Tác động của chính sách và các quy định đối với

hoạt động ngân hàng (Phần 1)

Khi các ngân hàng trong hệ thống tài chính thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi vay

và cung cấp các dịch vụ tài chính khác cho khách hàng, họ phải tiến hành những

công việc, đó trong một khung pháp lý chặt chẽ được xây dựng chủ yếu đê bảo vệ

lợi ích của toàn xã hội.

Quy định của ngân hàng

Khi các ngân hàng trong hệ thống tài chính thực hiện nghiệp vụ nhận tiền gửi vay

và cung cấp các dịch vụ tài chính khác cho khách hàng, họ phải tiến hành những

công việc, đó trong một khung pháp lý chặt chẽ được xây dựng chủ yếu đê bảo vệ

lợi ích của toàn xã hội.

Các nhà ngân hàng thường nói với nhau rằng những ký tự FDIC (Federal Deposit

Insurance Corporation) – Cơ quan bảo hiểm tiền gửi liên bang – thực sự nghĩa là

"Yêu cầu tăng vốn không ngừng" – Forever Demanding Increase Capital. FDIC và

các cơ quan quản lý ngân hàng khác dường như không ngừng yêu cầu (ít nhất là

đối với các ngân hàng của Mỹ) phải tăng vốn nhiều hơn, tăng cường cung cấp các

báo cáo, mở rộng hơn nữa các dịch vụ công cộng…

Ở Mỹ cũng như hầu hết các quốc gia khác, không một ngân hàng mới nào có thể

thành lập nếu không được Chính phủ chấp thuận. Việc ngân hàng cung cấp dịch

vụ nhận tiền gửi và các công cụ tài chính khác cho công chúng để huy động vốn

đều đòi hỏi phải có sự cho phép của các cơ quan quản lý ngân hàng. Chất lượng

danh mục cho vay đầu tư cũng như sự hợp lý về vốn chủ sở hữu của ngân hàng

luôn được các thanh tra ngân hàng xem xét cẩn thận. Khi một ngân hàng muốn mở

rộng hoạt động bằng cách xây dựng một tòa nhà mới, sáp nhập với một ngân hàng

khác, thiếp lập văn phòng chi nhánh hoặc tiếp nhận hay bắt đầu một hoạt động

kinh doanh phi ngân hàng, trước hết nó phải nhận được sự đồng ý của cơ quan

quản lý. Sau cùng, chủ sở hữu của một ngân hàng không thể đưa quyền đóng cửa

và rút lui khỏi ngành nếu họ không có sự chấp thuận rõ ràng bằng văn bản từ

chính cơ quan quản lý, nơi đã cấp quyết định thành lập ngân hàng.

Tại sao các ngân hàng bị kiểm soát khắt khe như vậy – Ưu điểm và hạn chế

Tại sao hầu hết các ngân hàng lại bị kiểm soát chặt chẽ. Có nhiều lý do cho sự

quản lý chặt chẽ này của chính phủ, một số trong đó đã có từ hàng trăm năm nay.

Thứ nhất, ngân hàng là nơi tích trữ tiết kiệm hàng đầu của công chúng – đặc biệt

là tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình. Trong khi hầu hết tiết kiệm của công

chúng nằm dưới dạng tiền gửi kỳ hạn tương đối ngắn với tính thanh khoản cao,

ngân hàng cũng nắm giữ một lượng lớn tiết kiệm dài hạn trong tài khoản "hưu trí"

(được biết đến ở Mỹ như những tài khoản hưu trí cá nhân Individual Retirement

Accounts – IRAs). Việc thất thoát các khoản vốn này trong trường hợp ngân hàng

phá sản sẽ trở thành thảm họa cho rất nhiều cá nhận và gia đình. Nhưng hầu hết

người gửi tiền tiết kiệm lại thiếu kiến thức chuyên môn về tài chính và thiếu thông

tin cần thiết để đánh giá chính xác mức độ rủi ro của ngân hàng. Vì vậy các cơ

quan quản lý phải có trách nhiệm tập hợp và đánh giá những thông tin cần thiết để

xác định tình hình tài chính thực sự của ngân hàng nhằm bảo vệ người gửi tiền.

Máy ghi hình và đội ngũ bảo vệ tuần tra tại các hành lang của ngân hàng được

thiết lập nhằm giảm bớt rủi ro tổn thất do "trộm cắp." Các cuộc kiểm tra và kiểm

toán ngân hàng định kỳ được thực hiện nhằm hạn chế tổn thất do tham ô, lừ đảo

hoặc quản lý không hiệu quả. Với những ngân hàng phải đương đầu với sự suy

giảm bất thường tạm thời trong dự trữ thanh khoản, các cơ quan chính phủ luôn

đồng ý cho vay để bảo vệ tiền tiết kiệm của dân chúng.

Thứ hai, các ngân hàng được quản lý chặt chẽ bởi khả năng “tạo tiền” từ những

khỏan tiền gửi thông qua hoạt động cho vay và đầu tư (mở rộng tín dụng). Sự thay

đổi trong khối lượng tiền tệ do ngân hàng tạo ra liên quan chặt chẽ tới tình hình

kinh tế, đặc biệt là mức tăng trưởng của việc làm, tình trạng lạm phát. Tuy nhiên,

việc ngân hàng tạo ra tiền, ảnh hưởng đến sức sống của nền kinh tế, không phải là

một nguyên nhân duy nhất cho sự kiểm soát này. Chỉ cần ngân hàng Trung ương

trong vai trò người lập chính sách có thể kiểm soát mức tăng trưởng trong lượng

tiền cung ứng của quốc gia thì lượng tiền mà ngân hàng tạo ra không phải là mối

quan tâm lớn cho các cơ quan quản lý cho công chúng.

Thứ ba, các ngân hàng chịu sự quản lý chặt chẽ bởi chúng cung cấp cho cá nhân

và doanh nghiệp những khoản cho vay, tài trợ tiêu dung hoặc tài trợ đầu tư. Các

nhà quản lý cho rằng, xã hội thu được lợi ích to lớn nếu như hệ thống ngân hàng

cung cấp một lượng tín dụng thích hợp. Hơn thế nữa, khi có sự phân biệt đối xử

trong việc cấp tín dung, các cá nhân bị phân biết đối xử sẽ phải đối mặt với không

ít khó khăn nếu họ cải thiệ mức sống và nâng cao lợi ích cá nhân. Điều này đặc

biệt đúng nếu yêu cầu tín dụng bị từ chối chỉ bởi các lý do về tuổi tác, giới tính,

chủng tộc, đẳng cấp hoặc những nguyên nhân không hợp lý khác. Tuy nhiên,

chính phủ có thể dễ dàng loại bỏ tình trang phân biệt đối xử trong việc cung cấp

các dịch vụ tài chính, bằng cách thúc đẩy cạnh tranh giữa các ngân hàng và các

nhà cung cấp dịch vụ tài chính khác, ví dụ như thực hiện nghiêm ngặt Luật chống

độc quyền (thay vì chỉ những quy định).

Cuối cùng, các ngân hàng vốn vẫn có mối quan hệ lịch sử lâu đời với chính quyền

liên bang, tiểu bang và địa phương. Ngay từ những năm đầu trong lịch sử ngành

công nghiệp này, chính phủ đã dựa vào nguồn tín dụng ngân hàng và thu thuế từ

các ngân hàng để cung cấp tài chính cho quân đội và để đáp ứng các nhu cầu chỉ

tiêu khách thay vì tăng thuế đánh trưc tiếp vào dân. Gần đây chính phủ đã dựa vào

ngân hàng trong việc điều hành các chính sách kinh tế, thu thuế và chi tiêu ngân

sách. Tuy nhiên, lý do này đã bị chỉ trich sbởi vì ngay cả khi không có sự kiểm

soát, các ngân hàng vẫn sẽ có thể cung cấp các dịch vụ tài chính cho chính phủ

nếu họ thấy có lợi.

Ở Mỹ, các ngân hàng hoạt động trong một hệ thống quản lý ngân hàng kép (dual

banking system) – nghĩa là cả chính quyền liên bang và tiểu bang đều có quyền

kiểm soát đối với ngân hàng. Hệ thống này được thiết lập nhằm giúp chính quyền

tiểu bang kiểm soát chặt chẽ hơn hoạt động ngân hàng trong phạm vị lãnh thổ của

mình, đồng thời đảm bảo cho các ngân hàng được chính quyền tiểu bang và cộng

đồng địa phương đối xử công bằng khi mở rộng hoạt động sang các bang khác

nhau. Các cơ quan quản lý hệ thống tài chính quan trọng của chính phủ Mỹ là Cục

kiểm soát tiền tệ, Hệ thống dự trữ liên bang. Công ty bảo hiểm tiền gửi liên bang.

Bộ Tự pháp, ủy ban chứng khoán và hối đoái cũng có vai trò quản lý ngân hàng

nhưng kém quan trọng hơn, tron gkhi đó Hội đồng ngân hàng bang là cơ quan

quản lý cấp bang cao nhất của các ngân hàng Mỹ.

Các cơ quan quản lý ngân hàng quan trọng và chức năng của chúng

Hệ thống dự trữ liên bang – Federal Reserve System

Giám sát và quả lý thường xuyên tất cả các ngân hàng được chính quỳen tiểu bang

cấp giấy phép (ngân hàng bang) và các công ty sở hữu ngân hàng hoạt động tại

Mỹ. Quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc trên tiền gửi. Thông qua các đơn vị sát nhập,

thiết lập chi nhánh, hoặc thực hiện chức năng tín thác. Quyết định công nhận,

giám sát và kiểm tra các công ty quốc tế hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng tại

Mỹ.

Cục quản lý tiền tệ - Comptroller of Currency

Ban hành quyết định thành lập cho các ngân hàng nội địa mới. Giám sát và kiểm

tra thường xuyên tất cả các ngân hàng nội địa. Thông qua tất cả các đơn vị sát

nhập, thiết lập chi nhánh, thực hiện chức năng tín thác. Công ty bảo hiểm tiền gửi

liên bang – Federal Deposit Insurance Corporation (FDIC).

Bảo hiểm các khỏan tiền gửi cho ngân hàng tuân thủ các quy định của công ty.

Thông qua tất cả các đơn vị sát nhập, thiết lập chi nhánh, thực hiện chức năng tín

thác của những ngân hàng được bảo hiểm. Yêu cầu mọi ngân hàng được bảo hiểm

tập hợp các báo cáo về tình trạng tài chính của họ.

Bộ Tư pháp – Deparment of Justice

Xem xét và thông qua các đề nghị sát nhập của ngân hàng và công ty sở hữu ngân

hàng. Nghiên cứu tác động của chúng tôi đối với cạnh tranh và chấn chỉnh kịp thời

nếu đề nghị này tác động tiêu cực đáng kể tới mức độ cạnh tranh trên thị trường.

Ủy ban hối đoái và chứng khoán

Thông qua các đề nghị về việc phát hành chứng khoán của ngân hàng và của công

ty sở hữu ngân hàng.

Hội đồng ngân hàng bang – State Banking Board or Commission

Ban hành giấy phép thành lập ngân hàng mới. Giám sát và kiểm tra thường xuyên

tất cả các ngân hàng được cấp giấy phép của bang Có quyền thông qua tất cả đơn

yêu cầu của các ngân hàng hoạt động trong phạm vi bang về việc thành lập công

ty con, tiếp quản các chi nhánh, hoặc thành lập văn phòng chi nhánh mới.