
Khái quát về bảo hiểm nhân thọ và sản
phẩm an sinh giáo dục
Biên tập bởi:
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân

MỤC LỤC
1. Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ
2. Các loại hình bảo hiểm nhân thọ
3. Chương trình an sinh giáo dục trong bảo hiểm nhân thọ
4. Nội dung cơ bản của sản phẩm An sinh giáo dục
5. Trách nhiệm và quyền lợi bảo hiểm
6. Thủ tục bảo hiểm , Số tiền bảo hiểm và phí bảo hiểm
7. Số tiền bảo hiểm
8. Chi trả bảo hiểm
Tham gia đóng góp
1/35

Tổng quan về bảo hiểm nhân thọ
Sự cần thiết của bảo hiểm nhân thọ (BHNT).
Bảo hiểm là sự chia sẻ rủi ro giữa một số đông với một số ít trong số họ phải gánh chịu
những rủi ro. Có thể nói nguyên tắc này lần đầu tiên được ghi vào lịch sử là năm 1583,
ở thị trường Luân đôn một nhóm người đã thoả thuận góp tiền và số tiền này sẽ được trả
cho người nào trong số họ bị chết trong 1 năm. Đây cũng là mầm mống của nghiệp vụ
bảo hiểm nhân thọ (BHNT).
Trong cuộc sống sinh hoạt cũng như trong hoạt động sản xuất kinh doanh hàng ngày dù
đã luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy cơ gặp phải những
rủi ro bất ngờ xảy ra. Các rủi ro do nhiều nguyên nhân, ví dụ như:
-Các rủi ro do môi trường thiên nhiên: Bão, lụt, động đất, hạn hán...
• Các rủi ro xảy ra do sự tiến bộ và phát triển của khoa học kỹ thuật. Khoa học
kỹ thuật phát triển, một mặt thúc đẩy sản5 xuất và tạo điều kiện thuận lợi cho
cuộc sống con người nhưng mặt khác cũng gây ra nhiều tai nạn bất ngờ như tai
nạn ôtô, hàng không , tai nạn lao động...
• Các rủi ro do môi trường xã hội. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
gây ra rủi ro cho con người, khi xã hội càng phát triển thì con người càng có
nguy cơ gặp nhiều rủi ro như thất nghiệp, tệ nạn xã hội, lạm phát...
Bất kể là do nguyên nhân gì, khi rủi ro xảy ra thường đem lại cho con người những khó
khăn trong cuộc sống như nguy hại đến bản thân, hao tổn tài chính gia đình... làm ảnh
hưởng đến đời sống kinh tế xã hội. Để đối phó với những rủi ro con người đã có nhiều
biện pháp khác nhau nhằm kiểm soát cũng như khắc phục những hậu quả do rủi ro gây
ra. Đó là nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro và tài trợ rủi ro.
+ Nhóm biện pháp kiểm soát rủi ro bao gồm các biện pháp né tránh rủi ro, ngăn ngừa tổn
thất, giảm thiểu rủi ro. Các biện pháp này thường được sử dụng để ngăn chặn hoặc giảm
thiểu khả năng xảy ra rủi ro. Tuy nhiên là biện pháp này đã giúp chúng ta ngăn chặn và
giảm thiểu rất nhiều rủi ro trong cuộc sống nhưng khi rủi ro xảy ra chúng ta không ngăn
ngừa hết được hậu quả.
+ Nhóm các biện pháp tài trợi rủi ro bao gồm các biện pháp chấp nhận rủi ro và bảo
hiểm. Đây là các biện pháp được sử dụng trước khi rủi ro xảy ra với mục đích khắc phục
các hậu quả tổn thất do rủi ro gây ra nếu có. Khi chấp nhận rủi ro thì con người phải
đối phó với những khó khăn không những cho bản thân mà còn về mặt tài chính của gia
đình nữa cho nên bảo hiểm là phương pháp tốt hơn để đối phó với rủi ro. Bảo hiểm là
2/35

một phần quan trọng trong các chương trình quản lý rủi ro của các tổ chức cũng như cá
nhân. Theo quan điểm cảu các nhà quản lý rủi ro, bảo hiểm là sự chuyển giao rủi ro trên
cơ sở hợp đồng. Theo quan điểm xã hội bảo hiểm không chỉ chuyển giao rủi ro mà còn
là sự giảm rủi ro do việc tập trung một số lớn các rủi ro cho phép có thể tiên đoán về
các tổn thất khi chúng xảy ra. Bảo hiểm là công cụ đối phó với hậu quả tổn thất do rủi
ro gây ra, có hiệu quả nhất. Như vậy, bảo hiểm ra đời là đòi hỏi tất yếu khách quan của
cuộc sống con người.
Sự ra đời và phát triển của BHNT đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự phát triển
cuả nền kinh tế trên thế giới. Ngày nay tham gia BHNT trở thành một nhu cầu tất yếu
của người dân các nước phát triển cũng như các nước đang phát triển. Ở châu Á, những
năm gần đây BHNT phát triển hết sức mạnh mẽ, thực hiện chức năng huy động nguồn
vốn nhàn rỗi trong dân, tạo nguồn đầu tư dài hạn cho sự phát triển kinh tế- xã hội, giảm
bớt tình trạng vay vốn nước ngoài với lãi suất cao. Theo số liệu của Thời báo kinh tế
thì trong năm 2001 doanh thu phí BHNT đạt 2500 tỷ đồng, chiếm 0,55% GDP. BHNT
giúp tăng tích luỹ cho ngân sách nhà nước, góp phần giải quyết một số vấn đề xã hội
như vấn đề thất nghiệp, vấn đề giáo dục...Hiện nay hầu hết các công ty lớn trên thế giới
đều tham gia BHNT nhằm duy trì hoạt động của công ty, bù đắp phần thiệt hại do rủi
ro trong trường hợp người chủ công ty phải ngừng làm việc do tử vong hoặc thương tật
toàn bộ vĩnh viễn.
Trong điều kiện kinh tế Việt nam, trải qua hơn 10 năm thực hiện đường lối đổi mới dưới
sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng phấn khởi và có
ý nghĩa rất quan trọng. Đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế kéo dài, tạo ra được những cơ
sở vật chất thuận lợi cho sự nghiệp phát triển đất nước, cho phép chúng ta chuyển sang
thời kỳ mới: "Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu nước mạnh
xã hội văn minh".
Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm từ 8 đến 9% và tốc độ tiêu dùng thấp hơn
tốc độ tăng trưởng kinh tế thì tiết kiệm trong dân sẽ không ngừng tăng cả về số tuyệt đối
và tỷ trọng so với GDP. Đa số với người dân, ngoài khả năng gửi tiền tiết kiệm vào ngân
hàng thì thường rất ít khả năng để đầu tư những khoản tiền nhàn rỗi. Như vậy cùng với
việc tăng nhanh số lượng và tỷ lệ tiết kiệm trong dân, nhà nước cần phải có giải pháp,
chính sách và công cụ để huy động mạnh nguồn vốn trong dân cho đầu tư phát triển.
BHNT từ khi ra đời và triển khai các nghiệp vụ BHNT hỗn hợp mang tính chất vừa bảo
hiểm vừa tiết kiệm đã và đang huy động được một lượng vốn không nhỏ trong dân. Tuy
bước đầu, lượng người tham gia bảo hiểm chưa lớn, số hợp đồng tham gia ở mức trách
nhiệm cao cũng chưa nhiều, nhưng đã mở ra thêm cho người dân một cách thức tiết
kiệm mới đồng thời góp phần vào phát triển nguồn vốn, tăng đầu tư cho đất nước.
Vai trò và vị trí của BHNT
3/35