intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tài liệu học tập Văn bản và lưu trữ học

Chia sẻ: Lavie Lavie | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:68

159
lượt xem
32
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tài liệu học tập Văn bản và lưu trữ học do ThS. Đặng Thanh Nam biên soạn cung cấp cho các bạn những kiến thức chung về văn bản, kỹ thuật soạn thảo văn bản hành chính, nghiệp vụ văn thư, nghiệp vụ lưu trữ. Mời các bạn tham khảo.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tài liệu học tập Văn bản và lưu trữ học

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SÀI GÒN<br /> KHOA THƯ VIỆN – VĂN PHÒNG<br /> BỘ MÔN QUẢN TRỊ VĂN PHÒNG<br /> <br /> TÀI LIỆU HỌC TẬP<br /> <br /> VĂN BẢN VÀ LƯU TRỮ HỌC<br /> (Giảng viên: ThS. Đặng Thanh Nam)<br /> <br /> TP.Hồ Chí Minh, 2016<br /> <br /> 1<br /> <br /> Chương 1<br /> MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VĂN BẢN<br /> <br /> Nhu cầu giao tiếp, trao đổi hoạt động với nhau giữa con người với con người xuất hiện<br /> ngay từ khi xã hội loài người được hình thành. Thông qua giao tiếp, con người thể hiện và thực<br /> hiện được cuộc sống vật chất, tinh thần của mình. Trong bình diện xã hội, nhu cầu tổ chức các<br /> quan hệ xã hội, bảo đảm những điều kiện thiết yếu cho sự duy trì và phát triển xã hội cũng xuất<br /> hiện ngay từ buổi bình minh của loài người. Để thực hiện những nhu cầu trên, con người phải nhờ<br /> những công cụ, cách thức nhất định. Đầu tiên, con người thực hiện giao tiếp thông qua cử chỉ, qua<br /> các dấu hiệu được quy ước trong từng cộng đồng, tộc người. Ngôn ngữ và văn bản là những hình<br /> thức phát triển cao của các công cụ giao tiếp.<br /> Ngôn ngữ xuất hiện cùng với quá trình lao động, tổ chức lao động của con người, đánh dấu<br /> bước tiến lớn của nhân loại, mở ra một cuộc cách mạng thực sự trong hoạt động giao tiếp.<br /> Ngôn ngữ (bao gồm ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết) ra đời tạo tiền đề cho sự xuất hiện một<br /> công cụ giao tiếp mới, chất lượng hơn, đó là văn bản. Đến một giai đoạn lịch sử nhất định, khi lực<br /> lượng sản xuất của xã hội phát triển, con người phát minh ra giấy và phát hiện ra những ưu việt<br /> của nó so với các chất liệu mang tin khác như: đá, gỗ, tre, trúc, xương… Và con người đã sử dụng<br /> nó thay cho các chất liệu này thì văn bản – theo nguyên nghĩa của từ (là phương tiện ghi chép và<br /> truyền đạt thông tin) – mới xuất hiện. Như vậy, xét một cách tổng quát, văn bản là một phương<br /> tiện ghi tin và truyền đạt thông tin bằng ngôn ngữ hay một loại ký hiệu nhất định. Nói cách khác,<br /> văn bản là những bản viết hoặc in một loại ngôn ngữ nhất định, thể hiện một lượng thông tin cần<br /> thiết cho hoạt động của cá nhân, tổ chức, cũng như cho việc quản lý xã hội. Trong hoạt động quản<br /> lý, văn bản vừa là sản phẩm, vừa là phương tiện hoạt động của các tổ chức và cơ quan.<br /> Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học – công nghệ, con người đã tạo ra nhiều<br /> công cụ giao tiếp mới, hiện đại, song văn bản vẫn là công cụ giao tiếp phổ biến, trong một thời<br /> gian dài khó có công cụ nào thay thế được.<br /> 1.1. Khái niệm về văn bản<br /> Dưới góc độ ngôn ngữ học, văn bản là hoạt động giao tiếp ở dạng chữ viết, mang tính hoàn<br /> chỉnh về thể thức, trọn vẹn về nội dung nhằm đạt tới một giao tiếp nào đó. Theo đó có nhiều thể<br /> loại văn bản với phong cách hành văn khác nhau như văn bản phong cách nghệ thuật (văn chương,<br /> thơ ca…), văn bản phong cách chính luận (bài báo, thời sự…), văn bản phong cách hành chính<br /> (quyết định, báo cáo…).<br /> Dưới góc độ văn bản học, văn bản được hiểu theo nghĩa rộng nhất văn bản là vật mang tin<br /> được ghi bằng ký hiệu ngôn ngữ nhất định.<br /> Như vậy, có thể hiểu chung nhất thì văn bản là phương tiện ghi tin và truyền đạt thông tin<br /> trên một loại vật liệu, bằng một ngôn ngữ cụ thể và theo một phong cách ngôn ngữ nhất định.<br /> <br /> 2<br /> <br /> Văn bản hành chính là văn bản được viết theo phong cách ngôn ngữ hành chính công vụ,<br /> dùng làm phương tiện giao tiếp trong lĩnh vực hành chính của các cơ quan, tổ chức và của các cá<br /> nhân liên quan đến lĩnh vực hành chính.<br /> Văn bản quản lý nhà nước là văn bản do các cơ quan quản lý nhà nước ban hành nhằm<br /> thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao.<br /> 1.2. Phân loại văn bản<br /> Trong xã hội, văn bản gồm có nhiều loại khác nhau, mỗi loại có chức năng riêng, được ban<br /> hành nhằm đáp ứng một yêu cầu cụ thể trong hoạt động quản lý. Việc phân loại văn bản giúp nắm<br /> được tính chất, công dụng, đặc điểm của từng loại văn bản nhằm: lựa chọn loại văn bản phù hợp<br /> trong việc giải quyết từng trường hợp cụ thể; áp dụng phương pháp soạn thảo thích hợp; quản lý<br /> chặt chẽ văn bản trong hoạt động của cơ quan, tổ chức.<br /> Có thể phân loại văn bản dưới nhiều góc độ khác nhau dựa vào những đặc điểm về nội<br /> dung, hình thức của chúng. Sau đây là một số cách phân loại thường áp dụng:<br /> 1.2.1. Phân loại theo chủ thể ban hành văn bản<br /> - Văn bản của các cơ quan, tổ chức trong xã hội.<br /> - Văn bản của các chức danh nhà nước.<br /> - Văn bản của cá nhân.<br /> 1.2.2. Phân loại theo nguồn gốc của văn bản<br /> - Văn bản đi.<br /> - Văn bản đến.<br /> - Văn bản lưu hành nội bộ.<br /> 1.2.3. Phân loại theo nội dung và phạm vi sử dụng của văn bản<br /> - Văn bản thông dụng.<br /> - Văn bản chuyên môn.<br /> 1.2.4. Phân loại theo phạm vi phổ biến của văn bản<br /> - Văn bản mật.<br /> - Văn bản nội bộ.<br /> - Văn bản phổ biến rộng rãi.<br /> 1.2.5. Phân loại theo hiệu lực pháp lý của văn bản<br /> Theo Điều 4 của Nghị định 110/2004/NĐ-CP về công tác văn thư quy định các hình thức<br /> văn bản hình thnh trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức bao gồm:<br /> <br /> 3<br /> <br /> - Văn bản quy phạm pháp luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp<br /> luật ngày 12/11/1996 và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm<br /> pháp luật ngày 16/12/2002 (Hiến pháp, luật, pháp lệnh, lệnh, nghị quyết, nghị định, quyết định, chỉ<br /> thị, thông tư, nghị quyết và thông tư liên tịch).<br /> - Văn bản hành chính: Quyết định (cá biệt), chỉ thị (cá biệt), thông cáo, thông báo, chương<br /> trình, kế hoạch, phương án, đề án, báo cáo, biên bản, tờ trình, hợp đồng, công văn, công điện, giấy<br /> chứng nhận, giấy ủy nhiệm, giấy mời, giấy giới thiệu, giấy nghỉ phép, giấy đi đường, giấy biên<br /> nhận hồ sơ, phiếu gửi, phiếu chuyển.<br /> - Văn bản chuyên ngành: văn bản của các ngành chuyên biệt như kế toán, tài chính, thống<br /> kê, nhân sự, địa chính…<br /> - Văn bản của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – x hội: Văn bản của Đảng, công đoàn,<br /> đoàn thanh niên,…<br /> 1.3. Chức năng của văn bản<br /> Chức năng của văn bản nói chung là giá trị, công dụng của nó đối với con người, xã hội.<br /> Thường một văn bản đều mang nhiều chức năng như: chức năng thông tin, chức năng pháp lý,<br /> chức năng quản lý, chức năng văn hóa, chức năng thống kê… Việc khai thác đúng đắn các chức<br /> năng của văn bản cho phép nâng cao chất lượng giao tiếp, cũng là định hướng cho việc sử dụng,<br /> quản lý văn bản.<br /> 1.3.1. Chức năng thông tin<br /> Chức năng thông tin là chức năng cơ bản nhất của tất cả các loại văn bản trong đó có văn<br /> bản quản lý nhà nước. Cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại, sự phát triển mạnh của<br /> nền kinh tế quốc dân, hoạt động quản lý nhà nước và nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội nói<br /> chung, hiện nay khối lượng thông tin cần truyền đạt của bộ máy quản lý nhà nước rất lớn. Trước<br /> tình hình đó, con người đã áp dụng nhiều hình thức để ghi chép và truyền tải thông tin nhằm thỏa<br /> mãn nhu cầu ngày càng tăng của hoạt động quản lý nhà nước. Trong các hình thức đó, văn bản có<br /> một vị trí quan trọng. Văn bản được con người làm ra trước hết nhằm ghi chép thông tin và truyền<br /> đạt thông tin. Đó là thông tin về các sự kiện, hiện tượng xảy ra trong đời sống xã hội và tự nhiên,<br /> thông tin về luật pháp, quy định, quyết định quản lý của bộ máy nhà nước. Như vậy, chính nhu<br /> cầu ghi lại, lưu trữ thông tin là nguyên nhân hình thành văn bản.<br /> Để ghi chép và truyền đạt thông tin cần có một phương tiện nhất định. Phương tiện đó là<br /> ngôn ngữ. Ngôn ngữ bao gồm hai dạng: tiếng nói và chữ viết. Trong quá trình hình thành và phát<br /> triển xã hội, không phải lúc nào loài người cũng có đủ hai dạng tín hiệu của ngôn ngữ. Ở xã hội<br /> nguyên thuỷ, loài người trao đổi thông tin chủ yếu bằng tiếng nói. Tiếng nói chỉ cho phép trao đổi<br /> thông tin trực tiếp trong một khoảng cách gần. Việc ghi lại thông tin và lưu trữ thông tin được thực<br /> hiện bằng bộ óc của con người. Một bộ óc dù đặc biệt cũng chỉ lưu trữ được một lượng thông tin<br /> nhất định. Những thông tin này có độ chính xác không lớn và độ chính xác này giảm đi theo thời<br /> gian.<br /> <br /> 4<br /> <br /> Xét về mặt lịch sử, việc ghi chép và truyền đạt thông tin bằng hình thức văn bản chỉ xuất<br /> hiện sau khi loài người sáng tạo ra chữ viết. Sự ra đời của chữ viết đã đánh dấu một bước phát<br /> triển quan trọng trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người nói chung và của từng quốc gia nói<br /> riêng.<br /> Chữ viết ra đời, văn bản trở thành phương tiện thông tin ngày càng quan trọng trong đời<br /> sống x hội, khắc phục được những hạn chế về không gian và thời gian của việc thông tin bằng<br /> ngôn ngữ nói và trở thành động lực thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của xã hội loài người.<br /> Trong quá trình tồn tại và phát triển, loài người đã sử dụng nhiều loại vật liệu để làm văn<br /> bản như đất sét, bia đá, tre, gỗ, da… Những vật liệu này cho phép ghi chép được nhiều hiện<br /> tượng, sự vật xảy ra trong tự nhiên và xã hội.<br /> Ví dụ: Các dân tộc vùng Lưỡng Hà đã dùng đất sét, đá để ghi chép các đạo luật, các sắc dụ,<br /> các hiệp ước, thư từ trao đổi, thơ ca, truyện kể, số học, hình học, thiên văn, lời cầu nguyện, tên các<br /> thần thánh…<br /> Chức năng thông tin của văn bản được thể hiện ở hai mặt:<br /> - Ghi chép các thông tin.<br /> - Truyền đạt các thông tin.<br /> Ngày nay, các quốc gia chủ yếu dùng giấy để làm văn bản nhằm ghi chép và truyền đạt<br /> thông tin trong hoạt động quản lý, ngồi ra còn xuất hiện một số loại vật liệu khác để làm ra văn<br /> bản như các tài liệu điện tử…<br /> Ở nước ta, văn bản được sử dụng để ghi chép và truyền đạt thông tin về chủ trương, đường<br /> lối, chính sách của Đảng và Nhà nước (thông tin quy phạm pháp luật, nhằm điều tiết các mối quan<br /> hệ xã hội); thông tin về tổ chức, nhân sự, chương trình, kế hoạch; phản ánh tình hình hoạt động<br /> lên cấp trên; về hoạt động của các cơ sở; kiến nghị, đề nghị; trao đổi công việc...<br /> Theo quan điểm thông tin, giá trị của văn bản được bảo đảm bởi giá trị thông tin chứa đựng<br /> trong đó. Giá trị thông tin chứa trong văn bản phụ thuộc vào tính chính xác, mức độ đầy đủ và sự<br /> không lặp lại cái cũ của các thông tin mà văn bản mang lại cho quá trình quản lý.<br /> Việc khai thác chức năng thông tin của văn bản là hết sức quan trọng trong hoạt động quản<br /> lý. Bởi vì, thực chất của quản lý là việc thu thập, xử lý thông tin, từ đó có các quyết định quản lý<br /> và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý. Để thu thập thông tin, chủ thể quản lý có thể khai<br /> thác, sử dụng nhiều nguồn khác nhau, có thể truyền tải các quyết định quản lý bằng nhiều công cụ<br /> khác nhau, nhưng văn bản quản lý nhà nước bao giờ cũng là nguồn, là công cụ quan trọng nhất,<br /> đáp ứng được đầy đủ những yêu cầu của quản lý nhà nước. Bởi lẽ, thứ nhất, nó là nguồn thông tin<br /> hết sức phong phú, đa dạng, về tất cả các lĩnh vực của đời sống vật chất, tinh thần của con người,<br /> của xã hội; thứ hai, thông tin mà văn bản quản lý nhà nước cung cấp mang tính toàn diện, cả<br /> thông tin quá khứ, thông tin hiện tại và thông tin tương lai; thứ ba, đó là nguồn thông tin có độ tin<br /> cậy cao nhất, được bảo đảm bởi giá trị và hiệu lực pháp lý.<br /> <br /> 5<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2