
1
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Cái cây lớn lên phải nhờ đến gốc, đến rễ. Con người trưởng thành cần nhớ ơn
đức sinh thành và công dưỡng dục. Truyền thống uống nước nhớ nguồn, tôn sư
trọng đạo đã có từ ngàn đời, được lưu giữ trong mỗi người con nước Việt. Điều
này được thể hiện rõ nét trong cả nền nho học phong kiến trước đây lẫn tục ngữ, ca
dao đương đại. Chẳng hạn như:
Mồng một tết cha, mồng hai tết mẹ, mồng ba tết thầy.
Ăn quả nhớ người trồng cây.
Nhất tự vi sư, bán tự vi sư.
Không thầy đố mày làm nên.
Hay
Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy…
Chính từ nguồn gốc con Lạc cháu Hồng, truyền thống uống nước nhớ
nguồn, tính cách ái quốc thương nòi,… đã hun đúc thành sức mạnh quật cường để
dân tộc ta chiến thắng bao kẻ thù gian ác, đế quốc hùng mạnh.
Truyền thống này biết ơn cha mẹ, quý trọng thầy cô càng được thể hiện sâu
sắc hơn nữa từ khi Đảng ta lãnh đạo đất nước.
Với quan điểm giáo dục toàn diện, rèn đức gắn với luyện tài, ngành giáo dục
nước ta đã có nhiều chủ trương đổi mới nhằm hướng tới một sự phát triển hài hòa
giữa kiến thức, kĩ năng và phẩm chất đạo đức người học. Quan điểm này ngày
càng đi sâu vào quá trình dạy học với phong trào “Xây dựng trường học thân
thiện, học sinh tích cực” được bắt đầu từ năm học 2008 – 2009. Đây thực sự là
phong trào làm dịch chuyển nhiều hoạt động giáo dục truyền thống. Nó đã góp
phần không nhỏ tạo nên chất keo gắn kết tình thầy trò, hướng các hoạt động giáo
dục vào thực chất hơn, nhân bản hơn.
Mỗi dịp hè sang, chương trình Lễ tri ân và trưởng thành dành cho học sinh
khối 12 đều được các trường cấp trung học phổ thông (THPT) tổ chức. Đến nay,
hoạt động này đã trở thành thông lệ hàm chứa nhiều giá trị nhân văn cao cả.
Lễ tri ân và trưởng thành – ngay cái tên gọi đã gợi lên trong mỗi chúng ta
thật nhiều cảm xúc. Với guồng quay xô bồ của cuộc sống hiện nay, bên cạnh biết
bao phương tiện và hình thức giải trí, tổ chức được một chương trình nhằm ghi lại
một dấu ấn của sự trưởng thành, một chương trình để học sinh biết nhớ về công lao
cha mẹ, thầy cô,… trước khi rời xa mái trường thật không đơn giản.

2
Dẫu rằng ý nghĩa của Lễ tri ân và trưởng thành là thế, song vì nhiều lí do mà
các nhà trường THPT vẫn rất băn khoăn, lúng túng, bị động khi tiến hành triển
khai. Nguyên nhân của sự khó khăn xuất phát từ ngay tên gọi của chương trình –
cái tên chất chứa nhiều thông điệp. Để thực hiện một chương trình thực sự lay
động được cảm xúc, chạm đến được trái tim của đa số người xem thì chưa bao giờ
là điều dễ dàng, kể cả với những nhà tổ chức chuyên nghiệp. Thứ đến, tổ chức hoạt
động này lại dưới thời tiết nóng như đổ lửa của mùa hè thì càng khó khăn lên.
Ngoài ra, việc chuẩn bị và tổ chức đều diễn ra trong khoảng thời gian mà thầy trò
đang dồn hết sức lực cho các kì thi lớn, quyết định với cả đời người quả thật cũng
là một trong những khó khăn. Và còn nhiều nguyên nhân khác nữa.
Qua nhiều năm tổ chức Lễ tri ân và trưởng thành, trường chúng tôi cũng
từng đối mặt với những khó khăn như thế. Những lần đầu tổ chức, loay hoay với
cách làm này, giải pháp kia, song có năm kết quả vẫn không được như kì vọng. Đã
có lúc, Nhà trường hết sức ái ngại khi tổ chức vì công sức bỏ ra thì nhiều mà kết
quả đạt được thì rất mong manh.
Tuy nhiên, dù ít dù nhiều, sau mỗi lần tổ chức, chúng tôi đều tìm được những
điểm sáng và bài học kinh nghiệm. Từ những kết quả tích cực này, các tổ chức và
cá nhân có liên quan trong Nhà trường đã tiến hành thảo luận, phân tích và tìm ra
được những giải pháp tối ưu nhất. Bên cạnh đó, việc tìm hiểu, thăm dò ý kiến của
toàn thể giáo viên và học sinh cũng cho chúng tôi nhiều ý tưởng mới mẻ, sáng tạo
và giàu lòng nhân ái. Do đó, việc tiến hành chuẩn bị cũng như tổ chức hoạt động
Lễ tri ân và trưởng thành ở trường chúng tôi đã có được kết quả ngoài sức mong
đợi. Giáo viên, học sinh, phụ huynh, nhân dân địa phương đã nhận thấy ý nghĩa
nhân văn lớn lao của chương trình. Không những vậy, sự gắn kết giữa thầy và trò,
giữa học trò với học trò, giữa các thế hệ học sinh của trường ngày càng sâu sắc.
Sức lan tỏa giá trị giáo dục của chương trình vượt ra ngoài tên gọi của nó.
Từ những thành công của hoạt động ý nghĩa này, chúng tôi đã tổng hợp và ghi
chép lại. Với mục đích được chia sẻ và học hỏi, chúng tôi mạnh dạn trình bày hoạt
động này thông qua sáng kiến kinh nghiệm: “Một số giải pháp tổ chức Lễ tri ân
và trưởng thành”.
II. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đề tài tập trung nghiên cứu, tìm hiểu, phân tích, đánh giá thực trạng và đề
xuất giải pháp tổ chức hoạt động Lễ tri ân và trưởng thành đối với học sinh lớp 12
trường THPT.
III. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
- Phương pháp nghiên cứu lí luận.
- Phương pháp thống kê, xử lí số liệu.

3
- Phương pháp phân tích, tổng hợp.
- Phương pháp Test.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn.
- Phương pháp so sánh đối chiếu.
IV. CẤU TRÚC CỦA ĐỀ TÀI
Phần I: Đặt vấn đề.
Phần II: Nội dung.
Phần III: Kết luận.
Phần IV: Phụ lục.

4
PHẦN II. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Cơ sở lí luận về lễ tri ân và lễ trưởng thành
Tiếng Việt ngày nay được phát triển từ nhiều nguồn, trong đó từ Hán Việt
chiếm một số lượng lớn. Theo nhiều nghiên cứu thì từ Hán Việt chiếm khoảng
70% trong tiếng Việt. Thế nên để hiểu rõ, hiểu chắc tiếng Việt thì không thể mơ hồ
về từ Hán Việt. Một số không nhỏ người Việt Nam hiện nay sử dụng tiếng Việt
nhưng lại chưa hiểu được nghĩa thực sự của từng câu, từng chữ đang nói, đang đọc
hay đang thực hiện theo. Thực trạng này không chỉ dẫn đến sự nhầm lẫn về bản
chất của các sự vật, hiện tượng mà còn gây ra sự sai lệch mục đích trong quá trình
thực hiện các hoạt động, công việc.
Từ những phân tích sơ lược trên, để thực hiện một hoạt động nói chung và
hoạt động giáo dục nói riêng, trước hết ta phải hiểu đúng và đủ về khái niệm đó.
Chẳng hạn như cụm từ lễ tri ân và trưởng thành thì các từ lễ, tri ân và trưởng
thành đều là các từ gốc Hán. Thế nên, tổ chức hiệu quả một chương trình mà nặng
các từ Hán Việt như Lễ tri ân và trưởng thành thực sự rất khó.
1.1. Khái niệm về tri ân và lễ tri ân
1.1.1. Khái niệm về tri ân
Tri ân là một từ ghép Hán Việt.
Theo Từ điển Hán – Việt (Đào Duy Anh – NXB Khoa học xã hội, 1996) thì
tri (知) có nghĩa là biết, ân (恩) có nghĩa là ơn. Như vậy, tri ân có nghĩa là biết ơn.
Theo Từ điển tiếng Việt (Hoàng Phê chủ biên – NXB Đà Nẵng, 2003) thì tri
ân cũng có nghĩa tương đồng.
1.1.2. Khái niệm về lễ tri ân
Theo Từ điển Hán Việt (đã dẫn) thì lễ (禮) có nghĩa là lễ nghi. Các bộ từ
điển của Thiều Chửu, Nguyễn Quốc Hùng đều giải thích như vậy.
Theo Từ điển tiếng Việt (đã dẫn) thì lễ có nghĩa là những nghi thức tiến
hành nắm đánh dấu hoặc kỉ niệm một sự việc, sự kiện có ý nghĩa nào đó.
Tựu trung lại, ta có thể hiểu sát nhất của từ lễ tri ân có nghĩa là những nghi
thức tiến hành thể hiện sự biết ơn. Ta thường thấy như lễ tri ân thầy cô, lễ tri ân
cha mẹ, lễ tri ân khách hàng,… Có nhiều lễ hội hiện nay, tuy là tên gọi hoàn toàn
không có cụm từ tri ân nhưng quá trình tổ chức và mục đích tổ chức vẫn toát lên ý
nghĩa này. Ta rất dễ nhận thấy trong đa số các lễ hội đã và đang được tổ chức trên
khắp thế giới, dù cho đó là lễ hội thờ Thiên thần, Nhiên thần (như thờ trời, đất, gió,
mưa,…), Tô tem (như thờ hổ, rắn, rồng, chồn, khỉ, chó,…), hay Nhân thần (các
nhân vật truyền thuyết hay các nhân vật lịch sử), …. Chẳng hạn như Lễ hội Đền
Cuông, Lễ hội vua Mai, Lễ hội Đền Hạc Linh, Lễ hội làng Sen,… đều có phần
dâng hương, phần lễ tạ – những biểu hiện của lòng biết ơn.

5
Bên cạnh đó, một số lễ hội mặc dù tên gọi hoàn toàn không có sự xuất hiện
của cụm từ lễ tri ân song ý nghĩa vẫn hướng tới điều này như Ngày của Cha, Ngày
của Mẹ, Ngày nhà giáo Việt Nam, …
Như vậy, ta dễ nhận thấy trong các lễ hội, lễ tục luôn hàm chứa thành tố
nhân bản, đó là sự biết ơn. Chính nhờ sự biết ơn mà các thế hệ loài người đã biết
lĩnh hội, học hỏi các kinh nghiệm, tri thức, kĩ năng của các lớp người đi trước, để
rồi phát triển, sáng tạo lên giúp xã hội loài người ngày càng tốt đẹp hơn.
1.2. Khái niệm về trưởng thành, tuổi trưởng thành và lễ trưởng thành
Cũng như tri ân, trưởng thành là một từ Hán Việt.
Theo Từ điển Hán – Việt (đã dẫn) thì trưởng (長) có nghĩa là lớn, lớn lên,
đứng đầu, còn từ thành có tám nghĩa. Tuy vậy, nghĩa sát nhất của từ này ở từ ghép
trưởng thành thì thành (成) là xong, nên việc. Cũng theo học giả Đào Duy Anh, từ
trưởng thành (長成) nghĩa là người đã lớn, thành nhân rồi.
Theo Từ điển tiếng Việt (đã dẫn) thì trưởng thành có nghĩa là phát triển đến
mức hoàn chỉnh, đầy đủ về mọi mặt hoặc trở nên lớn mạnh, vững vàng qua quá
trình thử thách, rèn luyện.
Như vậy, để hiểu đúng từ trưởng thành ta cần hiểu cả theo nghĩa sinh học,
cả theo nghĩa tâm lí học. Từ đó, ta có thể hiểu trưởng thành là phát triển đầy đủ về
mặt tâm sinh lí và đủ tư cách pháp nhân trước pháp luật.
Trong cuộc đời con người có những thời điểm vô cùng quan trọng, đánh dấu
một sự kiện trong đời như: lúc chào đời, lúc lập gia đình, lúc có con,... Tuy nhiên
có một thời điểm quan trọng không kém chính là thời điểm trưởng thành của một
con người. Để đánh giá một con người và xem họ đã trưởng thành chưa thật là khó
khăn, mơ hồ. Có người thì xem tuổi 18 là trưởng thành, đánh đồng với tuổi thành
niên (tương đương đến tuổi được pháp luật công nhận và công nhận là công dân
với đầy đủ các quyền lợi và nghĩa vụ (theo Từ điển tiếng Việt – Hoàng Phê)).
Người thì lại nghĩ lập gia đình mới xem là trưởng thành. Có người còn cầu toàn
hơn nữa, trưởng thành là khi họ đạt được một địa vị nhất định nào đó…
Các quốc gia quan niệm về tuổi trưởng thành cũng có sự khác nhau. Chẳng
hạn một số quốc gia ở Châu Phi và Nam Mỹ thì thường công nhận tuổi trưởng
thành là 14 đến 16 tuổi. Ở Hàn Quốc hay Nhật Bản thì xem tuổi này là 20. Còn đa
số các quốc gia khác, tuổi trưởng thành thường lấy là 18. Việt Nam cũng vậy. Bộ
luật Dân sự 2005 (Điều 18), quy định: “Người chưa đủ 18 tuổi là người chưa
thành niên”.
Mặc dù quan niệm về tuổi trưởng thành có sự khác nhau, nhiều quốc gia hay
bộ tộc trên thế giới vẫn thường tổ chức lễ trưởng thành để ghi nhớ thời khắc trọng
đại đó đối với mỗi con người.
Với hai nhánh nghĩa chính của từ trưởng thành, cách tổ chức lễ trưởng
thành của một số nước trên thế giới cũng rất đa dạng và thú vị.