HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM

NGUYỄN THỊ SÁNG SỬ DỤNG RONG MƠ (SARGASSUM SPP.)

TRONG THỨC ĂN CHO GÀ ĐẺ TRỨNG THƯƠNG PHẨM

Chuyên ngành:

Chăn nuôi

Mã số:

60.62.01.05

Người hướng dẫn khoa học:

TS. Lê Việt Phương

NHÀ XUẤT BẢN ĐẠI HỌC NÔNG NGHIỆP - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, số liệu thông tin

chưa từng được sử dụng công bố trong bất kỳ công trình nào khác.

Các kết quả trình bày trong luận văn là trung thực và tôi xin chịu trách nhiệm về những số liệu trong bản luận văn này. Các thông tin trích dẫn đã được chỉ rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày tháng năm 2016

Tác giả luận văn

i

Nguyễn Thị Sáng

LỜI CẢM ƠN

Có được công trình nghiên cứu này ngoài sự nỗ lực của bản thân tôi đã nhận

được rất nhiều sự quan tâm giúp đỡ quý báu của nhà trường, các thầy cô giáo và các

bạn đồng nghiệp.

Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn tới TS Lê Việt Phương đã động viên, hướng dẫn và

chỉ bảo tận tình cho tôi trong suốt thời gian thực hiện đề tài và làm luận văn tốt nghiệp.

Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo trong Bộ môn Dinh dưỡng -

Thức ăn. Khoa Chăn nuôi. Học viện Nông nghiệp Việt Nam đã góp ý và chỉ bảo để luận

văn của tôi được hoàn thành.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới gia đình ông Nguyễn Hữu Nghĩa, xã

Yên Hậu, Yên Phong, Bắc Ninh đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi trong suốt thời gian

thực hiện đề tài tốt nghiệp.

Để hoàn thành luận văn này, tôi còn nhận được sự động viên khích lệ của những

người thân trong gia đình và bạn bè. Tôi xin chân thành cảm ơn những tình cảm cao

quý đó.

Hà Nội, ngày tháng năm 2016

Tác giả luận văn

ii

Nguyễn Thị Sáng

MỤC LỤC

Lời cam đoan ................................................................................................................... i

Lời cảm ơn ........................................................................................................................ ii

Mục lục ........................................................................................................................... iii

Danh mục các chữ viết tắt ................................................................................................. v

Danh mục bảng ................................................................................................................ vi

Danh mục hình ................................................................................................................. vi

Trích yếu luận văn .......................................................................................................... vii

Thesis abstract .................................................................................................................. ix

Phần 1. Mở đầu ............................................................................................................... 1

1.1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................... 1

1.2. Mục tiêu đề tài .................................................................................................... 2

Phần 2. Tổng quan tài liệu ............................................................................................. 3

2.1. Cơ sở lý luận về đặc điểm tiêu hóa thức ăn của gia cầm .................................... 3

2.1.1. Mỏ ....................................................................................................................... 3

2.1.2. Khoang miệng ..................................................................................................... 3

2.1.3. Thực quản ........................................................................................................... 3

2.1.4. Diều .................................................................................................................... 3

2.1.5. Thực quản dưới ................................................................................................... 4

2.1.6. Dạ dày tuyến ....................................................................................................... 4

2.1.7. Dạ dày cơ (mề) ................................................................................................... 4

2.1.8. Ruột non ............................................................................................................. 4

2.1.9. Ruột già ............................................................................................................... 4

2.2. Một số đặc điểm sinh lý sinh sản của gà mái đẻ ................................................. 4

2.2.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục cái .............................................................................. 4

2.2.2. Hiện tượng rụng trứng và quá trình hình thành trứng ........................................ 6

2.2.3. Khả năng sinh sản của gia cầm mái .................................................................... 6

2.2.4. Sắc chất trong thức ăn và màu của lòng đỏ trứng ............................................. 16

2.3. Một số yếu tố ảnh hưởng đến sức đẻ trứng của gia cầm .................................. 17

2.4. Một số đặc điểm của rong mơ (Sargassum spp.) .............................................. 21

iii

2.4.1. Giới thiệu về rong mơ ....................................................................................... 21

2.4.2. Cấu trúc quần thể, vùng tập trung phân bố và vấn đề nuôi trồng, thu

hoạch của rong mơ vùng bờ biển Việt Nam ..................................................... 23

2.4.3. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của rong Mơ.................................. 24

2.4.4. Ứng dụng của rong mơ ..................................................................................... 25

2.5. Các nghiên cứu về rong mơ ở việt nam ............................................................ 25

Phần 3. Nội dung và phương pháp nghiên cứu .......................................................... 29

3.1. Đối tượng, địa điểm và thời gian thí nghiệm .................................................... 29

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................... 29

3.1.2. Địa điểm nghiên cứu ......................................................................................... 29

3.1.3. Thời gian nghiên cứu ........................................................................................ 29

3.2. Nội dung ........................................................................................................... 29

3.3. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 30

3.3.1. Xác định thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của rong Mơ

khai thác từ vùng biển các tỉnh miền Trung ..................................................... 30

3.3.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng bột rong Mơ trong khẩu phần của gà đẻ trứng

thương phẩm. .................................................................................................... 31

3.3.3. Phương pháp phân tích số liệu .......................................................................... 34

Phần 4. Kết quả và thảo luận ....................................................................................... 35

4.1. Xác định thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của bột rong mơ .............. 35

4.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng bột rong mơ trong khẩu phần của gà .................... 38

4.2.1. Tỷ lệ đẻ bình quân của các lô qua các tuần tuổi ............................................... 38

4.2.2. Năng suất trứng của gà thí nghiệm ................................................................... 41

4.2.3. Khối lượng trứng bình quân của các lô thí nghiệm .......................................... 43

4.2.4. Một số chỉ tiêu về chất lượng trứng .................................................................. 46

4.2.5. Lượng thức ăn thu nhận .................................................................................... 47

4.2.6. Tiêu tốn protein/10 quả trứng ........................................................................... 50

4.2.7. Tỷ lệ trứng dập vỡ, dị hình, dị dạng ................................................................. 54

Phần 5. Kết luận và kiến nghị ...................................................................................... 57

5.1. Kết luận ............................................................................................................. 57

5.2. Kiến nghị .......................................................................................................... 57

Tài liệu tham khảo .......................................................................................................... 58

iv

Một số hình ảnh thực hiện đề tài ..................................................................................... 61

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt Nghĩa tiếng Việt

1. Cs Cộng sự

2. ĐC Đối chứng

3. ĐVT Đơn vị tính

4. HHTA Hỗn hợp thức ăn

5. HQSDTA Hiệu quả sử dụng thức ăn

6. HU Đơn vị Haugh

7. NLTĐ Năng lượng trao đổi

8. NST Năng suất trứng

9. NXB Nhà xuất bản

10. TĂ thức ăn

11. TB Trung bình

12. TCN Trước công nguyên

13. TN Thí nghiệm

v

14. TTTA Tiêu tốn thức ăn

DANH MỤC BẢNG

Bảng 2.1. Diện tích rong Mơ theo vùng biển các tỉnh Nam Trung Bộ ........................ 23

Bảng 3.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm: ............................................................................... 31

Bảng 3.2. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của thức ăn thí nghiệm

được trình bày ở bảng sau: ........................................................................... 31

Bảng 4.1. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của bột rong Mơ ....................... 35

Bảng 4.2. Hàm lượng các axit amin của bột rong Mơ ................................................. 37

Bảng 4.3. Tỷ lệ đẻ của gà thí nghiệm qua các tuần tuổi ............................................. 39

Bảng 4.4. Năng suất trứng của gà thí nghiệm .............................................................. 42

Bảng 4.5. Khối lượng trứng (g) bình quân của các lô thí nghiệm ................................ 45

Bảng 4.6. Một số chỉ tiêu chất lượng trứng gà thí nghiệm .......................................... 47

Bảng 4.7. Lượng thức ăn thu nhận .............................................................................. 49

Bảng 4.8. Tiêu tốn protein/10 quả trứng .................................................................... 50

Bảng 4.9. Tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng qua các tuần tuổi .......................................... 51

Bảng 4.10. Chi phí thức ăn cho 10 quả trứng qua các tuần tuổi .................................... 53

Bảng 4.11. Tỷ lệ trứng dập vỡ, dị hình của các lô từ tuần tuổi 20 – 36 ........................ 55

DANH MỤC HÌNH

Hình 4.1. Tỷ lệ đẻ của gà thí nghiệm qua các tuần tuổi ............................................... 40

Hình 4.2. Năng suất trứng của đàn gà qua các tuần thí nghiệm................................... 43

vi

Hình 4.3. Tiêu tốn thức ăn qua các tuần thí nghiệm .................................................... 52

TRÍCH YẾU LUẬN VĂN

Tên tác giả: Nguyễn Thị Sáng

Tên Luận văn: Sử dụng rong Mơ (Sargassum spp.) trong thức ăn cho gà đẻ

trứng thương phẩm

Ngành: Chăn Nuôi Mã số: 60.62.01.05

Tên cơ sở đào tạo: Học viện Nông nghiệp Việt Nam

Mục đích nghiên cứu

Đánh giá được thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của bột rong Mơ.

Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng bột rong Mơ trong khẩu phần của gà đẻ trứng

thương phẩm.

Đề tài có 2 nội dung chính

-Xác định thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của bột rong Mơ khai thác

từ vùng biển tỉnh Khánh Hòa.

- Đánh giá hiệu quả sử dụng bột rong Mơ trong khẩu phần của gà đẻ trứng

thương phẩm.

Nguyên vật liệu

- Bột rong Mơ khai thác từ vùng biển Nha Trang – Khánh Hòa.

- Gà Ai Cập đẻ trứng thương phẩm bắt đầu từ 20 tuần tuổi.

Phương pháp nghiên cứu.

- Mẫu bột rong Mơ được sản xuất từ rong tươi khai thác được từ tự nhiên trong mùa thu hoạch rong vào tháng 6 đến tháng 7 tại vùng biển tỉnh Khánh Hòa. Phương pháp lấy mẫu theo TCVN 4325 : 2007.

- Tại phòng thí nghiệm, phân tích các mẫu thu thập được để đánh giá thành phần.

giá trị dinh dưỡng với các chỉ tiêu sau:

+ Độ ẩm: sử dụng TCVN 4326:2001 (ISO 6496:1999) (Animal feeding stuffs –

Determination of moisture and other volatile matter content).

+ Hàm lượng protein thô theo TCVN 4328-1:2007 (ISO 5983-1:2005) - Phương

pháp Kjeldahl (Animal feeding stuffs – Determination of nitrogen content and

calculation of crude protein content – Part 1: Kjeldahl method).

+ Hàm lượng lipit: theo TCVN 4331:2001 (ISO 6492:1999) (Animal feeding

stuffs – Determination of fat content).

vii

+ Hàm lượng xơ thô: theo TCVN 4329:2007 (ISO 6865:2000). Phương pháp có

lọc trung gian (Animal feeding stuffs – Determination of crude fibre content – Method

with intermediate filtration).

+ Hàm lượng tro thô: theo TCVN 4327:2007 (ISO 5984:2002) (Animal feeding

stuffs – Determination of crude ash).

+ Hàm lượng canxi: theo TCVN 1526-1:2007 (ISO 6490-1:1985). Phương pháp

chuẩn độ (Animal feeding stuffs – Determination of calcium content – Part 1:

Titrimetric method).

+ Hàm lượng phospho: theo TCVN 1525:2001 (ISO 6491:1998). Phương pháp

quang phổ (Animal feeding stuffs – Determination of phosphorus content –

Spectrometric method).

+ Hàm lượng khoáng vi lượng Fe, Cu, Zn, Mn được phân tích bằng phương

pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS).

+ Xác định hàm lượng các axit amin trong bột rong Mơ bằng phương pháp sắc

ký lỏng cao áp (HPLC).

- Thiết kế thí nghiệm: Chọn 360 gà mái Ai cập 19 tuần tuổi bắt đầu vào đẻ chia

đều thành 4 lô (một lô đối chứng – ĐC và ba lô thí nghiệm –TN). Chế độ chăm sóc. nuôi

dưỡng gà ở các lô như nhau. chỉ khác nhau thức ăn: lô đối chứng (ĐC) không sử dụng bột

rong Mơ trong thức ăn. Với 3 lô thí nghiệm (TN1. TN2. TN3). bột rong biển được đưa

vào thức ăn với tỷ lệ lần lượt là 4%. 5% và 6%. Thời gian thí nghiệm – 16 tuần.

Kết quả chính và kết luận

- Bột rong Mơ có hàm lượng protein thô và lipit thô ở mức thấp (Protein-4,03%

và Lipit - 0,1%) nhưng hàm lượng khoáng tổng số lại khá cao – 35,36% với hàm lượng

canxi là 2,01%.

- Hàm lượng axit amin serine và các nguyên tố khoáng vi lượng sắt, đồng,

mangan và kẽm trong rong mơ rất cao (hàm lượng serine là 2,44%; sắt đạt 535,15 ppm,

đồng: 3,65; mangan - 181,79 và kẽm - 20,88 ppm).

- Sử dụng bột rong Mơ trong khẩu phần gà đẻ có xu hướng làm tăng tỷ lệ đẻ, sử

dụng với tỷ lệ 5% có chỉ tiêu này cao nhất.

- Sử dụng bột rong Mơ với mức 5% làm giảm tiêu tốn thức ăn và tiêu tốn

protein /10 quả trứng.

- Sử dụng bột rong Mơ trong khẩu phần gà đẻ đã ảnh hưởng tích cực tới các chỉ

tiêu chất lượng trứng, màu lòng đỏ tăng từ 9,47 lên 11,33, độ dày vỏ trứng tăng từ 0,346

viii

mm lên thành 0,349 mm (ở lô sử dụng 5%rong Mơ trong khẩu phần).

ABSTRACT OF MASTER’S THESIS

Author: Nguyen Thi Sang

Thesis Title: The marine Sargassum spp. as feed for hens laying eggs for sale

Major: Animal Science Code: 60.62.01.05

Training University: Vietnam National University Of Agriculture

Supervisors: Le Viet Phuong Ph.D

Research Ojectives:

Evaluating the chemical composition and nutritional value of the marine Sargassum spp. powder.

Evaluating the effectiveness of using the marine Sargassum spp. powder in

rations of hens laying eggs for sale.

Thesis Content:

- Determining the chemical composition and nutritional value of the marine

Sargassum spp. powder exploited in the territorial waters of Khanh Hoa Province.

- Evaluating the effectiveness of using the marine Sargassum spp. powder in

rations of hens laying eggs for sale.

Materials:

- The marine Sargassum spp. powder exploited in Nha Trang – Khanh Hoa

territorial waters.

- Egyptian hens (20 weeks of age) laying eggs for sale.

Research Method:

- The marine Sargassum spp. powder are processed from the raw materials of the fresh marine Sargassum spp. exploited in the Sargassum spp. harvest from June to July in Nha Trang – Khanh Hoa territorial waters. Sampling Method based on Vietnamese Standard 4325: 2007.

- The analysis of collected samples in the laboratory to evaluate components and

nutritional value with the following criteria:

+ Humidity: based on Vietnamese Standard 4326:2001 (ISO 6496:1999)

(Animal feeding stuffs – Determination of moisture and other volatile matter content).

ix

+ Raw Protein Content: in accordance with Vietnamese Standard 4328-1:2007 (ISO 5983-1:2005) - Kjeldahl Method (Animal feeding stuffs – Determination of

nitrogen content and calculation of crude protein content – Part 1: Kjeldahl method).

+ Lipid Content: in accordance with Vietnamese Standard 4331:2001 (ISO

6492:1999) (Animal feeding stuffs – Determination of fat content).

+ Crude Fibre Content : in accordance with Vietnamese Standard 4329:2007 (ISO 6865:2000). Method with intermediate filtration (Animal feeding stuffs – Determination of crude fibre content – Method with intermediate filtration).

+ Crude Ash Content : in accordance with Vietnamese Standard 4327:2007

(ISO 5984:2002) (Animal feeding stuffs – Determination of crude ash).

+ Calcium Content : in accordance with Vietnamese Standard 1526-1:2007 (ISO 6490-1:1985). Titrimetric method (Animal feeding stuffs – Determination of calcium content – Part 1: Titrimetric method).

+ Phosphorus Content : in accordance with Vietnamese Standard 1525:2001 (ISO 6491:1998). Spectrometric method (Animal feeding stuffs – Determination of phosphorus content – Spectrometric method).

+ Mineral Content: Fe, Cu, Zn, Mn are analysed by using Atomic Absorption

Spectrometry method (AAS).

+ Amino Acid Content: Amino Acid Content in the marine Sargassum spp. powder is defined by using High Performance Liquid Chromatography method (HPLC).

- Experimental Design: 360 Egyptian hens (19 weeks of age) chosen to lay are divided into 4 lots (a control group - DC and three experimental groups-TN). They are in the same care, but they are difference in food: the control group (DC) is not fed the marine Sargassum spp. powder, and three experimental groups (TN1. TN2. TN3) are fed the marine Sargassum spp. powder at a ratio of 4%, 5% and 6% with a 16-week experimental period.

Main Findings and Conclusion:

- The marine Sargassum spp. powder has crude protein and crude lipid at low levels (Protein 4.03% and Lipid - 0.1%), but its total mineral content is quite high - 35.36%, with calcium content - 2.01%.

- Serine amino acid content and mineral elements such as iron, copper, manganese and zinc in the marine Sargassum spp. are high(Serine content - 2.44%, Fe - 535.15 ppm, Cu - 3.65, Mn - 181.79 and Zn - 20.88 ppm).

- Using the marine Sargassum spp. powder in ration of laying hens helps to

x

increase laying rate, using the ratio of 5% helps to have highest laying rate.

- Using the marine Sargassum spp. powder with the ratio of 5% helps to reduce

feed consumption and protein consumption per 10 eggs.

xi

- Using the marine Sargassum spp. powder in ration of laying hens has a positive impact on the egg quality criterion, yolk color increasing from 9.47 to 11.33, eggshell thickness increasing from 0.346 mm to 0.349 mm( in the lot using the marine Sargassum spp. ratio of 5% in ration).

PHẦN 1. MỞ ĐẦU

1.1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI

Trong các loài rong biển phân bố tại Việt Nam, rong Mơ (Sargassum spp) phân bố ở cả vùng cận nhiệt đới và cả vùng nhiệt đới nên có thành phần loài phong phú nhất ở vùng biển nước ta, chúng phân bố rộng trên khắp các vùng biển nước ta từ Quảng Ninh, Hải phòng đến các tỉnh miền trung như Thừa Thiên Huế, Quảng Bình, Quảng ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Ninh Thuận và vịnh Thái Lan, Rong Mơ có sản lượng tự nhiên cao nhất với ước tính đạt 35.000 tấn

khô/năm và tiềm năng phát triển nuôi trồng nhân tạo còn rất lớn.

Hiện nay, việc sử dụng rong Mơ của các cư dân ven biển còn rất đơn giản, một lượng rất nhỏ được thu hái từ biển về làm thực phẩm cho con người, làm thức ăn dạng tươi cho động vật, ngoài ra, phần khác được sơ chế (phơi khô) rồi bán thô nên giá trị kinh tế rất thấp, đa phần cư dân vùng biển chưa biết đến giá trị và tiềm

năng của rong Mơ nên dẫn đến sử dụng khá lãng phí nguồn lợi to lớn này.

Rong Mơ rất giàu các chất dinh dưỡng như vitamin nhóm B, niacine, vitamin C, nhóm carotenid và các khoáng chất như canxi, natri, magie, kali và đặc biệt hàm lượng các nguyên tố khoáng vi lượng rất cần thiết cho cơ thể người, động vật như Iod, sắt, coban, đồng, kẽm, mangan... rất cao, đặc biệt thích hợp cho động vật trong giai đoạn sinh trưởng, sinh sản, ngoài ra rong Mơ còn chứa

nhiều hoạt chất sinh học quí khác.

Hàng năm Việt Nam phải bỏ ra một lượng lớn ngoại tệ để nhập khẩu đến 70-80% các nguyên liệu như ngô, bột cá, khô đỗ tương, các loại thức ăn bổ sung, phụ gia, chất nhuộm màu, cỏ và bột cỏ alfalfa ... để sản xuất thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm, Ngành chăn nuôi nước ta đang rất cần các loại nguyên liệu thức ăn có nguồn gốc tự nhiên, được sản xuất từ các nguồn nguyên liệu sẵn có, chủ động, có tiềm năng lớn, tái tạo và bền vững để thay thế và giảm các nguồn thức ăn bổ sung, chất tạo màu có nguồn gốc hóa học nhập khẩu. Việc nghiên cứu chế biến, sử dụng rong biển làm thức ăn chăn nuôi nếu thành công sẽ mang lại nhiều lợi ích về mặt kinh tế, xã hội do tạo ra cho người dân vùng ven biển sinh kế mới là trồng và khai thác thủy sản, nhà nước sẽ tiết kiệm được nguồn ngoại tệ

không nhỏ do giảm nhập khẩu nguyên liệu từ nước ngoài.

1

Xuất phát từ các vấn đề thực tế trên, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài:

“Sử dụng rong Mơ (Sargassum spp.) trong thức ăn cho gà đẻ trứng thương phẩm”.

1.2. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI

Đánh giá được thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của bột rong Mơ.

Đánh giá hiệu quả của việc sử dụng bột rong Mơ trong khẩu phần của gà

đẻ trứng thương phẩm.

2

PHẦN 2. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẶC ĐIỂM TIÊU HÓA THỨC ĂN CỦA GIA CẦM

Gia cầm có tốc độ trao đổi chất và năng lượng cao hơn so với động vật có

vú. Cường độ tiêu hóa mạnh ở gia cầm được xác định bằng tốc độ di chuyển của

thức ăn qua ống tiêu hóa. Ở gà con, tốc độ là 30 - 39cm/giờ; ở gà lớn hơn là 32 -

40cm/giờ và ở gà trưởng thành là 40 - 42cm/giờ. Chiều dài của ống tiêu hóa gia

cầm không lớn,thời gian mà khối thức ăn được giữ lại trong đó không vượt quá 2

- 4 giờ. ngắn hơn rất nhiều so với động vật khác.

2.1.1. Mỏ

Chia ra làm ba phần: đầu mỏ, thân mỏ, gốc mỏ.

Đường vành mỏ trên có thêm những răng nhỏ bằng sừng dùng để lọc nước

và là nơi thu nhận thức ăn, ở gà việc lấy thức ăn được thực hiện bằng thị giác và

xúc giác.

2.1.2. Khoang miệng

Chia làm hai phần: phần trên có vòm miệng cứng ngắn, được phủ lớp

màng nhầy phần dưới có lưỡi. Lưỡi gia cầm nằm ở đáy khoang miệng có hình

dạng và kích thước phù hợp với mỏ. Trên bề mặt phía trên của lưỡi có những

gai rất nhỏ hóa sừng hướng về cổ họng có tác dụnggiữ khối thức ăn và đẩy

chúng về thực quản.

Ở gà tuyến nước bọt không phát triểnlưỡi gà rất nhỏ. khoang miệng không

có răngnước bọt gà rất ít men chủ yếu là dịch nhầy để thấm ướt thức ăn thuận lợi

cho việc nuốt.

2.1.3. Thực quản

Nằm song song với khí quảnlà một ống có 2 lớp cơ đàn hồi, trong thực quản tiết

ra dịch nhầy có chức năng vận chuyển thức ăn từ khoang miệng xuống diều.

2.1.4. Diều

Diều là phần phình ra của thực quản nằm bên phải chỗ vào khoang ngực ngay

trước chạc ba nối liền hai xương đòn phải trái là nơi điều phối dự trữ thức ăn để

cung cấp xuống dạ dày thức ăn ở diều được làm mền ra và được lên men phân giải.

3

2.1.5. Thực quản dưới

Là một ống rất ngắn.

2.1.6. Dạ dày tuyến

Có dạng ống ngắnvách dày được nối với dạ dày cơ bằng một eo nhỏ. Vách dạ dày tuyến cấu tạo gồm màng nhày cơ và mô liên kết. Bề mặt của màng nhày có những nếp gấp dễ thấy đậm và liên tục. Ở đáy màng nhày có những tuyến hình túi phức tạp, những chất tiết của nó được đi ra bởi 50 - 74 lỗ trong các núm đặc biệt của các nếp gấp ở màng nhầy. Dịch dạ dày được tiêt vào trong khoang của dạ dày tuyến có HCl, men Pepsin, men bào tử và Muxin. Dung tích nhỏ chỉ

có tác dụng thấm dịch và chuyển thức ăn xuống dạ dày cơ.

2.1.7. Dạ dày cơ (mề)

Có dạng hình đĩa. hơi bị bóp ở phía cạnh nằm ở phía sau thùy trái của ganvà lệch về phía trái của khoang bụng. Lối vào. lối ra của dạ dày cơ rất gần nhau. nhờ vậy thức ăn được giữ lại ở đây lâu hơn. chúng sẽ bị nghiền nát cơ học. trộn lẫn với men và được tiêu hóa dưới tàc dụng của các dịch dạ dày cũng như enzym và chất tiết của vi khuẩn.

Cấu tạo bởi những lớp cơ khỏe thành dàytiết mành hóa sừng có ý nghĩa cơ học, ngoài ra còn giữ cho vách dạ dày khỏi bị tác động của những yếu tố bất lợi.

Dạ dày cơ có tác dụng nhào trộn, co bóp nghiền nát thức ăn.

2.1.8. Ruột non

Ngắn. giống như ruột non của gia súc. có cấu tạo đầy đủ có nhiều tuyến. nhiều nhung mao, có khả năng và tốc độ hấp thu thức ăn lớn. Mặtkhácdo tuyến

ngoại tiết tương đối phát triển nên khả năng tiêu hóa tốt.

2.1.9. Ruột già

Cuối ruột già có hai manh trànglà cơ quan tiêu hóa xơ chính của gà nhờ vào sự hoạt động của vi sinh vật. Phần cuối của trực tràng có lỗ huyệt cũng là nơi đổ

ra của đường tiết niệ, thải phân, đồng thời thực hiện chức năng sinh dục.

2.2. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ SINH SẢN CỦA GÀ MÁI ĐẺ

2.2.1. Cấu tạo cơ quan sinh dục cái

Ở gà, cơ quan sinh dục cái gồm hai tuyến nhưng trong quá trình tiến hóa và phát triển buồng trứng và ống dẫn trứng bên phải phần lớn đã bị thoái hóa hoàn toàn. Nói chung cơ quan sinh dục cái của gà gồm một buồng trứng và một ống

dẫn trứng.

4

2.2.1.1. Buồng trứng

Nằm ở phía trái của khoang bụng là nơi tạo ra các tế bào trứng (lòng đỏ trứng). Kích thước và hình dạng buồng trứng phụ thuộc vào trạng thái chức năng và tuổi gia cầm. Ở gà mái con 1 ngày tuổi, buồng trứng có dạng phiến mỏng, 4 tháng tuổi phiến hình thoi. Gà trong thới kỳ đẻ trứng mạnh, buồng trứng có dạng hình chùm nho. Trong buồng trứng có miền vỏ và miền tủy. Ở miền vỏ của buồng trứng gồm nhiều tế bào trứng ở các giai đoạn khác nhau. Ở miền tủy của buồng trứng được cấu tạo từ mô liên kết, có nhiều mạch máu và dây thần kinh.

Trong chất tủy có những khoang được phủ bằng biểu mô dẹt và mô thần kinh.

2.2.1.2. Ống dẫn trứng

Có hình ống, ở đó xảy ra việc thụ tinh và hình thành vỏ trứng. Kích thước ống dẫn trứng thay đổi theo lứa tuổi và tình trạng hoạt động của hệ sinh dục. Khi bắt đầu thành thục sinh dục, ống dẫn trứng là một ống trơn, thẳngcó đường kính như nhau trên toàn bộ ống.Ống dẫn trứng chia làm 5 phần: loa kèn (phễu), phần

tạo lòng trắng, cổ, tử cung và âm đạo.

2.2.1.3. Tế bào sinh dục cái (trứng)

Tế bào sinh dục cái của gà chính là trứng, nó có kích thước lớn hơn so với các lớp động vật khác. Trứng được bảo vệ bằng lớp vỏ trứng cứng bao bên ngoài. Bên trong trứng có chứa phôi, chất dinh dưỡng và chất khoáng. Chất dinh dưỡng và chất khoáng đủ để đáp ứng cho nhu cầu sinh trưởng, phát triển một cách bình

thường của bào thai.

Tùy theo giống gà và tuổi đẻ mà khối lượng trứng khác nhau trung bình trứng nặng khoảng 56 - 64 gram. Trứng được hình thành và tạo ra từ buồng trứng và ống dẫn trứng. Theo Bùi Hữu Đoàn và cs. (2006) trứng gà được cấu tạo bởi các thành phần và tỷ lệ như sau: vỏ trứng: 11,6%; lòng đỏ: 31,6%; lòng trắng: 56,8% (lớp ngoài lòng trắng lỏng 23,2%, lớp giữa lòng trắng đặc chiếm 57,3%,

lớp trong lòng trắng lỏng 16,8%, lớp trong cùng lòng trắng xoắn đặc 2,7%).

Trong trứng gà thành phần hóa học là ổn định, vì đó là nơi để bào thai tồn tại và phát triển. Thành phần hóa học của trứng như sau: nước trong trứng chiếm 66%, vật chất khô chiếm 43%, protein 12%, lipit 10%, hydratcacbon 1% và 11% khoáng.Trên vỏ trứng có nhiều lỗ thông khí, có tới 7600 - 7800 lỗ phôi trôi nổi trên bề mặt lòng đỏ, đây chính là hợp tử do tinh trùng kết hợp với tế bào trứng tạo nên. Trứng được đặt trong môi trường thích hợp với nhiệt độ 37,50C, ẩm độ

5

60 - 70%, kết hợp với thông thoáng và đảo trứng thì phôi gà tiếp tục phát triển, sử dụng chất dinh dưỡng cân đối trong trứng để hình thành gà con sau 490 - 528

giờ (khoảng 17,5 - 22 ngày), ấp tùy vào môi trường.

2.2.2. Hiện tượng rụng trứng và quá trình hình thành trứng

Hiện tượng rụng trứng và sự hình thành trứng ở gà mái gắn liền với sự hình thành các chất dinh dưỡng để nuôi bào thai. Quá trình thoát khỏi buồng trứng của tế bào trứng chín gọi là sự rụng trứng. Tế bào trứng chín rơi vào túi lòng đỏ và

nằm trên bề mặt lòng đỏ đạt độ chín trong phạm vi 9 - 10 ngày.

Theo Melekhin G.P và Niagridin. 1989 (Ngô Giản Luyện. 1994) thì sự rụng trứng ở gà xảy ra một lần trong ngày, thường là 30 phút sau khi đẻ trứng. Trường hợp nếu trứng đẻ sau 16 giờ thì sự rụng trứng sẽ chuyển đến đầu hôm sau. Trứng bị giữ lại trong ống dẫn trứng làm ngừng sự rụng trứng tiếp theo. Nếu lấy trứng ra khỏi tử cung thì không làm tăng nhanh sự rụng trứng được. Khối lượng trứng tăng 16 lần trong thời gian 7 ngày ở thời kỳ trước rụng trứng (Nguyễn Tất Thắng. 2008). Hocmon FSH, LH điều chỉnh theo một trình tự chặt chẽ trong quá trình phát triển và vỏ bao noãn. Thùy trước tuyến yên tiết ra hormon FSH và LH là tác nhân kích thích bao noãn phát triển. vỡ ra và chín để giải phóng trứng. Trứng sau khi rụng được rơi vào trong phễu (loa kèn) của ống dẫn trứng và phễu nhu động liên tục. Tế bào trứng rơi vào phễu dừng lại ở đây 20

phút. nếu có tinh trùng thì việc thụ tinh tế bào trứng sẽ xảy ra ở trên thành phễu.

2.2.3. Khả năng sinh sản của gia cầm mái

Sinh sản là quá trình duy trì nòi giống tạo ra thế hệ sau. Sự phát triển hay

hủy diệt của một loài trước tiên phụ thuộc khả năng sinh sản của loài đó.

2.2.3.1. Sinh lý sinh sản của gia cầm mái

Gia cầm là động vật đẻ trứng, con mái thoái hóa buồng trứng bên phải, chỉ còn lại buồng trứng và ống dẫn trứng bên trái tồn tại và phát triển. Âm hộ gắn liền với tử cung và cùng nằm chung lỗ huyệt đảm bảo 3 chức năng chứa phân, nước tiểu và cơ quan sinh dục. Khi giao phối gai giao cấu của con trống áp sát

vào lỗ huyệt của con mái và phóng tinh vào âm hộ.

Kích thước và hình dạng buồng trứng phụ thuộc vào loại gia cầm, sự hình

thành buồng trứng và tuyến sinh dục xảy ra vào thời kì đầu của phát triển phôi;

chức năng chủ yếu của buồng trứng là tạo trứng. Quá trình phát triển của tế bào

trứng trải qua 3 thời kỳ tăng sinh, sinh trưởng và chín; trong giai đoạn phát triển

6

lúc đầu các tế bào trứng được bao bọc bởi một tầng tế bào, tầng tế bào này phát

triển thành nhiều tầng và tiến dần tới bề mặt buồng trứng, cấu tạo này gọi là

follicum, bên trong follicum có một khoang hở chứa đầy dịch, bên ngoài

Follicum trống rỗng như một cái túi; trong thời kì đẻ trứng, nhiều Follicum chín

dần làm thay đổi hình dạng buồng trứng trông giống như hình chùm nho. Sau

thời kỳ để trứng, buồng trứng trở lại hình dạng ban đầu, các Follicum trứng vỡ ra

quả trứng chín chuyển ra ngoài cùng với dịch của Follicum và rơi vào phễu ống

dẫn trứng, sự rụng trứng đầu tiên báo hiệu sự thành thục sinh dục.

Buồng trứng nằm ở phía trái của xoang bụng, về phía trước và hơi thấp hơn

thận trái. được đỡ bằng các nếp gấp của màng bụng từ trên xuống. Nếp gấp khác

của màng bụng nối nó với ống dẫn trứng. Kích thước và hình dạng buồng trứng

phụ thuộc vào trạng thái chức năng và tuổi gia cầm. Buồng trứng có chức năng tạo

lòng đỏ, các ống dẫn trứng có chức năng tiết ra lòng trắng đặc, lòng trắng loãng,

màng vỏ, vỏ và lớp keo mỡ bao ngoài và vỏ trứng. Thời gian trứng lưu lại trong

ống dẫn trứng từ 20 – 24h. tế bào trứng tăng trưởng nhanh, đặc biệt là lòng đỏ.

Lòng đỏ được tạo thành trước khi đẻ 9 – 10 ngày, trong thời kỳ sinh trưởng lớn dài

4 -13 ngày lòng đỏ chiếm 90 – 95% khối lượng tế bào trứng, thành phần chính

gồm phôt pho lipit, mỡ trung hòa, các chất khoáng và vitamin; tốc độ sinh trưởng

của lòng đỏ không tương quan đến cường độ đẻ trứng. Quá trình hình thành trứng

và rụng trứng là một quá trình sinh lý phức tạp do sự điều khiển của hocmon, thời

gian từ khi đẻ trứng đến khi rụng trứng tiếp theo kéo dài từ 15 – 75 phút.

Sự rụng trứng được tính khi tế bào trứng rời khỏi buồng trứng rơi vào loa

kèn. Sự rụng trứng chỉ xảy ra một lần trong ngày, nếu gà đẻ trứng vào cuối buổi

chiều (16h) thì sự rụng trứng thực hiện vào buổi sáng hôm sau. Trứng được giữ

lại trong ống dẫn trứng làm đình trệ sự rụng trứng tiếp theo. Sự rụng trứng của gà

thường xảy ra từ 2 giờ đến 14 giờ.

Chu kỳ rụng trứng phụ thuộc vào các yếu tố: điều kiện nuôi dưỡng, chăm

sóc, lứa tuổi và trạng thái sinh lý của gia cầm. Nếu thức ăn kém chất lượng, nhiệt

độkhông khí cao sẽ làm giảm sự rụng trứng và đẻ trứng. Ví dụ, ở Xí nghiệp gà

giống Lương Mỹ, Tam Dương vào mùa nóng (tháng 5 - 7) với nhiệt độ 35 - 400C

thì sức đẻ trứng của gà ISA đã giảm 15 - 20%. Gà nhiễm bệnh cũng hạn chế khả

năng rụng trứng (Lê Huy Liễu và cs., 2003).

7

2.2.3.2. Cơ chế điều hoà quá trình phát triển và rụng trứng

Các hormon sinh dục của tuyến yên là FSH và LH kích thích sự sinh trưởng

và chín của trứng. Nang trứng tiết ra oestrogen trước khi trứng rụng vừa có tác

dụng kích thích hoạt động của ống dẫn trứng hoặc vừa ảnh hưởng lên tuyến yên ức

chế tiết FSH và LH. Như vậy tế bào trứng phát triển và chín chậm lại làm ngưng

rụng trứng khi tế bào còn trong ống dẫn trứng hoặc tử cung (chưa đẻ).

Đàn gà mái mới đẻ trứng thường có tỷ lệ trứng hai lòng nguyên nhân là do

FSH và LH hoạt động mạnh. kích thích một lúc hai tế bào trứng chín và rụng. LH

chỉ tiết vào buổi tối, từ lúc bắt đầu tiết đến khi rụng trứng khoảng 6 - 8 giờ. Vì

vậy việc chiếu sáng bổ sung vào buổi tối làm chậm tiết LH dẫn đến chậm rụng

trứng từ 3 - 4 giờ. Việc chiếu sáng bổ sung 3 - 4 giờ buổi tối thực chất là để gà đẻ

ổn định và tập trung vào khoảng 8 - 11 giờ sáng. Nếu không đảm bảo đủ thời

gian chiếu sáng 15 - 18 giờ/ ngày thì gà sẽ đẻ cách nhật và giảm năng suất trứng.

Sự điều hoà sự rụng trứng là do yếu tố thần kinh thể dịch ở tuyến yên và

buồng trứng phụ trách. Ngoài ra còn có cả thần kinh cấp cao và vỏ bán cầu đại

não tham gia quá trình này.

2.2.3.3.Cơ chế điều hoà quá trình tạo trứng và đẻ trứng

Kích thích đầu tiên tới sự phát triển hệ thống sinh dục ở gà là các hormon

hướng sinh dục từ tuyến yên, tiếp đó FSH kích thích nang trứng sinh trưởng phát

triển. LH kích thích trứng chín và rụng. Cuối cùng nang trứng tiết oestrogen kích

thích sự phát triển và hoạt động của ống dẫn trứng. Để điều hoà quá trình chín và

rụng, tuyến yên tiết oxytoxin tăng cường co bóp cơ trơn ống dẫn trứng và tử

cung, tiết prolactin ức chế hormon FSH và LH. Sau khi trứng rụng, bao noãn co

lại tiết progesteron duy trì hình thành trứng ở ống dẫn trứng và trạng thái hoạt

động của nó. Vì vậy, để điều chỉnh nhịp nhàng chức năng bộ máy sinh sản phải

nhờ mối liên hệ khăng khít giữa tuyến yên và vùng dưới đồi.

Khả năng đẻ trứng phụ thuộc vào nhiều yếu tố: giống, tuổi đẻ, trạng thái

sinh lý, đặc điểm cá thể, điều kiện nuôi dưỡng và ngoại cảnh.

Trong các yếu tố môi trường, ánh sáng có ảnh hưởng nhất đến sự phát triển

chức năng sinh dục của gia cầm. Dùng ánh sáng nhân tạo bổ sung cho gà đẻ sớm.

Tuy nhiên việc đẻ sớm có điều bất lợi vì gà chưa đạt khối lượng cơ thể, trứng đẻ

ra bé, chu kỳ đẻ sinh học ngắn, kết thúc đẻ sớm dẫn đến năng suất kém.

8

Vì vậy trong chăn nuôi gia cầm đẻ trứng phải hạn chế thức ăn, ánh sáng để

kéo dài tuổi thành thục về tính và thể vóc ở mức cho phép. Ví dụ gà hướng trứng

khi đạt khối lượng khoảng 1260g đối với gà mái, 1450g đối với gà trống ở 133

ngày tuổi. Gà đẻ trứng giống thịt như ISA, AA phải nuôi hạn chế thức ăn đến

140 ngày, khối lượng sống đạt 2150g đối với gà mái, 2500g đối với gà trống sau

đó mới cho ăn tăng để thúc đẻ.

Thực hiện nghiêm ngặt chế độ dinh dưỡng gà hậu bị sẽ nâng cao sức đẻ

trứng của gà đẻ, khối lượng trứng to, chất lượng trứng tốt, thời gian đẻ kéo dài.

Ví dụ gà Leghorn có thể đẻ được 270 quả/mái/năm, gà ISA. AA đạt 180 - 185

quả/mái/10 thángđẻ.

2.2.3.4. Tuổi thành thục sinh dục

Tuổi thành thục sinh dục là tuổi bắt đầu con vật có hoạt động sinh dục và có

khả năng tham gia quá trình sinh sản. Ở gà mái tuổi thành thục sinh dục là tuổi

đẻ quả trứng đầu tiên đối với từng cá thể hoặc lúc tỷ lệ đẻ đạt 5% đối với mỗi

đàn (quần thể) gà (Pingel et al., 1980; dẫn theo Trần Thị Mai Phương, 2004).

Trong một đàn gà mái chỉ tiêu này được xác định bằng tuổi đẻ 5% số cá thể trong

đàn. tuổi đẻ quả trứng đầu phụ thuộc vào chế độ nuôi dưỡng. thời gian chiếu

sáng dài sẽ thúc đẩy gia cầm đẻ sớm (Khavecman. 1972 dẫn theo Phạm Thị

Minh Thu, 1996). Theo Siegel (1962) khối lượng cơ thể và cấu trúc thành phần

cơ thể là những nhân tố ảnh hưởng đến tính thành thục ở gà màu.

Tuổi thành thục về tính chịu ảnh hưởng của giống và môi trường. Các giống

khác nhau thì tuổi thành thục về tính cũng khác nhau. Pingel et al. (1980) (dẫn

theo Trần Thị Mai Phương. 2004) cho rằng, tuổi thành thục sinh dục của gà

khoảng 170 -180 ngày, biến động trong khoảng 15 - 20 ngày. Tuổi đẻ quá trứng

đầu của gà Ri135 - 144 ngày (Nguyễn Văn Thạch. 1996), gà Đông Tảo 157 ngày

(Phạm Thị Hoà, 2004).gà Mía là 174 ngày (Nguyễn Văn Thiện và HoànhPhanh,

1999), gà xương đen Thái Hoà Trung Quốc 141 - 144 ngày (Vũ Quang Ninh,

2002). Kết quả nghiên cứu của Vũ Quang Ninh (2002) cho biết tuổi đẻ quả trứng

đầu của gà Ác Thái Hòa 152- 158 ngày; đạt tỷ lệ 50% lúc 195 – 198 ngày. Phùng

Đức Tiến và cs. (2001) chỉ ra rằng tuổi đẻ đạt tỷ lệ 5% của gà Ai Cập 145 – 160

ngày. Nguyễn Thị Khanh và cs. (2001), tuổi thành thục sinh dục của gà Tam

Hoàng dòng 882 và Jaangcunlúc 154 và 157 ngày.

9

Tuổi đẻ sớm hay muộn liên quan chặt chẽ đến khối lượng cơ thể ở một thời điểm nhất định. Các yếu tố ảnh hưởng đến tuổi thành thục sinh dục sớm là ngày,tháng nở của gà con (độ dài của ngày chiếu sáng), khoảng thời gian chiếu sáng tự nhiên hay nhân tạo, cũng như khối lượng cơ thể. Sự biến động trong tuổi thành thục sinh dục có thể còn do các yếu tố khác có ảnh hưởng đến sinh trưởng và phát triển như chăm sóc, quản lý, thú y hay khẩu phần ăn cũng có ảnh hưởng mạnh đến chỉ tiêu này (Jonhanson, 1972). Khối lượng gà mái thành thục và khối

lượng trứng gà tăng dần qua từng thời điểm đẻ 5% và đẻ đỉnh cao.

2.2.3.5. Năng suất trứng

Năng suất trứng là số trứng một gia cầm mái sinh ra trong một đơn vị thời gian. Đối với gia cầm đẻ trứng, đây là chỉ tiêu năng suất quan trọng nhất, phản ánh trạng thái sinh lý và khả năng hoạt động của hệ sinh dục. Năng suất trứng phụ thuộc nhiều vào giống đặc điểm của cá thể, hướng sản xuất, mùa vụ và dinh

dưỡng ...

Năng suất trứng có hệ số di truyền không caonhưng lại dao động lớn

h2 =0,12 – 0,3 (Nguyễn Văn Thiện. 1995). Theo Hutt (1946). hệ số di truyền năng suất trứng của gà Leghorn là 0,09 – 0,22, gà Plymouth là 0,25 –

0,41.

Năng suất trứng của gà Đông Tảo/36 tuần đẻ đạt 67,71 quả/ mái (Nguyễn Đăng Vang và cs., 1999). Gà Tam Hoàng dòng 882 có năng suất trứng 130,62 - 146,4 quả/ mái/ năm (Trần Công Xuân và cs., 1999). Phùng Đức Tiến và cs. (2001) nghiên cứu trên gà Ai Cập, công bố năng suất trứng từ 22 - 64 tuần

đạt158,4 quả/ mái.

Gà hướng trứng thường có năng suất trứng rất cao. Nguyễn Huy Đạt và cs. (1996) cho biết gà Moravia và gà Goldline - 54 thương phẩm cho năng suất

trứng/ mái/ năm đạt tương ứng 242 và 259 - 265 quả.

Giữa các dòng trong một giống, dòng trống có năng suất trứng cao hơn dòng mái. Bùi Quang Tiến và cs. (1999), nghiên cứu trên gà Ross - 208 cho biết năng

suất trứng/ 9 tháng đẻ của dòng trống đạt 106,39 quả dòng mái đạt 151,08 quả.

2.2.3.6. Một số chỉ tiêu đánh giá chất lượng trứng

- Khối lượng trứng

Khối lượng trứng là một trong những chỉ tiêu đánh giá chất lượng trứng,

10

khối lượng trứng của các loài khác nhau thì khác nhau,trứng gà 55 – 56g, trứng vịt 90 – 110g, trứng gà tây 110g, trứng ngỗng 110 – 180g. Khối lượng trứng cũng là một chỉ tiêu để đánh giá về hiệu quả trong chăn nuôi gà lấy trứngđồng thời khối lượng trứng cũng phản ánh sinh lực, sức sống của gia cầm non. Ngoài yếu tố di truyền, khối lượng trứng còn phụ thuộc vào các yếu tố như khối lượng cơ thể mái khi thành thục sinh dục, chế độ chăm sóc nuôi dưỡng. Hệ số di

truyềnvề khối lượng trứng khá cao h2 = 0.52.

Theo Brandsch and Bilchel (1978), h2 = 0,48 – 0,8; theo Nguyễn Văn Thiện (1995) h2 = 0,6 – 0,74. Theo Wyatt (1953) h2 = 45 – 75; theo Lerner and Cruden (1951); theo Brandsch and Bilchel (1978) cho biết khối lượng trứng có hệ số di truyền cao hơn sức đẻ trứng, h2 = 0,52 nên dễ chọn giống. Kết quả nghiên cứu của Lê Hồng Mận và cs. (1993) cho biết khối lượng trứng có tương quan âm với sản lượng trứng (r = 0,36), tương quan dương với tuổi thành thục

sinh dục (r = 0,31).

Do đó, khối lượng trứng phụ thuộc vào mức chọn lọc; ở những dòng đã

chọn lọc kỹ, khối lượng trứng trung bình cao hơn dòng chưa chọn lọc 10 – 15.

Khối lượng trứng tăng theo tuổi đẻ của gia cầm và sự thay đổi khối lượng trứng ứng với sự thay đổi khối lượng cơ thể. Bùi Quang Tiến và cs. (1999) nghiên cứu về gà Ross - 208 cho biết khối lượng trứng ở các tuần tuổi 27; 32; 38 và 42 lần lượt là: 53,96; 54,85; 56,76; 57,10 g/ quả đối với dòng trống và 52,41;54,20; 56,38; 56,89 g/ quả đối với dòng mái.Orlov (1974) cho biết, trứng ấp nhận được từ một nhóm gà mái đẻ có khối lượng trứng trung bình sẽ cho kết

quả ấp nở tốt.

- Hình dạng trứng

Trứng gia cầm có hình dạng phổ biến là hình ovan và được thể hiện qua tỷ số giữa chiều dài và chiều rộng của trứng hay ngược lại. Chỉ số này không biến đổi theo mùa (Bransch and Bilchel, 1978). Theo Ixmetnhiev (Ngô Giản Luyện. 1994) trứng của cùng một mái đẻ ra, lúc còn non tròn hơn lúc gà mái đã già. Trứng gia cầm có thể phân biệt rõ đầu to và đầu nhỏ, những trứng không có hình dạng như trên mà quá tròn, quá dài, thắt ngẫng ở giữa đều không được chọn làm trứng ấp do có ảnh hưởng không chỉ với cấu tạo, chất lượng vỏ trứng mà còn ảnh hưởng đến vị trí đĩa phôi. Trong chăn nuôi gia cầm sinh sản, chỉ số hình dạng của trứng là một chỉ tiêu để xem xét chất lượng của trứng ấp, những quả trứng dài

11

hoặc quá tròn đều có tỷ lệ nở thấp. Theo Orlov (1974) – dẫn theo Bạch Thị Thanh Dân (1998), chỉ số hình dạng có ý nghĩa nhất định đến sự phát triển của phôi vì nó ảnh hưởng đến vị trí đĩa phôi khi ấp và vị trí này ảnh hưởng đến quá trình nở của gia cầm.Theo Lê Hồng Mận và cs. (1993) cho biết trứng gà Leghorn có chỉ số hình dạng 1,38; trứng gà Rhode-Island-Red và Leghor là 1,4. Nguyễn Huy Đạt và cs. (1996) – trích dẫn theo Lê Thị Nga (2005) cho biết khi nghiên cứu xác định tính năng sản xuất của gà Goldline 54 cho thấy chỉ số hình dạng là 1,32 – 1,36. Nguyễn Quý Khiêm (1996) cho biết, trứng gà Tam Hoàng chỉ số hình dạng trung bình 1,24 – 1,39 cho tỷ lệ nở cao hơn so với nhóm trứng có chỉ

số hình dạng nằm ngoài biên độ này.

Như vậy, mỗi loài đều có chỉ số hình dạng đặc trưng và những trứng có hình dạng trung bình sẽ cho tỷ lệ nở cao; càng xa giá trị trung bình thì tỷ lệ nở

càng thấp.

- Độ dày vỏ trứng và mật độ lỗ khí

Vỏ trứng là lớp bảo vệ cho trứng tránh các tác động cơ học, tránh sự xâm nhập của vi khuẩn và còn là kho cung cấp canxi, photpho cho phôi phát triển, trao đổi chất trong quá trình ấp trứng; vỏ trứng được hình thành từ khi trứng nằm trong tử cung từ chất dịch nhầy cacbonatcanxi và cacboprotein. Thời gian tạo vỏ nhầy 9 – 12 giờ trong khi đó tạo lòng trắng chỉ mất 3 giờ đó là kết quả công bố

của Nguyễn Mạnh Hùng (1993).

Theo Perdrix (1969); Card and Nesheim (1970) khi so với tổng khối lượng trứng thì vỏ chiếm 10 – 11,6%, lòng trắng chiếm 57 – 60 % và lòng đỏ chiếm 30 – 32%.Theo Nguyễn Mạnh Hùng và cs. (1994) – trích dẫn theo Lê Thị Nga(2005) trong vỏ theo tỷ lệ so với toàn bộ vỏ thì hơn 98% là vật chất khô, trong đó95% là chất vô cơ, trong các chất vô cơ có khoảng 98% là canxi và 1% là photpho.Chất lượng vỏ trứng được thể hiện qua độ bền vững và độ dày của vỏ trứng. Nhiều nhà nghiên cứu cho biết độ dày vỏ trứng gà chịu ảnh hưởng của yếu tố di truyền, Marco (1982) – dẫn theo Bạch Thị Thanh Dân (1998) - cho biết hệ số di truyền tính được là 0,3 – 0,6 ngoài ra độ dày vỏ trứng còn phụ thuộc vào môi trường, không khí, dinh dưỡng, stress… Tuy vậy, hệ số di truyền của vỏ trứng tương đối cao. Theo Perdrix (1969) – dẫn theo Bạch Thị Thanh Dân (1998) độ dày vỏ trứng gà là 0,229 – 0,373 mm. Trên các vị trí của vỏ trứng độ dày không đồng nhất dày nhất vùng đầu nhỏ và mỏng nhất vùng đầu to của trứng.

12

Theo Bennett (1992) dẫn theo Lê Thị Nga (2005) độ dày của vỏ trứng có liên quan đến sự sống của phôi và kết quả ấp nở của chúng; trên bề mặt của vỏ trứng được bao phủ một lớp màng mỏng trong suốt gọi là cutin (90% protein là những sợi muxin đan xen kẽ, một ít hydratcacbon và một ít mỡ. Độ dày màng ngoài khoảng 0,005 – 0,01 mm. Màng cutin vừa có tác dụng bảo vệ, vừa có tác dụng ngăn cản thoát hơi nước của trứng, khi mất lớp vỏ này nhìn quả trứng nhẵn bóng, đây là đặc điểm để phân biệt trứng mới và trứng cũ. Trứng gà Mía ở tuần tuổi 38 có độ dày trung bình 0,33mm và độ chịu lực 2,88kg/cm2 (Trịnh Xuân Cư và cs., 2001). Theo Nguyễn Huy Đạt và cs. (2001) cho biết trứng gà Lương Phượng Hoa ở 38 tuần tuổi có độ dày vỏ trung bình 0,35mm và độ chịu lực 4,46kg/cm2. Nguyễn Quý Khiêm (1996) cho biết trứng gà Tam Hoàng có độ dày vỏ trứng trung bình 0,34 – 0,37mm, độ chịu lực đạt 3,47kg/cm2. Trên bề mặt vỏ trứng có các lỗ khí có khả năng khuếch tán không khí các lỗ khí này cho phép nước bay hơi đi cũng như oxi từ bên ngoài thẩm thấu vào trong trứng, khí cacbonic từ tronh thoát ra. Mặt trong lớp vỏ canxi rất gồ ghề gồm nhiều mỏm nhô ra khỏi bề mặt vỏ các mỏm này mềm hơn mặt ngoài và dễ hòa tan dưới tác dụng hóa học khi phôi phát triển, đây là nguồn cung cấp canxi, photpho cho phôi. Vì vậy trong

quá trình ấp nở trứng mỏng dần và dễ vỡ.

Qua nhiều nghiên cứu cho thấy các loài khác nhau có lỗ khí trên bề mặt khắc nhau và phân bố không đều. Đầu to có biến động lỗ khí từ 77 – 144 lỗ/cm2. vùng giữa 106 – 131 và đầu nhỏ biến động 16 – 99 lỗ khí/cm2. Schuberth và Ruhland (1978) cho biết kết quả nghiên cứu của Raux trên cơ sở đã chứng minh được kích thước lỗ khí trên bề mặt trứng quá ít dẫn đến phá hoại trao đổi khí cótới 7600 số lỗ khí trên bề mặt trứngmật độ lỗ khí cũng phân bố không đều, đầu to có mật độ lỗ khí nhiều hơn vùng giữa và đầu nhỏ, lỗ khí có kích thước 40 – 50 micromet; độ dày vỏ trứng và số lỗ khí có quan hệ chặt chẽ với nhau trứng mỏng

có số lỗ khí nhiều hơn trứng dày và ngược lại.

Lớp tiếp giáp phía trong vỏ trứng là màng vỏ, gồm hai lớp dính sát nhau và tách nhau ra ở đầu to gọi là buồng khí, lớp này cũng cho không khí đi qua, chất lượng vỏ trứng thể hiện ở độ bền, độ chịu lực, độ xốp. Theo Nguyễn Huy Đạt (1991) độ chịu lực của vỏ trứng gà Leghorn nuôi tại Ba Vì là 2,60 – 3,04 kg/cm2 (dòng BVx) và 2,65 – 2,93 kg/cm2 (dòng BVy).Mặc dù độ dày vỏ trứng có hệ số di truyền rất lớn (yếu tố di truyền), 70%canxi cần cho vỏ trứng lại lấy trực tiếp từ thức ăn, do vậy điều kiện ngoại cảnh cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng vỏ

13

trứng như dinh dưỡng, nhiệt độ… Khi nhiệt độ tăng từ 20 – 30oc thì độ dày vỏ trứng giảm 6 – 10 %, không vỏ hoặc biến dạng theo Nguyễn Duy Hoan (1999) –

dẫn theo Lê Thị Nga (2005).

- Chất lượng lòng trắng trứng

Lòng trắng trứng được tiết ra từ ống dẫn trứng, chứa nhiều chất dinh dưỡng và nước để cung cấp cho nhu cầu phát triển của phôi và bảo vệ phôi khỏi những tác động cơ học. Lòng trắng trứng cấu tạo gồm hai lớp lòng trắng đặc và lòng trắng loãng, chất lượng lòng trắng được thể hiện qua chỉ số lòng trắng. Chỉ số này được tính dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa tỷ số chiều cao lòng trắng đặc và đường kính của chúng. Ngô Giản Luyện (1994) cho biết kết quả nghiên cứu của Toscovasev (1968) đã tính được hệ số di truyền của khối lượng lòng trắng là 0,22 – 0,27; tỷ lệ lòng trắng đặc/lòng trắng chiếm 62 – 64,5%. Nguyễn Mạnh Hùng và cs. (1994) cho biết chất lượng lòng trắng cũng là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng trứng. Bạch Thị Thanh Dân (1998) cho biết kết quả nghiên cứu của Orlov (1974) cho rằng chỉ số lòng trắng càng lớn thì tỷ lệ nở càng cao và trên cơ sở nghiên cứu được cho biết trứng mùa đông có chất lượng lòng trắng cao hơn mùa hè… Tác giả còn cho biết chỉ số lòng trắng cao quá 0,1 cũng không phải là tốt, trứng của gà mái tơ và gà mái già có chỉ số lòng trắng thấp hơn trứng của gà mái đang độ tuổi sinh sản, trứng để lâu chỉ số lòng trắng thấp hơn trứng mới đẻ.Trứng có chất lượng tốt khi đổ ra một mặt phẳng nhẵn thì lớp lòng trắng đặc gọn và còn giữ nguyên hình ovan bao quanh lòng đỏ. Lớp này có màu hơi phớt xanh hoặc màu vàng cam, lớp lòng trắng loãng ở ngoài có giới hạn rõ ràng và cũng giữ hình ovan, tuy loãng nhưng vẫn có độ dày và không chảy thành dòng. Dây chằng ở vị

trí giữa theo chiều dọc trục lớn của quả trứng.

Trứng có chất lượng kém quan sát thấy lòng trẵng loãng không màu hoặc màu đục, lòng trắng không giữ được hình dạng, chảy loang rộng ra và dây chằng nằm ở vị trí khác nhau. Theo Marco (1982), hệ số di truyền của khối lượng lòng trắng h2 = 0,22 – 0,78. Orlov (1974) cho biết chỉ số lòng trắng trứng gà về mùa đông cao hơn mùa xuân và mùa hè, ở giống gà nhẹ cân chỉ số này không dưới0.09 và giống kiêm dụng khoảng 0,08. Nguyễn Huy Đạt và cs. (2001) cho biết trứng gà Lương Phượng Hoa có chỉ số lòng trắng và lòng đỏ ở 38 tuần tuổi tương ứng là 0,14 và 0,53; ở 60 tuần tuổi tương ứng là 0,091 và 0,49.Chất lượng lòng trắng còn được đánh giá bằng đơn vị Haugh là mối quan hệ giữa chiều cao lòng trắng đặc và khối lượng trứng. Đơn vị Haugh càng cao thì chất lượng trứng

14

càng tốt. Đơn vị Haugh bị ảnh hưởng bởi thời gian bảo quản trứng, tuổi gia cầm mái (gà càng già trứng có đơn vị Haugh càng thấp), bệnh tật, nhiệt độ, thay lông (sau thay lông đơn vị Haugh cao hơn trước thay lông) và giống. Ngô Giản Luyện (1994) cho biết kết quả nghiên cứu của Xargava (1977) ở trứng ấp có chất lượng lòng trắng tốt cần có đơn vị Haugh từ 75 – 90.Nguyễn Huy Đạt và cs. (2001) cho biết trứng gà Lương Phượng Hoa có chỉ số Haugh ở 38 tuần tuổi đạt 94,4 và 60

tuần tuổi đạt 91,1.

- Chất lượng lòng đỏ

Lòng đỏ là tế bào trứng của gia cầm có dạng hình cầu, đường kính khoảng35 – 40mm và được bao bọc lớp màng lòng đỏ rất mỏng. Màng có tính đàn hồi vừa giữ cho tế bào trứng ở dạng hình cầu, vừa có tính thẩm thấu chọn lọc để thực hiện việc trao đổi chất giữa lòng trắng trứng và lòng đỏ; chất lượng lòng đỏ được xác định thông qua chỉ số lòng đỏ, chỉ số lòng đỏ là tỷ số chiều cao lòng đỏ và đường kính của nó, trứng có chỉ số lòng đỏ cao sẽ cho kết quả ấp nở cao. Chỉ số lòng đỏ biến đổi còn phụ thuộc vào mùa vụ, tuổi gia cầm, sức sản xuất và điều kiện nuôi dưỡng. Theo Ngô Giản Luyện (1994) chỉ số lòng đỏ của trứng gà tươi là 0,40 – 0,42. Theo Nguyễn Quý khiêm (2003) – trích dẫn theo Lê Thị Nga (2005) chỉ số lòng đỏ giảm còn 0,33 chứng tỏ lòng đỏ đã bị biến dạng.

Theo Card và Nesheim - dẫn theo Ngô Giản Luyện (1994), chỉ số lòng đỏ

của trứng gà khoảng 0,4 – 0,42.

Hệ số di truyền chất lượng lòng đỏ là 0,43 (Marco, 1982) – trích theo Bạch Thị Thanh Dân (1998) vì vậy nếu được chọn lọc nó sẽ cho kết quả ấp nở cao. Chỉ số lòng đỏ ít biến đổi hơn lòng trắng, nó bị giảm còn 0,25 – 0,29 nếu tăng nhiệt độ môi trường và bảo quản lâu.

Chất lượng lòng đỏ còn có một chỉ tiêu cần xác định đó là tỷ lệ lòng trắng/lòng đỏ, chỉ tiêu này càng hẹp chất lượng trứng càng tốt. Tỷ lệ lý tưởng giữa lòng trắng và lòng đỏ từ 1,8 – 2,0. Orlov (1974) – Trích theo Bạch Thị Thanh Dân (1998) cũng cho biết trứng có tỷ lệ lòng trắng/lòng đỏ nhỏ hơn 2 cho kết quả ấp nở tốt.

Màu sắc của lòng đỏ phụ thuộc vào lượng sắc tố trong máu, lượng caroten trong thức ăn. Nói chung, màu lòng đỏ ổn định trong suốt thời gian đẻ nếu thay đổi thành phần và khẩu phần ăn. đặc biệt là khẩu phần nhiều caroten thì màu lòng đỏ cũng thay đổi đậm hơn. Tuy nhiên màu sắc không biểu hiện đầy đủ thành phần dinh dưỡng của lòng đỏ mà chỉ là đặc điểm hấp dẫn người tiêu dùng.

15

2.2.4. Sắc chất trong thức ăn và màu của lòng đỏ trứng

+ Bổ sung sắc chất trong thức ăn để làm tăng đậm độ màu của lòng đỏ

trứng, của da gà, màu của tôm, cá ...

+ Sắc chất dùng làm thức ăn bổ sung hầu hết thuộc nhóm carotenoid như: Xanthophyll, Cryptoxanthin, Zeaxanthin, Canthaxanthin, Astaxanthin

Citranaxanthin...

Hiệu quả tạo màu của sắc chất carotenoid đối với sản phẩm động vật (ví dụ như trứng gia cầm) phụ thuộc vào hai yếu tố, đó là khả năng tích lũy sắc chất

trong lòng đỏ trứng và màu của sắc chất đó.

- Hiệu quả tích lũy của sắc chất trong lòng đỏ trứng khác nhau theo với

carotenoid, Ví dụ: apo-este thức ăn có thể tích lũy được 40 - 50% trong lòng đỏ

trứng, nhưng tỷ lệ này đối với lutein (hay Zeaxanthin) và Canthaxanthin chỉ đạt

lần lượt 12 - 20% và 35 - 45%. Nói chung hàm lượng sắc chất trong thức ăn tăng

lên thì hàm lượng sắc chất trong trứng cũng tăng lên.

- Màu của sắc chất carotenoid chính là độ dài bước sóng của nó, độ dài

bước sóng của carotenoid dùng để tạo màu lòng đỏ trứng rơi vào khoảng 400-

600nm, trong phổ màu từ vàng đến đỏ mà mắt người có thể nhìn thấy được.

Lutein, Zeaxanthin và apo-este là các carotenoid có màu vàng (bước sóng λ=445

- 450nm), còn Canthaxanthin là carotenoid có màu đỏ (bước sóng λ=468 -

470nm).

Sự hình thành màu trong lòng đỏ trứng gia cầm diễn ra theo hai pha. pha

bão hòa và pha màu.

Ở pha bão hòa có sự tích lũy carotenoid vàng để tạo nền vàng. Một khi nền

vàng đã được thiết lập thì khi thêm carotenoid đỏ (Canthaxanthin) sẽ làm màu

biến đổi sang đỏ-da cam trong pha màu. Đáp ứng màu theo liều lượng carotenoid

đỏ bổ sung vào thì mạnh hơn là carotenoid vàng. Do vậy, để tạo màu lòng đỏ

trứng có hiệu quả về chi phí cần kết hợp cả hai loại carotenoid vàng và đỏ.

Cũng có một số yếu tố khác chi phối đến màu của lòng đỏ trứng:

- Thức ăn chứa nhiều peroxit (do mỡ bị ôi) có ảnh hưởng xấu đến độ bền

của carotenoid trong nghiên cứu In vivo và In vitro.

- Hàm lượng Ca thức ăn cao cũng có ảnh hưởng xấu đến kết quả tác động

của sắc chất. cho nên chỉ dùng Ca đến mức độ tối đa cho phép.

16

- Mycotoxin thức ăn có thể làm giảm carotenoid trong huyết thanh và làm

giảm độ đậm màu của lòng đỏ trứng.

- Hàm lượng viatmin A cao hơn 15.000IU/kg thức ăn làm giảm hấp thu

carotenoid. do vậy làm giảm độ đậm màu của lòng đỏ trứng.

- Các bệnh như Salmonellosis, Newcastle, cầu trùng hay những bệnh truyền

nhiễm khác làm tổn hại niêm mạc ống tiêu hóa, làm giảm hấp thu carotenoid. Sự

hấp thu carotenoid hòa tan trong mỡ cũng giảm do axit mật tiết ít và như vậy

cũng ảnh hưởng đến tác động của sắc chất.

- Axit Linoleic chứa trong dầu sẽ cải thiện tác động của sắc chất, vitamin E

và các chất chống oxy hóa có tác dụng bảo vệ sắc chất và tăng độ hấp thu của sắc

chất (theo Vũ Duy Giảng, 2007).

2.3. MỘT SỐ YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN SỨC ĐẺ TRỨNG CỦA GIA CẦM

Sức đẻ trứng của gia cầm chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau, mỗi

yếu tố ảnh hưởng đến sức đẻ trứng ở mức độ nhất định. Một số yếu tố chính ảnh

hưởng đến sức đẻ trứng của gia cầm như các yếu tố di truyền cá thể, giống, dòng

gia cầm, tuổi, chế độ dinh dưỡng, điều kiện ngoại cảnh (Bùi Hữu Đoàn, 2006).

+ Các yếu tố di truyền cá thể:

Sức đẻ trứng: là một tính trạng số lượng có lợi ích kinh tế quan trọng của

gia cầm với con người. Có 5 yếu tố di truyền ảnh hưởng đến sức đẻ trứng của gia

cầm: tuổi thành thục sinh dục, cường độ đẻ trứng, tính nghỉ đẻ, thời gian kéo dài

chu kỳ đẻ trứng sinh học và tính ấp bóng.

Tuổi thành thục sinh dục là một yếu tố năng suất trứng và có liến quan đến

sức đẻ trứng của gia cầm. Thành thục sớm cũng là một tính trạng mong muốn. tuy

nhiên cần phải chú ý đến khối lượng cơ thẻ. Tuổi bắt đầu đẻ và kích thước cơ thể

có tương quan nghịch. Chọn lọc theo hướng tăng khối lượng trứng sẽ làm tăng

khối lượng cơ thể gà và làm tăng tuổi thành thục sinh dục. Tuổi thành thục sinh

dục của cá thể được xác định thông qua tuổi đẻ quả trứng đầu tiên. Tuổi thành thục

của một nhóm hay một đàn gia cầm được xác định theo tuổi đạt tỷ lệ đẻ 5%.

Thể trạng và độ dài ngày chiếu sáng ảnh hưởng đến khả năng thành thục

sinh dục, những gà thuộc giống có tầm vóc nhỏ thì phần lớn bắt đầu đẻ trứng

sớm hơn những giống gà có tầm vóc lớn.

17

Ngoài ra, tuổi thành thục sinh dục sớm hay muộn phụ thuộc vào giống, loài, giới tính, thời gian nở ra trong năm… Gà hướng trứng tuổi thành thục sớm hơn gà hướng thịt. Thời gian gà đẻ mạnh là vào những ngày ngắn của mùa thu đông, điều đó cũng nói lên rằng thời gian chiếu sáng trong ngày ảnh hưởng đến tuổi thành thục sinh dục. Theo Đặng Hữu Lanh và cs. (1999).cho biết, hệ số di truyền của tính trạng này là h2 = 32. Cường độ đẻ trứng là sức đẻ trứng trong một thời gian ngắn. Cường độ đẻ trứng thường được xác định theo khoảng thời gian 30 - 60 ngày và 100 ngày. Các tác giả này còn cho biết, đối với các giống gà chuyên trứng cao sản thường có cường độ đẻ trứng lớn nhất vào tháng thứ hai và ba sau đó giảm dần đến hết năm đẻ. Cường độ đẻ trứng là sức đẻ trứng trong một thời gian ngắn. Theo Card L.E. Nesheim (1970) cho rằng, cường độ đẻ trứng thường được xác định theo khoảng thời gian 30 - 60 ngày và 100 ngày. Các tác giả này còn cho biết, đối với các giống gà chuyên trứng cao sản thường có cường độ đẻ trứng lớn nhất vào tháng thứ hai và ba sau đó giảm dần đến hết năm đẻ. Nguyễn Mạnh Hùng và cs. (1994) cùng nhiều tác giả khác cho biết, sự tương quan rất chặt chẽ giữa cường độ đẻ trứng của 3 - 4 tháng đầu tiên với sức đẻ trứng cả năm. Vì vậy, người ta thường dùng cường độ đẻ trứng ở 3 - 4 tháng tuổi đầu tiên để dự đoán sức đẻ trứng của gia cầm mà ghép đôi và chọn lọc giống. Cường độ đẻ trứng còn liên quan mật

thiết với thời gian hình thành trứng và chu kỳ đẻ trứng.

Thời gian nghỉ đẻ: ở gà, thường có hiện tượng nghỉ đẻ trong một thời gian. có thể kéo dài trong năm đầu đẻ trứng, từ vài ngày tới vài tuần, thậm chí kéo dài 1 - 2 tháng. Thời gian nghỉ đẻ thường vào mùa đông. nó có ảnh hưởng trực tiếp đến sản lượng trứng cả năm. Gia cầm thường thay lông vào mùa đông nên thời gian này gà nghỉ đẻ. Trong điều kiện bình thường, lúc thay lông đầu tiên là vào thời điểm quan trọng để đánh giá gà đẻ tốt hay xấu. Những đàn gà thay lông sớm, thời gian bắt đầu thay lông từ tháng 6 - 7 và quá trình thay lông diễn ra chậm, kéo dài 3 - 4 tháng là những đàn gà đẻ kém. Ngược lại, có những đàn gà thay lông muộn, thời gian thay lông bắt đầu từ tháng 10 –11, quá trình thay lông diễn ra nhanh là đàn gà đẻ tốt. Đặc biệt ở một số đàn gà cao sản, thời gian nghỉ đẻ chỉ 4 - 5 tuần và lại đẻ ngay khi chưa hình thành xong bộ lông mới. Có con gà đẻ

ngay trong thời kỳ thay lông.

Thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học: chu kỳ đẻ trứng sinh học liên quan đến thời vụ nở của gia cầm non. Tuỳ thuộc vào thời gian nở mà sự bắt đầu và kết thúc của chu kỳ đẻ trứng sinh học có thể xảy ra trong thời gian khác nhau

18

trong năm. Thường ở gà, chu kỳ đẻ trứng kéo dài 1 năm; ở gà tây, vịt, ngỗng chu kỳ này ngắn hơn và theo mùa. Chu kỳ đẻ trứng sinh học có mối tương quan thuận với tính thành thục sinh dục, nhịp độ đẻ trứng, sức bền đẻ trứng và chu kỳ đẻ trứng. Giữa tuổi thành thục và thời gian kéo dài chu kỳ đẻ trứng sinh học có

mối tương quan nghịch rõ rệt.

Tính ấp bóng hay bản năng đòi ấp trứng: đây là phản xạ không điều kiện có liên quan đến sức đẻ trứng của gia cầm. Trong tự nhiên, tính ấp bóng giúp gia cầm duy trì nòi giống. Bản năng đòi ấp rất khác nhau giữa các giống và các dòng. Các dòng nhẹ cân có tần số thể hiện bản năng đòi ấp thấphơn các dòng nặng cân, gà Leghorn và gà Goldline hầu như không còn bản năng đòi ấp. Bản năng đòi ấp là một đặc điểm di truyền của gia cầm, nó là một phản xạ nhằm hoàn thiện quá trình sinh sản. Song với thành công trong lĩnh vực ấp trứng nhân tạo, để nâng cao sản lượng trứng của gia cầm cần rút ngắn và làm mất hoàn toàn bản năng ấp trứng. Bởi vì bản năng ấp trứng là một yếu tố ảnh hưởng đến sức bền đẻ trứng và

sức đẻ trứng.

Các yếu tố di truyền cá thể phụ thuộc vào các gen khác nhau và ảnh hưởng ở mức độ khác nhau đến sức đẻ trứng. Muốn nâng cao sức đẻ trứng qua một số ít thế hệ phải bắt đầu chọn lọc trên cả 5 yếu tố nói trên.

+ Giống, dòng gia cầm

Giống, dòng gia cầm có ảnh hưởng rất lớn đến sức sản xuất trứng của gia cầm. Các giống khác nhau có khả năng đẻ trứng là khác nhau: giống gà Kabir sản lượng trứng trung bình là 195quả/mái/năm. gà Brown nick sản lượng trứng trung bình là 300 quả/mái/năm. Các giống gà được chọn lọc theohướng chuyên trứng thường có sản lượng trứng cao hơn các giống gà kiêm dụng và các giống gà chuyên thịt, các giống gà nội thường có sản lượng trứng thấp hơn so với các

giống gà nhập ngoại.

+ Tuổi gia cầm

Tuổi gia cầm cũng liên quan đến năng suất trứng. Sản lượng trứng của gà giảm dần theo tuổi. Thường thì sản lượng năm thứ 2 giảm 15 - 20% so với năm thứ nhất (Nguyễn Thị Mai và cs., 2009). Một số loại gia cầm như vịt và ngỗng

thì sản lượng trứng năm thứ 2 cao hơn năm thứ nhất.

+ Chế độ dinh dưỡng

Thức ăn và dinh dưỡng có quan hệ chặt chẽ với khả năng để trứng. Muốn

19

gia cầm có sản lượng trứng cao, chất lượng trứng tốt thì phải đảm bảo một khẩu phần ăn đầy đủ và cân bằng chất dinh dưỡng theo nhu cầu. Quan trọng nhất là cân bằng giữa năng lượng và protein, cân bằng các axit amin, cân bằng các chất

khoáng và vitamin.

Thức ăn có chất lượng kém sẽ không thể cho năng suất cao, thậm chí còn gây bệnh cho gia cầm. Các loại thức ăn bảo quản không tốt bị nhiễm nấm mốc, các loại thức ăn bị nhiễm độc kim loại nặng, thuốc bảo vệ thực vật... Thậm chí các loại thức ăn bảo đảm đầy đủ và cân bằng các chất dinh dưỡng nhưng bảo quản không tốt cũng sẽ không phát huy được tác dụng trong chăn nuôi gia cầm

(Nguyễn Thị Mai và cs., 2009).

+ Điều kiện ngoài cảnh

Các yếu tố ngoại cảnh như nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng, mùa vụ... ảnh hưởng

rất lớn tới sức để trứng của gia cầm.

Mùa vụ có ảnh hưởng rõ rệt đến sức đẻ trứng của gia cầm, ở nước ta, vào mùa hè sức đẻ trứng giảm xuống so với mùa xuân.,đến mùa thu thì sức đẻ trứng

của gà lại tăng lên.

Nhiệt độ môi trường xung quanh có liên quan mật thiết tới sản lượng trứng của gia cầm. Nhiệt độ thích hợp cho gà đẻ trứng là 18-240C. Nếu nhiệt đọ dưới giới hạn thì gia cầm phải huy động năng lượng để chống rét và nhiệt độ cao trên nhiệt độ giới hạn thì cơ thể gia cầm phải thải nhiệt. Nhiệt độ môi trường cao làm giảm lượng thức ăn thu nhận, giảm hiệu quả sử dụng thức ăn từ đó làm giảm năng suất trứng và chất lượng trứng (Nguyễn Thị Mai và cs., 2009). Vỏ trứng mỏng hơn bình thường nếu kết hợp với dinh dưỡng không hợp lý thì gia cầm đẻ

trứng không có vỏ.

Liên quan chặt chẽ với nhiệt độ là độ ẩm không khí của chuồng nuôi. Độẩm thích hợp từ 65 - 70%. Độẩm thấp sẽ làm lượng bụi trong chuồng nuôi tăng lên. đây là một tác nhân gây bệnh đường hô hấp. Ngược lại, độ ẩm cao là điều kiện thuận lợi cho các loại vi sinh vật gây bệnh phát triển. Nhất là các bệnh đường tiêu hoá. Độ ẩm cao kết hợp với nhiệt độ cao sẽ gây stress nóng ẩm rất bất lợi với gia cầm, làm khả

năng đẻ trứng, chất lượng trứng giảm và giảm hiệu quả chăn nuôi.

Ngoài nhiệt độ và độ ẩm, chế độ chiếu sáng cực kỳ quan trọng trong chăn nuôi gia cầm nói chung và gà đẻ trứng nói riêng. Gia cầm không chỉ cần ánh sáng để nhìn và tìm thức ăn, nước uống, nơi ở... mà nó còn khởi động cơ quan

20

sinh dục. Theo Nguyễn Thị Mai và cs. (2009) võng mạc và não bộ của gia cầm rất nhạy cảm với kích thích của ánh sáng. Cơ chế dẫn truyền kích thích của ánh sáng là cơ chế thần kinh - thể dịch mà tuyến yên là trung tâm truyền dẫn, chỉ những ánh sáng có bước sóng dài mới đi qua được. Vì vậy muốn kích thích cơ quan sinh dục, cần sử dụng ánh sáng ấm với nhiều màu đỏ và cam. Ánh sáng tác động đến sức đẻ trứng từ hai khía cạnh là thời gian chiếu sáng và bản chất của ánh sáng. Khi sử dụng chế độ chiếu sáng trong chuồng nuôi gà, không chỉ đảm bảo thời gian và cường độ chiếu sáng mà còn phải chú ý đến màu sắc cúa ánh sáng. Nếu muốn kích thích gà ăn nhiều, hoạtđộng tìm ổ đẻ hiệu quả, tránh đẻ rơi trứng trên sàn đối với gà đẻ thì nên sử dụng ánh sáng trắng lạnh với nhiều màu xanh. Cần tăng cường ánh sáng đỏ đối với gà mái đẻ nhất là giai đoạn chuẩn bị vào đẻ (giai đoạn tiền đẻ trứng). Yêu cầu của gà đẻ về thời gian chiếu sáng là từ 12 - 16 giờ/ngày, cường độ chiếu sáng 10.8 lux đủ cho năng suất trứng cao nhất. Trong chăn nuôi gà đẻ, có thể sử dụng ánh sáng tự nhiên hoặc nhân tạo để chiếu

sáng cho gà với cường độ chiếu sáng từ 3 - 3.5WW/m2 (Ron Meijerhof, 2006).

2.4. MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CỦA RONG MƠ (SARGASSUM SPP.)

2.4.1. Giới thiệu về rong mơ

Rong mơ là một giống tảo lớn (macroalgae) thuộc bộ rong đuôi ngựa (Fucales). ngành rong nâu, họ rong mơ (Sargassaceae). Rongmơ mọc ở những vùng biển ấm nóng, trên nền đá vôi, san hô chết, nơi sóng mạnh và nước trong, nhất là ven các đảo. Rong mơ phân bố rộng ở các vùng biển nước ta, kéo dài từ vùng biển Quảng Ninh đến Kiên Giang. Chúng mọc từ phía trên của mức nước trung bình thấp của con nước, thường đến độ sâu từ 2 - 4m, điều kiện độ mặn khoảng 30–32‰, nhiệt độ khoảng 25–300C. Sinh trưởng trung bình từ 2000 - 4000g/m2, tuy nhiên, ở một số vùng như ở Hòn Chồng, Nha Trang có thể đạt đến 7000g/m2

Rong mơ có thân dạng trụ gần tròn. màu từ xanh ô liu. vàng đến nâu, dài từ0,7-1,2m, có nhiều mấu lỗi nhỏ nhưng có khi mọc dài đến một vài mét bao gồm một chân bám, một bộ cuống dài phân nhánh và bộ lá mang theo các túi sinh dục (noãn, phấn). Nơi một số loài mọc ra nhiều túi khí hình cầu giúp cây đứng thẳng nhờ đó bộ lá dễ dàng quang hợp. Nơi một số loài khác có thân khá

nhám để bấu vào nhau nhằm giữ cho cây khỏi bị cuốn trôi nơi dòng chảy mạnh.

Nhánh chính trụ dẹp, các nhánh thứ cấp trụ tròn, dài 5-6cm, mọc theo kiểu lông chim không theo quy luật về hai phía của nhánh chính, trên đó mọc ra nhiều chùm nhánh bên nhỏ, ngắn. Lá hình bầu dục dài hay dạng kim lớn, số lượng nhiều,

21

đặc biệt là phần ở gốc; thường chia nhánh, dài 3,5-6,5cm, rộng 3-8mm; mép nhẵn hay có răng cưa, đôi khi có răng cưa kép, có ổ lông, có gân giữa. Túi khí hình cầu

hay hình bầu dục tròn. đường kính 2-3mm, có cuống hình trục, dài 3-8mm.

Rong mơ là loài có kích thước cá thể lớn và trữ lượng cao nhất trong các loài rong biển Việt Nam. Rong mơ mọc trên tất cả các loài vật bám cứng, trên các vách đá dốc đứng, các bãi đá tảng, các vùng có đá ngầm hay rạn san hô ngầm, nhưng thích nghi nhất là trên vật bám đá san hô. Trên các bờ đá dốc đứng. chúng phân bố thành đai hẹp ở dưới mức triều thấp đến sâu khoảng 0,5 m. Ở các bờ biển đá tảng nằm trên nền cát hay đá cuội, chúng mọc thành quần thể dày, phân bố tương đối đều, mật độ khi rong trưởng thành có thể đạt 10 cá thể/dm2, cho nên vào mùa phát triển của chúng rất ít các loài rong biển khác có thể mọc chen được vào trong quần thể rong này. Đa số các loài rong đều thích mọc nơi có sóng mạnh. Ở các đảo, bờ phía Đông chúng mọc dày và phong phú hơn bờ phía Tây. Ở các bãi đá hướng ra biển khơi, chúng phát triển mạnh và sinh lượng cao hơn nhiều so với các bãi rong trong các vũng, vịnh yên sóng. Các bãi rong trên bờ biển dốc, thềm san hô chết, đá vôi đóng vai trò quan trọng trong nguồn lợi của rong mơ. nhiều vùng rộng 30 – 50 ha hay hàng trăm ha, kéo dài vài chục km,

thường gặp ở ven biển miền Trung. nhất là từ Quảng Ngãi đến Bình Thuận.

Mùa vụ rong mơ có sự sai khác chút ít tùy thuộc từng loài. nơi phân bố, tùy các điều kiện môi trường sống… nhưng nhìn chung qui luật về mùa vụ khá rõ rệt. Chúng tăng trưởng rất mạnh từ tháng 2 đến tháng 3, đa số các loài có kích thước tối đa vào tháng 3, 4 và hình thành các cơ quan sinh sản, sau đó sẽ bị sóng nhổ tấp vào bờ và tàn lụi. Đến tháng 7 hầu hết các loài rong đều trơ trụi. Một số loài mọc lên cao hoặc phân bố lên cao (vùng triều thấp) như: Sargassum mcclur,Sargassum polystum phát triển và tàn lụi sớm (tháng 4). Trong khi đó các loài mọc vùng dưới triều như Sargassum binderi,Sargassum microcystum… mọc chậm hơn, đến tháng 6, 7 đôi nơi vẫn còn các quần thể rong này. Một vài loài thích nghi trong các vũng, vịnh yên sóng có thể tồn tại và phát triển tốt vào tháng

7 như Sargassum polycystum và Sargassum longicaulis.

Rong trưởng thành và phóng thích giao tử vào các tháng 3, 4, 5 vào thời điểm này, kích thước của rong đạt đến tối đa và sinh lượng cao nhất. Các đặc điểm này rất quan trọng, phù hợp và có lợi cho việc khai thác nguồn lợi từ tháng 4 trở đi. Việc khai thác đúng mùa vụ hoàn toàn có khả năng bảo vệ nguồn giống tự nhiên. giúp cho rong tái phát triển lại vào mùa sau. Ngoài ra việc khai thác

22

bằng cách cắt cách gốc rong từ 10cm giúp cho một số nhánh còn sót lại vẫn tiếp tục phát triển tạo ra các cơ quan sinh sản. Các bãi rong mơ mọc trên thềm san hô chết có diện tích rộng lớn, mật độ dày, sinh lượng cao (trên 12kg rong tươi/m2) rất quan trọng với nguồn lợi, tìm thấy ở các tỉnh Quảng Ninh, Quảng Ngãi, Bình Định, Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận. Các bãi rong rộng lớn nằm gần trục giao thông rất thuận lợi cho việc khai thác và vận chuyển. Sản lượng hàng

năm ước tính có thể đạt 10.000 tấn rong tươi.

2.4.2. Cấu trúc quần thể, vùng tập trung phân bố và vấn đề nuôi trồng, thu hoạch của rong mơ vùng bờ biển Việt Nam

Theo nghiên cứu của Nguyễn Hữu Đại (1997), nhiều nơi, rong hình thành

nên những thảm rong dày đặc, rất nhiều bãi có diện tích 30-50ha, một số bãi có

diện tích lên tới 100ha, kéo dài hàng chục km như ở Quảng Ninh, Khánh Hòa,

Ninh Thuận. Sinh lượng rong trung bình đạt 7kg tươi/m2. Tại vùng Hòn Chồng

(Nha Trang – Khánh Hòa), 15.000 tấn rong khô/năm. Cũng theo nghiên cứu của ông. trong thời gian trưởng thành của rong, có tới 10 cá thể/dm2.

Các vùng có khả năng khai thác lớn nhất nguồn lợi rong mơ tự nhiên theo

thứ tự là: Khánh Hòa (Vịnh Nha Trang, Vịnh Cam Ranh, Vịnh Văn Phong – Hòn

Khói). Bình Định (Qui Nhơn – Phù Mỹ), Ninh Thuận, Đà Nẵng, Quảng Nam,

Phú Yên...

Rong mơ phân bố dọc bờ biển nước ta. khu vực miền Trung và phía

Nam. rong mơ tập trung chính tại các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên

Huế, Quảng Nam, QuảngNgãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh Thuận,

Bình Thuận, Vũng Tàu,Kiên Giang.

Bảng 2.1. Diện tích rong Mơ theo vùng biển các tỉnh Nam Trung Bộ

Các địa danh Năng suất sinh lượng (kg/m2) Mùa vụ (tháng)

Vùng biển Khánh Hòa có diện tích rong Mơ mọc cao nhất, tổng diện tích lên đến 2 000 000m2, sinh lượng khá cao có thể lên tới hơn 5,5 kg/m2, trữ lượng có thể khai thác hàng năm ước tính hơn 11 000 tấn rong tươi.

23

Quảng Nam – Đà Nẵng Bình Định Khánh Hòa Ninh Thuận Diện tích (m2) 190.000 42.750 2.000.000 1.500.000 2 – 7 2.5 5.5 7 3-4-5 3-4-5 3-4-5 3-4-5

Theo kết quả khảo sát của Bùi Minh Lý (Viện Nghiên cứu và Ứng

dụng Công nghệ Nha Trang) cho thấy rong Mơ là loài chiếm ưu thế nhất ở các

khu vực với trữ lượng chiếm 98% tổng trữ lượng của các bãi rong, mật độ cây

trung bình 43,8 ± 20,2 cây/m2 và sinh lượng trung bình đạt 456 ± 642g khô/m2.

Diện tích phân bố rong Mơ tại Khánh Hòa ước tính là 1 167 33 ha, trữ lượng 7

30212 tấn khô/năm, tập trung ở 4 khu vực chính: Vịnh Vân Phong, đầm Nha

Phu, vịnh Nha Trang, vịnh Cam Ranh. Số lượng loài ưu thế tạo nên sinh lượng

lớn ở các điểm khảo sát là 21 loài. Trong đó có loài Sagarssum mcclurei có tần

suất xuất hiện cao trên 95%, thường thấy ở phần lớn các bãi triều ven bờ với độ

sâu từ 1 đến 6m.

2.4.3. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của rong Mơ

Rong mơ chứa 10-15% muối vô cơ (trong đó có nhiều iod 0,05-0,25%,

asen, kali), 0,2-0,6% lipid, 5-15% protein và rất nhiều algin hay acid alginic.

Hàm lượng protein trong rong Mơ không cao, chỉ từ 5-15% so với trọng

lượng khô. Lượng protein này không chỉ phụ thuộc vào loài mà còn phụ thuộc

vào quá trình phát triển của cá thể, điều kiện sống của rong, cách phơi sấy, bảo

quản rong nguyên liệu, Rong mơ chứa 17 loại axit amin thiết yếu. Vì vậy protein

của rong mơ có tính dinh dưỡng cao hơn các protein của các cây trồng trên cạn.

Hàm lượng lipid chỉ chiếm một phần nhỏ so với các chất hữu cơ khác có

trong rong. Rong mơ có tới 28 loại axit béo chủ yếu là axit palmitic, axit linoleic,

axit oleic với khoảng 0,2-0,6% so với trọng lượng khô.

Thành phần quan trọng nhất trong rong là các gluxid, gồm nhóm

monosaccarid và polysaccarid. Nhóm monosaccarrid gồm các đường đơn với tỷ

lệ khác nhau như mannitol, galactose, manose, xylose...nhóm polysaccarid gồm

có alginat, laminaran, fucoidan, cellulose...trong đó thành phần hoá học quan

trọng nhất là alginat, Laminarin chiếm 10-15%, có khi tới 43%; fucoidan chiếm

khoảng 4%, có khi tới 20%. Dạng chủ yếu của alginat trong rong là các sợi calci

và magie alginat không tan, giúp tạo độ rắn chắc cho tế bào. Phần nhầy vô định

hình bao quanh dạng sợi chủ yếu là alginat tan trong nước hoặc fucoidan. Hàm

lượng alginat trong rong chiếm khoảng 19-44%. So với hàm lượng của các loài

rong nâu trên thế giới thì hàm lượng này của rong mơ Việt Nam khá cao.

Các chất khoáng có mặt trong rong với tỷ lệ tùy thuộc vào từng loài, nơi

phân bố và giai đoạn phát triển. Tổng lượng khoáng theo trọng lượng khô dao

24

động từ 20-40%. Ngoài các nguyên tố phổ biến như K, Na, Ca, Mg... rong mơ

Việt Nam cũng có khả năng tích tụ nguyên tố stronti khá cao. Hàm lượng iod

khoảng 0,05-0,25%. Ngoài ra còn có chất diệp lục và một số chất khác.

Giá trị dinh dưỡng của rong mơ là cung cấp đầy đủ các khoáng chất đặc

biệt là các nguyên tố vi lượng, các acid amin cần thiết cho cơ thể, các loại

vitamin, các carbohydrate đặc trưng và các hoạt chất sinh học có lợi cho cơ thể,

đồng thời có khả năng phòng và trị bệnh. Theo số liệu nghiên cứu của Nhật Bản

trong rong mơ có chứa các vitamin sau đây (miligam %): tiền vitamin A

(caroten)-1,1; A – 622; B1 – 0,53; B2 – 0,41; acid nicotin- 1,6; acid folic – 0,14;

B12 – 0,0033 và ascorbic – 28. Rong mơ có hàm lượng lipid rất thấp (ít hơn 2%).

Nhưng acid licozopentae khá cao tới 20 ÷ 25% tổng số lượng các acid béo, trong

rong biển còn tìm thấy nhiều fucosterol và nhiều nguyên tố vi lượng khác. Trong

rong mơ có chứa nhiều Iod hữu cơ rất có giá trị trong y học.

2.4.4. Ứng dụng của rong mơ

Các sản phẩm hữu cơ từ rong mơ ngày nay được sử dụng hết sức rộng rãi

trong các ngành như: thực phẩm, dược phẩm, mỹ phẩm, công nghiệp dệt, nông

nghiệp. công nghệ sinh học và nghiên cứu khoa học.

Các polysaccharide từ rong mơ được coi là những hợp chất hữu cơ không

thể thay thế trong nhiều lĩnh vực công nghiệp khi được sử dụng như chất tạo

đông. làm đặc. chất ổn nhũ và chất ổn định. Giá trị công nghiệp của rong mơ là

cung cấp các chất keo rong quan trọng như: Agar, Alginate, Carrageenan.

Fucryllanzan… dùng cho thực phẩm và nhiều ngành công nghiệp khác. Khoảng

20% sản lượng rong biển Thế giới được dùng để sản xuất các loại keo rong, chế

biến thức ăn cho vật nuôi và làm phân bón, số còn lại chủ yếu được dùng làm

thức ăn cho người (Ohno and Critchley. 1997). Năm 1870 người ta điều chế xà

phòng từ các chất K2O. Na2O lấy từ rong biển (rong mơ), phát hiện trong rong

mơ có chứa Iod. từ đó người ta dùng nguyên liệu rong mơ để điều chế Iod và

được dùng làm thuốc phòng chống và chữa bệnh bướu cổ (Basedow).

2.5. CÁC NGHIÊN CỨU VỀ RONG MƠ Ở VIỆT NAM

Ở nước ta, rong mơ phân bố dọc bờ biển, chủ yếu ở khu vực miền Trung và phía Nam, chúng tập trung chính tại các tỉnh: Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, QuảngNgãi, Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Ninh

Thuận, Bình Thuận, Vũng Tàu, Kiên Giang.

25

Khi nghiên cứu về thành phần loài và phân bộ họ rong Mơ tại khu vực ven

đảo Hải Vân-Sơn Chà - tỉnh Thừa Thiên Huế, Hồ Thị Thu Hoài và cs. (2012),

thấy rằng, họ rong Mơ (Sargassaceae) có 7 loài thuộc 2 chi: Sargassum,

Turbinaria chiếm 70% tổng số loài trong ngành rong Nâu. Chi Sargassum có số

loài phong phú nhất rong họ rong mơ (5 loài) trong khi chi Turbinaria chỉ xác

định được 2 loài, trong đó, rong Mơ xuất hiện đến 8/9 điểm khảo sát. Loài có tần

xuất xuất hiện cao ở các điểm thu mẫu là Sargassum swartzii,Sargassum

feldmannii là loài chỉ thấy xuất hiện ở vùng biển phía Nam bán đảo. Đa số các

điểm khảo sát định lượng rong Mơ đều có độ che phủ từ bậc 4- đến bậc 5, với giá

trị trung bình % diện tích che phủ từ 37,5 – 75 % diện tích. Vùng có độ phủ rong

Mơ lớn thường tập trung ở vùng giữa phía Bắc bán đảo trong đó vùng biển phía

Nam bán đảo và các điểm độ phủ của rong Mơ trở nên nghèo nàn hơn.

Trong số các loài rong biển đã được xác định, ngoài một số loài có sản

lượng thấp (K, cottonii, K, enerme) hoặc có giá trị kinh tế cao (Eucheuma

arnoldii và Betaphycus gelatinum, rong Đông) được sử dụng làm thực phẩm

(Porphyra, Gelidiella acrosa, Kappaphycus và Gracilaria, Ulva, Caulerpa

racemosa…), dược phẩm và chế biến công nghiệp như các loại rong Câu

(Gracilaria arcuata, G, tenuistipitata, G, firma, G, salicornia, G, bailiniae,

Hydroputia edulis, H, eucheumomatoides, H, divergens, H, ramulosa), nhận thấy

rằng, có một số loài có năng suất cao, sản lượng lớn, phân bố rộng rãi trong tự

nhiên ở nhiều vùng biển từ Bắc vào Nam, có tiềm năng lớn mà không hoặc ít

cạnh tranh với thực phẩm, dược phẩm, công nghiệp chế biến có thể thu hoạch,

chế biến sử dụng làm thức ăn phục vụ phát triển chăn nuôi nhưrong Mơ

(Sargassum Spp).

Theo Nguyễn Hữu Dinh và cs. (1993), ở những vùng biển đáy đá, rong tập

trung cao nhất tại phần trên của đới dưới triều, ở đây, các loài ưu thế đều thuộc

giống rong Mơ, hình thành những dải hay “rừng” rậm rạp, Rong Mơ sinh trưởng

khá tốt, kích thước tới vài ba mét. Trên diện tích một mét vuông mật độ rong Mơ

đạt đến 200-300 bụi và cho sản lượng bình quân gần 1,0 kg trọng lượng khô. Trữ

lượng chung của rong Mơ thuộc vùng biển nước ta được đánh giá khoảng 30.000

– 35.000 tấn, trong đó riêng loài Sargassum meclurei chiếm 30% trữ lượng. Nơi

có tiềm năng lớn nhất là Quảng Ninh (trên 12.000 tấn) và vùng biển từ Ninh

Thuận đến Khánh Hòa -15.000 tấn.

26

glaucescens,S,graminifolium,

duplicatum],S,

[=

S,

Theo Titlyanov E.A. và cộng sự, biển Việt Nam có thể tìm thấy hơn 50 loài mơ, trong đó trữ lượng lớn nhất có các loài S,carpophyllum,S, rassifolium,S, S, cristaefolium henslowianum,S, mcclurei, S, oligocystum,S, polycystum,S,vachellianum, nguồn dự trữ lớn nhất của Sargassum tập trung ở phía Bắc ở vịnh Bắc bộ, ở miền Trung và ven bờ biển phía Nam Việt Nam và ở vịnh Thái Lan.

Theo Đặng Thị Diễm Hồng và cs. (2007), rong Mơ loại Sargassummcclurei khai thác tại Bãi Tiên – Nha Trang có hàm lượng các chất dinh dưỡng theo chất khô như sau: protein khoảng 7,6%, trong đó có mặt 17 axit amin với hàm lượng tổng số là 5804,7 mg/g chất khô, trong đó, các axit amin thiết yếu như lysine, methionine, threonine, leucine, isoleucine, phenyllalanine, valine… tương ứng là: 346,9; 110,8; 320,7; 546,9; 309,7; 345,8; 378,5 mg/g chất khô.

Hàm lượng các chất dinh dưỡng khác trong rong Mơ Sargassum mcclurei như lipit thô là 1,2%; carbonhydrat là 39,1%; xơ thô là 11,5%, bên cạnh đó, loài rong Mơ này có hàm lượng carotenoid đạt 36,2µg/g chất tươi; hàm lượng vitamin A là 0,96µg/g chất tươi, vitamin C–98,5; niacin và vitamin nhóm B đạt

6,7 µg/g chất tươi.

Rong Mơ cũng rất giàu các nguyên tố khoáng, khoáng tổng số khá cao – đạt 38,1%, trong đó, hàm lượng khoáng đại lượng K, Na, Mg, Ca trong Sargassummcclurei lần lươt là: 1,25; 1,98; 1,78; 9,76% trong chất khô, Một số nguyên tố khoáng vi lượng trong Sargassummcclurei như iod, sắt, và coban với hàm lượng lần lượt là 590,01; 1301,00; 6,52 µg/g chất khô – là cao nhất trong các loại rong được khảo sát (Ulva reticulata, Caulerpa racemosa, Gelidiella acerosa, Laurencia obtusa, Gracilaria tenuistipitata, Hypnea valentiae, Porphyra crispata,Kappaphycus alvarezii). Hàm lượng các nguyên tố khoáng vi lượng khác như Mn, Zn, Cu và Mo cũng khá cao, lần lượt là: 159,42; 9,76; 33,92; 10,92 và

41,32 µg/g chất khô.

Khi xác định thành phần hóa học và các hoạt chất sinh học trong rong biển, các nhà khoa học cũng tìm thấy trong rong Mơ Sargassummcclurei chứa lượng lớn Chlorophyll a, b và c với hàm lượng lần lượt là 170,0; 39,7 và 31,9 µg/g chất tươi.

Về phương diện sử dụng, hiện nay ở nước ta chưa có các thống kê và số liệu chính xác về tình hình khai thác, sử dụng rong mơ. Nhiều vùng ven biển, rong thường được khai thác và dùng làm phân bón cho các loài cây như thuốc lá, khoai lang, hành, tỏi…

27

Sau khi khảo sát tình hình sử dụng rong của cư dân ở các vùng ven biển, hải đảo nước ta. Nguyễn Văn Tiến (1994) nhận định: việc sử dụng rong Mơ làm thức ăn gia súc được một số người dân ven biển, hải đảo dùng nhưngđa phần vẫn dùng rong ở dạng tươi làm thức ăn cho gia súc như một nguồn cung cấp khoáng

và các nguyên tố vi lượng quan trọng, phụ gia cho thức ăn gia súc.

Việc nghiên cứu rong Mơ làm thức ăn chăn nuôi cũng đã được Viện Chăn nuôi quốc gia bước đầu nghiên cứu, Sau khi được xác định thành phần hóa học, giá trị dinh dưỡng, bột rong Mơ được xếp vào nhóm Bột cỏ trong thức ăn cho lợn và gia cầm, theo đó, bột rong Mơ có 83,5% chất khô, với 5,9% protein thô, lipit thô khá thấp với 0,4%, hàm lượng xơ -10,5%, kết quả nghiên cứu bước đầu cho thấy khoáng tổng số trong bột rong Mơ là khá cao- 32,7% với 3,0% canxi, 0,31% photpho, dẫn xuất không nitơ là 34,0% với mức năng lượng trao đổi 980,8kcal/kg ở gia cầm và 1233 kcal/kg ở lợn (Viện Chăn nuôi Quốc gia. 2001), Tuy nhiên, theo Singh K.S và Panda B. 1988 (Viện Chăn nuôi Quốc gia. 2001) thì các loại bột cỏ như cỏ alfalfa, cỏ hòa thảo, bột lá lạc, bột lá sắn... chỉ nên sử

dụng tối đa 5% trong khẩu phần cho gà thịt sinh trưởng.

Về phương diện làm thuốc chữa bệnh, hiện nay cũng chưa có các công trình nghiên cứu một cách toàn diện về việc sử dụng rong Mơ làm thuốc mà chỉ có một số hiệu thuốc Đông y bán rong khô như một loại dược thảo, theo đó, việc sử dụng cũng khá đơn giản: rong Mơ được ngâm vào nước nóng và uống như trà để

chữa bệnh bướu cổ và cung cấp các nguyên tố vi lượng khác.

Về phương diện sử dụng làm nguyên liệu phục vụ công nghiệp, ở nước ta rong Mơ từng được sử dụng để sản xuất alginate sử dụng trong công nghiệp dệt, nhuộm, tuy nhiên, do chưa có công nghệ tốt nên sản phẩm không đảm bảo chất

lượng nên không có sức cạnh tranh.

28

PHẦN 3. NỘIDUNGVÀ PHƯƠNG PHÁPNGHIÊN CỨU

3.1.ĐỐI TƯỢNG, ĐỊA ĐIỂM VÀ THỜI GIAN THÍ NGHIỆM

3.1.1. Đối tượng nghiên cứu

- Bột rong mơ được sản xuất từ rong tươi, khai thác từ vùng biển Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Sau khi được khai thác từ biển, rong Mơ tươi được rửa bằng nước ngọt và phơi trong giàn có mái che trong một ngày rồi được sấy khô

trong buồng sấy ở nhiệt độ 65oC, sau đó được làm nguội và nghiền bột.

- Đàngà mái đẻ trứng thương phẩm thuộc giống Ai Cập từ tuần tuổi thứ

20đến tuần tuổi thứ 36.

3.1.2. Địa điểm nghiên cứu

- Gia trại chăn nuôi của gia đình ông Nguyễn Hữu Nghĩa, xã Yên Hậu, Yên

Phong, Bắc Ninh.

3.1.3. Thời gian nghiên cứu

Thí nghiệm được tiến hành từ tháng 02/2016 đến tháng 05/2016.

3.2.NỘI DUNG

- Xác định thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của bột rong Mơ khai

thác từ vùng biển tỉnh Khánh Hòa.

- Đánh giá hiệu quả sử dụng bột rong Mơ trong khẩu phần của gà đẻ trứng

thương phẩm.

Để tiến hành nội dung này chúng tôi tiến hành trên đàn gà thí nghiệm và theo dõi đánh giá các chỉ tiêu: Tỷ lệ đẻ trứng (%), Năng suất trứng (quả/mái) và

các chỉ tiêu chất lượng trứng như sau:

+ Khối lượng trứng (g/quả);

+ Chỉ số hình thái;

+ Tỷ lệ lòng đỏ (%).

+ Tỷ lệ lòng trắng (%);

+ Màu sắc lòng đỏ;

+ Đơn vị Haugh;

+ Độ dày vỏ trứng (mm);

29

+ Tỷ lệ dập, vỡ (%).

+ Tiêu tốn thức ăn trên 10 quả trứng (hoặc trên 1kg trứng) (kg TĂ/10 quả trứng).

3.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

3.3.1. Xác định thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của rong Mơ khai thác từ vùng biển các tỉnh miền Trung

- Mẫu bột rong Mơ được sản xuất từ rong tươi khai thác được từ tự nhiên trong mùa thu hoạch rong vào tháng 6 đến tháng 7 tại vùng biển tỉnh Khánh Hòa.

Phương pháp lấy mẫu theo TCVN 4325 : 2007.

- Tại phòng thí nghiệm, phân tích các mẫu thu thập được để đánh giá thành

phần. giá trị dinh dưỡng với các chỉ tiêu sau:

+ Độ ẩm: sử dụng TCVN 4326:2001 (ISO 6496:1999) (Animal feeding

stuffs – Determination of moisture and other volatile matter content).

+ Hàm lượng protein thô theo TCVN 4328-1:2007 (ISO 5983-1:2005) - Phương pháp Kjeldahl (Animal feeding stuffs – Determination of nitrogen

content and calculation of crude protein content – Part 1: Kjeldahl method).

+ Hàm lượng lipit: theo TCVN 4331:2001 (ISO 6492:1999) (Animal

feeding stuffs – Determination of fat content).

+ Hàm lượng xơ thô: theo TCVN 4329:2007 (ISO 6865:2000). Phương pháp có lọc trung gian (Animal feeding stuffs – Determination of crude fibre

content – Method with intermediate filtration).

+ Hàm lượng tro thô: theo TCVN 4327:2007 (ISO 5984:2002) (Animal

feeding stuffs – Determination of crude ash).

+ Hàm lượng canxi: theo TCVN 1526-1:2007 (ISO 6490-1:1985). Phương pháp chuẩn độ (Animal feeding stuffs – Determination of calcium content – Part

1: Titrimetric method).

+ Hàm lượng phospho: theo TCVN 1525:2001 (ISO 6491:1998). Phương pháp quang phổ (Animal feeding stuffs – Determination of phosphorus content – Spectrometric method).

+ Hàm lượng khoáng vi lượng Fe, Cu, Zn, Mn được phân tích bằng phương

pháp quang phổ hấp thụ nguyên tử (AAS).

Fe: AAS02 – Base on 152/2009/EEC(v)

Cu: AAS09 – Based on 152/2009/EEC(v)

30

Zn: AAS11 – Based on 152/2009/EEC(v)

Mn:AAS10 – Based on 152/2009/EEC(v)

+ Xác định hàm lượng các axit amin trong bột rong Mơ bằng phương pháp

sắc ký lỏng cao áp (HPLC). H.HD.QT.046.

3.3.2. Đánh giá hiệu quả sử dụng bột rong Mơ trong khẩu phần của gà đẻ trứng thương phẩm. 3.3.2.1. Phương pháp xác định các chỉ tiêu theo dõi

+ Thiết kế thí nghiệm: Chọn 360 gà mái Ai Cập 20 tuần tuổi bắt đầu vào đẻ chia đều thành 4 lô (một lô đối chứng – ĐC và ba lô thí nghiệm –TN).Chế độ chăm sóc. nuôi dưỡng gà ở các lô như nhau. chỉ khác nhau thức ăn: lô đối chứng (ĐC) không sử dụng bột rong Mơ trong thức ăn. Với 3 lô thí nghiệm (TN1, TN2, TN3). bột rong biển được đưa vào thức ăn với tỷ lệ lần lượt là 4%, 5% và 6%.

Thời gian thí nghiệm – 16 tuần. Sơ đồ thí nghiệm như sau:

Bảng 3.1. Sơ đồ bố trí thí nghiệm:

Chỉ tiêu ĐC TN1 TN2 TN3

Số gà thí nghiệm

Bảng 3.2. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của thức ăn thí nghiệm được trình bày ở bảng sau:

Số lần lặp lại Thời gian thí nghiệm (tuần) Giống gà Bột rong Mơ trong TĂ(%) 90 (30x3) 3 16 Ai Cập 0 90 (30x3) 3 16 Ai Cập 4 90 (30x3) 3 16 Ai Cập 5 90 (30x3) 3 16 Ai Cập 6

TN3 Chỉ tiêu ĐC TN1 TN2

2751 2748 2749 2752 Năng lượng trao đổi (ME) kcal/kg

17,25 Protein (%) 17,26 17,25 17,25

3,53 Chất béo (%) 3,51 3,54 3,55

3,25 Xơ thô (%) 3,26 3,24 3,24

3,58 Canxi (%) 3,56 3,59 3,57

0,59 Phospho tổng số (%) 0,58 0,59 0,60

0,43 Phospho hữu dụng (%) 0,42 0,42 0,43

0,92 Lysine (%) 0,90 0,92 0,93

31

0,36 Methionine (%) 0,36 0,36 0,37

- Tỷ lệ đẻ trứng:Hàng ngày đếm chính xác số trứng đẻ ra và số gà ở mỗi lô

thí nghiệm. Tỷ lệ đẻ được tính theo công thức:

Tỷ lệ đẻ (%) =

× 100

Số trứng đẻ ra trong tuần (quả) Số mái có mặt bình quân trong tuần (con)

- Năng suất trứng qua các tuần đẻ (quả/mái/tuần):

Là số trứng đẻ ra trên số mái nuôi cho đẻ trong khoảng thời gian quy định.

Năng suất trứng được tính theo công thức:

Năng suất trứng =

Số trứng đẻ ra trong tuần (quả) Số mái có mặt bình quân trong tuần (con)

- Tỷ lệ trứng dập vỡ: hàng ngày, đếm chính xác số trứng đẻ ra vị dập, vỡ

vỏ, vỏ mềm, mỏng… Tỷ lệ trứng dập vỡ được tính theo công thức:

Tỷ lệ trứng dập vỡ (%) =

× 100

Số trứng dập vỡ trong tuần (quả) Tổng số trứng đẻ ra trong tuần (quả)

- Tỷ lệ trứng dị hình: trứng dị hình là những quả trứng có hình dạng không

bình thường (to quá, nhỏ quá, méo, tụ canxi từng đám ở vỏ…). Hàng ngày đếm chính xác số lượng trứng này. Tỷ lệ trứng dị hình được tính theo công thức:

Tỷ lệ trứng dị hình (%) =

× 100

Số trứng dị hình trong tuần (quả) Tổng số trứng đẻ ra trong tuần (quả)

- Hiệu quả sử dụng thức ăn

Trong giai đoạn gà đẻ trứng, hiệu quả sử dụng thức ăn được đánh giá bằng tiêu tốn thức ăn để sản xuất 1kg trứng (1kg TTTA/kg trứng) và 10 quả trứng

(TTTA/10 quả trứng). HQSDTA được tính theo công thức:

Tiêu tốn Protein/10 quả trứng:

TĂTN x Hàm lượng Protein trong TĂ

Số trứng đẻ ra (quả)

TT Protein/10 quả trứng =

Tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng:

TTTA kg/10 quả trứng =

x 10

Số kg thức ăn sử dụng (kg) Số trứng đẻ ra (quả)

+ Một số chỉ tiêu chất lượng trứng:

Để đánh giá chất lượng trứng, chúng tôi tiến hành khảo sát trứng ở tuần tuổi

32

thứ 30. Khảo sát 120 quả trứng, chọn mỗi lô ngẫu nhiên 30 quả trứng để đánh giá các chỉ tiêu chất lượng trứng. Chọn trứng có khối lượng dao động quanh khối lượng trung bình của giống, tránh những quả dập vỡ, dị hình, dị dạng. Trứng

khảo sát không quá 48h kể từ khi đẻ ra.

+ Độ dày vỏ trứng (mm):

Độ dày vỏ trứng bằng trung bình cộng của độ dày vỏ (sau khi bóc hết màng) tại 3 điểm: đầu lớn, đầu nhỏ và đường xích đạo được đo bằng panme có

độ chính xác ± 0,01mm.

- Khối lượng trứng (g/quả): cân trứng qua các tuần tuổi, mỗi tuần cân 1 lần vào ngày cuối tuần. Mỗi lô cân 30 quả. Cân từng quả một, bằng cân kỹ thuật có

độ chính xác ± 0,01g.

- Chỉ số lòng đỏ. chỉ số lòng trắng:

Dùng thước điện tử 3 chân để xác định chiều cao lòng trắng đặc. Đường kính lòng đỏ; đường kính lòng đỏ, đường kính lòng trắng được đo bằng thước

Palme có độ chính xác ±0,01mm.

h

Chỉ số lòng đỏ =

d

Trong đó: h là chiều cao lòng đỏ (mm)

d là đường kính lòng đỏ (mm)

2h

Chỉ số lòng trắng =

D+d

Trong đó:

h là chiều cao lòng trắng đặc

D là đường kính lớn lòng trắng đặc

d là đường kính nhỏ lòng trắng đặc

- Đơn vị Haugh:

Được tính theo công thức của Haugh (1937) trên cơ sở quan hệ giữa khối

lượng trứng và chiều cao lòng trắng đặc Hu = 100 lg (H + 7,57 – 1,7 W0,37)

Trong đó

Hu: Đơn vị Haugh

H: Chiều cao lòng trắng đặc (mm) W: Khối lượng trứng (g)

Đánh giá chất lượng trứng theo đơn vị Haugh có 4 mức như sau:

33

Từ 80-100 chất lượng trứng rất tốt.Từ 65-79 chất lượng trứng tốt. Trung

bình là từ 64-65 và mức xấu là <55.

- Xác định màu của lòng đỏ: màu của lòng đỏ được đánh giá bằng cách so màu theo thang màu chuẩn của hãng Roche. Quạt màu gồm 15 dải màu, được đánh số thứ tự từ 01 – 15, các dải màu được phân bố theo màu sắc từ nhạt đến đậm.

Trứng có thang màu càng cao thì lòng đỏ càng đậm.

- ME(kcal/kgVCK) = 3951 + 54,4CL – 88,7CF – 40,8KTS

CL(%): Hàm lượng chất béo thô

CF(%): Hàm lượng xơ thô

KTS(%): Hàm lượng khoáng tổng số

3.3.3. Phương pháp phân tích số liệu

Số liệu được thu thập trên bảng tính Excel (Microsof Excel, 2010) và được xử lý thống kê trên phần mềm Minitab version 16. Các tham số được tính toán:

số trung bình (Mean), độ lệch chuẩn (SD) và so sánh sai khác theo giá trị P.

34

PHẦN 4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN

4.1. XÁC ĐỊNH THÀNH PHẦN HÓA HỌC VÀ GIÁ TRỊ DINH DƯỠNG CỦA BỘT RONG MƠ

Để tiến hành xây dựng khẩu phần ăn cho gà thí nghiệm, chúng tôi tiến hành lấy mẫu bột rong mơ được sản xuất từ rong tươi khai thác từ vùng biển vịnh Nha Trang, Khánh Hòa trong vụ tháng 6-7 năm 2015 để tiến hành phân tích, xác định thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng. Kết quả được trình bày ở bảng 4.1 là

giá trị trung bình của hai lần phân tích lặp lại.

Bảng 4.1. Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của bột rong Mơ

Chỉ tiêu Đơn vị Hàm lượng

Kết quả thu được cho thấy hàm lượng protein thô và lipit thô trong rong

Mơ khá thấp, theo số liệu chúng tôi thu được chỉ lần lượt là 4,03% và 0,1%.

Theo Đặng Thị Diễm Hồng và cs. (2007). Rong Mơ loại Sargassummcclurei

khai thác tại Bãi Tiên – Nha Trang có hàm lượng protein và lipit thô lần lượt là

7,6% trong chất khô thì kết quả của chúng tôi thu được là thấp hơn. tương tự vậy.

theo kết quả công bố của Viện Chăn nuôi quốc gia (2001) thì các chỉ tiêu này ở

bột rong Mơ lần lượt là 5,9 và 0,4% thì kết quả của chúng tôi cũng là thấp hơn.

Thành phần hóa học và giá trị dinh dưỡng của các loại thực vật nói chung và của

rong Mơ nói riêng phụ thuộc nhiều vào giai đoạn sinh trưởng và phát triển, giá trị

35

Độ ẩm Protein thô Lipit thô Xơ thô Khoáng TS Muối (NaCl) Canxi Phôtpho Sắt Đồng Mangan Kẽm % % % % % % % % Ppm Ppm Ppm Ppm 12,72 4,03 0,10 12,52 35,36 7,65 2,01 0,10 535,15 3,65 181,79 20,88

dinh dưỡng giảm dần khi thực vật già đi, theo khuyến cáo của các trung tâm

khuyến ngư. rong Mơ là nguồn lợi tự nhiên giúp cho cân bằng hệ sinh thái biển

và là nơi trú ẩn. đẻ trứng của nhiều loại động vật biển, vì vậy, không được khai

thác rong Mơ khi còn non mà để đảm bảo khả năng tái tạo của chúng, chỉ khai

thác sau khi rong ra phóng noãn, do vậy, trong thí nghiệm này rong được thu

hoạch vào tháng 6-7 khi rong đã dần chuyển sang màu vàng mơ (khi non rong

mơ có màu xanh), có lẽ vì đó mà hàm lượng các chất dinh dưỡng đã dần giảm đi

nên kết quả có thấp hơn kết quả của các công bố này.

Kết quả thu được cho thấy, với độ ẩm của bột rong 12,72% là rất thích hợp

để làm nguyên liệu cho sản xuất thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh cho gia súc, gia

cầm. Tuy nhiên, kết quả thu được cũng cho thấy với hàm lượng muối khá cao

7,65% trong bột rong, có lẽ cũng là một trở ngại để sử dụng trong thức ăn gia

súc, gia cầm với tỷ lệ cao.

Kết quả thu được cũng cho thấy, hàm lượng khoáng tổng số của rong Mơ

lại khá cao – 35,36%, trong đó canxi là 2,01% cao gấp khoảng 2,5 lần trong bột

thân lá quả đậu tương (0,87%) hoặc cao gấp gần 10 lần trong bột cỏ Stylo. Đây là

một ưu điểm của bột rong mà có thể phát huy tác dụng tích cực khi được sử dụng

trong thức ăn cho các loại gia súc, gia cầm trong các giai đoạn có nhu cầu canxi

cao nhưgiai đoạn sinh trưởng, đẻ trứng, các vật nuôi trong giai đoạn tiết sữa.

Hàm lượng các nguyên tố sắt, đồng, mangan và kẽm trong rong biển rất

cao mà không phải loại thực vật trên cạn nào cũng đạt được, với hàm lượng sắt

đạt 535,15 mg/kg (ppm) là cao hơn nhiều so với bột cỏ alfalfa 17% protein thô

(480pm).

Hàm lượng mangan của bột rong Mơ là 181,79 ppm – cao gấp 6 lần ở bột

cỏ linh lăng (alfalfa) (30 ppm). Tuy nhiên. hàm lượng kẽm là 20,88 ppm và đồng

là 3,65 ppm của bột rong Mơ thì thấp hơn so với bột cỏ alfalfa 17% protein thô

(hai chỉ số này tương ứng là 24 và 10 ppm). Như vậy, đây có thể coi là nguồn

khoáng vi lượng rất đáng kể cho vật nuôi nếu bột rong Mơ được sử dụng trong

thức ăn của chúng.

Ngoài ra, rong Mơ chứa 12,52% xơ thô vì vậy, theo Viện chăn nuôi Quốc

gia (2001). rong Mơ được xếp vào cùng nhóm với các loại bột cỏ khác như bột lá

keo dậu. cỏ Stylo. bột lá sắn làm thức ăn cho gia cầm.

36

Để xác định hàm lượng các axit amin trong bột rong Mơ. chúng tôi tiến hành định lượng 17 loại axit amin nhờ phương pháp sắc ký lỏng cao áp (HPLC).

Kết quả được trình bày ở bảng 4.2.

Bảng 4.2. Hàm lượng các axit amin của bột rong Mơ

Chỉ tiêu

Đơn vị

Hàm lượng

Lysine Methionine Leucine L-leucine Phenylalanine Valine Threonine Glycine Glutamic axit Histidine Arginine Serine Alanine Proline Cysteine Tyrosine Aspartic axit

% % % % % % % % % % % % % % % % %

0,17 0,05 0,30 0,21 0,25 0,26 0,28 0,22 0,25 0,10 0,17 2,44 0,19 0,19 0,08 0,14 0,40

Kết quả từ bảng 4.2 cho thấy, do bột rong Mơ có hàm lượng protein thấp - 4,03% nên hàm lượng các axit amin không được cao, cụ thể là hàm lượng lysine là 0,17%. theo NRC (1994) chỉ số này của bột cỏ linh lăng (Alfalfa) 17% protein là 0,73% thì hàm lượng lysine của rong Mơ thấp hơn khoảng 4 lần nhưng do protein thô của rong Mơ cũng thấp hơn bột cỏ này đến hơn 4 lần nên tỷ lệ

lysine/protein của 2 loại bột này là tương đương nhau.

Kết quả thu được cũng cho thấy. hàm lượng methionine của bột rong mơ cũng khá thấp – chỉ là 0,05%, nếu so với bột cỏ linh lăng 17% protein thô (hàm lượng methionine là 0,24%) thì hàm lượng methionine của bột rong mơ thấp hơn

gần 5 lần.

37

Hàm lượng serine của bột rong Mơ là 2,44%, đây là chỉ số rất cao, nếu so với

bột cỏ linh lăng 17% (theo NRC. 1994 hàm lượng serine chỉ là 0,72%) thì serine

trong rong mơ cao gấp 3,4 lần. Cũng theo NRC (1994) serine là axit amin cần thiết

đối với gia cầm nuôi thịt, nhu cầu tổng glycine và serine trong thức ăn của chúng

tùy theo độ tuổi dao động từ 0,97-1,25%, như vậy, hàm lượng serine cao cũng là

một ưu điểm của bột rong Mơ. Theo Featherston (1976), mặc dù gia cầm có thể

tổng hợp được glycine nhưng không đủ để thỏa mãn sinh trưởng tối đa. Serine có

thể được chuyển hóa thành glycine trên cơ sở cân bằng phân tử, vì vậy, các nhà

dinh dưỡng đã đưa ra mối quan hệ qua lại giữa hai axit amin này, trong đó. như

chúng ta đã biết, glycine là một trong các axit amin rất quan trọng với gia cầm non

vì vậy, là nguyên liệu có hàm lượng serine cao sẽ giúp rong Mơ có những ưu điểm

khi đưa vào sử dụng trong thức ăn cho gà đẻ trứng thương phẩm.

4.2. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG BỘT RONG MƠ TRONG KHẨU

PHẦN CỦA GÀ

4.2.1. Tỷ lệ đẻ bình quân của các lô qua các tuần tuổi

Trong chăn nuôi gà sinh sản đặc biệt là gà đẻ trứng thương phẩm thì tỷ lệ

đẻ là một trong những chỉ tiêu được người chăn nuôi rất quan tâm. Tỷ lệ đẻ là

thước đo đánh giá năng suất trứng của gà sinh sản. Đối với một giống gà tỷ lệ đẻ

cao. thời gian đẻ kéo dài là kết quả của quá trình chăm sóc nuôi dưỡng hợp lý.

Đảm bảo thức ăn cân bằng các chất dinh dưỡng thoả mãn đủ nhu cầu sinh lý,

sinh sản của gà cũng như thực hiện tốt công tác chăm sóc sức khoẻ dẫn đến năng

suất trứng cao. Ở gà cũng như các loại gia cầm khác, với tỷ lệ đẻ thấp ở các tuần

đầu, sau đó tăng dần đạt tới đỉnh cao trong các tháng đẻ thứ 2, thứ 3 và tiếp tục

giảm dần, tỷ lệ đẻ thấp ở cuối chu kỳ đẻ.

Đểtheo dõi được chỉ tiêu này, hàng ngày chúng tôi tiến hành nhặt trứng.

Quá trình nhặt trứng được chia làm 4 lần trong ngày, nhặt và xếp riêng số trứng

ở mỗi lô đến cuối ngày tiến hành đếm và ghi chép cẩn thận số trứng ở mỗi lô.

Kết quả theo dõi tỷ lệ đẻ của đàn gà thí nghiệm được trình bày ở bảng 4.3.

38

Bảng 4.3. Tỷ lệ đẻ của gà thí nghiệm qua các tuần tuổi (%)

Tuần tuổi ĐC TN1 TN2 TN3

20 3,49 3,33 3,65 3,33

21 22 10,16 31,27 10,32 30,95 11,11 31,59 10,95 31,11

23 24 40,32 48,10 41,43 50,32 41,90 51,11 41,43 50,63

25 26 50,95 58,25 51,27 59,84 52,22 60,63 51,75 59,84

27 28 64,29 67,62 65,08 69,84 65,87 70,32 63,49 69,52

29 30 69,52 70,79 70,48 71,43 71,11 72,06 70,63 70,95

31 32 69,84 68,41 70,95 69,37 71,27 69,52 69,84 69,05

33 34 67,94 67,14 68,10 67,62 68,57 67,62 68,41 67,14

35 36

Ghi chú: các giá trị trong cùng một hàng không mang chữ cái giống nhau thì sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

39

TB 64,76 61,59 53,79b 65,24 62,86 54,61ab 65,08 63,65 55,13a 64,76 62,54 54,43ab

Bảng 4.3 là kết quả theo dõi 16 tuần đẻ trứng của đàn gà nghiên cứu: kết quả cho thấy tỷ lệ đẻ của các lô thí nghiệm với các mức sử dụng bột rong mơ khác nhau cũng tuân theo quy luật chung của quá trình đẻ trứng. Ở những tuần đầu, tỷ lệ đẻ đạt thấp sau đó tăng nhanh ở những tuần sau và đạt đỉnh cao ở tuần thứ 30, với lô TN2 (5% bột rong mơ) đạt 72,06%, Lô TN1 (4%) là 71,43%, Riêng lô ĐC (0% bột rong mơ) tuổi đạt đỉnh cao ở tuần thứ 30 là 70,79%. Sau khi đạt đỉnh cao, từ tuần thứ 31 trở đi thì tỷ lệ đẻ ở các lô thí nghiệm đều giảm dần, Đến tuần thứ 36 thì tỷ lệ đẻ của gà giảm rõ rệt, Tỷ lệ đẻ giảm xuống thấp nhất là ở lô ĐC (61,59%), sau đó là lô TN3 (62,54%) và đến lô TN1 (62,86%) giảm ít nhất là lô TN2 (63,65%). So sánh giữa 4 lô thí nghiệm với nhau chúng tôi thấy, trong 16 tuần khai thác (20 - 36 tuần tuổi), tỷ lệ đẻ trung bình của gà ở lô TN2 là cao nhất (55,13%), tiếp đến là lô TN1 (54,61%), thấp nhất là lô ĐC (53,79%). Từ kết quả trên cho thấy sử dụng rong mơ đã có tác dụng làm tăng tỷ lệ đẻ của gà.Chúng tôi quan sát thấy không có sự sai khác về tỷ lệ đẻ giữa lô TN1,TN2 và lô TN3, Tuy nhiên, có sự sai rất rõ rệt giữa lô ĐC với 3 lô còn lại (P<0,05). Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Mười (2006), tỷ lệ đẻ của gà Ai Cập là trung bình là 60,08% cao hơn kết quả nghiên cứu của chúng tôi. Tỷ lệ

đẻ của đàn gà qua các tuần tuổi được thể hiện qua hình 4.1.

Hình 4.1. Tỷ lệ đẻ của gà thí nghiệm qua các tuần tuổi

40

Qua hình 4.1 chúng tôi thấy tỷ lệ đẻ của lô ĐC thấp hơn so với lô TN1 và

lô TN2 ngay ở những tuần đẻ đầu tiên và khi đã đạt tỷ lệ đẻ cao nhất thì những

lô có sử dung bột rong mơ có tỷ lệ đẻ ổn định hơn.

4.2.2. Năng suất trứng của gà thí nghiệm

Đối với gà mái, tỷ lệ đẻ và năng suất trứng là hai chỉ tiêu quan trọng nhất

để đánh giá sức sản xuất của chúng. Đây là chỉ tiêu phản ánh chất lượng đàn

giống cũng như trình độ chăm sóc, nuôi dưỡng của các cơ sở giống (Bùi Hữu

Đoàn và cs., 2009), Năng suất trứng có hệ số di truyền thấp h2 = 0,2 - 0,3 nên

chỉ tiêu này phụ thuộc nhiều vào điều kiện ngoại cảnh, chế độ chăm sóc, nuôi

dưỡng. Ở điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng, chế độ ăn khác nhau, gà mái có tỷ lệ

đẻ và năng suất trứng khác nhau. Để minh chứng rõ hơn về điều này, chúng tôi

tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của việc sử dụng rong mơ vào khẩu phần ăn của

gà đẻ đến năng suất trứng, kết quả được trình bày ở bảng 4.4. Qua bảng 4.4 cho

thấy: năng suất trứng của gà ở các lô thí nghiệm cũng tuân theo quy luật thấp ở

những tuần đẻ đầu, sau đó đạt đỉnh cao và giảm dần đến kết thúc chu kỳ đẻ

trứng. Trong suốt quá trình theo dõi, chúng tôi thấy năng suất trứng của 3 lô sử

dụng rong mơ luôn có xu hướng cao hơn so với lô đối chứng không sử dụng

rong mơ. Ba lô sử dụng rong mơ có năng suất trứng đạt đỉnh cao ở tuần tuổi 30

(cao nhất là lô TN2 5,04 quả/mái/tuần; tiếp theo là lô TN1 5,00 trứng/mái/tuần,

lô ĐC năng suất trứng đỉnh cao ở tuần tuổi 30 chỉ đạt 4,96 quả/mái/tuần).

Ở những tuần tiếp theo, năng suất trứng giảm dần và có sự chênh lệch khá

lớn giữa các lô, Giảm thấp nhất là lô ĐC (4,31 quả/mái/tuần), sau đó là lô TN3

(4,38 quả/mái/tuần), lô TN2 là 4,46 quả/mái/tuần.

Năng suất trứng trung bình của lô ĐC chỉ đạt 3,77 quả/mái/tuần thấp hơn

so với lô TN1 đạt 3,82 quả/mái/tuần và cao nhất là lô TN2 đạt 3,86 quả/mái/tuần.

Sự sai khác về chỉ tiêu này giữa lô ĐC và 2 lô TN có ý nghĩa thống kê (P<0,05).

41

Bảng 4.4. Năng suất trứng của gà thí nghiệm

NST (quả/mái/tuần) NST lũy kế (quả/mái)

Tuần ĐC TN 1 TN2 TN3 ĐC TN 1 TN2 TN3

0,24±0,02 0,23±0,00 0,26±0,02 0,23±0,03 20 0,24 0,23 0,26 0,23

0,71±0,05 0,72±0,02 0,78±0,02 0,77±0,03 21 0,95 0,95 1,04 1,00

2,19±0,02 2,17±0,03 2,21±0,02 2,18±0,02 22 3,14 3,12 3,24 3,18

2,82±0,05 2,90±0,03 2,93±0,03 2,90±0,07 23 5,96 6,02 6,18 6,08

3,37±0,07 3,52±0,05 3,58±0,08 3,54±0,10 24 9,33 9,54 9,76 9,62

3,57±0,07 3,59±0,02 3,66±0,14 3,62±0,11 25 12,9 13,13 13,41 13,24

4,08±0,05 4,19±0,05 4,24±0,12 4,19±0,13 26 16,98 17,32 17,66 17,43

4,50±0,07 4,56±0,05 4,61±0,04 4,44±0,10 27 21,48 21,88 22,27 21,88

4,73±0,13 4,89±0,04 4,92±0,10 4,87±0,12 28 26,21 26,77 27,19 26,74

4,87±0,06 4,93±0,03 4,98±0,15 4,94±0,08 29 31,08 31,70 32,17 31,69

4,96±0,04 5,00±0,07 5,04±0,12 4,97±0,10 30 36,04 36,70 37,21 36,66

4,89±0,08 4,97±0,06 4,99±0,10 4,89±0,17 31 40,93 41,67 42,2 41,54

4,79±0,04 4,86±0,05 4,87±0,07 4,83±0,12 32 45,72 46,52 47,07 46,38

4,76±0,05 4,77±0,10 4,8±0,12 4,79±0,13 33 50,48 51,29 51,87 51,17

4,70±0,03 4,73±0,09 4,73±0,09 4,70±0,15 34 55,18 56,02 56,60 55,87

4,53±0,10 4,57±0,10 4,56±0,07 4,53±0,09 35 59,71 60,59 61,16 60,40

36 64,02 64,99 65,61 64,78 4,46±0,10

Ghi chú: các giá trị trong cùng một hàng không mang chữ cái giống nhau thì sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

42

4,31±0,10 3,77b 4,40±0,09 3,82ab 3,86ª 4,38±0,07 3,81ab TB

So sánh năng suất trứng luỹ kế giữa 4 lô thí nghiệm chúng tôi thấy qua 16

tuần khai thác năng suất trứng luỹ kế của lô TN2 sử dụng 5% rong mơ là cao

nhất: 65,61 quả/mái, sau đó đến lô TN1 sử dụng 4% rong mơ: 64,99 quả/mái,

thấp nhất là lô ĐC: 64,02 quả/mái. Từ những kết quả thu được chúng tôi có nhận

xét việc sử dụng rong mơ trong khẩu phần của gà đẻ thương phẩm đã làm tăng

sản lượng trứng, tăng cao nhất là lô bổ sung 5% rong mơ. Nguyễn Thị Mai và cs.

(2009) cho biết gà hướng trứng đạt tỷ lệ đẻ 5% ở tuần tuổi 18 – 22 và tuần tuổi

đạt tỷ lệ đẻ đỉnh cao từ tuần tuổi 27 – 29 thì nghiên cứu của chúng tôi là phù hợp.

Năng suất trứng còn được thể hiện qua hình 4.2.

Hình 4.2. Năng suất trứng của đàn gà qua các tuần thí nghiệm

Qua hình 4.2 cho thấy ở những tuần đầu của chu kỳ đẻ (từ tuần 20-24), năng suất trứng giữa các lô là khá đồng đều. Từ tuần 25 trở đi năng suất trứng lô TN1 và TN2 (các lô có sử dụng rong mơ trong khẩu phần ăn) cao hơn rõ rệt so

với lô không sử dụng rong mơ .

4.2.3 Khối lượng trứng bình quân của các lô thí nghiệm

Khối lượng trứng là chỉ tiêu để đánh giá sản lượng trứng tuyệt đối của gia

cầm (Nguyễn Thị Mai và cs., 2009). Đối với trứng thương phẩm, thì khối lượng

trứng là chỉ tiêu vô cùng quan trọng vì nó liên quan đến thị hiếu của người tiêu

dùng thường họ thích những quả trứng to. Trong khi đó khối lượng trứng phụ

43

thuộc vào nhiều yếu tố như loài, giống, hướng sản xuất, cá thể, chế độ dinh

dưỡng, tuổi gà mái, khối lượng gà mái. Ở nghiên cứu này chúng tôi tìm hiểu ảnh

hưởng của việc sử dụng rong mơ trong thức ăn cho gà đẻ trứng thương phẩm Ai

Cập tới khối lượng trứng.

Theo Roberts (1998) giá trị trung bình khống lượng quả trứng đẻ ra trong

một chu kỳ, là một tính trạng do nhiều gen có tác động cộng gộp quy định, nhưng

hiện còn chưa xác định rõ số lượng gen quy định tính trạng này. Sau sản lượng

trứng, khối lượng trứng là chỉ tiêu quan trọng cấu thành năng suất của đàn gia

cầm sinh sản. Khi cho lai dòng gia cầm có khối lượng trứng lớn và bé, trứng của

con lai thường có khối lượng trung gian (Khavecman, 1972).

Tính trạng này có hệ số di truyền cao. Do đó, có thể đạt được nhanh

chóng thông qua con đường chọn lọc (Kushner K.F, 1974). Ngoài các yếu tố về

di truyền, khối lượng trứng còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố: giống, chăm sóc,

nuôi dưỡng, mùa vụ, tuổi gia cầm… Trứng của gia cầm mới bắt đầu đẻ nhỏ hơn

trứng gia cầm trưởng thành từ 20 - 30%. Khối lượng trứng mang tính đặc trưng

của từng loại và mang tính di truyền cao. Hệ số di truyền của tính trạng này từ 48

- 80% (Brandsch. H. Billchel.H, 1978). Theo Nguyễn Văn Thiện (1995). hệ số di

truyền về khối lượng trứng của gà là 60 - 74%. Ý kiến của nhiều tác giả cho rằng

trong cùng một giống, dòng. Cùng một đàn, nhóm trứng có khối lượng lớn nhất

hoặc bé nhất đều cho tỷ lệ nở thấp. Trứng gia cầm non có tỷ lệ nở thấp, khối

lượng trứng cao thì sẽ kéo dài thời gian ấp nở.

Để xác định chỉ tiêu này, cứ một tuần chúng tôi tiến hành cân trứng một

lần vào ngày cuối tuần. Mỗi lô lấy ngẫu nhiên 30 quả. Cân từng quả một, cân

bằng cân kỹ thuật điện tử của Nhật Bản, độ chính xác 0,01g. Kết quả thu được

tính toán theo từng tuần qua xử lý thống kê, kết quả được trình bày ở bảng 4.5.

Quan sát một cách tổng thể, chúng tôi thấy khối lượng trứng của các lô

thí nghiệm tăng dần ở các tuần tuổi theo đúng quy luật. Sự tăng hoặc giảm khối

lượng trứng của các lô thí nghiệm là tương tự nhau.

Qua bảng 4.5 chúng tôi nhận thấy: khối lượng trứng của các lô thí nghiệm

tăng khá nhanh ở những tuần tuổi đầu của chu kỳ đẻ, Khối lượng trứng ở 20 tuần

tuổi là 32,15-32,45 g/quả, đến tuần tuổi 21 đã tăng lên 33,65-34,17 g/quả, như

vậy trong 1 tuần khối lượng trứng tăng được gần 2,0 g/quả.

44

Bảng 4.5. Khối lượng trứng (g) bình quân của các lô thí nghiệm

Tuần tuổi n ĐC TN1 TN2 TN3

20 22 32,15 ± 0,91 32,39 ± 0,88 32,45 ± 1,00 32,41 ± 0,65

21 30 33,62 ± 0,81 33,85 ± 0,75 34,17 ± 0,70 34,02 ± 0,76

22 30 35,16 ± 0,90 35,34 ± 0,83 36,43 ± 0,52 35,84 ± 0,57

23 30 37,18 ± 0,77 37,34 ± 0,87 38,02 ± 0,61 37,65 ± 0,68

24 30 38,65 ± 0,94 38,79 ± 0,85 39,31 ± 0,53 39,04 ± 0,51

25 30 40,12 ± 0,91 40,35 ± 0,75 40,78 ± 0,70 40,49 ± 0,65

26 30 40,76 ± 1,03 40,89 ± 0,81 41,15 ± 0,77 40,89 ± 0,68

27 30 40,84 ± 0,95 41,03 ± 0,80 41,48 ± 0,89 41,22 ± 0,83

28 30 41,15 ± 0,84 41,27 ± 0,77 41,74 ± 0,50 41,46 ± 0,52

29 30 41,36 ± 0,79 41,45 ± 0,81 42,04 ± 0,60 41,71 ± 0,67

30 30 41,67 ± 0,96 41,71 ± 0,74 42,35 ± 0,53 42,06 ± 0,87

31 30 41,86 ± 0,92 42,06 ± 0,74 42,66 ± 0,35 42,24 ± 0,71

32 30 42,25 ± 0,81 42,27 ± 0,77 42,87 ± 0,53 42,87 ± 0,53

33 30 42,36 ± 0,82 42,49 ± 0,53 42,98 ± 0,49 42,68 ± 0,74

34 30 42,77 ± 0,88 42,75 ± 0,73 43,05 ± 0,63 42,97 ± 0,69

35 30 42,86 ± 0,95 42,91 ± 0,85 43,21 ± 0,63 43,01 ± 0,66

36 30 42,98 ± 0,94 43,15 ± 0,75 43,37 ± 0,52 43,12 ± 0,53

45

TB 39,87 40,00 40,47 40,22

Qua 16 tuần thí nghiệm, khối lượng trứng trung bình của các lô như sau: lô ĐC (39,87g/quả); lô TN1 (40,00g/quả); lô TN2 (40,47g/quả):lô TN3 (40,22g/quả); thấp hơn so với công bố của hãng về khối lượng trứng trung bình là 47,7g/quả. Có sự sai khác giữa các lô tuy nhiên không mang ý nghĩa thống kê (P>0,05). Như vậy, việc sử dụng rong mơ không ảnh hưởng đến khối lượng trứng của gà thí nghiệm.

Với điều kiện thí nghiệm trên cùng một giống gà, tuổi đẻ như nhau, khối lượng cơ thể mẹ là tương đương nhau ở cả 4 lô thí nghiệm, thì việc bố trí các khẩu phần rong mơ khác nhau không ảnh hưởng nhiều tới khối lượng trứng,

Khối lượng trứng vẫn nằm trong mức đặc trưng của giống gà.

4.2.4. Một số chỉ tiêu về chất lượng trứng

Để đánh giá sức sản xuất trứng của gà cũng như các loại gia cầm khác thì các chỉ tiêu chất lượng trứng thường được quan tâm, bởi vì nó không chỉ mang ý nghĩa giống mà còn là giá trị thực phẩm. Cùng năng suất trứng, nhưng nếu chất lượng của nhóm nào tốt hơn, sẽ biểu thị có năng suất cao hơn về giá trị làm giống

cũng như giá trị thực phẩm.

Làm thế nào để trứng bán ra không những được người tiêu dùng chấp nhận mà còn bán được với giá thành cao là điều mà người chăn nuôi hết sức coi trọng. Để làm được điều này trứng thương phẩm cần phải có chất lượng tốt. Chất lượng trứng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như dòng, giống gia cầm, điều kiện nuôi dưỡng, chăm sóc… trong đó thức ăn là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến

chất lượng trứng.

Để đánh giá chất lượng trứng, chúng tôi tiến hành khảo sát trứng ở tuần tuổi thứ 30. Khảo sát 120 quả trứng, chọn mỗi lô ngẫu nhiên 30 quả trứng để đánh giá một số chỉ tiêu chất lượng trứng. Chọn trứng có khối lượng dao động quanh khối lượng trung bình của giống, tránh những quả dập vỡ, dị hình, dị dạng.

Trứng khảo sát không quá 48h kể từ khi đẻ ra.

Kết quả khảo sát đánh giá chất lượng trứng ở lô đối chứng được thể hiện ở

bảng 4.6.

Kết quả ở bảng 4.6 cho thấy TB khối lượng long đỏ của lô TN1 là 14,39

g, cao nhất là TN2 14,48 g và thấp thất là lô ĐC 14,30 g.

Tỷ lệ lòng đỏ của các lô TN đêu cao là 33,28%; 33,34%; 33,37% kết quả này

cao hơn với công bố của Đặng Thái Hải (2007); Nguyễn Thị Mai và cs. (2009).

46

Bảng 4.6. Một số chỉ tiêu chất lượng trứng gà thí nghiệm(n=30)

Chỉ tiêu ĐC TN1 TN2 TN3 Đơn vị

14,48 ±0,44 33,37 1,28±0,03 14,39 ±0,43 33,34 1,28±0,04 14,37 ±0,43 33,32 1,28±0,03

Ghi chú: các giá trị trong cùng một hàng không mang chữ cái giống nhau thì

sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)

Chỉ số lòng đỏ của lô ĐC, TN1 và TN3 tương đương nhau đạt 0,452,

riêng lô TN2 cao hơn đạt 0,453. Cả 4 lô TN đều có đơn vị Haugh rất tốt đạt

87,42-88,12 (Hu). Theo (Nguyễn Huy Đạt và Vũ Đài, 1989) trích theo Ngô

Giản Luyện,1994. Kết quả nghiên cứu trên 10 đời gà Leghorn cho biết đơn vị

Hu từ 82 - 89, thì kết quả của chúng tôi cũng tương đương, hay theo kết quả

nghiên cứu của Nguyễn Huy Đạt và cs. (2004) gà Ri có chỉ số Hu là 83,5 thấp

hơn so với kết quả nghiên cứu trong đề tài, còn gà Ai Cập có chỉ số Hu là tương

đương với kết quả nghiên cứu.

Trong khi đó màu của lòng đỏ có mức trung bình là 10,87 điểm, cao nhất

cũng là 11,33 điểm và thấp nhất cũng là 9,47 điểm. Màu sắc long có sự sai khác

giữa lô ĐC với lô TN1, TN2 và TN3 sự sai khác này mang ý nghĩa thống

kê(P<0,05).

4.2.5. Lượng thức ăn thu nhận

Trong chăn nuôi nói chung, chăn nuôi gia cầm nói riêng thì việc cung cấp

thức ăn cho gia cầm rất quan trọng. Vì thức ăn vừa là nguồn cung cấp nhiên liệu

để duy trì sự sống, vừa là nguồn nguyên liệu cung cấp cho quá trình sinh trưởng

phát triển tạo sản phẩm. Điều này có ý nghĩa trong ngành chăn nuôi, xác định

được lượng thức ăn thu nhận hằng ngày của gia cầm, biết được tình trạng sức

khỏe. Ngoài ra, qua chỉ tiêu này người chăn nuôi còn tính toán được chi phí thức

ăn cho một đơn vị sản phẩm trong chăn nuôi. Lượng thức ăn thu nhận hằng ngày

47

Khối lượng lòng đỏ g % Tỷ lệ lòng đỏ - Chỉ số hình dạng - Chỉ số lòng đỏ mm Độ dày vỏ Hu Đơn vị Haugh Màu sắc lòng đỏ 14,30 ±0,43 33,28 1,28 ± 0,03 0,452± 0,006 0,452± 0,007 0,453± 0,006 0,452± 0,006 0,346b ± 0,006 0,346ab±0,007 0,349ab±0,004 0,350a±0,005 87,59± 0,67 87,42± 0,91 11,17a±0,65 9,47b±0,78 88,12± 0,84 11,33a±0,71 87,74 ±086 10,87a±0,78

còn phản ánh chất lượng của thức ăn cũng như chế độ chăm sóc nuôi dưỡng của

người chăn nuôi. Lượng thức ăn thu nhận hằng ngày là chỉ tiêu hết sức quan

trọng, nó ảnh hưởng đến tốc độ sinh trưởng của vật nuôi nói chung và của gia

cầm nói riêng, vì vậy, người chăn nuôi phải tạo mọi điều kiện tối ưu để đàn vật

nuôi có thể thu nhận thức ăn cao. Trong điều kiện chăn nuôi, có ba yếu tố ảnh

hưởng tới lượng thức ăn thu nhận của gia cầm: đặc điểm sinh lý vật nuôi, điều

kiện môi trường và tính chất của khẩu phần thức ăn.

Trong thí nghiệm yếu tố ảnh hưởng tới lượng thức ăn thu nhận mà chúng

tôi quan tâm là tính chất của khẩu phần ăn. Bởi vì khẩu phần ăn không phù hợp

với từng giai đoạn phát triển của gia cầm thì sẽ không khai thác được hết các tính

năng và tiềm chất di truyền của giống. Trong thí nghiệm này chúng tôi theo dõi

ảnh hưởng của việc sử dụng rong mơ đến lượng thức ăn thu nhận thông qua

lượng thức ăn cho ăn và lượng thức ăn thừa hàng ngày.

Kết quả thu được cho thấy, thu nhận thức ăn của gà các lô trong thí

nghiệm tăng dần qua các tuần thí nghiệm, và đạt đỉnh ở tuần 30 tuân cũng theo

quy luật chung.

Kết quả ở bảng 4.7 cũng cho thấy, nhìn chung qua các tuần thí nghiệm thì

gà ở các lô được sử dụng bột rong Mơ trong thức ăn (lô TN1, TN2, TN3) có xu

hướng thu nhận thức ăn ít hơn so với gà ĐC (không có bột rong Mơ), Ở tuần thí

nghiệm thứ nhất, lượng thức ăn thu nhận trung bình của gà các lô TN1, TN2,

TN3 từ 94,08-94,44 g/con/ngày, cao hơn so với lô ĐC (92,32 g/con/ngày).

Ở tuần 29, gà lô TN1 và TN2, TN3 có lượng thức ăn thu nhận tương ứng là

117,14 và 116,83; 117,22g/con/ngày, thấp hơn so với ở lô ĐC (117,43g/con/ngày).

Ở tuần kết thúc thí nghiệm, lượng thức ăn thu nhận trung bình của gà lô TN1 là cao nhất 112,94g/con/ngày, gà các lô được đưa 5 và 6% bột rong mơ trong thức ăn có chỉ số này tương đương nhau, lần lượt là 111,83 và

111,03/con/ngày và ghi nhận được ở lô ĐC là (112,62 g/con/ngày).

Để đánh giá tổng thể, chúng tôi tính lượng thức ăn thu nhận trung bình/ngày của toàn thí nghiệm, kết quả cho thấy gà lô TN1 có lượng thức ăn thu nhận cao nhất đạt 113,33g/con/ngày. Ở lô TN2 trong thức ăn có 5% bột rong Mơ- lượng thức ăn thu nhận trung bình/ngày của toàn kỳ là 111,36 g/con/ngày và thấp nhất ghi nhận được ở gà không có rong Mơ trong thức ăn 110,76

g/con/ngày.

48

Bảng 4.7. Lượng thức ăn thu nhận (g/con/ngày):

ĐC TN1 TN2 TN3 TT n=3 n=3 n=3 n=3

20 92,32±2,03 94,08±2,29 94,44+3,47 94,21±2,55

21 22 93,90±2,09 97,59±1,90 96,48±2,39 99,76±0,48 95,79±2,62 100,24±1,72 96,27±2,15 98,81±2,86

23 24 100,49±1,44 104,95±2,26 101,70±1,43 105,87±1,39 101,62±2,45 106,27±3,88 100,87±2,16 105,95±2,38

25 26 105,95±1,43 110,97±2,51 106,43±0,95 111,51±2,40 106,90±2,90 111,98±1,92 106,67±2,42 111,03±2,40

27 28 112,06±2,13 116,11±2,62 112,78±1,53 116,90±2,65 113,25±2,91 115,79±1,92 111,98±2,15 116,43±0,83

29 30 117,43±3,41 122,06±2,74 117,14±2,34 121,98±2,75 116,83±2,31 121,67±2,18 117,22±0,55 121,19±2,08

31 32 121,75±2,26 120,89±2,01 121,40±1,72 120,56±1,82 121,27±2,21 121,03±1,67 121,35±1,53 121,43±1,09

33 34 120,95±1,56 117,02±2,31 119,92±2,62 117,27±1,75 120,79±1,79 117,54±1,98 120,16±0,69 116,98±0,77

49

35 36 TB 115,79±2,25 112,62±3,12 110,76 115,95±2,18 112,94±2,62 113,33 115,87±2,05 111,83±2,44 111,36 115,32±1,98 111,03±2,71 110,99

4.2.6. Tiêu tốn protein/10 quả trứng

Protein hay còn gọi là chất đạm là chất cần thiết nhất trong mọi sinh vật và thực vật với vai trò tham gia vào thành phần của nguyên sinh chất trong tế bào sống. Ngoài cấu trúc cơ thể, protein còn tham gia vào các nhóm chất có hoạt tính sinh học cao như enzym, hoocmon để điều khiển quá trình trao đổi chất và quá trình sống, đồng thời tham gia vào hệ thống bảo vệ cơ thể như tế bào bạch huyết, kháng thể… Protein còn đóng vai trò quan trọng trong sinh sản, tạo tinh trùng và trứng.

Tỷ lệ protein chiếm 15 – 35% trong khẩu phần. Sử dụng thức ăn để cung cấp protein thực chất là cung cấp axit amin cho cơ thể theo nhu cầu duy trì và thay thế những tế bào thoái hóa, nhu cầu cho sự tăng trưởng, sự sinh sản, đẻ trứng, (trong đó nhu cầu cho tăng trọng ở gia cầm non là nhiều hơn cả, tiếp theo là tạo trứng và đẻ trứng), Đối với gia cầm, trong số các axit amin thiết yếu có một số axit amin giới hạn thường chứa ít trong nguyên liệu như Methionin, Lysin, Tryptophan, Threonin, Arginin… thường được bổ sung vào thức ăn vừa đủ (khoảng 0,1 – 0,2%) để thay thế cho các đạm động vật và đạm thực vật để giảm giá thành sản xuất thịt và trứng mà vẫn đảm bảo sự phát triển của gia cầm.

Bảng 4.8. Tiêu tốn protein/10 quả trứng (g protein/10 quả trứng)

TN1 (n=3) TN2 (n=3)

50

TT 20 21 22 23 24 25 26 27 28 29 30 31 32 33 34 35 36 TB ĐC (n=3) 4583,00±420 1599,2±95,80 538,52±14,55 430,17±11,71 376,63±12,70 358,91±11,45 328,75±11,19 300,85±9,88 296,49±13,36 291,46±9,80 297,52±8,65 300,79±5,72 304,91±6,89 307,21±6,06 300,73±8,07 308,57±7,86 315,72±15,32 337,15 4869,50±116,80 4475,00±261,00 1487,50±22,30 547,59±13,78 418,47±12,97 358,85±15,26 353,36±8,91 318,78±8,78 296,69±9,97 284,19±7,69 283,51±3,50 291,32±2,27 293,59±2,65 300,37±3,73 303,99±3,51 299,92±2,46 307,24±6,80 303,21±8,88 330,74 1613,40±3,58 556,16±7,68 423,59±9,26 363,07±6,42 358,17±4,88 321,48±3,32 298,99±2,17 288,84±8,59 286,80±7,13 294,73±10,09 295,25±7,45 299,90±6,55 303,88±6,19 299,23±1,28 306,83±12,38 310,15±12,45 333,80 TN3 (n=3) 4931,00±579,00 1517,50±32,60 547,91±11,72 420,32±16,42 361,12±7,88 356,00±18,70 320,48±16,93 304,32±1,51 289,08±8,93 286,38±5,06 294,71±2,51 299,95±7,91 303,51±5,37 303,14±6,26 300,80±8,87 307,31±8,49 306,30±4,08 333,42

Qua bảng 4.8 tiêu tốn protein/10 quả trứng có xu hướng giảm dần từ lúc bắt đầu thí nghiệm và thấp nhất ở tuần 29 lần lượt của các lô ĐC, TN1,TN2 VÀ TN3 là: 291,46; 286,80; 283,51 và 286,38. Từ tuần 30 đến kết thúc thi nghiệm tiêu tốn protein lại tăng đến tuần 36 lô sử dụng 4% rong mơ tiêu tốn thấp nhất đạt 303,21(g protein/10 quả trứng). Tiếp đến là lô sử dụng 5% rong mơ đạt 306,30 và cao nhất là lô 0% rong mơ 315,72. Có sự sai khác giữa các lô tuy nhiên không mang ý nghĩa thống kê (P>0,05). Tuy nhiên qua bảng 4.8 cho thấy các lô

sử dụng rong mơ thì lựơng tiêu tốn protein luôn thấp hơn lô ĐC.

Để đánh giá hiệu quả kinh tế về việc sử dụng rong mơ trong thức ăn cho gà mái đẻ, ngoài việc đánh giá TT Protein/10 quả trứng chúng tôi còn xác định

TTTA/10 quả trứng. Kết quả được thể hiện ở bảng 4.9.

Bảng 4.9. Tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng qua các tuần tuổi

(kg TĂ/10 quả trứng)

TT ĐC n=3 TN1 n=3 TN2 n=3 TN3 n=3

26,56±2,44 28,22±0,69 25,94±1,50 28,58±3,35 20

21 9,27±0,55 9,35±0,02 8,62±0,13 8,80±0,19

22 3,12±0,08 3,22±0,04 3,17±0,08 3,18±0,07

23 2,49±0,07 2,46±0,05 2,43±0,08 2,44±0,10

24 2,18±0,07 2,10±0,04 2,08±0,09 2,09±0,05

25 2,08±0,07 2,08±0,03 2,05±0,05 2,06±0,11

26 1,91±0,07 1,86±0,02 1,85±0,05 1,86±0,10

27 1,74±0,06 1,73±0,01 1,72±0,06 1,76±0,01

28 1,72±0,08 1,67±0,05 1,65±0,05 1,68±0,05

29 1,69±0,06 1,66±0,04 1,64±0,02 1,66±0,03

30 1,72±0,05 1,71±0,06 1,69±0,01 1,71±0,01

31 1,74±0,03 1,71±0,04 1,70±0,01 1,74±0,05

32 1,77±0,04 1,74±0,04 1,74±0,02 1,76±0,03

33 1,78±0,04 1,76±0,04 1,76±0,02 1,76±0,04

34 1,74±0,05 1,73±0,01 1,74±0,01 1,74±0,05

35 1,79±0,05 1,78±0,07 1,78±0,04 1,78±0,05

36 1,83±0,09 1,80±0,07 1,76±0,05 1,78±0,02

51

1,93 1,92 1,93 TB 1,95

Kết quả ở bảng 4.9 cho thấy, mức tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng ở tuần

đầu tiên của cả 4 thí nghiệm ở mức cao và không sai khác nhau nhiều, dao động

từ 8,62-9,35kg TA/10 quả trứng. Khi tỷ lệ đẻ tăng dần thì tiêu tốn thức ăn/10 quả

trứng giảm dần, thấp nhất ở tuần thứ 31-34. Điều này cũng phù hợp với kết quả

nghiên cứu của Trần Công Xuân và cs. (2002), cho biết tiêu tốn thức ăn/10 quả

trứng có xu hướng tỷ lệ nghịch với tỷ lệ đẻ. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi là

thấp hơn kết quả nghiên cứu của Nguyễn Thị Mười (2006), tiêu tốn 2,64kg thức

ăn/10 quả trứng và cao hơn kết quả nghiên cứu của Trần Kim Nhàn và cs.

(2009), tiêu tốn 1,82 – 2,19kg thức ăn/10 quả trứng, cao hơn nghiên cứu của Trần

Công Xuân và cs. (1999) nghiên cứu trên gà bố mẹ ISA Brown cho biết tiêu tốn

thức ăn cho 10 quả trứng là 1,76 – 1,79kg thức ăn; nghiên cứu của Trần Thị Hoài

Anh (2004), cho thấy tiêu tốn thức ăn cho 10 quả trứng của gà ISA Brown là

1,91kg.Tiêu tốn thức ăn/10 quả trứng ở tuần thứ 29 thấp nhất ở lô TN2 là1,64 kg

TA/10 quả trứng, tiếp đến là lô TN1 và TN3 tiêu tốn 1,66 kg TA/10 quả trứng và

cao nhất ở lô ĐC là 1,69 kg TA/10 quả trứng.

Hiệu quả sử dụng thức ăn cho 10 quả trứng được thể hiện qua hình 4.3.

Hình 4.3. Tiêu tốn thức ăn qua các tuần thí nghiệm

Hình 4.3 cho thấy rõ tiêu tốn thức ăn để sản xuất 10 quả trứng ở từng tuẩn tại lô đối chứng luôn cao hơn so với lô TN1 và lô TN2, TN3. Đặc biệt sự chênh lệch giữa lô TN2 và lô ĐC là rất rõ rệt. Điều này một lần nữa khẳng định việc sử dụng rong mơ cho gà mái đẻ làm giảm tiêu tốn thức ăn để sản xuất 10 quả trứng,

làm tăng hiệu quả sử dụng thức ăn cho gà mái đẻ.

52

Sau khi kết thúc thí nghiệm chúng tôi tiến hành tính toán chi phí thức ăn cho 1 kg trứng và chi phí thức ăn cho 10 quả trứng trong giai đoạn thí nghiệm với giá thành từng loại thức ăn của từng lô thí nghiệm là khác nhau, Giá HHTA của lô đC là 7.350 đồng/kg, HHTA của lô TN1 là 7.350 đồng/kg và HHTA của lô TN2 là 7.365 đồng/kg, lô TN3 là 7.380 đồng/kg. Chi phí thức ăn cho 10 quả trứng được thể hiện ở bảng 4.10.

Chi phí thức ăn để sản xuất 10 quả trứng tỷ lệ nghịch với tỷ lệ đẻ. khi tỷ lệ đẻ tăng dần qua từng tuần thí nghiệm thì chi phí thức ăn cho 10 quả trứng giảm dần. Khi tỷ lệ đẻ của đàn gà đạt cao nhất thì khi đó chi phí thức ăn cho 10 quả trứng là thấp nhất. Chi phí thức ăn để đạt được 10 quả trứng cao nhất ở tuần tuổi 20, trong đó cao nhất ở lô TN3 là 210.920 đồng, tiếp đến lô TN1, ĐC là 207.417, 195.216 đồng và thấp nhất ở lô TN2 là 191.048 đồng. Do tỷ lệ đẻ tuần thí nghiệm đầu tiên còn thấp, mặt khác giá thức ăn ở lô TN1 và lô TN3 cao hơn lô

ĐC, do vậy chi phi thức ăn cao hơn.

Bảng 4.10. Chi phí thức ăn cho 10 quả trứng qua các tuần tuổi

ĐVT: Đồng

TT ĐC TN1 TN2 TN3

20 21 195.216 68.135 207.417 68.723 191.048 63.486 210.920 64.944

22 22.932 23.667 23.347 23.468

23 18.302 18.081 17.897 18.007

24 16.023 15.435 15.319 15.424

25 15.288 15.288 15.098 15.203

26 27 14.039 12.789 13.671 12.716 13.625 12.668 13.727 12.989

28 12.642 12.275 12.152 12.398

29 12.422 12.201 12.079 12.251

30 12.642 12.569 12.447 12.620

31 12.789 12.569 12.521 12.841

32 33 13.010 13.083 12.789 12.936 12.815 12.962 12.989 12.989

34 12.789 12.716 12.815 12.841

35 13.157 13.083 13.110 13.136

36

53

TB 13.451 14.357 13.230 14.215 12.962 14.121 13.136 14.268

Chi phí thức ăn cho 10 quả trứng thấp nhất từ tuần tuổi 29-30, đây chính là tuẩn tuổi đàn gà thí nghiệm đạt tỷ lệ đẻ cao nhất. Chi phí thức ăn cho 10 quả trứng thấp nhất ở lô TN2 là 12.079 đồng, tiếp theo lô TN1 là 12.201đồng, cao

nhất ở lô ĐC là 12.422 đồng.

Qua 16 tuần thí nghiệm cho thấy chi phí thức ăn trung bình ở lô ĐC là cao nhất, với mức chi phí là 14.357 đồng/10 quả trứng, chi phí thức ăn/10 quả trứng thấp nhất ở lô TN2 với mức chi phí 14.121 đồng/10 quả trứng. Có sự sai khác về chi phí thức ăn/10 quả trứng giữa lô ĐC với lô TN2, sự sai khác này mang ý nghĩa thống kê (P<0,05). Có sự sai khác này là do tỷ lệ đẻ của đàn gà ở các lô có sử dụng rong mơ cao hơn. trong khi đó giá thành cho 1 kg thức ăn giữa các lô chênh lệch không đáng kể. Như vậy, việc sử dụng rong mơ trong thức ăn cho gà mái đẻ làm giảm chi phí thức ăn/10 quả trứng.

4.2.7. Tỷ lệ trứng dập vỡ, dị hình, dị dạng

Tỷ lệ trứng dập vỡ và dị hình cũng là một chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả kinh tế trong chăn nuôi gà đẻ. Thông thường trứng gà có hình ovan, vỏ cứng, nhẵn. Tuy nhiên có một số trường hợp trứng đẻ ra có hình dạng khác thường như to quá, nhỏ quá, dài quá, trứng méo, trứng có bề mặt xấu, xù xì, có vệt canxi hay đường gờ lượn sóng… Đó là trứng dị hình. Ngoài ra, có trường hợp trứng đẻ ra có vỏ mỏng hoặc rơi dập vỏ, vỡ… Gọi chung là trứng bị dập vỡ

(Schuberth L, Ruhland R, 1978).

Hàng ngày chúng tôi tiến hành nhặt trứng vào 6h, 8h30, 10h30, 14h, 6h30 và ghi chép cẩn thận số trứng dập vỡ và dị hình ở các lô thí nghiệm, số liệu theo dõi được tính theo từng tuần. Kết quả được trình bày ở bảng 4.11.

Từ kết quả bảng 4.11 chúng tôi có nhận xét: ở giai đoạn đầu, từ tuần tuổi 20 - 22, do mới bắt đầu thí nghiệm nên sự chênh lệch nhau về tỷ lệ trứng dập vỡ và dị hình giữa các lô là không đáng kể. Tỷ lệ trứng dập vỡ và dị hình ở các lô có

xu hướng giảm dần theo tuần thí nghiệm.

Ở tuần 20 các lô đều có tỷ lệ trứng dập vỡ và dị hình khá cao. Trong đó

- Lô ĐC có tỷ lệ trứng dập vỡ và dị hình lần lượt là 4,55%;

- Lô TN1 có tỷ lệ trứng dập vỡ và dị hình lần lượt là 4,76%;

- Lô TN2 có tỷ lệ trứng dập vỡ và dị hình lần lượt là 4,35%;

- Lô TN 3 có tỷ lệ trứng dập vỡ và dị hình lần lượt là 4,76%.

54

Bảng 4.11. Tỷ lệ trứng dập vỡ, dị hình của các lô từ tuần tuổi 20 - 36 (%)

ĐC TN1 TN2 TN3

Tuần tuổi Dập vỡ Dị hình Dập vỡ Dị hình Dập vỡ Dị hình Dập vỡ Dị hình

20

4,55 3,13 4,55 1,56 4,76 3,08 4,76 4,62 4,35 2,86 4,35 2,86 4,76 1,45 4,76 2,90 21 22

2,54 1,97 1,02 1,57 2,05 1,92 2,56 2,30 2,01 1,89 1,01 1,52 2,04 1,92 1,02 1,15 23 24

1,98 2,18 1,32 1,56 1,89 2,17 1,58 1,86 1,86 2,13 1,24 1,52 1,88 2,15 1,57 1,84 25 26

1,63 1,98 1,63 1,23 1,33 1,46 1,06 1,71 1,31 1,45 1,57 1,20 1,59 2,00 1,86 1,75 27 28

2,11 1,14 1,41 1,37 1,14 1,35 1,14 1,80 1,13 1,34 1,35 0,89 2,05 1,12 1,14 1,80 29 30

1,35 1,36 1,57 1,82 1,78 1,12 1,11 1,34 1,76 1,11 1,54 2,00 1,34 1,36 1,57 1,36 31 32

1,86 1,17 1,16 1,64 1,37 1,63 1,14 1,17 1,37 1,62 1,14 1,62 1,84 1,16 1,15 1,16 33 34

1,65 1,47 1,42 1,47 1,17 1,46 1,41 1,22 1,17 1,46 1,41 1,22 1,65 1,47 1,42 1,23 35 36

55

TB 1,29 1,96 1,03 1,61 1,01 1,81 1,01 1,87 1,25 1,77 1,25 1,63 1,27 1,83 1,02 1,69

Ở các tuần tiếp theo cho đến tuần 36, tỷ lệ trứng dập vỡ và dị hình đều giảm nhẹ ở các lô. Kết thúc thí nghiệm tỷ lệ trứng dập vỡ trung bình ở các lô ĐC, Lô TN1 và Lô TN2, TN3 lần lượt là 1,96; 1,81; 1,77; 1,83% và không có sự sai khác về tỷ lệ trứng dập vỡ giữa các lô (P>0,05). Tương tự như vậy, tỷ lệ trứng dị hình giữa lô cũng không có sự sai khác (P>0,05), tỷ lệ trứng dị hình của Lô

ĐC, Lô TN1 và Lô TN2 , TN3 lần lượt là 1,61; 1,87; 1,63; 1,69%.

Như vậy có thể nhận thấy ở thí nghiệm này của chúng tôi việc sử dụng bột rong mơ trong thức ăn không làm ảnh hưởng đến tỷ lệ trứng dập vỡ và dị hình

trên đàn gà đẻ thương phẩm.

56

PHẦN 5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ

5.1. KẾT LUẬN

- Bột rong Mơ có hàm lượng protein thô và lipit thô ở mức thấp (Protein- 4,03% và Lipit - 0,1%) nhưng hàm lượng khoáng tổng số lại khá cao – 35,36%

với hàm lượng canxi là 2,01%.

- Hàm lượng axit amin serine và các nguyên tố khoáng vi lượng sắt, đồng, mangan và kẽm trong rong mơ rất cao (hàm lượng serine là 2,44%; sắt đạt

535,15 ppm, đồng: 3,65;mangan - 181,79 và kẽm - 20,88 ppm).

- Sử dụng bột rong Mơ trong khẩu phần gà đẻ có xu hướng làm tăng tỷ lệ

đẻ, sử dụng với tỷ lệ 5% có chỉ tiêu này cao nhất.

- Sử dụng bột rong Mơ với mức 5% làm giảm tiêu tốnthức ăn và tiêu tốn

protein /10 quả trứng.

- Sử dụng bột rong Mơ trong khẩu phần gà đẻ đã ảnh hưởng tích cực tới các chỉ tiêu chất lượng trứng, màu lòng đỏ tăng từ 9,47 lên 11,33, độ dày vỏ trứng tăng từ 0,346 mm lên thành 0,349 mm (ở lô sử dụng 5%rong Mơ trong

khẩu phần).

5.2. KIẾN NGHỊ

Nghiên cứu thêm các mức sử dụng khác trong khẩu phần của gà đẻ thương

phẩm để đánh giá toàn diện về hiệu quả của bột rong Mơ.

57

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt:

1.

2.

3. 4.

5.

Brandsch H. và h Biichel (1978). Cơ sở của nhân giống và di truyền ởgia cầm. Cơ sở sinh học của nhân giống và nuôidưỡng giacầm (Nguyễn Chí Bảo dịch). NXB KH và KT - Hà Nội. Bùi Đức Lũng, Lê Hồng Mận (1993). Thức ăn và dinh dưỡng gia cầm. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội. Bùi Hữu Đoàn (2006). Bài giảng chăn nuôi gia cầm, NXB Nông nghiệp. Hà Nội. Bùi Hữu Đoàn, Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Thanh Sơn, Nguyễn Huy Đại(2009). Các chỉ tiêu dùng trong nghiên cứu chăn nuôi gia cầm. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. Bùi Quang Tiến, Trần Công Xuân, Phùng Đức Tiến (1994). Nghiên cứu so sánh một công thức lai gữa giống gà thịt Ross- 208 và Hybro. Thông tin khoa học và Kỹ thuật gia cầm. (2). tr. 45-53.

6. ĐặngHữu Lanh, Trần ĐìnhMiên, Trần Bình Trọng (1999). Cơ sở di truyền chọn

giống động vật.NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Đặng Thái Hải (2007). Ảnh hưởng của khẩu phần Protein thấp được bổ sung D.L- methionin và L-Lyzin.HCl đến sức sản xuất của đàn gà đẻ Isa Brown thương phẩm giai đoạn từ 23 đến 40 tuần tuổi. Tạp chí KHKT Nông nghiệp, tập V. (3). tr 39-44. 8. Đặng Thị Diễm Hồng (2008). Sử dụng một số loài vi tảo giàu dinh dưỡng trong sinh sản nhân tạo ngao Bến Tre (Meretrix lyrata) (Sowberby. 1851).Tuyển tập báo cáo khoa học – Hội thảo Động vật thân mềm toàn quốc, lần thứ V: 175-185. 9. Đặng Thị Diễm Hồng (2009). Nghiên cứu đánh giá và khai thác hoạtchất từ tảo biển. Viện Công nghệ sinh học – Trung tâm Khoa học & Công nghệ quốc gia. 10. Đinh Sỹ Dũng (2010). Nghiên cứu ảnh hưởng của khô bã gấc đến một số chỉ tiêu năng suấ, chất lượng trứng trên đàn gà đẻ trứng thương phẩm. Luận văn thạc sĩ nông nghiệp, Hà Nội.

11. Đỗ Trí Hòa (2015). Sử dụng bột rong mơ (Sargassum spp.) làm thức ăn chăn nuôi

gà thịt. Luận văn thạc sĩ nông nghiệp, Hà Nội.

12. Huỳnh Quang Năng, N. H. Dinh, Phạm Văn Huyên, Lê Như Hậu(1999). Hiện trạng và nguồn lợi rong Mơ-Sargassum ven biển phía Nam. Trong Hiện trạng và nguồn lợi các nhóm rong biển kinh tế phía Nam Việt Nam. BCKH. Phân viện Khoa học Vật liệu tại Nha Trang, 39 tr.

58

13. Khavecman (1972). Sự di truyền năng suất ở gia cầm. Cơ sở di truyền của năng suất và chọn giống động vật, tập 2. Johansson chủ biên. Phan Cự Nhân. Trần Đình Trọng dịch. NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội. tr31. 34-37,49, 51, 53, 70, 88.

14. Lê Viết Ly (1995). Sinh lý gia súc, Giáo trình cao học Nông nghiệp. NXB Nông

nghiệp, Hà Nội.

15. Ngô Giản Luyện (1994). Nghiên cứu một số tính trạng năng suất của các dòng gà thuần chủng V1, V3, V5 giống gà cao sản Hybro nuôi trong điều kiện Việt Nam. Luận án Phó Tiến Sĩ khoa học nông nghiệp, Hà Nội.

16. Nguyễn ĐứcHưng (2006). Giáo trình chăn nuôi gia cầm, NXB Nông Nghiệp. 17. Nguyễn Hữu Dinh, Huỳnh Quang Năng, Trần Ngọc Bút và Nguyễn Văn Tiến

(1993). Rong biển Việt Nam phần phía Bắc. NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.

18. Nguyễn Mạnh Hùng, Hoàng Thanh, Nguyễn Thị Mai.,Bùi Hữu Đoàn (1994).

Giáo trình Chăn nuôi gia cầm. NXB Nông nghiệp - Hà Nội.

19. Nguyễn Tất Thắng (2008). Đánh giá khả năng sinh trưởng, sức sản xuất và hiệu quả kinh tế chăn nuôi gà đẻ trứng thương phẩm giống CP Brown nuôi theo phương thức công nghiệp tại trại Tám Lợi, Nam Sách. Hải Dương. Luận văn Thạc sĩ Nông nghiệp.

20. Nguyễn Thị Mai Phương (2004). Nghiên cứu khả năng sinh sản, sinh trưởng và phẩm chất thịt của giống gà Ác Việt Nam. Luận án Tiến Sĩ Nông nghiệp, Viện chăn nuôi, Hà Nội.

21. Nguyễn Thị Mai, Bùi Hữu Đoàn. Hoàng Thanh (2009). Chăn nuôi gia cầm. NXB

Nông nghiệp, Hà Nội.

22. Nguyễn Văn Thạch (1996). Nghiên cứu khả năng sinh trưởng, cho thịt và sinh sản của gà Ri nuôi bán thâm canh. Luận văn Thạc sĩ KHNN, Viện KHKTNN Việt Nam.

23. Nguyễn Văn Thiện (1995). Di truyền học số lượng ứng dụng trong chăn nuôi.

NXB Nông nghiệp Hà Nội. tr. 9 - 16.

24. Nguyễn Văn Thiện, Trần Đình Miên (1995). Chọn giống và nhân giống vật nuôi.

Giáo trình cao học nông nghiệp. NXB Nông Nghiệp, Hà Nội.

25. Phan Văn Chung (2011). Bổ sung PX-Agro Super cho gà đẻ Isa Brown tại Hợp tác xã chăn nuôi gia cầm Diên Lâm, xã Duy Phiên, huyện Tam Dương, Vĩnh Phúc.Luận văn thạc sĩ nông nghiệp, Hà Nội.

26. Phùng Đức Tiến (1996). Nghiên cứu một số tổ hợp lai gà Broiler giữa các dòng gà hướng thịt giống Ross 208 và Hybro HV-85.Luận án Tiến sỹ Khoa học Nông nghiệp,Viện KHKT Nông nghiệp Việt Nam.

27. Schuberth L. Ruhand R (1978). Cơ sở sinh học của nhân giống và nuôi dưỡng gia cầm (Người dịch: Nguyễn Chí Bảo). NXB Khoa học và Kỹ Thuật Hà Nội. tr. 486 - 524.

28. Tiêu chuẩn ngành (2005). TCN 656-2005. Tiêu chuẩn ăn của gà đẻ trứng thương

59

phẩm lông màu 20 - 44 tuần tuổi.

29. Trần Công Xuân, Phùng ĐứcTiến, Hoàng Văn Lộc, Bạch Thị Thanh Dân, Nguyễn Quý Khiêm (2004). Kết quả chọn lọc tạo 3 dòng gà, LV1, LV2, LV3, Tuyển tập tập công trình nghiên cứu khoa học công nghệ chăn nuôi gà, phần Chăn nuôi gà. NXB Nông nghiệp, Hà Nội. tr. 51-76.

30. Trần Long, Nguyễn Thị Thu, Bùi Đức Lũng (1994). Bước đầu nghiên cứu đặc điểm sinh trưởng của gà Ri. Kết quả nghiên cứu bảo tồn nguồn gen vật nuôi ở Việt Nam. NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

31. Vũ Duy Giảng (2007). Thức ăn bổ sung cho gia súc, gia cầm (feed additive).

NXB Nông nghiệp, Hà Nội.

32. Vũ Duy Giảng. Nguyễn Thi Lương Hồng. Tôn Thất Sơn (1997). Giáo trình dinh

dưỡng gia súc. NXB Nông nghiệp. Hà Nội.

Tiếng nước ngoài: 33. ChamberJ.R.D.E.BernonandJ.S.Gavora(1984).Synthesisand parameters of new

population of meat type chickens. Theor. Appl. Genet. pp. 69.

34. CardLE. And M.C. Nesheim(1970).Productionaviola.CienciaTecnica lahabana.

pp. 68-70.

35. Hopf A. (1973).The supply of vitamin to broilers.Roche information service. 36. McDonald P.,RA.Edwards,J. F. D.Greenhalgh andC.AMorgan(2002):Animal

Nutrition. 6th Edition. Pearson Prentice Hall.

37. Proudman J.A. W.J. Mellon and D.I. Anderson (1970). “Utilization of feed in fast

and slows growing lines of chickens”. Poultry Sci. 49. pp.177-182.

38. Pym R.A.E (1979).An correlated responemto selection for body weight gainfeed

consumption and feed conversion ration. Br. Poultry Sci. pp. 20.

39. Ron Meijerhof (2006).About lux and light. 40. Shimada A. (1984).“Fundamentos de nutricion animal comparative”. Inipunam -

Maxico. pp. 184 - 194.

41. Summers J. D. (1974).Factor influencing food intake in practice broilerNutrition feed manufacturers. University of NottinghamLondon

42.

for conference Butterwhorths. 7. pp. 127 - 140. Uyterwal C.S (2000).Determiation of iterior quality in the development of the chicken egg.I.P.C. Livestock Barneveld the Netherlands. p.11-13.

60

43. WPSA (2002).Nutition management guide.

MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI

61

Phụ lục: Công thức thức ăn thí nghiệm

Ngô Khô đậu Bột sắn củ Bã sắn Bột đá Bột thịt xương Rỉ mật Bột rong mơ Dầu ăn Methionine MgSO4.H2O Muối Globa tiox Premix khoáng Premix Vitamin Globa mol ZnO Yello max 2% Tryptophan Bay Phase 5000 VLTLDO5

62

TN2 TN1 ĐC 23,4 23,1 16,52 21,55 21,6 22,55 13,95 14,85 20,55 11,67 12,69 18,87 11,7 11,52 12,03 7,45 7,45 7,5 2,8 2,7 0,35 5,0 4,0 0 0,8 0,4 0 0,5 0,5 0,5 0,29 0,29 0,3 0,22 0,26 0,22 0,22 0,22 0,18 0,18 0,17 0,18 0,18 0,17 0,15 0,03 0,03 0,03 0,03 0,03 0,03 0 0 0,03 0,02 0,01 0,02 0,01 0,01 0,02 0 0 0 100 100 100 ĐC 2727,6 17,246 TN1 2726,3 17,246 TN2 2727,4 17,246 TN3 2722,3 17,252 TN3 24,7 21,3 14,07 9,15 11,8 7,47 3 6,0 0,88 0,5 0,3 0,22 0,18 0,18 0,15 0,03 0,03 0 0,02 0,02 0 100