
Tại sao chúng ta phải làm việc chăm chỉ?
Thái độ làm việc thể hiện chỉ hướng của con người. Muốn tìm hiểu thái độ làm
việc của một người, hãy tìm hiểu thái độ của anh ta với cuộc sống.
Bạn lựa chọn một công việc như thế nào? Thái độ làm việc của bạn ra sao? Về cơ
bản mà nói, đây không phải là vấn đề liên quan đến việc bạn làm gì và nhận được
thù lao bao nhiêu, mà là vấn đề liên quan đến ý nghĩa của cuộc sống mỗi con
người.
1 . Công việc là điều bạn phải làm cả cuộc đời
Một nhà tâm lí học khi nghiên cứu sự phản ứng tâm lí khác biệt giữa từng cá thể
khi tiếp xúc với cùng một loại công việc đã đến một nhà thờ đang trong quá trình
xây dựng, hỏi những người công nhân đang xây dựng.
Nhà tâm lí học hỏi người công nhân thứ nhất ông gặp: “Xin hỏi anh đang làm gì
thế?”
Anh ta trả lời: “Ông không thấy sao? Tôi đang phải đập đá, mà những tảng đá kia
thì cứng quá và to quá. Công việc thật nặng nề vượt quá sức người. Hai tay tôi
đau rát, toàn thân mỏi nhừ. Đây là việc cần sức trâu ngựa, không phù hợp với con
người tí nào vậy mà tôi vẫn phải làm vì cuộc sống.”
Ông lại hỏi người công nhân thứ hai: “Xin hỏi anh làm công việc này vì lý do gì?”
Người công nhân thứ hai trả lời: “Làm việc để mỗi ngày kiếm được 2 dollar đủ để
đảm bảo cho .gia đình tôi sống qua ngày. Nếu không vì gia đình, chẳng ai muốn
làm cái việc đập đá vất vả này. "

Nhà tâm lí học hỏi người công nhân thứ ba: "Xin hỏi, anh đang làm gì thế?”
Người thứ ba trả lời rất vui vẻ: "Tôi đang góp phần công sức nhỏ bé của mình để
xây dựng toà nhà xinh đẹp này. Sau khi xây xong nhất định sẽ có rất nhiều người
tới đây. Công việc này tuy vất vả nhưng mỗi khi nghĩ đến sẽ có rất nhiều người
đến cầu Chúa ban phước lành cho họ cho mọi người nghèo khổ trên thế gian này,
tôi lại không hề thấy mệt mỏi."
Với cùng một công việc, cùng một môi trường làm việc tại sao lại có những suy
nghĩ khác nhau đến vậy?
Với người công nhân thứ nhất, tình hình không thể thay đổi, cứu vãn được. Trong
tương lai không xa, anh ta nhất định sẽ thẳng nhận được gì do công việc và thái độ
lao động mang lại, thậm chí có thể theo thời gian anh ta trở thành một kẻ vô dụng,
đánh mất hoàn toàn rơm cách của bản thân.
Người công nhân thứ hai, là người không hề có trách nhiệm với công việc và
không thấy được niềm vui cũng như vinh quang của sự lao động.
Đối với 2 loại người này, cho dù người chủ lao động có hi vọng gì về họ cũng chỉ
là uổng công vô ích, bởi họ mang một tâm lý là làm việc để kiếm tiền chứ không
phải vì công việc mà làm việc. Họ không phải là người mà người quản lý có thể
giao cho những nhiệm vụ quan trọng, đồng thời những người này cũng khó có
được sự thừa nhận, đánh giá cao về khả năng lao động của xã hội.
Nhà tâm lí học người Mỹ Mark Abraham đã đưa ra “5 cấp độ nhu cầu” như sau:
1. Nhu cầu cơ bản: Nhu cầu có cơm ăn áo mặc, chống lại đói rét và giá lạnh.
2. Nhu cầu an toàn: Nhu cầu được sống ở một nơi an toàn.
3. Nhu cầu xã hội: Nhu cầu được chia sẻ niềm vui sở thích và được giao lưu với
mọi người.

4. Nhu cầu được tôn trọng: Nhu cầu được người khác tán dương và chấp nhận.
5. Nhu cầu được phát huy hết năng lực bản thân và tự mình làm việc.
Nhà tâm lí học trên cho rằng, những người làm việc vì công việc sẽ có rất ít cơ hội
thoả mãn đầy đủ quyền thứ 4 và quyền thứ 5 bởi nhu cầu trong cuộc sống của họ
không được thoả mãn đầy đủ ở mức độ cao nhất, hoặc dù ít dù nhiều, họ cũng mất
đi một phần niềm vui trong cuộc sống.
Vậy chúng ta nên nói về người công nhân thứ 3 như thế nào? Ở người công nhân
này không hề mảy may có hình bóng của những lời oán trách, ngược lại anh là
một người có tinh thần trách nhiệm cao với công việc và có khả năng sáng tạo tốt.
Do luôn luôn làm việc chăm chỉ, anh cảm nhận được niềm vui trong công việc và
ý nghĩa thực sự của cuộc sống. Người công nhân thứ 3 mới thực sự là người công
nhân có thái độ lao động đúng đắn và sẽ trở thành người ưu tú, là người mà xã hội
cần tới.
Vậy công việc là gì? Từ điển của một số quốc gia theo đạo Thiên chúa giải thích
thế này: “Công việc là nhiệm vụ cao cả mà Thượng đế đã sắp đặt, là sứ mệnh
quan trọng Người đã giao cho con người”. Cách lí giải này tuy mang đậm màu
sắc tôn giáo, nhưng ở đó đều truyền tải một nội dung tư tưởng chung là: Những
người không có cơ hội làm việc hay không cảm nhận được niềm vui từ chính công
việc của mình chính là những người làm trái với nguyện vọng của Thượng đế,
những người đó sẽ không có cơ hội hưởng thụ trọn vẹn cuộc sống. Công việc là
mục đích bạn đạt được sau khi nỗ lực làm việc. Khi công việc cho chúng ta cơ hội
thể hiện tất cả tài năng và tính cách bản thân, chúng ta hãy hài lòng vì công việc
của mình. Cuộc sống chỉ có một mà thôi. Khi chúng ta muốn hoàn thiện bản thân
hay chỉ đơn giản là muốn đạt được một điều gì đó. Chúng ta mới đề ra cho mình
mục tiêu để hướng tới và phấn đấu.

Công việc là một võ đài để chúng ta thể hiện tài năng. Những kiến thức mà chúng
ta đã gian khổ tích luỹ, khả năng ứng biến và sự quyết đoán hay khả năng thích
ứng của chúng ta sẽ đều được thể hiện trên võ đài ấy. Ngoài công việc, không có
gì có thể giúp chúng ta thể hiện được năng lực bản thân, cho chúng ta cơ hội thể
hiện chính mình hay chỉ là một lí do chúng ta đang tồn tại trên cuộc đời. Chất
lượng công việc quyết định hoàn toàn chất lượng cuộc sống của chúng ta.
Công việc của một người thể hiện thái độ của anh ta với cuộc sống và đồng thời
cũng thể hiện lý tưởng và chí hướng của anh ta. Vì thế, việc tìm hiểu thái độ làm
việc của một người cũng cho ta hiểu anh ta ở một mức nào đó. Cựu Bộ trưởng Bộ
giáo dục Hoa Kỳ, nhà giáo nổi tiếng William Beneth đã nói: “Công việc là điều
chúng ta phải làm cả cuộc đời”.
Trước đây, có thể có người mang suy nghĩ giống người công nhân thứ nhất hay
người công nhân thứ hai, họ luôn trách móc, bực tức với mọi thứ, chẳng có chút
nhiệt tình nào với công việc của mình và luôn sống một cuộc sống tẻ nhạt.
Trước đây, thái độ làm việc của bạn như thế nào không quan trọng, dù sao đó cũng
chỉ là những điều trong quá khứ, quan trọng là từ bây giờ, thái độ làm việc của bạn
sẽ thế nào?
Chúng ta hãy giống như người công nhân thứ ba, hãy mang sự nhiệt huyết trong
tim để có được cơ hội làm việc, làm việc chăm chỉ để thấy được giá trị bản thân và
cảm nhận được niềm hạnh phúc trong cuộc sống.
2. Tiền lương có ý nghĩa gì? Hãy làm việc vì bản thân bạn
Nếu một người chỉ luôn luôn nghĩ rằng mình làm việc được thù lao bao nhiêu thì
làm sao anh ta có thể nhìn thấy được những cơ hội trưởng thành sau mỗi đồng tiền
lương? Anh ta làm sao có thể hiểu được mình đã thu được những kĩ năng, những
kinh nghiệm gì từ công việc và tất cả những điều đó ảnh hưởng như thế nào đến

tương lai sau này của anh ta? Kiểu người này chỉ biết thu mình lại trong vỏ bọc
tiền lương, mà không hề biết bản thân mình đang thực sự cần gì.
Có thể bạn đã tận mắt chứng kiến hay nghe kể về một ai đó bị sa thải, hiện nay
nhiều thanh niên cho rằng xã hội ngày nay khốc liệt hơn, nghiêm khắc hơn và thực
dụng hơn ngày trước. Họ cho rằng, tôi làm việc cho công ty, công ty trả lương cho
tôi chỉ là một hình thức trao đổi. Họ không nhận thấy những giá trị khác ngoài tiền
lương và vì thế những ước mơ, hoài bão tốt đẹp họ từng ấp ủ thời còn ngồi trên
ghế giảng đường cũng dần dần tan biến. Không tự tin, không nhiệt tình, họ luôn
giữ một thái độ ứng phó với công việc, họ nói ít đi một câu, viết ít đi một trang
báo cáo, làm ít đi một giờ đồng hồ... Họ chỉ nghĩ họ làm đúng với mức lương
trước mắt họ nhận được chứ không hề nghĩ họ làm việc như thế có xứng với mức
lương sau này, hay thậm chí là tương lai sau này của họ.
Một nhân viên làm việc 10 năm tại một công ty nọ mà chưa hề được tăng lương
một lần. Đến một ngày, anh ta không thể chịu nổi sự bất bình đó và phàn nàn với
ông chủ. Ông chủ của anh ta nói: “Mặc dù anh làm việc ở công ty 10 năm nhưng
kinh nghiệm công tác của anh thì chưa đầy 1 năm, năng lực của anh cũng chỉ ở
mức một công nhân mới vào nghề thôi.”
Người nhân viên “đáng thương” này trong 10 năm tuổi thanh xuân của mình làm
việc ở công ty, trong khi cái mà anh ta nhận được chỉ là mức lương của người mới
vào nghề, còn lại là chẳng có gì cả. Cũng có thể, ông chủ nhận định về anh nhân
viên này có phần không công bằng và thiếu chính xác nhưng chắc rằng, trong thời
đại mở cửa như ngày nay, anh nhân viên này có đủ kiên nhẫn nhận mức lương
thấp trong suốt 10 năm mà không nộp đơn sang công ty khác, đủ thấy năng lực
của anh ta không hề được công ty thừa nhận, hay nói cách khác, lời nhận xét của
ông chủ về anh ta về cơ bản khá là khách quan.
Đó chính là kết quả của việc lấy đồng lương làm mục tiêu làm việc.