân hàng, làm cho khách hàng vay tốt phải gánh chịu một mức lãi vay cao hơn mức đáng ra họ được hưởng. Đây cũng là tâm lý thường thấy ở các NHTM của các nước đang phát triển.

Đối với vấn đề bảo hiểm tài sản, cán bộ tín dụng thường không chú ý đôn đốc, kiểm tra việc khách hàng có mua bảo hiểm đúng định kỳ để đến khi phương tiện bị tai nạn, việc trục vớt, sửa chữa phải bỏ thêm rất nhiều vốn, gây khó khăn lâu dài về khả năng thanh toán khoản nợ vay…

Thông tin bất cân xứng về giá trị thực của TSBĐ giữa khách hàng và NHTM cũng là vấn đề cần được quan tâm. Khi thế chấp, cầm cố tài sản chỉ có khách hàng biết rõ về hiện trạng của tài sản như sự hỏng hóc trong các dây chuyền sản xuất, máy móc, thiết bị, hoặc ngôi nhà rất khó bán do một số đặc điểm đặc biệt. Trong khi đó trình độ của cán bộ thường không đáp ứng đầy đủ chuyên môn trong tất cả các lĩnh vực nên không thể đánh giá được chính xác hiện trạng của máy móc thiết bị cũng như nắm được những thông tin không tốt về đất đai, nhà ở; điều này ảnh hưởng rất lớn đến giá trị mua bán của tài sản. Vì vậy, khi xảy ra rủi ro, việc phát mãi tài sản để thu hồi nợ gặp không ít khó khăn.

14

Thêm vào đó, cơ chế pháp lý về bảo đảm tiền vay chưa rõ ràng, chịu sự điều chỉnh, chi phối của nhiều văn bản luật, dưới luật chồng chéo nhau, đặc biệt đối với TSBĐ là bất động sản.

Cuối cùng là các vấn đề liên quan đến quá trình xử lý, phát mãi TSBĐ đã

gây cản trở không ít cho các NHTM như:

- Việc các ngân hàng phải đối mặt với những khó khăn trong thời gian

trước khi bán đấu giá tài sản.

- Trong việc phát mãi TSBĐ, các NHTM chưa có thực quyền trong việc

bán, quản lý và khai thác tài sản thuộc quyền tiếp quản.

- Sự phối hợp giữa cơ quan công an, viện kiểm soát, tòa án, các sở, ban, ngành, chính quyền địa phương trong việc xử lý TSBĐ còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ, chặt chẽ và kịp thời.

- Việc xác định quyền sở hữu thực sự của khách hàng đối với tài sản

cũng là vấn đề khó khăn.

- Vướng mắc khi NHTM nhận lại TSBĐ từ cơ quan thi hành án.

- Thủ tục chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng cho người mua, người

nhận tài sản của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền còn quá nhiêu khê.

4.2.5. Xuất phát từ thông tin tín dụng:

Các NHTM hiện nay chưa nhận được sự phối hợp hỗ trợ cung cấp thông tin từ các cơ quan chức năng như cơ quan thuế, chi cục thống kê, hay các cơ quan chủ quản.

Bên cạnh các nguyên nhân khách quan, bản thân các NHTM đôi khi cũng lệ thuộc khá nhiều vào các số liệu của khách hàng cung cấp mà chưa chủ động tìm kiếm thông tin hay nói cách khác có tình trạng thông tin bất cân xứng giữa các NHTM và khách hàng vay .

Việc thu thập thông tin của mỗi ngân hàng về khách hàng, về ngành nghề, về môi trường kinh tế mà khách hàng đang hoạt động, về các văn bản mới được ban hành, về tình hình diễn biến giá cả thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là những cảnh báo về các ngành hàng ngân hàng đang và sẽ đầu tư chưa được thực hiện một cách thường xuyên và có tính hệ thống.

4.2.6. Xuất phát từ hoạt động kiểm soát nội bộ:

15

Hiện nay, các NHTM đều có bộ phận kiểm soát nội bộ, tuy nhiên, ở một số ngân hàng, bộ phận này chưa thật sự hoạt động có hiệu quả, nhất là tình trạng thiếu nhân sự, cũng như trình độ của cán bộ chưa đáp ứng cả về nghiệp vụ lẫn

kinh nghiệm nên không thể phát hiện các sai phạm để có những khuyến cáo kịp thời nhằm chấn chỉnh và tư vấn cho ban điều hành về những rủi ro tín dụng có thể xảy ra.

Kiểm soát nội bộ có một số ưu thế hơn so với việc thanh tra, kiểm tra của

NHNN do:

- Xét về thời gian, công tác kiểm soát nội bộ của các NHTM xử lý kịp

thời, nhanh chóng các vấn đề ngay khi vừa phát sinh.

- Xét về tính sâu sát của người kiểm soát viên, do việc kiểm tra được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh nên mọi vấn đề được hiểu đúng với bản chất của nó.

4.3. Nguyên nhân từ phía khách hàng đi vay:

4.3.1. Đối với khách hàng là doanh nghiệp:

Trong hoạt động kinh doanh, ngoài nguồn vốn tự có của mình, các doanh nghiệp luôn phải sử dụng một nguồn vốn bên ngoài, đó là vốn vay các NHTM. Đây là nhu cầu vay vốn rất cần thiết nhằm đảm bảo cho các doanh nghiệp thực hiện nhiệm vụ hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách ổn định. Tùy đặc điểm và tính chất hoạt động của từng loại hình doanh nghiệp, việc sử dụng vốn vay của các NHTM cũng có sự khác nhau.

Rủi ro tín dụng xuất phát từ phía khách hàng là doanh nghiệp thường do:

- Mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng không được thực hiện đúng.

- Khách hàng không thật sự nỗ lực trong việc sử dụng vốn vay có hiệu quả.

- Khách hàng chưa có thiện chí trong vấn đề cung cấp thông tin đầy đủ

và chính xác cho ngân hàng để phục vụ cho việc cấp tín dụng.

- Một bộ phận khách hàng không có thiện chí trong việc trả nợ.

- Công tác quản lý, điều hành của một số các doanh nghiệp chưa thật sự

hiệu quả.

- Sự hạn chế của đội ngũ nhân viên của doanh nghiệp.

- Tình hình tài chính của hầu hết các doanh nghiệp thiếu sự minh bạch,

16

trung thực, chưa đáp ứng yêu cầu.

- Công nghệ, quy trình sản xuất không tạo ra được những sản phẩm

mang tính cạnh tranh.

- Sự tác động của các nhân tố khách quan như môi trường pháp lý, môi

trường kinh tế - xã hội...

4.3.1. Đối với khách hàng là cá nhân:

Mặc dù quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với khách hàng là cá nhân thủ tục đơn giản hơn nhiều so với khách hàng là doanh nghiệp, song thực tế số lượng khách hàng cá nhân lại rất lớn nên việc tìm hiểu các nguyên nhân từ phía khách hàng cá nhân có ý nghĩa rất quan trọng.

Với khách hàng cá nhân, nguyên nhân rủi ro có thể là:

- Hoạt động kinh doanh không gặp thuận lợi, khả năng quản lý tình hình

tài chính yếu kém.

- Nguồn hoàn trả chính từ thu nhập cơ bản bị mất hoặc suy giảm do mất

việc, chuyển sang công việc kém hơn hoặc không còn khả năng lao động.

- Cá nhân gặp những chuyện bất thường trong cuộc sống, vì vậy, họ phải

sử dụng một số tiền lớn nên ảnh hưởng khả năng hoàn trả cho ngân hàng.

- Đạo đức cá nhân không tốt: cố tình lừa đảo ngân hàng, sử dụng vốn sai

mục đích...

4.4. Nguyên nhân khác:

Sự biến động quá nhanh, và khó có thể dự đoán được trên các mặt kinh tế, chính trị, xã hội trong và ngoài nước cũng ảnh hưởng đến chất lượng các khoản cấp tín dụng của các NHTM. Biểu hiện rõ nét nhất là tình hình biến động giá cả các mặt hàng mà các NHTM đang đầu tư, hoặc các cơ chế, chính sách thương mại, chính sách xuất nhập khẩu các nước áp dụng đối với Việt Nam (hạn ngạch, chính sách bảo hộ, hay các vụ kiện thương mại,..):

- Ngành dệt may trong những năm gần đây đã gặp không ít khó khăn vì bị khống chế hạn ngạch đã ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp dệt may.

17

- Mặt hàng thép cũng bị ảnh hưởng lớn của giá thép thế giới. Việc tăng giá phôi thép làm cho một số doanh nghiệp sản xuất thép trong nước phải ngưng sản xuất do chi phí giá thành cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm.

- Dầu thô, nông, lâm, thủy hải sản…cũng ở trong tình trạng tương tự: giá cả diễn biến bất thường và chính sách bảo hộ thị trường, cạnh tranh với các đối tác lớn cũng gây rủi ro cho các nhà xuất khẩu...

Bên cạnh đó, quá trình tự do hóa tài chính và hội nhập kinh tế quốc tế cũng tác động không nhỏ đến hoạt động cấp tín dụng của các NHTM. Với môi trường hội nhập, các doanh nghiệp, những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, nguy cơ thua lỗ là điều có thể xảy ra. Bản thân các NHTM trong môi trường hội nhập kinh tế cũng gặp phải những nguy cơ rủi ro khi phải cạnh tranh với các NHTM nước ngoài vốn mạnh hơn về mọi mặt, khi vấn đề nợ xấu gia tăng vì hầu hết những khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút...

Cuối cùng là do sự ổn định của nền kinh tế nước ta khi chính sách quản lý kinh tế vẫn có những thay đổi đột ngột, hành lang pháp lý chưa thật sự an toàn, điều chỉnh quy hoạch các ngành, các vùng chưa phù hợp…

Tóm lại, rủi ro tín dụng có thể phát sinh do rất nhiều nguyên nhân từ các nguyên nhân khách quan do nền kinh tế và các cơ quan quản lý Nhà nước đến các nguyên nhân chủ quan của chính bản thân các NHTM, và các nguyên nhân từ phía khách hàng vay vốn,...Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các NHTM nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng, liên quan đến vấn đề nội tại của bản thân nền kinh tế đang chuyển đổi, cũng như định hướng mô hình phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong phạm vi tầm tay của các NHTM, rủi ro tín dụng phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ quản lý, cán bộ tín dụng và các nguồn lực của ngân hàng về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. Do vậy biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công việc. Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng con đường quản lý rủi ro tín dụng của ngành ngân hàng coi như thành công một bước.

5. Tác động của rủi ro tín dụng:

18

Để đạt được lợi nhuận cao, thu hút thêm nhiều khách hàng, nâng cao sức cạnh tranh, các NHTM luôn tìm cách mở rộng hoạt động tín dụng, cung ứng nhiều hơn các dịch vụ phục vụ cho khách hàng, nhưng song song đó các ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Các loại rủi ro này luôn tiềm ẩn

làm tăng chi phí, giảm lợi nhuận, lỗ hoặc mất vốn dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn vốn để chi trả tiền gửi cho khách hàng. Các NHTM do không thu hồi được các khoản nợ và lãi đến hạn, dẫn đến mất khả năng thanh toán, nếu nghiêm trọng và kéo dài dễ gây hiệu ứng phản ứng dây chuyền, đe dọa đến hàng loạt các NHTM khác do khách hàng đua nhau rút tiền gửi, nền kinh tế lâm vào khủng hoảng tài chính, tiền tệ.

Bài học về sự đổ vỡ hàng loạt các hợp tác xã tín dụng trong những năm 1989-1990 ở nước ta, Chính Phủ đã phải bỏ ra hàng trăm tỷ đồng để ổn định tình hình kinh tế và an ninh xã hội; nhìn rộng hơn là cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực Đông Nam Á vào những năm 1997-1998, Chính Phủ nhiều nước và các tổ chức tài chính quốc tế đã phải dốc hầu bao để cứu nguy các NHTM, cơ cấu lại các NHTM, quyết định giải thể, sáp nhập các NHTM để đảm bảo khả năng thanh toán, duy trì mở rộng tín dụng nhằm phục hồi kinh tế các nước gặp khủng hoảng.

5.1. Tác động đối với hoạt động kinh doanh của các NHTM:

Khi gặp rủi ro tín dụng, các NHTM chẳng những không thu hồi được vốn tín dụng đã cấp và lãi từ hoạt động cho vay, mà còn phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho các ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Hay nói cách khác, các ngân hàng rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, mất lòng tin của người gửi tiền, từ đó ảnh hưởng đến uy tín của cả ngân hàng. Và không thu được nợ, vòng quay vốn tín dụng của các NHTM sẽ giảm từ đó làm cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng không đạt hiệu quả như mong muốn.

Tóm lại, rủi ro tín dụng xảy ra ở những mức độ khác nhau: nhẹ nhất là các NHTM sẽ bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất là khi các NHTM không thu được cả vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao sẽ dẫn đến bị lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài không khắc phục được, các NHTM có thể sẽ bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, đòi hỏi các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong cho vay.

5.2. Đối với nền kinh tế nói chung:

19

Khi một NHTM gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở khắp mọi nơi sẽ rơi vào tâm trạng hoang mang, lo sợ, khi đó sẽ xảy ra tình trạng

mọi người ồ ạt đến rút tiền ở tất cả các ngân hàng, việc làm này sẽ tác động xấu đến toàn hệ thống ngân hàng.

Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp, vì vậy NHTM phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản suất kinh doanh của các doanh nghiệp. Khi đó, sự rối loạn của các NHTM sẽ ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế, làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng, sức mua giảm, thất nghiệp tăng, xã hội mất ổn định.

Tóm lại, nếu những tổn thất do rủi ro trong hoạt động tín dụng gây ra ở mức kiểm soát được thì việc xử lý tương đối dễ dàng trong giới hạn cho phép của quỹ dự phòng bù đắp rủi ro của các NHTM. Tuy nhiên, khi tổn thất lớn, vượt quá khả năng xử lý của các NHTM thì vấn đề sẽ trở nên nghiêm trọng, gây hậu quả khó lường không những cho chính NHTM, mà còn cho cả những NHTM và các doanh nghiệp khác có liên quan, ảnh hưởng tới quyền lợi người gửi tiền và cuối cùng, ảnh hưởng tới toàn bộ nền kinh tế, và là nguy cơ tiềm ẩn cho khủng hoảng tài chính. Nếu tác động lớn, đôi khi ảnh hưởng đến cả nền kinh tế khu vực và thế giới vì ngày nay nền kinh tế mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới.

III. Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng thương mại:

Các nhà nghiên cứu và hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng đều cho rằng đối với các NHTM, quản trị kinh doanh chính là quản trị rủi ro, và quản trị rủi ro chính là trung tâm của hoạt động quản trị điều hành của mỗi NHTM.

Quản trị rủi ro: hiểu một cách đơn giản chính là quá trình các NHTM áp dụng các nguyên lý, các phương pháp và kinh nghiệm quản trị kinh doanh của mình để xác định, định lượng, quản lý và kiểm soát rủi ro trong hoạt động để:

- Bảo vệ ngân hàng trong việc tránh khỏi những thất bại, mất mát không

dự tính trước.

- Bảo đảm mức độ rủi ro mà ngân hàng phải gánh chịu không vượt quá

khả năng về vốn và tài chính.

- Bảo đảm không ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh và khả năng tồn

20

tại của ngân hàng.

HÌNH 2: QUÁ TRÌNH QUẢN TRỊ RỦI RO

Xác định rủi ro

Định lượng rủi ro

Rủi ro trong hoạt động tín dụng

Kiểm soát rủi ro

Quản lý rủi ro

Các cơ chế quản lý rủi ro tín dụng cho hệ thống NHTMVN hiện đang tiến dần đến với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, theo đánh giá chung, có so sánh với các ngân hàng hoạt động ở một số nước điển hình trong khu vực thì các NHTMVN mới chỉ ở giai đoạn đầu của công tác quản lý rủi ro.

1. Khái niệm và mục tiêu của công tác quản trị rủi ro tín dụng:

Quản trị rủi ro tín dụng là quá trình xây dựng và thực thi các chiến lược, chính sách quản lý, kinh doanh tín dụng, tăng cường các biện pháp phòng ngừa, hạn chế, và giảm thấp nợ quá hạn, nợ xấu nhằm đạt được các mục tiêu an toàn, hiệu quả, nâng cao chất lượng, và phát triển bền vững đối với hoạt động tín dụng của ngân hàng.

Quản trị rủi ro tín dụng gắn liền với quản lý và kinh doanh tín dụng, một trong những hoạt động chủ đạo của các NHTM. Quản trị rủi ro tín dụng phải hướng vào việc đảm bảo hiệu quả của hoạt động tín dụng và không ngừng nâng cao chiến lược hoạt động tín dụng ngay cả trong những điều kiện thị trường đầy biến động, nguy cơ rủi ro không ngừng gia tăng. Nói một cách cụ thể hơn thì quản trị rủi ro tín dụng phải nhằm vào việc hạ thấp rủi ro tín dụng, nâng cao mức độ an toàn cho kinh doanh của mỗi NHTM bằng các chính sách, các biện pháp quản lý, giám sát các hoạt động tín dụng khoa học và hiệu quả.

2. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng:

2.1. Kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng là loại hình kinh doanh

đặc biệt, tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong đó có rủi ro tín dụng:

21

Hoạt động kinh doanh của các NHTM bao gồm rất nhiều loại rủi ro. Nhiều ý kiến cho rằng các NHTM cần đánh giá cơ hội kinh doanh dựa trên mối quan hệ

rủi ro - lợi ích nhằm tìm ra những cơ hội đạt được những lợi ích xứng đáng với mức rủi ro có thể chấp nhận được. Các NHTM sẽ hoạt động tốt nếu mức rủi ro gánh chịu là hợp lý và kiểm soát được chứ không thể chối bỏ rủi ro.

Nói một cách khác, hoạt động kinh doanh của các NHTM là dùng uy tín của chính ngân hàng để có thể thu hút nguồn vốn huy động và dùng năng lực quản trị rủi ro, đặc biệt là quản trị rủi ro tín dụng để sử dụng nguồn vốn huy động được và phát triển các dịch vụ khác với tư cách là người “đứng giữa” các lực lượng cung và các lực lượng cầu về các dịch vụ ngân hàng.

2.2. Hiệu quả hoạt động kinh doanh của các NHTM phụ thuộc vào

mức độ rủi ro, đặc biệt là rủi ro tín dụng:

Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng có nhiều yếu tố khách quan và chủ quan mang đến rủi ro, nhiều yếu tố bất khả kháng nên ngân hàng không thể tránh khỏi rủi ro. Chính vì vậy, hàng năm các NHTM được phép và cần phải trích lập quỹ bù đắp rủi ro hạch toán vào chi phí. Quy mô quỹ bù đắp rủi ro căn cứ vào mức độ và khả năng rủi ro. Nếu rủi ro thấp thì hiệu quả kinh tế sẽ tăng, và ngược lại. Như vậy, hiệu quả kinh doanh của các NHTM tỷ lệ nghịch với mức độ rủi ro. Khi rủi ro quá lớn đến mức các NHTM mất khả năng thanh toán, khi đó sẽ dẫn đến tình trạng phá sản.

2.3. Quản trị rủi ro tín dụng tốt là điều kiện quan trọng để nâng cao

chất lượng hoạt động tín dụng của các NHTM:

Trong quản trị NHTM, quản trị rủi ro là một nội dung quan trọng mà các cấp lãnh đạo, quản lý, điều hành phải đặc biệt quan tâm. Vì vậy, những nhà quản trị NHTM cần được trang bị các kiến thức về quản trị rủi ro, cung cấp những thông tin kinh tế cập nhật, có đội ngũ tham mưu chuyên nghiệp và bộ máy kiểm tra, kiểm soát nội bộ hiệu quả là điều kiện cần thiết để phòng ngừa, hạn chế rủi ro, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Theo đó, nhiều ý kiến khẳng định: “quản trị rủi ro là nghiệp vụ chủ đạo và là thước đo năng lực “sống còn” của một NHTM”.

3. Khung quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng:

22

Khung quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng bao gồm những công tác chủ yếu mà NHTM phải tiến hành nhằm bảo đảm chất lượng của quá trình quản trị rủi ro trong hoạt động tín dụng được tốt nhất.

Khung quản trị rủi ro được thiết lập dựa trên các nguyên tắc quản trị rủi ro tín dụng của Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng. Các thành phần của khung luôn tương tác hỗ trợ lẫn nhau.

Hoạch định chiến lược

Xác định rủi ro hiện có và rủi ro tiềm tàng

Hệ thống tính điểm tín dụng

Rủi ro tín dụng

Xây dựng các chính sách và quy trình tín dụng

Trách nhiệm cá nhân đối với chất lượng tín dụng

Cơ cấu tổ chức

Giám sát và kiểm tra tín dụng

HÌNH 2: KHUNG QUẢN TRỊ RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG

3.1. Hoạch định chiến lược hoạt động tín dụng:

Hoạch định chiến lược hoạt động tín dụng là bản tuyên ngôn của Ban lãnh đạo về các mục tiêu trong hoạt động tín dụng nhằm xác định thái độ của ngân hàng đối với rủi ro và thái độ sẵn sàng chấp nhận các rủi ro.

Chiến lược hoạt động tín dụng cần được hoạch định định kỳ, phù hợp với mức độ rủi ro từng thời kỳ và phải được phổ biến đến từng nhân viên ngân hàng.

Thông thường việc hoạch định chiến lược hoạt động tín dụng được xây

dựng bởi Ủy ban rủi ro tín dụng.

3.2. Xác định rủi ro hiện có và rủi ro tiềm tàng:

23

Xác định rủi ro được hiểu bao gồm: nhận biết rủi ro và đo lường rủi ro.

Xác định rủi ro được thực hiện theo từng khoản vay, từng khách hàng, nhóm khách hàng, theo mặt hàng và lĩnh vực đầu tư, theo khu vực địa lý, theo dạng hợp đồng tín dụng, theo dạng TSBĐ, theo trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng,...

Trong quá trình xác định mức độ rủi ro, cần tránh mức độ tập trung của

danh mục tín dụng, chú ý các rủi ro mới trước đó chưa được phát hiện.

Đo lường rủi ro không phải là một biện pháp tuyệt đối mà chỉ là một biện

pháp đo xác suất các kết quả.

3.3. Xây dựng các chính sách và quy trình tín dụng:

Xây dựng các chính sách và quy trình tín dụng phải đảm bảo phù hợp với các quy định của pháp luật, đảm bảo phù hợp với chiến lược tín dụng của ngân hàng nhằm để duy trì các chuẩn mực cấp tín dụng an toàn, đánh giá đúng các cơ hội kinh doanh mới và kịp thời phát hiện cũng như quản lý chặt chẽ các khoản tín dụng có vấn đề.

3.4. Giám sát và kiểm tra tín dụng:

Giám sát và kiểm tra tín dụng bao gồm việc:

- Giám sát và kiểm tra từng khoản vay (kiểm tra trong và sau khi cho

vay, kiểm tra và đánh giá lại tài sản thế chấp,...)

- Giám sát và kiểm tra tổng thể danh mục tín dụng.

- Chuyển sang bộ phận xử lý nợ các khoản cho vay cần giám sát kỹ (có

dấu hiệu khó thu hồi).

3.5 Cơ cấu tổ chức:

24

Về cơ cấu tổ chức, cần bảo đảm tạo môi trường hoạt động tín dụng có kiểm soát. Các bộ phận chủ chốt có trách nhiệm liên quan đến quá trình quản trị rủi ro tín dụng bao gồm: Hội đồng quản trị, Ban điều hành, Ủy ban quản lý rủi ro tín dụng, Ban giám đốc chi nhánh, các trưởng phó phòng tín dụng. Tiến tới mô hình quản lý tập trung: tập trung thông tin, tập trung quy trình xử lý các hoạt động hỗ trợ,...

3.6. Trách nhiệm cá nhân đối với chất lượng cho vay:

Con người là nhân tố quyết định chất lượng quản trị rủi ro tín dụng. Do đó cần có cơ chế thù lao phù hợp, đảm bảo lựa chọn nhân viên đủ năng lực đảm đương công việc. Ngoài ra cũng cần có cơ chế bổ nhiệm, thưởng phạt có hiệu quả, cơ chế đào tạo và đào tạo lại nhằm khuyến khích nâng cao trách nhiệm cá nhân đối với chất lượng tín dụng.

3.7. Hệ thống tính điểm tín dụng:

Hệ thống tính điểm tín dụng cần được tiến hành thực hiện trên cơ sở các thông tin định lượng và thông tin định tính nhằm thống nhất đánh giá rủi ro tín dụng đối với khách hàng theo một thang điểm chuẩn. Cần xây dựng hệ thống tính điểm tín dụng riêng theo từng đối tượng khách hàng.

Hệ thống tính điểm tín dụng chính là cơ sở quan trọng để phân loại và xếp

hạng khách hàng cũng như khoản vay.

4. Nguyên tắc của Basel về quản trị rủi ro tín dụng:

4.1. Nguyên tắc 1:

Hội đồng quản trị có trách nhiệm phê duyệt và định kỳ xem xét chiến lược

về rủi ro tín dụng và các chính sách về rủi ro tín dụng của ngân hàng.

Chiến lược về rủi ro tín dụng phản ánh mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng với mức sinh lời nhất định mà ngân hàng kỳ vọng. Chiến lược cần thể hiện tuyên bố của ngân hàng trong việc sẵn sàng cấp tín dụng dựa trên loại hình rủi ro tiềm năng, ngành kinh tế, vị trí địa lý, dòng tiền, kỳ hạn và mức sinh lời dự kiến. Chiến lược cũng có thể xác định thị trường mục tiêu và các đặc tính tổng quát mà ngân hàng muốn đạt được trong danh mục tín dụng.

4.2. Nguyên tắc 2:

25

Ban điều hành có trách nhiệm thực hiện chiến lược chấp nhận một tỷ lệ nợ xấu được Hội đồng quản trị phê duyệt, phát triển các chính sách, thủ tục nhằm phát hiện, đo lường, theo dõi và kiểm soát nợ xấu. Các chính sách và thủ tục này cần nhằm vào rủi ro nợ xấu phát sinh trong mọi hoạt động của ngân hàng, ở cấp độ từng khoản tín dụng cũng như toàn bộ danh mục đầu tư.

Các thủ tục, quy trình, văn bản cần được xây dựng, triển khai cũng như các trách nhiệm phê duyệt, xem xét khoản cho vay cần được phân định rõ ràng và phù hợp.

4.3. Nguyên tắc 3:

Các ngân hàng cần xác định và quản trị rủi ro tín dụng trong mọi sản phẩm và hoạt động của mình. Đối với các sản phẩm và hoạt động mới, ngân hàng cần xây dựng biện pháp quản trị rủi ro và kiểm soát phù hợp trước khi được đưa vào sử dụng hoặc triển khai và phải được Hội đồng quản trị phê duyệt.

Điều quan trọng là Ban điều hành cần xác định rằng các nhân viên liên quan trong bất kì hoạt động nào có rủi ro tín dụng, cho dù là đã thực hiện hay là hoạt động mới, cơ bản hay phức tạp, điều phải có đủ năng lực thực hiện với những tiêu chuẩn cao nhất và tuân thủ các chính sách và thủ tục của ngân hàng.

4.4. Nguyên tắc 4:

Các ngân hàng phải hoạt động trong phạm vi các tiêu chí cấp tín dụng lành mạnh được xác định rõ ràng. Những tiêu chí này cần chỉ rõ thị trường mục tiêu của ngân hàng và đồng thời ngân hàng phải hiểu biết rõ về khách hàng vay vốn cũng như mục đích và cơ cấu của khoản tín dụng. Hay nói cách khác các tiêu chí cần chỉ rõ đối tượng khách hàng đủ tiêu chuẩn được cấp tín dụng, các loại hình tín dụng và các điều khoản và điều kiện cấp tín dụng.

4.5. Nguyên tắc 5:

Ngân hàng cần xây dựng các hạn mức tín dụng cho từng loại khách hàng và nhóm khách hàng vay vốn để tạo ra các loại hình rủi ro tín dụng khác nhau nhưng có thể so sánh và theo dõi được trong sổ sách kế toán của ngân hàng và sổ sách kế toán kinh doanh, nội bản và ngoại bản.

26

Cần xây dựng giới hạn đối với các ngành, lĩnh vực kinh tế, khu vực địa lý và các sản phẩm cụ thể. Cũng như các giới hạn rủi ro trong mọi lĩnh vực hoạt động của ngân hàng mà có liên quan đến rủi ro tín dụng. Những giới hạn này giúp bảo đảm các hoạt động cấp tín dụng của ngân hàng đa dạng. Giới hạn tín dụng là rất quan trọng trong quản lý toàn bộ hộ sơ rủi ro tín dụng hoặc rủi ro đối tác của một ngân hàng. Để có hiệu quả, các giới hạn này cần mang tính ràng buộc và không đi theo nhu cầu của khách hàng.

4.6. Nguyên tắc 6:

Để có được danh mục đầu tư tín dụng lành mạnh, ngân hàng cần có qui trình rõ ràng trong việc phê duyệt các khoản tín dụng mới cũng như sửa đổi, gia hạn và tái tài trợ các khoản tín dụng hiện tại.

Ngân hàng cần phát triển đội ngũ nhân viên quản lý rủi ro tín dụng có kinh nghiệm, kiến thức nhằm đưa ra nhận định thận trọng trong việc đánh giá phê duyệt và quản lý rủi ro tín dụng.

4.7. Nguyên tắc 7:

Việc cấp tín dụng cần được thực hiện trên cơ sở giao dịch công bằng giữa các bên. Đặc biệt, các khoản tín dụng cho các công ty và cá nhân có liên quan phải được phê duyệt trên cơ sở ngoại lệ cần theo dõi cẩn thận và triển khai các bước cần thiết để kiểm soát nhằm loại trừ rủi ro.

Việc gia hạn tín dụng cần được thực hiện theo các tiêu chí và trình tự cụ thể và rõ ràng. Việc này, tạo ra hệ thống hồ sơ và chứng từ nhằm tăng cường việc ra quyết định tín dụng đúng đắn.

4.8. Nguyên tắc 8:

Các ngân hàng cần có hệ thống quản lý một cách cập nhật đối với các danh

mục đầu tư có rủi ro tín dụng.

4.9. Nguyên tắc 9:

Ngân hàng cần có hệ thống theo dõi điều kiện của từng khoản tín dụng, bao

gồm việc xác định mức độ đầy đủ của dự phòng và dự trữ.

5. Kinh nghiệm của các ngân hàng Thái Lan trong việc quản trị rủi ro

tín dụng:

27

Mặc dù có bề dầy hoạt động hàng trăm năm, nhưng vào năm 1997 - 1998, hệ thống ngân hàng Thái Lan vẫn bị chao đảo trước cơn khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á. Nhiều công ty tài chính và NHTM bị phá sản hoặc buộc phải sáp nhập. Trước tình hình đó buộc các ngân hàng Thái Lan phải xem xét lại toàn bộ chính sách, cách thức, quy trình hoạt động ngân hàng, đặc biệt là lĩnh vực tín dụng nhằm giảm thiểu rủi ro…Đi đôi với việc đa dạng hóa các sản phẩm tín dụng và dịch vụ, xác định khách hàng, mục tiêu, chủ động tiếp thị khách

hàng…một loạt các thay đổi căn bản trong hoạt động tín dụng đã được các ngân hàng Thái Lan triển khai nhanh chóng và triệt để:

- Tách bạch, phân công rõ chức năng các bộ phận và tuân thủ các khâu

trong quy trình giải quyết các khoản vay, ví dụ điển hình như:

* Tại Bangkok Bank: trước đây, các bộ phận trong quy trình cấp tín dụng chỉ là một, nay, đã tách hẳn thành hai bộ phận độc lập: bộ phận tiếp nhận giải quyết hồ sơ và bộ phận thẩm định. Trong đó, bộ phận thẩm định phải có báo cáo thẩm định tín dụng, gồm: chiến lược và kế hoạch kinh doanh, báo cáo xếp hạng rủi ro…Đây là một thay đổi căn bản của Bangkok Bank nhằm bảo đảm tính độc lập, khách quan trong quá trình thực thi cấp tín dụng.

* Tại Siam Comercial Bank (SCB): cũng đã xây dựng mô hình tổ chức triển khai dịch vụ tín dụng theo nguyên tắc phân định rõ trách nhiệm của ba bộ phận: Marketing khách hàng, thẩm định và quyết định cho vay. Ngân hàng đã phân loại khách hàng theo từng nhóm, từ đó nhận rõ tính chất khác nhau làm cơ sở cho việc xác định nhiệm vụ cụ thể cho từng bộ phận trong việc tiếp nhận, giải quyết hồ sơ, thẩm định và ra quyết định.

- Tuân thủ nghiêm ngặt các vấn đề mang tính nguyên tắc trong hoạt động tín dụng. Trước đây rất nhiều ngân hàng Thái Lan không tuân thủ nghiêm ngặt các nguyên tắc tín dụng trong quá trình cho vay, chỉ quan tâm đến TSBĐ, không quan tâm đến dòng tiền của khách hàng. Vì thế, hậu quả là nợ xấu có lúc lên tới 40% (1997-1998). Nhưng hiện nay, các ngân hàng không chỉ triệt để chấp hành nguyên tắc tín dụng mà còn quan tâm nhiều đến các thông tin của khách hàng, coi trọng đến chu chuyển dòng tiền và việc thu hồi vốn.

- Tiến hành cho điểm khách hàng để quyết định cho vay.

- Tuân thủ thẩm quyền phán quyết tín dụng.

- Coi trong việc giám sát khoản vay sau khi cho vay bằng cách tiếp tục thu thập thông tin khách hàng, thường xuyên đánh giá xếp loại khách hàng để có biện pháp xử lý kịp thời các tình huống rủi ro.

- Coi trọng việc cập nhật hiểu biết nghề nghiệp, đào tạo, nâng cao trình

độ, kỹ năng và khả năng thực thi độc lập nhiệm vụ cho cán bộ tín dụng.

- Áp dụng Sổ tay tín dụng được viết rất công phu, rõ ràng, dễ áp dụng;

28

có chính sách cho vay riêng đối với bất động sản là lĩnh vực có rủi ro rất cao.

CHƯƠNG 2: ĐIỀU TRA KHẢO SÁT VÀ KẾT QUẢ

I. Đề xuất bảng câu hỏi khảo sát:

1. Mục tiêu đề xuất bảng câu hỏi khảo sát:

Với mong muốn tìm hiểu nhận định của các cán bộ hoạt động trong lĩnh vực tín dụng về sự đồng tình đối với các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng cũng như các giải pháp để có thể khắc phục, hạn chế rủi ro tín dụng nhằm phục vụ cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu “Rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam Chi nhánh Cần Thơ - Thực trạng và giải pháp” nên tác giả đã đề xuất bảng câu hỏi khảo sát gởi đến 60 cán bộ tín dụng hiện đang cùng công tác với tác giả tại bộ phận tín dụng của NHNTVN-CNCT để ghi nhận các ý kiến.

2. Một số hạn chế khi thực hiện việc khảo sát:

Bảng câu hỏi điều tra được thiết kế với mong muốn ban đầu của tác giả là có thể sử dụng phần mềm nghiên cứu để phân tích ảnh hưởng của các nhân tố như tuổi, trình độ chuyên môn, số năm công tác trong lĩnh vực tín dụng của các cán bộ tín dụng cũng như mức dư nợ bình quân mỗi cán bộ tín dụng chuyên quản tác động như thế nào đến nhóm nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía ngân hàng dẫn đến rủi ro tín dụng, đề từ đó có thể đưa ra những giải pháp khắc khục, hạn chế rủi ro tín dụng một cách tốt hơn.

Tuy nhiên, trong quá trình thiết kế bảng câu hỏi và với tình hình thực tế tại

NHNTVN-CNCT, tác giả nhận thấy:

- Về trình độ chuyên môn: do yêu cầu xét tuyển khi vào làm việc ở bộ phận tín dụng nên tất cả 60 cán bộ hiện đang công tác tại bộ phận tín dụng (gồm 03 phòng nghiệp vụ: Phòng Quan hệ khách hàng, Phòng Quản lý rủi ro, Phòng Quản lý nợ) đều có trình độ đại học với hai chuyên ngành Tài chính – Tín dụng và Ngoại Thương.

29

- Về nhân tổ tuổi của cán bộ tín dụng: 80% số cán bộ tín dụng có độ tuổi từ 22 tuổi đến 32 tuổi. Số cán bộ có độ tuổi trên 32 tuổi hiện đang giữ các chức vụ quản lý (trưởng phòng, phó phòng, kiểm soát các phòng nghiệp vụ và Phó Giám đốc phụ trách tín dụng). Do phần lớn cán bộ tín dụng có độ tuổi không chênh lệch nhiều nên mức độ ảnh hưởng không lớn. Độ tuổi của cán bộ tín dụng đều trẻ vừa có tác dụng tích cực, vừa có tác dụng tiêu cực. Cán bộ trẻ thông

thường sẽ năng nổ, hoạt bát, sáng tạo, được đào tạo bài bản (chính sách giáo dục đào tạo ngày một tiến bộ hơn để phù hợp với sự phát triển của xã hội và nền kinh tế), tuy nhiên các cán bộ trẻ sẽ không có nhiều kinh nghiệm, đôi khi thiếu sự chính chắn trong việc ra quyết định, bên cạnh đó chưa có cái nhìn tổng quát về con người, sự việc cũng như chưa có các mối quan hệ rộng rãi.

- Về dư nợ bình quân mỗi cán bộ tín dụng chuyên quản và số thâm niên công tác: do Ngân hàng Ngoại Thương không có chính sách quy định mức dư nợ bình quân mỗi cán bộ tín dụng phải chuyên quản mà thông thường sẽ dựa vào số năm công tác, và năng lực của từng cán bộ để phân công quản một số đơn vị. Sau một thời gian sẽ có sự phân công luân chuyển các đơn vị giữa các cán bộ. Thêm vào đó, Ngân hàng Ngoại Thương đang áp dụng theo quy trình tín dụng mới, có sự phân chia rõ ràng giữa ba bộ phận (quan hệ khách hàng, quản lý rủi ro, quản lý nợ). Chính vì những nguyên nhân trên nên việc xác định dư nợ bình quân mỗi cán bộ tín dụng chuyên quản rất khó thực hiện.

Do tình hình thực tế như đã phân tích nên tác giả rất khó có thể tổng hợp số liệu để phân tích ảnh hưởng của các nhân tố tuổi, trình độ chuyên môn, số năm công tác trong lĩnh vực tín dụng của các cán bộ tín dụng cũng như mức dư nợ bình quân mỗi cán bộ tín dụng chuyên quản tác động như thế nào đến nhóm nguyên nhân chủ quan xuất phát từ phía ngân hàng dẫn đến rủi ro tín dụng.

Thêm vào đó, các nhân tố ảnh hưởng đến nhóm nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế, các cơ quan ban ngành có liên quan, từ phía khách hàng dẫn đến rủi ro tín dụng rất khó thống kê và xác định.

Trên đây là những khó khăn, hạn chế của quá trình đề xuất, thiết kế bảng câu hỏi, thu thập thông tin, xử lý kết quả khảo sát điều tra, và cũng là một phần hạn chế của đề tài nghiên cứu.

II. Kết quả khảo sát thực tế:

Như đã phân tích về các khó khăn, hạn chế của quá trình điều tra khảo sát, nên kết quả của việc điều tra chỉ mang tính thống kê để thấy được sự đồng tình của các ý kiến nhận được đối với các nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng và các giải pháp nhằm hạn chế, khắc phục rủi ro tín dụng do tác giả đề ra.

30

Số mẫu điều tra được phát ra là 60 mẫu và tất cả các mẫu đều hợp lệ do tác giả có điều kiện thuận lợi là các cán bộ tín dụng được lấy ý kiến cùng công tác với tác giả tại NHNTVN-CNCT, được tác giả hướng dẫn cách thức cụ thể khi đánh giá.

1. Khảo sát nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng:

Bảng khảo sát đưa ra 32 nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng xuất phát từ phía ngân hàng, trong đó, mỗi nguyên nhân sẽ lấy ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng được khảo sát thông qua đánh giá mức độ phổ biến theo thang điểm từ 01 đến 10, với mức độ 01 là không phổ biến và mức độ 10 là rất phổ biến.

Sau khi tổng hợp các mẫu điều tra, tác giả phân tổ các ý kiến đánh giá đối với nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng, tác giả phân chia làm ba tổ: nguyên nhân không phổ biến (thang điểm từ 1-4), nguyên nhân phổ biến (thang điểm từ 5-7), nguyên nhân rất phổ biến (thang điểm từ 8-10).

Kết quả khảo sát được ghi nhận trong bảng Tổng hợp kết quả nghiên cứu

(xem phần Phụ lục).

Từ bảng kết quả, tác giả nhận thấy có 10 nguyên nhân được đánh giá là rất phổ biến dựa trên mức điểm trung bình từ 8,00 trở lên. Theo nhận định của tác giả, 10 nguyên nhân được chọn tương đối phù hợp với tình hình thực tế của NHNTVN-CNCT, tác giả cũng đồng tình với những nguyên nhân chủ yếu này.

31

BIỂU ĐỒ 1:

2. Khảo sát giải pháp giúp hạn chế rủi ro tín dụng:

Bảng khảo sát đưa ra 29 giải pháp giúp hạn chế rủi ro tín dụng, trong đó, mỗi giải pháp sẽ lấy ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng được khảo sát thông qua đánh giá mức độ quan trọng theo thang điểm từ 01 đến 10, với mức độ 01 là không quan trọng và mức độ 10 là rất quan trọng.

Sau khi tổng hợp các mẫu điều tra, tác giả phân tổ các ý kiến đánh giá đối với giải pháp giúp hạn chế rủi ro tín dụng, tác giả phân chia làm ba tổ: giải pháp không quan trọng (thang điểm từ 1-4), giải pháp quan trọng (thang điểm từ 5-7), giải pháp rất quan trọng (thang điểm từ 8-10).

Kết quả khảo sát được ghi nhận trong bảng Tổng hợp kết quả nghiên cứu

(xem phần Phụ lục).

Từ bảng kết quả, tác giả nhận thấy có 10 giải pháp được đánh giá là rất quan trọng dựa trên mức điểm trung bình từ 8,00 trở lên. Theo nhận định của tác giả, 10 giải pháp được chọn tương đối phù hợp với tình hình thực tế của NHNTVN–CNCT và tác giả cũng đồng tình với những giải pháp chủ yếu này.

32

BIỂU ĐỒ 2:

CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG NGOẠI THƯƠNG VIỆT NAM – CN CẦN THƠ

I. Tổng quan về tình hình kinh tế - xã hội và hoạt động ngân hàng của TP.Cần Thơ trong thời gian qua:

Thành phố Cần Thơ nằm ở phía nam tả ngạn hạ lưu Sông Hậu, trên quốc lộ 1A, quốc lộ 91, với hệ thống giao thông thủy, bộ rất thuận tiện cho việc giao lưu từ TP.Hồ Chí Minh tới các tỉnh Nam Sông Hậu và ngược lại. Với những điều kiện thuận lợi về tự nhiên, kinh tế, xã hội, TP.Cần Thơ còn được xem là trung tâm kinh tế, văn hóa, đầu mối quan trọng về giao thông vận tải nội vùng và liên vận quốc tế của vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long và của cả nước. Mặc dù nằm trong vùng ngập lũ hàng năm vào mùa mưa, song vì là vùng đất nông nghiệp hạ lưu, điều kiện về đất đai, lao động, thời tiết, khí hậu, độ ẩm của Cần Thơ rất thuận lợi cho sự phát triển sản xuất nông nghiệp, mở rộng ngành nghề, và các hoạt động công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ, du lịch của thành phố.

Đầu năm 2004, thực hiện Nghị Quyết 45-NQ/TW của Bộ Chính Trị về “Xây dựng và phát triển TP.Cần Thơ trong thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”, Tỉnh Cần Thơ đã được chia tách thành Tỉnh Hậu Giang và TP.Cần Thơ trực thuộc Trung Ương. Đây là một Nghị quyết quan trọng mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển của TP.Cần Thơ.

Một số thành tựu nổi bật về tình hình kinh tế - xã hội, và riêng về hoạt

động ngân hàng TP.Cần Thơ đạt được sau thời gian triển khai Nghị quyết:

Năm 2005:

33

Sau hai năm chuyển đổi lên thành phố trực thuộc Trung Ương, kinh tế TP. Cần Thơ có bước phát triển khá toàn diện, các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều hoàn thành vượt mức kế hoạch. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt 15,7%, với cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp-xây dựng (tỷ trọng 43,14%), dịch vụ- thương mại (tỷ trọng 39,59%), nông nghiệp (tỷ trọng 17,37%). Đời sống nhân dân không ngừng được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người đạt 11,6 triệu đồng/người/năm (chỉ tiêu đề ra 8,4 triệu) tăng gấp 1,84 lần so với năm 2000.

Giá trị sản xuất công nghiệp tiếp tục duy trì ở mức cao đạt 8.013 tỷ đồng, tăng 21,57% so với thực hiện năm 2004. Trong đó, khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh có mức tăng trưởng cao nhất (52,8%), công nghiệp quốc doanh địa phương giảm 10%. Tổng mức hàng hóa bán ra, doanh thu dịch vụ đạt được 25.500 tỷ đồng, tăng 31,88% so với cùng kỳ. Kim ngạch xuất nhập khẩu toàn thành phố đạt 624 triệu USD, tăng 14% so với cùng kỳ (xuất khẩu đạt 372 triệu USD, nhập khẩu đạt 252 triệu USD).Tình hình thu ngân sách cũng có bước tăng trưởng, đạt 1.998 tỷ đồng, tăng 21,83%, chi ngân sách đạt 1.741 tỷ đồng, tăng 40% so với thực hiện năm 2004.

Tổng vốn huy động từ nền kinh tế trên địa bàn đạt 4.811 tỷ đồng, trong đó, huy động bằng VND đạt 4.140 tỷ đồng, chiếm 86% và ngoại tệ quy VND đạt 671 tỷ đồng chiếm 14%. So với tổng vốn huy động, huy động từ các tổ chức kinh tế đạt 1.690 tỷ đồng (chiếm 35%), huy động tiết kiệm đạt 3.121 tỷ đồng (chiếm 65%). Tuy vốn huy động tăng khá nhưng chỉ chiếm 46,7% trên tổng dư nợ, phần còn lại vẫn là vốn điều chuyển từ Trung Ương và vay các TCTD khác.

Tổng dư nợ nền kinh tế tại các TCTD trên địa bàn đạt 10.300 tỷ đồng, trong đó, dư nợ ngắn hạn đạt 7.562 tỷ đồng, chiếm 73,42% tổng dư nợ; dư nợ trung dài hạn đạt 2.738 tỷ đồng, chiếm 26,58% tổng dư nợ. Nợ quá hạn, nợ khoanh, nợ chờ xử lý là 340 tỷ đồng, chiếm khoảng 3,3% tổng dư nợ.

Năm 2006:

Trong năm 2006, mặc dù sản xuất, kinh doanh gặp nhiều khó khăn như biến động giá vật tư, nguyên nhiên vật liệu, dịch bệnh trên gia súc, gia cầm, rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn là trên lúa, tuy nhiên, với quyết tâm, TP.Cần Thơ đã tập trung mọi nguồn lực để xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, sắp xếp lại các DNNN nhằm đạt được mục tiêu đề ra.

34

Tốc độ tăng trưởng kinh tế của thành phố đạt 16,18% so với năm 2005. So với cùng kỳ, các chỉ tiêu kinh tế thành phố đạt được lần lượt là: tổng giá trị sản xuất công nghiệp đạt 9.983 tỷ đồng, tăng 21%; tổng mức hàng hóa bán ra đạt 26.554 tỷ đồng (tăng 25%), tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt 748 triệu USD, tăng 16% (trong đó, kim ngạch xuất khẩu đạt 466 triệu USD và kim ngạch nhập khẩu đạt 282 triệu USD). Tổng thu ngân sách toàn thành phố đạt 2.462 tỷ đồng, tăng 11% so với năm 2005 và đạt 117% so với kế hoạch Trung Ương giao; chi ngân sách đạt 2.090 tỷ đồng, tăng 9% so với năm 2005 và đạt 129% dự toán kế hoạch năm 2006.

Tổng vốn huy động từ nền kinh tế năm 2006 là 5.880 tỷ đồng, trong đó, huy động bằng VND đạt 5.070 tỷ đồng, chiếm 86%; huy động bằng ngoại tệ quy VND đạt 810 tỷ đồng, chiếm 14%. Trong 5.880 tỷ đồng vốn huy động, vốn huy động từ các tổ chức kinh tế đạt 1.880 tỷ đồng, chiếm 32%; vốn huy động tiết kiệm đạt 3.500 tỷ đồng chiếm 59%, vốn huy động bằng hình thức phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi đạt 500 tỷ đồng, chiếm 9%.

Tổng dư nợ nền kinh tế tại các TCTD trên địa bàn đạt 11.430 tỷ đồng, trong đó, dư nợ VND đạt 9.480 tỷ đồng chiếm 82,95% tổng dư nợ; dư nợ ngoại tệ quy VND đạt 1.950 tỷ đồng, chiếm 17,06% tổng dư nợ. Trong tổng dư nợ 11.040 tỷ đồng, thị phần của các NHTMNN chiếm 60%, tương đương 6.858 tỷ đồng, các NHTMCP và liên doanh chiếm 40%, tương đương 4.572 tỷ đồng. Nợ xấu trên địa bàn tính đến cuối năm là 316 tỷ đồng, chiếm 2,76% trên tổng dư nợ, trong đó, nợ khoanh và nợ chờ xử lý là 13 tỷ đồng, chiếm 0,11% tổng dư nợ.

6 tháng đầu năm 2007:

Trong 06 tháng đầu năm 2007, tình hình kinh tế, xã hội của TP.Cần Thơ tiếp tục phát triển ổn định so với cùng kỳ năm 2006. Giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 5.379 tỷ đồng, tăng 18%, trong đó, khu vực công nghiệp ngoài quốc doanh địa phương và Trung ương giảm 19%. Tổng mức doanh thu bán lẻ ước đạt 6.750 tỷ đồng, tăng 36%. Kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 333 triệu USD, giảm 7% so với cùng kỳ (kim ngạch xuất khẩu đạt 198 triệu USD, kim ngạch nhập khẩu đạt 135 triệu USD). So với cùng kỳ, tình hình thu ngân sách đạt 1.198 tỷ đồng, giảm 6%, chi ngân sách đạt 1.025 tỷ đồng, tăng 28%.

Tổng nguồn vốn huy động trên địa bàn thành phố trong sáu tháng đầu năm đạt 7.350 tỷ đồng, tăng 40% so với cùng kỳ, trong đó, huy động bằng VND đạt 6.321 tỷ đồng, chiếm 86%; huy động bằng ngoại tệ quy VND đạt 1.029 tỷ đồng, chiếm 14%. Huy động từ các tổ chức kinh tế đạt 2.058 tỷ đồng, chiếm 28%, huy động tiết kiệm đạt 4.776 tỷ đồng, chiếm 65%, huy động bằng hình thức phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi đạt 516 tỷ đồng, chiếm 7% trên tổng vốn huy động.

35

Tổng dư nợ nền kinh tế tại các TCTD ước đạt 12.450 tỷ đồng, tăng 19% so với cùng kỳ, trong đó dư nợ VND đạt 10.333 tỷ đồng, chiếm 83% tổng dư nợ, dư nợ ngoại tệ quy VND đạt 2.117 tỷ đồng, chiếm 17% tổng dư nợ. Trong tổng dư nợ 12.450 tỷ đồng, thị phần của các NHTMNN chiếm 57%, tương đương 7.096 tỷ đồng, các NHTMCP và liên doanh chiếm 43%, tương đương 5.354 tỷ đồng. Nợ xấu trên địa bàn ước tính đến cuối tháng 06/2007 là 210 tỷ đồng,

chiếm 1,68% tổng dư nợ, trong đó, nợ khoanh và nợ chờ xử lý là 12 tỷ đồng, chiếm 0,09% trên tổng dư nợ.

II. Tổng quan về Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ:

NHNTVN–CNCT được thành lập theo quyết định số 16/NH-QĐ ngày 25/01/1989 trên cơ sở Phòng Ngoại Hối trực thuộc Chi nhánh NHNN Tỉnh Cần Thơ. Chi nhánh chính thức đi vào hoạt động vào ngày 01/10/1989, và là chi nhánh thứ 11 trực thuộc NHNTVN.

Từ khi mới thành lập, bộ máy hoạt động của Chi nhánh chỉ gồm có 04 phòng ban (Kế Toán, Kế hoạch – Tín dụng, Phi mậu dịch, Ngân quỹ - hành chính nhân sự) với 18 cán bộ. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, chi nhánh đã thành lập được 13 phòng nghiệp vụ và phòng giao dịch (Phòng Quan hệ khách hàng, Phòng Quản lý rủi ro, Phòng Quản lý nợ, Phòng Kế toán, Phòng Thanh toán quốc tế, Phòng Kinh doanh dịch vụ, Phòng Ngân quỹ, Phòng Vốn, Phòng Hành chính nhân sự, Phòng Kiểm tra nội bộ, Phòng Vi tính, và hai phòng giao dịch) với số lượng cán bộ, nhân viên gần 200 người.

Với đội ngũ cán bộ khá khiêm tốn buổi ban đầu và từng bước được bổ sung, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, nhân viên chi nhánh hiện nay đã có bước trưởng thành, đã phần nào đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ có được như ngày nay, trước hết là nhờ sự quan tâm của lãnh đạo các cấp, sự chỉ đạo, hướng dẫn về nghiệp vụ chuyên môn của NHNTVN, NHNN CN Cần Thơ và sự nhiệt tình giúp đỡ của các cơ quan ban ngành, đặc biệt là tinh thần quyết tâm cao của toàn thể cán bộ, nhân viên chi nhánh đã đưa Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ vượt qua khó khăn, thử thách và trưởng thành về nhiều mặt, thực hiện tốt chức năng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ, tín dụng, nhanh chóng trở thành một trong những trung tâm thanh toán quốc tế ở các tỉnh phía Nam, phục vụ nhiệm vụ mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại, chi phối các hoạt động tín dụng, thương mại và dịch vụ ngoại hối trong khu vực.

36

Hoạt động của NHNTVN-CNCT trong thời gian qua có tác dụng và ảnh hưởng không nhỏ đối với nền kinh tế sản xuất hàng hóa, quan hệ thị trường trong và ngoài nước của TP.Cần Thơ và các tỉnh trong khu vực, tích cực góp phần thúc đẩy kinh tế, xã hội phát triển với tốc độ ngày càng cao. Đặc biệt trong gần 20 năm, NHNTVN-CNCT luôn hoàn thành vượt mức các nhiệm vụ được giao và lập được nhiều thành tích xuất sắc, đóng góp vào thành tích và thắng lợi của hệ thống NHNTVN nói chung và NHNTVN-CNCT nói riêng.

III. Thực trạng công tác huy động và sử dụng vốn của Chi nhánh Ngân hàng Ngoại Thương Cần Thơ trong thời gian qua:

1. Công tác nguồn vốn:

BẢNG 1: NGUỒN VỐN QUA 03 NĂM

ĐVT: Tỷ VND, %

2004

2005

2006

CHỈ TIÊU

Giá trị (tỷ VND)

04/03 (%)

Giá trị (tỷ VND)

05/04 (%)

Giá trị (tỷ VND)

06/05 (%)

2,891,654

29.57

2,948,712

1.97

2,408,675

-18.31

Tỷ trọng (%) 100.00

Tỷ trọng (%) 100.00

Tỷ trọng (%) 100.00

TỔNG NGUỒN VỐN

- Phân theo đơn vị tiền tệ:

+ Nguồn vốn VND

1,238,351

6.77

42.83

1,431,094

15.56

48.53

0.39

59.65

1,436,730

+ Nguồn vốn USD

1,653,303

54.24

57.17

1,517,618

-8.21

51.47

-35.96

40.35

971,945

- Phân theo nguồn hình thành:

+ Nguồn vốn huy động

774,543

23.82

26.79

950,152

22.67

32.22

789,813

-16.88

32.79

+ Vốn vay NHNT TW

1,991,314

32.77

68.86

1,822,942

-8.46

61.82

1,486,175

-18.47

61.70

+ Vốn khác

125,797

1.61

4.35

175,618

39.60

5.96

-24.45

5.51

132,686

Nguồn: Bảng cân đối kế toán NHNTVN - CN Cần Thơ

Qua bảng số liệu thống kê về tình hình nguồn vốn của Chi nhánh trong ba năm 2004-2006, tác giả nhận thấy, tổng nguồn vốn năm 2005 so với năm 2004 tăng không đáng kể. Tuy nhiên, qua năm 2006, tổng nguồn vốn giảm đến 18% so với cùng kỳ, giảm cả nguồn vốn huy động và vốn vay từ NHNTVN.

Nguyên nhân nguồn vốn trong năm 2006 giảm (cụ thể là nguồn vốn huy

động giảm 17%) do:

- Thực hiện Nghị Quyết số 54/NQ.NHNT.HĐQT ngày 26/04/2006 của Hội đồng quản trị NHNTVN về phương án điều chỉnh, sắp xếp lại hoạt động của chi nhánh cấp 2 theo tinh thần Quyết định 888/2005/QĐ.NHNN ngày 16/06/2005 của Thống đốc NHNNVN, ngày 10/12/2006, NHNTVN-CNCT đã thực hiện thành công việc chuyển tách dữ liệu, một phần số dư huy động vốn của Chi nhánh Cần Thơ đã được chuyển sang Chi nhánh Sóc Trăng khi Chi nhánh Sóc Trăng từ chi nhánh cấp II được chuyển lên thành chi nhánh cấp I.

37

- Thu nhập bình quân của người dân TP.Cần Thơ đạt mức 15 triệu đồng /năm hiện nay là rất thấp so với mặt bằng chung của cả nước, vốn ít người dân thường đầu tư trực tiếp vào sản xuất, kinh doanh nên không gởi tiền vào ngân hàng, chính vì vậy nên khả năng huy động vốn tại NHNTVN-CNCT bị hạn chế, không thể so sánh với các trung tâm lớn như Hà Nội, TP.Hồ Chí Minh.

- Cuối năm 2006, trên địa bàn TP.Cần Thơ có đến 27 TCTD đang hoạt động, mức độ cạnh tranh có thể nói khá gay gắt, nên đã ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng huy động vốn của NHNTVN-CNCT.

Xét về tỷ trong từng loại nguồn vốn trên tổng nguồn vốn, tác giả nhận thấy, tỷ trong nguồn vốn VND qua từng năm có tăng lên, trong khi đó tỷ trọng ngoại tệ giảm xuống. Cụ thể, cơ cấu ngoại tệ VND/USD qua ba năm 2004-2005- 2006 lần lượt là 43/57 - 49/51 – 60/40. Nếu phân loại theo nguồn hình thành, tỷ trọng nguồn vốn huy động có xu hướng ngày càng tăng trong khi tỷ trọng vốn vay NHNTVN lại có chiều hướng giảm xuống. Điều này cho thấy NHNTVN- CNCT đã có một sự cố gắng lớn trong công tác tự chủ nguồn vốn.

2. Công tác sử dụng vốn:

2.1. Tình hình sử dụng vốn qua 03 năm:

BẢNG 2: TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN VAY QUA 03 NĂM ĐVT: Tỷ VND, %

CHỈ TIÊU

2004

2005

2006

2005/2004

2006/2005

DOANH SỐ CHO VAY

14,768.19

14,776.38

15,314.96

0.06

3.64

- VND

6,458.00

6,061.00

6,835.00

-6.15

12.77

- USD (quy VND)

8,310.19

8,715.38

8,479.96

4.88

-2.70

DOANH SỐ THU NỢ

13,178.00

14,241.13

15,178.41

8.07

6.58

- VND

6,324.00

5,875.00

6,441.00

-7.10

9.63

- USD (quy VND)

6,854.00

8,366.13

8,737.41

22.06

4.44

DƯ NỢ

2,686.00

2,711.40

2,281.66

0.95

-15.85

- VND

1,116.00

1,289.00

1,387.00

15.50

7.60

- USD (quy VND)

1,570.00

1,422.40

894.66

-9.40

-37.10

Nguồn: NHNTVN - CN Cần Thơ

38

Hoạt động tín dụng của NHNTVN-CNCT trong 03 năm qua, ở cả ba chỉ tiêu đều không có sự tăng trưởng đáng kể. Doanh số cho vay và dư nợ VND đến thời điểm cuối mỗi năm tuy có tăng nhưng do doanh số cho vay và dư nợ ngoại tệ giảm mạnh nên đã ảnh hưởng đến kết quả thực hiện cuối năm của mỗi chỉ tiêu. Tuy nhiên, tình hình này lại phù hợp với tình hình huy động vốn của Chi nhánh trong thời gian qua (tăng huy động VND, giảm huy động ngoại tệ). Về chỉ tiêu doanh số thu nợ, tuy mức tăng trưởng qua từng năm thấp, nhưng nhìn chung NHNTVN-CNCT đã thực hiện khá tốt công tác cho vay và thu nợ.

Một số nguyên nhân dẫn đến dư nợ của NHNTVN-CNCT giảm mạnh

trong năm 2006:

- Thực hiện Nghị Quyết số 54/NQ.NHNT.HĐQT ngày 26/04/2006 của Hội đồng quản trị NHNTVN về phương án điều chỉnh, sắp xếp lại hoạt động của chi nhánh cấp 2 theo tinh thần Quyết định 888/2005/QĐ.NHNN ngày 16/06/2005 của Thống đốc NHNNVN, ngày 10/12/2006, NHNTVN-CNCT đã thực hiện thành công việc chuyển tách dữ liệu, một phần dư nợ của Chi nhánh Cần Thơ đã được chuyển sang Chi nhánh Sóc Trăng khi Chi nhánh Sóc Trăng từ chi nhánh cấp II được chuyển lên thành chi nhánh cấp I. (Trong những khách hàng của Chi nhánh Sóc Trăng có những doanh nghiệp chế biến thủy hải sản có dư nợ khá lớn như CT TNHH Kim Anh, Stapimex, Sao Ta, Út Xi,...nên ảnh hưởng giảm nhiều dư nợ của Chi nhánh Cần Thơ).

- Do đặc thù của vùng ĐBSCL là vựa lúa lớn nhất của cả nước, sông ngòi kênh rạch chằng chịt nên khu vực có rất nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh các mặt hàng lương thực, thực phẩm, phân bón, vật tư kỹ thuật nông nghiệp và thủy sản. Các doanh nghiệp lớn kinh doanh những mặt hàng này có thể kể ra như: CT CP TNTH & CBLT Thốt Nốt (Gentraco), CT Mekong Cần Thơ, CT TNHH Trung An, CT TNHH ADC, CT Vật Tư Kỹ Thuật Nông Nghiệp Cần Thơ, CT CP Thủy Sản Cafatex, CT TNHH Thủy Sản Việt Hải,...Chính vì vậy, dư nợ chủ yếu của NHNTVN-CNCT phụ thuộc rất lớn vào những ngành hàng này. Bên cạnh yếu tố thời vụ, yếu tố môi trường (thiên tai, hạn hán, bão lũ), dịch bệnh, các yêu cầu đặt ra đối với hoạt động xuất nhập khẩu (xuất khẩu gạo, xuất khẩu thủy sản, nhập khẩu phân bón,...), sự biến động về tình hình giá cả thế giới ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng không chỉ đến dư nợ của NHNTVN-CNCT, mà còn ảnh hưởng đến các chỉ tiêu doanh số cho vay, doanh số thu nợ. Diễn biến giá cả thị trường xuất khẩu liên quan đến những mặt hàng trên trong thời gian qua như sau:

39

* Các doanh nghiệp xuất khẩu thủy sản trong thời gian qua phải đối mặt với những khó khăn về thị trường xuất khẩu, về thu mua nguyên liệu, về ràng buộc chất lượng của nhà nhập khẩu,...làm cho sản lượng xuất khẩu sang các thị trường truyền thống bị giảm, tiếp tục tìm kiếm các thị trường mới nhưng bước đầu sản lượng xuất chưa nhiều nên dư nợ của nhóm khách hàng này giảm mạnh qua các năm về lượng giá trị và cả tỷ trọng (so với cùng kỳ, dư nợ nhóm ngành thủy sản năm 2005 giảm 11,46%, năm 2006 giảm 36,88%; tỷ trọng so với tổng dư nợ từ 33,33% năm 2005 giảm xuống còn 25% năm 2006).

* Ngược lại với ngành thủy sản, thời gian qua xuất khẩu gạo Việt Nam đạt được những kết quả rất khả quan. Trong năm 2005, mặc dù thiên tai liên tiếp xảy ra, nhưng cả nước vẫn được vụ mùa lớn, đặc biệt là vụ lúa Đông Xuân và Hè thu cả nước đều cho năng suất cao. Nguồn hàng trong nước dồi dào, các doanh nghiệp đã chủ động hơn trong việc xuất khẩu và lựa chọn bạn hàng, giá xuất khẩu gạo tăng mạnh. Cũng vì thế, dư nợ nhóm ngành hàng lương thực thực phẩm năm 2005 tăng trên 14% so với cùng kỳ. Qua năm 2006, do tình hình xuất khẩu gạo gặp một số khó khăn như chịu ảnh hưởng mạnh bởi dịch bệnh vàng lùn, lùn xoắn là, thêm vào đó, Chính Phủ ban hành lệnh cấm xuất khẩu gạo để đảm bảo vấn đề an ninh lương thực quốc gia nên dư nợ cho vay đối với nhóm ngành hàng lương thực thực phẩm của NHNTVN-CNCT có giảm sút về tốc độ tăng trưởng.

* Đối với mặt hàng phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, vật tư kỹ thuật nông nghiệp: đây cũng là những mặt hàng luôn chiếm tỷ trọng lớn (bình quân khoảng 20%) trong tổng dư nợ mỗi năm của NHNTVN-CNCT. Tuy nhiên, giá cả nhập khẩu các mặt hàng này trong thời gian qua cũng luôn có sự biến động.

BẢNG 3: TÌNH HÌNH DƯ NỢ PHÂN THEO CÁC CHỈ TIÊU

ĐVT: Tỷ VND, %

CHỈ TIÊU

2004

2005

2006

2005/2004

2006/2005

PHÂN THEO NGÀNH HÀNG

2,686.00

2,711.40

2,281.66

0.95

-15.85

+ Thủy sản

1,020.68

903.71

570.41

-11.46

-36.88

+ Lương thực, thực phẩm

295.46

337.84

342.25

14.34

1.30

+ Phân bón, vật tư nông nghiệp

376.04

449.82

501.97

19.62

11.59

+ Các mặt hàng khác

993.82

1,020.03

867.03

2.64

-15.00

PHÂN THEO THỜI HẠN CHO VAY

2,686.00

2,711.40

2,281.66

0.95

-15.85

+ Ngắn hạn

2,382.48

2,346.45

2,007.86

-1.51

-14.43

+ Trung dài hạn

303.52

364.95

273.80

20.24

-24.98

PHÂN THEO THÀNH PHẦN KINH TẾ

2,524.84

2,597.25

2,190.39

2.87

-15.66

+ CT CP và TNHH

1,745.90

1,938.92

1,893.78

11.06

-2.33

+ DNNN

725.22

596.51

250.98

-17.75

-57.92

+ CT có vốn đầu tư nước ngoài

53.72

61.82

45.63

15.08

-26.18

+ DNTN, KT tập thể, KT cá thể

161.16

114.15

91.27

-29.17

-20.05

Nguồn: NHNTVN - CN Cần Thơ

2.2. Tình hình phân loại nợ và trích lập dự phòng để xử lý rủi ro

40

trong 03 năm, tổng hợp và xử lý nợ xấu:

BẢNG 4: BÁO CÁO PHÂN LOẠI NỢ, TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG ĐỂ XỬ LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG THEO CÔNG VĂN SỐ 493/CV-NHNT-QLTD NGÀY 22/04/2005 ĐẾN 31/12/2006-2005-2004

ĐVT: triệu VND

GIÁ TRỊ CỦA CÁC KHOẢN NỢ GIÁ TRỊ TÀI SẢN ĐẢM BẢO

SỐ TIỀN TRÍCH LẬP DỰ PHÒNG

CHỈ TIÊU

2006

5,226,982 2,608,652 2,618,330 2,390,055 2,061,664 328,391 0 218,074 713

2005 6,242,860 3,110,280 3,132,580 2,976,625 2,563,460 413,165 0 131,543 82

2004 6,715,371 3,352,563 3,362,808 2,730,033 2,052,311 677,722 0 622,530 0

2006 345,084 0 345,084 289,258 289,258 0 0 51,564 241

2005 841,978 415,510 426,469 392,915 392,915 0 0 22,595 31

2004 544,640 271,271 273,369 213,675 213,675 0 0 57,596 0

2006 33,656 19,565 14,091 0 0 0 0 8,326 24

2005 41,168 23,327 17,841 0 0 0 0 5,447 3

2004 61,538 25,144 36,394 0 0 0 0 28,247 0

50,528 166,833 0 170 167

23,491 107,970 0 11 11

182,813 439,717 0 0 0

6,612 44,711 0 120 120

10,536 12,028 0 0 0

46,811 10,785 0 0 0

2,196 6,106 0 10 9

648 4,797 0 2 2

6,800 21,447 0 0 0

3 0 0 353 25 300 28 0 9,677 69 0

0 0 0 2,102 0 0 0 2,102 22,299 0 0

0 0 0 0 0 0 0 0 10,245 769 0

0 0 0 87 0 87 0 0 4,055 45 0

0 0 0 0 0 0 0 0 10,959 0 0

0 0 0 0 0 0 0 0 2,098 613 0

1 0 0 133 13 106 14 0 5,623 24 0

0 0 0 1,051 0 0 0 1,051 11,340 0 0

0 0 0 0 0 0 0 0 8,147 156 0

DỰ PHÒNG CHUNG + DỰ PHÒNG CỤ THỂ: 1. Dự phòng chung: 2. Dự phòng cụ thể: NHÓM 1: - Các khoản nợ trong hạn được đánh giá là có đủ khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi đúng thời hạn; - Các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán theo quy định tại K4 Đ3 QĐ493; - Các khoản nợ đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ được phân loại vào nhóm 1 theo K2 Đ6 QĐ493; NHÓM 2: - Các khoản nợ quá hạn dưới 90 ngày; - Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn đã được cơ cấu lại phân loại nợ vào nhóm 2; - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại K3 Đ6 quy định này; - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại K4 Đ6 quy định này; NHÓM 3: - Các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày; - Các khoản nợ đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và đã bị quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại K3 Đ6 quy định này; - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại K4 Đ6 quy định này; NHÓM 4: - Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày; - Các khoản nợ đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và đã bị quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày; - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại K3 Đ6 quy định này; - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại K4 Đ6 quy định này; NHÓM 5: - Các khoản nợ quá hạn trên 360 ngày; - Các khoản nợ khoanh chờ Chính Phủ xử lý; - Các khoản nợ đã được cơ cấu lại thời hạn trả nợ và đã bị quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã cơ cấu lại; - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại K3 Đ6 quy định này; - Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại K4 Đ6 quy định này;

9,609 0 0

9,644 12,655 0

9,450 0 26

4,010 0 0

5,556 5,403 0

1,485 0 0

5,599 0 0

4,089 7,252 0

7,965 0 26

41

BẢNG 5: TỔNG HỢP NỢ XẤU Báo cáo theo công văn số 416/CV-NHNT.CN ngày 09/04/2007

ĐVT: triệu đồng

DƯ NỢ

STT

CHỈ TIÊU

31/12/2004

31/12/2005

31/12/2006

1 Ngân hàng chưa khởi kiện khách hàng

55.56

2,265.00

1,582.00

2 Ngân hàng đang khởi kiện khách hàng, chưa có bản án

769.00

0.00

0.00

3 Ngân hàng đã khởi kiện khách hàng, bản án đã có hiệu lực

0.00

0.00

0.00

4

0.00

0.00

0.00

Ngân hàng đã khởi kiện khách hàng, bản án đã có hiệu lực và việc thi hành án đã kết thúc

5 Ngân hàng đang thực hiện tái cơ cấu cho khách hàng

0.00

0.00

0.00

6 Nợ xấu không có khả năng thu hồi

9,369.00

22,147.00

10,575.00

TỔNG CỘNG NỢ XẤU

10,193.00

24,412.00

12,157.00

Nguồn: NHNTVN - CN Cần Thơ

BẢNG 6: TÌNH HÌNH XỬ LÝ NỢ XẤU Báo cáo theo công văn số 416/CV-NHNT.CN ngày 09/04/2007

STT

CHỈ TIÊU

2004

2005

ĐVT: triệu đồng 2006

1 Nợ xấu đầu năm

10,193.98

24,412.93

10,989.18

2 Nợ xấu phát sinh trong năm

23,038.34

1,353.04

16,486.10

0.00

3 Nợ xấu được xử lý bằng DP trong năm 4 Thu hồi nợ xấu và tái cơ cấu nợ

8,730.47 170.65

13,136.52 492.28

17,301.30

5 Chênh lệch tỷ giá

81.73

20.24

19.00

10,192.98

24,412.93

12,157.41

6 Nợ xấu cuối năm 7 Tỷ lệ Nợ xấu/Tổng dư nợ

3.79

9.00

5.33

Nguồn: NHNTVN - CN Cần Thơ

Qua các bảng số liệu tổng hợp về tình hình nợ xấu và xử lý nợ xấu, tác giả nhận thấy, nợ xấu phát sinh trong năm của NHNTVN-CNCT năm 2005 tăng rất cao, tăng gần 40% so với số nợ xấu phát sinh trong năm 2004. Số nợ xấu phát sinh trong năm 2005 trên 23 tỷ đồng kết hợp với số nợ xấu cuối năm 2004 chuyển qua trên 10 tỷ đồng dẫn đến tổng số nợ xấu trên 33 tỷ đồng. Sau khi được xử lý bằng nguồn dự phòng gần 9 tỷ đồng, nợ xấu cuối năm 2005 là 24,4 tỷ đồng. Đây là mức nợ xấu cao nhất trong 03 năm 2004-2006, dẫn đến tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ khá cao 9% (năm 2004 chỉ 3.79%).

42

Tuy nhiên qua năm 2006, tình hình nợ xấu phát sinh trong năm giảm rõ rệt, chỉ phát sinh 1,35 tỷ đồng. Số nợ xấu cuối năm 2006 là 12,16 tỷ đồng chủ yếu do nợ xấu cuối năm 2005 chuyển qua 24,4 tỷ đồng, sau đó được xử lý dự phòng 13,14 tỷ đồng. Với số nợ xấu phát sinh trong năm thấp nên tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ của NHNTVN-CNCT đã giảm xuống chỉ còn 5.33%. Ngoài ra, nhìn vào bảng tổng hợp nợ xấu, tác giả nhận thấy chủ yếu là nợ xấu không có khả năng thu hồi, với tỷ lệ gần 90% ở cả 03 năm.

Tóm lại:

Qua việc phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tại NHNTVN-CNCT, cụ thể là phân tích tình hình sử dụng vốn và chất lượng tín dụng thông qua tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ, tác giả nhận thấy có nhiều nguyên nhân chủ quan từ phía chính NHNTVN-CNCT và nguyên nhân khách quan từ phía nền kinh tế nói chung, các cơ quan ban ngành có liên quan, và từ phía các khách hàng của ngân hàng dẫn đến việc phát sinh rủi ro tín dụng. Việc nhận biết được nguyên nhân dẫn đến rủi ro để có thể đưa ra những giải pháp phù hợp là công việc quan trọng và cần thiết để nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng của NHNTVN -CNCT.

IV. Phân tích các nguyên nhân chính dẫn đến rủi ro tín dụng tại NNTVN– CNCT trong thời gian qua:

1. Nguyên nhân khách quan:

1.1. Môi trường tự nhiên:

ĐBSCL với đặc điểm là vựa lúa lớn nhất của cả nước, nên có rất nhiều các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thu mua lúa gạo phục vụ cho xuất khẩu. Tuy nhiên, mỗi năm khu vực này lại phải hứng chịu nhiều đợt thiên tai như hạn hán, mưa bão, lũ lụt. Vì là những rủi ro bất khả kháng nên hậu quả mang đến sau những đợt thiên tai thường không thể lường trước được. Thêm vào đó là các đợt dịch bệnh phá hoại mùa màng (như bệnh rầy nâu, bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá)... Với những rủi ro từ môi trường thiên nhiên, hàng năm các doanh nghiệp thu mua lúa gạo thường phải gánh chịu hậu quả khi không thu mua đủ lúa gạo để cung cấp cho các hợp đồng xuất khẩu đã ký, hoặc phải chấp hành lệnh cấm xuất khẩu gạo từ Chính Phủ để đảm bảo vấn đề an lương thực quốc gia. Khi đó, vừa phải bồi thường cho các hợp đồng xuất khẩu, vừa có thể bị mất khách hàng, các doanh nghiệp có thể lâm vào tình trạng phá sản, không trả được nợ cho ngân hàng đối với các khoản đã vay. Đối với NHNTVN- CNCT, đây được xem là một trong những nguyên nhân khách quan dẫn đến rủi ro tín dụng khi phần lớn các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu gạo là những khách hàng lớn của Chi nhánh.

1.2. Văn bản luật:

43

Hoạt động tín dụng của NHNTVN-CNCT trong thời gian qua chịu ảnh hưởng không chỉ từ việc hệ thống luật và các văn bản dưới luật liên quan đến hoạt động ngân hàng có sự chồng chéo, không rõ ràng, không hợp lý, thiếu tính

chặt chẽ mà ảnh hưởng rõ nét nhất là từ việc các chính sách về xuất nhập khẩu, các quy định về vấn đề an ninh lương thực được Chính Phủ ban hành, thay đổi khá đột ngột.

Như trong thời gian vừa qua, khi Chính Phủ ban hành các văn bản về tăng thuế xuất nhập khẩu một số mặt hàng mà trước đó Chi nhánh đã mở L/C bảo lãnh nhập khẩu hoặc cho vay vốn sản xuất hàng xuất khẩu, do thuế tăng nên việc kinh doanh của một số khách hàng bị thua lỗ, từ đó dẫn đến việc khách hàng chậm trả nợ hoặc không trả được nợ cho ngân hàng.

Hoặc như khi ngân hàng cho các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh lương thực vay vốn thu mua lúa gạo xuất khẩu (một trong những ngành hàng chủ lực của khu vực ĐBSCL, và là một trong những lĩnh vực đầu tư chủ yếu của NHNTVN-CNCT) các doanh nghiệp đều đã ký được nhiều đơn hàng xuất khẩu gạo, tuy nhiên sau đó, do ảnh hưởng của dịch bệnh vàng lùn, lùn xoắn lá, để đảm bảo vấn đề an ninh lương thực quốc gia, Chính Phủ đột ngột ban hành quyết định tạm dừng xuất khẩu gạo. Việc ban hành này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc thực hiện đúng tiến độ các hợp đồng xuất khẩu gạo đã ký của các doanh nghiệp, hậu quả là nhiều doanh nghiệp thu mua lúa gạo là khách hàng lớn của Chi nhánh đã giảm dư nợ, và thực hiện gia hạn nợ.

Khi một chính sách bị thay đổi đột ngột sẽ ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến kế hoạch, cũng như khả năng dự báo sức tiêu thụ trên thị trường của các doanh nghiệp. Việc định hướng chiến lược sản xuất, kinh doanh không phù hợp, không chính xác sẽ dẫn đến sản xuất cung vượt cầu, hàng hóa khó tiêu thụ, giá bán hạ, thua lỗ, doanh nghiệp sẽ không đảm bảo nguồn tiền trả nợ, khi đó rủi ro xảy ra đối với ngân hàng là điều khó tránh khỏi.

1.3. Thông tin tín dụng:

Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc NHNN tuy hoạt động đã đạt được những kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin về tình hình hoạt động tín dụng nhưng CIC chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp hoạt động một cách độc lập và hiệu quả. Thêm vào đó, vai trò nối kết các NHTM của CIC còn lỏng lẻo, chưa thực sự mang lại kết quả như mong muốn.

44

Trong thời gian qua, NHNTVN-CNCT trong một vài trường hợp trước khi quyết định cấp tín dụng, có nhiều lần đăng ký hỏi tin CIC, tuy nhiên thông tin do CIC cung cấp còn khá đơn điệu, chưa đảm bảo thông tin nhanh nhạy, kịp thời, chất lượng thông tin chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu.

Các NHTM nói chung và NHNTVN-CNCT nói riêng hiện nay chưa nhận được sự phối hợp hỗ trợ cung cấp thông tin từ các cơ quan chức năng như cơ quan thuế, chi cục thống kê, hay các cơ quan chủ quản.

Khi tiến hành phân tích hồ sơ khách hàng, NHNTVN-CNCT cũng còn lệ thuộc khá nhiều vào các số liệu của khách hàng cung cấp mà chưa chủ động tìm kiếm thông tin hay nói cách khác có tình trạng thông tin bất cân xứng giữa các ngân hàng và khách hàng vay .

2. Nguyên nhân chủ quan từ phía NHNTVN–CNCT:

2.1. Cán bộ tín dụng:

Năng lực, trình độ, kinh nghiệm của một bộ phận cán bộ tín dụng tại NHNTVN-CNCT hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu công việc. Mặc dù theo kết quả khảo sát tất cả các cán bộ tín dụng đều có trình độ đại học, tốt nghiệp đúng chuyên ngành, tuy nhiên do độ tuổi của đa số cán bộ tín dụng còn khá trẻ, phần lớn vừa được tuyển dụng, còn ít kinh nghiệm nên cần phải có thêm thời gian để được đào tạo thêm, và đúc kết nhiều kinh nghiệm.

Bên cạnh nguyên nhân trên, vẫn còn một số ít cán bộ chưa có ý thức tự nâng cao nghiệp vụ chuyên môn, ít chịu học hỏi kinh nghiệm, chỉ thực hiện công việc một cách thụ động.

Thêm vào đó, công tác phân công cán bộ tín dụng quản lý khách hàng của NHNTVN-CNCT hiện nay không theo từng ngành hàng, lĩnh vực kinh doanh nên dẫn đến việc cán bộ tín dụng làm việc theo kiểu đa năng, không chuyên sâu vào một ngành nghề cụ thể nào nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành. Khách hàng khi cung cấp các dự án, có nhiều thông số kỹ thuật máy móc chuyên ngành hoàn toàn xa lạ với cán bộ tín dụng. Thuê chuyên gia đánh giá đòi hỏi chi phí cao nên chủ yếu ngân hàng tự tìm hiểu thông tin thông qua sách, báo, tạp chí chuyên ngành, qua mạng internet. Việc không có kiến thức chuyên môn về chuyên ngành cần thẩm định dễ đưa đến những đánh giá sai, gây bức xúc cho khách hàng hoặc ngược lại, khách hàng thông tin sai mà cán bộ tín dụng không biết, từ đó có những quyết định sai lầm trong cho vay.

45

Ngoài ra, sự gắn bó, nổ lực trong công việc của một bộ phận cán bộ tín dụng tại NHNTVN-CNCT hiện chưa được phát huy do chính sách tuyển dụng, sử dụng, phân công, bố trí công việc và vấn đề đãi ngộ chưa đủ sức thu hút.

2.2. Thông tin tín dụng:

Việc thu thập thông tin của ngân hàng về khách hàng, về ngành nghề, về môi trường kinh tế mà khách hàng đang hoạt động, về các văn bản mới được ban hành, về tình hình diễn biến giá cả thị trường trong và ngoài nước, đặc biệt là những cảnh báo về các ngành hàng ngân hàng đang và sẽ đầu tư chưa được thực hiện một cách thường xuyên và có tính hệ thống.

2.3. Tài sản bảo dảm:

Rủi ro trong hoạt động tín dụng của NHNTVN-CNCT trong thời gian qua

liên quan đến TSBĐ có nhiều vấn đề cần được phân tích và làm rõ:

- Việc quản lý, phân loại, cảnh báo về danh mục các TSBĐ chưa được các cán bộ tín dụng làm thường xuyên mà định kỳ hàng năm chỉ kiểm tra trên hồ sơ pháp lý, đánh giá lại giá trị để điều chỉnh mức dư nợ cho vay nên xuất hiện tình trạng giá trị thanh lý thấp hơn so với giá trị thẩm định ban đầu khiến cho ngân hàng không thể thu hồi đủ nợ gốc và lãi vay

- Quá trình định giá trị TSBĐ được ngân hàng thực hiện theo cách các bên tự thỏa thuận sau khi cán bộ tín dụng xác định giá trị tài sản trên cơ sở tham khảo bảng giá đất quy định do UBND TP ban hành hàng năm. Do đa số cán bộ tín dụng tại NHNTVN-CNCT còn khá trẻ, chưa có nhiều kinh nghiệm nên chưa được trang bị đầy đủ nghiệp vụ chuyên môn trong ngành thẩm định giá cũng như sự thông thạo về tài sản cần thẩm định, nhất là trong lĩnh vực bất động sản. Chính vì vậy, khi tiến hành định giá, phương pháp định giá đối với từng loại tài sản chưa được các cán bộ tín dụng sử dụng một cách thích hợp, dẫn đến việc nếu định giá thấp, khách hàng không hài lòng, nhưng nếu định giá cao ngân hàng sẽ khó đảm bảo khả năng thu hồi nợ và lãi vay trong trường hợp khách hàng mất khả năng thanh toán.

46

- Tâm lý chung của phần lớn các cán bộ tín dụng khi cấp tín dụng vẫn chủ yếu dựa vào TSBĐ. Sẽ rất rủi ro nếu cán bộ tín dụng quên rằng khoản vay cần phải được trả bằng chính dòng tiền tạo ra bởi phương án sản xuất kinh doanh chứ không phải bằng tiền bán TSBĐ. TSBĐ chỉ là sự đảm bảo cuối cùng khi phương án kinh doanh của khách hàng gặp rủi ro ngoài dự kiến. Tâm lý dựa chủ yếu vào TSBĐ sẽ làm giảm chất lượng thẩm định khoản vay nên sẽ không đánh giá chính xác được hiệu quả và sự an toàn của khoản vay, dễ dẫn đến việc cho vay những dự án rủi ro, khách hàng không uy tín.

- Do không thể nắm bắt được chuyên môn trong tất cả các lĩnh vực, nên không tránh khỏi việc cán bộ tín dụng không thể đánh giá được chính xác hiện trạng của tất cả các loại máy móc thiết bị, nhất là đối với những máy móc thiết bị chuyên dụng. Thêm vào đó là tình trạng thông tin bất cân xứng về giá trị thực của TSBĐ giữa khách hàng và ngân hàng cũng là vấn đề cần được quan tâm. Vì khi thế chấp, cầm cố tài sản chỉ có khách hàng biết rõ về hiện trạng của tài sản. Chính vì vậy, khi xảy ra rủi ro, việc phát mãi tài sản để thu hồi nợ gặp không ít khó khăn.

- Việc cơ chế pháp lý về bảo đảm tiền vay hiện nay chưa rõ ràng và các vấn đề liên quan đến quá trình xử lý, phát mãi TSBĐ đã gây cản trở không ít cho ngân hàng, cụ thể:

* Ngân hàng phải đối mặt với những khó khăn trong thời gian trước khi bán đấu giá tài sản như không có đầy đủ kho để bảo quản, giá trị tài sản giảm sút nhanh, nhất là trong giai đoạn công nghệ thông tin hiện nay, khi đó, để có thể bán, khai thác hoặc cho thuê buộc ngân hàng phải sửa chữa, đầu tư thêm, điều này làm cho chi phí tăng lên, trong khi giá trị thu hồi từ các tài sản chưa chắc đã thu đủ nợ gốc, hoặc như vướng mắc về hồ sơ, thủ tục pháp lý,…nên giá bán thực tế đôi khi thấp hơn rất nhiều so với giá bán dự kiến, và vấn đề sẽ càng trở nên khó khăn hơn nhiều đối với những tài sản chuyên dùng. Đối với tài sản là bất động sản, do giá trị tài sản quá lớn (có những tài sản trị giá vài chục tỉ đồng hay thậm chí vài trăm tỉ đồng) gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ, vì ít người có khả năng mua được. Hơn nữa, khi bỏ ra một số tiền quá lớn để mua lại tài sản “vỡ nợ” thì sức ép tâm lý không phải dễ dàng vượt qua.

* Trong việc phát mãi TSBĐ, ngân hàng chưa có thực quyền trong việc bán, quản lý và khai thác tài sản thuộc quyền tiếp quản. Để phát mãi TSBĐ, ngân hàng phải xin được giải quyết quyền lợi bằng việc khởi kiện ra tòa án, do đó, tốn kém rất nhiều thời gian và chi phí.

* Sự phối hợp giữa cơ quan công an, viện kiểm soát, tòa án, các sở, ban, ngành, chính quyền địa phương trong việc xử lý TSBĐ còn nhiều hạn chế, chưa đồng bộ, chặt chẽ và kịp thời.

* Ngân hàng gặp nhiều vướng mắc khi nhận lại TSBĐ từ cơ quan thi

47

hành án.

2.4. Chính sách tín dụng, quy trình tín dụng:

Sau gần một năm triển khai quy trình tín dụng mới theo tư vấn của dự án Hỗ trợ kỹ thuật Hà Lan, có thể nói mô hình tín dụng mới đã thay đổi một cách căn bản cơ chế quản lý điều hành hoạt động tín dụng truyền thống tại ngân hàng từ trước đến nay. Hai chức năng quan trọng trong hoạt động tín dụng là chức năng quan hệ khách hàng (bộ phận quan hệ khách hàng) và chức năng quản lý rủi ro (bộ phận quản lý rủi ro tín dụng và bộ phận quản lý nợ) được thực hiện tách biệt với mục đích vừa nâng cao chất lượng quản lý rủi ro tín dụng vừa chú trọng mở rộng phát triển kinh doanh. Tuy nhiên, phạm vi điều chỉnh của quy trình mới chỉ giới hạn đối với nhóm khách hàng là doanh nghiệp lớn, chưa có cơ chế quản lý điều hành trong việc cấp tín dụng đến nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ và nhóm khách hàng cá thể. Do mới đi vào hoạt động nên quy trình tín dụng mới chưa thể phát huy hết tính hiệu quả, trong quá trình thực hiện ngân hàng vẫn vấp phải những vướng mắc cần có sự thống nhất toàn hệ thống NHNT sau thời gian triển khai quy định. Rủi ro tín dụng sẽ dễ dàng xảy ra nếu như quá trình cấp tín dụng vẫn tiến hành theo cách thức vận dụng khá “linh hoạt” quy trình tín dụng như ngân hàng đã thường thực hiện trước đây.

2.5. Công tác thẩm định:

Trong quy trình cấp tín dụng, thẩm định được xem là bước quan trọng và ảnh hưởng lớn nhất đến hiệu quả của khoản vay. Rủi ro tín dụng sẽ xảy ra nếu công tác thẩm định không được thực hiện tốt. Khi tiến hành thẩm định, cán bộ tín dụng phải tiến hành thẩm định cả yêu tố uy tín, năng lực quản lý và năng lực quản trị của khách hàng.

48

Tuy nhiên, hiện nay, công việc đánh giá uy tín của khách hàng đang là vấn đề thật sự khó khăn khi nguồn thông tin và khả năng phát tín hiệu của khách hàng còn hạn chế. Cán bộ tín dụng khi đánh giá chủ yếu dựa vào cảm tính và chủ quan, như căn cứ vào các quan hệ trong quá khứ: khách hàng vay trả đúng hạn được xem là khách hàng có uy tín, còn đối với khách hàng mới quan hệ thì chủ yếu dựa vào ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng khi tiếp xúc với khách hàng, hoặc qua một số thông tin thu thập được. Trong khi đó đối tượng khách hàng được xem là chiến lược phục vụ của ngân hàng là khu vực kinh tế tư nhân thì còn quá non trẻ, chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có danh tiếng trên thị trường, ý thức của doanh nghiệp trong việc xây dựng uy tín và thương hiệu chưa cao, các hiệp hội ngành thì chưa phát huy vai trò của mình, chưa hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp thành viên phát triển,

nhất là việc giới thiệu các thành viên cho thị trường nên đã dẫn đến việc thu thập thông tin để đánh giá đối với khu vực kinh tế trên là rất khó khăn.

Về năng lực quản trị, mặc dù nguồn nhân lực là yếu tố quan trọng quyết định sự thành bại của doanh nghiệp và cũng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả đồng vốn của ngân hàng. Tuy nhiên, việc đánh giá nguồn nhân lực, nhất là bộ phận lãnh đạo của khách hàng hiện nay hoàn toàn chưa có cơ sở, chủ yếu là liệt kê bằng cấp và số năm công tác. Kết quả là việc đánh giá năng lực quản lý của khách hàng chỉ mang tính hình thức, không đánh giá đúng thực chất.

Về năng lực tài chính, công việc đánh giá được thực hiện chủ yếu dựa vào việc phân tích số liệu trên các báo cáo tài chính do khách hàng cung cấp. Hiện nay do Việt Nam chưa có quy định về minh bạch thông tin nên có thể nói độ tin cậy của các báo cáo tài chính chưa thật sự cao, nhất là đối với các DNTN. Ngân hàng dù biết kiểm toán báo cáo tài chính là tốt nhưng cũng không dám đề nghị khách hàng thực hiện vì sợ mất khách hàng. Từ những số liệu chưa thực sự tin cậy nên việc phân tích báo cáo tài chính sẽ không phản ánh đúng thực chất năng lực tài chính của khách hàng.

Đối với các dự án/phương án, thẩm định tính hiệu quả là khâu quan trọng, ảnh hưởng lớn nhất đến khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Tuy nhiên do có nhiều nhân tố chủ quan và khách quan tác động nên đã dẫn đến chất lượng đánh giá phương án/dự án vay chưa thật sự hiệu quả:

- Khi nhận một dự án, cán bộ thẩm định tiến hành thẩm định các khía cạnh như yếu tố thị trường, kỹ thuật, công nghệ và cả các yếu tố kinh tế, xã hội của dự án. Tuy nhiên, việc thẩm định dự án trong một môi trường thiếu thông tin như của Việt Nam là một thách thức lớn đối với các cán bộ thẩm định. Trên thị trường hiện nay, có rất ít doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu thị trường. Do đó, khi đánh giá thị trường đối với sản phẩm của dự án, cán bộ thẩm định chủ yếu phải dựa vào các nguồn thông tin không chính thức, thu thập qua báo chí, internet,…

- Thêm vào đó, trình độ xây dựng dự án/phương án sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn yếu.

49

- Ngoài ra, hệ thống pháp luật và cơ chế chính sách của Nhà Nước thường xuyên thay đổi, không có tính minh bạch và không có tính dự báo cũng có thể gây ra nhiều rủi ro cho dự án, như: các chiến lược phát triển vùng,

ngành; các quy định liên quan đến xuất nhập khẩu; các tiêu chuẩn về môi trường, …

- Một khó khăn khác trong công tác thẩm định dự án đó là xác định một suất chiết khấu phù hợp mức độ rủi ro của dự án và doanh nghiệp vay vốn. Ở Việt Nam, thị trường chứng khoán và các dịch vụ tài chính chưa phát triển nên việc xác định suất chiết khấu dựa trên mô hình CAPM khó có thể thực hiện được. Các cán bộ tín dụng thường sử dụng lãi suất cho vay làm suất chiết khấu. Suất chiết khấu được áp dụng cào bằng như nhau giữa các dự án có mức độ rủi ro khác nhau có thể để lọt những dự án có độ rủi ro cao.

- Tiêu chuẩn thống nhất chung về mặt bằng đánh giá, xếp loại doanh nghiệp giữa các ngân hàng chưa có sự thống nhất, chưa được tiến hành thường xuyên, định kỳ, một số ngân hàng còn xem việc này chỉ mang tính hình thức.

Kết quả là việc đánh giá dự án không mang tính khả thi, nhất là trong

điều kiện trình độ cán bộ thẩm định còn chưa được chuyên sâu.

2.6. Nguyên nhân khác:

Do áp lực phải hoàn thành chỉ tiêu kế hoạch hàng năm, chạy theo thành tích muốn tăng nhanh dư nợ vào thời gian những tháng cuối năm, không chỉ riêng NHNTVN-CNCT mà hầu hết các NHTM đều xảy ra tình trạng hạ thấp lãi suất cho vay, hạ thấp điều kiện tín dụng để thu hút khách hàng, dẫn đến việc cạnh tranh thiếu lành mạnh. Công tác thẩm định chỉ được thực hiện mang tính hình thức, buông lỏng khâu kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vay.

3. Nguyên nhân khách quan từ phía khách hàng vay vốn:

3.1. Đối với khách hàng là doanh nghiệp:

Trong thực tế hoạt động tín dụng tại NHNTVN-CNCT, rủi ro tín dụng

xuất phát từ phía khách hàng là doanh nghiệp thường do các nguyên nhân:

50

- Sau khi nhận được vốn vay, các doanh nghiệp thường có động cơ sử dụng vốn vào các mục đích rủi ro với mức sinh lợi cao. Tuy nhiên, vấn đề các doanh nghiệp sử dụng vốn vay không đúng mục đích không chỉ do ý chí chủ quan của doanh nghiệp mà còn xuất phát từ công tác giám sát khách hàng sau khi cho vay của ngân hàng chưa thật sự chặt chẽ. Thêm vào đó, do Việt Nam vẫn còn thói quen sử dụng tiền mặt, trong khi khách hàng cùng một lúc quan hệ với nhiều ngân hàng nên một số khoản vay rất khó kiểm soát, việc sử dụng vốn vay chồng chéo giữa các ngân hàng là rất phổ biến mà ngân hàng rất khó có thể

phát hiện. Trong một số trường hợp do tâm lý ỷ lại là ít khi bị pháp luật trừng trị khi vi phạm hợp đồng nên khách hàng đã sử dụng khoản tiền trả nợ cho ngân hàng để dùng vào những mục đích khác, làm cho nợ vay không được trả đúng hạn, thể hiện ở những khoản nợ quá hạn và gia hạn nợ.

- Khách hàng hiện nay của chi nhánh vẫn còn khá đông các DNNN. Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình các DNNN chưa thật sự nỗ lực trong việc sử dụng vốn vay có hiệu quả. Vì do doanh nghiệp luôn có tâm lý ỷ lại vào cơ chế xử lý của Nhà nước, nếu kinh doanh thua lỗ doanh nghiệp cũng vẫn tồn tại, trả nợ vay không được Nhà nước sẽ có cơ chế xử lý. Chính vì tâm lý này mà một số DNNN rất thiếu sự cẩn trọng trong việc quyết định đầu tư. Chỉ cần có ý tưởng là đề xuất dự án vay vốn ngân hàng. Vì không có sự nghiêm túc trong quyết định đầu tư nên quá trình triển khai thực hiện dự án gặp rất nhiều vướng mắc, có khi dẫn đến dự án bị phá sản, toàn bộ nguồn vốn đã đầu tư đều bị mất. Hành vi ỷ lại này thể hiện rất rõ trong quá trình triển khai thực hiện dự án của các DNNN. Rất hiếm khi các doanh nghiệp đánh giá kết quả thực hiện cho từng giai đoạn để thấy được những mặt làm được cũng như những tồn tại cần khắc phục và dự báo những khó khăn, trở ngại phải đối mặt trong thời gian tới để đảm bảo cho việc thực thi dự án thành công. Chính từ sự thiếu trách nhiệm đã dẫn đến một số dự án bị thua lỗ.

- Hầu hết các hách hàng chưa có thiện chí trong vấn đề cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác để phục vụ cho việc cấp tín dụng: các báo cáo tài chính thường thiếu sự minh bạch, trung thực, không được kiểm toán hoặc một số doanh nghiệp tuy có thực hiện kiểm toán nhưng chậm so với thời gian ngân hàng cần có để sử dụng cho quá trình phân tích.

51

- Công tác quản lý, điều hành của một số doanh nghiệp chưa hiệu quả. Năng lực điều hành của Ban lãnh đạo còn nhiều hạn chế, chưa đủ kinh nghiệm và tầm nhìn về lĩnh vực hoạt động sản xuất, kinh doanh, trình độ, kiến thức về quản lý kinh tế yếu kém thể hiện qua việc doanh nghiệp không có chiến lược kinh doanh rõ ràng, cụ thể, không có kế hoạch kinh doanh được triển khai, không chủ động trong việc tìm kiếm thông tin về sự biến động của giá cả thị trường, ngành hàng, về tình hình hoạt động kinh doanh của đối tác, đối thủ cạnh tranh, từ đó doanh nghiệp không có khả năng thích ứng kịp thời với sự biến động và sức ép cạnh tranh ngày càng tăng của thị trường và môi trường kinh doanh, cũng như các sản phẩm làm ra không có sự gắn kết, không đáp ứng được thị hiếu của người tiêu dùng... Đa phần các doanh nghiệp vay vốn nhằm mục đích mở rộng quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh. Song hầu hết các doanh nghiệp lại ít chịu mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ

máy điều hành, giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Quy mô kinh doanh mở rộng quá lớn so với tư duy quản lý là nguyên nhân dẫn đến sự phá sản của hầu hết các doanh nghiệp.

- Sự hạn chế của đội ngũ nhân viên về trình độ chuyên môn, tay nghề,

kỷ thuật và kỹ luật lao động.

- Thói quen sản xuất, kinh doanh theo kiểu phong trào: thấy lĩnh vực nào có hiệu quả, các doanh nghiệp thường đổ xô đầu tư mà không xem xét đầy đủ mọi khía cạnh.

- Công nghệ, quy trình sản xuất của doanh nghiệp không tạo ra được những sản phẩm mang tính cạnh tranh. Nguyên nhân một mặt do Ban lãnh đạo chưa đủ tầm nhìn mặt khác do sự phát triển quá nhanh của các tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ.

- Sự tác động của các nhân tố khách quan như môi trường pháp lý, môi trường kinh tế - xã hội như sự thay đổi quan điểm và sở thích của người tiêu dùng, thiên tai, hỏa hoạn, chiến tranh, khủng bố...

3.2. Đối với khách hàng là cá nhân:

Với các khách hàng là cá nhân, nguyên nhân dẫn đến rủi ro chó

NHNTVN-CNCT thường do:

- Hoạt động kinh doanh của khách hàng không gặp thuận lợi, khả năng

quản lý tình hình tài chính yếu kém.

- Nguồn hoàn trả chính từ thu nhập cơ bản bị mất hoặc suy giảm do

mất việc, chuyển sang công việc kém hơn hoặc không còn khả năng lao động.

- Cá nhân gặp những chuyện bất thường trong cuộc sống nên phải sử

dụng một số tiền lớn do đó ảnh hưởng khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng.

- Đạo đức cá nhân không tốt: cố tình lừa đảo ngân hàng, sử dụng vốn

52

sai mục đích...

CHƯƠNG 4: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GIÚP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG

I. Nhóm giải pháp đối với Chính Phủ và các cơ quan ngang bộ (Ngân hàng Nhà Nước, Bộ Tài Chính, Bộ Tài Nguyên và Môi Trường,...):

1. Các vấn đề liên quan đến văn bản luật:

Chính Phủ cùng với các cơ quan ngang bộ (như NHNN, Bộ Tài Chính, Bộ Tài Nguyên Môi Trường,...) cần xem xét, rà soát lại tất cả các văn bản liên quan đến hoạt động tín dụng, đảm bảo tính chặt chẽ, hợp lý, rõ ràng và không có sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các văn bản Luật thông qua việc ban hành các văn bản mới để bổ sung, sửa đổi hoặc thay thế các văn bản có những điều khoản chưa hợp lý. Nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn cụ thể để các NHTM có cơ sở cho việc dẫn chiếu các căn cứ pháp lý.

Bên cạnh đó, Chính Phủ và các cơ quan ngang Bộ cần nghiên cứu ban hành các văn bản Luật, các quy định về những vấn đề mới, mang tính cấp thiết đối với hoạt động tín dụng như:

- Ban hành các văn bản quy định kiểm toán bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt đối với các công ty cổ phần để các NHTM dựa vào đó quy định báo cáo tài chính của các công ty khi vay vốn phải có xác nhận của tổ chức kiểm toán độc lập, là điều kiện không thể thiếu khi vay vốn.

- Xây dựng đề án xác định hệ thống chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực cùng các ngưỡng đánh giá cho từng ngành công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng cơ bản... làm cơ sở để so sánh, đánh giá dự án.

2. Các vấn đề liên quan đến thông tin tín dụng:

Chính Phủ và NHNN cần quan tâm đến việc nâng cấp và phát triển Trung

tâm thông tin tín dụng (CIC) trở thành trung tâm dữ liệu hàng đầu quốc gia:

53

- Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) nên xây dựng phần mềm đa năng ứng dụng thống nhất cho các ngân hàng, chuyên môn hóa kỹ thuật ứng dụng công nghệ tin học trong công tác phân tích, đánh giá xếp loại doanh nghiệp, cập nhật lưu trữ thông tin khách hàng, đảm bảo tính chính xác, rút ngắn thời gian

thẩm định. Phải có chế độ kiểm tra, biện pháp chế tài đối với những ngân hàng không chuyển số liệu về Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) theo quy định.

- Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) nhanh chóng củng cố đội ngũ cán bộ, áp dụng công nghệ mới, hiện đại hóa và tự động hóa tất cả các công đoạn xử lý nghiệp vụ để tạo ra nhiều sản phẩm thông tin, đẩy mạnh việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin nhằm hỗ trợ có hiệu quả đối với hoạt động của các ngân hàng và phục vụ cho hoạt động giám sát của NHNN. Đồng thời đi sâu phân tích, đánh giá, xếp loại tín dụng doanh nghiệp, kịp thời dự báo, cảnh báo nhằm hạn chế rủi ro tín dụng.

- Để tạo tiền đề cho những bước phát triển mới trong hoạt động nghiệp vụ, phân tích, xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, nâng cao chất lượng sản phẩm tín dụng, Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) cần thực hiện nghiên cứu đề án: thay đổi mở rộng việc phân ngành kinh tế, mở rộng hơn các đối tượng được sử dụng thông tin phân tích, kết quả xếp hạng tín dụng doanh nghiệp, bổ sung và lượng hóa một số chỉ tiêu tài chính, phi tài chính, các chỉ tiêu về dư nợ.

Bên cạnh đó, Chính Phủ cần nghiên cứu cho phép thành lập các trung tâm thông tin tín dụng tư nhân để tăng cường khả năng tiếp cận tài chính ở Việt Nam. Đây là một lĩnh vực khá mới, cần có sự hỗ trợ của Chính Phủ trong giai đoạn đầu thực hiện. Để có được một trung tâm thông tin tín dụng tư nhân hoạt động hiệu quả, cần:

- Xây dựng một khuôn khổ pháp lý phù hợp.

- Có sự cam kết tham gia của các đối tác liên quan, đặc biệt là các tổ

chức tài chính lớn.

- Có sự hợp tác giữa khu vực công–tư và sự hiểu biết của toàn xã hội.

- Tham khảo chuyên môn và kinh nghiệm quốc tế.

54

Ngoài ra, NHNN cũng cần ban hành các quy định cụ thể và chế tài đối với các NHTM trong việc bắt buộc các NHTM phải khai thác, sử dụng thông tin như là điều kiện cần phải có trong quy trình cấp tín dụng và cung cấp thông tin về cho Trung tâm thông tín dụng (CIC)chính xác và kịp thời. Thanh tra NHNN, NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Trung tâm thông tin tín dụng phối hợp đôn đốc, kiểm tra việc báo cáo, khai thác thông tin của các NHTM, đồng thời có biện pháp xử lý kiên quyết, kịp thời đối với những đơn vị vi phạm chế độ báo cáo thông tin tín dụng.

Chính Phủ cần khuyến khích thành lập các hiệp hội ngành nghề để tạo ra sự gắn kết trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp trong ngành và là cầu nối giữa các doanh nghiệp trong ngành với thị trường bên ngoài – trong đó có bên cung ứng vốn là ngân hàng. Các hiệp hội sẽ thực hiện các nhiệm vụ: nghiên cứu thị trường, xúc tiến đầu tư, dự báo phát triển ngành, tiếp cận thị trường mới, đánh giá và xếp loại các doanh nghiệp trong ngành,… Để hoạt động có hiệu quả, các hiệp hội nên hoạt động độc lập về mặt chính trị với mục tiêu là phục vụ cho sự phát triển đi lên của ngành.

NHNN và Hiệp hội ngân hàng cần có những định hướng cụ thể trong việc thiết lập hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ chung cho cả hệ thống ngân hàng. Vì nếu hoạt động xếp hạng tín dụng nội bộ không tạo được tiếng nói chung trong toàn hệ thống sẽ dẫn đến những khó khăn trong tương lai tương tự như việc độc lập thiết lập các hệ thống thanh toán thẻ ATM của từng ngân hàng. Các NHTM, ngành ngân hàng cần sớm nhận thấy khó khăn tiềm ẩn khi độc lập phát triển các hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ của mình. Hay nói cách khác, mặc dù là “nội bộ”, thông tin xếp hạng tín dụng nội bộ của một NHTM phải có thể “so sánh được” (tương thích) với thông tin xếp hạng của các NHTM khác. Muốn vậy, các NHTM cần phải sử dụng những phương pháp, kỹ thuật, tiêu chí đánh giá được thừa nhận rộng rãi trong việc xếp hạng tín dụng nội bộ. Công bố công khai các phương pháp, kỹ thuật, tiêu chí sử dụng để đánh giá, xếp hạng, trong đó phải nêu rõ các hạng mức đánh giá tự thiết lập tương đương mức độ nào với những hạn mức đánh giá đã được thừa nhận rộng rãi (của các NHTM khác hoặc của những tổ chức đánh giá độc lập, kể cả trong và ngoài nước). Do đó, có thể nói vai trò “nhạc trưởng” của NHNN, Hiệp hội ngân hàng là rất quan trọng trong việc tổ chức các hội thảo chuyên đề, giới thiệu phương pháp, kỹ thuật, tiêu chí đánh giá, xếp hạng tín dụng của các NHTM hay tổ chức đánh giá độc lập có uy tín trên thế giới để các NHTM áp dụng.

3. Các vấn đề liên quan đến tài sản bảo đảm:

Chính Phủ cần xây dựng Luật về bảo đảm tiền vay, bảo đảm quyền của các TCTD với thu nhập và TSBĐ của khách hàng vay vốn một cách chặt chẽ hơn, giải phóng nhanh về vốn đang là vấn đề bức xúc của các NHTM.

55

Giải quyết những vướng mắc khi ngân hàng nhận lại TSBĐ từ cơ quan thi hành án, điều chỉnh một số điều khoản trong Pháp lệnh thi hành án đảm bảo tính thống nhất và hợp lý với những văn bản có liên quan. Cụ thể: như đã phân tích về các vướng mắc của ngân hàng trong việc nhận lại TSBĐ từ cơ quan thi hành án, việc cơ quan thi hành án qua hai lần bán đấu giá không thành thì giao

lại cho người được thi hành án (ngân hàng) theo giá đã giảm để thi hành án là điều không hợp lý, gây nhiều khó khăn cho ngân hàng. Mặt khác, cũng chưa đúng với hướng dẫn xử lý TSBĐ của Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT, do vậy, đứng trên góc độ ngân hàng (người được thi hành án) đề nghị Chính Phủ, Uỷ ban thường vụ Quốc hội, cùng các cơ quan cấp Bộ có liên quan xem xét để sửa đổi điều 48 của Pháp Lệnh thi hành án như sau: “Nếu sau hai lần giảm giá mà tài sản vẫn không bán được thì người được thi hành án có quyền nhận lại tài sản để xử lý bán công khai theo quy định của pháp luật. Nếu giá trị tài sản thực tế bán được lớn hơn nghĩa vụ bảo đảm thì người được thi hành án phải có trách nhiệm chuyển số tiền chênh lệch đó cho cơ quan thi hành án để thi hành án. Trong trường hợp ngược lại, nếu giá trị tài sản thực tế bán được thấp hơn nghĩa vụ bảo đảm thì khách hàng vay phải có trách nhiệm với phần nợ vay còn thiếu”. Với hướng giải quyết này sẽ tạo điều kiện cho NHTM xử lý TSBĐ, thu hồi vốn vay cho ngân hàng được thuận tiện, nhanh chóng và đúng chế độ quy định về xử lý TSBĐ.

Nhanh chóng hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp quy cho hoạt động thẩm định giá, tạo điều kiện dễ dàng hơn để thành lập các doanh nghiệp thẩm định giá. Do vai trò của công tác thẩm định giá đối với hoạt động của các ngân hàng ngày càng quan trọng nên việc thành lập các doanh nghiệp thẩm định giá là cần thiết trong thời gian sắp tới. Doanh nghiệp thẩm định giá với khả năng chuyên môn sâu và rộng của mình sẽ thay cho các ngân hàng chịu trách nhiệm về việc thẩm định giá trị các tài sản thế chấp, cầm cố, các dự án đầu tư, giá trị doanh nghiệp,...một cách chính xác, trung thực, hợp pháp,...nhằm giải quyết toàn bộ những khó khăn mà các ngân hàng đang gặp phải.

II. Nhóm giải pháp đối với NHNTVN – CN Cần Thơ:

1. Các vấn đề liên quan đến cán bộ tín dụng:

1.1. Đối với bản thân cán bộ tín dụng:

Mỗi cán bộ tín dụng phải luôn tự tu dưỡng về phẩm chất đạo đức, nêu cao ý thức trách nhiệm trong công việc. Cán bộ ở cương vị càng cao, càng phải thể hiện sự gương mẫu.

56

Ngoài ra, bên cạnh việc thường xuyên phải nghiên cứu, học tập, nắm vững và thực hiện đúng các quy định hiện hành, mỗi cán bộ tín dụng còn phải không ngừng nâng cao năng lực công tác thông qua học hỏi kinh nghiệm nhất là khả năng phát hiện, ngăn chặn những thủ đoạn lợi dụng của khách hàng. Cán bộ tín dụng phải nắm bắt thật kỹ các nghiệp vụ chuyên môn: quy trình cấp tín

dụng, kỹ thuật thẩm định dự án đầu tư, đánh giá khách hàng, các biện pháp quản lý rủi ro, cách thức phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro... Thường xuyên cập nhật các kiến thức về kinh tế, luật pháp, thông tin thị trường,...trao dồi khả năng ngoại ngữ và tin học vì nghiệp vụ ngân hàng phát triển với tốc độ rất cao mà nguồn cung cấp kiến thức chủ yếu từ nguồn tài nguyên tri thức của thế giới.

1.2. Đối với ngân hàng:

Nâng cao nhận thức của từng cán bộ tín dụng: giúp các cán bộ hiểu rõ về bản chất các loại rủi ro, trong đó có rủi ro tín dụng mà ngân hàng luôn phải đối mặt; những nguyên nhân gây ra rủi ro; những hậu quả mà rủi ro có thể đưa đến cho ngân hàng; những biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro...

Đưa ra các quy tắc đạo đức trong quá trình thực hiện nghiệp vụ:

- Trung thực, minh bạch và công khai khi thực hiện nhiệm vụ được giao.

- Hết lòng phục vụ khách hàng, song bảo đảm không đặt ngân hàng

hoặc các cán bộ khác vào những mối quan hệ có mâu thuẫn về lợi ích.

- Không tham gia vào các hoạt động bị cấm.

- Không cung cấp thông tin nội bộ cho hoạt động bên ngoài ngân hàng.

- Không sử dụng tài sản, thông tin của ngân hàng phục vụ cho các mục

đích cá nhân.

- Có tinh thần trách nhiệm cao và tự chịu trách nhiệm trong tất cả các

quyết định.

Vì chất lượng của đội ngũ cán bộ tín dụng là nhân tố quan trọng bậc nhất trong việc quản lý rủi ro tín dụng nên ngân hàng cần phối hợp với các đơn vị có liên quan thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức để nâng cao năng lực đánh giá, đo lường, phân tích rủi ro tín dụng cho cán bộ tín dụng.

Thường xuyên kiểm tra, quản lý cán bộ tín dụng khi thấy có những biểu hiện bất thường đáng quan tâm trong sinh hoạt hàng ngày…Vì với kinh nghiệm và hiểu biết, một số cán bộ tín dụng dễ tìm cách thông đồng với khách hàng, chia phần trăm trên số vốn được vay, hay các hành vi lừa đảo khác.

57

Có chính sách thưởng, phạt công bằng để tránh hiện tượng “chảy máu chất xám”, tạo kỷ cương trong hoạt động tín dụng. Đối với cán bộ có thành tích

xuất sắc, cần biểu dương, khen thưởng cả về vật chất lẫn tinh thần tương xứng với kết quả họ mang lại, kể cả việc nâng lương trước hạn hoặc đề bạt lên đảm nhiệm ở vị trí cao hơn. Đối với cán bộ có sai phạm, tùy theo tính chất, mức độ mà có thể xử lý kỷ luật hoặc thuyên chuyển sang những công việc khác.

Có chính sách tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, đề bạt, phân công, bố trí

công việc phù hợp với năng lực và trình độ của từng cán bộ tín dụng:

- Đảm bảo thu nhập phải tương xứng với trách nhiệm; phân phối thu

nhập phải căn cứ vào chất lượng công việc.

- Bố trí các cán bộ có trình độ, bản lĩnh, tinh thần trách nhiệm cao vào

những vị trí quan trọng chủ chốt để phát huy hơn nữa thế mạnh về con người.

- Có chính sách ưu đãi cho cán bộ tín dụng để khuyến khích tinh thần,

trách nhiệm, ý thức vươn lên, tự hoàn thiện của mỗi cán bộ.

2. Các vấn đề liên quan đến thông tin tín dụng:

Để phối hợp với Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) hoàn thiện và phát triển hệ thống thông tin tín dụng, NHNTVN-CNCT cần tăng cường việc chỉ đạo, theo dõi đôn đốc và kiểm soát việc báo cáo kịp thời đầy đủ, chính xác số lượng và chất lượng thông tin tín dụng về Trung tâm thông tin tín dụng NHNTVN và Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc NHNN.

NHNTVN-CNCT cần ứng dụng thông tin, thiết lập phần mềm để quản lý khách hàng, thống kê, lưu trữ thông tin làm cơ sở phân tích đánh giá khách hàng cho những lần cấp tín dụng sau. Quy định cụ thể, chặt chẽ về lưu trữ, bảo quản và quản lý hồ sơ tín dụng như một tài sản quan trọng của ngân hàng.

58

Ngoài ra, do nguồn thông tin khách hàng cung cấp có thể chưa đảm bảo tính chính xác và đầy đủ nên NHNTVN-CNCT cần phải thu thập thêm nhiều thông tin hơn nữa từ các nguồn thông tin bên ngoài về quá trình phát triển của khách hàng, và ngành nghề kinh doanh của khách hàng để dự đoán được khuynh hướng phát triển, áp lực cạnh tranh từ các đối thủ của khách hàng, qua đó đánh giá khả năng kinh doanh và khả năng hoàn trả nợ của khách hàng. Nguồn thông tin từ bên ngoài có vai trò quan trọng trong việc đánh giá khách hàng vay một cách toàn diện. Đây chính là thông tin tín dụng được cung cấp từ các cơ quan thông tin tín dụng trong và ngoài nước, các cơ quan ban ngành có liên quan như cơ quan thuế, các tạp chí chuyên ngành, các cơ quan thông tin đại chúng, internet...

Bên cạnh đó, NHNTVN-CNCT cần tăng cường hợp tác, trao đổi, chia sẻ thông tin với các NHTM trên cùng địa bàn và thực hiện khai thác thông tin tín dụng từ Trung tâm thông tin tín dụng của NHNTVN và NHNN (CIC).

Đặc biệt, NHNTVN-CNCT cần thiết lập một bộ phận độc lập chuyên nghiên cứu, phân tích diễn biến và dự báo tình hình thị trường dựa trên tất cả các kênh thông tin, đặc biệt là các thông tin về thị trường xuất nhập khẩu: giá cả, kim ngạch,...các mặt hàng ngân hàng đang và sẽ đầu tư như lúa gạo, thủy sản, phân bón, thuốc bảo vệ thực vật, xăng dầu, dệt may, thép...

3. Các vấn đề liên quan đến tài sản bảo đảm:

Để có thể hạn chế rủi ro tín dụng xảy ra, đối với vấn đề TSBĐ, các cán bộ

tín dụng NHNTVN-CNCT cần thiết phải thực hiện:

- Hoàn thiện hồ sơ thế chấp, hồ sơ pháp lý (chứng thư sở hữu của tài sản, đăng ký giao dịch đảm bảo, công chứng chứng thực, các thoả thuận trong hợp đồng…) vì đây là vấn đề quyết định đến quyền tài sản và quyền truy đòi nợ của ngân hàng.

- Thường xuyên kiểm tra, đánh giá giá trị của tài sản, định kỳ tổ chức định giá lại TSBĐ, khắc phục việc định giá TSBĐ mang tính chủ quan, thiếu căn cứ khoa học, chưa áp dụng thích hợp các phương pháp định giá. Đối với những TSBĐ có giá trị lớn, ngân hàng nên thuê các tổ chức tư vấn, tổ chức chuyên môn định giá. Việc thuê định giá tuy tiêu tốn một khoản chi phí nhưng sẽ giúp khắc phục được tính chủ quan của cán bộ trong quá trình định giá, ngoài ra việc định giá còn mang tính khoa học.

- Hạn chế tâm lý lạm dụng vào TSBĐ.

- Nghiên cứu áp dụng các hình thức đảm bảo tín dụng mới.

- Thường xuyên theo dõi, cập nhật các văn bản pháp luật của Nhà nước

liên quan đến TSBĐ.

4. Các vấn đề liên quan đến chính sách tín dụng, quy trình tín dụng:

59

Để quy trình tín dụng mới thật sự phát huy hiệu quả như mong muốn, kiểm soát rủi ro một cách chặt chẽ hơn, NHNTVN-CNCT cần tuân thủ nghiêm các bước của quy trình. Trong quá trình thực hiện cần hạn chế việc vận dụng quy trình theo hướng quá linh hoạt. Từng bộ phận nghiệp vụ tham gia quy trình tín dụng cần thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, cụ thể:

- Phòng quan hệ khách hàng: với chức năng là đầu mối thiết lập, duy trì và không ngừng mở rộng mối quan hệ đối với khách hàng trên tất cả các mặt hoạt động, nhằm đạt được mục tiêu phát triển kinh doanh một cách an toàn, hiệu quả và tăng thị phần của NHNT. Nhiệm vụ cụ thể của phòng sẽ là:

* Xác định thị trường kinh doanh và đối tượng khách hàng mục tiêu trên cơ sở thường xuyên thu thập và đánh giá thông tin từ thị trường (theo ngành, lĩnh vực, khu vực địa lý, nhóm khách hàng, nhóm sản phẩm), đề xuất và trình cấp có thẩm quyền phê duyệt.

* Phối hợp cùng các phòng ban có liên quan xây dựng chính sách khách hàng hàng năm, bao gồm việc xác định các loại sản phẩm dịch vụ và giá trị từng loại sản phẩm dịch vụ dự kiến cung ứng.

* Trực tiếp triển khai các biện pháp Marketing giới thiệu cho khách hàng về các sản phẩm, dịch vụ mà NHNT có lợi thế, có thể cung ứng: duy trì liên lạc thường xuyên với khách hàng nhằm kịp thời nắm bắt các thông tin mới phát sinh có liên quan và làm đầu mối giải quyết các vướng mắc các yêu cầu của khách hàng. Chịu trách nhiệm cung cấp mọi thông tin có liên quan đến khách hàng theo yêu cầu của các phòng ban khác.

* Trực tiếp tiếp nhận hồ sơ xin vay vốn của khách hàng và nghiên cứu, xem xét có ý kiến trước khi chuyển phòng Quản lý rủi ro tín dụng thẩm định (đối với các khoản cho vay phải có thẩm định của phòng Quản lý rủi ro tín dụng) và trực tiếp thẩm định cho vay (đối với các khoản vay không cần phòng Quản lý rủi ro tín dụng thẩm định). Thực hiện ký kết các loại hợp đồng / cam kết đối với khách hàng trong phạm vi quy định. Trực tiếp tiếp nhận và xử lý và/hoặc theo dõi việc xử lý các nhu cầu rút vốn vay theo hợp đồng tín dụng, nhu cầu sử dụng nghiệp vụ tài trợ thương mại, nhu cầu thấu chi và các nhu cầu tín dụng khác của khách hàng. Thực hiện giám sát và quản lý các giao dịch tín dụng đã phát sinh theo đúng các quy định hiện hành. Đôn đốc khách hàng, phối hợp với các phòng ban thu hồi nợ vay đầy đủ và đúng hạn. Thực hiện quản lý và xử lý các khoản tín dụng có vấn đề trong trường hợp được phân công.

* Tùy theo đặc điểm riêng đối với từng khách hàng, phối hợp cùng các phòng ban khác thiết kế các loại sản phẩm “may đo” hoặc sản phẩm “trọn gói” phù hợp và có tính hấp dẫn đối với khách hàng.

60

- Phòng quản lý rủi ro: với chức năng nghiên cứu, phân tích, quản lý rủi ro bao gồm rủi ro chung (rủi ro hệ thống, rủi ro thị trường,..) và rủi ro riêng (rủi

ro từng khách hàng, rủi ro từng dự án) nhằm đảm bảo phát triển tín dụng, mở rộng hoạt động một cách an toàn, hiệu quả. Nhiệm vụ cụ thể của phòng là:

* Xây dựng chính sách quản lý rủi ro tín dụng: Soạn thảo chính sách quản lý rủi ro tín dụng trong từng thời kỳ bao gồm việc xác định tỷ lệ nợ xấu tối đa có thể chấp nhận được; cảnh báo các mặt hàng và lĩnh vực đầu tư cần hạn chế. Trực tiếp tham gia và theo dõi việc thực hiện chính sách quản lý rủi ro tín dụng. Tổ chức đánh giá định kỳ các chính sách quản lý rủi ro tín dụng nhằm đề xuất chỉnh sửa kịp thời các nội dung hoặc các chỉ tiêu cần thiết.

* Quản lý danh mục đầu tư: Tổ chức giám sát thường xuyên danh mục đầu tư tín dụng nhằm đảm bảo dư nợ theo từng nhóm khách hàng, theo lĩnh vực, mặt hàng đầu tư, theo cơ cấu thời hạn vay,... không vượt quá tổng mức giới hạn đã được phê duyệt. Kịp thời phát hiện các dấu hiệu rủi ro, nhóm khách hàng, mặt hàng, lĩnh vực đầu tư có vấn đề, đề xuất điều chỉnh giới hạn tín dụng đối với các khoản mục cho là cần thiết. Đánh giá định kỳ kết quả áp dụng hệ thống xếp hạng doanh nghiệp đồng thời đề xuất các biện pháp áp dụng phù hợp.

* Trực tiếp thẩm định rủi ro đối với từng khoản cấp tín dụng đến khách hàng: Cho điểm tín dụng và phân loại khách hàng theo quy định. Đánh giá các loại rủi ro trong giao dịch tín dụng với khách hàng, bao gồm đánh giá tính pháp lý và tính đầy đủ của bộ hồ sơ tín dụng, đánh giá tính khả thi và hiệu quả của từng khoản cấp tín dụng, thẩm định và định giá TSBĐ (nếu có); thẩm định khả năng hoàn trả nợ của khách hàng...Đề xuất giới hạn tín dụng cho khách hàng và đề xuất mức cấp tín dụng cụ thể đối với khách hàng và các biện pháp cần thực hiện nhằm đảm bảo khả năng thu hồi đủ nợ.

61

* Tham gia quy trình phê duyệt tín dụng, tham gia và giám sát quá trình thực hiện các quyết định đã được phê duyệt, tham gia xử lý các khoản cấp tín dụng có vấn đề: làm đầu mối chuẩn bị tài liệu và thu xếp thực hiện quy trình phê duyệt tín dụng theo quy định. Kiểm tra các điều kiện rút vốn và chỉ thị các phòng tác nghiệp có liên quan thực hiện giải ngân cho khách hàng (trường hợp có yêu cầu). Giám sát phòng Quan hệ khách hàng trong việc thực hiện kiểm tra sử dụng vốn vay của khách hàng, phối hợp cùng phòng Quan hệ khách hàng và phòng Quản lý nợ phát hiện kịp thời các dấu hiệu có rủi ro liên quan đến khoản cấp tín dụng và cùng tìm biện pháp xử lý thích hợp. Trực tiếp theo dõi và quản lý các khoản tín dụng có vấn đề, gặp khó khăn kéo dài.

- Phòng quản lý nợ: với chức năng quản lý và trực tiếp thực hiện các tác nghiệp liên quan đến việc giải ngân, thu hồi nợ, đảm bảo số liệu trên hệ thống khớp đúng với số liệu trên hồ sơ, lưu giữ hồ sơ vay đầy đủ và an toàn, các khoản cấp tín dụng đều tuân thủ các bước quy định trong quy trình tín dụng. Nhiệm vụ cụ thể của phòng sẽ là:

* Kiểm soát tính tuân thủ: Thực hiện rà soát và kiểm tra tính tuân thủ của bộ hồ sơ vay theo đúng trình tự quy định tại Quy trình tín dụng. Đối chiếu so sánh tính khớp đúng về nội dung giữa thông tin tác nghiệp với các hồ sơ tài liệu vay đính kèm. Kiểm tra tính đầy đủ và hợp lệ của từng loại văn bản hồ sơ được lưu giữ theo quy định.

* Nhập dữ liệu vào hệ thống: Căn cứ các chỉ thị, yêu cầu của phòng Quan hệ khách hàng đã được phòng Quản lý rủi ro tín dụng thông qua, phòng Quản lý nợ tiến hành khai báo các dữ liệu vào hệ thống bao gồm dữ liệu về giới hạn tín dụng, các thông tin chủ yếu nêu tại hợp đồng tín dụng và các hợp đồng bảo đảm tín dụng (nếu có). Tiến hành cập nhật các nội dung sửa đổi (đã được phê duyệt đầy đủ theo quy định) đối với các khoản tín dụng đang được quản lý trên hệ thống.

* Nhận và lưu giữ hồ sơ tín dụng: Nhận các hồ sơ, tài sản thế chấp, cầm cố từ phòng Quan hệ khách hàng để tiến hành các thủ tục lưu kho quỹ theo đúng quy định, bao gồm: báo cáo đề xuất tín dụng, báo cáo rà soát rủi ro, biên bản họp hội đồng tín dụng (nếu có), hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp cầm cố cho vay (nếu có), lịch rút vốn (nếu có) và các loại giấy tờ khác theo ý kiến đề xuất của phòng Quản lý rủi ro tín dụng. Nhận và lưu giữ các hồ sơ chứng từ liên quan đến từng lần rút vốn, các biên bản, báo cáo kiểm tra sử dụng vốn vay, các công văn, giấy tờ giao dịch giữa ngân hàng và khách hàng trong suốt quá trình quản lý nợ vay.

* Thực hiện các tác nghiệp liên quan đến việc rút vốn: Kiểm tra sự phù hợp của hồ sơ rút vốn với hạn mức tín dụng còn lại và các điều kiện tín dụng đã được phê duyệt. Chỉ thị bộ phận kế toán hoặc phòng Quỹ thực hiện giải ngân theo yêu cầu.

62

* Lập các báo cáo dữ liệu của các khoản vay: In các báo cáo định kỳ về khoản vay: hạn mức, dư nợ, ngày đáo hạn, thời điểm kiểm tra sử dụng vốn vay định kỳ. Đầu mối trong việc lập báo cáo phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro và các báo cáo tín dụng định kỳ theo yêu cầu của NHNN và NHNT.

Cung cấp các thông tin khác theo yêu cầu của phòng Quan hệ khách hàng, phòng Quản lý rủi ro tín dụng, và Ban Giám Đốc.

* Tham gia vào quá trình thu nợ, thu lãi: Định kỳ in phiếu tính lãi gửi bộ phận kế toán để tiến hành thu lãi. Gửi thông báo tới phòng Quan hệ khách hàng về các khoản nợ đến hạn và theo dõi quá trình trả nợ của khách hàng. Lấy các phiếu hạch toán thu nợ gốc, lãi và phí (nếu có) để lưu vào hồ sơ tín dụng.

* Tham gia góp ý sửa đổi chương trình quản lý nợ vay cho phù hợp

với yêu cầu thực tế.

5. Các vấn đề liên quan đến công tác thẩm định:

Trong quá trình xem xét cấp tín dụng, cán bộ tín dụng phải lựa chọn phương pháp thẩm định phù hợp theo từng loại cho vay, đối tượng khách hàng, chú trọng đánh giá đầy đủ về tư cách pháp nhân, năng lực hành vi dân sự của khách hàng, và xem xét kỹ tính pháp lý của các giấy tờ, tài liệu liên quan (hồ sơ vay vốn) nhằm phát hiện tình trạng thiếu trung thực của khách hàng trong việc cung cấp tài liệu, thông tin liên quan đến vấn đề vay vốn, đặc biệt cần đánh giá chính xác tính khả thi, hiệu quả của dự án/phương án vay vốn, xem xét kỹ các thỏa thuận trong hợp đồng kinh tế giữa khách hàng vay với tổ chức, cá nhân liên quan nhằm xác định thời hạn cho vay chính xác với đối tượng vay vốn, đồng thời giúp khách hàng vay khắc phục những điểm bất lợi đã được quy định trong hợp đồng kinh tế. Mặt khác, để đảm bảo đánh giá chính xác tình hình tài chính, nguồn trả nợ của khách hàng vay, ngân hàng ngoài việc dựa vào hồ sơ, tài liệu do khách hàng cung cấp, còn phải điều tra nắm chắc các nguồn thông tin khác có liên quan và kết hợp với khảo sát thực tế tại đơn vị. Việc thẩm định kết hợp như trên không những giúp ngân hàng xác định được mức độ trung thực của những tài liệu do khách hàng cung cấp, đánh giá đúng đắn uy tín và mức độ cạnh tranh sản phẩm của khách hàng trên thị trường, dự kiến được rủi ro có thể xảy ra, mà còn nắm chắc về lịch sử, về mối quan hệ giữa khách hàng vay vốn với tổ chức, cá nhân có liên quan, về tình hình công nợ và khả năng thanh toán tín dụng của khách hàng, nhất là khách hàng vay ở nhiều ngân hàng, khách hàng ngoài địa bàn hoạt động, khách hàng là đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc.

63

Trước khi cho vay, căn cứ theo quy định, ngân hàng phải thu thập đầy đủ các giấy tờ, tài liệu về tính pháp lý của khách hàng. Lập hợp đồng tín dụng phải đầy đủ các yếu tố theo quy định của pháp luật đảm bảo an toàn và đủ căn cứ pháp lý để xử lý khi có tranh chấp; Việc định kỳ hạn trả nợ gốc, lãi vay phải

căn cứ vào chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vay và phù hợp với khả năng trả nợ của từng khách hàng nhằn hạn chế tình trạng định kỳ hạn trả nợ gốc, lãi máy móc, xác định thời hạn trả nợ quá ngắn cho các đối tượng vay có chu kỳ luân chuyển vốn dài dẫn đến phải cơ cấu lại thời hạn trả nợ.

Khi khách hàng có yêu cầu rút tiền vay, cán bộ trực tiếp cho vay phải kiểm tra chặt chẽ các giấy tờ liên quan đến việc rút vốn vay của khách hàng, tài liệu chứng minh mục đích sử dụng vốn vay, lịch rút vốn, giấy nhận nợ và số dư nợ đến ngày nhận nợ nhằm tránh tình trạng cho vay vượt hạn mức tín dụng, rút tiền vay không đúng mục đích sử dụng,...Sau khi cho vay, cán bộ tín dụng phải thường xuyên theo dõi tình hình sử dụng vốn vay, nhất là phải kiểm tra kịp thời đối với khoản cho vay bằng tiền mặt, định kỳ phải đánh giá khả năng tài chính và tình hình sản xuất, kinh doanh của khách hàng. Nội dung kiểm tra phải đánh giá được đầy đủ các yếu tố như: số tiền vay sử dụng vào mục đích gì, tính toán cân đối nợ vay, nhận xét tình hình thực hiện dự án/phương án vay vốn, tình hình sản xuất, kinh doanh của khách hàng, kiểm tra tình hình TSBĐ. Ngoài việc kiểm tra thực tế khách hàng, ngân hàng còn phải yêu cầu khách hàng báo cáo theo định kỳ hoặc đột xuất về tình hình hoạt động kinh doanh nhằm sớm phát hiện hiện tượng suy giảm trong sản xuất, kinh doanh để có biện pháp xử lý kịp thời.

64

Mặc dù việc xem xét cho cơ cấu lại thời hạn trả nợ là do ngân hàng tự quyết định, nhưng không thể tùy tiện mà phải theo nhu cầu chính đáng của khách hàng, xem xét nguyên nhân khách hàng không trả được nợ đúng thời hạn đã cam kết và đánh giá được khả năng trả nợ của khách hàng sau khi được cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Thời gian và số lần cho cơ cấu phải có ý nghĩa thật sự và mang lại hiệu quả cho khách hàng, tránh điều chỉnh kỳ hạn nợ, gia hạn nợ một cách tràn lan.